Đọc truyện Luật Giang Hồ – Chương 7
Căn nhà mới của Dollar Bill hoá ra là tầng hầm của một ngôi nhà ở Georgetown, xưa kia là xưởng vẽ của một nghệ sĩ. Phòng làm việc được chiếu rất sáng nhưng không có ánh chói và theo lời yêu cầu của y, nhiệt độ được giữ ở mười chín độ với một ẩm độ không đổi.
Bill thử tập dượt mấy lần, nhưng y không thể bắt đầu công việc với tài liệu cuối cùng trước khi có tất cả những vật liệu cần thiết. “Phải là thứ tuyệt hảo mới được”, y một mực nhắc nhở Angelo. Y sẽ không để cho tên tuổi y dính dáng tới những gì sau đó bị tố giác là một thứ giả mạo. Xét cho cùng, y cần phải giữ gìn danh tiếng.
Trong nhiều ngày họ vẫn không sao tìm được đúng đầu bút. Dollar Bill gạt tất cả cho đến lúc y được cho xem một bức ảnh của một thứ trong một viện bảo tàng nhỏ ở Vinginia. Y gật đầu đồng ý vì họ lấy được vào buổi chiều ngày hôm sau.
Bà quản thư viện bảo tàng nói với một phóng viên của tờ Richmond Times Dispatch rằng bà hết sức điên đầu và vụ trộm. Những cây bút không có một tầm quan trọng lịch sử nào hoặc một giá trị bằng tiền đáng kể nào cả. Trong lần trưng bày kế tiếp sẽ không thể tìm được thứ nào để thay thế.
– Tuỳ theo người cần chúng, – Dollar Bill nói khi được xem mẩu báo cáo cắt ra. Mực thì hơi dễ hơn sau khi Bill đã tìm được đúng ánh sáng. Khi mực lên trên mặt giấy chính xác phải kiểm tra độ nhờn bằng nhiệt độ và độ bốc hơi như thế nào để tạo nên ấn tượng cổ xưa. Y thử mấy bình mới thực hiện công việc.
Trong lúc nhiều người khác đang tìm kiếm những vật liệu mà y cần, Dollar Bill đọc mấy cuốn sách của thư viện Library of Congress 1 và dùng một ít thời giờ mỗi ngày trong Viện bảo tàng lịch sử Quốc gia 2 cho đến khi y tìm ra sai lầm duy nhất mà y có khả năng phạm phải.
Nhưng yêu cầu gay go nhất chính là tấm giấy da bởi vì Dollar Bill không phịu xem xét bất cứ loại nào cũ chưa tới hai trăm năm. Y cố giải thích cho Angelo về cách xác định niên đại bằng cách đo độ phóng xạ của các bon.
Nhiều mẫu đã bay đến từ Paris, Amsterdam, Vienn, Montreal và Athens, nhưng Dollar Bill gạt bỏ tất cả. Mãi cho đến khi một gói đồ được gửi đến từ Bremen với một mẫu được tuyển chọn có từ năm 1781, Dollar Bill mới mở một nụ cười mà thông thường chỉ có bia Guinness mới khiến nó hiện trên môi của y.
Y sờ nó, vuốt ve và âu yếm tấm giấy da như một thanh niên đối với một người tình mới nhưng không như một người tình, y bóp cuốn và trải tấm giấy ra với một sự quan tâm đặc biệt cho đến lúc y tin chắc nó sẵn sàng tiếp nhận mực. Rồi y chuẩn bị mười tấm có kích thước giống hệt nhau, biết rằng cuối cùng chỉ có một tấm được sử dụng.
Bill nghiên cứu mười tấm giấy da trong mấy giờ liền. Hai tấm bị loại ra trong một lúc và bốn tấm nữa vào lúc cuối ngày. Sử dụng một trong bốn tấm còn lại, gã chuyên gia thử phác thảo một bản sao mà Angelo khi trông thấy lần đầu tiên đã cho là hoàn hảo.
– Có thể hoàn hảo đối với con mắt nghiệp dư, – Bill nói, – nhưng một tay chuyên nghiệp sẽ nhận ra mười bảy điểm sai lầm. Tôi chỉ mới làm thử thôi. Huỷ nó đi.
Trong tuần lễ kế tiếp, ba bản sao của văn bản đã được thực hiện trong tầng hầm căn nhà mới của Dollar Bill ở Georgetown. Không một ai được phép vào phòng trong lúc y đang làm việc và cửa luôn luôn khoá lại mỗi lần y nghỉ ngơi. Y làm việc luân phiên hai giờ rồi nghỉ hai giờ. Những bữa ăn nhẹ được đưa đến cho y hai lần mỗi ngày và y chỉ uống nước, thậm chí cả trong buổi tối. Ban đêm, mệt nhoài, y thường ngủ liền một giấc tám tiếng đồng hồ không cựa quậy.
