Lục Chỉ Cầm Ma

Chương 4: Gọi Là Cảnh Cáo Lũ Gian - Tam Tàn Chiến Bại Đồi Hoang Hãi Hùng


Bạn đang đọc Lục Chỉ Cầm Ma – Chương 4: Gọi Là Cảnh Cáo Lũ Gian – Tam Tàn Chiến Bại Đồi Hoang Hãi Hùng

– Thế võ hay tuyệt! Ngay lúc ấy, ngọn Chiêu Hồn Phướn trong tay của gã Thạnh Tài đã nhanh nhẹn đưa thẳng về phía trước, để đỡ mũi Yến Dĩ Tiêu. Thế là, sau một tiếng phập, món ám khí ấy đã đâm thẳng vào ngọn Chiêu Hồn Phướn, nhưng rồi lại bị hất bật trở ra xa ngay tức khắc.
Cùng một lúc đó, chiếc ghế trong tay của Đoan Mộc Hồng cũng đang bắt từ trên cao lướt nhanh như chớp, nhắm giáng ngay đầu của gã Thạnh Phủ. Nhưng hắn ta chẳng phải là một nhân vật tầm thường, nên sau khi bị Đoan Mộc Hồng kéo té phịch xuống đất, liền nhanh nhẹn nhào lộn thân người nằm ngửa mặt nhìn lên, và vì thế, hắn đã trông thấy rõ chiếc ghế bằng gỗ tử đàn nặng nề đang nhắm giáng thẳng vào đầu mình. Do đó, hắn quát lên một tiếng to, rồi vung chiếc gậy tang trong tay lên, nhắm đập thẳng vào chiếc ghế ấy.
Thế là, qua một tiếng xoạc, chiếc gậy tang trong tay của Thạnh Phủ đã đánh vỡ làm đôi chiếc ghế đang giáng xuống, đồng thời, thế gậy của hắn ta vẫn còn đang ngon trớn, nên tiếp tục lướt tới, nhắm giáng thẳng vào đỉnh đầu của Đoan Mộc Hồng.
Ở trong trường hợp đó, Đoan Mộc Hồng phải chịu thiệt hơn. Vì nàng bị chiếc ghế che mất một vùng trước mắt, không còn trông thấy rõ đối phương đang vung chiếc gậy tang đánh tới, nên mãi đến lúc chiếc gậy tang sắp giáng đến mặt nàng, nàng mới hay được. Do đó, dù cho nàng có muốn lách tránh, cũng không còn kịp nữa…! Giữa cơn nguy cấp đó, Đoan Mộc Hồng bất đắc dĩ phải giương thẳng năm ngón tay ra như năm cái móc sắt, vận dụng chân lực nhắm chụp thẳng vào chiếc gậy tang của đối phương. Và xem chừng bàn tay của nàng cũng sắp chụp được vào bóng gậy chập chờn của Thạnh Phủ…
Nhưng ngay lúc ấy, Thạnh Phủ bỗng giật lùi chiếc gậy trong tay trở ra sau độ nửa thước. Chiếc gậy tang của hắn ta, tuy bên ngoài được quấn bằng một lớp vải trắng, nhưng kỳ thực, thì đó là một chiếc gậy thép tinh ròng, hơn nữa, trên thân gậy lại còn có vô số gai nhọn, có tẩm chất độc.
Chính vì vậy, khi hắn ta trông thấy Đoan Mộc Hồng vung tay chụp tới thì liền giật lùi chiếc gậy trở ra sau, thoạt nhìn như hắn ta sợ hãi tránh thế chụp của đối phương, nhưng thật ra là trong lòng hắn ta đang vô cùng vui thích, và làm thế để dẫn dụ Đoan Mộc Hồng chụp thẳng vào chiếc gậy của mình. Vì nếu đối phương chụp trúng vào những chiếc gai nhọn bằng thép trên thân gậy ấy, tất sẽ bị trầy da chảy máu ngay, và do đó, chất độc ngấm vào cơ thể, giết chết nạn nhân trong phút chốc.
Song Đoan Mộc Hồng là một con người lanh lợi sáng suốt, nên trông thấy mình vừa vung tay chụp tới, thì đối phương giật lùi chiếc gậy tang trở ra sau, thì liền đoán biết trên chiếc gậy ấy có điều chi đáng ngờ vực. Vì qua cử chỉ đó của đối phương rõ ràng muốn dẫn dụ nàng sa vào tròng.
Bởi thế, Đoan Mộc Hồng đã kịp thời thay đổi ý định, vận dụng thêm chân khí vào cánh tay, rồi nhanh nhẹn hạ thấp cánh tay xuống, đổi trảo thành chưởng, quét ngang một lượt, tạo thành một luồng kình phong mãnh liệt cuốn thẳng về phía đối phương. Do đó, sau một tiếng phình to, Thạnh Phủ đã bị trúng chưởng lực, thối lui ra sau một bước. Đoan Mộc Hồng liền thừa cơ điểm nhẹ đôi chân nhảy ra xa, rồi lại lấy mũi giày hất ngọn roi liên hoàn màu bạc của mình đang nằm trên đất lên, siết chặt vào tay như cũ.
Ba người đánh nhau trước sau chỉ bốn năm thế võ, nhưng vì đôi bên đều dùng các loại binh khí ngắn, nên bao nhiêu phần hiểm nguy nối tiếp diễn ra không ngừng, khiến người xem phải hoa cả mắt.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, đều không khỏi thán phục rằng: “Ôi! Quả đúng là tre tàn măng mọc, hậu sinh khả uý!” Nhìn qua trong võ lâm, Đoan Mộc Hồng và Mang Sơn Song Quỷ thật ra chỉ là hàng tiểu bối, tuổi chưa quá đôi mươi, thế mà võ công đã tiến tới một trình độ cao cường, có thể liệt vào hàng cao thủ bậc nhất trong giới giang hồ.
Lúc ấy, Đoan Mộc Hồng đã thu ngọn roi liên hoàn trở về, lắc đầu hất cho mái tóc dài xếp gọn cả ra phía sau. Vì vừa rồi chiếc mão nho sinh của nàng đã bị luồng âm phong từ ngọn Chiêu Hồn Phướn cuốn tới hút rơi, nên mái tóc huyền đã rũ xuống tới tận đôi vai, khiến nàng đã hoàn toàn bộc lộ là một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, chẳng còn điểm nào giống tu mi nam tử nữa.
Sau khi hất gọn mái tóc, Đoan Mộc Hồng lại vung tay quét thẳng ngọn roi liên hoàn trở ra, khiến ánh sáng màu bạc lại lóe lên sáng ngời, trùm kín cả phía trước mặt, và nạt to rằng:
– Nếu các người muốn gây sự đánh nhau mãi, khi mọi việc ở đây xong xuôi, hãy coi chừng ta san bằng cái ổ yêu quái của các ngươi ở Bắc Mang Sơn thành bình địa đó! Mang Sơn Song Quỷ cất giọng ngạo nghễ cười ằng ặc. Tiếng cười của họ nghe chẳng khác nào tiếng gào khóc vừa rồi là mấy. Sau đó, cả hai lại đồng thanh nói:
– Chẳng biết khi mọi việc ở đây xong xuôi, thì quỷ cư của ta ở Bắc Mang Sơn thành bình địa, hay là Phi Yến Môn của ngươi ở Phi Yến Lãnh nhuộm đỏ máu tươi đó! Đôi mày liễu của Đoan Mộc Hồng liền nhướng lên cao nói:
– Cãi vã bằng lời nói với các ngươi không có ích lợi gì, vậy chúng ta hãy dùng binh khí để phân thắng bại được không? Thạnh Tài cất giọng ngạo nghễ, nói:
– Kẻ nào thắng thì được bảo vật, còn kẻ nào thua thì hãy mau rút lui! Đoan Mộc Hồng đáp:
– Tốt lắm! Tiếng nói vừa dứt, nàng đã phi thân bay vọt lên cao ba thước, trông thân hình nàng như đang đứng lơ lửng giữa khoảng không.
