Mắt âm dương

Chương 29 phần 2


Bạn đang đọc Mắt âm dương – Chương 29 phần 2

Trên tảng băng còn rất nhiều tháp băng, Nhị Rỗ lấy làm nghi hoặc, bèn giục Dương Hoài Ngọc bắn nát mấy tòa tháp, nhưng bên trong đều trống rỗng, không có xác người. Từ khi thấy xác viên quan nhất phẩm và cái xác máu, Nhị Rỗ cứ nghi ngờ tòa tháp băng nào cũng là phần mộ, cả rừng tháp băng là một khu mộ địa, nhưng thật sự không phải như vậy.
Đám rắn đen sau khi bị đuổi đi, không thấy quay lại nữa, Đại âm khư khắc trên chuông Kim Cương cũng không biết ở nơi đâu, bọn họ chỉ cảm thấy vô cùng kỳ dị, nhưng không có một đầu mối nào để tìm cả.
Tảng băng bày lớn vô cùng, đi mãi cũng không thấy tận cùng, họ đi mệt rồi nghỉ, nghỉ một lúc lại lên đường, nơi này không có trời trăng xoay chuyển, cũng không có ngày đêm luân hồi, chỉ có đi và nghỉ, nghỉ và đi mà thôi. Đi được một quãng, Vương Uy sẵn có thể lực tốt, chẳng bao lâu sau đã hồi phục sức khỏe, lại có thể đi như bay, dẫn Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc thẳng tiến. Họ cũng không biết cứ đi về phía trước có thể tìm thấy vương triều Lạp Cách Nhật trong triều thuyết hay không, nhưng họ đã chẳng còn đường lùi nữa.
Cứ thế đi miết, những lỗ thủng quanh hang động biến mất, họ mất nguồn sáng tự nhiên, đành phải đốt đuốc lên, dò dẫm tiến vào nơi bí hiểm dưới lòng đất. Dọc đường Nhị Rỗ kể lại cặn kẽ cho Vương Uy nghe quá trình họ phát hiện ra thi thể viên quan nhất phẩm và cái xác máu, cùng cách xua đuổi lũ rắn đen và giải độc của chiếc chuông Kim Cương.
Dọc đường, Vương Uy và Nhị Rỗ cứ luôn miệng chửi đồng, không biết tảng băng này dài đến tận đâu, nào ngờ, thoắt cái, tảng băng đột ngột biến mất, trong hang động khổng lồ sau tảng băng, ba người phát hiện ra một bức tường.
Đúng là một bức tường, hơn nữa còn là do con người xây nên, từng viên đá hòn đất đều có dấu tích bàn tay con người.
Bức tường này cao đến mấy trượng, chân tường rất dày, có nổ mình cũng khó mà phá nổi, đá xây rất ngay hàng thẳng lối, tuyệt không phải là xây thô, hay xây vội vã. Bức tường đá dài mấy chục mét, ba người đi vòng quanh xem xét mất một lúc lâu. Vương Uy nói:
-Sao tôi cứ cảm thấy bức tường này giống với chiến hào bằng đá chúng ta đã gặp trong khu rừng dưới lòng đất ấy.
Nhị Rỗ vuốt râu, nói như đinh đóng cột:
-Đâu phải chỉ giống, rõ ràng là một khuôn đúc ra, tôi nhập ngũ mười mấy năm, lúc còn làm lính quèn, cũng từng đào đất đắp chiến hào, nhận định không sai đâu. Bức tường đá này xây chắc chắn hơn, đẹp hơn bức tường chiến hào trong rừng, nhất định là tay nghề của một toán binh lính, cứ nhìn những tảng đá họ xây là nhận ra ngay thôi.
Vương Uy gật đầu, nói:
-Bức tường này tám chín phần mười là chiến hào, anh trèo lên kia xem thử có lỗ châu mai không.
Nhị Rỗ vâng lời, liền ngậm thân bó đuốc, bám lấy một chỗ gồ ra trên tường, thoăn thoắt leo lên. Ngọn đuốc của Nhị Rỗ soi sáng đầu tường, Vương Uy ở dưới trông lên, không khỏi cau mày, quả nhiên trong phạm vi của ánh đuốc có chừng ba, bốn lỗ châu mai.