Sau khi y đã hoàn tất ba bản sao của văn bản gồm bốn mươi sáu dòng, Dollar Bill tự tuyên bố hài lòng với hai bản.
Bản thứ ba liền bị huỷ.
Angelo báo cáo lại với Cavalli. Cavalli có vẻ hài lòng với sự tiến bộ của Dollar Bill, mặc dầu không một ai trong bọn họ được phép trông thấy hai bản sao cuối cùng này.
Bây giờ mới đến phần gay go, Bill nói với Angelo, năm mươi sáu chữ ký, mỗi chữ đòi hỏi một đầu bút khác, một sức ép khác một ánh mực khác và mỗi chữ chính là cả một công trình nghệ thuật.
Angelo thừa nhận phân tích này, nhưng gã mất hứng thú khi được biết rằng Dollar Bill nằng nặc nghỉ một ngày trước khi bắt đầu công việc về các chữ ký bởi vì y cần say tuý luý một bữa.
° ° °
Giáo sư Bradley bay đến Washington vào tối thứ ba và tự đặt phòng ở Rits Carlton – khách sạn sang trọng duy nhất mà CIA cho phép vị giáo sư kiêm điệp viên không bình thường. Sau một bữa ăn tối nhẹ ở câu lạc bộ jockey chỉ mang theo một cuốn sách, Scott trở về phòng của anh trên tầng năm. Anh đổi băng tần từ một phim tồi tệ sang một chương trình khác trước khi ngủ thiếp đi trong lúc đầu óc đang nghĩ đến Susan Anderson.
Anh tỉnh giấc lúc 6 giờ 30 sáng hôm sau, chồm dậy và đọc tờ Washington Post từ trang đầu đến trang cuối, tập trung vào các bài liên quan tới cuộc viếng thăm của Rabin.
Anh vừa mặc áo quần vừa xem bài tường thuật trên đài CNN về phát biểu của thủ tướng Do Thái trong một bữa ăn tối tại Nhà Trắng đã diễn ra tối hôm trước. Rabin cam đoan với vị tân Tổng thống ông mong muốn mối quan hệ nồng thấm với Mỹ mà người tiền nhiệm của ông đã xây dựng được.
Sau một bữa điểm tâm nhẹ, Scott lững thững ra khỏi khách sạn để tìm một chiếc xe hơi của công ty đang chờ anh.
– Xin chào ông, – đó là những từ độc nhất mà người tài xế nói trong suốt cuộc hành trình. Đó là một cuộc dạo chơi trong thành phố khá thú vị vào buổi sáng thứ tư hôm ấy, nhưng Scott chì mỉm cười một cách nhăn nhó trong lúc anh quan sát cảnh kẹt xe trên cả ba làn đường về hướng ngược lại.
Khi anh đến văn phòng của Dexter Hutchins mười phút trước giờ hẹn Tess, thư ký của vị Phó giám đốc, vẫy tay ra hiệu anh cứ đi thẳng vào.
Dexter chào đón Scott với một cái bắt tay thật chặt và một vẻ tỏ ý xin lỗi.
– Tôi rất tiếc phải vội vã lôi anh tới đây, – ông vừa nói vừa lấy mẩu xì gà ra khỏi miệng, – nhưng ông Ngoại trưởng muốn anh có mặt trong buổi họp bàn với ông Thủ tướng Do Thái. Họ sẽ dùng bữa trưa chính thức như thường lệ, vừa ăn thịt cừu vừa nói chuyện vặt và dự kiến sẽ bắt đầu đàm luận vào lúc ba giờ chiều.
– Nhưng tại sao Christopher lại muốn tôi ở đó? Scott hỏi.
– Người của ta ở Tel Aviv nói Rubin sẽ đến đây với một vấn đề nào đó không được chính thức ghi vào chương trình nghị sự. Đó là tất cả những gì anh ta có thể khám phá. Không có chi tiết nào cả. Anh biểu biết về Trung Đông chẳng khác bất cứ ai trong phòng, vì vậy Christopher muốn anh có mặt. Tôi đã yêu cầu Tess tập hợp các dữ kiện mới nhất để cho anh nắm được tình hình vào lúc chúng ta tham dự phiên họp buổi chiều hôm nay.
Dexter Hutchins lấy một chồng hồ sơ từ gói bàn viết của ông và đưa tất cả cho Scott. Trên mỗi hồ sơ đều có đóng dấu “Tối mật” mặc dù nhiều thông tin chứa đựng trong đó rất có thể được tìm thấy vung vãi khắp nơi trong Ban ngoại vụ của tờ Washington Post.
