Lửa Hận Rừng Xanh

Chương 6: Người đẹp hồng cẩu quẩy


Đọc truyện Lửa Hận Rừng Xanh – Chương 6: Người đẹp hồng cẩu quẩy

Đường khuya rong ruổi, lát sau vừa leo lên một ngọn đồi thưa, chợt một
cơn gió rừng thổi vù vào mặt, Võ Minh Thần bỗng thấy tối tăm mặt mũi,
lảo đảo muốn sụm xuống bờm ngựa. Hai tai ù hẳn, trong một thoáng giây,
tiếng động rừng đêm như vụt lùi về cõi xa xăm nào, chàng tuổi trẻ chỉ
kịp la lên một tiếng, rồi tứ chi bủn rủn, đồi núi đổ nhào, chàng tuổi
trẻ lăn xuống chân ngựa.

Bỗng nghe bên tai mơ hồ có tiếng ai gọi mình, giọng trong vắt thánh thót như suối đàn, rõ giọng đàn bà Kinh:

-Minh Thần! Minh Thần! Tỉnh dậy mau! Chàng tuổi trẻ giật mình mở choàng mắt ra ngạc nhiên thấy mình ngồi trên lưng ngựa, trên ngọn đồi
gió, dòm trước sau chẳng thấy Quản Kình đâu. Kinh ngạc, chàng trai vừa
toan cất tiếng gọi, bỗng thấy từ đâu trôi đến một đám sương mù dày đặc,
lơ lửng dừng lại ngay trước đầu ngựa cách khoảng năm, sáu thước. Trong
đám sương mù bỗng có tiếng âm trầm phát ra thỏ thẻ như tiếng chim oanh:

-Minh Thần! Mau tắt rừng đi lên hướng Cao Bằng! Tính mạng đang
nguy, chỉ mấy chục giờ nữa sẽ lìa trần! Đi mau! Đi mau! Gần đây có đường xuyên sơn!

Giật thót mình, chàng trai nghĩ ngay đến câu đe dọa của Giao Long chúa sau khi vồ trúng lưng chàng, chàng trai vùng kêu lên:

-Bà… là ai… mà lại biết kẻ này lâm nguy?

Vầng khói mù lừ lừ trôi lại gần thêm, tiếng đàn bà thánh thót vụt trở nên não nùng khôn xiết:

-Minh Thần con ơi! Mẹ con đây! Mười bảy năm rồi, hồn oan nương
theocây cao bóng mát sương gió canh khuya vật vờ trong cõi u minh,
nghiệp chướng nặng nề, chưa thể siêu sinh. Mẫu tử tình thâm, thương con
côi cút, mẹ dạt về báo tin dữ cho con hay! Mau lên thẳng Cao Bằng may
còn cơ sống sót!

Nghe tiếng dị xưng là mẹ, chàng mồ côi bỗng rúng động tâm thần, mừng mừng tủi tủi, vùng lên kêu:

-Trời! Mẹ… mẹ ơi! Mẹ! Từ ngày mẹ thác oan, mười bảy năm lưu
lạc, lớn lên, con không nhớ mặt mẹ. Trời ơi! Mẹ đâu? Sao mẹ không cho con thấy
mặt? Im mấy khắc, rồi tiếng đàn bà lại nổi lên buồn thảm lạ thường:

-Âm dương cách trở, ngàn đời cách ngăn. Con chớ hỏi gì! Để mẹ
chữa tạm cho con “vết thương oan nghiệt” kéo dài mạng sống mong gặp được thầy hay.

Tiếng nói giọng Kinh êm ái như xoa dịu tận linh hồn cô đơn của
chàng tuổi trẻ mồ côi, khiến chàng trai vùng sa nước mắt, chới với hai
tay, tiếng nói vừa dứt, bỗng đám sương lừ lừ trôi sát lại đầu ngựa, tan
loãng dần, rồi ngay trước mắt Võ Minh Thần, chợt hiện lên một bóng trắng toát như vôi.

Rào cơn gió nhẹ, cái bóng nổi rõ từng đường nét rồi dưới ánh
trăng khuya, sực hiện ra thành một thiếu phụ trẻ đẹp tuyệt trần, tuy
khuôn mặt dáng thân vẫn phảng phất có một làn sương mỏng che phủ như tấm “voan” trắng, nhưng Võ cũng cảm thấy rõ ràng đường nét đậm đà: Mắt
phượng mày ngài, mũi dọc dừa, môi cong, má lúm đồng tiền, cổ cao thon,
mặc xiêm y Thái trắng phá lãnh quét gót, gấu thủy ba kim tuyến vàng óng
ánh bó sát thân tròn lẳn, đẹp nghiêm trang phúc hậu khác thường, riêng
hai con mắt long lanh sâu thăm thẳm và bí ẩn như dòng sông khiến gỗ đá
cũng phải mủi lòng như thấy “cả nỗi buồn số kiếp oan tình thê lương trùm thiên địa khôn nói nên lời”.

Vừa thấy thiếu phụ, Võ Minh Thần chợt mang máng như đã gặp đâu
rồi, hình ảnh mười bảy năm xưa in sâu trong tiềm thức đứa bé lên hai vụt dậy. Chàng tuổi trẻ vùng kêu “mẹ, mẹ” vọt luôn ngựa tới, định sà ôm
lấy. Thiếu phụ đưa hai tay như đỡ lại, ngựa đã chồm lên đứng hai chân
sâu, hạ xuống, mãi khắc đó Võ mới để ý thấy trước mặt chỉ là vực thẳm vì ngựa đứng chênh vênh chỏm núi.

Chàng trai vừa toan gọi nữa, tự nhiên lưỡi như cứng đơ không sao nói được nữa, toàn thân tê dại, chỉ đứng giương mắt nhìn. Thiếu phụ nhè nhẹ lướt đến bên cổ ngựa, đứng ngó chàng sâu thăm thẳm. Dưới trăng rõ
ràng cặp mắt phượng từ từ ứa lệ, thiếu phụ đi ra phía sau lưng chàng.

Võ cảm rõ có bàn tay mát dịu xoa vào lưng chàng, dưới gáy chừng
nửa ngón tay, nhưng không ngoái trông lại nổi. Độ mấy khắc, thiếu phụ
lại đi ra phía trước, đứng ngay đầu ngựa, ánh mắt chứa đựng đầy vẻ
thương mến khổ đau.

Võ định gào lên, nhưng không sao mở miệng được. Chàng thấy rõ
sương mù bỗng đùn lên đầy dần, thoắt đã xóa nhòa hình bóng thiếu phụ,
bên tai mơ hồ có tiếng thánh thót như tiếng chim oanh:

-Minh Thần! Âm dương cách trở… Mẹ về cõi u minh… con mau đi về hướng tắt Cao Bằng! Đi ngay cho kịp!

Võ ú ớ, sương mù lùi xa dần, bỗng có một bàn tay đưa ra xô mạnh một cái, cả người ngựa lộn nhào xuống vực.

Võ Minh Thần kinh sợ la lên tiếng lớn, vùng tỉnh dậy, mới hay
như vừa trải giấc chiêm bao. Chàng trai mở mắt ra, thấy mình đang nằm
trên mặt cỏ ngọn đồi gió, gối đầu lên đùi Quản Kình.

Thấy chàng tỉnh, Quản Kình bật reo mừng rỡ, mặt mày chưa dứt vẻ lo sợ:

-Trời cậu hai sao thế? Cậu hai! Tự nhiên cậu hai la lên ngã lăn
xuống, may đỡ kịp! Tưởng trúng phong tôi giật tóc lay gọi, vẫn nằm đờ,
tôi sờ lưng thấy vết thương rất lạ đúng năm lỗ đỏ chót như chấm son đã
tưởng…

Võ Minh Thần bàng hoàng hết sức, vội nhỏm dậy, kể qua cho Quản
Kình nghe chuyện vừa xảy ra… như trong chiêm bao. Quản Kình cũng cho
là lạ, vội vạch áo giáp tiểu chủ, bật đèn bấm soi lại.

Áo chàm ngoài, áo giáp trong có một vết búa chém trúng sâu, xế
dưới gáy, lại có đúng năm lỗ thủng xuyên qua như năm lỗ khoan dùi rất
“ngọt” chạm mặt da in lằn năm vết rành rành.

Nhưng Quản Kình bỗng bật kêu kinh dị, vì năm vết đỏ chót vừa rồi y thấy rõ, giờ chỉ còn là năm vết đỏ rất mờ như năm vết cắn nhẹ, nhìn
kỹ mới thấy.

-Ồ lạ chưa! Vết đỏ mờ gần hết! Thôi đúng vong hồn bà linh thiêng về độ cho cậu hai rồi! Đằng kia, đúng có lối mòn xuyên Cao Bằng, biên
giới ta phải đi ngang ngả đó mới được, chớ lấy làm thường.

Võ thấy đỡ choáng váng, lưng không còn tê như trước, chàng trai
tin là hồn oan mẫu thân về chỉ bảo cho con côi, chàng trai phủ phục
xuống vọng thinh không, khấn khứa, nước mắt đầm đìa, càng đau nỗi mẹ
thác oan.

Đoạn gạt lệ, lần túi kiếm linh đơn uống, chàng tuổi trẻ cùng Quản Kình nhảy lên lưng ngựa, đi liền.

Qua mấy cánh thung đồi, vừa tới gần đầu đường mòn, bỗng thấy
phía đường Bắc Kạn có một toán nhân mã lố nhố đi tới, ngựa chạy nước
kiệu nhỡ, hai người chưa nhìn rõ bọn nào, vội tránh dạt sang vệ đường,
cố ý ẩn sau cây rậm cho tiện.

Nhưng vừa dạt vào thì toán kia cũng vừa sịch tới, mới hay đó là
một toán lính nhà nước khoảng hơn ba mươi người, vừa bộ vừa kỵ, vừa
võng, tàn che, trống gióng, loa kêu, tiền hô hậu ủng coi rất lạ mắt.

Đoàn người tiền hô hậu ủng này đi rất nhanh, thoắt đã gần kề.
Dưới trăng, dòm kỹ, coi càng lạ vì thấy có bọn mặc áo nâu, đội nón chóp
cầm giáo dài, kẻ che tàn vàng tán tía, túi roi tay thước, bắc loa dẹp
đường, lố nhố lại có lẫn lính khố xanh, lính dõng, lính khố đỏ, sắc phục đúng lính nhà nước Đông Dương đương thời. Ngạc nhiên, Võ ghé tai Quản
Kình thì thào:

-Sao lại có đám rước giữa rừng khuya thế này? Cả lính, có cả tàn tán… lạthật!

