Đọc truyện Mật Mã Da Vinci – Chương 28
Bên trong nhà ga Saint-Laraze cũng giống như mọi nhà ga khác ở châu Âu: một khoảng rộng hoác lác đác những kẻ đáng ngờ thường gặp những người vô gia cư cầm những tấm biển các tông, những sinh viên mắt lờ đờ gối trên ba lô ngủ hoặc đang “phê” theo tiếng nhạc từ những chiếc cát sét xách tay MP3 và những đám phu khuân vác mặc áo xanh phì phèo thuốc lá.
Sophie nhìn bảng giờ tàu to tướng trên đầu. Những dòng chữ trắng đen chạy qua chạy lại, đảo xuống khi thông tin thay mới.
Khi quá trình cập nhật kết thúc, Langdon nhìn lên chuỗi thông báo. Hàng đầu tiên là:
LILLE RAPIDE(1) – 3 giờ 06.
“Tôi ước gì nó khởi hành sớm hơn!”. Sophie nói. “Nhưng bây giờ chúng ta buộc phải chấp nhận bất cứ cái gì”.
Sớm hơn. Langdon nhìn đồng hồ 2 giờ 59 sáng. Chuyến tàu sẽ rời đi sau bẩy phút nữa mà bây giờ họ còn chưa có vé?
Sophie đưa Langdon về phía cửa bán vé và nói: “Hãy mua hai vé bằng thẻ tín dụng của ông”.
“Tôi nghĩ thẻ tín dụng có thể bị truy ra bởi…”.
“Chính xác”.
Langdon quyết định thôi không cố gắng đoán trước ý định của Sophie Neveu. Sử dụng thẻ visa của mình, ông mua hai vé đi Lille rồi đưa cho Sophie.
Sophie dẫn ông đi về phía đường tàu khi một âm thanh quen thuộc vang lên trên đầu họ và hệ thống phóng thanh thông báo lần cuối nhắc hành khách đi Lille lên tàu. Mười sáu đường tàu riêng rẽ trải ra trước mắt họ. Cách một quãng phía bên phải, trên ke số ba, chuyến tàu đi Lille đang phì phò chuấn bị xuất phát nhưng Sophie lại khoác tay Langdon kéo đi về hướng ngược lại. Họ hối hả theo một hành lang nhỏ, vượt qua một tiệm cà phê mở thâu đêm, rồi cuối cùng qua một cửa ngách ra một khu phố vắng lặng phía Tây nhà ga.
Có độc một chiếc tắc xi đậu cạnh cửa ra vào.
Người tài xế nhìn thấy Sophie và bật đèn xe.
Sophie nhảy vào ghế sau. Langdon vào theo.
Khi chiếc tắc xi rời khỏi ga, Sophie lấy những chiếc vé tàu mới mua ra, xé nát.
Langdon thở dài. Bẩy mươi đô la tiêu được việc đấy.
Phải đến lúc chiếc tắc xi vút đi về phía bắc trên phố De Gichy trong tiếng động cơ ro ro, Langdon mới cảm thấy họ thực sự thoát hiểm. Ngoài cửa phía tay phải, ông có thể nhìn thấy đồi Montmartre và mái vòm mĩ lệ của nhà thờ Sacre-Coeur. Hình ảnh ấy bị đứt quãng bởi ánh đèn xe cảnh sát vượt qua họ từ hướng ngược lại.
Langdon và Sophie cùng thụt đầu xuống cho đến khi tiếng còi nhỏ dần.
Sophie mới chỉ dặn người tài xế tắc xi hướng ra ngoài thành phố thôi và bằng cái quai hàm nghiến chặt của cô, Langdon cảm thấy cô đang cố hình dung ra bước tiếp theo.
Langdon xem xét lại chiếc chìa khoá hình thánh giá, giơ ra phía cửa xe, đưa lên gần mắt để cố gắng tìm bất kỳ một dấu hiệu nào khả dĩ chỉ ra nơi chế tạo. Trong ánh sáng cách quãng của đèn đường, ông chẳng thấy gì ngoài con dấu của Tu viện Sion.
“Thật phi lý”, cuối cùng ông nói.
“Cái gì phi lý?”.
“Việc ông cô mất bao công phu nhằm để lại cho cô một chiếc chìa khoá mà cô sẽ không biết làm gì với nó”.
“Tôi đồng ý”.
“Cô chắc chắn ông ấy không viết bất kỳ thứ gì nữa đằng sau bức tranh chứ?”.
“Tôi đã lục soát toàn bộ chỗ đó rồi. Chỉ có chừng nấy thôi.