Thân pháp ấy chính là thế Nhũ Yến Ly Sào, một thế khó luyện tập nhất trong đường Phi Yến Thất Thức của Phi Yến Môn. Vì sau khi phi thân vọt thẳng mình lên cao, thì cả người Đoan Mộc Hồng lại đứng yên trên khoảng không trong giây lát, đồng thời, giữa giây phút chớp nhoáng đó nàng đã vung ngọn roi liên hoàn màu bạc quét ra vun vút, khiến ánh bạc lóe lên chói ngời nơi nơi. Nàng dùng thế Lao Yến Phân Phi, quét ra hai thế võ liên tiếp, nhắm công thẳng vào hai gã Thạnh Tài và Thạnh Phủ.
Bởi thế, hai đối phương liền cất giọng ngạo nghễ quát lên rằng:
– Tấn công thực phải lúc! Câu nói vừa dứt, cả hai liền nhanh nhẹn dang xa ngay tức khắc…
Nhưng cùng lúc đó, mọi người bất thần nghe có tiếng nổ ầm vang dội, đi đôi với một chuỗi cười dài đinh tay nhức óc, đang từ xa tiến đến gần. Và sau đó lại nghe có tiếng nói to rằng:
– Ai thắng thì được bảo vật, ai bại thì mau rút lui! Vậy bọn các ngươi hãy mau rút lui đi nào! Câu nói vừa dứt, thì trước cửa phòng đã thấy bóng người chập chờn, đồng thời, lại thấy kình phong cuốn tới ồ ạt, đi đôi với hai vầng ánh sáng màu xám xoay vun vút, gây thành tiếng nổ ầm ầm, bắt từ ngoài cuốn thẳng vào trong gian phòng, chẳng khác chi một cơn bão.
Gian phòng ấy tuy rộng rãi, nhưng chỉ trong nháy mắt sau là ai nấy đã thấy bốn bức tường chung quanh đều nứt rạn, cơ hồ như muốn sụp đổ tan tành.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhìn thấy đối phương tràn tới qua một uy thế mãnh liệt, táo bạo tới mức đó, thì liền không khỏi hãi kinh. Và sau đó, khi cả hai người định thần nhìn kỹ về phía trước, thì nghe ba tiếng bốp, bốp, bốp nối tiếp vang lên, rồi lại thấy rõ Đoan Mộc Hồng đã vung ngọn roi liên hoàn lên, giáng thẳng vào hai vầng bóng xám đang quay tít ấy ba thế võ. Và gã Thạnh Phủ cũng đang vung ngọn gậy tang lên công tới một gậy mãnh liệt! Sau khi nhân vật ấy dừng chân đứng yên, thì liền phát lên tiếng cười to ha hả. Tiếng cười của hắn ta rung chuyển cả gian phòng, khiến mái ngói tuôn đổ lào xào, lấp mất cả tiếng khóc gào ghê rợn của Mang Sơn Song Quỷ! Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đến chừng đó mới trông thấy rõ nhân vật ấy chính là vị Chưởng môn phái Thái Cực, tức Phán Tiên Từ Lưu Bản. Và hai bóng xám chập chờn quay tít ấy, chính là hai gánh đá mà lão ta đã gánh trên vai! Mang Sơn Song Quỷ lúc ấy cũng đã thấy rõ được đối phương, nên đồng loạt thối lui ra sau mấy bước. Riêng Đoan Mộc Hồng cũng nhanh nhẹn xoay người lại, rồi nhảy tránh ra xa gần một trượng, nói:
– Từ bá bá, tại sao bá bá cũng tìm đến đây tham dự vào chuyện này? Phán Tiên Từ Lưu Bản cất tiếng to cười ha hả, khiến mớ thịt phì nộn trên người ông ta không ngớt rung rinh, nói:
– A Hồng, sư phụ của ngươi cũng như gã lão quỷ ấy đều đi sai một nước cờ rồi. Vì chỉ phái mấy người đến như vầy, là mọi việc có thể thành tựu được hay sao? Đôi mắt đen láy của Đoan Mộc Hồng xoay qua một lượt, nói:
– Từ bá bá, xin bá bá hãy đẩy lui hai gã yêu tinh đáng ghét này đi đã, rồi tôi sẽ có lời giãi bày với bá bá sau! Thì ra, giữa Thái Cực Môn và Phi Yến Môn vốn có sự liên hệ với nhau rất sâu xa, nên Đoan Mộc Hồng vừa nhìn thấy Từ Lưu Bản là đã gọi là “bá bá” ngay.
Từ Lưu Bản đáp:
– Được! Dứt lời, ông ta bèn ngửa mặt nhìn lên, nạt to rằng:
– Hai tên quỷ con quỷ cháu các ngươi, còn nấn ná lại đây làm gì? Sao chưa chịu cút về ổ quỷ của các ngươi cho rồi! Thạnh Tài cất giọng lạnh lùng nói:
– Ông béo này là ai thế? Từ Lưu Bản cất tiếng to cười ha hả, nói:
– Cụ cố béo của ngươi đây là người ở Song Trụ Phong tại Đông Thiên Mục, đi không đổi họ, ngồi không đổi tên, gọi là Từ Lưu Bản đây. Các ngươi hãy mau trở về nói với con quỷ già ấy, bảo là nếu muốn lũ quỷ con quỷ cháu của lão ta thật sự mặc áo tang sô để chịu tang cho lão ta, thì hãy tìm đến gặp ta được rồi. Sao các ngươi chưa chịu mau cút đi? Câu nói cuối cùng của ông ta đã sử dụng Thái Cực Chân Khí, nên tiếng nói đã vang rền như tiếng sấm nổ giữa khoảng không, làm cho tường nhà rung chuyển không ngớt.
Thạnh Phủ chờ Từ Lưu Bản nói dứt lời, thì mếu máo gào khóc to rằng:
– Ông mập kia, té ra lại chính là ông! Chả lẽ ông lại muốn gây thành mối thù oán với chúng tôi nữa hay sao? Từ Lưu Bản cười to, nói:
– Ai vì sợ bọn các ngươi có đông lũ quỷ con quỷ cháu, nên không dám gây sự với các ngươi, chứ còn ta thì chẳng hề sợ bao giờ! Thạnh Phủ đáp:
– Nếu ông không sợ chúng tôi, thì chúng tôi lại sợ ông hay sao? Từ Lưu Bản bước tới trước một bước, nạt rằng:
– Nếu các ngươi không chịu cút đi, đợi gánh đá trên vai của ta đè bẹp, thì các ngươi sẽ thật sự tìm đến ở chung với lũ quỷ bên dưới âm ty đó! Thạnh Tài bất thần vung ngọn phướn chiêu hồn lên, quất thẳng về phía trước không hề gây nên tiếng động. Từ Lưu Bản thấy thế, bèn quát rằng:

– Khá khen cho gã tiểu quỷ, chẳng biết chi là sống chết kia! Nói đoạn, lão ta bèn nghiêng vai quét gánh đá trên vai về phía trước, chạm thẳng vào ngọn Chiêu Hồn Phướn nghe một tiếng ầm, khiến chiếc cán sắt của ngọn Chiêu Hồn Phướn bị xoay tít thành mấy vòng tròn to.
