Bạn đang đọc Mắt âm dương – Chương 4 phần 1
Chương 3: Vương triều Lạp Cách Nhật
Vương Uy mơ hồ tỉnh lại, thấy mình bị khiêng vào trong rừng, hai kẻ khiêng cáng đang phải còng lưng tôm, vụng về luồn lách giữa rừng cây dày đặc. Anh thấy ê ẩm khắp người, hét lên lệnh cho hai người khiêng cáng dừng lại, hỏi họ đang định đi đâu?
Một trong hai người khiêng cáng mắc tật nói ngọng, ú ú ớ ớ một hồi vẫn không sao nói rõ đưọc, kẻ còn lại gầy quắt, ngoẹo đầu lắp bắp giải thích rằng người của quân đoàn 21 đang đuổi riết, các anh em đã hy sinh khá nhiều, Nhị Rỗ dẫn theo hơn chục người chặn hậu, thấy hai người bọn họ nhanh nhẹn bèn cử họ khiêng chỉ huy chạy trốn.
Biết Nhị Rỗ còn sống, Vương Uy rất mừng, sau đó lại nổi nóng, thầm chửi Nhị Rỗ chỉ giỏi gây chuyện, một mình tụt xuống khe núi rồi chẳng nói chẳng rằng biến mất, chừng nào gặp, phải xạc cho gã một trận.
Nghe tiếng đại bác nổ rền ở phía sau, biết kẻ địch sắp đuổi tới nơi, hai người khiêng cáng lại khiêng Vương Uy lên, chạy tiếp. Lẩn lút trong rừng hơn hai tiếng đồng hồ, nghe tiếng súng xa dần, hai người mới đặt Vương Uy xuống nghỉ, còn họ ngồi dưới gốc cây thở dốc. Hai cựu binh này ở trong đơn vị của Vương Uy không phải chỉ một hai năm, người nói ngọng dạo mới vào lính là một thanh niên mồm mép tép nhẩy, một lần bọn họ theo quân chủ lực vào vùng Tạng diệt thổ phỉ, hồi đó đang là mùa đông, càng tiến về phía Tây đất Tạng càng rét, nước đóng băng hết, đám thổ phỉ bị đánh tả tơi chạy hết vào núi trốn. Vùng núi này cao hơn mặt biển mấy nghìn mét, hễ ngẩng đầu lên là hoa cả mắt, đâu đâu cũng thấy núi tuyết sừng sững trắng xóa, Ngọng bị kẹt ở đó hơn chục ngày, lưỡi đông cứng lại, nói năng khó khăn. Người lính ngoẹo đầu kia thì bị tật bẩm sinh, nhà nghèo không đặt tên, mọi người vẫn gọi anh ta là Ngoẹo, gọi mãi thành tên, đến khi vào lính cũng gọi là Ngoẹo.
Nhị Rỗ vốn cẩn thận chu đáo, biết rằng những cựu binh có thể tin tưởng hoàn toàn cũng chỉ có hai người này, bèn cử bọn họ khiêng Vương Uy chạy trốn.
Vương Uy thấy Ngoẹo đã bớt mệt, bèn hỏi họ sau khi anh xuống khe núi kia đã xảy ra chuyện gì.
Nghe cấp trên hỏi lại sự việc hung hiểm đó, Ngoẹo liền cuống cả lên, thở không ra hơi. Nếu chẳng phải đang bị thương nằm bất động trên cáng, cứ như tính tình nóng nảy thường ngày, ắt Vương Uy đã sút cho anh ta một cú rồi, chuyện trời sập gì mà cuống đến thế?
Ngoẹo thở hổn hển hồi lâu rồi thuật lại sự việc khủng khiếp mà bọn họ chứng kiến tại bệ đá nhỏ kia, Vương Uy nghe đến trợn cả mắt.
Sau khi Vương Uy tụt xuống khe, sáu người còn lại ngồi trên canh giữ, chờ Vưong Uy và Nhi Rỗ gọi thì kéo hai người lên.
