Đọc truyện Mạc Vũ Thanh Thông – Chương 19: Ô Mông xà huyệt gặp duyên lạ
Cốc Trường Thanh đưa mắt ra cửa hang, mỉm cười :
– Đại sư, từ lúc Nhạc Long Phi trúng độc tháo thân, đến giờ cũng lâu rồi, tất nhiên hắn đã ngã rồi chứ?
Hồng Vân tôn giả gật đầu cười :
– Ta cam đoan với các vị là hiện giờ hắn đang nằm ở mé trái ngoài cửa hang này, quá chút nữa thì hết cứu.
Nói xong đứng lên cùng bọn Cốc Trường Thanh, Trử Dân Thông thủng thỉnh bước ra khỏi cửa cốc.
Nhưng khi đến phía ngoài Ô Mông xà cốc vẫn chẳng thấy bóng dáng Nhạc Long Phi đâu chỉ thấy trên một tảng đá vuông lớn có mấy chữ đối phương để lại như sau: “Ngày mười chín tháng ba tới, Bắc Thiên sơn Đan Tâm giáp họp mặt”.
Trử Dân Thông nhìn Hồng Vân tôn giả ngạc nhiên hỏi :
– Đại sư, hay là Nhạc Long Phi không bị trúng độc.
Hồng Vân tôn giả cau mày nói :
– Rõ ràng ta đã nhìn thấy Nhạc Long Phi dùng vô hình chân khí gạt rơi độc sa rồi vì không biết hãy còn nguy hiểm thu nội gia chân khí chạy trốn trên mặt lúc ấy đã hơi ửng đỏ nhất định là hắn đã ngửi phải Đào Hoa chướng khí rồi.
Cốc Trường Thanh lắc đầu cười :
– Đại sư, theo ý bần đạo thì Nhạc Long Phi tuyệt không có một chút gì đã bị trúng độc, hình như đã may mắn thoát khỏi thật.
Hồng Vân tôn giả lại hỏi :
– Sao đạo trưởng biết?
Cốc Trường Thanh trỏ mấy dòng trên đá rồi nói :
– Bần đạo căn cứ vào những nét chữ khắc rất ngay ngắn chân phương, nét nào cũng lõm sâu vào đá tới năm phân mà nói, đại sư thử nghĩ có người phủ tạng đã bị trúng độc mà công lực còn đến bực này không?
Hồng Vân tôn giả nghĩ một lúc rồi nói :
– Đạo trưởng nói có lý, nhưng vừa rồi rõ ràng mắt ta trông thấy mặt Nhạc Long Phi có dấu hiệu trúng độc hẳn hoi, việc này thật là khó hiểu.
Ta hãy tạm gác chuyện ba tên ưng khuyển Thanh đình đang nhìn nhau ngơ ngác kinh nghi, không nói đến vội, giờ đây xin nói về chuyện Nhạc Long Phi.
Sau khi Nhạc Long Phi đã thi triển cờ Mặc Vũ Phù Dung Nhật Nguyệt phan, là môn tuyệt học sư truyền, cuốn bay Cốc Trường Thanh vượt khỏi vòng vây rồi, vừa quanh ra khỏi sườn núi, chợt thấy ruột gan nôn nao khó chịu vô cùng.
Thì ra, một là vì Nhạc Long Phi vội thu Vô Tướng thần công tung mình nhảy vào Cốc Trường Thanh, đề khí quá nhanh, nên hít phải rất nhiều khí độc đang bay lởn vởn trên không.
Hai là trong lúc thi triển “Thu Thập Sơn Hà” lại dùng sức quá độ nên độc khí phát ra sớm như vậy.
Lúc mới đầu chàng chỉ thấy trong tạng phủ cảm giác là lạ, đầu óc mê man khó chịu, còn không biết vì mình không cẩn thận hít phải độc khí, nhưng vì nơi mình đứng chỉ cách bọn Hồng Vân tôn giả có một tảng đá, bèn ngồi dựa lưng vào đá lẳng lặng ngồi điều khí dưỡng thần, định xem xét tại sao mà trong mình lại biến chuyển lạ như thế.
Chàng còn chưa kịp xét rõ nguyên nhân đã nghe tự miệng bọn Hồng Vân tôn giả và Cốc Trường Thanh bàn tán với nhau, biết mình bị trúng Đào Hoa độc chưởng cực kỳ lợi hại rồi, đành thở dài một tiếng, nhắm mắt chờ chết.
Cũng trong lúc ấy, chợt tai nghe Cốc Trường Thanh đề nghị bày kế độc là từ từ làm hại Nhạc Long Phi để báo thù và dùng chàng để uy hiếp Chu Nhuận Ba.
Nhạc Long Phi đã bị vướng phải mối tình nhi nữ với Lãnh Băng Tâm và Vũ Văn Kỳ rồi vì biển tình nổi sóng, làm cho chàng uất ức không vui, đến nay thân lại vướng kỳ độc, nên đành cam tâm chịu chết, để giải trừ phiền não.
Nhưng khi nghe Cốc Trường Thanh bày mưu thâm độc, làm cho chàng không muốn chết nữa, nẩy ra ý muốn sống.
Chàng tuy trúng độc, nhưng vẫn cho là có hai cách để thoát chết được.
