Mắt âm dương

Chương 19 phần 2


Bạn đang đọc Mắt âm dương – Chương 19 phần 2

Vương Uy cố gắng trấn tĩnh, thầm nhủ: thứ đó lửng lơ bất định, ở đây lại không như trên mặt đất, hễ sơ sẩy là có thể rơi từ trên ấy trăm mét xuống, chết không kịp ngáp. Rõ ràng thứ đó đang dụ anh đuổi theo để anh rơi xuống mà chết. Nghĩ vậy, Vương Uy lại rủa thầm, không biết đó là giống gì mà lại giảo hoạt đến vậy.
Vương Uy hiểu ra vấn đề, bèn mặc kệ thứ đó, tiếp tục thận trọng leo lên. Tiếng thở của thứ đó vẫn lẵng nhẵng bám theo anh, không gần không xa, hệt như u hồn, nhưng anh không làm sao xác định được vị trí cụ thể của nó.
Vương Uy nơm nớp lo sợ, theo anh đoán, thứ đó đến tám phần là ma. Hàng trăm nghìn năm trước, khi kiến tạo nên pho tượng khổng lồ bằng đất này chắc chắn đã có không ít người phải chết, hẳn trên pho tượng này vẫn còn đầy những oan hồn lẩn khuất.
Vương Uy đang leo chợt thấy trước mặt thấp thoáng một tia sáng, ánh sáng le lói giữa màn sương mù dày đặc, vô cùng hư ảo. Anh mừng rỡ cố leo lên thật nhanh về phía ánh sáng, thầm nhủ: trước hết phải hạ gục người cầm đèn. Nghĩ vậy, anh bèn thắp đuốc lên, bất chấp sự rình rập của gương mặt quái gở ẩn nấp trong bóng tối.
Mải tập trung mọi chú ý vào tia sáng le lói sau màn sương mù dày đặc và bóng tối mịt mù, anh chẳng còn bụng dạ nào để ý đến tiếng thở vẫn bám theo mình như hình với bóng nữa.
Leo được một quãng bỗng Vương Uy nghe thấy trên đầu vang lên tiếng thở, tiếng thở này rất nặng nề, khác hẳn với tiếng thở nhẹ sau lưng anh.
Vương Uy bực bội, dần sinh ra sát ý, thầm nhủ nếu không giết bớt vài mống để uy hiếp đối thủ thì những thứ như hồn ma bóng quế kia cứ tụ lại mỗi lúc một nhiều, phiền toái không để đâu cho hết. Dù chúng đều là ma, nhưng mặt mũi lại rất sống động, phải cho chúng nát mặt ra rồi tính sau.
Vương Uy đã quyết là làm, anh rón rén tiến tới, dồn sức mạnh lên đầu ngón tay, Đoạn Môn chỉ gia truyền của anh có thể bóp nát cả gạch đá, một ngón tay điểm ra, sắc bén không thua gì dao kiếm, chỉ cần điểm vào chỗ hiểm thì cầm chắc mười phần chết tám. Anh nhắm trúng vị trí của quái vật đang ở trên đầu, ngón tay điểm mạnh, nó vội né đi nhưng không kịp, khi ngón tay anh sắp điểm trúng hai mắt nó, nó bỗng la lên:
-Thưa chỉ huy, là tôi…
Vương Uy giật mình, vội thu lực lại đồng thời xoay người thật nhanh, ngón tay điểm trúng thân cây, lút vào gần một nửa. Thình lình phát hiện ra thứ đang thở hồng hộc trong bóng tối kia lại chính là Nhị Rỗ, anh bất giác cau mày mắng thầm: sao gã này thoắt cái đã leo cao thế, suýt thì lỡ tay giết nhầm rồi.
Nhị Rỗ nói nhỏ:
-Thưa chỉ huy, tôi vừa bò lên xem xét, ánh đèn trên kia rất có vấn đề.
Vương Uy ngẩn ra hỏi:
-Có chuyện gì?
Nhị Rỗ căng thẳng đáp:
-Tôi thấy cây đèn kia hình như không có ai cầm cả mà cứ treo lơ lửng trên không, cạnh đấy cũng không thấy người. Hơn nữa cây đèn này rất kỳ quái, thân đèn đầy những gỉ đồng, hình dạng như một bức tượng Phật, trên bụng khoét một cái lỗ, bên trong đặt bấc và dầu. Vương Uy nghe nói cũng cảm thấy lạ lùng, bèn hỏi:
-Vậy là cái đèn đồng ấy bay lơ lửng trên không à?
Nhị Rỗ hạ giọng:
-Rất có thể nó bay lơ lửng trên không đấy, mẹ kiếp, nơi này đúng là quái gở.