Hồ sơ đầu tiên nói về bản thân người đàn ông và chính sách của Đảng lao động; các hồ sơ khác nói về PLO, Lebanon, Iran, Iraq, Saudi Arabia và Jordan, tất cả đều liên quan tới chính sách phòng thủ hiện hành của chúng ta. Nếu Rabin hy vọng lấy thêm tiền của chúng ta, ông ta có thể nghĩ lại, nhất là sau bài phát biểu của Clinton tuần trước về chính sách bên trong nước. Có một bản trong hồ sơ cuối cùng.
– Chắc là đóng dấu “Tối mật”, – Scott nói.
Dexter Hutchins nhếch mày trong lúc Scott gói ghém các tập hồ sơ lại và ra khỏi phòng mà không nói một lời nào khác. Tess mở khoá một cánh cửa dẫn tới một văn phòng bỏ không bên cạnh phòng cô.
– Tôi sẽ đảm bảo cho giáo sư không bị ai quấy rầy, – cô hứa.
Scott lật từng trang của hồ sơ đầu tiên, và bắt đầu nghiên cứu một bản báo cáo về những cuộc thảo luận bí mật đã diễn ra ở Na uy giữa người Do thái và PLO. Khi anh xem tới hồ sơ về cuộc xung đột Iraq-Iran có cả một đoạn chính anh đã viết cách đây mới hai tuần, đề xuất một cuộc không tập bất thần vào đại bản doanh của Mukhbarat ở Baghdad nếu đội thanh tra của Liên Hiệp Quốc cứ tiếp tục bị ngăn cản trong các nỗ lực kiểm soát những trang thiết bị phòng thủ của Iraq.
Lúc mười hai giờ trưa, Tess mang vào một đĩa sandwich và một cốc sữa trong lúc anh bắt đầu đọc các bản báo cáo về những vùng cấm bay phía bên kia và tuyến 36 và 32 ở Iraq. Khi anh đọc xong bài phát biểu của Tổng thống, Scott dùng một tiếng đồng hồ nữa vào việc cố đoán ra trong đầu của Thủ tướng Do thái đang có chuyển hướng hoặc điều bất ngờ gì. Anh vẫn còn chìm trong suy nghĩ khi Dexter Hutchins thò đầu qua khe cửa và nói:
– Năm phút.
Trong xe hơi trên đường đến Bộ ngoại giao, Dexter hỏi Scott có giả thuyết nào về điều mà nhà lãnh đạo Do Thái sẽ có thể gây ngạc nhiên hay không.
– Một vài, nhưng tôi cần quan sát người hành động trước khi cố đoán ra. Xét cho cùng tôi chỉ trông thấy ông ta một lần trước kia, nhưng vào dịp đó ông ta vẫn còn nghĩ Bush có thể thắng trong cuộc bầu cử.
Khi họ đến lối vào Đường C, hai người của CIA phải mất khá lâu thời giờ mới tới được tầng bảy không kém lúc Scott vào được phía trong phòng làm việc riêng của Langley. 2 giờ 53 họ được dẫn vào phòng họp vẫn còn trống. Scott chọn một chiếc ghế sát tường, ngay phía sau chỗ Warren Christopher có thể ngồi nhưng hơi chếch bên trái như thế anh sẽ trông thấy rõ Thủ tướng Rabin bên kia bàn. Dexter ngồi bên phải Scott.
Lúc ba giờ kém một, năm nhân viên cao cấp bước vào phòng và Scott thích thú thấy Susan Anderson ở trong số đó. Mái tóc vàng hoe tuyệt đẹp của cô cuộn thành lọn khiến cô có vẻ hơi nghiêm nghị và cô mặc một bộ đồ màu xanh may rất vừa vặn làm tôn thêm dáng người thon thả của cô.
Chiếc áo khoác lấm chấm trắng với cái nơ bướm nhỏ ở cổ chắc đã khiến cho phần lớn bọn đàn ông phải cách xa, nhưng cái đó lại hấp dẫn đối với Scott.
– Xin chào giáo sư Bradley, – cô nói khi Scott đứng lên.
Nhưng cô ngồi xuống phía bên kia của Dexter Hutchins và thông báo với ông rằng vị ngoại trưởng giáo sư sẽ đến gặp họ trong giây lát.
– Đội Orioles ra sao rồi? – Scott vừa hỏi vừa cúi tới trước và nhìn thẳng qua Susan, cố không nhìn vào đôi chân thon thả đấy khêu gợi của cô Susan đỏ bừng mặt. Trong một hồ sơ nào đó, Scott đã nhớ lại rằng cô là một người hâm mộ bóng chày và khi cô không tháp tùng Ngoại trưởng ra nước ngoài, cô không bao giờ bỏ qua một trận đấu nào. Scott biết quá rõ ràng họ đã thua ba trận vừa qua.
– Cũng như đội Georgetown trong NCAA 3 , – cô đáp ứng ngay tức khắc.
Scott không sao nghĩ ra một câu trả lời thích đáng hơn. Đội Georgetown đã không lọt vào được trận đầu quốc gia lần đấu tiên trong nhiều năm.