Bức tường này cũng giống như công sự bằng đá trong rừng, đều dùng để phòng ngự trong chiến đấu. Vấn đề ở chỗ, đây là công sự dùng trong những đợt phòng ngự quy mô lớn của quân đội, bọn họ xây những thứ này dưới lòng đất để làm gì? Chẳng nhẽ để chiến đấu ư?
Nơi này nằm sâu mấy nghìn mét dưới lòng đất, cho dù lương thực và nước uống dự trữ đầy đủ đến đâu chăng nữa, thì sống được mấy năm ở nơi không có ánh mặt trời thế này đã là kỳ tích rồi. Nơi này ngột ngạt chết người, lại có vô vàn những chuyện kỳ quái, rất nhiều thứ không thể suy xét theo lẽ thường được.
Đã như vậy, sao Mã Văn Ninh vẫn cho xây những công sự này? Bọn chúng định đánh trận gì? Đánh với ai?
Những sự việc ấy đều không thể phán đoán nổi, nhưng mỗi lần nghĩ đến, Vương Uy thấy ớn lạnh, trong đầu lại lởn vởn chuyện “ma hành quân” năm xưa.
Nhị Rỗ ngồi trên bờ tường dòm xuống nhưng không thấy được tình hình bên dưới, bèn leo qua bên kia xem xét, chẳng mấy chốc đã tụt xuống mặt đất.
Vừa đặt chân xuống đất, Nhị Rỗ đã kinh hoàng kêu ré lên, Vương Uy ở bên kia gào to:
-Nhị Rỗ, có chuyện gì rồi?
Nói rồi, Vương Uy lồm cồm leo lên, Dương Hoài Ngọc cũng bám theo.
Nhị Rỗ từ bên kia, đáp:

-Không có gì đâu, mẹ kiếp, khắp mặt đất đầy những xác chết, giống như bãi chiến trường ấy.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc sang đến nơi cũng phải giật mình kinh hãi. Trên mặt đất ngổn ngang xác chết, địa khí trong sơn động lại âm hàn nên xác chết đã lâu ngày mà không hề rữa nát, có xác đã khô tóp lại, nhưng biểu tình trên mặt vẫn y nguyên. Cái nào cái nấy đều trợn trừng mắt, đầy vẻ căm hận, đao thương vứt bừa bãi.
Kỳ lạ nhất là, những xác người này, có kẻ mặc đồ lính cờ xanh của nhà Thanh, có tên lại mặc quân phục vàng, chắc chắn là bọn lính đào trộn mộ của Mã Văn Ninh, hóa ra hao toán quân này đánh nhau. Vương Uy nhận xét:
-Tính ra, Thomas và Mã Văn Ninh vào núi Đường Cổ Lạp cách nhau ít nhất mười mấy năm, như vậy hơn ngàn tên lính nhà Thanh do Thomas đem theo cũng đã sống dưới lòng đất hơn chục năm, thật quái gở!
Nhị Rỗ cũng ngớ ra, theo lý thì một việc như thế khổng thể nào tồn tại được. Năm xưa Trương Tử Thông suất lĩnh lính tráng đào sông ngầm, đắp đê, nhưng lúc nào cũng liên hệ với người trên mặt đất, không dám hạ trại dưới đó. Vậy mà đám lính cờ xanh này chui xuống dưới lòng đất mấy nghìn mét, việc ăn uống sinh hoạt của hơn một nghìn người trong suốt mười mấy năm ấy đã là một vấn đề lớn, thêm vào đó, con người sống mười mấy năm, liệu có còn ra người nữa không?
Ba người đều thấy lạnh xương sống. Vẻ mặt Dương Hoài Ngọc rất không ổn, Vương Uy và Nhị Rỗ đến ái ngại cho cô, từ lúc sinh ra cho đến khi hiểu chuyện, cô chưa bao giờ thấy mặt cha. Người cha kia cũng lạ, bỏ vợ bỏ con, đem theo hơn một nghìn người xuống ở dưới lòng đất này hơn chục năm trời, về sau còn giao tranh với một toán người đến đây sau mình cả chục năm, cuối cùng không biết đã chết như thế nào.