Thạnh Tài thét lên một tiếng dài, rồi nhảy lùi ra sau để tránh. Trong khi đó, Thạnh Phủ đã vung ngọn gậy tang lên, tràn thẳng về phía Từ Lưu Bản! Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, bèn quay lại Lữ Đằng Không nói nhỏ rằng:
– Tuy Mang Sơn Song Quỷ không thể đối địch nổi với gã béo họ Từ kia, nhưng gã họ Từ cũng không thể nhứt thời thủ thắng được, vậy chúng ta nên nhân cơ hội này rút đi là hơn.
Lữ Đằng Không cất tiếng tán đồng, rồi nhanh nhẹn vung chưởng đánh thẳng vào vách đá, và sau một tiếng nổ ầm to, tấm vách đá ấy liền bị luồng chưởng lực của lão ta đánh thủng một lổ.
Tức thì, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bèn nhanh nhẹn phi thân bay vọt qua lỗ thủng ấy, định lướt thẳng ra ngoài để bỏ đi…
Nhưng bỗng Đoan Mộc Hồng cất tiếng kêu to rằng:
– Xin nhị vị hãy chậm chân đã! Tây Môn Nhất Nương quay đầu ngó lại, trông thấy ngọn roi liên hoàn màu bạc trong tay của Đoan Mộc Hồng đã nhanh nhẹn quét tới nơi. Do đó, bà ta bèn cất tiếng cười nhạt, và không chờ cho Đoan Mộc Hồng tràn tới gần, đã vung một cánh tay lên, chớp nhoáng điểm vào Kiên Trinh huyệt của Đoan Mộc Hồng.
Bởi thế, huyệt đạo của Đoan Mộc Hồng liền bị khóa cứng, khiến nàng phải đứng trơ người, không nhúc nhích được nữa.
Tây Môn Nhất Nương bèn cất tiếng lạnh lùng quát:
– Con bé kia! Ngươi nên an phận thủ thường là hơn. Lần này ta tha cho ngươi đó! Câu nói vừa dứt, bà ta bèn cùng Lữ Đằng Không lướt thẳng ra khỏi gian khách điếm, nhắm hướng ngoại ô lướt thẳng đi. Chẳng mấy chốc sau, hai ngươi đã lướt đi xa đến bốn năm dặm đường. Chừng ấy cả hai mới chậm bước đôi chân lại.
Tây Môn Nhất Nương lên tiếng nói:
– Ông bảo có phải không? Chiếc hộp ấy tuy là chiếc hộp không, nhưng chắc chắn bên trong có điều gì bí mật. Nếu chẳng phải thế, thì Quỷ Thánh Thạnh Linh, Từ Lưu Bản và lão già dịch ở Phi Yến Lãnh ấy lại chú tâm đến thế? Lữ Đằng Không nói:
– Chúng ta hãy mau đến Tô Châu phủ, sẽ rõ mọi việc ngay! Hai người vừa nói chuyện, nhưng đôi chân vẫn tiếp tục lướt về phía trước, nên chỉ trong chớp mắt sau, là cả hai lại lướt qua một đoạn đường ba bốn dặm.
Lúc bấy giờ mặt trời đã đứng giữa đỉnh đầu, hơn nữa hai người đang phi thân trên một con đường nhỏ, giữa đồi núi hoang vu rậm rạp, nên chẳng hề trông thấy có bóng người qua lại.
Trong khi cả hai đang tiếp tục lướt nhanh về phía trước, bỗng trông thấy có hai con tuấn mã đứng bên vệ đường, đang cúi gầm đầu ăn cỏ. Và Lữ Đằng Không không khỏi giật mình, nói:
– Ủa! Đấy chẳng phải là hai con ngựa của chúng mình đó sao? Câu nói vừa dứt thì cả hai liền trông thấy từ trong đám cỏ hoang rậm rạp cạnh đấy, có ba gã đàn ông mặt áo đen, nhanh nhẹn nhảy thoát ra. Sau khi nhìn kỹ đối phương, hai vợ chồng Lữ Đằng Không thấy đấy chính là ba gã đàn ông gầy cao, mà họ đã gặp vào lúc hoàng hôn trên đường đi ngày hôm qua, tức Thái Sơn Tam Tàn! Ba gã đàn ông ấy liền đứng thành hàng chữ nhất, chặn ngang đường. Sau một tiếng quát to, bọn chúng bèn lên tiếng nói:
– Lữ Tổng tiêu đầu, Lữ phu nhân, gia sư có ý định mời nhị vị cùng đến Vạn Hốt Cốc ở Thái Sơn một chuyến, nên mới phái ba anh em chúng tôi đến đây để nghênh đón. Vậy, giờ đây đã có sẵn hai con ngựa của nhị vị, xin nhị vị chớ nên chối từ, kẻo anh em chúng tôi lại không thể trở về bái mạng với gia sư! Tây Môn Nhất Nương cất giọng lạnh lùng nói:
– Giữa ta và lệnh sư chẳng hề có giao thiệp với nhau, hơn nữa đôi bên chính tà có khác, vậy ông ấy muốn gặp vợ chồng ta để làm gì? Thái Sơn Tam Tàn nói:
– Việc đó, thật ra không phải là việc chúng tôi có thể hiểu được. Gia sư bảo chúng tôi đến nghênh đón nhị vị, đưa về Vạn Hốt Cốc mà thôi! Lữ Đằng Không gầm to rằng:
– Rõ là trò đùa! Bọn các ngươi xem vợ chồng ta là những nhân vật như thế nào, mà lại có thể nghe theo mệnh lệnh của kẻ khác? Mau tránh đường ra! Nếu Hắc Thần Quân muốn gặp ta, thì bảo lão ấy sau một tháng nữa, hãy đến thành Nam Xương là sẽ gặp được! Thái Sơn Tam Tàn nói:
– Gia sư chỉ dặn dò anh em chúng tô phải nghênh đón cho được nhị vị đến Vạn Hốt Cốc mà thôi.
Suốt mấy ngày hôm nay, trong lòng Lữ Đằng Không đang bực dọc, lúc nào cũng ấm ức, nhưng không có nơi để phát tiết được cơn tức giận. Giờ đây, ông ta nghe qua lời nói ấy, thì lửa giận liền cháy bừng bừng, vung tay lên tuốt lưỡi Tử Kim Đao xuống nghe một cái rẻng, đồng thời rùn thấp đôi chân, thủ bộ sẵn sàng ứng chiến. Chòm râu bạc dưới cằm của ông ta cũng không ngớt lay động, nên trông thần sắc uy nghi phi thường.
– Hãy xông vào đi nào! Thái Sơn Tam Tàn cũng vội vàng vung tay chụp vào sườn, mỗi tên tuốt lấy một món binh khí siết chặt vào tay. Những binh khí ấy có hình dáng giáo không ra giáo, đao không ra đao, tên gọi là Tam Tài Phiên, chỉ vì một món binh khí ấy, mà có đến ba công dụng.
Lữ Đằng Không trông thấy đối phương đã siết cứng binh khí vào tay, bèn quay đầu lại nói:
– Phu nhân, bà chẳng cần phải trợ lực với tôi, hãy để tôi thử bộ xương già này xem còn dùng được không, và xem có thể lo việc trả thù cho Lân nhi không? Câu nói vừa dứt, Lữ Đằng Không đã tràn tới nhanh như tên bắn, vung ngọn Tử Kim Đao lên, gây thành những vệt ánh thép màu tía lập lòe, trông chẳng khác chi một chiếc cầu vồng vắt ngang khoảng không. Đấy chính là thế Tam Thanh Nhất Can, và chỉ một thế đao mà đã nhắm chém thẳng vào ba người cùng một lúc.
Tức thì, sau ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng, thì đã thấy Thái Sơn Tam Tàn vung ba ngọn Tam Tài Phiên lên đỡ thẳng vào đường đao của Lữ Đằng Không vừa chém tới, khiến tiếng sắt thép va chạm ngân dài. Đồng thời, ba hắn ta cùng buột miệng thét lên một tiếng hãi kinh, rồi đồng loạt nhảy lui ra sau đến bảy tám thước, mới đứng vững đôi chân lại được.