Quản Kình nghển cổ dòm, chưa kịp nói chi, bỗng thấy tên lính áo nâu đỏ cao lênh khênh chạy bộ, bắc loa hô vang rền:

-Phủ… u… ủ phụ… u… ục…! Bái! Tiếng loa đồng rên rỉ
canh khuya kéo lê thê khắp cánh thung rừng âm chưa tắt hẳn, đoàn nhân mã kỳ dị đã trẩy tới chỗ thầy trò Võ đứng, cứ nghiễm nhiên đi qua, mắt ngó thẳng. Ngay lúc đó, bỗng một tốp kỵ lực xăm xăm đi tới, dừng trước mặt hai người, dẫn đầu là một người to lớn râu ria xồm
xoàm mặc lối quan võ cổ, tay xách cây búa to, dòm hai người, trợn mắt
hỏi:

-Không thấy xe giá chúa thượng giáng lâm sao? Triều bái mau! Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Quản Kình buột miệng hỏi:

-Chúa thượng nào? Mà ngài là ai?

Viên tướng cổ râu xồm đảo cây búa lớn tiếng hét chìm như sợ kinh động thánh giá:

-Khắp thiên hạ thượng du này còn ai không biết, các ngươi ở xó
rừng nào không hay? Ta là quan Tư Mã Điện Tiền chỉ huy cấm vệ! Quỳ xuống mau! Xe giá tới nơi rồi!

Càng ngơ ngác, thầy trò Võ Minh Thần đưa mắt dòm ra, thấy một
tốp áo nâu bốn người chạy bộ khiêng một cái cáng gấm lớn, bốn người đều
cao lêu nghêu, cái cáng còn có khung cao quá đầu, vắt vẻo trên cao coi
như cái kiệu, có mui gấm, hai bên có bốn người che tàn vàng tán tía, sát hai bên lại có mấy cô gái xiêm y rực rỡ khiêng đòn gánh chạm trổ, trên
treo lủng lẳng đủ thứ.

Dọc trước sau tả hữu lại có lính khố xanh, dõng, khố đỏ cưỡi
ngựa theo “phò”, sau cùng còn có một đội mang đủ kèn Tây trống Tây, đi
cùng một đội bát âm đàn sáo kèn Tàu như sênh tiền… v. v… coi càng
lạ, tài thánh cũng không đoán nổi đám rước thần rước vua hay một đám
rước cổ kim hỗn hợp từ cõi âm lên.

Nên khi đoàn khiêng cáng tới gần, thầy trò Võ vẫn cứ ngồi nguyên trên lưng ngựa lẩm bẩm: “lạ dữ”, “người hay ma”, “lính trần hay lính
âm”, “cái cáng sao bảo xe giá”… Viên tướng cổ trợn mắt quát:

-Khi quân nghịch thượng tội đáng chém đầu!

Lời dứt búa đã khua tít bổ xuống đầu thầy trò Võ nhanh như chớp. Võ

Minh Thần giật mình còn ngơ ngác, Quản Kình đã giơ tấm khiên lên đỡ “xoảng” tiếng lớn, lưỡi búa trườn đi, viên tướng mất đà chúi người,
Quản Kình rút luôn gậy xương Mạc thú gạt “chát” cái văng ngay lưỡi búa lên cành
cây cắm “phập”.

-Lão này là ai dám chém chủ mỗ? Quen thói nạt người!

Viên tướng cổ bị mất búa suýt ngã, vừa thẹn vừa giận, vùng lui ra, hét:

-Phạm xe giá, đánh quan Tư Mã! Quân đâu! Bắt lại! Toán lính nhao nhao xông tới, Võ Minh Thần vùng quát lớn:

-Dang ra! Bọn ta đã tránh bên đường còn muốn gì nữa? Các chú là binh vua lính chúa thật, cũng phải có phép chứ! Cáng vừa tới, bỗng trong cáng có tiếng người cười nói lớn vọng ra:

-A, người nào ăn nói nghe được lắm, vừa tai trẫm đó! Bay dừng!
Bay lui! Tiếng truyền nghe rất tự nhiên, nhưng đầy oai quyền, sĩ tốt dạ
ran, lùi dạt cả lại răm rắp. Cáng gấm tàn vàng tán tía dừng xế trước mặt thầy trò
Võ. Hai người dòm vào, mui phủ kín chẳng thấy gì cả. Bỗng có tiếng phát
ra:

-Nhà ngươi là ai đêm hôm khuya khoắt còn lang thang trên đường này? Phải mới từ hồ Ba Bể tới không?

Hai thầy trò Võ Minh Thần liếc nhìn nhau ngạc nhiên vì chợt nhận ra tiếng vừa nói câu trước đúng giọng đàn ông, câu sau lại đúng giọng
đàn bà. Võ từ tốn cũng đáp bằng tiếng Thổ:

-Quả nhiên đúng vậy. Bọn mỗ đang có việc gấp, cần phải đi liền, xin có lời chào quý nhân.

Dứt lời, hất nhẹ Quản Kình cùng nghiêng chào, giục ngựa đi luôn. Chợt trong cáng tiếng dị lại đưa ra, lần này lại là tiếng trẻ con léo
nhéo, hai người lấy làm lạ:

-Khoan! Chớ vội! Trẫm hỏi đã! Gặp nhau giữa đường, không duyên
cũng nợ, nghe khẩu khí rõ khách hào hoa! Bay đâu! Thắp đuốc lên, quả
nhân xem mặt xem duyên hay nợ, vợ hay chồng, ông hay cụ, cú chết hay
chim sa, mặt xấu như hoa hay đóa hoa vương giả, kết tinh cặn bã hay kết
quả tinh hoa, dòng dõi con nhà hay giống mãng phu ngũ đại!

Tiếng từ trong cáng hắt ra dập dồn như nước chảy, có vần có điệu như đọc vè, cứ mỗi câu, thầy trò Võ lại giật tim một cái vì cứ mỗi câu
lại một thứ giọng, đủ giọng nam phụ lão ấu, giọng Kinh giọng Thổ, êm ái, chói tai, ồm ồm lệnh vỡ, nỉ non tiếng đờn v… v và càng nói càng
nhanh, cứ mỗi tiếng lại một giọng khiến hai người tưởng chừng có hàng
trăm miệng chõ vào lại cùng nói nghe như chiêng khua trống thúc lệnh vỡ
chuông rè, như dùi xiên vuốt cào muốn điên đầu nhức óc.

Quản Kình chợt biến sắc mặt ghé tai chủ thì thầm:

-Ôi thôi! Đúng “nó” rồi! Tai họa! Tai họa! Hung thần trăm giọng! Phải liệu cách rút mau! Đúng “nó”!

Võ nghe bốn tiếng “hung thần trăm giọng” giật mình vừa sực nhớ
đến lời chúa Thập Vạn kể về một nhân vật quái gở có cả trăm giọng trăm
bộ mặt, chưa ai thấy mặt thật, bỗng nghe “xòe xòe” nhiều tiếng điểm
đánh, ánh đuốc đã sáng rực khúc đường rừng, bọn vệ tốt cổ kim dàn hàng
ngang tiến luôn lại gần hai người, ánh lửa soi bừng lên mặt, rõ từng
chân tơ kẽ tóc. Võ Minh Thần, Quản Kình hơi cau mày, nâng luôn vành
khiên lên tận cằm phòng hờ, bỗng nghe trong cáng có tiếng cười thét vọng ra:

-Ha ha! Hảo tướng quân! Hảo tướng quân! Một chủ một tớ, mỗi
người một vẻ xứng bậc trượng phu! Chủ đẹp như Công Tôn Ái, Tử Đô, mặt
lạnh như nước đá mà gỗ đá phải mê, tớ mặt đen đủi cô hồn gan lì cóc tía, lấy vợ Dạ Xoa, Dạ Xoa phải sợ! Gặp gỡ giữa đường, ngàn năm một thủa, có nợ nhau rồi! Bay đâu! Đình binh! Tiến tửu!

Võ Minh Thần đang có việc gấp, vội đưa mắt cho Quản Kình, hai
người lững thững men dọc đường, toan bỏ đi, nào ngờ sĩ tốt đã nhích lại, dàn ngang trước ngựa, một ả nữ thoăn thoắt tiến lại gần cúi rạp đầu
kính cẩn:

-Thỉnh công tử hạ mã, thiếp dâng ngự tửu! Võ cứ ngồi nói lớn:

-Cảm ơn! Bọn mỗ có việc, cần gấp không thể trì hoãn! Xin miễn cho… khi khác!

Mặc! Mấy ả nữ đã lôi bình vàng chén ngọc xuống rót rượu, cầm
tiến lại đứng giữa khoảng cáng và bọn Võ. Ả vừa nói với Minh Thần vừa
toan giơ tay cầm chén rượu dâng, chợt tiếng dị trong cáng phát ra trầm
khô:

-Cho lui! Khách kỳ ngộ, đối ẩm, quả nhân ban! Tử Đô! Hãy uống cùng ta chén rượu đào!

Võ nói luôn:

-Cảm ơn! Mỗ đang bệnh phải cữ!

-Rượu vua rượu chúa uống vào bá bệnh tiêu trừ! Nào!

-Mỗ không uống rượu của người ẩn mặt! Mỗ kiếu!

-Khoan! Phải uống! Ai gặp trẫm cũng phải uống, không được chối! Bay đâu! Đưa “con trùng rượu” ra đây cho khách coi!

Từ nẻo hậu, có tiếng “dạ” ran, rồi hai tên lực lưỡng khiêng lên
một cái cáng phủ vải điều, đứng xế bên cáng gấm. Chợt mảnh vải điều lật
cuộn lên, để lộ trong cáng có một người mặc áo đoạn, đội khăn xếp, quần ống sớ,
mặt mũi phương phi, nằm ngáy khò khò, mê man như chết.

-Y xưng Tửu Chúa, đấu rượu với ta mới có hai ngày đêm, uống có
mười hũrượu độc đã gục! Ta phải cho khiêng y từ miệt Phổ Lu xuống đây,
vẫn chưa tỉnh đó!

Nhờ ánh đuốc, thầy trò Võ chú mục dòm nhận ngay ra ra chính Tửu Chúa mới gặp bên Hồ Kiều. Tiếng trong cáng gấm hắt ra:

-Y đấu thua, từ nay làm đầy tớ, quân hầu y cũng thuộc về ta! Nào!

-Khoan! “Người” là ai? Nếu không nói tên đàng hoàng, mỗ quyết không thèm uống!