Dương Hoài Ngọc giơ đuốc, lật xem từng cái xác trên chiến trường, Vương Uy nhận ra cô cũng không biết mặt cha mình, nhiều lắm chỉ được nhìn ảnh mà thôi. Đáng tiếc, cái thứ ảnh chụp này cũng rất mơ hồ, những xác người này nhờ khí lạnh trong hang mà không bị phân hủy, như mặt mũi cũng không còn nguyên vẹn, nếu trên chiến trường có mấy người nước ngoài, chắc hẳn cô cũng không thể phân biệt được ai là cha mình.
Vương Uy và Nhị Rỗ cũng không rảnh, ba người họ chia nhau mỗi người môt hướng, tản ra xem xét chiến trường. Hang động phía sau bức tường đá rất rộng, cửa hang như một miệng chai, mà chỗ bức tường thì hẹp lại như cổ chai, vượt qua chỗ thắt nút cổ chai đó, hang động liền mở rộng đến hơn trăm mét đổ lại đều la liệt xác chết, xem ra ít nhất cũng phải đến hơn một nghìn người tham chiến.
Hơn nữa, cục diện cuộc chiến này rất kỳ lạ, bức tường đá hướng ra phía ngoài, như vậy hướng tấn công cuủa kẻ đích phải từ phía tảng băng, nhưng đại chiến trường lại nằm trong núi. Thế trận này chắc chắn là quân cờ xanh nhà Thanh do Thomas chỉ huy tập kích từ phía sau, trên mặt đất có rất nhiều xác lính của Mã Văn Ninh bị quân đội nhà Thanh chém ngang lưng, chết rất thê thảm. Vũ khí cận đại đương nhiên hơn xa trang bị cuối nhà Thanh, tuy quân Thanh cũng có nhiều kẻ cầm súng, nhưng chỉ là súng kíp lạc hậu, không so được với súng của Mã Văn Ninh nhập khẩu từ Nhật Bản.
Ba người lượn quanh chiến trường một vòng, thấy xác chết và vũ khí la liệt khắp nơi, vũ khí của quân cờ xanh lạc hậu, nên lính Thanh giết chết nhiều gấp rưỡi quân của Mã Văn Ninh. Chính giữa chiến trường còn có mấy cái vạc, bên trong còn đến nửa vạc than và củi. Vương Uy châm lửa, những cái vạc quả nhiên khác thường, vừa châm lửa, ngọn lửa đã bùng ấy mét, chiếu sáng cả một vùng rộng lớn. Anh châm tất cả các vạc, toàn chiến trường được chiếu sáng, những xác người được ngọn lửa đỏ soi tỏ, lộ vẻ dữ tợn, tưởng như có thể bật dậy vồ lấy người ta bất cứ lúc nào.
Trên mặt đất còn ngổn ngang những giá gỗ, những thanh đại đao cắm ngược, cũng những nồi lớn vạc to v.v… Trong phạm vi ánh lửa chập chờn, tưởng như những xác chết trên chiến trường đang sống lại. Nhìn cảnh tượng thảm thương và tan hoang trước mặt, đủ thấy lúc bấy giờ quân hai bên đã điên cuồng chém giết nhau như thế nào.
Nhị Rỗ lẩm bẩm nói:
-Bọn chúng âm thầm làm chuyện xấu xa bên dưới mặt đất này, tên nào tên nấy muốn trục lợi, đến nỗi lôi kéo nhiều người bỏ mạng thế này ư? Chúng ta quét sạch đám quân phiệt ở miền Xuyên Trung cũng không có trận nào thê thảm như thế này, đúng không?
Vương Uy gật đầu:
-Đây không phải giao tranh, rõ ràng là liều mạng trăm phần trăm, còn thảm khốc hơn cả báo thù nữa.
