Bạn đang đọc Mắt âm dương – Chương 24 phần 2
Anh sốt ruột, vội quay đầu lại, liền trông thấy một người đang chạy về phía này. Người ấy len lỏi giữa đống băng vỡ rơi rào rào tựa như châu chấu nhanh như điện, Vương Uy nhìn thấy rõ mồn một, đầu óc đang trống rỗng còn chưa kịp trấn tĩnh lại, cả người đã đờ ra. Chỉ thấy gương mặt kẻ kia tái nhợt, không có vẻ gì là người sống, đầu đội mũ cắm lông công, mặc áo khoác ngắn màu đỏ, ăn vận theo lối quan binh cuối triều nhà Thanh.
Theo cảnh tượng đó, Vương Uy chợt rùng mình, nhưng chẳng đợi anh rùng mình cho hết, một luồng gió bỗng ập tới trước mặt, chưa kịp trở tay thì người đã bị xô văng đi hơn chục mét, nếu không phải anh đang nín một hớp khí trong ngực, có lẽ sương xườn cũng gãy mất mấy cái rồi. Anh ngã lăn ra đất, mắt tối sầm lại, toàn thân cứng đơ, không còn đủ sức để nhúc nhích.
Ngay lúc ấy, tòa Thần Thú đại điện khổng lồ bỗng ầm một tiếng đổ sập xuống, làm rung chuyển cả hang núi.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc vội chạy tới đỡ Vương Uy dậy, Vương Uy vẫn chưa hoàn hồn, tay chân cứng đơ, hai người kia cố mãi vẫn không đỡ được anh lên. Vừa gắng gượng đứng dậy, chân đã chuội đi, không giữ nổi mình.
Nhị Rỗ hoảng hốt bảo Dương Hoài Ngọc:
– Hỏng rồi, e rằng xương cốt trên mình chỉ huy đã gãy hết, ở đây thứ nhất không có trạm cứu thương, thứ hai là chỉ anh Uy mới biết bó xương, có khi anh ấy thành ra tàn phế mất.
Dương Hoài Ngọc nói:
– Trước hết đừng động vào, tay chân anh ấy bị gãy, chưa bó vào được, giờ chúng ta càng đụng vào càng hỏng việc thôi.
Nhị Rỗ gật đầu lia lịa, hai người bèn để Vương Uy nằm ngay ngắn trên mặt đất rồi sờ nắn chân anh, xác định xem bị gãy chỗ nào.
Vương Uy không nói nên lời, chỉ biết giương mắt nhìn hai người sờ sẫm mình như thầy bói xem voi. Thật ra anh chỉ là bị nén khí trong ngực, không xuôi đi được, nên cả người nghẹn tắc, đành giương mắt ra đó.
Nhị Rỗ sờ nắn một lúc không thấy có chỗ nào bất thường, nhất thời cũng lúng túng chẳng biết Vương Uy bị thương ra sao. Trong lúc bối rối, gã liền cuống quýt cầu trời khấn Phật, từ Quan Thế m Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ tát, Khách Ba Bồ tát đủ cả. Vương Uy chỉ biết mở trừng mắt ra nhìn, tay chân mỗi lúc một cứng hơn.
Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy có vẻ khác thường, liền vỗ mạnh vào ngực anh một cái, vuốt xuôi khí nghẹn trong ngực. Vừa mở miệng, anh lập tức chửi toáng lên:
– Mẹ kiếp, định nắn đến chết ống đấy à!
Nhị Rỗ chỉ cười hề hề, vỗ ngực cho Vương Uy, khí nghẹn dần dà xuôi xuống, tay chân anh cũng bắt đầu cử động được.
Nghe Nhị Rỗ kể lại toàn bộ sự việc, Vương Uy mới biết hai người đã chạy ra khỏi cung điện từ lâu. Ra đến bên ngoài, họ nhìn lại không thấy Vương Uy đâu, liền thắp đuốc định chạy vào tìm. Vừa thắp đuốc lên thì thấy Vương Uy từ trong đại điện cuống cuồng chạy ra, vừa chạy vừa nhìn về phía sau. Họ đứng gần cửa cung điện, ngọn đuốc vừa sáng lên đã làm cho Vương Uy . Bấy giờ cái xác mặc quần áo lính nhà Thanh lại chạy bổ về phía anh, khiến đầu óc anh càng thêm bối rối, không còn nghe thấy tiếng Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc gọi nữa.