Bọn họ đợi mãi đợi hoài chẳng nghe thấy bên dưới có động tĩnh gì, bèn xúm lại tán nhảm giết thời gian. Trong đêm, ánh lân tinh lập lòe trên đài thiên táng xanh len lét như những u hồn đang chớp mắt, khiến người ta sởn cả tóc gáy.
Mấy người ngồi trước khe đá tán gẫu, một anh lính lớn tuổi tên Thạch Lương kể, ở quê anh có một câu chuyện, ai ai cũng biết, nghe nói xảy ra cách đây vài chục năm rồi. Chuyện kể rằng, làng bên có một ông lão nhà rất nghèo, sống bằng khoảnh ruộng cày rẽ của nhà địa chủ, bữa đói bữa no, cuộc sống rất khổ sở. Vào một buổi chiều, ông lão vừa cày xong thửa ruộng đang định về nhà. Lúc ấy đã sập tối nhưng ông lão thông thạo đường sá nên cũng chẳng để ý lắm. Hơn nữa, ông ta là một nông dân nghèo rớt mồng tơi, quỷ thần cũng chẳng làm gì được ông, ông còn phải sợ gì nữa?
Ông lão bước lên bờ, bỗng trông thấy trên bờ ruộng có một con lợn nái nhơ nhỡ, con lợn thấy ông cũng không bỏ chạy, mà cứ nằm ì ra đó. Ông lão đã nghèo khổ suốt một đời, thấy con lợn nái béo tròn chạy đến trước mặt, lý nào còn từ chối, liền cởi tấm áo rách bọc nó lại, bế về nhà.
Về đến nhà, ông lão bảo con cho lợn ăn. Nhà ông rất nghèo, đến cháo cũng chưa chắc có mà ăn, tối thế này biết lấy gì cho lợn ăn đây?
Ông lão mãi đến già mới được mụn con, bà vợ lại qua đời vì đẻ khó, hai cha con nương tựa vào nhau mà sống. Thấy cha ôm lợn về, con trai ông lão vô cùng mùng rỡ, húp xong bát cháo loãng liền chạy đi hái rau cho lợn ăn.
Nào ngờ thằng nhỏ đi mãi chẳng thấy về, thoạt đầu ông lão cũng không đế ý, làng này rất rộng, ông đoán thằng con nửa đêm không lấy được rau cho lợn, sợ cha mắng, nên tạt vào đâu đó ngủ lại chăng.
.Sáng hôm sau ông lão vào làng tìm con nhưng tìm mãi cũng không thấy đâu, ra đồng tìm cũng không thấy. Chuyện này thật kỳ lạ, một người đang sống sờ sờ ra đó sao nói mất tích là mất tích luôn
Liền mấy hôm sau ông lão vẫn không thấy con về, đi tìm khắp tám làng trong vòng mười dặm quanh đó cũng chẳng thấy bóng dáng nó, đành quay trở về nhà. Ông lão đoán rằng chuyện này có vấn đề, và nếu có điểm bất thường thì chính là ở con lợn đó, bèn ra chuồng lợn xem, vừa trông thấy nó, ông lão đã toát mồ hôi lạnh, thì ra đêm hôm khuya khoắt ông ôm con lợn nái về mà không nhìn kỹ, đó là con lợn năm móng. Ở quê mọi người vẫn đồn rằng, lợn năm móng là điềm gở, nuôi phải lợn năm móng nhẹ thì phá sản, nặng thì tai họa đến mấy đời.
Ông lão vội gọi người trong làng đến giết lợn, vừa mổ bụng con lợn ra, ông lão trông thấy liền quỳ xuống ôm mặt khóc lóc kêu trời. Thì ra trong bụng con lợn có một xác chết, nửa dưới đã phân hủy, đầu và mặt cũng đã rữa mất một nửa, nhưng ông lão thoạt trông đã nhận ra đấy là con mình, thật không ngờ chỉ vì lòng tham nhất thời, ông ta đã rước ma quỷ về nhà, làm hại con trai.