Cách thứ nhất là trong khi vừa rồi bị hãm giữa vòng vây có người dùng công phu Nghĩ Ngữ Truyền Âm chỉ điểm cho mình cái kế giết chim, thoát vây, vậy thời tất nhiên người ấy biết mình bị trúng độc mà chạy đến tiếp cứu.
Cách thứ hai là bên mình còn lọ thuốc Linh thạch tiên nhũ vạn tải không thanh đựng trong hộp sắt do Bào Cô Vân mở hộ Vũ Văn Kỳ bữa nọ. Lọ thánh dược hãn thế này chắc chắn có thể giải trừ được chất độc Đào sa trong phủ tạng.
Nhưng thứ thuốc này có công dụng làm cho người uống sáng mắt thanh tâm, đại bổ chân khí, đối với Vũ Văn Kỳ, chân khí hơi bị tiên thiên khuyết hãm thì thực ích lợi vô cùng nếu không gặp trường hợp bất đắc dĩ thì quyết không khi nào chàng chịu uống. Nhạc Long Phi hy vọng vào hai khả năng thoát hiểm đó, nên tâm thần không bị mê hoặc, yên lòng ngồi chờ vị cứu tinh đã bí mật giúp đỡ lúc nãy.
Việc trong thiên hạ, luôn xảy ra những sự ngoài ý liệu của con người, cứ theo đúng thì vị kỳ nhân đã hai lần bí mật chỉ dặn cho Nhạc Long Phi lẽ ra phải lộ mặt cứu chàng mới phải.
Nhưng trái lại, từ lúc chàng trúng độc đến giờ, không còn thấy tăm bóng người ấy đâu nữa.
Nhạc Long Phi đợi mãi không thấy người, cảm giác khó chịu càng lúc càng tăng, khiến cho chàng cơ hồ không sao chịu nổi.
Chàng lại nghĩ: “Nếu mình chết hoặc rơi vào tay bọn ưng khuyển thì lọ thuốc Linh thạch tiên nhũ vạn tải không thanh này cũng không còn, như vậy thì chẳng có ích lợi gì cho Vũ Văn Kỳ”.
Nghĩ đến đây bèn quyết thò tay vào bọc lấy lọ thuốc ra mở nút lọ rồi đưa lên miệng uống dần từng ngụm nhỏ.
Thứ thuốc Linh thạch tiên nhũ vạn tải không thanh này hương thơm ngào ngạt, nhưng Nhạc Long Phi uống đến quá nửa bình mà trong phủ tạng vẫn còn cảm giác khó chịu như cũ.
Nhạc Long Phi tức mình, cầm chiếc lọ ngọc dốc ngược lên, còn bao nhiêu uống hết.
Sau khi uống hết cả một lọ ngọc dịch quỳnh hương vào bụng, quả nhiên chàng thấy khí độc tan dần nhưng trong bách huyệt tứ chi cảm thấy hơi chướng lên.
Nhạc Long Phi biết ngay đó là hiện tượng do mình uống quá nhiều linh dược nên chân nguyên tràn đầy, nội lực tăng mạnh gây nên, nhưng phải lập tức tìm ngay một chỗ yên tĩnh vắng vẻ, điều khí hành công, khiến cho cái số chân lực mới tăng đó có thể thu phóng theo ý mình, mới không phụ cái diệu dụng của linh dược không thì trái lại, lại hại thêm.
Huống chi tai vừa nghe tiếng Cốc Trường Thanh giục Hồng Vân tôn giả đi tìm mình, nếu cứ ngồi đây thì làm sao khỏi bị bọn họ bắt gặp? Chàng vội vã viết mấy chữ lên vách đá để lại rồi ra khỏi Ô Mông xà cốc.
Ra khỏi cốc, chàng thấy tứ chi chướng lên, đau đớn nhức nhối không sao chịu nổi, chàng vừa thoáng thấy dưới chân núi về mé trái có một bụi cỏ um tùm, che lấp một cái cửa động tối om, bèn chẳng suy nghĩ gì nữa, vội băng mình nhảy xuống.
Nhưng thân hình vừa rơi xuống, mới biết là dại, cái động này quả thật không đáy, Nhạc Long Phi vừa định nhảy lên, nhưng tai lại nghe tiếng bọn Hồng Vân tôn giả ở trong Ô Mông xà cố đi ra, đành phải nghiến răng bám chặt lấy vách động thi triển ngón Du Long thuật nhảy xuống đáy động, chẳng đắn đo gì nữa.
Động sâu tới mười bốn mười lăm trượng, hệt như một cái giếng cổ nhưng xuống đến đáy động địa thế mở rộng thành ra một gian thạch thất rộng.
Trong thạch thất không biết ánh sáng từ đâu lọt vào, nên trông không đến nỗi tối tăm.
Nhưng cái trông thấy ở trong động cũng đủ làm cho Nhạc Long Phi hoảng hồn.
Thì ra, trong động ngoài ba cỗ hài cốt mặt mũi dữ tợn đáng sợ ra, lại còn có những con rắn độc lớn nhỏ đủ cả, hình sắc đủ màu đủ vẻ rải rác khắp trong động.
Đừng nói là trong động toàn rắn độc, lúc này dẫu đến vạc dầu chắn ngay trước mặt, Nhạc Long Phi cũng không còn thời giờ nghĩ đến vì nếu chàng không kíp hành công dẫn khí, đưa cái chân khí nội gia thốt nhiên tăng lên dồn tụ lại cho trở về nguyên vị, thì Bách huyệt vỡ tan, có thể chết tức khắc.