Chiếc chìa khoá được nhét vào phía sau bức tranh. Tôi nhìn thấy con dấu của Tu viện Sion, đút chiếc chìa khoá vào túi rồi chúng ta rời khỏi đó”.
Langdon cau mày, nhìn kỹ phần cuối hơi bẹt của hình lăng trụ tam giác. Chẳng có gì cả. Nheo mắt, ông đưa chiếc chìa khoá lại gần mắt và xem xét gờ của đầu chìa. Ở đó cũng chẳng có gì cả. “Tôi nghĩ chiếc chìa khoá này vừa mới được lau chùi gần đây”.
“Tại sao?”.
“Có gì như mùi cồn chà sát”.
Cô quay sang: “Tôi chưa hiểu”.
“Nó có mùi như là ai đó đã chà sạch nó bằng thuốc tẩy”, Langdon đưa chiếc chìa khoá lên mũi và ngửi. “Mùi ở phần bên kia mạnh hơn”. Ông bỏ xuống. “Đúng vậy, thuốc tẩy làm từ cồn, giống như được chà bóng bằng một loại thuốc tẩy hoặc…”.
Langdon ngừng lại.
“Cái gì cơ?”.
Ông giơ nghiêng chiếc chìa khoá ra ánh sáng rồi nhìn vào mặt nhẵn trên thanh ngang của chữ thập. Nó dường như lấp lánh ở vài chỗ… như thể bị ướt. “Cô có nhìn phía sau chiếc chìa khoá kỹ không trước khi cô bỏ nó vào túi?”.
“Cái gì cơ? Không kĩ lắm. Tôi đang vội mà”.
Langdon quay sang cô: “Cô vẫn mang chiếc đèn tia cực tím theo chứ?”.
Sophie thò tay vào túi và lấy ra cây bút chiếu tia cực tím.
Langdon cầm lấy, bật lên, chiếu tia sáng vào mặt sau chiếc chìa khoá.
Chiếc chìa khoá phát quang ngay lập tức. Ở đó có chữ viết.
Cách viết vội nhưng đọc được.
“Ồ”, Langdon nói, mỉm cười. “Tôi đoán chúng ta biết cái mùi cồn là gì rồi”.
Sophie ngạc nhiên nhìn chầm chầm vào dòng chữ màu tím trên lưng chiếc chìa khoá.
24 Phố Haxo.
Một địa chỉ! Ông mình viết ra một địa chỉ!
“Địa chỉ này ở đâu?” Langdon hỏi.
Sophie không biết. Quay lại cúi về phía trước, cô phấn khích hỏi người tài xế: “Connassez-vous la rue Haxo”(2).
Người tài xế nghĩ một lúc rồi gật đầu. Ông bảo Sophie là nó ở gần một sân tennis vùng ngoại ô phía tây của Paris. Cô bảo ông đưa họ đến đó ngay lập tức.
“Đường nhanh nhất là đi qua Rừng Boulogne”, người tài xế nói với cô bằng tiếng Pháp. “Được chứ?”.
Sophie cau mày. Cô có thể nghĩ ra được con đường nào đỡ rắc rối hơn, nhưng tối nay cô không muốn tỏ ra khó tính. “Được rồi”. Chúng ta có thể làm vị khách người Mỹ này ngạc nhiên.
Sophie nhìn lại chiếc chìa khoá và tự hỏi họ có thể tìm thấy gì ở 24 phố Haxo. Một nhà thờ? Một thứ tổng hành dinh của Tu viện Sion?
Đầu cô lại tràn đầy hình ảnh về nghi lễ bí mật mà cô đã từng chứng kiến trong tầng hầm cách đây mười năm, rồi cô thở dài:
“Robert, tôi có rất nhiều chuyện để kể cho ông nghe”. Cô ngừng lại nhìn ông chăm chăm khi chiếc tắc xi phóng về phía tây.
“Nhưng trước hết, tôi muốn ông cho tôi hay mọi điều ông biết về Tu viện Sion này”.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: tàu nhanh.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: ông có biết phố Haxo không?
Bên ngoài Salle de Etats, Bezu Fache đang nổi trận lôi đình khi nhân viên bảo vệ bảo tàng Louvre Grouard phân trần việc Sophie và Langdon đã tước vũ khí của anh ta như thế nào. Tại sao cậu không bắn vào bức tranh chết tiệt ấy?
“Đại úy?” Trung uý Collet phóng thẳng đến chỗ họ từ đồn chỉ huy. “Thưa đại uý, tôi vừa nghe tin. Họ đã định vị được chiếc xe của nhân viên Neveu”.
“Cô ta đến đại sứ quán?”.