Thạch Lương kể đến đây, những người ngồi xung quanh đều run lên vì gió rét, mồ hôi lạnh vã ra đầy người.
Anh ta lại nói tiếp:
– Tôi thấy chuyện người chui vào giữa đài thiên táng cũng gần giống như chuyện ở quê tôi, chắc hẳn đài thiên táng đã ăn thịt bọn họ rồi, các người có tin không?
Lời Thạch Lưong càng làm mọi người thêm sợ hãi, đài thiên táng kỳ lạ giữa thâm sơn cùng cốc này vốn là nơi người sống không thể tùy tiện đến gần, hơn nữa bây giờ đang lúc nửa đêm nửa hôm, liệu có ai không sợ?
Ngoẹo đang châm lửa hút thuốc, anh ta tinh mắt, thoáng thấy trên bệ đá nhỏ có gì đó bất thường, liền dụi mắt nhìn kỹ, rồi hét toáng lên:
– Các cậu xem kìa, người chim trên đài thiên táng kia đang động đậy.
Ngoẹo vừa dứt lời, cả năm người ngồi quanh đấy nhất loạt bật dậy, rút súng nhắm vào tượng đất nung nằm trên đài thiên táng. Dường như tượng đất nung vẫn là tượng đất nung, nhưng có mấy người lại một mực khẳng định trông thấy ngón tay pho tượng đang nhúc nhích, hệt như người sống.
Cả sáu người đờ ra vì kinh sợ, cảm thấy nơi này quả là quái gở.
Đúng lúc ấy, bệ đá đột nhiên rung lên dữ dội, mặt đất nứt ra mấy đường, đá quanh bệ rào rào rơi xuống, cảnh tượng vô cùng khủng khiếp.
Quân lính Tứ Xuyên vốn nổi tiếng vô tổ chức, vô kỷ luật, đám tàn quân này trước mặt Vương Uy còn cố giữ vẻ nghiêm chỉnh, nhưng giữa lúc cận kề cái chết thế này họ còn bụng dạ nào để ý đến chỉ huy đang ở dưới khe đá kia chưa lên nữa, lập tức đã có mấy người lính nhanh chân tụt xuống thềm đá chạy trối chết.
Ngoẹo và Ngọng vốn trung thành với Vương Uy nhất, trong lúc hoảng loạn hai người nghe thấy tiếng kêu dưới khe đá, biết chỉ huy và Nhị Rỗ sắp lên bèn ra sức kéo, cuối cùng cũng kéo được cả hai lên.
Lên tới nơi, họ thấy Nhị Rỗ bị mấy vết thương, còn Vương Uy thì ngất xỉu, chính Nhị Rỗ cõng Vương Uy leo lên khỏi khe đá.
Nhị Rỗ lên đến mặt đất lập tức nổ súng bắn chết ngay bốn kẻ bỏ chạy. Tuy ở trong quân đội, gã không có chức tước gì, nhưng lại được Vưong Uy hết sức tin tưởng, nắm giữ thực quyền, luôn chấp hành kỷ luật quân đội rất nghiêm khắc.
Đúng lúc ấy ngoài thung lũng chợt vang lên tiếng súng nổ, quân đoàn 21 đã đuổi đến nơi. Bên kia núi vang rền tiếng đại bác, bên này thỉnh thoảng cũng nghe vài tiếng súng lạch tạch, xem chừng đại đội cảnh vệ số Ba của quân đoàn 24 đang đụng độ đối phương.
Đại đội cảnh vệ số Ba là quân chính quy của nhà họ Lưu, đại đội trưởng Lưu Triệu Chính là cháu ruột Lưu Văn Huy, được nuông quá sinh kiêu, chẳng coi đại đội cảnh vệ số Hai ra gì, dọc đường từ Xuyên Trung chạy về phía Tây, hai cánh quân lúc nào cũng hục hặc nhau, suýt nữa thì ẩu đả. Lúc này Lưu Triệu Chính đang đụng đầu với lính của quân đoàn 21, đại đội cảnh vệ số Hai không cần thiết phải ứng cứu trong tình thế địch đông hơn ta.