Vì thế nên Nhạc Long Phi còn nào kịp nghĩ đến việc thân mình đang lạc vào giữa đàn rắn độc, chàng chỉ vận dụng Vô Tướng thần công rồi lập tức quên hết mọi sự, điều hòa chân khí xuyên qua Cửu cung lôi phủ sang Thập nhị trùng lâu vào đến Sinh tử huyền quan, muốn thừa dịp đạt tới cảnh giới đả thông suốt hai mạch Nhâm, Đốc là một việc mà những người luyện võ rất khó mong hoàn thành được.
Tứ chi bách huyệt của chàng vốn đã chướng lên nhức nhối, lúc này vì phải tụ khí hành công nên càng phát chướng lên và đau đớn dữ dội.
Nhạc Long Phi không hề sợ hãi, chàng biết đó chỉ là hiện tượng tất nhiên phải có, bây giờ sự đau đớn càng kịch liệt bao nhiêu thì sau này thu hoạch càng rộng lớn bấy nhiêu.
Chướng! Đau!
Nhạc Long Phi đối với hai trạng thái khổ sở này chỉ có thể dùng một chữ “Nhẫn” mà đối phó.
Nhẫn! Nhẫn! Nhẫn! Đem thân ra mà chịu đựng hết thảy, coi hết thảy đều là ảo ảnh ma chưởng gạt bỏ mọi sự lo nghĩ, điều hòa nguyên khí lắng tĩnh thần trí mà chiếu vào bên trong.
Trên đời không còn gì cao hơn chữ Nhẫn! Không biết qua bao nhiêu lâu, Nhạc Long Phi mới do chữ Nhẫn mà thành công. Chướng dần dần tan, đau dần dần êm, một luồng chân khí nội gia uy thế rất mạnh tăng trong thân thể, hình như đang chảy tràn khắp nơi, rồi lại biến thành một luồng nhiệt ôn hòa, từ từ chảy trong mạch máu.
Mãi cho khi chướng và đau hết hẳn, khắp mình thư thái dễ chịu, Nhạc Long Phi mới khẽ hé mắt ra nhìn.
Chàng nhìn khắp mọi nơi rồi đột nhiên giật mình kinh sợ.
Chàng giật mình không phải vì ba cỗ hài cốt, cũng không phải vì trong động có nhiều rắn độc mà là vì chính cặp mắt của chàng. Thì ra mục lục của chàng đã tăng cường một cách kỳ dị, nhất nhất tất cả mọi thứ dù chỉ nhỏ bằng cái tơ cái tóc trong hang động trong bóng tối nhập nhoạng này chàng đều trông rõ.
Cái hiện tượng đó cố nhiên là nhờ sức Linh thạch tiên nhũ vạn tải không thanh. Mà đối với nhãn lực của Nhạc Long Phi có một công hiệu rất lớn, và vì mục lục tăng cường, chàng trông thấy tất cả sự thực.
Sự thực ấy là mấy trăm con rắn độc nằm rải rác trong động này không phải là rắn sống mà là toàn xác rắn đã lột. Chàng nhớ năm xưa Ngọc Diện Thần Ma La Hiểu Tinh định tâm hãm hại Thiệu Hàm Yên, mới bỏ nàng vào Ô Mông xà huyệt trái lại làm cho Thiệu Hàm Yên nhân họa đắc phúc, thuần phục đàn rắn, và tìm được cuốn kỳ thư trong hang rắn, rồi nhân đó mà luyện thành thần công tuyệt thế nổi danh Ô Mông Xà Nữ.
Căn cứ theo tình thế trước mắt, nơi mình đang ở là một gian thạch thất bên trong không biết bao là xác rắn, rất có thể là hang rắn mà Thiệu Hàm Yên đã ngộ nạn hồi xưa.
Nhạc Long Phi vừa nghĩ vừa thong thả đứng lên, nhưng dưới mắt chàng lại phát hiện sự lạ.
Ba cỗ xương người đều ngồi xếp bằng tròn, trên đầu mỗi người đều mọc ra một cái nấm lớn bằng đồng tiền, màu đỏ tía.
Nhạc Long Phi ngạc nhiên đến gần, chú ý nhìn kỹ, nhưng vẫn không hiểu cây nấm mọc trên đầu cỗ hài cốt thuộc loại cây gì?
Gian thạch thất là nơi Thiệu Hàm Yên tập luyện võ công năm trước, thời sao lại có ba bộ xương ngồi xếp bằng tròn ở đây? Và cửa ngõ căn động này không thấy sửa sang chi hết? Vậy ba bộ xương này là ai? Có phải họ bị Thiệu Hàm Yên nhốt vào đây, rồi đau đớn uất ức mà chết? Hay còn vì cớ gì khác nữa.
Nhạc Long Phi lúc này thân thể đã hết đau đớn, tinh thần mạnh mẽ lại lo bọn Hồng Vân tôn giả chưa đi khỏi Ô Mông xà cốc, bèn định bụng hãy tạm ở lại động ít lâu, vì thế chàng xem xét kỹ thi hài làm cách tiêu thời gian.
Ba cỗ thi hài chỉ còn trơ khung xương, rõ ràng là chết đã lâu, nhưng bên cạnh chỗ họ ngồi vẫn còn một ít áo chưa bị rách nát hết.