Hai người đang nghĩ ngợi, chợt từ phía trên thốc xuống một luồng gió độc, cả hai vội quay người né. Vương Uy không tránh kịp, thấy luồng gió độc xộc thẳng đến đỉnh đầu, liền hốt hoảng sử dụng Đoạn Môn chỉ, ngón tay chọc thẳng vào mặt vật kia. Nào ngờ Đoạn Môn chỉ có thể bóp nát cả gạch đá của anh điểm vào mặt mà thứ đó chẳng hề có phản ứng gì, như đụng vào thép cứng vậy. Ngay sau đó, chẳng để anh kịp thu tay lại, Vương Uy đột nhiên bị một đòn rất nặng vào lưng, cả người văng ra xa mấy mét, đập vào một cành cây, xương cốt toàn thân như vỡ vụn, đầu óc choáng váng.
Người anh vừa bắn tung lên, ngọn gió độc kia lại ập tới. Vương Uy hoảng hồn, tự thấy mình không phải là đối thủ của nó, liền vội vàng ôm thân cây tụt xuống. Anh tụt xuống chừng mươi mét, ngọn gió độc kia mới tạm ngưng, thứ quái đản trong bóng tối ấy cũng biến đi đâu không biết.
Nhị Rỗ cũng tụt xuống theo Vương Uy:
-Chỉ huy không việc gì chứ?
Vương Uy đáp không sao nhưng trong lòng lại ớn lạnh, thứ kia đến không tăm đi không tích, chẳng biết là thứ gì, bị nó theo dõi quả là phiền phức. Bây giờ đã khẳng định được ngọn đèn trên kia không phải là do người cầm, vậy thì không sợ bị đối phương bắn lén nữa, phải đốt đuốc lên trước rồi nói.
Vương Uy rút ống mồi lửa ra châm đuốc ình và Nhị Rỗ, ánh đuốc vừa sáng lên, anh liền trông thấy trên một chạc cây gần đấy có một chiếc bóng lờ mờ ẩn nấp trong làn sương mù. Vương Uy nổi nóng liền rút súng ra bắn, thấy Vương Uy bắn, Nhị Rỗ cũng bắn quét một lượt.
Chiếc bóng mờ kia chỉ nhoáng lên một cái rồi biến mất, đạn của hai người bắn cả vào khoảng không. Nhị Rỗ chửi thề:
-Mẹ kiếp, rốt cuộc là thứ gì mà đến đạn cũng không sợ? Ông đây bắn súng không tồi, gần như vậy, ý nào lại bắn hụt?

Vương Uy cũng lấy làm lạ, Đoạn Môn chỉ của anh điểm ra, chỉ cảm thấy mặt nó rất cứng, chạm vào lạnh buốt, thật kỳ dị!
Dương Hoài Ngọc rớt lại sau cùng, thấy ánh đuốc của Vương Uy và Nhị Rỗ, bèn bò đến đó. Nghe hai người thuật lại những chuyện gặp phải, cô vô cùng kinh hãi. Thứ đó vẫn nấp sau màn sương mù lén lút theo dõi họ, lại có sức mạnh phi thường, không sợ dao súng, quả là một chuyện vô cùng phiền phức.
Hiện giờ trong ba người, Vương Uy dựa vào cách hành xử quyết đoán và bình tĩnh đã tạo dựng được uy tín ình, Nhị Rỗ xưa nay vẫn nghe lời Vương Uy, chỉ đâu đánh đó còn Dương Hoài Ngọc từ lúc gặp nạn trên chiến thuyền cổ cũng bớt dần địch ý với anh. Anh trầm ngâm giây lát rồi nói với hai người:
-Quá vật trong bóng tối tuy rất đáng sợ, nhưng hiện giờ chúng ta chưa có cách nào trị được nó, huống hồ phía trên cây này lại có một ngọn đèn kỳ quái, nghe nói hình dạng nó giống như tượng Phật, xung quanh đầy gỉ đồng, hơn nữa còn không có người cầm, cứ tự động di chuyển phía trên bức tượng, thật lạ lùng hết sức.
Dương Hoài Ngọc nghe kể vô cùng kinh ngạc,vội hỏi phải làm thế nào.
Vương Uy nói:
-Cứ lên xem sao.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều không có ý kiến gì, ba người cầm đuốc tiếp tục leo lên. Vương Uy dẫn đầu, leo lên thêm mấy chục mét nữa mà chẳng thấy chiếc đèn đồng Nhị Rỗ nói đâu cả.
Nhị Rỗ lại soi đuốc tìm trong phạm vi mấy chục mét quanh đấy nhưng vẫn không tìm thấy tăm hơi cái đèn đâu hết. Dương Hoài Ngọc ngờ vực hỏi:
-Anh thấy ngọn đèn đó thật đấy chứ?