Trải qua một trận giằng co, trời cũng dần dần chuyển sáng, Nhị Rỗ gọi hơn bốn chục người theo mình chạy về phía Tây, men theo hướng dòng sông cuồn cuộn chảy. Đây là nơi giáp giới giữa Xương Đô và A Bối, núi non trùng điệp, rừng già rậm rạp, ngước đầu lên là thấy đỉnh núi tuyết chót vót chạm tầng mây.
Băng qua thung lũng núi vô danh, thế núi dốc dần, Nhị Rỗ đưa lính vào một khu rừng mênh mông rậm rạp, từ Nam đến Bắc không biết đâu là tận cùng, quả là nơi lý tưởng để né tránh quân đoàn 21 truy kích. Hơn nữa trong rừng mọc đầy cây đại thanh Tây Tạng, loài cây này lá rất rộng, một tàu lá có thể che kín nửa người, tán lá lại rậm rì, là nơi ẩn náu kín đáo.
Nhị Rỗ tính toán rất chu đáo, nhưng gã chẳng ngờ được rằng quân đoàn 21 không chỉ có một chi đội đuổi theo truy kích, mà đến tận ba chi đội. Một chi đội bị Lưu Triệu Chính cầm chân, hai chi đội còn lại cho rằng lính chủ lực của quân đoàn 24 nhất định sẽ đi về hướng Tây để vào Xương Đô, bên cấp tốc đuổi theo, đụng phải Nhị Rỗ trong khu rừng này.
Đôi bên vừa chạm mặt nhau đã đồng loạt nổ súng, đại đội cảnh vệ số Hai còn chưa biết chuyện gì xảy ra thì đã bị đối phương hạ gục mất mấy người. Nhị Rỗ biết trận này không sao thắng nổi, bèn hô lên một tiếng, dẫn đám tàn quân còn lại chạy vào rừng.
Cả đám người vừa đánh vừa chạy, tạm thời thoát khỏi sự truy kích của quân địch. Nhị Rỗ chỉ lo Vương Uy đang hôn mê nằm trên cáng sớm muộn gì rồi cũng bị bắt. Gã bèn tìm Ngọng và Ngoẹo, hai người đáng tin nhất, chỉ đường cho họ rồi dặn họ chạy thật sâu vào rừng, dù mười vạn quân của quân đoàn 21 đến lùng sục cũng không thể tìm ra mấy tên lính trốn chạy giữa vùng rừng núi mênh mông này được.
Ngọng và Ngoẹo theo lời dặn của Nhị Rỗ, vội vã khiêng Vương Uy vào sâu trong rừng. Nhị Rỗ đem theo khoảng chục người còn lại chạy theo một hướng khác, nổ súng đánh lạc hướng quân truy kích, nhử chúng vào đường cùng.
Vương Uy nghe Ngoẹo kể xong, thấy bọn họ đang ở giữa một cánh rừng bạt ngàn đại thụ, âm u tăm tối, thảng hoặc mới có chút nắng le lói chiếu qua. Anh không biết cánh Nhị Rỗ chạy tới đâu, còn cách bọn họ bao xa. Nhìn những anh em cùng vào sinh ra tử với mình kẻ chết người bị thương, bây giờ chỉ còn lại hai người này, Nhị Rỗ chưa biết sống chết thế nào, Vương Uy càng nghĩ càng thấy đắng nghét cả lòng.