Thái Sơn Tam Tàn chính là những tên môn đồ đắc ý nhất của Hắc Thần Quân ở Vạn Hốt Cốc, tại vùng Thái Sơn. Võ công của ba gã ta cao cường không thua chi Mang Sơn Song Quỷ. Thế mà, chỉ một đường đao mãnh liệt, Lữ Đằng Không đã có thể hất bay cả ba người ra sau cùng một lúc! Lữ Đằng Không có vẻ vô cùng đắc ý, đưa tay vuốt râu và cất tiếng cười dài, nói:
– Thế nào, các ngươi còn muốn xông vào thử nữa thôi? Thái Sơn Tam Tàn cố gắng siết cứng lấy món binh khí của mình, mặc dù lúc ấy vì sức va chạm quá mãnh liệt, làm cho hổ khẩu tay của họ đã rách toạc, máu tươi tuôn dầm dề.
Vậy, thử hỏi cả ba nào còn dám xông vào đánh nhau nữa? Do đó bọn họ liền đưa mắt nhìn nhau một lượt, lên tiếng nói:
– Lữ Tổng tiêu đầu không nể tình cho, thì về sau hãy cẩn thận đề phòng! Lữ Đằng Không cất tiếng to cười ha hả, mắng rằng:
– Ta sẽ bầm nát ba tên súc sinh các ngươi thành ra một đống thịt vụn bây giờ! Vừa nói, lão ta vừa tràn nhanh tới trước, khiến Thái Sơn Tam Tàn đều kinh hãi, đồng loạt nhảy lui ra sau.
Lữ Đằng Không lại phá lên cười to ha hả, nói:
– Nhưng nếu ta giết chết ba tên súc sinh các ngươi thì trong võ lâm sẽ bảo ta sợ hãi trước Hắc Thần Quân, nên không dám cho các ngươi trở về báo tin. Vậy hãy mau cút đi cho ta! Sắc mặt của Thái Sơn Tam Tàn đang tràn đầy vẻ tức giận, nhưng nào dám gây sự đánh nhau nữa. Do đó, cả ba liền xoay lưng phi thân lướt đi vun vút, và khi đã lướt đi xa độ bảy tám trượng, lại quay đầu nói với rằng:
– Họ Lữ kia, mong rằng sau này chúng ta sẽ còn gặp nhau! Tây Môn Nhất Nương bèn phá lên cười dài, nói:
– Còn ta nữa đây! Dứt lời, ngón tay giữa của bà ta bèn búng ra, tức thì, ba tiếng rẻng, rẻng, rẻng nối nhau ngân dài, và ba ngọn phi tiêu thép bé nhỏ, theo đó bay vèo tới nhanh như điện xẹt.
Thái Sơn Tam Tàn chưa kịp nghĩ đến việc lách tránh, thì đã cảm thấy vành tai của mình bị đau buốt, vì ba ngọn phi tiêu bé nhỏ kia, đã bay vút đến cắt đứt một vành tay trái của bọn họ rồi! Lúc ấy, Tây Môn Nhất Nương đứng cách xa Thái Sơn Tam Tàn có đến bảy tám trượng, thế mà ba mũi phi tiêu thép của bà ta chẳng những bay vèo tới nhanh như điện chớp, mà còn chính xác phi thường. Như vậy, cũng đủ thấy thủ pháp sử dụng ám khí của bà ta đã tiến tới mức ai nghe nói cũng phải kinh hồn thất sắc.

Thái Sơn Tam Tàn cùng sờ vào vành tai phía trái, thấy máu đỏ nhuộm ướt cả bàn tay.
Do đó, cả ba chẳng còn dám nấn ná ở lại đây nữa, luống cuống bỏ chạy bay đi tuốt.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương nhờ thế lại tìm được hai con ngựa của mình, nên liền tra đao vào vỏ, phi thân lướt thẳng lên yên rồi giật mạnh cương ngựa phi nhanh tới trước.
Tuy hai vợ chồng Lữ Đằng Không đánh bại được Thái Sơn Tam Tàn, nhưng cũng tự biết từ nay, mình đã kết thành mối thù với Hắc Thần Quân ở Vạn Hốt Cốc trong Thái Sơn. Song, cả hai đều ỷ lại võ công cao cường của mình, cũng như ỷ lại vào sự trợ lực của vô số cao thủ trong hai phe Nga My và Điểm Thương, nên mặc dù nghe lời đồn đãi Hắc Thần Quân vô cùng lợi hại, nhưng họ chẳng lấy đó làm điều lo ngại.
Ngày hôm ấy, Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đã hối hả phi ngựa lướt đi đến chiều tối, và chẳng có việc chi rắc rối xảy ra.
Song, hai người vì không muốn gặp những điều rắc rối khác làm cản trở chuyến đi của mình, nên đêm ấy, họ không tìm đến ở trọ nơi khách điếm, mà trái lại tìm một nơi kín đáo giữa núi rừng hoang dã để yên nghỉ mà thôi.
Vào lúc nửa đêm, bỗng Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương bất thần nghe có tiếng ngựa hí dài, nên cả hai đều giật mình tỉnh giấc. Khi họ ngồi lên xem kỹ, thấy cách xa đấy độ bảy tám trượng đang có hai bóng người đang cố trì kéo hai con tuấn mã của mình.
Hai con ngựa ấy tuy không phải là giống ngựa tốt lắm, nhưng nó vẫn biết mến chủ, chẳng khi nào lại chịu nghe người xa lạ. Do đó, chúng đã cố trì kéo giằng co với đối phương, đồng thời lại giương cổ hí dài không ngớt.
Lữ Đằng Không trông thấy có kẻ lạ mặt cả gan dám đến trộn ngựa của mình, trong lòng hết sức tức giận, đang định đứng phắt dậy để bước tới trước, bất thần từ trong bóng đêm đã có một người lướt nhanh ra, bước đi nhẹ nhàng và tiến đến sát bên cạnh hai bóng người trộm ngựa ấy.
Liền đó, bóng đen nọ nhanh như chớp thò hai tay ra, nắm cứng lấy cổ của hai gã trộm ngựa xách bổng lên, quát to một tiếng, nói:
– Môn hạ của Quỷ Thánh mà lại hèn hạ đến thế này sao. Bọn các ngươi dám ra tay trộm cắp, quả là đáng tức cười! Quả là đáng tức cười! Dứt lời, bóng đen ấy bèn xách bổng hai gã trộm ngựa kia lên, bước thẳng về phía Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương. Khi còn cách nhau độ bảy tám trượng nữa, thì bóng đen ấy lao thoắt đến nhẹ nhàng, trông chẳng khác nào lướt đi trên mặt nước.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đều có kinh nghiệm giang hồ, nên vừa nhìn qua thế lướt tới của người ấy, thì đã biết ngay đối phương thuộc hàng cao thủ bậc nhất trong võ lâm. Do đó cả hai đều không dám chểnh mảng, vội vàng đứng phắt dậy, và người ấy cũng đã tiến đến trước mặt họ rồi.
Khi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương giương mắt nhìn kỹ, thì trông thấy bóng đen ấy là một người che mặt bằng một vuông lụa đen, nên không thể nhìn rõ được diện mục của đối phương như thế nào.
Nhưng riêng về hai gã đàn ông mà người ấy đang xách bổng trong tay, thì lại trông được rất rõ ràng. Đấy chính là hai gã đàn ông ăn mặc rất quái dị, một người thì ăn mặc giống như con Quỷ Bạch Vô Thường, và người khác, trông chẳng khác chi con Quỷ Hắc Vô Thường.