-Hà hà! Cứ cạn ly đầu, sau diện kiến! Ta cùng nhau có nợ, sao nỡ chối từ? Bỗng thấy mép mui tua cuộn lên, rồi một chén đầy rượu lừ lừ
dâng lên bay vù lại đầu ngựa Võ.

Đã vận sẵn điện công, Võ đẩy phắt lại, cứ thế chén rượu nay qua
lại đến chục lần, vẫn không đổ, chợt xẹt lại gần một ngọn đuốc, dốc
ngược, rượu đổ luôn vào ngọn lửa, “bùng” một tiếng, lửa bốc cao tận tàn
cây, cháy không còn một giọt.

Võ quát:

-Vô thù vô oán sao đãi rượu độc? “Vạn độc cường toan tửu”, tượng sắt uống vào cũng thủng ruột, định hại mỗ sao?

Tiếng cười ré lên:

-A! Giỏi! Ngửi qua đã biết! Uống nổi chăng?

-Sao không? Nhưng ta đang bệnh không thích “đắng cay ngậm bồ hòn”! Vừa nghe Võ nói xong, tiếng cáng cười ré lên, khoái chí:

-Ông Tử Đô này còn giỏi rượu hơn lão Tửu Chúa kia. Y biết đủ
thứ, lại không biết ngậm bồ hòn uống rượu cường toan. Có ngủ không? Sâu
rượu! Dậy coi! Dậy coi!

Lạ thay! Đang gáy gỗ khò khò, vừa dứt tiếng gọi, người nằm võng bò nhỏm dậy ngay như kẻ ngủ vờ. Mắt nhắm mắt mở, kêu lớn:

-Ôi chao! Buồn ngủ chết thôi! Đứa nào gọi… phá giấc ngủ của trẫm tội khi quân đáng chết.

Kêu xong, dụi mắt, định lăn ra ngủ tiếp, nhưng vừa ghé xuống lại lật đật chồm dậy, dáo dác nhìn quanh kêu:

-Bay đâu! Phải chúa thượng gọi ta? Ôi chao! Ta ngủ ai gọi nổi,
trừ chúa thượng! Phải chúa thượng gọi trẫm… úy! Gọi hạ thần có chuyện
chi?

-Quả nhân có khách, mời không chịu uống, quả nhân muốn nhà ngươi mời khách thay cho trẫm! Cứ ngồi nguyên trên cáng!

Võ Minh Thần, Quản Kình nhìn quả Tửu Chúa không sai, nhưng coi
lúc này y chẳng còn vẻ chi là oai vệ tuy vẫn xưng mình là bậc đế vương
tửu có ngai vàng, mà coi vẻ xun xoe khép nép không khác một viên lý
trưởng đang đứng trước quan huyện, lại nghe y “khải chúa thượng”, hai
thầy trò suýt phì cười, tưởng coi diễn tuồng.

Tửu Chúa cúi lom khom, liếc dòm sang phía cáng gấm, vừa nghe
dứt, y vùng nói lớn “hạ thần xin lĩnh mệnh”, và ngẩng mặt lên, đưa cặp
mắt còn ngái ngủ dòm về phía trước, miệng cười nhạt dọa dẫm:

-Người anh em nào đó đêm hôm khuya khoắt đi đâu có phước được
gặp “bực đế vương thánh tửu bách diện thiên âm” cho không uống mà lại từ chối? Uống rượu thua còn được ngủ vài ngày, không uống rượu nghe âm
nhạc, ngủ giấc nghìn thu đàng nào hơn chú?

-Nhà ngươi khoe Tửu Chúa không dám uống rượu cường toan, y còn
trẻ chỉ ngửi qua đã biết “đắng cay ngậm bồ hòn” uống rượu át xít thành
vôi đó.

Tửu Chúa chói mắt, giơ tay che ngang mày dòm lia, lúc đó thầy
trò Võ cố ý đứng khuất xế sau cành cây rủ, thoạt tiên y tưởng quân hộ
tống, chợt lại có hai tên cầm hai ngọn đuốc lớn tiến đến y mới sực thấy
dáng áo chàm, khiên loe, giật nảy mình trợn mắt vùng kêu lên một tràng
như lệnh vỡ:

-Y a! Tưởng khách nào, hóa “chú Thổ vòng xanh”! Ôi chao! Chính
chú Thổ đeo cái vòng càn khôn đây! Đêm nọ đã ném kẻ hạ thần từ trên cầu
Trấn Phòng xuống sông, quỷ quái tinh ma, bà già gặp kẻ cắp! Mặt lạnh hơn tiền, lắm mẹo nhiều mưu, Song Ma đều bị lừa đau hơn hoạn! Ha ha! Trấn
Hồ Kiều, đường Bắc Kạn hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, chú mày chẳng
chịu. Vô duyên đối diện bất tương phùng, không chịu không xuôi!

Ngay khi đó, trong cáng gấm, tiếng dị vọng ra đầy kẻ cả:

-Sâu rượu hoa ngôn uống nhiều nói lắm! Thôi! Cho nhà ngươi nằm ngủ thêm vài ngày nữa. Để trẫm đích thân tiếp món khách quý này!

Đang nói bô bô, Tửu Chúa im luôn nằm lăn ngay xuống, nhưng y vẫn cố ngóc cổ lên “tâu”:

-Khải… Thổ vòng xanh nhiều mẹo, cao tài. Chúa thượng nếu cho
“bái yết long nhan” xin cho hạ thần được thức hầu rượu để… để được
thấy mặt rồng một phen!

Tiếng trong cáng hắt ra lạnh lùng:

-Sâu rượu! Muốn ngủ giấc ngàn thu? Đấu nổi ba ngày ba đêm mới được thấy mặt, đã quên sao? Gáy gỗ!

Lạ thay! Lời vừa dứt, Tửu Chúa lập tức kêu: “dạ dạ xin tuân
lệnh… Gáy gỗ” và nằm thẳng cẳng ra võng, bắt đầu nhắm nghiền mắt ngủ
im thin thít, không dám hé, không đầy mười khắc đã nghe tiếng y ngáy khò khò không thua một kẻ vô tư lự nhất đời. Thầy trò Võ Minh Thần bất giác đưa mắt nhìn nhau, càng lấy làm lạ.

Quái gở! Một kẻ phương phi bệ vệ, cao bản lãnh như Tửu Chúa kia
sao có vẻ phục tùng kẻ nằm trong cáng đến thế được, không khác một đứa
con nít nghe theo lệnh người lớn vậy, coi chẳng còn gì là thể thống con
nhà võ nữa! Chắc kẻ kia phải là tay lợi hại khác thường! Lôi thôi! Làm
cách nào rút lui cho êm mới được!

Đang thì thầm, chợt nghe trong cáng tiếng dị truyền ra:

-Khiêng xuống phía sau cho ngủ! Quân dạ ran, khiêng luôn cáng
Tửu Chúa về nẻo hậu, tiếng khò khò hét chìm. Thầy trò Võ đưa mắt nhìn
địa thế, chỗ đứng ngựa là đồi cây rậm, xế phía trước con đường chạy
quanh co vào một khu có nương đồi thưa, có thể xuyên được, nhưng bọn này lại cản mất lối vây quanh. Đang tính kế, bỗng lại nghe tiếng dị quát trầm:

-Đình binh! Kiếm chỗ phong quang sơn thủy! Chúa mời khách uống
rượu tương phùng! Lệnh vừa ra, lập tức có tiếng dạ ran, bọn lính cổ lính kim xách súng ống dáo mác chạy như đèn cù quanh chỗ thầy trò Võ đứng.

Võ tò mò đứng dòm, thấy bọn khiêng cáng cùng đám gái hầu vẫn
đứng nguyên, nãy giờ tuy thản nhiên, nhưng Võ vẫn ngầm vận điện công,
thình lình thấy nóng mặt khiên, rồi rõ ràng như có một bàn tay vô hình
đang trôi trên nền thép “đi” về phía mép khiên, chạm vào khuỷu tay trái. Giật thót người, Võ Minh Thần vội ngầm vận thêm nhân điện, bất thần
thấy rõ động ống tay áo, Võ đưa luôn tay phải đẩy vụt một cái, đồng thời đè luôn lên cái vòng đeo tay.

Bàn tay vô hình rụt ngay lại. Võ đẩy vụt cái nữa, bỗng thấy hết
chạm sức nóng, chàng trai liếc nhìn ra cáng gấm, thấy góc mui động nhẹ
rõ vừa cuốn hạ xuống. Sực nghe phát một tràng cười lanh lảnh:

-Sâu rượu nói không ngoa! Đúng khách có vòng xanh! Hà hà! Kỳ
ngộ! Khách vòng xanh! Hãy nán uống cùng ta vài hũ rượu, ta có điểm muốn
nói cùng khách.

Ngặt nghèo khó xử. Kẻ bí mật trong càng vừa sờ thấy chiếc vòng
tay, giọng người nhu hòa đầy áp lực, bản lãnh y tới mức nào cứ nhìn Tửu
Chúa thân bại danh liệt nằm gáy gỗ đủ rõ. Khi theo tôn sư và ngày tới
miền Thập Vạn chàng đã được nghe qua một nhân vật thần bí khét tiếng võ
lâm nhưng chưa từng thấy mặt.

Nhân vật này có hàng trăm bộ mặt, nói trăm giọng và bản lãnh
cũng lợi hại hàng trăm mặt… Y không tên, không tuổi, thiên hạ không
biết gọi bằng gì, chỉ bằng cứ vào “trăm giọng” và lối tự xưng của ý để
gọi.

Nhân vật thần bí này có tính quái gở là rất ghét ai gọi “vương,
chúa, đế”, ghét luôn kẻ xưng thế, y chỉ thích chữ “quân”, xưng “trẫm,
quả nhân”, nhưng ai muốn gọi chi cũng mặc, không hề nói ra, chỉ biểu lộ
bằng hành động.

Thiên hạ thường gọi y là “ma quân”, “thiên diện”, “thiên âm” và
những kẻ được gọi là “ma quân”, “thiên diện”… v. v xưng vương, chúa,
đế đều được y mời “uống rượu”, không uống, sẽ “nghe nhạc”, gục chết như
chơi. Ngược lại, nếu gọi đúng ý, dẫu kẻ thù, y cũng đáp lại bằng mấy cử
chỉ tốt đó, nếu vô can y lại giúp hết mình. Nhưng rất ít ai biết được ý
y.