– Mười lăm người tất cả, – Dexter nói, rõ ràng đang thích thú được ngồi ở hàng ghế cao trong đám.
Cánh cửa bỗng mở ra và Warren Christopher bước vào phòng cùng với Thủ tướng Do Thái và theo sau là các viên chức của cả hai nước. Họ tách ra hai phía bàn, ngồi xuống theo thứ tự chức vụ.
Khi Ngoại trưởng Mỹ tới chỗ ngồi của ông ở chính giữa bàn, phía trước quốc kỳ Mỹ, ông nhận thấy Scott lần đầu tiên và gật đầu tỏ vẻ biết sự hiện diện của anh.
Sau khi tất cả mọi người an vị, Ngoại trưởng Mỹ khai mạc phiên họp với một bài diễn văn chào mừng theo kiểu thông thường có thể đoán trước, phần lớn có thể đem dùng cho bất kỳ ai từ Yeltsin đến Mitterrand. Thủ tướng Do thái đáp lễ theo đúng nghi thức.
Trong một tiếng đồng hồ kế đó họ thảo luận một bản phúc trình về cuộc gặp gỡ ở Na Uy giữa các đại diện của chính phủ Do thái và tổ chức PLO. Rabin bày tỏ niềm tin tưởng một thua hiệp đang tiến triển một cách tốt đẹp, nhưng vấn đề nào sâu hơn đều phải tiếp tục trong bí mật hoàn toàn, bởi vì ông sợ rằng nếu các đối thủ chính trị của ông ở Jerusalem nghe được chuyện đó, họ vẫn có thể phá huỷ toàn bộ kế hoạch trước khi ông kịp thông báo với công chúng. Christopher gật đầu đồng ý và nói việc đó sẽ được Bộ Ngoại giao Mỹ đánh giá cao nếu bất cứ một lời thông báo nào như thế có thể thực hiện ở Washington. Rabin mỉm cười nhưng không nhượng bộ. Ván bài poker đã bắt đầu. Nếu ông phải giao cho người Mỹ một vụ giao tế như vậy, ông phải nhận lại một phần trọng đại không kém. Chỉ còn một tay nữa thôi cần phải được xử lý trước khi đội quân ở nhà khám phá ra cái phần đó là gì.
Chính trong một vụ việc khác, Rabin đã đưa vấn đề ra, không một ai đoán trước được. Vị thủ tướng nói vòng quanh vấn đề trong mấy phút, nhưng Scott có thể trông thấy một cách chính xác ông hướng về đâu. Rõ ràng Christopher đã được cho cơ hội, nếu ông muốn điều đó, bác bỏ cuộc thảo luận cho nó chết ngắt trước khi Rabin đưa ra một cách chính thức.
Scott viết nhanh một bức thư ngắn trên một mảnh giấy và đưa cho Susan. Cô đọc mấy lời của anh, gật đầu cúi qua và đặt bức thư trên tấm đệm giấy thấm phía trước Ngoại trưởng Mỹ. Ông mở tờ giấy ra, liếc qua nội dung nhưng không tỏ một dấu hiệu ngạc nhiên nào cả. Scott phỏng đoán rằng Christopher đã tìm hiểu được mức độ của nỗi bàng hoàng sắp sửa được buông xuống.
Vị thủ tướng chợt chuyển cuộc thảo luận sang vai trò của Do Thái trong mối quan hệ với Iraq, và nhắc nhở vị ngoại trưởng ba lần rằng họ đã đồng ý chính sách của đồng minh về chiến dịch Bão sa mạc, khi chính Tel Aviv và Haifa lại bi bắn hoả tiễn Scud chứ không phải New York hoặc Little Rock. Có điều khiến cho anh vui thú là trong phiên họp cuối cùng Rabin đã nói: “New York hoặc Rennebunport”.
Ông tiếp tục nói ông đã có mọi lý do để tin rằng Saddam một lần nữa đang triển khai một vũ khí hạt nhân và Tel Aviv cùng Haifa vẫn còn là những ứng viên đầu tiên cho bất cứ đầu nổ nào.
– Ông Bộ trưởng cố đừng quên rằng chúng ta đã từng phải gỡ cái lò phản ứng hạt nhân của bọn họ một lần trong thập niên vừa qua, – vị thủ tướng nói – Và nếu cần thiết chúng ta sẽ làm lại.
Christopher gật đầu nhưng không bình luận một lời nào.
– Và nếu người Do thái thành công trong việc triển khai một vũ khí hạt nhân, – Rabin nói tiếp – Chúng tôi sẽ không được bồi thường hay thông cảm trong lần này. Và tôi không muốn chấp nhận nguy cơ phải gánh hậu quả về những gì xảy đến cho người Do thái trong lúc tôi làm thủ tướng.
Christopher vẫn không có ý kiến gì.