Thì ra, môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh rất đông, ngoại trừ hai đứa con trai của lão ta ăn mặc như kẻ có đại tang, lại còn có tám môn đồ yêu quý khác nữa. Trong tám môn đồ ấy, có hai tên ăn mặc như ngưu đầu mã diện, hai tên cải trang như loại tiểu yêu ở dưới địa phủ, hai tên khác lại ăn mặc như phán quan, và hai tên cuối cùng thì ăn mặc như con quỷ Vô Thường. Trong võ lâm người ta gọi chúng là Âm Thế Bát Quỷ.
Hai gã đàn ông này ăn mặc như quỷ Vô Thường nên Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương vừa nhìn qua đã biết chúng chính là Bạch Vô Thường Thượng Bát và Hắc Vô Thường Thượng Hách. Võ công của hai hắn ta tương đương với Mang Sơn Song Quỷ, trong võ lâm cũng thuộc thành phần tương đối có tiếng tăm. Thế nhưng người che mặt nọ đã tóm lấy chúng một cách dễ dàng không thể tưởng. Như vậy, cũng đủ biết võ công của người ấy cao cường đến mức nào! Lữ Đằng Không to tiếng cười nói:
– Tại hạ xin đa tạ tôn giá, về chỗ đã bắt hai tên trộm ngựa này cho! Người che mặt cũng cất tiếng cười, đáp rằng:
– Hai gã này định gây thương tích cho đôi ngựa của các hạ, hầu sáng mai khi các hạ lên đường, thì hai con ngựa ấy sẽ bất thần té khụy, và thừa dịp đó bọn chúng tràn ra để xuống tay. Tuy các hạ chắc chắn không sợ chi tài nghệ yêu quỷ của lũ chúng, nhưng hành động hèn mạt ấy của chúng quả thực là đáng ghét. Các hạ cứ thử xem có phải không? Lữ Đằng Không nói:
– Lời của bằng hữu nói không sai tí nào cả. Bởi thế, cần phải trừng trị chúng để cảnh cáo mới được.
Người che mặt bèn buông lỏng hai bàn tay ra, đồng thời, lại nghe hai tiếng bốp, bốp nổi lên. Thế là Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều ngã chúi xuống đất, nằm sóng sượt.
Lữ Đằng Không khi thấy người che mặt vừa buông lỏng hai bàn tay ra, thì đã nhanh như chớp, ấn mạnh lòng chưởng vào Thiên Trụ huyệt trên gáy của họ. Do đó, chắc chắn Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều phải bị trọng thương, dù cho không chết, sau này cũng không mong chi xuất đầu lộ diện trong võ lâm để gây thêm tội ác, hành động ngang tàng nữa.
Tây Môn Nhất Nương cười, nói:
– Khoái lắm! Khoái lắm! Đối với lũ yêu quái này, cần phải trừng trị như vậy mới được! Người che mặt nói:
– Lữ phu nhân là người ghét cay ghét đắng phường gian ác, chứng tỏ lòng hào hiệp thực khó ai bì.
Người che mặt ấy xuất hiện một cách đột ngột, và đã sử dụng mấy thế võ kỳ tuyệt để đối phó với Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường, chứng tỏ võ công của ông ta cao cường tuyệt đỉnh. Nhưng vì ông ta dùng vải đen che kín khuôn mặt, đồng thời, y phục nếu so với những người khác, cũng không có chi khác biệt, nên vợ chồng Lữ Đằng Không chẳng làm sao nhận xét ra đối phương là ai cả. Hơn nữa, người ấy nói năng lại rất khách sáo, nên càng làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương khó hiểu được đối phương là kẻ có ý định gì.
Lữ Đằng Không lên tiếng nói:
– Nếu không nhờ thủ pháp cao cường tuyệt đỉnh của tôn giá, thì cũng chẳng dễ chi trừng trị được hai con yêu này! Ông ta chẳng biết nói chi khác hơn là những lời khách sáo ấy. Lúc bấy giờ, Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường cũng đang lồm cồm bò dậy, nên người che mặt ấy đã quát rằng:
– Sao hai ngươi chưa chịu cúi lạy, xin lỗi Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân? Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường nghe thế, đều đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau, không nói nên lời.
Vì bọn họ đều là số người có địa vị rất cao trong các môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh. Ngay trong võ lâm, bọn họ cũng là số người tương đối có danh vọng, thế mà ngày hôm nay lại bị thất bại ê chề, nên hoang mang chẳng hiểu tại vì đâu mà mình lại bị trọng thương đến mức ấy.
Tuy nhiên, họ đã tự biết đối phương chẳng phải là tay tầm thường, nên đứng sửng sờ trong giây lát, rồi liền nói ấp úng rằng:
– Anh em chúng tôi đã biết được Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân, chỉ riêng có các hạ, chẳng hiểu cao tính đại danh là gì? Người ấy cười nói:
– Bọn các ngươi tìm hiểu danh tánh của ta, thì có thể trở về sào huyệt, gọi Quỷ Thánh đến đây trả thù giúp cho được hay sao? Tên tuổi của ta không nổi bật lắm, nên chẳng làm thế nào bì kịp với Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân. Nhưng các ngươi chỉ cần trở về Bắc Mang Sơn thuật lại mọi việc đã gặp ngày hôm nay, có lẽ Quỷ Thánh còn nhớ ra được ta là ai.
Thôi, bọn các ngươi sao không chịu quỳ lạy, xin lỗi cho mau đi! Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường đang lâm vào khung cảnh bất khả kháng, nên vì sự sống còn, cả hai liền vâng lệnh xin lỗi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, rồi quay lưng lủi đi mất.
Tây Môn Nhất Nương đứng bên cạnh, thấy người che mặt ấy không bằng lòng nói rõ danh tánh cho hai gã Hắc Bạch Vô Thường nghe, thì biết dù mình có hỏi đi nữa, chắc chắn cũng là vô dụng. Do đó, bà ta liền đi thẳng vào đề rằng:

– Giữa đêm khuya như thế này, tôn giá tìm đến đây chẳng rõ có việc làm quý hóa chi? Vậy, tôn giá cứ nói thẳng ra cho! Người ấy xoa đôi tay, dường như hết sức ái ngại và qua một lúc thực lâu mới đáp:
– Có phải nhị vị định đi đến Tô Châu phủ phải không? Lữ Đằng Không đáp:
– Đúng thế! Người che mặt ấy nói tiếp:
– Kim Tiên đại hiệp ở Tô Châu hiện trong nhà đang có biến cố to, vậy e rằng nhị vị tìm đến đó lại sẽ gây ra việc hiểu lầm không hay chăng? Giờ đây, tại hạ có một lời yêu cầu bất đắc dĩ, song chẳng rõ nhị vị có bằng lòng chấp nhận cho không? Lữ Đằng Không nghe qua câu nói của đối phương, tuy cảm thấy có lắm điều khó hiểu, nhưng vì thái độ của đối phương lúc nào cũng tỏ ra khách sáo, nên liền ôn tồn hỏi:
– Chẳng hay tôn giá có điều yêu cầu chi? Người ấy đáp:
– Trong chuyến đi này của các hạ, có lẽ chính là để áp tải một vật chi đó cho một khách hàng chăng? Chẳng hay các hạ có thể vui lòng cho tại hạ được xem qua vật đó không? Lữ Đằng Không trông thấy đối phương nói quanh nói quẫn, rồi cũng đề cập đến chiếc hộp gỗ kia, nên trong lòng không khỏi tức giận, cười nhạt đáp:
– Việc ấy không làm sao chấp nhận được! Người ấy bèn cất tiếng than dài, nói:
– Tôi cũng đoán biết trước, là Lữ Tổng tiêu đầu không khi nào chịu chấp nhận. Nhưng nếu tại hạ bằng lòng lấy một con người để đánh đổi vật ấy với Lữ Tổng tiêu đầu, thì chẳng hay Lữ Tổng tiêu đầu có chịu không? Lữ Đằng Không không khỏi bắt tức cười thầm, nói:
– Tôn giá thật sự là ai thế? Tại sao lại cứ nói dài dòng và không đâu mãi thế? Nhưng Tây Môn Nhất Nương như chợt hiểu ra điều gì, bèn lên tiếng nói:
– Ông định dùng ai để đánh đổi chiếc hộp gỗ ấy với chúng tôi? Người ấy đáp:
– Người đó, chắc chắn nhị vị…
Câu nói mới đến đây, thì bỗng nghe từ phía xa có tiếng hú thật to, nhưng rất ngắn ngủi vang lên. Những tiếng hú ấy đã xé tan màn đêm, vọng đến nghe rõ mồn một! Người che mặt ấy bỗng nhảy lùi ra sau gần một trượng, nói:
– Những người đồng hành với tại hạ đang có chuyện cấp bách nên đã lên tiếng gọi, vậy tại hạ xin tạm cáo lui ngay bậy giờ! Tây Môn Nhất Nương vội vàng tràn ngay người tới trước quát rằng:
– Bằng hữu, nên nói cho hết lời rồi sẽ đi! Nhưng trong khi Tây Môn Nhất Nương còn đang lên tiếng nói, thì người ấy lại nhảy lui ra sau đến ba bốn trượng nữa. Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, thì lại tiếp tục truy đuổi theo, Nhưng người ấy bỗng bất thần quét mạnh tới một chưởng, và Tây Môn Nhất Nương cũng đã kịp thời vung chưởng quét ra đỡ thẳng.