Nên giới tứ chiếng coi như một hung thần, thường cứ thấy tàn
vàng tán tía nghênh ngang loa dậy là kiếm cách lánh cho xa. Thầy trò Võ
Minh Thần không may ngộ hung thần giữa lúc khí lực suy kiệt, tiến thối
lưỡng nan, nghe tiếng trong cáng phát ra, lại thấy thủ hạ y chạy như đèn cù, Võ hơi nhíu mày, chưa biết tính cách nào cho ổn, chợt Quản Kình sực nhớ ra điều chi, vùng ghé tai chủ thì thào:

-Cậu hai à! Nguy dữ! Đúng “hắn” rồi! Sát thần! Bá diên thiên âm
quỷ sát ma quân… v. v… lắm tên không kể xiết! Gặp “hắn” là gặp tử
thần rồi! Cậu hai đã bị thương, địch sao nổi. Ông Trưởng Sềnh có lần
suýt chết về tay hắn đó. Không ai biết hắn là giống gì. Tuy nhiên ông
Trưởng Sềnh nhà ta có kể: Hắn có tính lạ hình như không thích người ta
gọi “quân” như “ma quân”, “tinh quân” là nguy, phải gọi là “thánh quân”, “bá diện”, “bá âm” đi kèm nữa càng hay.

Quản Kình vừa dứt, đã nghe tiếng loa rền rĩ không khác tiếng loa đồng dẹp đám rước thần, tiếp theo có tiếng hô “tiến… iến… nhạc…
ạc” dõng dạc trịnh trọng không khác quan viên tế đọc “khải trình cô”
trước bệ thờ vậy. Tiếng loa rền vừa dứt, chợt “rập”! Người ngựa đứng im
phăng phắc, thầy trò Võ nhìn quanh đã thấy ánh đuốc sáng rực cách bên
chỗ Võ đứng khoảng bốn năm chục thước, ngay trên một gò đất xế bên hữu
đường đi, từ gò đến chỗ cáng đậu, ngựa đứng cũng có lính cầm đuốc, khí
giới dàn quanh co như khúc rắn đến tận sau lưng hai người thành hai hàng, chung quanh lại cắm cả cờ
coi rất lạ mắt.

Ngay khi đó, âm nhạc bỗng nổi dậy inh ỏi kèn Tây trống Tây, đàn
sáo bát âm, sênh tiền lẫn lộn, trôi theo điệu “Lưu Thủy” nhịp nhàng vang động rừng khuya. Quản Kình xưa từng đi lính nhà nước, nghe buột miệng
kêu:

-Ngộ dữ! Kèn “bú díc” hòa với “bát âm”, thổi bài đi tế… cổ kim lẫn lộn. Sực nghe tiếng loa kéo dài, thình lình bọn khiêng cáng nâng
vụt cáng lên cao, lừ lừ tiến lại trước mặt Võ Minh Thần, còn cách chừng
hai thước tây, chợt mấy ả gái hầu thoăn thoắt bước lại, viên tướng cổ
xưng Điện Tiền Tư Mã văng búa vừa nãy cũng dẫn một tốp lính áo nâu nón
chóp sấn tới, cùng cúi đầu lễ phép, rồi tốp lính kèm hai bên, cứ thế
tiến về phía gò. Cáng đi được hai, ba thước, Võ vẫn đứng yên, chàng trai vụt quát:

-Khoan! Mỗ muốn hỏi! Đoàn nhân mã dừng lại, tiếng nhạc hạ trầm. Minh Thần nói lớn:

-Bá Diện Thánh Quân! Mời vào Bát quái Trường xà có ý gì? Nếu không nói rõ, mỗ quyết không vào!

Im mươi khắc. Bỗng trong cáng gấm tiếng dị vọng ra cao giọng:

-À khách đeo vòng càn khôn cũng biết ta sao? Hà hà! Khách cưỡi
ngựa bắn súng phải lập trận đồ uống rượu mới được chứ! Uống rượu còn
nghe nhạc.

Võ Minh Thần định kiếu bận, nhưng lại thôi, tính cứ thử coi, sẽ tùy cơ ứng biến bèn nói lớn:

-Bá Diện đã có hậu ý mỗ há phụ lòng! Nào nhập!

-À có thế! Tiếng nhạc nổi cao, rừng khuya xao động, chim chóc
bay tan tác, thầy trò Võ theo cáng tiến lên gò, không khỏi khen thầm tụi phu cáng chạy lên gò nhanh như kiệu bay. Thoắt đã tới đỉnh gò. Đuốc
cháy bập bùng, gò khá thưa, đứng trên gò nhìn thấy khu nương đồi nằm
dưới trăng vơi, xa xa có ánh lửa nhà sàn le lói trong sương như ngọn đèn ma. Bọn phu đặt cáng xuống dưới một tàn cây, khúc “Trường Xà” đã nhập
cả vào bốn “bát quái”, lính tráng cổ kim kỵ bộ tràn lố nhố khắp mặt gò,
cách Võ khoảng vài mươi bộ. Tên cầm đầu chợt hô:

-Tiến… tiến… tư… tửu!

Tiếng nhạc trỗi bài khác, nghe như “đăng đàn cung”, mấy ả nữ
lăng xăng sửa soạn dâng rượu, Võ thấy tình thế cấp bách vùng nói lớn:

-Bá Âm thần quân! Nghe tiếng Bá âm Bá diện ai cũng phải sợ!
Riêng mỗ hết sức cái “bát quái trận” này! Phải bố trận mới uống rượu với khách sao? Tiếng trong cáng hắt ra âm trầm:

-Vào bát trận uống cho trọng thể, khách không thích, ta cho
triệt sao đâu! Tư Mã! Giải trận! Xuống! Sĩ tốt dạ ran, nháy mắt đã cắp
đuốc, kéo nhau xuống chân gò đứng tụ cả một chỗ. Chỉ còn mấy tên khiêng
cáng, che tàn, cùng mấy gái hầu. Nhưng lại có tiếng truyền ra, lũ khiêng cáng cũng rập đầu rút đi nốt.

Gái hầu ôm ra một vò lớn bằng pha lê, trong đựng một thứ rượu
đen kịt như mực tàu. Hai nàng khác cầm hai cái ly lớn, bước lại, tiếng
dị trong cáng phát ra:

-Dâng khách vòng xanh ly đầu mừng cuộc gặp gỡ giữa đường! Võ
Minh Thần tuy không phải tay chúa rượu, nhưng ở với tôn sư từ nhỏ, tôn
sư vốn tay hay rượu nhất thiên hạ, từng dạy chàng đủ thứ, nên Võ có thể
chỉ nhìn qua ngửi thoáng, đã phân tách được loại nào. Chàng lại còn học
được thuật uống rượu độc bằng cách lọc thải độc tính, nên cũng không ngán mấy, ngặt trong mình lại đang thọ thương nguy hiểm
uống vào bất lợi khôn lường, nên vừa nghe dứt chàng trai đã vùng cao
giọng:

-Cám ơn có hậu tình cho mỗ uống “rượu nhựa sui” nguyên chất, rất tiếc mỗ phải cữ lúc này, xin hẹn khi khác.

Tiếng dị phát trầm âm:

-Khách vòng xanh biết được tính rượu, phải biết uống! Bay đâu! Tiến tửu! Võ vùng bảo:

-Khoan! Tiền chủ hậu khách! Không một tiếng đáp, nhưng cặp gái
hầu vừa rót đầy hai ly, chợt mép mui phủ cáng hơi cuốn lên mấy phân, rồi cách khoảng thước rưỡi, gái hầu đội khay đứng im, bỗng thấy rượu trong
ly xao động, rồi “chót” tiếng, rượu vọt lên thành một luồng nước cầu
vồng nhảy tót vào trong cáng không khác con rắn nước trườn quăng, khiến Quản Kình hơi giật mình một cái, dòm vào ly đã cạn
sạch không còn một giọt rượu đen nào. Võ nghĩ thầm:

-À! Y dùng nội lực hút rượu… hay ma thuật nào? Phải “đánh tháo” mới được!

Bèn vùng nói lớn:

-Bá Diện Thánh Quân! Hút rượu không thấy người, đổ đi chán chết! Mỗbình sinh chỉ quen đối ẩm nhãn tiền, uống cách bức bách quả tình
không thích.

Tiếng bí ẩn trong cáng vọng ra rất trầm:

-Sợ ư? Nãy giờ, mỗi lần phát lại một thứ giọng, mỗi giọng một
thổ ngữ nghe chẳng khác trong cáng có hàng chục người Thổ Thái Mán Mèo
Mường Nhắng

Tàu… đủ già trẻ lớn bé nam nữ nằm trong cáng khiến thầy trò Võ Minh Thần càng lúc càng ngạc nhiên, trí tò mò bị khích động hết sức,
bất giác nghĩ thầm:

-Chưa kể bản lãnh, cứ nguyên tài nói thạo nhiều thổ ngữ, giả
giọng lắm hạng người y hệt, kể cũng… thánh thật! Bất luận chính, tà,
thiện, ác, nhân vật thần bí này tất phải là tay trí xảo hơn người, hiểu
nhiều biết rộng. Biết đâu y chẳng rõ vụ con tinh hấp sát mẹ ta mười bảy
năm trước trên biên thùy phân mao? Đối diện y, may ra dò hỏi được vài
tia sáng không chừng! Tiếc thay gặp y đúng lúc vừa thọ thương, nhưng
chưa đến nỗi vong mạng ngay, ta phải kiếm cách lân la trò truyện mới
được!

Bèn nghiêm sắc mặt lạnh lùng bảo:

-Mỗ bình sinh chỉ biết mỗi cái sợ là giết kẻ vô thù hận! Nhưng
chưa hềuống rượu với kẻ nào mà không thấy mặt! Đã gọi đối đãi, đối ẩm,
đối đầu hay đối địch, đối thủ… chi cũng phải đối diện mới là bực chính đính. Đối mà không thấy mặt, khác nào uống rượu với cái bóng nói chuyện với tiếng vang, ma quái còn thú gì.

Có tiếng cười thét trong cáng bất ngờ phát ra một tràng tiếng
Tây, lần này là giọng đàn bà thánh thót nghe không khác giọng “đầm”:

-Ha ha! Khách vòng xanh có tài biện thuyết, khéo kiếm cớ thoái
thác! Nhưng lệ đã đặt không làm khác được! Phải uống ba ngày ba đêm
liền, hết các thứ rượu của ta, nghe thêm nhạc, mới được diện kiến! Không nhìn thấy Tửu Chúa ư? Hắn uống có hai ngày hai đêm đã ngủ vùi, cũng
chưa được đối diện.