Hai người chứng kiến tất cả từ lúc cái xác lướt qua rồi Vương Uy đụng phải nó văng bắn ra, cú va chạm này mạnh chừng nào, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều thấy rõ. Thấy Vương Uy lăn đi hơn chục mét, họ sợ hết hồn, vội chạy lại xem. Hai người đoán chừng bị va chạm mạnh như thế, chắc chắn Vương Uy không sống nổi, nào ngờ được Dương Hoài Ngọc vỗ ột cái, Vương Uy đã bình thường trở lại.
Vương Uy vừa ngồi dậy liền đi tìm cái xác tên lính nhà Thanh, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng đi theo. Cái xác nằm ngay bên đống băng vỡ vụn, Vương Uy soi đuốc, trông thấy một khối băng lớn, bao bọc lấy một người bên trong. Người ấy nằm ngửa mặt lên trời, mắt trợn ngược, mặt tái nhợt, vận trang phục tướng quân nhà Thanh, đầu đội mũ đính lông công, mặc áo bào đỏ có tán đinh đồng, dưới ánh đuốc, cái xác trong khối băng trông càng tím tái lạ thường, vô cùng đáng sợ.
Khối băng không dày, hơn nữa từ trong cung điện bắn ra, nên đã bị va đập làm rạn nứt nhiều chỗ, Nhị Rỗ và Vương Uy mỗi người một khẩu súng, dùng báng súng đập mạnh, khối băng vỡ ra làm đôi, cái xác từ trong đó lăn ra.
Vương Uy nói:
– Không phải, tôi thấy cái xác từ trong cung điện băng chạy ra kia mà, tại sao vẫn còn nằm trong băng thế này?
Nhị Rỗ tiếp lời:
– Lúc ấy chỉ huy luống cuống không nhìn rõ, chứ tôi với cô Ngọc đây rõ mồn một, cả tảng băng lớn từ trong đó văng ra. Có thể vì đụng vào bức tường băng cho nên cái xác mới bật ra ngoài. Bức tường băng bề thế như thế, vừa đụng vào đã làm nó bắn tung lên.
Vương Uy hơi nghi ngờ, bèn vắt óc nhớ lại sự việc vừa rồi. Đuốc vừa sáng lên, anh liền trông thấy một người lính nhà Thanh chạy tới trước mặt, rồi đầu óc anh chợt thấy mơ hồ hẳn đi. Hắn lao đến rất nhanh, chỉ một loáng đã đụng vào anh, không thể nào nhìn kỹ được. Nghĩ lại mới hiểu, bức tường băng khí thế bằng cả vạn quân nện xu
ống, khối băng lại có thể không bắn ra nhanh được ư?
Nhị Rỗ ẩy ẩy cái xác, nói:
– Đúng rồi, đây là cái thứ chúng ta trông thấy lúc ở trên lưng con thú “đầu lĩnh” đấy, nó nằm khoanh tròn lù lù trong lớp băng bằng một đống mà.
Vương Uy thấy Nhị Rỗ lật cái xác lên, bỗng tròng mắt anh chuyển động, anh thấy hai cái tay của xác chết đều cuộn lại, đút vào trong tay áo, quả là một tư thế kỳ lạ.
Anh bảo Nhị Rỗ đừng động rồi ngồi xuống nắm lấy hai tay xác chết, vận sức tách nó ra, nhưng cố mấy lần vẫn không thể tách nổi.
Nhị Rỗ ngồi bên cạnh nói:
– Thưa chỉ huy, chỉ huy không biết đấy thôi, người chết rồi cơ thịt sẽ cứng lại, các khớp xương cố định, không dễ gì tách ra nổi đâu.
Vương Uy gật đầu, nhất thời anh quên mất chuyện đó. Không thể tách rời hai tay xác chết, vậy phải làm thế nào? Anh nghĩ ngợi, rồi xắn tay áo xác chết lên, Nhị Rỗ soi đuốc lại gần hơn, ba người vừa thấy đôi tay xác chết bên dưới lớp áo, đều giật bắn mình.