Nhị Rỗ đang sốt ruột, nghe Dương Hoài Ngọc hỏi, liền cáu nhặng lên:
-Ông đây không mù, cái đèn to như vậy mà không thấy à? Mẹ kiếp, đồ tây rởm óc bã đậu, có vậy mà cũng nghi ngờ!
Dương Hoài Ngọc nghe nói liền nổi khùng, lập tức chĩa súng bắn Nhị Rỗ. Nhị Rỗ lăn lộn chiến trường mười mấy năm nay, giết không biết bao nhiêu người, bản lĩnh ứng phó với nguy hiểm cũng chẳng phải vừa, liền khom lưng một cái, từ trên cành đu xuống, lẩn vào đám lá nhưng Dương Hoài Ngọc vẫn đuổi riết không tha.
Vương Uy để mặc hai người, tiếp tục leo lên thêm mười mấy mét nữa, tiếc rằng ánh sáng có thể xua tan bóng tối nhưng không xua được sương mù, tầm nhìn trong sương mù rất hạn chế, nhất định ánh sáng của cây đèn kia yếu hơn ánh đuốc, phạm vi chiếu sáng hẹp, hơn nữa còn di động trong đám lá nên khó mà thấy được. Vừa rồi trong lúc họ đụng độ với thứ ẩn náu trong sương mù kia, rất có thể ngọn đèn đã di chuyển đến một chỗ khác.
Vương Uy đang quan sát tình hình xung quanh, bỗng nghe thấy tiếng hét thất thanh trong đám lá, tiếng thét thê thảm vô cùng, chính là giọng Nhị Rỗ. Anh hoảng hốt tụt xuống, tay xách súng, thò đầu vào đám lá nơi Nhị Rỗ đang ẩn náu.
Vương Uy chui vào, vừa ngẩng lên liền trông thấy một bóng đen khổng lồ xẹt qua, Dương Hoài Ngọc bị treo lủng lẳng trên chạc cây, hai tay đầy máu, còn Nhị Rỗ thì không biết biến đâu mất.
Vương Uy kinh hãi, vội ngoái đầu nhìn quanh, chợt cảm thấy một cơn gió mạnh thốc đến từ phía sau, quay lại thì đã muộn. Anh vội co người, lật tay sử ra Đoạn Môn chỉ, liền quét phải một vật gì đó. Ngay sau đó bên tai anh chợt vang lên tiếng gầm như sấm động, tưởng chừng xé tan màng nhĩ, khiến anh ngã lộn nhào, đột nhiên, thắt lưng anh bị tóm lấy, anh vội nương theo thế ngã mà vùng ra. Vương Uy lăn vào đám lá, lập tức đưa tay sờ hông, thấy tay đầy máu, con quái vật kia thật dễ sợ, vừa đụng vào là móc ngay được một mảng thịt.
Vương Uy rất lo cho sự an toàn của Nhị Rỗ, bèn bất chấp tất cả, vạch lá nhìn vào, liền thấy ngay một khuôn mặt áp tới, cách mặt anh chưa đến một thước. Toàn thân anh cứng đơ, mồ hôi lạnh toát đầm đìa, chỉ thấy bộ mặt kia đầy sẹo lồi, thoạt nhìn giống hệt tượng Di Lặc trong các đền chùa. Đôi mắt nó to cồ cộ như hai quả chuông đồng, con người và hàng mi đều đỏ độc một màu máu, như thế có một ngọn lửa đang phừng phừng cháy trong đó.
Vương Uy chưa bao giờ thấy một bộ mặt đáng sợ đến thế, nỗi kinh hoàng tận đáy lòng ào ạt tràn ra khắp người. Trong tay anh có súng, nhưng bị gương mặt kia áp sát, anh đã mất hết dũng khí giương súng lên. Vương Uy và gương mặt đó trừng mắt nhìn nhau hồi lâu, đột nhiên nó chớp mắt, rống lên, Vương Uy đang đứng sát ngay gần nó, tiếng rống này chẳng khác nào tiếng sấm giữa trời quang, khiến anh sợ đến nỗi tuột tay đánh rơi cả đuốc, phải giơ hai tay bịt chặt lấy tai.
Không còn đuốc, trước mắt Vương Uy lại tối sầm. Trong bóng tối, cành lá không ngừng xào xạc, Vương Uy bịt tai, ngồi xổm trên chạc cây, không thể nào đứng lên nổi. Một lúc lâu sau, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc thắp đuốc đi tới, anh mới dần dần trấn tĩnh, còn thứ ma quái kia chẳng biết đã biến mất từ bao giờ.