Ngọng vốn tính thật thà, thấy Vương Uy thẫn thờ nghĩ ngợi, liền nói:
– Thưa chỉ huy, Nhị… Nhị… Rỗ bảo chúng em đưa chỉ huy vào giữa… giữa… rừng sâu này, không thể chậm trễ, chúng… chúng… chúng ta phải đi thôi ạ…
Vương Uy xua tay, xa xa không còn tiếng súng, chắc hẳn chiến sự đã kết thúc. Đại đội cảnh vệ số Hai cùng Nhị Rỗ xem ra đã lành ít dữ nhiều. Lính truy kích của quân đoàn 21 toàn thắng, có lẽ đã rút lui. Nhưng Vương Uy vẫn linh cảm Nhị Rỗ chưa chết, gã thông thạo bí thuật phong thủy, rất giỏi tìm lối thoát những lúc cùng đường, sao có thể chết dễ dàng như thế được?
Vương Uy còn đang suy nghĩ làm sao trở lại tìm Nhị Rỗ, đột nhiên anh nghe thấy lá cây trong rừng xào xạc cả lên. Sống trong quân ngũ bấy nhiêu năm đã rèn luyện cho anh một hệ thần kinh chiến đấu nhạy bén, anh liền ra hiệu cho Ngoẹo và Ngọng, ba người lần theo triền núi chui vào một bụi cây. Bụi cây này vô cùng rậm rạp, người đứng ngoài không thể thấy những thứ bên trong được.
Vương Uy và Ngoẹo đè lên người Ngọng khiến anh ta thở hổn hển, lý nhí:
– Thưa chỉ huy, hai… hai… hai người đè lên em.
Vương Uy và Ngoẹo cùng đưa tay bịt miệng Ngọng lại, ra hiệu cho anh ta đừng làm bậy.
Thấy đám lá đại thanh lao xao một lúc rồi lặng phắc, Ngoẹo quay sang nói với Vương Uy:
– Thưa chỉ huy, có phải là gió không ạ?
Vương Uy lộ vẻ căng thẳng, lúc này trong ba người bọn họ, bản thân anh thì bị thương, cũng chẳng thể hi vọng quá nhiều vào Ngọng và Ngoẹo, nếu lính của quân đoàn 21 tìm thấy, chắc chắn cả ba sẽ cùng chết ở đây.
Ba người nấp trong bụi rậm một hồi, thấy bên ngoài không có động tĩnh gì khác, cái cáng của Vương Uy vẫn để ở gốc cây, nếu trong rừng có người chắc chắn sẽ trông thấy nó.
Ngoẹo bò ra trước, lẻn đến chỗ phát ra tiếng động vừa rồi nghe ngóng hồi lâu rồi quay về báo cáo với Vương Uy là không có gì cả, ắt là gió thổi lá cây mà thôi.
Bỗng nhiên Vương Uy lạnh toát cả sống lưng, một cảm giác rất nặng nề ứ đầy trong lồng ngực, vô cùng khó chịu. Anh đẩy Ngoẹo ra, một mình lăn từ trong bụi rậm xuống triền dốc.
Đúng lúc ấy, một loạt đạn từ mấy góc độ khác nhau trên cây bay vèo vèo đến, Vương Uy suýt soát tránh được, mấy lần bị đạn bay sát rạt qua mặt, chỉ chậm một bước là đi gặp Diêm vương rồi.
Vương Uy bị bức lui về nấp sau thân cây đại thanh, trong tay anh lại không có súng, Ngoẹo tuy xông pha chiến trường đã lâu, trung thành có thừa mà dũng khí không đủ, không phải là kẻ thiện chiến. Qua kẽ lá đại thanh, anh trông thấy Ngoẹo đang bị ép phải ngồi xổm xuống gốc cây chỗ đặt cái cáng, một loạt đạn vừa nổ ngay trước mũi chân anh ta. Đạn từ trên cây bắn xuống, trong khu rừng này cây cối rậm rạp, khó mà thấy được người bắn đang nấp ở đâu. Vương Uy ngẫm nghĩ, cảm thấy sự tình không bình thường, nếu là lính quân đoàn 21 truy kích đến đây, theo cách làm việc trước nay của họ, hẳn sẽ bắn phá một trận quét sạch luôn chứ không chơi trò trốn tìm giữa rừng sâu với vài tên lính quèn thế này.