Nhị Rỗ xoắn xoắn chòm râu đi quanh một vòng, vòng đến phía đối diện với Vương Uy, gã nói:
-Điều quan trọng nằm ở bí mật của vương trièu Lạp Cách Nhật ấy, rốt cuộc bí mật đó là gì để đến nỗi hai toán quân này điên cuồng tàn sát nhau đến mức ngọc đá đều tan nát như vậy?
Vươg Uy gật đầu, nói:
-Trong chuyện này có rất nhiều điều không thể giải thích nổi, chỉ khi nào thật sự chạm đến bí mật then chốt của vương triều Lạp Cách Nhật, may ra mới tìm ra được chút đầu mối.
Nhị Rỗ gật đầu:
-Đáng tiếc, những người tiếp cận với bí mật đều chết cả, còn chúng ta … ôi!

Vương Uy vỗ vai Nhị Rỗ, nhìn gương mặt đầy thất vọng của Dương Hoài Ngọc, cô đang đi về phía này.
Dương Hoài Ngọc buồn rầu bước lại, gương mặt đã mất hẳn vẻ ngang tàng lạnh lùng hằng ngày, xem ra cô gái lai này cũng đang có tâm sự. Nhị Rỗ hềnh hệch, chằm chằm nhìn Vương Hoài Ngọc, bộ dạng rất thô bỉ, bị Vương Uy vỗ một phát vào lưng mà vẫn không thôi. Dương Hoài Ngọc đột nhiên chỉ về phía sau lưng hai người, nói:
-Ở kia có một ngọn đèn.
Cả hai đều cảm thấy rờn rợn sống lưng, chợt thấy nét mặt Dương Hoài Ngọc thoáng vẻ thảng thốt, rõ ràng là bất ngờ, Vương Uy và Nhị Rỗ nhất tề ngoảnh lại quả nhiên thấy trong tận cùng hang đá có một đốm lửa, như gần như xa, vô cùng kỳ dị.
Nhị Rỗ trợn trừng hai mắt, vẻ mặt tối sầm:
-Chẳng nhẽ ở đây còn có người sống?
Vương Uy lắc đầu, nói:
-Không thể thế được, nếu là người thì chỉ cần sống ở đây mươi năm đã là kỳ tích, nếu sống được đến hai mươi năm tuyệt nhiên không phải là người nữa.
Ba người cùng xách súng lên, soi đuốc đi đến nơi có ánh đèn, họ đều nghĩ đến hai ngọn đèn trên con chim sắt, nhưng ngọn đèn trong sâu thẳm bóng tối cứ chập chờn leo lét, không giống đèn đuốc của nhân gian, khiến cả ba rất căng thẳng, hồi hộp.
Quan sát chiến trường, mọi người đều có thể khẳng định, từ mười năm trước ở đây đã không còn ai sống sót. Nhưng ánh đèn kia là thế nào?
Ba người càng đi càng nhanh, dọc đường không ai nói chuyện với ai, ngay cả bước chân cũng rất cẩn thận, như sợ kinh động đến ngọn đèn phía trước. Nhưng sự thật rõ ràng, dù họ có cẩn thận đến thế nào, nếu đối phương là người sống thì đã phát hiện ra họ rồi. Vương Uy nói nhỏ:
-Hai người đoán xem có phải lão Tôn không?
Nhị Rỗ nói:
-Lão già ấy xưa nay rất giỏi giả thần giả quỷ, lão ta để một vũng máu ở chân tường băng, trên bức tường lại đặt bao thuốc nổ, tức là vừa dọa vừa dụ chúng ta vào bẫy. Hạng người như lão chắc chắn chưa chết dễ dàng như thế được đâu, tôi đoán đến tám chín phần mười chính là lão ta.
Nhị Rỗ không nhắc đến vũng máu kia còn đỡ, vừa nói đến lại khiến mọi người thấp thỏm lo lắng. Theo lý mà nói, muốn đi qua bức tường băng mà còn để lại thứ gì đó bên trong thì chỉ có thể đi xuyên tường, ngoài ra chẳng còn cách nào cả. Lão ta có thể đi xuyên tường thì đâu phải người nữa đâu?