Lưng Nhị Rỗ bị xé toạc một mảng, vết thương không sâu lắm, vừa rồi gã kêu thảm thiết là vì bị thứ ma quái kia tóm vào lưng, cứ ngỡ rằng nó sắp ăn thịt mình tớ nơi nên mới thét lên như thế. Hai tay Dương Hoài Ngọc đều bị thương, một tay mất hẳn một miếng thịt, máu vẫn chưa cầm, ống tay áo còn nhỏ máu tong tỏng.
Giọng run run, Nhị Rỗ hỏi Vương Uy:
-Chỉ huy có thấy thứ ma quái ấy không?
Vương Uy cố trấn tĩnh, chậm rãi đáp:
-Tôi thấy, tôi thấy một bộ mặt Phật…
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều kinh ngạc, té ra nó đúng là thứ ở trên bức tường thật, bức tượng này cao đến mấy trăm mét, vậy mà nó vẫn bám theo, thật sự không đơn giản.

Vương Uy nói:
– Hai người còn thấy gì nữa không? Từ đầu đến giờ tôi chỉ thấy mỗi cái mặt của nó thôi, thật kỳ dị.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cùng lắc đầu, con quái vật kia đến nhanh như gió đi nhanh như điện, họ chỉ nhác thấy một bóng đen xông tới, còn chưa kịp nổ súng, đã bị xô ngã.
Vương Uy nói:
-Từ nhỏ tôi đã học tập kiến thức lăn lội giang hồ, lớn lên đi học trường Tây, mẹ kiếp không thể nói là thông kim bác cổ, nhưng xấu tốt gì cũng có chút kiến thức, vậy mà nghĩ mãi không ra con mặt có bộ mặt Phật này là thứ gì?
Nhị Rỗ nói:
-Đừng nói có nghĩ ra hay không, chỉ huy xem, thứ đó cứ bám theo sau chúng ta nhưng chỉ làm bị thương mà không giết chúng ta, không kỳ lạ hay sao?
Vương Uy gật đầu. Thứ mai quái kia mỗi lần xuất hiện thể nào cũng làm bị thương bọn họ, như thể đùa dai vậy, nhưng lại không làm chết người, thật khiến người ta không sao hiểu nổi, ngồi nghỉ một lúc trên chạy cây rồi tiếp tục leo lên.
Có được bài học vừa rồi, học không dám phân tán ra nữa, vừa leo vừa quan sát động tĩnh, chỉ cần phát hiện có gì khác lạ là lập tức nổ súng. Tuy đạn không thể làm bị thương thứ đó nhưng vẫn có thể xua đuổi nó.
Lại leo thêm đến độ ấy trăm mét, cành lá trên bức tượng bắt đầu thưa dần, rồi trụi hẳn, căn cứ vào hoa văn trên thân tượng, họ phán đoán rằng đã leo đến phần ngực của bức tượng.
Dọc đường leo lên, ba người luôn hết sức thận trọng, chỉ sợ gương mặt Phật trong sương mù kia lại xông ra. Quái vật ấy thật là khủng khiếp, chẳng thể làm gì được nó. Có điều lần này họ leo suốt mấy trăm mét, không thấy con quái vật kia đâu cả, như thể nó đã biến mất vậy.
Từ ngực bức tượng đất trở lên chỉ có mấu để bám chân vào, không còn cành chân chạc cây nữa nên rất khó leo, hễ không cẩn thận, rất dễ bị rơi xuống. Từ trên độ cao này rơi xuống chắc chắn sẽ thịt nát sương tan nên họ phải hết sức cẩn thận.
Vương Uy bị thương tương đối nặng, dần dần anh bị tụt lại phía sau Dương Hoài Ngọc. Lần này, suốt dọc đường không thấy thứ ẩn nấp trong sương mù kia nữa nên Dương Hoài Ngọc dần dà leo nhanh hơn, bỏ Vương Uy và Nhị Rỗ lại phía sau cả chục mét.
Vương Uy và Nhị Rỗ leo rất vất vả, bỗng nghe thấy Dương Hoài Ngọc ở phía trên gọi to:
-Hai anh lên đây nhanh lên nào, hình như tôi phát hiện thấy thứ này kỳ lạ lắm.
Hai người leo lên đến nơi, thấy Dương Hoài Ngọc đang bám vào ngực pho tượng, ngẩn người ra. Cả hai vội đến gần xem xét, thì ra Dương Hoài Ngọc đang quan sát những nét vạch dài hai bên ngực tượng, thấy Vương Uy và Nhị Rỗ leo lên, cô bèn chỉ cho họ xem:
-Những nét vạch này hình như là chữ viết, các anh có nhận ra không?
Vương Uy nhìn đến hoa cả mắt, những vạch dài kia ngoằng ngoèo nghiêng ngả, nào có giống chữ viết giống một bức bích hoạ được phóng to thì đúng hơn, nhưng bức hoạ lớn như vậy, bọn họ không sao thấy được toàn cảnh nên chẳng thể hiểu rõ nổi.