Nhạc Long Phi căn cứ vào mấy mảnh áo sót lại nghiên cứu kỹ càng và nhận ra ba người này thì có một Tăng, một Ni và một Đạo.
Ba vị xuất gia Tăng, Ni, Đạo sao lại cùng vào trong hang rắn này đối diện nhau mà chết?
Trong giới võ lâm gần đây không nghe thấy ai nói có ba vị phương ngoại kỳ nhân nào thốt nhiên mất tích cả.
Nhạc Long Phi nghĩ mãi, không sao giải được mối nghi ngờ. Chàng đâu có biết, trước kia khi Thiệu Hàm Yên bị La Hiểu Tinh đẩy xuống động này thì trong động đã có ba thi hài ngồi đó. Bộ võ lâm kỳ thư mà Thiệu Hàm Yên tìm được chính là ở giữa ba cỗ thi hài ấy.
Thiệu Hàm Yên vốn đã giỏi về dạy rắn, lại thêm bộ Linh Xà chân kinh bèn sáng lập ra phái võ học Ô Mông, liệt danh với bậc cao nhân đương thời.
Tuy nhiên, giữa năm Thiệu Hàm Yên tìm được bộ Linh Xà chân kinh thì ba bộ hài cốt này tuy đã tiêu hết máu thịt nhưng trên đỉnh đầu chưa mọc nấm màu đỏ và lớn bằng đồng tiền kia.
Nhạc Long Phi thấy trong động chỗ nào cũng có xác rắn, mùi tanh hôi khó chịu, bèn cho là mấy cây nấm đỏ này tất nhiên là do cái thấp khí, độc khí, tử khí ấp ủ lâu ngày mà sinh ra.
Chàng đã định hái thử một cây, đem về đưa cho Chu Bạch Mi hỏi xem ông có biết là loại gì không. Nhưng sau nghĩ lại đoán chắc thứ cây này phải độc lắm, nên rút cục chàng không dám động tới nữa.
Nhạc Long Phi đi đi lại lại trong động, nhìn xác rắn, thốt nhiên chàng thấy hứng thú.
Nhân vì đống xác rắn nằm chồng chất giữa ba cỗ thi hài ngồi xếp theo hình chữ Phẩm hình như khi chưa chết ba người ngồi vây quanh đống xác rắn bàn luận sự gì.
Nhạc Long Phi cầm lá cờ Mặc Vũ Phù Dung khều từng cái xác rắn lên xem. Khều đi khều lại, rút cục chàng tìm ra được một đầu mối, biết được một câu chuyện bí mật của giới võ lâm cách đây chừng vài chục năm về trước. Thì ra trên mặt đá, dưới đống xác rắn có khắc nhiều dòng chữ.
Mắt chàng lúc này nhãn lực tăng gấp bội nên nên nét chữ dù nhỏ vẫn đọc được như thường.
Sau khi đã đọc hết những dòng trên mặt đá chàng mới biết rõ thân phận của ba bộ hài cốt nay. Đúng ba người đó có một Tăng, một Ni và một Đạo. Tăng tên là Nhất Giác, Ni tên là Nhất Tuệ, còn Đạo tên là Nhất Thanh. Mấy chục năm trước đây, cả ba người là kỳ hiệp Không môn danh lừng tám cõi. ba người đều là học nghệ ở Ô Mông lão nhân – một vị hiệp khách tuyệt đại đương thời, vì thế thành sư huynh sư muội.
Ai ngờ Ô Mông lão nhân tuy võ học thông thần, nhưng một bữa uống rượu say ở hoang sơn, ngẫu nhiên sơ ý bị một con rắn độc cắn phải, đến lúc nọc độc độc phát, không còn thuốc gì cứu được mà chết.
Trong khi lão nhân hấp hối, ba vị học trò đều lập huyết thệ là xin gắng hết sức trừ hết giống rắn độc báo thù cho ân sư. Ô Mông lão nhân xua tay mỉm cười nói rằng: “Loài rắn độc trên thế gian này nhiều không biết bao mà kể, thay vì đi khắp các nơi tìm giết, sư huynh muội hãy hợp lực nhau lại nghiên cứu thuật dạy rắn có hay hơn không?” Lão nhân dặn dò xong, lập tức tắt thở.
Bọn Nhất Giác đại sư chôn cất ân sư xong bèn chia nhau đi du hiệp giang hồ, học hỏi các thủ thật dạy rắn, lại hẹn nhau ba năm sẽ họp mặt trong thạch thất này tức là mộ của Ô Mông lão nhân. Đằng đẵng ba năm, ba vị sư huynh muội lại tụ họp ở đây, sau khi tế diện ân sư xong, mỗi người đều thuật lại những sở học đắc ý của mình cho nhau nghe rồi tổng hợp nghiên cứu lại để hy vọng sáng lập một kỹ thuật tuyệt diệu có thể thuần phục hết thảy các giống rắn trên thế gian cho tất cả mọi nơi lấy làm tiêu chuẩn. Rốt cục ba vị sư huynh muội tận tâm kiệt lực viết ra bộ Linh Xà chân kinh chuyên dạy các giống rắn và còn chép nhiều môn võ học tinh diệu khác nữa, đặt lên trước mộ Ô Mông lão nhân để biểu thị rằng mình đã hoàn thành di mệnh ân sư.
Nhưng ba vị kỳ hiệp vì ở trong địa huyệt lâu năm chuyên tâm nghiên cứu đến nỗi bị mắc bệnh phong thấp cực nặng mà không biết.