Bàn tay xác chết nắm một vật hình dạng tựa như chuông Kim Cương trong Phật giáo Tây Tạng, nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Chuông Kim Cương nói chung đều dài chừng mười lăm phân, được người tu hành sử dụng như pháp khí, chuôi cầm giống như chiếc Kim Cương chử[1] bằng đồng, trên bầu có bầu chuông. Còn cái chuông Kim Cương này dài đến ba mươi phân, chuôi cầm bằng đồng dài chừng mười lăm phân, trên tay cầm một cái chử bằng đồng, phần cuối chử là một chiếc đầu lâu trông thật dễ sợ. Mắt, mũi, miệng, hình dáng chiếc đầu lâu này giống hệt hình chạm khắc trên cái kích Vương Uy đeo trên lưng, không giống đầu lâu người cho lắm. Cái xác này một tay nắm vào chiếc đầu lâu trên chử, một tay nắm lấy bầu chuông bằng đồng trên đỉnh, giấu cả chiếc chuông Kim Cương to vậy vào ống tay áo. Cho đến khi chết hắn vẫn không buông cái chuông Kim Cương này, chứng tở rất xem trọng nó, ắt hẳn đây là một báu vật.
[1] Một loại pháp khí dùng trong Phật giáo.
Nhị Rỗ cũng ngồi xuống, vạch hai tay cái xác ra, đáng tiếc cái xác này nằm trong băng quá lâu ngày, toàn thân đã cứng đanh lại như thép, làm thế nào cũng không tách ra được. Nhị Rỗ cố tách đến mỏi nhừ cả tay mà không nổi, bèn bực mình, vái cái xác hai vái, lẩm bẩm khấn:
– Ông ơi, hai chúng tôi cũng xuất thân lính tráng, nói thật, chức còn to hơn ông, tuy chúng ta không cùng triều đại, nhưng tốt xấu gì quan nhỏ thấy quan lớn thì phải có quà ra mắt. Anh em chúng tôi biết ông nghèo, cũng không lấy gì nhiều đâu, chỉ cần cái chuông Kim Cương của ông thôi, ông thấy có đượcNhị Rỗ tuy miệng nói linh tinh nhưng tay chân lại rất nhanh nhẹn tháo vát, cứ thế giơ báng súng gõ vào từng đốt ngón tay cái xác, gõ một hồi, cái chuông Kim Cương cũng dần dần rời ra. Thấy có hiệu quả, Nhị Rỗ càng hăng hái đập mạnh. Gã để một tay cái xác lên mặt đất, lại giơ cao báng súng, đập liền hai ba cái, các đốt ngón tay của cái xác vỡ vụn ra. Nhị Rỗ tiếp tục làm như thế, chẳng mấy chốc đã tách được hai tay cái xác ra, chiếc chuông Kim Cương cũng theo thế mà lăn xuống. Gã bỏ mặc cái xác đấy, cầm ngay lấy cái chuông, thấy rất nặng, không như những vật dụng bằng đồng khác.
Vương Uy soi bó đuốc lại gần, Nhị Rỗ lật đi lật lại xem xét chuông Kim Cương. Cái chử rất bình thường, trừ chiếc đầu lâu ra thì không thấy có gì khác lạ, nhưng bầu chuông trên đỉnh thì khá đặc biệt, nó là hình trụ tròn, trên rộng dưới hẹp. Giữa bầu chuông có tám lỗ vuông, hễ lắc chuông, tám cái lỗ sẽ phát ra tiếng leng keng.
Nhị Rỗ lắc mấy cái, thấy tiếng chuông ngân dài không dứt, khi vang thì như Trường Giang cuộn sóng, khi khẽ lại như ve sầu đêm hè, ran ran trong tai. Kỳ lạ nhất là, tiếng chuông có thể tác động đến tinh thần của con người. Nhị Rỗ vừa lắc mấy cái, ba người đều cảm thấy đầu óc chao đảo, ngực như bị nén chặt, khó thở, có cảm giác ruột gan rối bời.