Nhị Rỗ rất hứng thú với những nét vạch ấy, gã leo lên leo xuống xem xét hồi lầu rồi khẳng định với Vương Uy và Dương Hoài Ngọc.
-Đúng là chữ, hơn nữa còn là chữ Tạng.
Vương Uy trợn mắt nhìn Nhị Rỗ, nói:
-Anh định lừa ai đấy? Chúng ta đánh nhau mười mấy năm ở vùng Xuyên Trung, chẳng nhẽ chưa thấy chữ Tạng?
Nhị Rỗ vội xua tay:
-Đây có lẽ là loại chữ Tạng cổ xưa nhất. Nói chung chữ Tạng có thể chia làm ba loại, là Tạng, Khang và An Đa, tuỳ theo từng địa phương. Vùng Tạng Xuyên Trung thuộc khu vực sử dụng loại chữ Khang, khác xa chữ Tạng ở các địa phương khác. Không những vây, chữ Tạng từ thời cổ đại đến nay đã trải qua ba lần quy chuẩn và cải cách, gọi là ba đợt chỉnh lý toàn diện… Đợt thứ nhất là vào khoảng giữa thời kỳ Trì Tùng Đức Tán, thời đó còn biên soạn ra một quyển từ điển, gọi là Phạm Tạng từ điển, chữ Tạng mô phạm trong quyển từ điển này khác hẳn chữ Tạng thời kỳ đầu do Thôn Mẽ Tang Bố Trát, người xếp thứ tư trong số bảy đại hiền giả đặt ra; sau đó Thổ Phồn Tán Phổ Trì Tổ Đức Tán nghiên cứu Tạng văn, lệnh cho các dịch sư tăng nhân nổi tiếng của hai nước tiến hành chỉnh lý lần thứ hai; lần cuối cùng là cách đây hơn một ngàn năm, đại dịch sư Nhân Thanh Tang Bố của Thổ Phồn, con trai A Lý Cổ Cách vương Ý Hy Ốc, cháu năm đời của Đạt Ma cuối thời Tán Phổ cầm đầu những dịch sử nổi tiếng Thiên Trúc, mất đến chín mươi hai năm mưới chỉnh lý xong. Qua ba lần chỉnh lý này, chữ Tạng đã có nhiều thay đổi lớn, dù là phát âm hay chữ viết đều khác xưa rất nhiều. Chữ Tạng trên tượng đất này xem ra giống với chữ Tạng thời kỳ đầu do đại sư Thôn Mẽ Tang Bố Trát đặt ra.

Vương Uy nuốt nước bọt, nói:
-Chữ Tạng thời kỳ đầu? Không thần bí đến thế chứ?
Nhị Rỗ vê vê bộ râu dê, nói:
-Hiện giờ tôi mới chỉ là phán đoán thôi, hai người chờ tôi ở đây, để tôi xem hết những dòng chữ này rồi nói.
Chữ Tạng đọc từ phải sang trái, Nhị Rỗ buộc bó đuốc vào cánh tay, bảo Vương Uy đưa cho gã cây bút chì và vài trang giấy, rồi leo từ bên phải sang. Đoạn văn tự này phân thành mấy hàng, chạy dài suốt mấy chục mét ở hai bên ngực pho tượng. Nhị Rỗ leo đi leo lại mấy lần, nhất nhất chép lại những dòng chữ kia vào giấy, vất vả hồi lâu mới chép xong
Ba người tìm thấy một tảng đá lớn nhô ra gần ngực bức tượng, thừa sức để cả ba ngồi. Nhị Rỗ đọc lại những trang giấy ghi đầy chữ, vê rụng mấy sợi râu dê rồi mới nói:
-Những dòng chữ Tạng này cho biết, bức tượng này không phải là tượng Phật mà chỉ là tượng một người được tất cả dân Tạng triều bái và cung phụng.
Vương Uy hỏi:
-Nhiều chữ vậy mà chỉ một câu ấy thôi à?
Nhị Rỗ gật đầu, nói:
-Chỉ huy không tin ai thì được, nhưng đối với Nhị Rỗ này, anh phải tin trăm phần trăm.
Vương Uy xua tay, không tiếp lời Nhị Rỗ, chỉ hỏi:
-Anh có đoán được đây là tượng người nào không? Ai lại dựng cho người đó bức tượng lớn thế này?
Nhị Rỗ lắc đầu:
-Ở đất Tạng người có ảnh hưởng lớn nhất là Tùng Tán Can Bố[1] của vương triều Thổ Phồn, về sau chính giáo vùng Tạng hợp nhất, Phật sống trở thành lãnh tụ tinh thần của người Tạng, nhưng dù là Tán Phổ hay là Phật sống, cũng chưa từng nghe nói có kẻ nào dựng lên bức tượng đất khổng lồ thế này cho họ.