Lẽ nào ngoài lính của quân đoàn 21 trong rừng này còn có lính của đơn vị khác?
Thấy cách bắn của đối phương rất chuyên nghiệp, dù là quân chủ lực của quân đoàn 21 cũng khó bắn được như vậy, đừng nói gì đến thổ phỉ, điều này khiến Vương Uy càng thêm khó hiểu.
Vưong Uy nấp sau thân cây đại thanh, thấy ré lên oai oái vì đạn bắn sát sạt, bỗng Ngọng từ trong bụi rậm chĩa súng ra ngoài, nhắm về phía làn đạn đang bắn tới, nổ súng. Đạn vừa bắn ra, lập tức trên cây vang lên tiếng kêu rồi một người rơi xuống đất. Người đó mặc đồ đen, mặt bịt khăn đen, giống như bọn trộm cướp giang hồ. Hai chân hắn ta duỗi thẳng, máu ồng ộc chảy ra từ cổ, đã tắt thở rồi.
Vưong Uy chứng kiến tài thiện xạ của Ngọng, không khỏi thầm đánh giá lại con ngưòi này. Ngọng vốn cao lớn vạm vỡ, trông cứ lừng lững như gấu, bình thường đầu óc cũng chậm chạp, không ngờ vào lúc quan trọng này lại tỏ ra được việc.p>
Ngọng hạ được một tay súng, liền bị hơn chục tay súng khác vây công, bắn cho bụi cây nát bươm nhưng Ngọng vẫn cố thủ bên trong, chẳng có động tĩnh gì.
Vưong Uy đang lo cho Ngọng thì thấy hơn hai chục người mặc đồ đen từ trên cây tụt xuống, dẫn đầu là một người cao lớn, nhưng đường cong trên người lộ rất rõ, dường như là một phụ nữ.
Ngọng đang nấp trong hốc cây tránh đạn, thì bị mấy tay áo đen lôi ra, bắt quỳ xuống đất.
Đến nước này mà Vương Uy còn không xuất hiện thì chỉ có chuốc khổ vào thân, anh đành rẽ cành lá, từ sau gốc cây đi ra, lập tức bị hai người mặc đồ đen đứng trước gốc cây đại thanh tóm chặt lấy vai, đẩy tới trước mặt thủ lĩnh.
Thủ lĩnh của bọn chúng đi vòng quanh Vương Uy vài vòng rồi lên tiếng, quả nhiên là một phụ nữ. Cô ta nói: – Ồ, quân hàm thiếu úy, đại đội trưởng cơ đấy!
Thấy Vương Uy không nói gì, cô ta lại hỏi:
– Nếu tôi đoán không nhầm, các người là vật hy sinh cuộc hỗn chiến giữa hai phe cánh họ Lưu ở Xuyên Trung, lính của Lưu Văn Huy à?
Thấy Vương Uy vẫn im lặng, tên mặc đồ đen đang tóm vai Vương Uy bèn bóp mạnh khiến Vưong Uy đau nhói, hắn quát lớn:
– Bà chủ của tao hỏi mày đấy.
Tổ tiên của Vương Uy vốn xuất thân lục lâm, ông nội là cướp đường nổi tiếng vùng Quan Đông, mấy chuyện cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo chẳng việc gì chưa làm. Đến đời cha anh gia cảnh bắt đầu sa sút, năm Vương Uy rời Bắc Kinh, ông nội anh bệnh nặng rồi chết. Cha Vương Uy ỷ thế gia đình giàu có nên ăn chơi bạt mạng, mười tám tuổi đã thành tay chơi nổi tiếng khắp cả Bắc Kinh, rượu chè, cờ bạc, gái gú, hút xách thứ gì cũng thạo. Ông nội anh về già mới được một mụn con, tuy giận sắt mãi không rèn thành thép, nhưng chẳng nỡ nghiêm hình dạy dỗ, đành mặc con mình tự tung tự tác.