– Trong hơn hai năm kể từ khi cuộc chiến tranh Vùng Vịnh kết thúc, chúng ta đã chờ đợi cuộc lật đổ Saddam Hussein, hoặc do bàn tay của chính nhân dân của ông ta hoặc ít ra do ảnh hưởng bên ngoài do ông khích lệ. Trong lúc môi tuần lễ trôi qua, dân chúng Do thái càng thêm băn khoăn phải chăng chiến dịch Bão sa mạc đã từng là một sự chiến thắng.
Christopher vẫn không ngắt lời vị thủ tướng.
– Chính phủ Do thái cảm thấy đã chờ đợi người khác chấm dứt công tác này quá lâu rồi. Vì thế chúng tôi đã chuẩn bị một kế hoạch để ám sát Saddam Hussein.
Ông ngừng lại một lúc để cho hàm ý mình nói thêm rõ ràng, rồi mới tiếp:
– Cuối cùng chúng tôi đã tìm được một cách chọc thủng hệ thống bảo vệ Saddam và rất có thể được mời vào ngay trong hầm trú ẩn của ông ta. Tuy vậy, đây vẫn sẽ là một chiến dịch còn khó khăn hơn cả những gì đã dẫn tới việc bắt giữ Eichmann và việc giải thoát các con tin ở Entebbe 4 .
Vị ngoại trưởng ngước nhìn lên.
– Và ông muốn chia sẻ điều này với chúng tôi chứ gì? – ông trầm tĩnh hỏi.
Scott biết câu trả lời là như thế nào trước cả khi vị thủ tướng nói và anh tin chắc Christopher cũng thế.
– Không, thưa ông, tôi không muốn, – Rabin vừa đáp vừa nhìn xuống trang giấy trước mặt ông. – Tôi trình bày điều này chỉ với mục đích bảo đảm chúng tôi sẽ không đụng độ với các đồng nghiệp CIA của ông, bởi vì chúng tôi có thông tin cho biết chính họ cũng đang xem xét một kế hoạch như thế.
Dexter Hutchins đập đầu gối với một nắm tay siết chặt Scott vội vàng viết một bức thư hai chữ và chuyền qua cho Susan. Cô lấy kính ra đọc thư và nhìn lại anh. Scott gật đầu một cách quả quyết, vì vậy cô lại cúi về phía trước một lần nữa và đặt bức thư trước vị ngoại trưởng. Ông liếc mấy chữ của Scott và lần này ông phản ứng ngay tức khắc.
– Chúng tôi không hề có kế hoạch như thế, – Christopher nói – Tôi có thể cam đoan với ông thủ tướng rằng thông tin của ông không đúng.
Rabin có vẻ ngạc nhiên trong lúc vị ngoại trưởng nói tiếp:
– Và có lẽ tôi cần nói thêm rằng lẽ tất nhiên chúng tôi hy vọng chính ông sẽ không xem xét bất cứ một hành động nào như thế mà không thông báo đầy đủ chi tiết với tổng thống Clinton.
Đó là lần đầu tiên tên của vị tổng thống được nêu lên và Scott khâm phục cách vị ngoại trưởng dùng sức ép mà không hề gợi ra một sự đe doạ nào.
– Tôi nghe yêu cầu của ông, – vị thủ tướng đáp lại, – nhưng tôi phải nói với ông rằng nếu Saddam được phép tiếp tục phát triển cho vũ khí hạt nhân của ông ta, tôi không thể yêu cầu dân chúng của tôi ngồi nhìn.
Christopher đã đạt được thoả hiệp ông cần, và có lẽ còn câu giờ thêm một chút. Trong hai mươi phút kế tiếp vị ngoại trưởng cố lái câu chuyện vào vùng thân hữu hơn, nhưng mọi người trong phòng đều biết rằng sau khi những người khách của họ rời khỏi chỉ có một vấn đề sẽ được thảo luận.
Khi cuộc thảo kết thúc vị ngoại trưởng chỉ thị nhân viên của ông chờ trong phòng họp trong lúc ông tiễn vị thủ tướng ra tận xe, mấy phút sau ông trở lại với chỉ một câu hỏi cho Scott:
– Làm sao anh có thể chắc chắn Rabin lừa bịp khi ông ta nghĩ chúng ta cũng đang chuẩn bị một kế hoạch loại bỏ Saddam? Tôi đã quan sát đôi mắt ông ta và ông ta đã không lộ ra một vẻ gì cả.
– Tôi thừa nhận điều đó, thưa ông, – Scott trả lời – Nhưng đó là câu duy nhất ông ta nói ra trong hai tiếng đồng hồ mà ông ta đã đọc từng từ một. Tôi thậm chí nghĩ ông ta đã tự tay viết ra. Một cố vấn đã chuẩn bị bài phát biểu đó. Và, quan trọng hơn, Rabin đã không tin.