Võ Minh Thần giật thót mình. Tuy chàng lìa gia đình từ nhỏ, theo tôn sư đi khắp thiên sơn vạn thủy, suốt mười bảy năm ròng thường ở
rừng, ít khi ra phố, nhưng tôn sư chàng là bực thông kim quán cổ, đa
tài, đa cảm, biết nhiều thứ tiếng, nên có dạy cả tiếng Tây, một dạo còn
gửi chàng học tại Quảng Châu mấy năm. Tuy thông minh hiếu học, nhưng
cũng chỉ biết qua, lại ít chung đụng với Tây đầm, nên giờ chợt nghe
tiếng đầm nói như gió, chàng chỉ lõm bõm đôi ba phần, muốn ngẩn ra, đưa
mắt nhìn Quản Kình.

Rất may Quản Kình lại hiểu tiếng Tây, tuy chẳng giỏi gì hơn tiểu chủ, nhưng nhờ trước từng đi lính sang Tây đóng đến “quản ách”, nên chú ta nghe Tây đầm nói đã quen, nhanh mấy cũng hiểu. Thấy Võ ngơ ngác, chú ta ghé sát làm “thông ngôn” liền, Võ Minh Thần vùng lớn tiếng:

-Lệ đó đâu phải phép vua luật nước, bắt thiên hạ theo? Ngu mỗ đây cũng có lệ riêng, nếu không thích…!

Lần này Võ nghe tiếng dị vọng ra lạnh lùng, lần này lại léo nhéo y hệt quan viên có giọng kim uống say cãi lý giữa đình:

-Phép vua thua lệ làng, lệ làng hàng phép thánh, phép thánh cũng tránh luật “quân”! Luật “quân” đã ra, không uống rượu, phải nghe nhạc!

Tiếng bí ẩn nói một tràng như đọc vè. Võ Minh Thần càng cho là quái gở, óc tò mò nổi lên cực độ, vùng cười lớn:

-Hay dữ à! Đêm trăng, rừng khuya, gió lộng, gò cao nghe nhạc kể
cũng thích. Nhưng tiếng nhạc nổi đêm trường, mà không thấy người tấu
nhạc, khác nào nghe đàn ma Sư Diên gảy khúc My My cung âm vong quốc!

Dứt lời, chàng trai vận điện, tay trái nhẹ nâng khiên lên tận
cằm, tay phải chống trên đùi sau vành khiên kín đáo thò ra hai ngón,
phát ra hai luồng điện chỉ nhón ngay lấy mép mui phủ cáng, vén phứa lên.

Ánh đuốc hắt vào lòng cáng lót tía thấy đầu cáng có để một cái
gối da sơn son thếp vàng coi như gối thờ, nhưng… chàng trai họ Võ cùng Quản Kình bỗng rởn óc muốn dựng tóc gáy cả lên vì trên lòng cáng trũng
vòng cung nông chẳng có người nào nằm cả, chỉ là một cái cáng không.

Trống trơn, chan hòa ánh hỏa đuốc vật vờ, cũng không thể có
người đu bám trần cáng, vì Võ lật soạt lên cao, tia mắt thấy rõ toàn
diện. Nói rõ hơn, chỉ có một cái gối sơn son đặt hàng đầu “nhìn” thẳng
ra chỗ hai người đứng ngựa, chỉ cách có ba thước, và một chùm vài lá cây in bóng đen ngòm lắc la lắc lư vật vờ trên nền vóc, dưới cái gối son
vài gang tay, coi không khác chính mấy cái bóng lá đen thui nằm đó vừa
nói chuyện với hai thầy trò, Võ cũng phát ớn!

Đến hơn phút, Võ sực nhớ, thu điện chỉ, rèm lại phủ xuống như cũ.

-Sao? Muốn xem mặt thánh quân ư? Đã bảo phải uống rượu, nghe nhạc đã… Hà hà! Khách Thổ vòng xanh sao cứ muốn…

Tiếng dị lại từ trong cáng vang lên, vẻ cao hứng. Đang khi tiếng vang trăm giọng thao thao bất tuyệt, thình lình Võ xòe luôn trảo kình
túm hất “phạch” rèm mui cán thêm lần nữa, rất nhanh.

Song, rèm cửa vừa hất cao, hai thầy trò nhìn vào trong liền bật
kêu lớn, giật nảy mình như chạm phải điện. Vì ngay giữa lòng cáng, một
hình thù bốn chân, lông vàng, có bờm đang “nằm khểnh” đầu gối lên một chiếc gối son, hai con mắt đỏ khé dòm chết ra ngoài. Một con Hồng Cẩu quẩy!

-Tinh sói! Bá Diện Bá Âm… là giống sài lang tứ túc! Hừ, hay nó chính là…

Vụt tưởng nhớ đến chuyện mẹ hiền sa vào nanh vuốt quỷ dữ bị bức
hại thảm tử, Võ Minh Thần xúc động ghê gớm, thở phì liền mấy giây, cố
trấn tĩnh tinh thần.

“Phạch” rèm mui như bị ngọn gió nhẹ hất xuống lại. Võ mím môi, đưa mắt ngó sang Quản Kình, định ngầm hội ý.

Bộ mặt da nâu đen lỳ hằn nét phong trần chiến đấu của Quản Kình
vẫn còn in rõ vẻ kinh hoàng quá sức, có lẽ còn xúc động hơn cả tiểu chủ. Hai con mắt y còn mở trợn ngược như đã mất tinh lạc và dù rèm đã buông
kín, mắt y vẫn trừng trừng như tê dại vành mi không chớp được nữa.

Thì ra Quản Kình kinh dị đến chết lặng người đi, muốn tê cứng cả giác quan và “con tinh sói nằm trong cáng” đã làm y thành pho tượng
đất, chừng cũng liên tưởng ngay đến chuyện thảm sát năm xưa. Mãi khắc Võ Minh Thần ngó sang, thích nhẹ vành khiên, Quản Kình mới sực tỉnh cơn
kinh sững, ngoảnh sang khều tay tiểu chủ, thì thào:

-Trời! Ghê dữ a! Con chó sói nằm trong cáng… Vừa giờ cáng trống trơn… Nó nói trăm giọng, biến hiện, con chó sói thành tinh!

Hai thầy trò nhìn nhau, nhìn cáng rồi như không còn đủ bình tâm
tính toán lợi hại, Võ Minh Thần thở phào một hơi, vùng quát chìm, giọng
vẫn còn rung mãnh liệt:

-Tinh sói! Bá Diện Thánh Quân ngươi… ngươi là con chó sói thành tinh? Trong cáng tiếng quái gở phát ra thé nhọn:

-Khách Thổ vòng xanh lạ lắm sao? Hà hà! Thánh quân trăm giọng
trăm mặt có gì là lạ? Sao hai thầy trò vòng xanh mặt ngẩn như chúa Tàu
nghe kèn? Giờ nghe “khúc nhạc oan hồn” cho tăng tuổi thọ!

Võ Minh Thần cắn răng trấn tĩnh tinh thần, quắc mắt hét:

-Sói tinh! Còn nhớ chuyện trên biên thùy phân mao mười bảy năm
về trước? Người đàn bà mặc xiêm y Thái trắng bị sói hấp sát dưới gốc
tùng, một chiều thu muộn… còn đứa bé lên hai sống sót, mười bảy năm về trước…?

Tiếng dị hắt ra:

-À ta có biết chuyện đó! Nghe đồn người đàn bà ấy là trang quốc
sắc, con tinh hồng cẩu quẩy mê say nàng như điếu đổ, đuổi ép làm vợ
không được, nó nổi hung giết chết, đi sục tìm đứa bé vòng xanh mười bảy năm liền
không ra! Ta có biết! Thôi! Nghe nhạc đã! Võ nghiến răng:

-Im! Con tinh sói đó lông vàng bờm sư tử biết nói tiếng người,
sau khi hấp sát người đàn bà đó, nó dùng đủ thuật ma pháp quái đánh hơi
tìm bắt nốt đứa bé vòng xanh. Nhưng lòng trời còn tựa, đứa bé được dị
nhân cứu mạng dưỡng dục, đem đi khắp thiên sơn vạn thủy… Mười bảy năm
oan khổ trôi qua, nay đứa bé lớn khôn lần về cố quốc tìm thù báo oán.
Sói tinh! Đứa bé mồ côi oan khổ đó chính là ta, con con chó sói thành
tinh nanh ác đó là… mi!

Tiếng Võ rung nghẹn, trong phút sôi hận cừu chàng trai quên cả
chuyện mình đã mang thương trầm trọng, khí lực giảm nhiều, nói xong
chàng từ từ nâng khiên lên sát mi mắt dưới, mắt đảo lia một vòng, không
khỏi ngạc nhiên thấy lũ phu cáng gái hầu vẫn đứng im phăng phắc mặt
không hề đổi sắc, kẻ đội đèn, ả đội khay, như không hề nghe rõ lời
“khách vòng xanh” vừa mắng vị chúa tể của chúng.

Cáng gấm cũng yên như không, mấy giây, có tiếng cười vọng ra, đượm chút ngạc nhiên:

-À khách Thổ chính là đứa bé vòng xanh ngày nào đó đấy ư? Ta có lời chia buồn! Chính ta cũng đang tìm “nó”!

Cau mày, Võ dằn giọng:

-Sói tinh! Khỏi mất công tìm, “nó” đã đứng trước mặt mi! Tiếng trong cáng vẫn nhu hòa:

-“Nó”… con tinh tứ túc Hồng Cẩu Quẩy đã giết mẹ nhà ngươi lẩn
quất không kém loài ma quỷ, kiếm “nó” như kiếm bóng chim tăm cá!

Võ Minh Thần muốn thừa cơ xả luôn súng vào cáng gấm, nhưng lại muốn biết rõ ngọn ngành thân thế, đành nén, quát bảo:

-Sói tinh! Mi chối tội? Tưởng ta hậu sinh không biết rõ hình
dung con quái vật giết mẹ ta sao? Bờm sư tử, lông vàng, mắt khé, nói
tiếng người, nanh chìa… nó chính là…

-Hấp sát quỷ tứ túc tinh quân Hồng Cẩu Quẩy Ma Vương Sắc! Nó là
con sói chúa đầu đàn, hiểu tiếng loài người, loài vật, khắp mấy cõi
người, vật đều sợ hãi, con chó sói tinh chỉ mê nhan sắc đàn bà, nó là
Tây Sắc Hấp Tinh quân!

Chàng trai họ Võ sững sờ liếc nhìn người đồng hành, cau hẳn chân mày, nhớ lại lời căn dặn của viên chúa núi Mã Đầu Quảng Tây cùng vợ
chồng chúa tể miền Mười Vạn Núi Vân Nam.