Vương Uy vội bảo Nhị Rỗ ngừng tay:
– Cẩn thận đấy, pháp khí này lạ lắm.
Anh đưa bó đuốc cho Nhị Rỗ rồi cầm lấy cái chuông, giơ bầu chuông lên soi dưới ánh lửa, quan sát tỉ mỉ, bỗng trợn tròn mắt lên.
Nhị Rỗ nhìn bầu chuông, lại nhìn Vương Uy, thấy anh biến sắc, gã liền hỏi:
– Chỉ huy thấy gì rồi?
– Những nét chạm khắc trên bầu chuông hình như có vấn đề.
Nhị Rỗ nghe nói liền ghé sát lại, Dương Hoài Ngọc cũng đến gần xem.
Chiếc chuông Kim Cương trải bấy nhiêu năm tháng, bề mặt đã xỉn màu, càng nhìn càng cảm thấy toát lên một cảm giác ngột ngạt áp bức rất xưa cũ. Trên bầu chuông đầy những đường khắc chìm, nhưng hình vẽ do các đường này tạo nên rất rời rạc tản mác, hễ chỗ nào hơi có hình dáng một chút, thì lại bị tám lỗ vuông kia làm gián đoạn.
Nhị Rỗ lẩm bẩm:
– Cái thứ này, giống như một bức vẽ dỡ dang vậy.
Vương Uy gật đầu vẻ tán đồng, chỉ vào một góc trên bầu chuông, nói:
– Nhìn chỗ này này, trông như một mặt tường của cung điện ấy nhỉ, cái bóng trên này chắc là bóng cây.
Nhị Rỗ nhìn theo tay chỉ của Vương Uy, liền nhận ra ngay, lại xoay cái chuông Kim Cương thêm hai vòng nữa để mọi người thấy được toàn bộ những nét chạm khắc trên đó, nhưng xoay đi xoay lại một hồi, gần như các nét chạm khắc tại mỗi góc đều bị khuyết, mà cho dù sắp thành hình thì lại vừa khéo bị một lỗ vuông làm cho gián đoạn, chỗ nào cũng thế.
Vương Uy nhìn đi nhìn lại, bỗng nổi nóng:
– Mẹ kiếp, thứ ma quái gì thế này, rõ ràng là người thiết kế chả ra gì, nét chạm khắc đến chỗ quan trọng nhất thì lại là cái lỗ vuông, không có cách nào nhìn ra hình thù gì.
Nhị Rỗ cũng lắc đầu, những nét chạm khắc này không thể so được với những bức vẽ trên bàn tay bức tượng đất. Đường nét trên những bức vẽ lớn kia tuy đơn giản, nhưng không bị thiếu nét, chỉ cần có nhãn lực tốt, ngộ tính cao là có thể nhận ra đầu mối. Còn mỗi đường nét trên cái chuông Kim Cương kì dị này đều được khắc rất sâu, mô tả rất sinh động, nhưng chỉ là một bức vẽ dở dang, càng nhìn càng khó hiểu.
Dương Hoài Ngọc nãy giờ vẫn chăm chú quan sát, thấy Nhị Rỗ cứ xoay đi xoay lại cái chuông, nhìn kỹ từng đường từng nét, cứ như thế mấy lần, cô bỗng sực hiểu ra: – Tôi nhớ ra rồi, tôi đã từng thấy những đường nét chạm khắc trên chuông này.
Câu nói của cô khiến Vương Uy và Nhị Rỗ giật nảy mình, đồng thanh:
– Cái gì cơ?
Dương Hoài Ngọc nhìn hai người nói:
– Anh Uy còn nhớ lúc ở trong rừng Xương Đô bác Tôn nói gì không? Bức bích họa mà bác ấy thấy trong địa lao phủ bối lặc ấy, về sau bị cha tôi đem đi, nhưng cha tôi cho phép bác ấy sao lại một bản, hồi xưa tôi đã thấy bản sao ấy rồi.
Nghe đến đây, Vương Uy cũng đoán ra ngay, chắc chắn những đường nét chạm khắc trên bầu chuông Kim Cương này giống hệt bức bích họa ở địa lao phủ bối lặc kia, như vậy những giả thuyết về vương triều Lạp Cách Nhật lại càng có cơ sở rồi.