Bộ Linh Xà chân kinh vừa hoàn thành, tâm thần vừa thảnh thơi thì chứng phong thấp đột nhiên phát ra, hai chân bị đau tê liệt, không đứng lên và cũng không cử động được nữa.
Trong tình thế ấy, bọn Nhất Giác đại sư làm cách gì mà sống được? Họ đành nhờ vào cái diệu thuật dạy rắn đã nghiên cứu thành công ăn thịt rắn cho đỡ đói, uống máu rắn cho khỏi khát, một mặt họ dụng nội công chống chọi với chứng bệnh phong thấp nguy hiểm.
Cố công cố sức ròng dã hơn năm trời, chứng bệnh phong thấp chỉ có tăng chớ không có giảm. Nhất Giác đại sư, Nhất Tuệ thần ni, Nhất Thanh đạo trưởng trong lúc tuyệt vọng, lại thêm suốt ngày ăn thịt rắn sống uống máu rắn sống tanh tưởi khó nuốt, bèn nảy ra tư tưởng chán đời.
Trước hết đem hết những chuyện trải qua viết lên mặt đá để lưu lại với đời rồi sau đó ngầm vận công điểm vào tử huyệt cho nhau, rồi đều mỉm cười giải thoát.
Thời giờ thấm thoát, năm tháng thoi đưa, ba vị kỳ hiệp máu thịt tiêu mòn biến thành ba bộ xương khô mà lúc này ngồi trước mặt Nhạc Long Phi kia.
Nhạc Long Phi xem hết mấy dòng chữ khắc trên đá, trong lòng cảm khái vô cùng, bất giác nảy ra hai mối nghi ngờ.
Một là, nếu ngôi thạch thất này là nơi an táng Ô Mông lão nhân thì phần mộ đâu sao không thấy?
Hai là, tại sao trên đỉnh đầu mỗi bộ hài cốt đều mọc ra một cây nấm đỏ?
Nhạc Long Phi ngẫm nghĩ giây lâu vẫn không sao giải được mối nghi ngờ thứ hai, nhưng còn mối nghi ngờ thứ nhất thì chàng hơi lờ mờ đoán ra.
Chàng cho nơi thạch thất này khu vực không phải chỉ có thế, rất có thể còn một nơi cảnh trí thanh u khác nữa! Vì Nhất Giác đại sư đã đem hài cốt Ô Mông lão nhân an táng ở đấy, tất nhiên phải là một nơi phong cảnh thanh nhã, hoặc ít nhất là cũng không đến nỗi chật hẹp lụp xụp thế này.
Nếu quả còn một nơi cảnh trí thanh u nữa, chắc là phải có một cánh cửa bí mật nào đó có thể mở ra được?
Nhạc Long Phi vừa nghĩ vừa đưa mắt nhìn khắp bốn phía, tay vẫn cầm cán cờ Mặc Vũ Phù Dung gẩy đi gẩy lại đống xác rắn.
Trong bụng không nghĩ ra được đầu mối gì, mục quang cũng không tìm thấy một điểm đáng nghi nào, nhưng cái cán cờ khua đi khua lại thì lại thấy sự lạ xuất hiện.
Trên mặt đá có một xác rắn xanh, chưa bị Nhạc Long Phi chọc phải, chàng cúi xuống nhìn kỹ mới nhận ra rằng con rắn nhỏ màu xanh ấy không phải là xác rắn mà là con rắn giả tạc bằng đá xanh.
Đang tự nhiên lại tạc ra một con rắn đá, tất là bên trong có cái gì lạ. Chàng xoay bên trái, rồi lại xoay bên phải, con rắn đá vẫn như mọc rễ xuống đất không làm sao lay nổi.
Nhưng Nhạc Long Phi trong lúc sơ ý, hơi dùng chân lực ấn một cái, con rắn đá liền thụt xuống khỏi mặt đất.
Nhạc Long Phi lại lấy tay xoay thử con rắn đá lập tức cũng theo đà tay xoay đi. Chưa xoay hết nửa vòng, chợt nghe tiếng đá chuyển rầm rầm, rồi trên vách đá hiện ra một cửa động tối om, sâu không thấy đáy.
Nhạc Long Phi thấy mình đoán quả không sai, bèn khẽ tung mình nhảy vào cửa động.
Ai ngờ vừa nhảy vào trong động tiếng đá chuyển rầm rầm cửa động đóng lại như cũ. Vách đá dày dặn vô cùng, mặc dầu chưởng lực võ công giỏi đến đâu cũng không thể đục thủng núi mà ra được.
Nhạc Long Phi làm cách nào mà thoát thân?
Chàng có tìm thấy ngôi mộ của Ô Mông lão nhân trong động không?
Tất cả những tình tiết đó tới đây xin tạm gác lại, bút giả lại thuật tiếp câu chuyện của Bạch Cốt Phiến Âu Dương Bình.
Âu Dương Bình từ lúc ở trong bí động núi Tung Sơn tự tay cầm mũi chùy sắc như nước rạch vào má Vũ Văn Kỳ hai chữ thập thật sâu làm cho Lãnh Băng Tâm bị kích thích quá mạnh, hối hận vô cùng bèn cũng cầm dao tự rạch mặt hủy hoại dung nhan cho giống Vũ Văn Kỳ, để lương tâm đỡ cắn rứt, và cũng là để trừng phạt Âu Dương Bình một cách gián tiếp.