Khắp lục địa Á châu, hiện có nhiều quái nhân quái thú dị thường, lắm “con” phi nhân phi thú, lẫn lộn với chính nhân hào kiệt! Với những
câu truyền tụng lắp thiên hạ, trong đó có câu “Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc
Yên, Nam Đổ”, câu “Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu”…

Trong Tứ Hung, Tứ Khoái, Bát Quái, Lục Yêu, Tam Kiều, Ngũ Quỷ,
Lưỡng Dị, Nhất Khùng, phương Tây có Ma Vương Sắc bản lãnh cao cường, cứ
mỗi năm lại cao một bậc, xuất quỷ nhập thần, chúng nhân đồn “vua nhan
sắc” này có hàng trăm vợ đẹp, thuộc nhiều sắc dân, không kể gái hầu mỹ
nữ, động vương phủ của y không thua cung Tần Thủy Hoàng ngày xưa hay
cung vương Ả Rập bây giờ, đêm ngày phấp phới bóng mỹ nữ yêu kiều.

Nhưng thực ra có lẽ cũng chưa khi nào vào được tới động của Ma
Vương Sắc, chẳng ai biết “động nhan sắc” này ở phương nào. Lòng ngờ vực, Võ Minh Thần vùng cao giọng:

-Tây Sắc Ma Vương có thể là loài chó sói được ư?

-Chính thế! Tây Sắc chiếm hàng tứ trụ tứ hung, còn hào hoa phong nhã hơn người, biết thưởng thức sắc đẹp người ta, nhưng người đẹp nào
vô phúc lọt vào động nó, không có ngày ra, như nhập lãnh cung!

Võ Minh Thần dằn giọng:

-Hư ngôn! Tìm cách đánh lạc hướng thù! Tây Sắc không phải sói tinh! Chính mi là con quỷ chó bốn chân năm xưa đã hấp sát mẹ ta!

Bất ngờ có tiếng cười ré trong cáng, tiếp liền tiếng quát lanh lảnh, lần này là giọng nữ nhân:

-Ngốc tử! Ta sợ gì ngươi mà phải nói dối? Ta Bá Diện Bá Âm Thánh quân có cả trăm mặt, ta là Âm Sát Thánh Quân “Đông Âm” sao có thể là
Tây Sắc? Dẫu mi có cho hình sói là đích diện Thánh quân, ta cũng không
là kẻ hấp sát mẹ ngươi, vì… chỉ là Hồng Cẩu Quẩy nữ!

Lời nói trong cáng phát ra khiến cả hai thầy trò Minh Thần cùng động lòng, nhìn nhau, Võ nghĩ thầm:

-À có điều đó ta cũng quên mất! Phải, sói tinh không mặc quần áo, cũng dễ nhận ra đực cái!

Bèn xuất kỳ bất ý thò luôn chỉ thủ phát điện nhón mép vải phủ
cáng soạt lên! Và lại một phen giật thót mình kinh dị, chưng hửng đến
ngẩn người ra, vì… trong cáng trống trơn! Con hồng cẩu quẩy lông xồm
xoàm vừa rồi như đã biến vào trăng gió rừng già, chỉ còn lại cái gối
son.

Cả hai người đều thuộc hạng lỳ, không hề biết sợ bóng sợ gió là
gì, vậy mà cả hai đều giật thót mình trước “cái cáng không người nằm vừa phát âm đủ giọng”. Võ buột miệng kêu “ơ”, Quản Kình bật “ơ”, Võ còn cố nghiêng ngó mấy khắc mới vội buông rèm che xuống, hai thầy trò trợn mắt nhìn nhau,
chưa dứt kinh dị. Quản Kình thở phì, lẩm bẩm ghé sát tai chủ:

-Cáng ma cáng quỷ! Thầy trò ta gặp con yêu rồi! Con yêu trăm giọng! Đúng rồi! Mới léo xéo đây, đã biến đâu mất!

Võ đảo mắt dòm khắp gò, chỉ thấy lá cây lòa xòa, gió thổi rì
rào, chàng trai ngơ ngác, rờn rợn, tuy từ nhỏ chưa biết mọc ốc “sợ ma”:

-Ma! Lạ thật! Thế còn lũ gái đứng kia? Còn đoàn nhân mã? Tửu Chúa nằm kia?

Đầu óc đảo lộn, hoang mang, nghĩ ngay đến mấy tiếng “ma thiêng
nước độc”, bỗng nghe tiếng quái gở vừa trở lại từ trong cáng vọng ra:

-Trai vòng xanh sao dám nhìn trộm? Tội khi quân phạm thượng đáng trừng phạt! Vòng xanh phải nghe một cung âm túc sát! Lời dứt, từ trong
“cáng không người” bỗng phát ra mấy tiếng kỳ dị, nghe như tiếng kèn, mỗi tiếng như một nhát búa đóng vào màng tai Võ Minh Thần!

Rồi như một cơn phong ba, âm thanh vụt hắt ra ầm ầm như sấm sét, chẳng có cung trầm bổng gì cả, toàn một loạt tiếng túc sát lắt léo trúc trắc nặng nề thình thịch không khác tiếng chày vồ, có đoạn lại như dao
nạo mặt nứa, cứ thế cuồn cuộn tuôn tràn như thác đổ, sấm rền sét đánh,
dùi xiên vuốt cào móc nạo, gió rít mưa gào đạn réo, quật vào màng tai Võ gây một cảm giác đau buốt, ngứa ngáy tê cóng, giá băng nhức nhối, cực
kỳ khó chịu, đến ớn da ớn thịt, đảo ruột lộn gan điên đầu nhức óc, loạn
thần như đang chứng kiến cảnh tuốt nứa, bị tuốt, lóc thịt, nạo xương,
đục tủy, cưa gân, mài óc, làm cho kẻ vững tinh thần mấy cũng phải đảo
điên, ớn xương sống.

Trước còn thấy cung âm túc sát này đi qua thính giác vào người
gây cảm giác, sau tiếng nhạc quỷ này trực tiếp như những mũi dùi, răng
cưa, lưỡi “lam” xiên nạo thẳng vào tế bào, chui qua lỗ chân lông cào cấu ngũ tạng lục phủ, tưởng kẻ thiếu bản lãnh không chịu nổi giây phút,
khiến Võ rúng động tâm thần, không khỏi kinh tâm, nghĩ thầm:

-Cung âm quái gở này giết người trong nháy mắt! “Âm thanh công”
này lợi hại hết sức, quện lẫn điện công, ma quỷ gì lại sử dụng được môn
võ công cao siêu của con nhà võ? Sơ ý nguy ngay!

Bèn ngầm vận điện công bế tỏa huyệt đạo, ngồi im như cây gỗ mặc
cho sấm sét nổ bên mình. Lại lo cho Quản Kình và hai con ngựa, nhưng rất may Kình và hai con ngựa vẫn đứng như thường. Nhìn ra, lũ gái hầu, tụi
khiêng cáng xế ngoài cũng vậy. Mới rõ “cáng không người” có tài thu gọn âm
thanh chỉ hướng độc vào chàng.

Được một phút, bỗng lại nghe tiếng dị trong cáng vọng ra như đọc một bản án, cứ mười tiếng lại thay một giọng, bảy thứ thổ ngữ, sắc,
gai, nhọn, ầm, léo nhéo nhanh vô cùng hòa với tiếng nhạc, trúc trắc the
thé, nhức nhối, như có cả một cái chợ người vạn quốc, chõ cả mồm loa mép dải vào lỗ nhĩ chàng mà gào thét, nghe đinh tai nhức óc, đã thế, tiếng
vạn quốc Tây Tàu Ta Thổ, v.v… lại cứ vang lên toàn tiếng trúc trắc
nghe còn ngứa tai khó đọc hơn nghe hàng ngàn đứa con nít ê a học: “a xê
ác, ê xê hát ếch, a xê hát ách, co co, y cờ rét ê y yêu…”.

Biết không phải chuyện chơi, Võ phải vận sức chịu đựng hóa giải
có lúc đến chấn động toàn thân, lại không may đang lúc thọ thương sức
giảm nhiều, nhưng cũng có cái may là mặc giáp, đỡ được nhiều. Vừa chống, Võ vừa lấy làm lạ hết sức, khó tưởng tượng một người có thể cùng lúc
phát ra lắm âm ma tiếng mãnh đến thế.

Tới phút thứ ba, chàng vừa thấy trong lòng xao xuyến, thì âm
quái vụt im, Võ thở phào, lưng ướt đẫm mồ hôi. Sực nghe tiếng kia hắt ra lẫn tiếng cười the thé:

-Cung phạt túc sát đã hết, giờ canh khuya rừng vắng, vòng xanh nghe khúc “dạ khấp” cho tăng thêm sức khỏe!

Lần này, tiếng trong cáng giọng lanh lảnh rõ giọng gái còn trẻ, đài các nói. Võ Minh Thần vụt nghĩ:

-“Y” lợi hại như ma quỷ! Sức ta bị thương, nghe một cung đã mệt, ở đây nghe nữa e nguy hại! Xem ý “y” muốn tấn công dồn dập cho ta gục,
chưa thể gợi dò gì được, đành chờ dịp khác! Tức thật! Y làm gì mà như ma xó!


Nghĩ là làm liền, vừa nghe dứt chàng trai vận sẵn nhân điện, lại thò tay ra, lần này đưa cả trảo thủ chụp mép rèm phủ lật phăng đến
“phạch” cái, rung cả cáng, đến độ cáng đu đưa như võng.

Và, như chạm phải điện, không nén nổi, chàng trai vùng hét lên
một tiếng “trời”, kinh sững, gai ốc mọc lởm chởm đầy mình, vì dưới vùng
sáng đuốc vật vờ trên cáng chỉ thấy một hình thù bốn chân nằm gối đầu
lên gối son cực kỳ quái đản: một con sói to như người, mõm nhọn hoắt,
hai con mắt đỏ ké dòm ra phát tia nóng bỏng!

Chỉ suýt nữa, Võ Minh Thần đã kêu thét lên kinh dị vì quá bất
ngờ. Nhưng nhờ sống khổ độc gian lao từ nhỏ bên cạnh vị tôn sư kỳ dị mặt lúc nào cũng đầy nét suy tư trầm mặc như buồn thảm “kiếp người mong
manh phi lý”, hết lòng rèn luyện, lại thường ở rừng sâu cốc thẳm, chàng
tuổi trẻ có tình bình tĩnh hết sức, ít khi hoảng động ra mặt, nên lúc thấy hình thù con chó sói to lớn dị thường, chàng trai chỉ giật người một cái đã hãm ngay được tiếng kêu, lặng người đi khá lâu.