Ban người đuổi thêm một lúc, nhưng ngọn đèn cứ không gần không xa, hư vô leo lét, chập chờn phía trước. Bỗng Nhị Rỗ buột miệng:
-Hỏng rồi, chúng ta chạy theo ngọn ảo đăng một lúc lâu, sao lại quay về chiến trường rồi?
Nghe gã nói, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc vội nhìn xung quanh, thấy ngọn lửa trong vạc đã tắt tự bao giờ, xung quanh tối như mực, chỉ có ánh đuốc của ba người. Vương Uy soi đuốc nhìn xuống quả nhiên trên mặt đất ngổn ngang thi thể và các loại vũ khí, nơi này rất gần với cái vạc lớn nhất, Vương Uy nhớ rõ, chính ở nơi này học đã phát hiện ra ngọn đèn, đi lòng vòng một hồi lâu, cuối cùng họ lại quay về chỗ cũ. Xem xét kỹ lưỡng như vậy, ba người đều đã nhận ra điều này, liền nhìn nhau bối rối.
Nhị Rỗ buột miệng:
-Mẹ kiếp cái đồ phải gió, chúng ta gặp phải ma dựng tường thường chỉ xuất hiện tại những mộ đạo nhỏ hẹp, hang động này đủ lớn để làm sân bay, đâu có chuyện ma dựng tường? Xem ra, chuyện này còn khó giải quyết hơn cả chuyện ma dựng tường ấy.

Nhị Rỗ vừa nghe vương Vương Uy nói không phải ma dựng tường, đang mừng rỡ thì nghe thấy câu tiếp theo của Vương Uy, lòng chùng xuống, bèn hỏi: -Chỉ huy phát hiện ra manh mối rồi ư?
Vương Uy lắc đầu, nói:
-Vừa rồi chúng ta đi mất bao nhiêu thời gian? Nhị Rỗ đáp ngay:
-Ít ra cũng phải sáu tiếng đồng hồ đấy nhỉ?
Dương Hoài Ngọc lắc đầu:
-Không, phải mười hai tiếng đồng hồ.
Nhị rỗ quay sang Dương Hoài Ngọc:
-Tôi nói cho cô tây rởm biết nhé, ở đây là dưới lòng đất, không có trăng sao ngày đêm gì cả, đồng hồ của cô lại mất rồi, làm sao cô dám khẳng định như vậy? Dương Hoài Ngọc lạnh lùng đáp:
-Lúc vừa bắt đầu đi, tôi đã nhẩm tính mối tương quan giữa nhịp bước với thời gian, đại khái đi chừng một phần sáu đoạn đường tương đương hai tiếng đồng hồ, tốc độ đi của chúng ta không thay đổi bao nhiêu, như vậy mất khoảng mười hai tiếng.
Nhị Rỗ sáng mắt lên:
-Mẹ kiếp. xem ra cô tây rởm này không đơn giản chút nào, trông cứ như Lý Quỳ, mà cũng có đầu óc đấy nhỉ.
Dương Hoài Ngọc trừng mắt lườm Nhị Rỗ, không nói gì. Vương Uy nói với Nhị Rỗ:
-Chúng ta đi dọc bờ tường, cứ đi một quãng lại làm dấu.
Nhị Rỗ gật đầu, lấy ra một con dao. Ba người đi theo ngọn đèn leo lét, cứ đi một quãng lại vạch lên vách hang một vệt làm dấu.
Họ đi một lúc rất lâu, Vương Uy chợt vẫy tay cho hai người đi sau đứng lại, nói:
-Đừng đi nữa, chúng ta lại quay về rồi. Nhị Rỗ ngớ ra, nói:
-Không thể thế được, tôi đâu có thấy dấu hiệu gì đâu.
Vương Uy chỉ vào cái giá gỗ gần đấy, nói: -Đây là vật ở trên chiến trường, trước mắt là bãi chiến trường đấy.