Kế rồi nàng thả bầy rắn độc, sai xông vào Âu Dương Bình là cho hắn kinh hồn bạt vía, co giò chạy thẳng một mạch ra cửa động.
Khi đã băng qua hết hai ngọn núi, mới ngồi xuống trước cửa một ngôi miếu nhỏ nghỉ ngơi, ngửa mặt lên nhìn trời thở dài thườn thượt.
Âu Dương Bình đối với Lãnh Băng Tâm quả là thật hết lòng yêu mến, chỉ vì muốn gây chia rẽ giữa Lãnh Băng Tâm và Nhạc Long Phi một mối thâm thù vĩnh viễn không bao giờ giải nên mới hạ thủ phá hủy dung nhan Vũ Văn Kỳ, ai ngờ vì thế làm cho Lãnh Băng Tâm uất hận cũng tự hủy nhan sắc tạ lỗi với Vũ Văn Kỳ.
Thế là ngọc thạch câu phần, làm người hại mình. Âu Dương Bình càng nghĩ càng giận, càng thẹn không có cách gì hình dung ra được.
Trong lòng cảm xúc muôn phần, không biết làm sao được, bèn đứng lên chắp tay ra sau lưng, đưa mắt ngắm nhìn cảnh vật, ngôi miếu sau lưng hắn là miếu thờ sơn thần, ngoài cửa miếu có đôi câu đối đề rằng :
Bách thiện hiếu vi tiên, luận tâm bất luận tích, luận tích bần gia vô hiếu tử.
Vạn ác dâm vi thủ, luận tích bất luận tâm, luận tâm tự cổ thiếu hoàn nhân.
(Trăm thiện hiếu là trước, luận về tâm không ai luận về tích, nếu luận về tích, thì con nhà nghèo làm gì có hiếu tử.
Vạn ác dâm là đầu, luận về tích, không ai luận, về tâm, nếu luận về tâm, thì xưa nay mấy kẻ được hoàn toàn ).
Âu Dương Bình xem xong, thốt nhiên đôi lông mày xếch ngược, duỗi nhanh tay phải, phóng ra một chưởng phong vô cùng mãnh liệt đập tan câu đối vỡ tan tành.
Thì ra hắn thấy kế phá hủy dung nhan Vũ Văn Kỳ là do Lãnh Băng Tâm chủ mưu, chẳng qua là lúc thi hành, nàng chợt nảy lòng bất nhẫn, nên mình hạ thủ mà thôi.
Thế mà trong câu đối kia, thấy câu “chỉ luận về tích chớ không luận về tâm, nếu luận về tâm, xưa nay mấy kẻ được hoàn toàn?” lại như biện hộ cho Lãnh Băng Tâm, đem bao tội trút hết lên đầu mình.
Âu Dương Bình sau khi giận dữ đấm vỡ câu đối, nhận thấy không ai ra trách hỏi, lại thấy cửa miếu mạng nhện chăng đầy, mới biết là miếu hoang.
Hắn liền giơ tay khẽ đẩy, cánh cửa lập tức mở ra, Âu Dương Bình thuận chân bước vào, thấy cách khuôn cửa không xa, có treo một tấm nghiệt kính, dưới tấm nghiệt kính là một pho tượng Thần oai phong lẫm lẫm, hai bên cột lại có hai câu đối khác :
Mặc dầu ngươi tội ác thạo thiên, đứng trước nghiệt kính, đừng nên cứng cổ.
Phải biết ta lượng tình khoan thứ, đồ đao vứt bỏ, sớm sớm hồi đầu.
Âu Dương Bình đọc xong câu đối, lại thấy cái không khí trong miếu vừa trang nghiêm vừa lạnh lẽo bất giác thấy rợn tóc gáy.
Nhưng chỉ trong chớp mắt hung tính của hắn lại nổi lên, một chưởng lăng không ngọn cương phong ào tới, tấm gương nghiệt kính rơi vỡ tan tành.
Rồi sau đó hắn vận chân lực dùng ngón tay khắc vào bên cạnh cột treo câu đối thêm hai câu nữa :
Thần Phật bao giờ treo nghiệt kính?
Anh hùng hà tất ném đồ đao?
Khắc xong mười bốn chữ, Âu Dương Bình chợt nhướng mày nói một mình :
“Âu Dương Bình này danh liệt Càn Khôn lục ác, uy phong vang dậy cả võ lâm, hà tất phải vì một Lãnh Băng Tâm mà tiêu tan cả chí khí? Ta thừa thế lúc kiếp đương thịnh, lập một phen sự nghiệp ngang trời lệch đất xem sao!
Nói một mình chán, hắn lại cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ, hắn tự nghĩ “muốn có một sự nghiệp oanh liệt, hiện thời chỉ có hai đường: một là lưu phương thiên cổ, hai là di xú vạn niên. Nếu muốn lưu phương thiên cổ thì lập tức quay về Bắc Thiên sơn, qui thuận dưới lá cờ Nhật nguyệt của Chu Nhuận Ba dòng dõi nhà Tiền Minh, rồi tận tâm kiệt lực phục hưng Hán tộc, trùng chính sơn hà. Còn muốn di xú vạn niên thì phải đầu hàng Đồ Viễn Trí, làm ưng khuyển cho Thanh đình, tiêu diệt đồng bào Hán tộc.