Và cắn chặt hàm răng, nín thở mở trừng hai con mắt dòm chòng
chọc, đầu óc bàng hoàng tưởng mê ngủ. Ánh đuốc bập bùng soi tỏ, vẫn chùm lá trên cành hắt bóng đen vật vờ nham nhở vào lòng cáng, lắc la lắc lư
trên hình thù quái đản, đúng là một con chó sói, không thể lầm lẫn được. Một con sơn cẩu thuộc giống sài kíu to lớn, hung tợn nhất trong các
giống bốn chân hung tợn, nói rõ hơn là một con “Hồng Cẩu Quẩy” lông vàng óng ánh, đầu có lông bờm như bờm sư tử cái, nó nằm nghiêng gác đầu lên
cái gối son, mõm ngậm còn chìa ra mấy cái răng nanh dài trắng nhởn như
mấy cái dùi nhọn hoắt. Thấy mép rèm vén lên, nó chỉ hơi ngóc đầu lên dòm ra coi dáng điệu như người ta, kẻ bạo gan cũng phát ớn.

Ngó trừng trừng vào lòng cáng đến bảy, tám giây, chàng trai họ
Võ mới rung giọng kêu “trời” rất trầm như phào nhẹ ngoài miệng, buông
rèm xuống.

Choáng váng, kinh hoàng cực độ! Rung động tâm thần vì sự hiện
diện của con sài kíu to lớn trong lòng cáng, hình thù chó sói lông bờm,
nghĩ ngay tới con chó sói thành tinh đã hấp sát mẹ chàng trên biên thùy
phân mao mười bảy năm xưa! Võ Minh Thần liếc mắt nhìn người đồng hành
đứng ngựa sát cạnh.

Quản Kình cũng nhìn thấy rõ vật gì trong cáng, người đàn ông gan lỳ này ngồi im không động đậy trơ như đá, trong dáng của tay bình tĩnh
phi thường, nhưng dòm kỹ nét mặt, lại khác hẳn.

Lần này thì sự kinh dị lên đến cực điểm. Ngọn gò thưa gió thổi
rì rào, vài tán lá loang lổ vật vờ lay động ánh đuốc ánh trăng quện giao nhau, cáng gấm hơi đu đưa, lũ phu cáng gái hầu đứng im như tượng gỗ,
khung cảnh càng trở nên quái gở. Không còn ngờ vực gì nữa, đúng con tinh mới có thể chợt hiện chợt biến như thế.

Không hẹn nhau, cả hai thầy trò cũng dằn động vành khiên, đưa
mắt lừ lừ nhìn mấy phía cùng có cảm giác như bóng vô hình nanh ác lởn
vởn quanh mình, mất thần chụp vuốt xuống. Quản Kình thì thào, tiếng rung mạnh vì xúc động:

-Nguy rồi! Thì ra “nó” là con tinh, “nó” biết biến hóa. Bá Diện
Ma Quân là con tinh quỷ bốn chân! Phải tìm kế rút mau… Cậu hai! Ta chờ dịp khác! Phải có phép phù thủy mới trị nổi nó.

Võ Minh Thần cũng hiểu hiện hai hai người chưa đủ tài thuật trừ
loài yêu quái. Vì loài này thuộc âm, đã thoát khỏi các định luật thông
thường về vật lý trên cõi dương trần, súng gươm thường khó phạm nổi.
Chàng trai vụt nhớ giấc mơ kỳ lạ vừa nãy trên đồi cao, hồn oan mẹ chàng đã giục đi mau, và hôm
rời miền Thập Vạn, vợ chồng chúa soái lạc thảo vô địch có căn dặn phải
tìm đến vùng Thanh Âm động học thuật pháp sư rừng của bà Chúa ngàn
thiêng, phòng trừ loài yêu nghiệt.

Thoáng khắc, chàng trai nghĩ ngay tới chuyện bôn tẩu, chờ dịp
khác phục thù, nhưng trong lòng mang cừu hận như biển, lại vừa xúc động
cảnh mẹ hiền thác oan, hiện về, chàng tuổi trẻ chí hiếu nhịn sao nổi,
bèn quắc mắt long sòng sọc, nghiến răng thét:

-Sói tinh! Chính mi là con “quỷ mắt đỏ” bốn chân đã hấp sát mẹ
ta trên biên thùy năm xưa… sao còn dám đổ cho Tây Sắc? Chỉ loài tinh
mới biết biến hóa. Mẫu thân! Mẫu thân! Hồn mẹ khôn thiêng hãy về phù hộ
cho con tru diệt con tinh, báo cừu tuyệt hận!

Dứt lời, Võ Minh Thần cắn nghiến chót lưỡi bắn máu tươi giơ luôn tay phải phun phù vào lưỡi dao gài dọc cổ tay, chưa kịp chém xả, bỗng
nghe trong cáng có tiếng cười khanh khách ma âm vọng ra:

-Vòng xanh! Nhà ngươi làm gì thế? Sao lại cắn lưỡi phun máu? À!
Phải nhà ngươi định thư phù? Ha ha! Ngốc tử! Bá Diện Thánh Quân có trăm
mặt trăm giọng, cứ gì phải Hấp Sát Tinh Quân Tây Sắc mới có tài ẩn hiện?

Võ Minh Thần không nói nửa lời, đưa mắt nhìn quanh, thấy đám
quân mã vẫn tụ cả dưới gò, chàng trai vùng lẩm bẩm “mẫu thân chứng giám
hồn thiêng độ trì”, bất thần đánh vụt tay phải về phía cáng gấm.

Từ cổ tay, lưỡi liễu diệp đao sắc như nước vấy máu thâm cừu bay
vút ra phát một tiếng “véo” gần như tiếng đạn đi, nháng luồng sáng cầu
vồng đâm xuyên qua lần mui rèm che phủ cáng, luồng sáng tắt, bức rèm hơi động chút, tiếp theo tiếng thụt phập rất ngọt, mạnh đến nỗi Võ Minh
Thần muốn chồn cả tay.

Vẫn im phăng phắc! Nhưng khi Võ giật tay di động đường thép,
bỗng giật mình kinh hãi thấy rõ lưỡi dao cắm sâu lút cán như bị vật kia
hút chặt lấy, không vọt bay đi được. Võ vội vận hết sức kéo mạnh về cố
rút dao ra, bỗng nghe tiếng trong cáng phát cười sằng sặc:

-À! Vòng xanh tài nghệ cao cường, biết cả thuật phi đao! Gan nhà ngươi to lắm! Dám chém Bá Diện Thánh Quân! Nhà ngươi tên họ chi! Ta
quên chưa hỏi! Nói mau còn uống rượu nghe nhạc! Đêm này kỳ ngộ, phải
cũng ta say một bữa ngả nghiêng.

Võ Minh Thần phụt luôn dao tay trái, đưa mép khiên lên miệng cắn chặt, nhanh như chớp, phóng vụt lưỡi dao vào chỗ phát âm trong cáng.
Véo, phập! Lần này chàng cũng phóng đâm như phóng giáo, mũi thép nháng
sáng cái đã xuyên qua lần rèm phủ, và cũng bị vật kia hút thụt, Võ rúng động cả
thân hình, tay chồn lại, y hệt nhát chém trước! Cả kinh, chàng trai lật
đật vận hết sức lay giật rút ra, chỉ hơi nhúc nhích, vụt nghĩ thầm:

-Lạ dữ à! Sao quái gở thế này? Từ khi hạ sơn, chưa bao giờ ta
phóng dao lại không rút về được, dẫu có cắm vào thân xác, cũng không đến nỗi hút dính thế! Nó có sức phi phàm hút dao kiếm chăng? Bất biết, tình thế khẩn cấp rồi, không làm không xong!

Bèn quay sang phía Quản Kình, Kình cũng vừa liếc sang ra hiệu,
Võ hất hàm, Kình chụp luôn cây súng cối Saint Etienne bên sườn, vẩy
“đoàng” một phát vào trong cáng, nào ngờ đạn vừa bắn ra, bỗng “bùng” một tiếng, một luồng kình phong quật trúng mặt khiên đến “xoảng” một cái
mạnh như trời giáng, cả thân hình to lớn của Quản Kình lập tức bật ngửa
về đằng sau, khoác cả tấm khiên ngã nhào xuống chân ngựa.

Võ Minh Thần mắc cả hai tay rút dao không đỡ kịp, thấy Kình ngã
thất kinh, đang khó nghĩ, đã thấy Quản Kình nhảy vọt lên lưng ngựa,
tiếng trong cáng hét ra:

-Thổ hầu sao dám bắn Thánh quân? Lần sau, ta quật chết! Vòng xanh! Tên họ?

Nổi giận, Võ vừa rút dao vừa hét:

-Sói tinh! Chính ta đang định hỏi mi điều đó! Mi còn lạ gì mười bảy năm xưa, chiều đó, ta còn là đứa bé lên hai lên ba!

Tiếng dị phát âm trầm:

-À, kẻ không biết cội nguồn! Vậy nhà ngươi đúng đứa bé vòng xanh cả thiên hạ đang đi tìm rồi! Hà hà! Càng phải uống rượu nghe nhạc cùng.

Võ Minh Thần vẫn đinh ninh “con tinh” sẽ hạ đòn độc, vẫn thấy
yên, Võ vừa bực tức vừa cay đắng gặp địch thủ đang lúc thọ thương, vùng
quát:

-Tinh sói! Ta muốn uống máu mi, không uống rượu với sài lang!

-Không uống rượu nghe âm nhạc ta rộng ban ân, nộp vòng xanh vậy! Để thân lại báo cừu, ta sẽ giúp cho!

Võ toan mắng, sực nhớ ra “bí ẩn của vòng xanh điểm huyết” đeo tay, chàng trai thở phào dịu hỏi:

-Tại sao mi cùng cả thiên hạ loài người, loài vật thành tinh đều tìm chiếm đoạt chiếc vòng xanh? Nếu nói rõ, ta tính sau!

Tiếng trong cáng cười âm âm:

-À khách vòng xanh lại không biết vòng xanh là gì! Lạ dữ! Càn
khôn, càn khôn, hựu càn khôn, càn khôn đảo lộn! Hà hà! Nếu nhà ngươi
biết rõ, nhà ngươi sẽ mất mạng, vì nhà ngươi sẽ liều chết giữ lại, mà
sức ngươi chưa giữ được đâu. Tốt nhất đưa ta cầm cho!