– Anh có tin người Do Thái có một kế hoạch ám sát Saddam Hussein?
– Vâng có, – Scott nói – Và hơn thế nữa, mặc dầu Rabin bảo ông ta đang kiềm chế dân chúng, tôi tin chắc ông ta là người đầu tiên có ý này. Tôi nghĩ ông ta biết chính xác từng chi tiết, kể cả ngày và nơi thích hợp.
– Anh có giả thiết nào về việc ông ta sẽ khởi sự như thế nào?
– Không, thưa ông, tôi không có, – Scott trả lời.
Christopher quay sang Susan.
– Tôi muốn có một cuộc hội thảo chính thức với Ed Djerijian và nhân viên cao cấp về Trung Đông của ông ấy tại phòng của tôi trong vòng một giờ nữa, và tôi muốn gặp tổng thống trước khi ông ấy đi Houston.
Christopher quay đi, nhưng trước khi tới cửa, ông ngoảnh lại.
– Cám ơn anh, Scott. Tôi vui mừng anh có thể rời khỏi Yale. Chắc là chúng tôi sẽ gặp anh thường xuyên hơn trong mấy tuần lễ sắp tới.
Vị ngoại trưởng ra khỏi phòng.
– Tôi cũng cố thể nói thêm lời cảm ơn của tôi, – Susan vừa nói vừa gom góp giấy tờ và hối hả chạy theo Thủ tướng.
– Rất vui lòng, – Scott nói rồi tiếp lời. – Cô cố nhớ bữa ăn tối hôm nay với tôi nhé? Câu lạc bộ Jockey, tám giờ?
Susan dừng lại giữa đường.
– Ông cần phải nghiên cứu công việc kỹ hơn nữa, giáo sư Bradley. Tôi đang sống với cùng một người suốt sáu năm qua và ….
– Tôi nghe nói mọi việc không được tốt đẹp, trong thời gian gần đây, – Scott ngắt lời. Dù sao đi nữa, ông ấy đang đi dự một hội nghị Seattle, phải không?
Cô viết nguệch ngoạc mấy chữ lên một mảnh giấy và đưa cho Dexter Hutchins. Dexter đọc mấy từ đó và bật cười trước khi đưa lại cho Scott: “Anh ấy lừa bịp”.
Khi hai người chỉ còn lại một mình, Dexter Hutchins cũng có một câu hỏi cần được giải đáp.
– Đâu có? – Scott nhìn nhận – Nhưng tôi chắc chắn rằng người Do thái không có bất cứ một tin tức nào để nghĩ chúng ta đang dự tính.
Dexter mỉm cười và nói:
– Cám ơn anh đã từ Connecticut đến đây, Scott. Tôi sẽ liên lạc lại. Tôi có linh cảm chiếc máy bay đến Washington sẽ như một con thoi cho anh suốt máy tháng sắp tới.
Scott gật đầu, cảm thấy nhẹ nhõm vì thời hạn sắp sửa hết và sẽ không có ai có thể trông mong thấy anh trong vài ba tuần lễ.
Scott lấy một chiếc taxi quay lại Ritz Carlton, trở về phòng và bắt đầu sắp xếp đồ đạc vào chiếc VAN nhỏ. Trong năm qua anh đã xem xét cả trăm cách mà người Do Thái có thể toan tính để ám sát Saddam Hussein, nhưng tất cả đều có nhiều điểm thiếu sót bởi vì mỗi lần Tổng thống Iraq đi đâu cũng có một lực lượng bảo vệ hùng hậu vây quanh.
Scott cũng cảm thấy chắc chắn rằng thủ tướng Rabin sẽ không bao giờ chuẩn y một chiến dịch như thế trừ phi có một cơ may lớn khiến cho các nhân viên mật vụ của ông ta có thể sống sót trở về. Do thái không cần loại sỉ nhục đó thêm vào tất cả những vấn đề khác.
Scott bật tivi mục tin tức buổi tối. Tổng thống đang nên đường tới Houston để tiến hành một cuộc gây quỹ cho thượng nghị sĩ Bob Krueger, người đang bảo vệ ghế của Lloyd Bentsen trong cuộc bầu cử đặc biệt trong tháng năm.
Máy bay của ông đã cất cánh trễ ở Andrews. Không có một lời giải thích nào về lý do chương trình bị lùi lại – vị tân Tổng thống đang nhanh chóng đạt được tiếng tăm về cách làm việc theo thời gian chuẩn Clinton. Tất cả những gì thông tấn viên của Nhà Trắng muốn nói là Tổng thống đã thảo luận nhiều vấn đề với ngoại trưởng trong vòng kín.