Ba người rảo bước đi tới, quả nhiên phát hiện lại quay về chỗ cũ, chẳng qua hướng họ quay về và hướng xuất phát là hai mặt của hang núi, lúc đi dựa vào vách hang bên trái. Lúc về thì theo vách hang bên phải mà thôi.
Nhị Rỗ nói:
-Chỉ huy đừng đoán nữa, ngọn đèn kia chắc chắn là ma trơi rồi, chúng ta đi theo phương hướng nó chỉ có khác nào tự tìm đường chết.
Vương Uy gật đầu, nói:
-Quái nhỉ, cái hang thẳng tắp, chúng ta lại mem theo vách hang mà đi, nói thế nào cũng không thể vòng lại chỗ cũ chứ?
Nhị Rỗ nói:
-Nói như thế cũng không đúng, cái hang này quá lớn đứng bên này không trông thấy bên kia, cái đèn kia lại ở phía trước mê hoặc, chúng ta cứ theo hướng của nó mà vòng đi vòng lại, khó tránh bị nó lừa.

Vương Uy gật đầu, thấy cũng có lý. Ba người cùng nghỉ một lúc, rồi lại đi tiếp về phía trước, nhưng lần này họ không nhìn ngọn đèn nữa, chỉ theo vách hang mà đi. Đi như vậy bốn tiếng đồng hồ, bỗng Nhị Rỗ liên tục đảo mắt nhìn, rồi đột ngột nói:
-Chỉ huy, ở kia có xác người kìa.
Vương Uy ngoảng nhìn theo hướng tay Nhị Rỗ chỉ, quả nhiên thấy trên một tảng đá gần chính giữa hang thấp thoáng có một cái xác. Ba người liền tiến lại, tảng đá cách vách hang đến mười mấy mét, cũng may có Nhị rỗ mắt tinh mới trông thấy.
Trên tảng đá là một xác chết, phía sau cái xác chừng một mét còn một xác nữa, cả hai đều mặc quân phục màu vàng, là lính đào trộm mộ của Mã Văn Ninh. Người phía trước nằm bò trên tảng đá, lưỡi thè dài, giống như người chết vì treo cổ; cái xác phía sau nửa người trên hơi nhổm lên, Nhị Rỗ ngồi xuống xem, thấy một tay hắn ta chống một khúc gỗ, khuỷnh tay kia chống xuống đất, rõ ràng lúc chết đang cố gắng trườn lên phía trước. Nhị Rỗ lẩm nhẩm:
-Hai người này… rõ ràng hai người này chết vì kiệt sức.
Vương Uy nói:
– Đúng vậy, họ cũng giống như chúng ta, đều đi vào tử lộ.
Dương Hoài Ngọc nói:
-Như vậy ngọn đèn kia chưa chắc đã phải của bác Tôn, mười mấy năm trước bác ấy đang còn ở Luân Đôn tìm tôi mà.
Vương Uy nói:
-Tôi không lo chuyện ấy, chỉ sợ rằng dù chúng ta không đi theo ngọn đèn kia chỉ đường, thì cũng không thoát ra được cái hang chết người này đâu. Cô thử nghĩ mà xem, những người này chắc cũng không ngu dốt, họ vòng đi vòng lại một hai lần, chẳng nhẽ đến lần thứ ba vẫn còn đi theo ngọn đèn hư ảo đó à?
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng từng nghĩ như Vương Uy, dù ngọn đèn chỉ là sự mê hoặc, nhưng bản thân hang động này quái dị vô cùng, nếu cứ đi như thế này mà không ra khỏi hang được, thì họ phải làm thế nào?
Cả ba người đều nặng trĩu cả lòng, họ đi nhanh hơn, càng đi càng thêm kinh hãi, phía trước cứ thỉnh thoảng lại có vài ba xác lính mặc quân phục vàng, tất cả những người này đều chết vì mệt lả. Giày của xác chết phần lớn đều đã mòn rách, lòi cả ngón chân, có thể thấy toán lính này đã lòng vòng trong hang động không biết bao nhiêu lần, cuối cùng đều kiệt sức mà chết.