Dương Hoài Ngọc chỉ một góc trên chiếc chuông Kim Cương, nói:
– Bức tường mà các anh nghi hoặc nãy giờ rất giống với bức tường trong vương cung của vương triều Lạp Cách Nhật trên bức bích họa trong phủ bối lặc, có điều góc độ hơi khác mà thôi. Bóng đen in trên tường, đúng là cái cây to từ trong điện vươn ra.
Nhị Rỗ nói:
– Mẹ kiếp, tôi thấy thứ này quái gở lắm, chỉ huy nói xem, trên chuông Kim Cương của Tây Tạng thường chỉ khắc hình Bồ tát, được xem như thần khí của kẻ tu hành, nhưng cái này lại khắc hình vương cung, thật không ra sao.
Đối với vấn đề này, Vương Uy cũng rất nghi hoặc, trên những pháp khí thông thường chỉ chạm khắc hình quỷ thần để xua đuổi tà ma, nhưng cái chuông Kim Cương này hình như lại có tác dụng khác. Anh quan sát đi quan sát lại nhưng vẫn không hiểu tại sao, về phần Dương Hoài Ngọc cũng chỉ nhận ra được một góc của bầu chuông, còn những chỗ khác, cô đều mù tịt cả.
Trong lúc mọi người đang bối rối, chợt Nhị Rỗ lại phát hiện ra vấn đề. Ở một góc khác của bầu chuông có mười mấy chấm nhỏ, chỉ chiếm một diện tích bằng móng tay, hơn nữa bên trên còn phủ một lớp gỉ đồng đen, Nhị Rỗ cứ mân mê bầu chuông mãi, đột nhiên làm tróc lớp gỉ đồng, nên những chấm nhỏ khắc chìm vào trong mới lộ ra.
Nhị Rỗ có trí nhớ tốt, hơn nữa trước đây đã nghiên cứu kỹ tranh vẽ trên lòng bàn tay pho tượng đất, nhớ rất rõ hình dạng những bức vẽ đó. Thấy những chấm này, gã sực nghĩ ra, mười mấy chấm nhỏ này cũng giống như cách sắp xếp những sinh vật trên bức tranh nơi lòng bàn tay pho tượng.
Tuy hơn chục chấm nhỏ này chỉ bằng một góc trong thế trận của lũ sinh vật đó, nhưng cách sắp xếp này lại rất đặc biệt, không khác gì cách sắp xếp trên bức tranh nơi tay pho tượng đất. Nhị Rỗ chăm chú quan sát bầu chuông, nhưng những phần có dấu chấm khác đều bị những lỗ vuông làm cho gián đoạn, không có thêm bất cứ đầu mối nào nữa.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc cũng dán mắt vào bầu chuông, mọi hành động của Nhị Rỗ, họ đều mau chóng hiểu ra ngay. Từ khi trông thấy thú trận trong Thần Thú đại điện, họ đã không để ý tới sự thần bí của những đường nét trong trên những tranh vẽ kia nữa, mà xác định rằng đầu mối nằm trên mình những con thú quái dị kia.
Nhưng sự thật hình như không phải thế, những chấm nhỏ thần bí trên chuông Kim Cương lại tái hiện, càng làm tăng thêm nghi hoặc trong lòng họ, trận thế kỳ lạ này rốt cuộc có ý nghĩa gì? Vấn đề có lẽ không nằm ở những con thú kia, mà ở thế trận này, bọn chúng trước sau đều giữ nguyên tư thế kỳ lạ ấy, ắt hẳn phải có lý do gì khác. Hơn nữa, những bức tranh trên bàn tay tượng, Thần Thú đại điện, những nét chạm khắc trên bầu chuông Kim Cương còn có cả hình vương cung Lạp Cách Nhật, điều này có liên quan gì đến vương triều Lạp Cách Nhật chăng?
Những bí mật này có lẽ đều nằm ở tám lỗ vuông trên bầu chuông Kim Cương. Nhị Rỗ thò ngón tay vào lỗ vuông trên bầu chuông Kim Cương sờ sờ, chợt hiểu ra:
– Trong những lỗ vuông này có rãnh ngầm, chắc là để những lá đồng bịt kín các lỗ vuông khớp vào, những nét chạm khắc này quả nhiên là một thể hoàn chỉnh.