“Không ạ. Ga xe lửa. Mua hai vé. Tàu vừa khởi hành”. Fache vẫy tay ra hiệu cho nhân viên bảo vệ Grouard lui ra và dẫn Collet tới một góc tướng gần đó, thầm thì: “Tàu đi đâu?”.
“Lille”.
“Rất có thể đó chỉ là một cái bẫy”, Fache thở hắt ra, vạch một kế hoạch. “Được rồi, trong trường hợp này, hãy canh phòng ở ga tiếp theo, hãy ngăn đoàn tàu lại và lục soát, chỉ là đề phòng thôi. Hãy để xe của cô ta nguyên chỗ cũ và cử các nhân viên mặc thường phục giám sát nó phòng trường hợp bọn họ cô gắng lấy lại chiếc xe đó. Hãy cử một số nhân viên đi rà soát những khu phố xung quanh nhà ga phòng trường hợp bọn họ chạy trốn bằng đường bộ. Xe buýt vẫn chạy từ ga đấy chứ?”.
“Giờ này thì không có, thưa đại uý. Chỉ có taxi thôi”.
“Tốt. Hãy đi dò la những người lái taxi. Xem họ có nhìn thấy gì không. Rồi liên hệ với các công ty taxi, kèm theo thông tin miêu tả. Tôi sẽ gọi Interpol”.
Collet có vẻ ngạc nhiên: “Đại úy định đưa chuvện này lên mạng đấy ạ?”.
Fache biết có thể xẩy ra rắc rối đáng tiếc, nhưng ông ta không còn lựa chọn nào khác.
Xiết vòng vây thật nhanh và thật chặt.
Giờ đầu tiên có tầm quan trọng quyết định. Hành xử của những kẻ đào tẩu trong giờ đầu tiên sau khi trốn thoát là điều có thể đoán trước được. Bao giờ chúng cũng cần một thứ giống nhau: Phương tiện đi lại – Chỗ tạm trú – Tiền mặt. Đức Chúa Ba Ngôi. Interpol có đủ quyền năng để làm cho cả ba ngôi đó biến mất trong nháy mắt. Bằng cách gửi những bản fax ảnh của Langdon và Sophie tới ban điều hành giao thông, các khách sạn, nhà băng ở Paris, Interpol sẽ không bỏ sót một hướng lựa chọn nào – không có cách nào rời khỏi thành phố, không có nơi nào để ẩn náu và không có nơi nào để rút tiền mà không bị nhận diện. Bọn đào tẩu thường hoảng sợ trên đường phố, sẽ đi đến chỗ làm điều ngu ngốc. ăn trộm ô tô. Cướp cửa hàng. Sử dụng thẻ tín dụng một cách tuyệt vọng. Bất kỳ một sơ xuất nhỏ nào mà bọn chúng phạm phải cũng sẽ nhanh chóng giúp nhà cầm quyền địa phương tìm ra nơi chúng lẩn trốn.
“Chỉ nhằm Langdon thôi, phải không ạ?” Collet nói. “Đại úy sẽ không bắt Sophie Neveu chứ. Cô ta là nhân viên của chúng ta mà”.
“Tất nhiên là tôi sẽ bắt cả cô ta!”. Fache gắt. “Bắt Langdon còn có ích gì nếu như cô ta có thể làm mọi công việc bẩn thỉu hộ hắn ta? Tôi định rà soát hồ sơ làm việc của Neveu – bạn bè, gia đình, các mối quan hệ cá nhân, bất cứ ai mà cô ta có thể đến nhờ vả giúp đỡ. Tôi không biết cô ta nghĩ gì khi cô ta làm điều đó nhưng nó sẽ làm cho cô ta mất nhiều thứ, không chỉ riêng công ăn việc làm thôi đâu!”.
“Đại úy muốn tôi điều hành qua điện thoại hay trực tiếp đến hiện trường?”.
“Trực tiếp. Hãy tới ga xe lửa và điều phối hoạt động của cả đội. Cậu nắm quyền chỉ huy nhưng chớ làm điều gì mà không nói cho tôi biết”.
“Rõ, thưa Đại úy?” Collet chạy ra ngoài.
Fache cảm thấy cứng ngắc khi đứng trong hốc tường. Bên ngoài cửa sổ, kim tự tháp thuỷ tinh lấp lánh, phản chiếu lăn tăn trên mặt nước. Bọn chúng đã lọt qua kẽ ngón tay mình. Ông ta tự nhủ.
Ngay cả một cảnh sát dã chiến được huấn luyện tử tế ắt cũng tự coi là may mắn nếu chịu đựng nổi áp lực mà Interpol sắp thực thi.
Một nữ nhân viên mật mã và một thày giáo?
Họ sẽ không cầm cự được đến lúc bình minh.
——————————————————————————–