Nhân vì lúc này đừng nói những các nhân vật giang hồ đến ngay trong bọn tuyệt kỳ danh lừng tám cõi như Song tàn, Lục ác, Long, Xà, Quỷ, Kiếm, Tuyệt, Thư, Cuồng, Nhật Nguyệt Phan cũng đã chia là hai phái trung gian rõ rệt.
Sa Bột, Đạt Nguyên, Thiệu Hàm Yên, với sư tỷ mình là Ngô Cúc đều đã ra người thiên cổ.
Cừu Trọng Đạt, Đồ Viễn Trí, Lê Phóng Hạc thì đều cam tâm phù tá Thanh đình.
Còn Vưu Nam Báo, Chu Bạch Mi thì cùng với bọn Kiếm Tuyệt Thư Cuồng đều phấn đấu cho đại nghĩa dân tộc.
Duy chỉ còn có mình là cô thân không có đồng đạo đồng minh, gia chí dĩ đối với cả hai phe thuận Thanh, kháng Thanh, đều kết thành mối thù trọng đại.
Hiện thời đã không muốn mai một thân danh, cố quên hẳn Lãnh Băng Tâm đi, gây lấy một sự nghiệp liệt liệt oanh oanh, tất phải thận trọng tuyển tránh giữa hai ngả đường lưu phương thiên cổ và di xú vạn niên ấy mới được”.
Âu Dương Bình nghĩ đi nghĩ lại, xét thấy về phương diện các nhân vật thuận Thanh, chỉ cần đừng nghĩ đến thù Lê Phóng Hạc đầu độc mưu hại nữa, thời câu chuyện xích mích nhỏ giữa mình và Cận Vạn Tôn làm gì mà không giải quyết xong.
Đến như phương diện đối với các nhân vật kháng Thanh, thời vì Vũ Văn Kỳ dung nhan bị hủy, võ công bị phế, tất nhiên bọn Hàn Nguyệt sư thái và Nhạc Long Phi không thể tha thứ cho mình được.
Nói một cách khác, thời kết quả sự suy xét tuyển lựa của Âu Dương Bình là nếu không muốn cam tâm tịch mịch thì chỉ còn một đường duy nhất là đầu thuận Thanh đình, tàn hại bọn chí sĩ dân tộc hoàn thành sự nghiệp di xú vạn niên.
Hắn vừa tính toán xong, chợt nghe phía ngoài miếu có tiếng ngựa hí văng vẳng từ xa vọng lại.
Tiếng ngựa hí quen thuộc, hình như chính là con Thanh Thông bảo mã mà trước kia mình tặng cho Lãnh Băng Tâm rồi sau bị lạc mất ở đảo Độc Long.
Âu Dương Bình vội nhảy ra cửa miếu, chú ý trông về phía ngựa hí, quả thấy cách chừng hơn mười trượng, một người cưỡi con tuấn mã lông xanh đã sắp vòng về phía sau núi.
Ngựa thì chính là con thiên lý long câu yêu quý của mình, nhưng người ngồi trên ngựa chưa trông rõ lắm, chỉ biết đó là một ông già áo đen, Âu Dương Bình vận khí Đan Điền cất tiếng gọi lớn :
– Bằng hữu cưỡi ngựa đừng đi vội.
Con Thanh Thông mã nhanh như luồng điện đã vòng qua chân núi, nghe tiếng Âu Dương Bình gọi, quay đầu trở lại.
Đôi bên đối diện Âu Dương Bình mới trông rõ người ngồi trên mình ngựa chính là Quỷ Trượng Tiên Ông Đồ Viễn Trí.
Đồ Viễn Trí trông thấy Âu Dương Bình cũng ở Tung Sơn thì bất giác ngạc nhiên.
Âu Dương Bình chắp tay cười, nói trước :
– Đồ tiên sinh, từ hôm chia tay ở Nam Hải vẫn mạnh chứ? Có thể xuống ngựa nói chuyện một lúc được không?
Đồ Viễn Trí nhướng cao lông mày, tung mình nhảy xuống ngựa, đăm đăm nhìn Âu Dương Bình với một vẻ giễu cợt, chắp tay mỉm cười nói :
– Âu Dương huynh đã bị trúng nọc rắn độc mà vẫn còn bơi thuyền vượt qua biển Nam Hải thật là bản lĩnh phi thường.
Âu Dương Bình đỏ bừng mặt, chưa kịp trả lời, con Thanh Thông đột nhiên nhảy vọt tới, dụi đầu vào ngực Âu Dương Bình ra vẻ âu yếm thân mật lắm.
Đồ Viễn Trí “à” một tiếng, chợt nghĩ ra, bèn cười nói :
– Ta quên không nhớ Âu Dương Bình huynh tức là chủ cũ con ngựa này.
Âu Dương Bình động lòng, lấy tay vỗ nhẹ lên đầu con ngựa rồi cầm dây cương đưa vào tay Đồ Viễn Trí nói :
– Bảo kiếm tặng hiệp sĩ, danh mã tặng anh hùng! Âu Dương Bình xin tặng Đồ tiên sinh con Thanh Thông bảo mã.
Đồ Viễn Trí vẫn coi Âu Dương Bình là kẻ thù, nay thấy hắn khẳng khái tặng mình con ngựa quý thì rất lấy làm kinh ngạc, bèn hỏi :
– Âu Dương Bình, Đồ Viễn Trí này quả thật không ngờ huynh coi ta là một vị anh hùng?