Scott tắt tivi và xem đồng hồ tay. Quá bảy giờ một chút, và chuyến bay của anh được sắp xếp lúc 9 giờ 40, vừa đủ thời giờ để ngoạm một món gì trước khi ra phi trường. Anh chỉ được cung cấp mấy cái sandwich và một cốc sữa cho cả ngày hôm nay, và nghĩ rằng CIA tối thiểu nợ anh một bữa ăn tươm tất.
Scott đi xuống cầu thang đến câu lạc bộ Jockey và được đưa tới một bàn trong góc. Một nghị sĩ quốc hội ba hoa đang nói với một cô gái tóc vàng bằng nửa tuổi ông ta rằng Tổng thống đã hội thảo trong phòng kín với Warren Christopher bởi vì “họ đang bàn luận về đề xuất sửa đổi ngân sách quốc phòng của tôi”. Cô gái tóc vàng có vẽ thán phục, mặc dầu cô hầu bàn vẫn dửng dưng.
Scott gọi món cá hồi hun khói, một miếng bít tết lưng và nửa chai Mounton Cadet trước khi xem xét lại một lần nữa mọi điều mà thủ tướng Do thái đã phát biểu trong cuộc hội thảo. Nhưng anh kết luận rằng nhà chính khách sắc sảo đã không để lộ ra một đầu mối nào cho biết bằng cách nào hoặc bao giờ – hoặc thậm chí có hay không – người Do Thái có thể thực hiện mối đe doạ của họ.
Theo lời khuyên của cô hầu bàn, anh đồng ý thử món đặc biệt của nhà hàng, bánh bông lan nướng với sôcôla. Anh tự thuyết phục rằng anh sẽ không được ăn uống như thế này nữa trong một thời gian và, dù sao đi nữa, anh sẽ cho tiêu tan tất cả trong phòng tập thể dục vào ngày hôm sau. Khi anh đã ăn xong miếng cuối cùng, Scott xem đồng hồ: tám giờ ba phút – vừa đủ thời gian cho một tách cà phê trước khi chộp một chiếc taxi ra phi trường.
Scott quyết định không uống thêm một tách thứ hai, giơ bàn tay lên và nguệch ngoạc trong không khí để cho biết anh muốn thanh toán tiền. Khi cô hầu bàn trở lại, anh đã cầm sẵn Master Card.
– Người khách của ông vừa mới đến, – người hầu bàn nói, không tỏ ra ngạc nhiên một chút nào.
– Người khách của tôi…? – Scott bỡ ngỡ hỏi lại.
– Hello, Scott. Em xin lỗi đã đến trễ một chút, nhưng Tổng thống cứ hỏi đi hỏi lại mãi.
Scott dửng lên và bỏ tấm Master Card trở vào túi trước khi hôn lên má của Susan.
– Anh đã nói tám giờ, phải không? – cô hỏi.
– Phải, – Scott nói, tựa hồ anh đang chờ đợi cô.
Cô hầu bàn lại xuất hiện với hai tấm thực đơn lớn và đưa cho hai người khách.
– Tôi có thể đặt món cá hồi hun khói và bít tết, – cô nói thậm chí không hé môi mỉm cười.
– Không, như thế có vẻ hơi nhiều đối với tôi, – Susan nói – Nhưng đừng để cho em ngăn cản anh, Scott.
– Không, Tổng thống Clinton không phải là người duy nhất ăn kiêng, – Scott nói – Xúp thịt và sà lách rất phù hợp với tôi.
Scott nhìn Susan trong lúc cô nghiên cứu tấm thực đơn, cặp kính gác lên chóp mũi. Cô đã thay bộ đồ xanh thẫm cắt may rất khéo bằng một chiếc áo đầm dài mầu hồng khiến cho thân hình thon thả của có lại càng nổi bật hơn nữa. Mái tóc vàng của cô lúc này buông xoã trên hai bờ vai và lần đầu tiên trong ký ức của anh, cô sử dụng son môi. Cô chợt nhìn lên và mỉm cười.
– Cô cho tôi crab cakes, – cô nói với người hầu bàn. – Họ vẫn còn đang nghe một cuộc báo cáo của Bộ ngoại giao.
– Không nhiều, – cô hạ giọng nói – Ngoại trừ nếu Saddam phải bị ám sát ông nghĩ rằng ông sẽ trở thành mục tiêu số một của người Iraq.
– Một sự đáp ứng tự nhiên mà thôi, – Scott nhận xét.
– Đừng nói chuyện chính trị nữa, – Susan bảo. – Hãy nói về những điều lý thú hơn. Tại sao anh nghĩ Ciseri bị đánh giá thấp còn Bellini lại được đánh giá cao?
Nghe cô hỏi, Scott nhận thấy Susan chắc cũng đã đọc kỹ hồ sơ nội bộ của anh từng trang một.
– Thì ra đó là lý do cô đến đây. Cô đúng là một người hâm mộ nghệ thuật.