Vương Uy cũng cho ngón tay vào, quả nhiên sờ thấy vách trong của bầu chuông có một đường rãnh chìm, khe rãnh rất hẹp, xem ra những lá đồng bịt kín các lỗ vuông kia cũng rất mỏng.
Nhị Rỗ kiểm tra từ đầu xuống chân cái xác lính nhà Thanh, không thấy có một lá đồng nào, gã vẫn chưa tin, lại tìm từ dưới lên trên một lần nữa, cởi hết quần áo, vẫn không thấy gì.
Vương Uy nói: – Cái chuông Kim Cương quái gở như thế, những lá đồng bịt kín lỗ vuông kia lại mới là quan trọng, xem ra chưa hẳn đã dễ tìm đâu, phải mất công một chút.
Nhị Rỗ hoang mang gật đầu, Vương Uy nói nghe rất có lý, nhưng lúc này không tìm ra đầu mối, thì dù có nói lý đến đâu cũng bằng không.
Đúng lúc ấy, bên ngoài đống đổ nát của cung điện băng lại vang lên một loạt tiếng chân người. Lần này không chỉ có vài tiếng chân lẻ tẻ đơn điệu mà rầm rập hết trận này tới trận khác, nghe như một đại đội đang hành quân vậy, hơn nữa bước đi còn rất có trật tự, chỉ nghe cũng có thể biết đó là quân chính quy.
Ba người nhìn nhau, lần này thì thật rồi, tiếng chân này từ trong khuôn viên băng vọng ra, hơn nữa còn vang hơn lần trước, nghe thật hơn nhiều.
Cả ba gần như đồng thời chạy xộc ra khuôn viên băng, ba ngọn đuốc len lỏi giữa đám cây cối bằng băng, hắt ánh vàng lên lớp băng long lanh trông vô cùng đẹp mắt.
Tiếng bước chân nghe như gần ngay trước mắt, nhưng khi ba người xộc vào hoa viên bằng băng, lại không thấy dấu vết gì của sinh vật cả, ánh đuốc xé toang một mảng tối, chỉ thấy những cây băng đan chéo, ngoài ra đâu còn gì khác?
Những hàng cây bằng băng chia cắt ba người, chỉ thấy ba ngọn đuốc chập chờn giữa bóng tối mênh mông. Có điều tiếng bước chân bí ẩn kia vẫn vang lên, nghe như ở ngay bên tai nhưng mọi nơi mà ánh đuốc chiếu đến, lại chỉ có những tảng băng im lìm.
Nhị Rỗ và Vương Uy đứng cách nhau vài gốc cây lớn, khoảng cách giữa đôi bên chừng hơn chục mét. Cả hai đứng dưới gốc cây băng, lắng tai nghe ngóng động tĩnh, thấy bước chân hình như vang lên ở ngay dưới gốc cây, nhưng Nhị Rỗ soi đuốc xuống nhìn lại chỉ thấy mặt băng dày cộp và gốc cây băng cắm sâu xuống mặt băng, chẳng hề có gì khác.
Nhị Rỗ vốn là kẻ táo bạo, mười mấy năm đánh trận giết không biết bao nhiêu người mà kể, đừng nói gì đến quỷ, ngay cả thần tiên gã cũng chẳng coi vào đâu, vậy mà bây giờ cũng thấy nơm nớp. Nghe tiếng bước chân rầm rập cứ dội vào tai, Nhị Rỗ vã cả mồ hôi trán, những giọt mồ hôi to như hạt đậu, vừa nhỏ xuống đất đã đóng thành băng, lòng gã càng thêm kinh hãi. Vương Uy cũng căng thẳng chẳng kém, bên trái anh là Nhị Rỗ, bên phải là Dương Hoài Ngọc, ba người đứng cách nhau không xa lắm, tiếng bước chân hình như ở ngay trước mặt, nhưng anh tìm mãi cũng không thấy được là do thứ gì phát ra.