[1] Tùng Tán Can Bố hay Songzain Gambo (617-650) là người sáng lập vương triều Thổ Phồn (Turbo) vùng Tây Tạng, Thanh Hải, tồn tại từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 9 – ND
Vương Uy gật đầu, ở Xuyên Trung anh cũng đã nghe nói đế những nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng ở vùng Tạng, dân Tạng thường làm ca dao ca ngợi những nhân vật này, anh nghe nhiều nên cũng biết một ít. Còn Nhị Rỗ từ khi vào vùng Tạng Xuyên Tây rất hứng thú với văn hoá Tạng, thường đến đền chùa tìm các vị lạt ma, Phật sống để luận bàn kinh Phật, khiến những kẻ hồi đó chỉ biết mải mê với rượu chè, cờ bạc, trai gái ra sức cười chê.
Nhị Rỗ nói:
-Chúng ta leo lên xem, biết đâu trên kia còn có chữ nữa, có thể tìm thêm được nhiều đầu mối khác.
Ba người lại tiếp tục leo lên, leo thêm một đoạn nữa thì bắt đầu trông thấy phần cổ bức tượng ở xa xa. Bức tượng đất này rất lạ, chân và thân rất dài, nhưng cổ lại rất ngắn. lên đến đây thì sương mù đã tan, tầm nhìn rộng ra nhiều. Ba người leo tới vai bức tượng thì dừng lại tạm nghỉ một lúc, rồi tiếp tục leo lên cổ tượng, Vương Uy nói với Nhị Rỗ:
-Chắc lúc nữa thôi là đầu tượng.
Nhị Rỗ gật đầu. Bỗng trong bóng tối vang lên tiếng gào, ba người sợ tái cả mặt, khỏi nói cũng biết, thứ lẩn khuất trong sương mù kia lại sắp xuất hiện. Có điều lúc này họ đang ở trên cổ bức tượng, chỗ này trơn vô cùng, hơn nữa còn rất cheo leo, bất cứ lúc nào cũng có thể từ trên cao hơn nghìn mét rơi xuống, sao chống cự nổi thứ như thần long thấy đầu không thấy đuôi kia.
Ba người lăm lăm súng trong tay, chăm chăm nhìn làn sương mù phía sau, chỉ thấy đám sương mù mù gần đó đang tụ lại dày đặc, cuồn cuộn xao động. Cả ba người không kịp nghĩ nhiều, lập tức bắn loạn xạ vào màn sương ấy. Nhưng lần này thứ trong sương mù kia có vẻ rất lạ, tiếng súng không làm nó bỏ chạy, trái lại đám sương mù càng cuồn cuộn xao động nhiều hơn.
Nhị Rỗ bắn hết băng đạn, vội lắp băng khác, Vương Uy thấy quái vật kia quẫy mạnh sau lớp sương mù, bèn đưa mắt nhìn quanh. Hình thế nơi này quá hiểm yếu, không có chỗ nào vững chắc để dựa vào, chỉ cần thứ kia xông tới, ba người bọn họ không còn cách nào né tránh. Phần cổ này còn cái đầu ít ra là hai mươi mấy mét, dưới ánh đuốc lờ mờ, chỉ thấy bên trên có một khối đen lù lù, Vương Uy đoán đó là cái đầu. Nếu muốn leo lên cần phải mất một lúc nữa, xem tình thế này, đành tụt xuống vai tượng trước đã rồi tính.
Vương Uy liền gọi hai người kia cùng tụt xuống, xem ra không thể trông vào súng đạn được nữa rồi.
Nhị Rỗ lên đạn, không kìm được lại bắn quét thêm một loạt nữa. Gã không bắn còn đỡ, vừa nổ súng, đám sương mù kia bỗng nhiên tản ra. Một bóng đen nhanh như điên xô tới, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đã tụt xuống dưới, ngước lên nhìn thấy bóng đen kia xô Nhị Rỗ rơi xuống.
Trong tiếng thét của Vương Uy, Nhị Rỗ như diều đứt dây rơi vào đám sương mù, bên dưới vang lên mấy tiếng bịch bịch, chắc hẳn gã đã va phải vật gì đó. Tình cảm giữa Vương Uy và Nhị Rỗ không thể dùng lời để diễn tả được, thấy Nhị Rỗ gặp nguy, mặt Vương Uy tái nhợt, mắt đỏ ngầu lên, anh giật khẩu súng máy trong tay Dương Hoài Ngọc, bắn xối xả vào bóng đen kia.