Trong giờ kế tiếp họ bàn luận về Bellini, Ciseri, Carravaggio, Florence và Venice, không còn để tâm đến việc gì khác cho đến lúc cô hầu bàn lại hiện ra bên cạnh họ.
Cô ta khuyên họ dùng món bánh bông lan nướng với sôcôla và thất vọng vì cả hai đều từ chối ý kiến đó.
Trong lúc uống cà phê. Scott kể cho Susan nghe về cuộc sống của anh ở Yale và cô nhìn nhận rằng đôi khi cô hối tiếc đã không nhận lời mời dạy học ở Stanford, một trong năm trường đại học mà cô đã vinh dự được cấp học bổng.
– Nhưng không bao giờ ở Yale, giáo sư Bradley, – cô nói trước khi xếp khăn ăn lại.
Scott mỉm cười trong lúc cô nói tiếp khi cô hầu bàn mang hoá đơn lại:
– Cám ơn anh về một buổi tối thú vị.
Scott ký hoá đơn thật nhanh, hy vọng cô không thể trông thấy rõ và phòng kế toán của CIA sẽ không chất vấn tại sao lại có một hoá đơn cho ba người.
Khi Susan đi tới phòng vệ sinh Scott xem đồng hồ, mười giờ hai mươi lăm. Chuyến máy bay cuối cùng đã cất cánh gần một giờ trước. Anh bước xuống quầy tiếp tân và hỏi họ có thể đặt phòng khách sạn cho anh một đêm nữa hay không. Nhân viên tiếp tân bấm một vài phím trên máy vi tính, xem kết quả và nói:
– Vâng, tất cả đều ổn, giáo sư Bradley. Điểm tâm châu Âu và Washington Post như thường lệ?
– Xin cám ơn, – anh nói lúc Susan lại đến bên anh.
Cô khoác tay với anh trong lúc họ bước về phía những chiếc taxi đậu trên đoạn đường trải sơn. Người gác cổng mở cửa sau cửa chiếc taxi đầu tiên trong lúc Scott hôn lên má Susan một lần nữa.
– Hy vọng sớm gặp lại cô.
– Điều đó tuỳ thuộc vào ông Ngoại trưởng, – Susan vừa nói vừa nhăn răng cười rồi bước vào ghế sau của chiếc tại.
Người gác cổng đóng của lại và Scott vẫy tay chào trong lúc chiếc xe hơi chạy xuôi theo đại lộ Massachusetts.
Scott hít một hơi thật sâu không khí của Washington và cảm thấy rằng sau hai bữa ăn liền một buổi tối một cuộc đi bộ quanh khu cao ốc này chắc sẽ không tác hại gi cho anh. Tâm trí anh cứ luân phiên nghĩ tới Saddam và Susan, cả hai người anh đều không sao đánh giá nổi.
Anh thả bộ trở về Rits Carlton khoảng hai mươi phút sau, nhưng trước khi đi lên phòng anh trở lại nhà hàng và đưa cho cô hầu bàn một tờ hai mươi đô la.
– Xin cám ơn giáo sư, cô ta nói. Tôi hy vọng ông thưởng thức cả hai bữa ăn.
– Nếu bao giờ cô cần một công việc làm ban ngày, – Scott nói, – Tôi biết một cơ quan ở Virginia có thể sử dụng tới tài năng đặc biệt của cô.
Cô hầu bàn cúi đầu chào. Scott rời nhà hàng, lấy thang máy lên tầng nằm và thong thả đi xuôi theo hành lang tới phòng 505.
Khi anh rút chìa khoá ra khỏi ổ và đẩy cánh cửa mở, anh ngạc nhiên phát hiện anh đã để đèn sáng. Anh cởi áo khoác và bước xuống hành lang vào phòng ngủ. Anh chợt dừng lại và nhìn sững cảnh tượng trước mắt anh. Susan đang ngồi thẳng người trên giường trong một chiếc áo ngủ mỏng tanh, đọc các lời ghi chép của anh về cuộc hội thảo buổi chiều, cặp kính của nàng tựa trên chóp mũ. Cô ngước lên nhìn anh với một nụ cười thẳng thắn.
– Ông Ngoại trưởng bảo em rằng em phải tìm hiểu càng nhiều càng tốt về anh trước buổi hội thảo sắp tới.
– Bao giờ em sẽ hội thảo?
– Sáng mai, chín giờ đúng.
— —— —— —— ——-
1 Library of Congress: thư viện quốc gia ở Washington D.C được thành lập năm 1800 bởi Quốc hội Mỹ trước kia được dành riêng cho các nghị sĩ, nay là một trong những thư viện cho công chúng lớn nhất thế giới.
2 National Archives.
3 NCAA: National Collegiate Athletie Association: Hội Vận động viên Đại học Quốc gia.
4 Entebbe: thành phố ở Nam Uganda, thủ đô của Uganda thời còn là một nước bảo hộ thuộc Anh (1894 – 1962).