Mãi đến khi Vương Uy ra đời, ông nội anh mới thấy được chút hy vọng. Vương Uy vừa chào đời đã cất tiếng khoác oa oa khiến ông giật cả mình. Nghe tiếng khóc của cháu trai vừa to vừa vang, như sấm rền trên trời, ngân dài không dứt, chẳng có vẻ gì là yếu đuối, ông nội anh liền gọi bà mụ bế cháu ra xem mặt. Thấy đứa bé sắc diện hồng hào, mặt vuông chữ điền, lúc khóc hai mắt mở to, dáng dấp tựa như thần Kim Cương trong các đền chùa, hơn nữa thân hình lại rất dài, da đen nhẻm, bế trong tay nặng khác thường, ông nội anh ta nhìn đi nhìn lại mặt cháu mấy lần, vui mừng hớn hở, luôn miệng nói nhà họ Vương có hậu, nhà họ Vương có hậu, thằng cháu này vẻ mặt uy nghiêm, tiếng khóc sang sảng, sau này nhất định sẽ làm lớn. Thấy ông nội cao hứng, bà mụ liền xin ông đặt tên cho cháu, ông nội anh ngẫm nghĩ giây lát, thấy chữ Uy là thích hợp nhất, bèn đặt luôn tên cho cháu là Vương Uy. Họ Vương xuất thân lục lâm, ông nội anh Vương Tứ hồi xưa là tên cướp nổi tiếng vùng Quan Đông, đã giết không biết bao nhiêu người. Thấy cháu trai tướng mạo khác thường, ông nội anh một lòng muốn truyền nghề cho cháu, nên từ khi năm tuổi, Vương Uy đã được ông nội nắn xương thông mạch, bắt đầu luyện tập những môn võ công cơ bản.
Nhà họ Vương đời này qua đời khác vẫn truyền nhau một môn võ đoạt mệnh, nhưng trong thời đại vũ khí nóng hiện giờ, ngón võ ấy chẳng còn mấy tác dụng. Ông nội và cụ Vương Uy đều là những tên cướp có tiếng, đắc tội với không ít người, đây lại là ngón võ nổi danh của nhà họ Vưong nên từ nhỏ ông nội đã bắt Vương Uy thề rằng, trừ phi vạn bất đắc dĩ, bằng không không được hiển lộ võ công gia truyền.
Bởi vậy, Vương Uy theo ông nội học ngón võ này từ năm mười bốn tuổi nhưng chưa một lần dùng đến nó. Lúc sắp chết ông nội anh ta vẫn không quên dặn dò Vương Uy lần nữa, nói ngón võ này vô cùng lợi hại có điều cũng rất dễ chuốc vạ vào thân.
Bị gã mặc đồ đen đè lưng, tóm chặt lấy gáy, Vương Uy đau đớn khôn xiết. Trên người anh đang bị thương, bị đè thế này thật không sao chịu nổi, Vương Uy lửa giận bừng lên, bất chấp lời ông nội dặn. Anh co tay lại, một cánh tay đang bị gã mặc đồ đen nắm chặt chợt trơn nhẫy như lươn, vùng ra. Tên mặc đồ đen chưa kịp phản ứng, Vương Uy đã xoay tay về phía sau, tóm lấy cổ hắn, anh siết mạnh ngón tay, hắn ta không kêu nổi một tiếng, đã bị bóp vỡ họng mà chết.
Vương Uy tính tình nóng nảy, hành động không tính đến hậu quả, ngay lúc ấy người phụ nữ che mặt kia đã rút súng, gí vào đầu anh, lạnh lùng nói:
– Ngài túy, giỏi lắm, ngài có tin tôi cho ngài một phát đạn không?