Tưởng huynh phải coi ta là ưng khuyển Thanh đình mới đúng chớ?
Âu Dương Bình cười nói :
– Nhà Chu Minh khí số đã hết, Đại Thanh phúc vận đang thịnh, người thức thời mới gọi là tuấn kiệt, biết chọn chủ mới gọi là anh hùng.
Đồ Viễn Trí gật đầu cười :
– Âu Dương huynh tất đã vượt bến mê, quay đầu giác ngộ, hai câu nói ấy thật là nghị luận chính xác, thiên cổ không sai.
Âu Dương Bình cố ý nịnh triệt để, bèn cười nói :
– Sau khi đã được tham dự cuộc thịnh hội vĩ đại trên Độc Long đảo, Âu Dương Bình này bằng một con mắt vô tư nhìn khắp nhân vật trong thiên hạ, thì biết rằng không ai anh hùng bằng Đồ tiên sinh.
Đồ Viễn Trí xưa nay vẫn tự khoe là đệ nhất võ lâm trong thiên hạ, nay nghe Âu Dương Bình gãi đúng chỗ ngứa, thì cao hứng vô cùng, bèn buông tiếng cười ha hả :
– Hay lắm, hay lắm, Âu Dương huynh đề cao ta quá, nhưng Âu Dương huynh nên biết rằng “cường trung cánh hữu cường trung thủy, năng nhân bối hậu hữu năng nhân…”
Âu Dương Bình không đợi Đồ Viễn Trí nói hết, vội cười ngắt lời :
– Đồ tiên sinh bất tất quá khiêm nhường, các nhân vật xuất loại bạt tụy trong giới võ lâm ngày nay, trừ Chu Nhuận Ba và Hàn Nguyệt sư thái ra thì hết thảy đều đã tham dự Nam Hải Anh Hùng hội, trong bọn đó đều suy tôn Đồ tiên sinh là đệ nhất anh hùng vậy Âu Dương Bình tặng tiên sinh con ngựa quý hôm nay chỉ là khiến cho vật đắc kỷ chủ đó thôi, có gì mà đáng kể.
Đồ Viễn Trí thấy Âu Dương Bình quả có ý thành thật, bèn tiếp lấy dây cương cười nói :
– Âu Dương huynh đã có thịnh tình vậy, Đồ Viễn Trí này từ chối thì thành ra bất kính, nên đành phải bái lĩnh, nhưng Âu Dương huynh đã thấu suốt thời thế, biết lẽ thuận nghịch vậy xin mời cùng hợp tác với Đồ Viễn Trí này, nên chăng?
Âu Dương Bình nghe nói, chính trúng gan ruột bèn gật đầu cười :
– Đồ tiên sinh nếu sẵn lòng dìu dắt, Âu Dương Bình này xin tình nguyện cầm roi theo hầu, nhưng có hai việc phải nhờ Đồ tiên sinh đảm bảo cho mới được.
Đồ Viễn Trí mỉm cười hỏi :
– Hai điều gì?
Âu Dương Bình nói :
– Điều thứ nhất là hôm ở Độc Long đảo tiểu đệ có chuyện xích mích nhỏ với lệnh đồ là Cận Vạn Tôn.
Đồ Viễn Trí bật cười nói :
– Đó là chuyện nhỏ, Âu Dương huynh hà tất để tâm.
Âu Dương Bình lại tiếp :
– Trong lúc phá vòng vây chạy ra khỏi đảo Độc Long, tiểu đệ có dùng Bạch Cốt phiến làm bị thương hai tên Hắc y Thiết vệ.
Đồ Viễn Trí chăm chú nhìn Âu Dương Bình rồi cũng cười ha hả :
– Người ta có câu rằng “ngàn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm”, chỉ cốt Âu Dương huynh thật lòng hợp tác, thì dù có mười tên Hắc y Thiết vệ cũng không đáng kể.
Âu Dương Bình chợt biến sắc mặt cau mày hỏi Đồ Viễn Trí :
– Đồ tiên sinh nói vậy là hẳn còn nghi ngờ Âu Dương Bình không thật lòng hợp tác chăng?
Đồ Viễn Trí tia mắt sáng như điện lạnh lùng cười nói :
– Vẽ hổ vẽ da xương khó vẽ, biết người biết mặt dạ khôn lường! Đồ Viễn Trí này đảm nhiệm trọng trách diệt trừ phản nghịch do Đương kim Thánh thượng giao phó, không thể không cẩn thận, xin Âu Dương Bình huynh thể lượng cho.
Âu Dương Bình gượng cười nói :
– Xin hỏi Đồ tiên sinh, bây giờ ta phải làm thế nào để chứng tỏ lòng trung với tiên sinh?
Đồ Viễn Trí thò tay vào bọc, lấy một chiếc bình ngọc, nghiêng bình dốc ra một viên linh đan màu xanh, hơi lớn hơn hạt đậu một chút, đưa cho Âu Dương Bình mỉm cười nói :
– Âu Dương Bình huynh, nếu quả xét rõ thời thế, tình nguyện chân thành hợp tác với chúng ta, xin hãy uống viên đan này.
Âu Dương Bình đỡ lấy viên thuốc, nhìn kỹ một lúc, bất giác kinh sợ hỏi :
– Đây là một viên độc đan?