Thế là, qua một tiếng ầm to, hai luồng chưởng lực đã va chạm thẳng vào nhau. Tây Môn Nhất Nương cảm thấy đối phương có một nguồn nội lực vô cùng dồi dào, bà ta tuy có đủ sức đối địch, nhưng đối phương đã nương vào sự va chạm ấy, tiếp tục nhảy lui ra sau, rồi dùng một thân pháp nhanh chóng, cơ hồ chẳng phải là thân pháp của một con người nữa, nhanh nhẹn biến mất vào màn trời đêm.
Tây Môn Nhất Nương không khỏi sửng sốt, quay đầu lại nói:
– Tiếng hú vừa rồi nổi lên từ hướng nào, ông nghe rõ chăng? Lữ Đằng Không đáp:
– Dường như phía tây nam thì phải! Tây Môn Nhất Nương nói:
– Nếu thế, chúng ta hãy truy đuổi theo mau! Lữ Đằng Không lấy làm lạ, nói:
– Hắn ta bỏ đi thì thôi, chúng ta còn đuổi theo hắn để làm gì? Câu nói của Lữ Đằng Không chưa dứt, thì Tây Môn Nhất Nương đã nhắm hướng tây nam lướt đi nhanh như một luồng gió hốt. Do đó, Lữ Đằng Không bất đắc dĩ cũng phải bám sát theo sau. Thân pháp của hai người cũng hết sức nhanh nhẹn, nên chỉ trong chớp mắt sau là đã lướt đến một đỉnh núi nhỏ rồi.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đứng trên đỉnh núi cao, nhìn trở xuống thì thấy khắp bốn bề, đâu đâu cũng tối đen như mực, nên chẳng biết cánh rừng chung quanh có loài cây chi.
Sau đó, hai người lại rảo mắt khắp bốn bên, cố quan sát địa hình thực kỹ, nhưng chỉ thấy giữa một cánh rừng rộng lớn đen ngòm, có một con đường hẹp duy nhất là có thể vượt qua được cánh rừng ấy mà thôi. Ngoài ra, chung quanh đấy không còn một con đường nào khác nữa.
Tây Môn Nhất Nương bèn đưa tay chỉ về phía con đường mòn nhỏ ấy, nói:
– Chúng ta hãy đi theo con đường mòn nhỏ ấy để truy đuổi theo kẻ địch mau! Lữ Đằng Không vẫn không hiểu mục đích của Tây Môn Nhất Nương muốn truy đuổi theo người che mặt ấy để làm gì, nên lên tiếng hỏi:
– Phu nhân, chúng ta đuổi theo hắn để làm chi chứ? Tây Môn Nhất Nương cất giọng bực tức nói:
– Chúng mình hãy truy đuổi theo hắn ta trước đã, và chờ khi đuổi kịp hắn tất sẽ rõ tại sao, chớ nên hỏi lôi thôi dài dòng nữa! Lữ Đằng Không nghe qua giọng nói ấy của vợ mình, thấy tựa hồ việc này như vô cùng quan trọng. Từ trước đến nay, lão ta biết bà vợ già của mình là người mưu trí phi thường, có lẽ còn cao vượt hơn lão ta nữa, nên chẳng dám hỏi thêm mà cùng nhanh nhẹn chạy trở xuống phía dưới chân núi ngay tức khắc.
Khi hai người lướt đến sát bìa rừng, và nhìn rõ những cây cối mọc um tùm trong cánh rừng ấy, thì không khỏi giật mình. Vì cả khu rừng to lớn ấy, đều mọc toàn cây gai góc chằng chịt. Những chiếc gai nhọn từ nhành cây nhô ra, dài có đến gần một tấc, trên mũi lại hết sức bén. Do đó, chớ nói chi là con người, mà dù là loài dã thú quen sống trong rừng, cũng không dễ gì vượt qua được cánh rừng đó.
Sau khi hai người tìm đến con đường mòn, thì thấy con đường ấy chỉ rộng độ một thước mộc, dù cho có lách mình để bước tới, thì e rằng y phục mặc trên người cũng sẽ bị gai góc móc rách toạc tất cả.
Tây Môn Nhất Nương tỏ ra do dự trong giây lát, nói:
– Nơi này chính là một địa điểm tốt để thử thách tài khinh công của người ta đây! Dứt lời, bà ta vận dụng chân khí trong người, phi thân bay vọt lên. Khu rừng đầy gai góc ấy, nhánh nhóc dính liền nhau chằng chịt, lá cây rậm đen như không hề có một khe trống, cơ hồ đến gió cũng không thể thổi lọt. Do đó, Tây Môn Nhất Nương vừa phi thân bay vọt lên đầu ngọn cây, liền sử dụng ngay thuật khinh công Thảo Thượng Phi, tiếp tục lướt tới nhanh như gió. Tuy dưới chân bà ta toàn là những gai góc bén nhọn, nhưng nhờ thân người của bà ta nhẹ như một con chim yến, nên chẳng hề gây được thương tích chi cho bà ta cả.
Lữ Đằng Không thấy vợ mình phi thân bay vọt lên cao, thì cũng vội vàng bám sát theo sau. Thế là, hai người một trước một sau, lướt đi nhanh như hai vì sao sa. Chỉ trong thoáng chốc đã lướt đi được hai ba mươi trượng rồi. Thế là, họ đã bắt đầu xâm nhập vào trung tâm khu rừng.
Nhưng giữa lúc hai người đang tiếp tục lướt tới, thì bất thần nghe có ba tiếng rít gió vèo vèo liên tiếp nổi lên, rồi lại trông thấy có ba đốm sao bạc, từ bên dưới cánh rừng bay vút lên theo hình tam giác, nhắm ngay lồng ngực của Tây Môn Nhất Nương bắn tới.