Tốc độ của bóng đen kia rất nhanh, nhanh đến không thể tưởng tượng nổi, nó xô Nhị Rỗ rới xuống rồi thoắt cái đã lẩn vào màn sương mù dày đặc, chỉ còn thấy bóng đen lờ mờ. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc căng mắt nhìn nhưng không sao trông rõ nổi hình dạng thứ đó. Sau khi chui vào đám sương mù dày đặc, nó không xuất hiện nữa, không lâu sau, sương mù cũng từ từ loãng ra.
Vương Uy vô cùng lo lắng, anh đi trên vai tượng chừng hơn trăm mét, rồi từ từ tụt xuống, anh không thể nhìn Nhị Rỗ chết tan xác được, nếu thế thì đâu còn là anh em nữa. Lúc này Dương Hoài Ngọc không biết lấy đâu ra dũng khí, cô ra sức lôi Vương Uy lại, quyết không để anh leo xuống.
Vương Uy nổi điên gầm lên với cô, nhưng Dương Hoài Ngọc chẳng lấy thế làm điều, to tiếng mắng:

-Nhị Rỗ đã chết rồi, từ độ cao này rơi xuống thì tan xương nát thịt là cái chắc, anh tỉnh táo chút đi.
Vương Uy cố vùng ra khỏi tay Dương Hoài Ngọc, nhưng cô bất chấp tất cả cố giữ Vương Uy lại, không hề phòng bị. Đang lúc tức giận, Vương Uy giằng mạnh một cái, Dương Hoài Ngọc không đứng vững, liền đập người vào cổ bức tượng.
Vương Uy chẳng thèm nhìn cô, quay ngoắt đi, tụt xuống dưới. Dương Hoài Ngọc bị va đập mạnh, ê ẩm toàn thân, nhưng lần này cô không hề nổi nóng, chỉ bình tĩnh nhìn Vương Uy tụt xuống mười mấy mét rồi cũng theo xuống. Bức tượng cả ngàn năm tuổi này lên lên đã khó, tụt xuống càng khó hơn. Mắt con người ta ở trên đầu, khó mà trông thấy các mấu, các khe ở dưới, nhất là đang ở dưới lòng đất tối om, nếu không còn lửa đuốc thì xoè bàn tay cũng không thấy ngón, hơn nữa ánh đuốc cũng chỉ soi sáng được lờ mờ dưới chân. Từ trên cao trèo xuống thật vô cùng bất tiện.
Vương Uy từ từ tụt xuống theo hướng rơi nghiêng nghiêng của Nhị Rỗ, Dương Hoài Ngọc chỉ cách Vương Uy hơn chục mét, không nhanh không chậm bám theo. Vương Uy đang đau buồn khôn xiết, vừa tụt xuống vừa không kìm nổi tiếng thét bị thiết. Tiếng thét của anh vang lên trong không gian lặng tờ như chết dưới lòng đất này, nghe càng thêm thê thảm, giống như tiếng gầm của loài dã thú vậy.
Hai người tụt xuống chừng ba chục mét, bỗng Dương Hoài Ngọc ở trên gọi:
-Anh Uy, xem kìa…
Vương Uy dừng lại, nhìn theo tay Dương Hoài Ngọc chỉ, bỗng “ồ” lên một tiếng, chỉ thấy gần đấy hình như có một bệ đá nhô ra, cách Vương Uy chừng bảy, tám mét, anh chỉ thấy được một góc bệ trong sương mù mênh mông, hơn nữa còn hết sức mơ hồ.
Vương Uy chần chừ một thoáng, đoạn lại tụt xuống tiếp, nhìn bộ dạng, Dương Hoài Ngọc đoán anh sẽ tụt cuống tận khu rừng phía dưới, vội gọi:
-Anh nhìn kìa, chưa biết chừng anh Nhị vướng lại ở chỗ kia.
Vương Uy nghĩ cũng có thể, biết đâu Nhị Rỗ người hèn mạng lớn, Diêm vương không chịu nhận, bị vật gì đó móc lại, không chết thì sao? Anh kêu to:
-Đúng đấy, Nhị Rỗ chắc chắn chưa chết đâu, gã ấy tốt số như vậy, đi theo tôi mười mấy năm trời còn không chết, làm gì có chuyện dễ chết thế?
Nói rồi anh từ ngực bức tượng bò qua, vừa bò vừa cao giọng nói:
-Nhị Rỗ tốt số, không chết được đâu, tổ tiên anh ta nghiên cứu thuật phong thuỷ địa nhãn cả năm trăm năm, mộ tổ táng vào nơi đất phát, sao mà đứt nổi mạch phong thuỷ đời đời đơn truyền ấy chứ.
Anh vừa bò vừa nói lớn, lệ nóng trào ra khoé mắt, tí tách nhỏ xuống, người cũng từ từ nhích được đến chỗ đó.