Càng đi họ càng thêm lo lắng, cứ đi như vậy cuối cùng lại vòng về chỗ cũ. Ba người đứng lại giữa chiến trường nhìn nhau, hình ảnh những xác chết miệng há hốc, lưỡi thè vì mệt mỏi cứ lởn vởn trong óc, không sao xua đi nổi. Chẳng bao lâu nữa, ba người cũng sẽ giống như những cái xác kia, chết vì kiệt sức, tử trạng thê thảm như ma chết treo vậy.
Vấn đề này đã vượt quá sức tưởng tượng của Vương Uy. Mấy năm trước anh từng gặp ma dựng tường, lúc bấy giờ họ đang đi diệt phỉ ở vùng Tạng, nửa đêm họ lẻn vào sơn trại của thổ phỉ. Đôi bên giao tranh một hồi, tên cầm đâu đám phỉ bỏ chạy vào rừng, Vương Uy đuổi theo hắn vào tận hang sâu, giữa lúc tối lửa tắt đèn, anh liền gặp phải ma dựng tường. Trong cái hang chật hẹp, anh đi vòng vo thế nào cũng không ra nổi, hết sức kỳ dị.
Vương Uy tức giận liền cởi quân phục trên người ra châm lửa, buộc lại thành bó đuốc. Ánh lửa vừa sáng lên anh liền trông thấy một bóng đen lủi đi. Đôi mắt Vưong Uy chính là mắt âm dương được tôi luyện suốt mười năm có thể nhìn thấu âm dương, thấy bóng đen kia, anh biết ngay gặp ma. Bóng ma kia không biết trời cao đất dày, lại dám bung bít đôi mắt âm dương của anh, khiến anh cứ đi vòng quanh tại chỗ, không ra được khỏi hang động, hẳn là định hại anh phải bỏ mạng trong hang, vĩnh viễn ở lại bầu bạn cùng với nó.
Sau đấy Vương Uy ra được khỏi hang, liền ra lệnh cho lính bao vây, rồi cho người vào trong đào, đào bới một hồi, liền tìm được một ngôi mộ. Đó là một ngôi mộ hoang, không biết có từ thời nào, xương cốt người dưới mộ đều đã vụn nát, tên thổ phỉ kia thì nằm vắt ngang trong cỗ quan tài mục, xem bộ dạng có vẻ như hắn bị chủ mộ lôi vào.
Nhưng hang động này rất lớn, không phải chỗ cho lũ tiểu quỷ đùa giỡn, hơn nữa họ đông người, lại có đuốc sáng, lũ tiểu quỷ cũng không dám xuất hiện.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều xám mặt lại, nếu không nghĩ cách thoát được khỏi tình thế này, tinh thần mọi người bị bức đến mức suy sụp thì chỉ còn nước chịu chết ở đây.
Vương Uy càng nghĩ càng sốt ruột, anh chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trong phạm vi mấy mét. Nhị Rỗ theo anh hơn mười năm nay, lần đầu tiên thấy anh chắp tay đi lại hệt như sĩ quan cấp cao thế này, tuy lòng đang lo lắng không yên, nhưng vẫn không nhịn nổi cười nói:
– Chỉ huy ơi, không ngờ chỉ huy lại ôm ấp tham vọng tiến xa, sớm đã học lỏm được điệu bộ này rồi. Năm xưa chỉ huy từ cấp tiểu đoàn trưởng giáng xuống đại đội trưởng, tôi cứ nghĩ chỉ huy thế là chẳng còn triển vọng gì nữa, hết đường tiến bộ rồi cơ đấy, hì hì!
Vương Uy ruột gan như lửa đốt, nghe Nhị Rỗ nói thế anh càng bực mình, bèn quay lại đá cho Nhị Rỗ một cái. Cú đá rất mạnh, khiến Nhị Rỗ ngã lăn ra đất, ngay cạnh đống xác chết.
Nhị Rỗ kêu oai oái:
– Chỉ huy ơi, lần sau chỉ huy có đá thì đá nhẹ thôi, tôi sắp bị chỉ huy đá gãy xương rồi, ối a…


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.