Tây Môn Nhất Nương liền kêu to lên rằng:
– Này ông, hãy thận trọng đấy! Ba mũi ám khí nọ vốn đang nhắm tấn công ngay về phía Tây Môn Nhất Nương, thế mà bà ta lại lên tiếng gọi Lữ Đằng Không hãy thận trọng, nên mới nghe qua dường như hết sức vô lý. Song, kỳ thực thì tiếng kêu của bà ta vừa dứt, thì thân người bà ta đã lách ngang nhanh như chớp để tránh. Và trong giây phút ngắn ngủi đó, ba món ám khí màu bạc kia, đã lướt thẳng qua khỏi bà ta, rồi tiếp tục bay về phía trước nhanh như điện xẹt.
Lữ Đằng Không vốn đang bám sát theo sau Tây Môn Nhất Nương, nên khi Tây Môn Nhất Nương vừa lách mình tránh ngang, thì ba đốm sao bạc ấy đương nhiên nhắm ngay Lữ Đằng Không công tới.
Chính Tây Môn Nhất Nương đã thấy trước được điều đó, nên mới lên tiếng bảo Lữ Đằng Không phải cẩn thận đề phòng.
Lữ Đằng Không nhờ tiếng kêu ấy của Tây Môn Nhất Nương, nên đã sẵn sàng đối phó với mọi điều bất trắc. Bởi thế, khi thấy ba đốm sao bạc bay vèo tới nơi, thì lão ta đã chụp ngọn Tử Kim Đao tuốt ra khỏi vỏ nghe một tiếng rẻng, đồng thời nhanh như chớp, vung lên đỡ thẳng vào ba đốm sao bạc nọ. Tức thì, qua ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng đi đôi với ba đốm lửa đỏ lóe lên sáng ngời, ba món ám khí nọ đã bị hất bay cả ra xa.
Trong khi đó, đôi chân của Lữ Đằng Không vẫn tiếp tục lướt nhanh tới trước, chẳng hề chậm lại tí nào. Nhưng lão ta vừa quét rơi ba đốm sao bạc trước mặt, thì bất thần lại nghe dưới chân mình có một luồng gió lạ quét tới, nên vội vàng dừng chân đứng lại ngay tức khắc.
Chừng ấy, lão ta mới cảm thấy tại bắp chân bị đau buốt, và khi cúi đầu nhìn xuống, thì lại thấy có một cái móc thép sáng ngời như bạc, đang từ dưới cánh rừng thò lên, và chỉ còn cách xa ống chân của lão ta trong đường tơ kẽ tóc.
Bởi thế, nếu tài nghệ của Lữ Đằng Không chưa tiến tới mức cao cường tuyệt đỉnh, và do đó, không thể kịp thời dừng chân đứng yên lại, thì chắc chắn với thế lướt tới nhanh nhẹn của lão ta, tất chiếc móc thép sáng ngời kia, sẽ cắt đứt tiện đôi chân của lão ta rời khỏi thân người rồi.
Song, cũng may là lão ta đã phát giác kịp thời, nên dừng chân đứng yên lại ngay. Tuy nhiên, ngay bắp chân của lão ta, cũng bị mũi nhọn của chiếc móc thép ấy rạch đứt thành một đường dài, máu tuôn xối xả.
Lữ Đằng Không hết sức tức giận, liền vung ngọn Tử Kim Đao quét thẳng xuống phía dưới chân. Thế là, qua một tiếng xoạc, ngọn đao của lão ta cuốn thẳng về phía ấy nhanh như gió hốt, mãnh liệt như thủy triều dâng. Đồng thời, lão ta quát to rằng:

– Bằng hữu phương nào mà lại hành động mờ ám, thực không còn kể chi sỉ diện nữa.
Luồng đao phong của Lữ Đằng Không vừa cuốn qua, là một vùng nhánh nhóc cây rừng thực to đã bị quét đứt tiện, tuôn đổ lào xào. Đồng thời, móc thép sáng ngời ấy cũng thụt trở xuống mất hút.
Lữ Đằng Không vì dừng chân đứng lại đối phó với những trở lực ấy, nên Tây Môn Nhất Nương đã lẩn khuất giữa màn đêm không còn trông thấy đâu nữa.
Nhưng Lữ Đằng Không tạm thời không có đủ thời giờ để chú ý đến Tây Môn Nhất Nương, trái lại, lão ta nhanh nhẹn buông mình xuống phía dưới khu rừng, trong khi chân khí khắp người đều được vận dụng, nên chẳng những bảy mươi hai quan huyệt trong người lão ta được khóa cứng, mà cơ thể cũng trở thành hết sức cứng rắn, có thể lướt qua khỏi gai góc chung quanh một cách dễ dàng.
Do đó, số gai góc bén nhọn ấy, tuy đã làm rách toạc lớp y phục trên người lão ta, nhưng hoàn toàn không thể làm tổm thương mảy may đến da thịt của lão. Lữ Đằng Không sau khi đáp yên đôi chân tới mặt đất, bèn xông thẳng về phía trước, trong khi ngọn Tử Kim Đao trên tay cũng nhắm ngay nhành lá rậm rạp chung quanh quét vun vút, khi chém sang trái, lúc chặt sang phải, nên mặc dù cây rừng rậm rạp, mà lão ta vẫn có thể lướt tới trước nhanh nhẹn như con cá lội trong nước.
Khi lão ta tiến tới được chừng bốn năm trượng, bỗng thấy có một bóng người thấp thoáng ở phía trước, và cũng đang hành động như lão ta, để tiếp tục lướt tới.
Lữ Đằng Không bèn cất tiếng to cười ha hả, và cùng một lúc với tiếng cười, lão ta phi thân bay vọt lên khoảng cao, rồi bắt từ trên dùng thế Thiên Đăng Địa Liệt, vung ngọn Tử Kim Đao chém thẳng xuống nghe một tiếng vút, khiến ánh thép màu tía lóe lên chói rực như một chiếc cầu vồng ở giữa khoảng không.
Đường đao ấy là một thế tuyệt học của Lữ Đằng Không, có một uy lực vô cùng đáng sợ. Dù cho là một người bằng sắt đá đi nữa, cũng chắc chắn sẽ bị chém đứt lìa ra làm đôi! Trong cơn nguy cấp, bóng người ấy bèn nhanh nhẹn vung ngọn móc sắt đang cầm trong tay lên, để đỡ thẳng vào thế đao của Lữ Đằng Không…
Thế là, sau một tiếng xoảng, ngọn đao của Lữ Đằng Không đã chạm thẳng vào chiếc móc sắt của đối phương, khiến cái lưỡi bén của cái móc sắt, vốn đang quay về Lữ Đằng Không, đã bị áp lực của thế đao đè mạnh, nên bất thần đã quay ngược trở lại bóng người ấy.
Đồng thời, vì ngọn kình phong cuốn tới quá mạnh mẽ, nên lưỡi nhọn ấy bị hất bạt và cắm phập vào ngay đỉnh đầu của bóng đen nọ. Do đó, đối phương liền bị chết tốt dưới ngọn móc sắt trong tay của hắn ta.
Lữ Đằng Không chẳng ngờ đối phương lại quá tầm thường, không thể đỡ nổi một đường đao của mình như vậy. Do đó, lão ta không thể hối tiếc là mình đã sử dụng chân lực quá nhiều.
Nhưng Lữ Đằng Không nào biết trong cả võ lâm ngày nay, người am hiểu võ công tuy nhiều, nhưng số người có thể đỡ nổi đường đao ấy của lão ta, có lẽ chẳng vượt hơn ba mươi người.
Bởi thế, đối phương không phải là một cao thủ tuyệt đỉnh có võ công đứng hàng đầu trong giới giang hồ, thì bị chết thảm thiết như vậy là lẽ tất nhiên. Liền đó, Lữ Đằng Không nhanh nhẹn thò tay chụp xác chết, xách bổng lên xem kỹ lưỡng, thấy khuôn mặt của hắn ta đang nhuộm đỏ máu tươi, nên không làm sao nhận ra được đấy là ai nữa. Tuy nhiên, Lữ Đằng Không biết đấy cũng là một trong những nhân vật đang dòm ngó đến chiếc hộp gỗ mà mình đang lãnh áp tải.