Vương Uy rướn người lên lên tới bệ đá, vừa ngước mắt nhìn, bỗng giật nảy mình. Chỗ này không phải là bệ đá mà là một con đường quanh co, một đầu nối liền với thân bức tượng đất, đầu kia mất hút trong mênh mông sương mù.
Con đường này quanh co ngoằn ngoèo, rộng chừng ba bốn mét, đi trên đó, nếu không gặp phải những chỗ rất dốc, thì về cơ bản, hệt như đi đường trên mặt đất.
Vương Uy leo lên con đường kỳ lạ, nhớ đến Dương Hoài Ngọc còn ở phía trên, bèn cầm đuốc vẫy cô. Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy đột nhiên thay đổi thái độ, cũng vội leo đến.
Dương Hoài Ngọc leo đến chỗ nối giữa con đường với bức tượng đất, Vương Uy liền cúi xuống, kéo cô lên. Anh thấy đầu tóc Dương Hoài Ngọc rối bù, bộ dạng nhếch nhác, đều tại vừa rồi cô cố kéo anh lại không buông, trong khi anh ra sức phản ứng, mới xô xát thành ra như thế. Rất may, cô tây rởm này cũng là người tập võ, lại lớn lên trên biển, khoẻ mạnh hơn những người con khác khác, nếu không e rằng cũng không chịu đựng nổi.
Dương Hoài Ngọc leo lên con đường, liền kinh ngạc há hốc miệng ra. Đây đúng là một con đường rộng rãi, xe quân sự cũng có thể chạy được.
Thấy Dương Hoài Ngọc nghi hoặc nhìn mình, Vương Uy lắc đầu:
-Đành tiến tới xem sao đã, nơi này vô cùng quái dở, chuyện gì cũng có thể xảy ra hết.
Hai người đi trên con đường rộng thênh thang nhưng vẫn rất dè dặt thận trọng. Thảm trạng Nhị Rỗ rơi xuống vừa rồi họ vẫn chưa quên, hơn nữa bên đường không có lan can, mắt chỉ thấy sương mù trắng xoá và bóng tối mênh mông, hễ sơ ý là có thể rơi xuống khu rừng rận hơn nghìn mét dưới kia.
Đi được chừng một trăm mét, bỗng Dương Hoài Ngọc kêu lên:
-Anh Uy xem kìa, ở kia có ánh đèn…
Vương Uy cũng đã trông thấy trong sương mù có ánh đèn yếu ớt, chập chờn như lửa ma trơi. Tình cảnh này giống hệt lúc họ lên trên chân bức tượng trông thấy ngọn đèn đồng đó, Nhị Rỗ từng bảo ngọn đèn đó rất quái đản, không có người cầm đèn, nhưng vẫn có thể cứ từ từ di động.
Hai người rón rén tiến lại, Vương Uy lòng đầy nghi ngờ, thầm nhủ, phải tìm cho ra nguyên nhân ngọn đèn ma kia tự di động. Hai người từ từ đến gần ánh lửa le lói ấy, nhưng lại thấy quả thực nó chầm chậm đi xa dần. Cả hai trợn trừng mắt lên, bất luận ngọn đèn này tự di động hay có người xách trên tay, thì chỉ riêng việc nó xuất hiện giữa con đường lạ lùng này cũng hết sức đáng sợ rồi.
Con đường không quá dài, chỉ hơn một trăm mét, tận cùng là một bình đài thênh thang. Không thấy hết được chiều rộng và chiều dài của bình đài, nhưng rõ ràng ánh lửa đang ở ngay giữa bình đài. Hai người cầm súng đi về phía ánh lửa, gần đến nơi họ mới dám khẳng định đấy đích xác là một ngọn đèn.
Ngọn đèn phủ đầy gỉ đồng, lơ lửng trên không, to bằng đầu người, phía dưới đáy có tay cầm bằng đồng trông y như một cánh tay, lại rất dài, chìm khuất trong làn sương mù.
Cai đèn được điểu khiển bởi tay cầm bằng đồng, đang không ngừng di chuyển lên xuống, nhìn trong bóng tối tựa như ánh lửa ma trơi vậy. Vương Uy lần theo hướng tay cầm của chiếc đèn mà bước đén, tay cầm dài đến hơn mười mét, nhờ ngọn đuốc xua tan bóng tối, ra đến giữa bệ đá, Vương Uy mới thấy tận cùng của tay cầm là một cái giá bằng sắt, đặt ngang giữa bình đài.
Vương Uy đi vòng quanh cái giá sắt, không nén nổi kinh ngạc, một cái giá sắt to như thế này để làm gì nhỉ? Cái giá sắt này bám đầy gỉ, nằm rạp giữa bình đài, bề ngang bề dọc có đến mười mấy mét, cao bảy tám mét, kỳ lạ nhất là, trên lưng cái giá còn có đôi cánh sắt đang khép lại, nhìn như một con chim vậy.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.