Vương Uy soi đuốc vào mấy cái cây quanh đấy, nhưng không thấy bất cứ thứ gì. Anh chợt nhớ lại dạo ở Xuyên Trung, từng nghe được chuyện “ma hành quân” lưu truyền trong dân chúng. Hồi ấy đơn vị anh đóng quân ở một làng, đó là giai đoạn hỗn quan hỗn quân, quân phiệt đấu đá lẫn nhau, rất nhiều thanh niên trai tráng trong làng đều bị bắt vào lính, không quá ba tháng đã trở thành bia đỡ đạn.
Trước đấy ít lâu, một trận đánh ác liệt vừa diễn ra ở thung lũng đối diện với làng, nửa thung lũng bị đạn pháo tàn phá. Trận ấy là quân chủ lực của Lưu Tương đánh nhau với quân tinh nhuệ của Dương Sâm, quân số cả hai bên đều rất đông, nói ra cũng thật kỳ lạ, trong trận đó, cả hai bên gần như đều bị tiêu diệt hoàn quân, chẳng còn mấy người sống sót.
Hồi ấy Vương Uy chỉ là một đại đội phó trong một đơn vị tinh nhuệ dưới cờ của Lưu Văn Huy mà thôi, cả đơn vị anh được cử đến chiến trường để điều tra nguyên nhân toàn quân bị tiêu diệt, nhưng điều tra mãi mà vẫn không tìm ra nguyên nhân.
Ngôi làng mà họ đóng quân không còn tráng đinh, chỉ có ông già và bà lão. Lúc đó đang độ gió thu thổi rát, người già trong làng đều phải chuẩn bị củi ùa đông, ra khỏi làng phải băng qua mấy ngọn núi, qua cả thung lũng nơi diễn ra trận đánh. Nghe nói có mấy ông già kết bạn với nhau, lúc gùi củi đi ngang qua thung lũng ấy, còn nghe thấy tiếng súng nổ đì đùng cùng tiếng lính chạy rầm rập bên trong, hệt như đang đánh nhau. Khi mấy ông già về ngang qua đó thì trời đã tối, thình lình nghe thấy tiếng súng và tiếng quân lính chạy, họ sợ đến nỗi ngồi phệt xuống đất, vỡ cả mật.
Hôm sau, đại đội của Vương Uy vào thung lũng, gặp ngay mấy ông già sợ quá đâm ra ngớ ngẩn kia, có một ông lão vẫn còn chút tỉnh táo, bèn kể lại mọi chuyện, khiến đám lính kỳ cựu dạn dày lửa đạn nghe mà toát mồ hôi lạnh. Ông ta kể rằng hiện tượng đó gọi là “ma hành quân”, thung lũng đó thời xưa gọi là thung lũng ma. Nghe người xưa kể lại, vào thời Tam Quốc, nước Ngụy đánh nhau với nước Thục, năm vạn người ngựa quân Thục bị quân Ngụy bao vây tiêu diệt trong thung lũng, không ai sống sót, từ đấy về sau hễ đêm đêm đi qua thung lũng này luôn nghe thấy tiếng người ngựa chạy rầm rập.
Chuyện hai cánh quân đánh nhau đến nỗi chết sạch không còn một mống vốn rất quái gở, quá nửa là có liên quan đến chuyện “ma hành quân” trong thung lũng này. Đám binh lính năm xưa vùi xác trong thung lũng, chết rồi vẫn ở lại đấy, đêm đêm kêu gào chém giết. Trước đây có người nghe thấy “ma hành quân”, phần lớn là nghe thấy tiếng người gào thét bằng giọng Ba Thục cùng tiếng gươm đao chan chát, ngựa hí vang trời, nhưng sau trận đánh lần ấy tiếng súng đã át cả tiếng gươm đao, quả nhiên thung lũng lại có thêm ma mới.
Đại đội trưởng của Vương Uy là người thô lỗ, đời nào chịu tin những chuyện quỷ thần của ông lão, ngay đêm hôm ấy lệnh cho lính hạ trại nơi đầu núi, đồng thời giữ mấy ông già lại trong doanh trại. Anh ta huênh hoang rằng, nếu không nghe thấy tiếng “ma hành quân” sẽ bắn họ tại trận.