Sau đó, Lữ Đằng Không bèn vung tay ném thẳng xác chết ấy ra, và bỗng lão ta trông thấy có một vật chi từ trong người xác chết đó rơi trở xuống mặt đất.
Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn hối hả tràn tới một bước, rồi lấy mũi đao hất mạnh vật ấy lên, chụp gọn vào lòng bàn tay xem kỹ qua, nên sắc mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc…
Thì ra đấy chính là một cái thẻ bạc, to độ bằng bàn tay, bên trên có khắc năm chữ: “Địa Hương Đường Chủ: Huỳnh”. Và bề trái của tấm thẻ bạc ấy, lại có chạm một bó đuốc đang cháy đỏ rực.
Lữ Đằng Không xem qua tấm thẻ bạc ấy, lẽ tất nhiên đã hiểu đấy chính là tấm lệnh bài của mười hai Đường chủ trong phái Hoa Sơn. Như vậy, kẻ vừa bị lão ta chém chết ấy, chính là Địa Hương Đường chủ của phái này rồi.
Nếu thế, chả lẽ phái Hoa Sơn đã cho người theo dõi mình rồi chăng? Lữ Đằng Không vung tay ném bổng chiếc thẻ bạc ấy lên không, rồi lại vung đao chặt thẳng vào nó, và sau một tiếng kẻng, tấm thẻ bạc ấy đã bị hất bắn đi tít mù.
Sau đó, Lữ Đằng Không bèn nhanh nhẹn phi thân bay bổng lên, tiếp tục lướt thẳng về phía trước mặt, và chẳng mấy chốc lão ta đã gặp một con suối đang chảy róc rách giữa cánh rừng rậm rạp.
Nhưng Lữ Đằng Không chẳng hề trông thấy bóng dáng của Tây Môn Nhất Nương đâu cả, và cũng không thể đoán biết được bà ta đã bỏ đi về hướng nào.
Trong lòng của Lữ Đằng Không không ngớt nghĩ ngợi, là Địa Hương Đường chủ của phái Hoa Sơn đã xuất hiện tại nơi này, chả lẽ người che mặt vừa rồi lại chính là Liệt Hỏa Tổ Sư, tức vị Chưởng môn của phái Hoa Sơn đấy chăng? Nhưng khi lão ta nhớ lại hình dáng của bóng người ấy, lại thấy hoàn toàn không giống nhau với Liệt Hỏa Tổ Sư của phái Hoa Sơn. Vì vị Chưởng môn phái Hoa Sơn chính là người Tây Vực, tóc đỏ như lửa, thân hình vạm vỡ to lớn, mỗi khi ra đi, dấp dáng rất uy nghi, tuyệt đối chẳng khi nào lại đi đứng một mình như vậy.
Nếu thế, Tây Môn Nhất Nương đã truy đuổi theo một nhân vật hoàn toàn không hiểu lai lịch, và chính vì vậy, cũng chắc chắn sẽ là một kẻ thù khó đối phó nhất. Do đó, Lữ Đằng Không lo ngại cho người vợ già của mình sẽ bị thiệt thòi vì cô thế chăng? Giữa lúc lão ta đang định tiếp tục phi thân lướt thẳng về phía trước để tìm Tây Môn Nhất Nương, bỗng nghe về phía bên kia bờ suối, có một người buột miệng kêu kinh ngạc rằng:
– Ồ! Và Lữ Đằng Không đã nhận ra được, đấy rõ ràng là tiếng của Tây Môn Nhất Nương, nên hối hả gọi:
– Nhất Nương, bà ở đó phải không? Bên kia bờ suối liền thấy có một bóng người di động chập chờn, và chỉ trong thoáng chốc, là Tây Môn Nhất Nương đã xuất hiện. Bà ta lên tiếng nói:
– Ông hãy mau qua đây, xem cái chi đây này! Lữ Đằng Không trông thấy vợ mình được bình an vô sự, nên cũng tạm yên lòng. Lão ta khẽ nhún đôi chân vượt qua dòng suối, rồi buông mình đáp nhẹ xuống bên cạnh Tây Môn Nhất Nương, đưa mắt nhìn về hướng tay chỉ của bà ta, trông thấy trên một nhành tùng cổ thụ cao vút ở cạnh đấy, có một thanh đao sáng lập lòe ánh thép cắm cứng trên ấy. Do đó, Lữ Đằng Không buột miệng kêu thất thanh rằng:
– Ồ! Đấy chính là thanh đao bằng thép Miến Điện của Lân nhi.
Tiếp đó, lão ta lại bất giác kêu to rằng:
– Lân nhi! Lân nhi! Con ở đâu? Con ở đâu? Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng nói:
– Chắc chắn là chỉ có thanh đao ở đấy thôi, chớ nào có Lân nhi đâu đấy mà kêu? Lữ Đằng Không hết sức thất vọng, nói:
– Phải rồi! Lân nhi nào còn sống trên dương trần này nữa! Hai người ngó mặt nhau im lặng một lúc lâu, không ai nói chi thêm nữa. Đã suốt mấy ngày qua, đây là lần thứ nhất hai vợ chồng Lữ Đằng Không lại nhắc chuyện đau lòng nhất trong đời họ.
Sự im lặng kéo dài thêm một lúc khá lâu, thì Tây Môn Nhất Nương mới cất giọng buồn bã nói:
– Bắp chân của ông làm sao thế? Lữ Đằng Không biết sở dĩ vợ mình hỏi thế, chính là có ý muốn đánh trống lảng, để mình không còn nhớ đến việc Lân nhi nữa. Vì đấy chính là một việc đau lòng nhất trong đời họ, chắc không còn việc chi đau lòng hơn nữa. Và dù cho họ là người võ công cao cường tuyệt đỉnh, nhưng đứng trên tình cảm họ vẫn biết đau xót như tất cả những bậc làm cha mẹ đã bị mất con.
Do đó, có lẽ Tây Môn Nhất Nương tự biết, nếu cứ gợi lại chuyện đau đớn ấy mãi, chắc chắn cả hai không làm sao chịu đựng nổi trước sự giày vò về tinh thần, và chắc chắn sẽ đưa đến tình trạng vì quá đau buồn mà bị nội thương chăng.
Lữ Đằng Không hiểu thế, nên cũng vội vàng quay sang chuyện khác, nói:
– Vừa rồi, có một gã đàn ông mai phục bên dưới cánh rừng, và đã dùng một cái móc thép bén quét vào đôi chân tôi, chỉ bị thương nhẹ, chẳng hại chi cả.
Tây Môn Nhất Nương nói:
– Nếu thế, thì có lẽ kẻ ném ám khí vừa rồi cũng là người ấy chứ gì? Nhưng món ám khí của hắn ta sử dụng, rất giống loại ám khí riêng biệt của phái Hoa Sơn, có tên gọi là Ngân Hoàng Phi Tiêu.
Lữ Đằng Không nói:
– Đúng thế! Gã đàn ông ấy chính là người trong phái Hoa Sơn, và đã bị chết dưới thanh Tử Kim Đao của tôi rồi. Hắn ta là Đường chủ Địa Hương của phái ấy.
Tây Môn Nhất Nương gật đầu nói:
– Nếu thế thì hắn là Huỳnh Hán, Đường chủ Địa Hương rồi. Hắn ta từ trước đến nay vẫn sử dụng binh khí có hình dáng như một cái móc thép. Xem ra, số nhân vật của phái Hoa Sơn cũng đang theo dõi chúng ta đấy!
-oOo-


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.