Vương Uy thấy bọn người này chẳng phải tử tế gì, hơn nữa tên nào tên nấy đều có vẻ là cao thủ. Có điều ngón đòn của anh quá cổ quái, tên mặc đồ đen kia không kịp phản ứng nên mới bị bóp vỡ họng, mà chết.
Tránh voi chẳng xấu mặt nào, Vương Uy đành ngoan ngoãn khuất phục, anh trừng mắt lạnh lùng nhìn người phụ nữ che mặt, không giận mà uy.
Chỉ nghe cô ta nói:
– Thiếu úy nên hiểu tình thế hiện giờ của ngài, quân đoàn 21 vẫn chưa rút lui, dù chúng tôi không giết các ngài, chỉ cần tôi phát tín hiệu, thì các ngài có mọc cánh cũng không bay thoát, ngài có tin không?
Vương Uy thầm chửi ả ta ghê gớm, nhưng ngoài miệng lại nói:
– Ông đây đằng nào cũng chết, thà làm ngọc nát còn hơn ngói lành, để ông liều với chúng mày một phen.
Người phụ nữ bịt mặt nói:
– Có ai cần ngài chết đâu? Chúng ta đang đánh một chuyến hàng lớn, không đủ người, muốn các người nhập bọn, các người có đồng ý hay không?
Nghe người phụ nữ bịt mặt nói, Vương Uy cũng hiểu ra đôi phần. Bọn người này binh hùng tướng mạnh, nhìn trang bị đều là của Anh Mỹ, xem ra chúng kéo đến đây quá nửa là nhằm vào thứ dưới lòng đất, làm theo Mã Văn Ninh xưa. Muốn lôi kéo lũ tàn binh như anh chỉ là danh nghĩa, e rằng chúng muốn tìm người thế mạng đó thôi.
Mấy năm nay Vương Uy xông pha giữa mũi tên hòn đạn, đi mòn gót khắp miền Xuyên Trung, loại người nào cũng từng gặp qua, bèn nói:
– Mạng Vương Uy này rơi vào tay cô, nhưng tốt xấu gì ông cũng là đàn ông đàn ang, vào lính từ năm mười tám tuổi đến giờ, đánh không biết bao nhiêu trận, có thắng có bại, Diêm vương ông còn không sợ, huống chi đám đàn bà các người? Các người muốn rủ ông đây cùng đánh một chuyến hàng thì phải nói cho rõ ràng, còn như định lừa ông thì không xong đâu, dù sao mạng ông cũng ở trong tay các người rồi, muốn làm sao thì làm.
Người phụ nữ bịt mặt nghe nói tức tối gí mạnh khẩu súng vào đầu Vương Uy, Vương Uy cũng chẳng vừa, liền trợn trừng mắt đáp trả.
Lúc ấy, một người trong bọn áo đen đi tới, xem ra cũng đã lớn tuổi, tóc đốm bạc, chắp tay vái chào Vương Uy, nói:
– Lão họ Tôn, tên Ngô Toàn, tự là Long Anh, được các anh em coi trọng gọi là lão Tôn. Lão thấy ngài là người phi phàm, không giống như những tướng lĩnh quân Tứ Xuyên bình thường, hơn nữa lại biết thuật Đoạn Môn chỉ, nghe nói đó là tuyệt kỹ của nhà họ Vương vùng Quan Đông mấy chục năm trước. Ngài đây cũng họ Vương, phải chăng lão có mắt mà không thấy Thái sơn, đã đắc tội với hậu nhân Vương gia?
Nghe lão Tôn nói, Vưong Uy giật thót người, thầm rủa mình đáng chết, đến lúc nguy cấp lại quên khuấy lời ông nội dặn. Bốn chục năm trước ông nội Vương Uy đã lui về ở ẩn, vậy mà lão Tôn này lại nhìn ra tuyệt kỹ Đoạn Môn chỉ của Vương gia, xem ra cũng là người lão luyện giang hồ, khiến anh không khỏi chột dạ.