-Nếu vậy ta càng cần giữ cái vòng này! Sói tinh! Năm xưa…

-Ngốc tử! Ta đã bảo con tinh chúa ép mẹ ngươi làm vợ là Ma Vương Sắc Hấp Tinh quân, nó là Tây Sắc, đứng trong hàng Tứ Khoái. Còn ta, ta
là Bá Diện Bá Âm Thánh Quân, là Đông Âm, trong Tứ Dị! Nó là con tinh
đực, còn ta dẫu có hình diện đồng giống, nhưng giống cái!

Trong đầu óc Võ vang lên câu truyền tụng về bốn nhân vật dị hình hiện nay: “Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu”, chàng vận hết điện
lực bất thần giật mạnh hai tay, bật ngửa về đằng sau rút ngay được hai
ngọn dao lá liễu.

Cả mừng, liếc coi, không dính sợi máu nào, chỉ có vết xam xám
dính sát chuôi, đưa vội lên mũi ngửi, bật kêu “à”. Mãi lúc đó mới hay cả hai lưỡi đã xuyên qua không khí chỗ con tinh nằm, cắm vào thân cây lớn
sau cáng còn vấy nhựa tươi, cắm ngập và có lẽ còn bị cả “nó” đè ghìm
chặt nữa.

Không để phí một giây, Võ thò luôn hai ngón tay nhón mép rèm phủ lật phắt lên định xác định rõ vị trí mục tiêu rồi hãy liệu. Nào ngờ rèm phủ vừa vén soạt lên, thầy trò Võ lại thêm một phen kinh ngạc đến giật
bắn người như điện giật vì… con Hồng Cẩu Quẩy mõm nhọn mắt khé bờm sư
tử, lông vàng đã đâu mất, trong lòng cáng giờ đây lại có một thân người
nằm đó, ánh đuốc hắt soi rõ mặt mũi dáng thân, làm hai thầy trò Võ cùng
lạnh toát sống lưng, bật kêu “ớ”, “trời” lê thê.

Vì đó là một người đàn bà mặt hoa da phấn, mắt phụng mi tằm, môi cung, mũi thon, ngực phây, bụng thắt, mông bạnh, đùi thuôn, phá lãnh
đan bó sát mông hờ nếp thủy ba, người thiếu nữ coi hệt các “bà nàng, bà
chúa” rừng thiêng nằm nghiêng chống một tay lên má, nghiêng đầu đăm đăm
ngó Võ không hề chớp mắt.

Hai con mắt nữ lang xanh biếc dưới ánh đuốc chập chờn, nhãn
quang phát ra tia lạnh lẽo đầy uy lực, và từ khuôn mặt, dáng thân, ánh
mắt toát ra một sức hấp dẫn đến nổi da gà đàn ông.

Tuy mỗi lần vén rèm phủ lại bị một phen kinh dị, lần này chàng
tuổi trẻ họ Võ giật thót mình kinh ngạc như thường, đến lặng hẳn người
đi tưởng tê tái cả da thịt, đến mươi khắc vén rèm vẫn giữ nguyên không
buông xuống. Choáng váng chạm tia mắt biếc dị, chàng trai thoáng nghĩ
thầm:

-Sắc đẹp hồ ly! Yêu tinh! Nhan sắc phi phàm! Không phải gái trần!

Trong cáng, nữ lang vẫn nằm chống tay nhìn ra, không nhúc nhích, Võ Minh Thần cũng nhìn vào không động đậy, như bị hai luồng hào quang
hút lấy giác quan. Cạnh Võ, Quản Kình vừa nhảy được lên ngựa, tuy không
hề gì, thân thể cũng bị đau nhừ vì nhát kình phong quật dồn mặt khiên và người đàn ông gan dạ này cũng lại bị một phen kinh hoàng như chủ. Hình
dáng nữ nhân trong cáng làm y giật nảy mình, trố mắt dòm, kêu “ớ”, nhưng chỉ năm, bảy giây, ánh mắt nữ nhân không chiếu vào y, y chớp lia lịa,
tự nhiên rởn ốc, len lén ngó sang tiểu chủ muốn coi xem mình có ngủ mê
hoa mắt chăng.

Thấy ngay chàng trai ngồi lặng đi trong dáng kinh sững đến ngây
đờ vì tia mắt nữ nhân quái đản trong cáng, Quản Kình vội dùng khuỷu tay
khoác khiên thích nhẹ liên hai, ba cái, miệng kêu khẽ:

-Con tinh cái! Cậu hai… Võ hơi giật mình, chớp lia vành mi,
mãi khắc đó mới chợt nhận thấy vành mi trên bắt đầu tê nặng như sắp bị
đờ ra. Nhớ ngay đến hai con mắt đỏ khé của Giao Long chúa hồ Ba Bê.

Võ sực tỉnh ngộ liền:

-À hai luồng hàn quang của nữ nhân kia có sức mạnh thôi miên có
thể ru người vào “giấc ngủ thôi miên”! Lần trước cáng không, lần sau con chó sói mắt khé, lần này lại người đàn bà đẹp như bà chúa rừng
thiêng… con tinh biến hóa ra chăng? Gươm máu thư phù chém cũng không
ăn thua, súng Quản Kình bắn cũng như bắn vào cõi hư không… bất biết
“nó” là con quái gì, Bá Diện Đông Âm hay Ma Vương Tây Sắc, cũng nguy
rồi! Sức suy lực kiệt, không còn cách trị, giờ lại càng phải bình tĩnh
tính kế mới được!

Bèn quắc mắt vận nhân điện chống chọi lại hai luồng hào quang ma quái của nữ lang có sắc đẹp yêu tinh nằm trong cáng! Và chỉ mươi khắc,
chàng trai đã thấy vững chí như thường, bèn liếc mắt trông quanh. Bọn
gái hầu phu cáng vẫn đứng im phăng phắc, tất cả đều cúi mặt nhìn xuống,
không kẻ nào dám trông lén vào cáng, chừng như sợ phạm nghiêm lệnh mất
đầu như chơi. Thoáng cái Võ Minh Thần lại nghĩ:

-Chó sói nằm, rồi lại nữ nhân… biết đâu chỉ là một hình tượng, “nó” đặt nằm đấy… nãy giờ sao không cử động? Lập tức thò tay lấy đèn
bấm, bật “tách” chiếu rõ từ trên tán cây xuống cáng, không chi lạ. Võ
lại chiếu đại luôn vào mặt người đàn bà.

Rào một cơn gió đêm thổi lộng, bao nhiêu cây đuốc cắm quanh cùng rạp ngọn, vật vờ giãy dụa, kéo dài ngoằng, một mùi thơm hăng hắc đượm
mùi hoắc hương lan xạ theo chiều gió thổi tạt vào mũi hai thầy trò Võ
Minh Thần, đúng mùi da thịt đàn bà ướp đủ kỳ hoa dị thảo có một sức quyến rũ gớm
ghê, nữ lang trong cáng bất thần ngồi nhổm dậy cười khanh khách.

Giữa rừng khuya tiếng cười ròn tan như thủy tinh vụn cất lên
chờn vờn dùi vào lỗ tai nghe như tiếng dao nạo mặt nứa, khiến cả hai
người đàn ông nghĩ ngay đến mấy tiếng “ma rừng”, “giọng cười yêu tinh”,
tự nhiên Võ Minh Thần buông vụt rèm xuống, trong cáng tiếng người đàn bà lanh lảnh vọng ra theo nhịp cáng đu đưa:

-Không chịu uống rượu, nghe nhạc, tự tiện vén rèn nhìn trộm, dám chiếu cả đèn điện vào mặt, lại nhất định bảo Thánh quân Đông Âm là Tây
Sắc tinh quân… vòng xanh nhiều tội khó dung! Hỏi tên họ cũng không
xưng, thấy giá thánh quân không phủ phục, để đầy tớ bắn thánh quân, lại
chém làm thủng cả rèm… tội không kể xiết! Khôn hồn thành kính cởi nộp
càn khôn điểm huyết, quả nhân tha cho toàn mạng cả hai, bằng cãi lệnh… hà hà! Cãi lệnh thì… thì… cường toan bạch cốt! Hà hà!

Tiếng đàn bà vãi ra, to dần, tỏa rộng dần, rõ ràng như một tấm
lưới vô hình kết bằng âm thanh chụp xuống đầu hai thầy trò Võ Minh Thần, chưa hết một câu, tiếng đàn bà đã chuyển sang tiếng đàn ông, cứ thể đổi giọng, chỉ vài mươi giây, cứ mỗi tiếng một giọng, từ nam phụ lão ấu
Tây, Tàu, Ta, Mán, Thổ, Mường, Lô Lô nghe như vỡ chợ, cả một chợ người
tạp chủng chõ mồm vào tai hai thầy trò mà hò hét không khác đóng búa vào màng tai, còn gấp mấy lần ban nãy, nhức nhối đầu óc không sao chịu nổi
khiến hai người vội vận sức nhân điện chống cự lại, khi tiếng nói vừa
dứt, lại vụt chuyển sang tiếng đàn sáo kèn trống ấm ầm như sấm rền sét
đánh phong ba xô quật ầm ầm, hai thầy trò Võ Minh Thần tưởng chừng màng
tai thành cửa kính bị sấm sét, gió mưa đánh đập vào, làm cho châu thân
rúng động, tâm thần choáng váng, không thể nào tưởng tượng chỉ có một
cái miệng mà lại có thể phát âm thành một cuộc “đại hòa tấu” thần sầu
đến thế.

Võ Minh Thần lại đang lúc thọ thương trong mình không được mạnh
như thường nhật, phải hết sức ngăn chống mới đỡ điên đầu, nhức óc, riêng Quản Kình tuy người to lớn, nhưng về điện công chưa khổ luyện mấy, nên
choáng váng cả người.

Thất kinh, Quản Kình kêu khẽ:

-Không xong rồi! Chạy mau không vỡ lỗ tai!

Cả hai tế ngựa như gió, trăm giọng vãi theo, như sấm sét, vẳng tiếng hét the thé:

-Điện tiền! Bắt lại cho ta!

Tiếng người thét ngựa phi ầm ầm đuổi theo, vài phút đạn vãi trốc đầu, may vùng đó rừng cây um tùm, lối mòn nhiều, cả hai ngoắt luôn vào
rừng, chạy nhanh như gió, quanh co ngang dọc, lúc sau không còn nghe
tiếng dữ đuổi theo, hai người mới dám hạ nước ngựa xuống kiệu nhỏ. Lối
ngàn khúc khuỷu quanh co hun hút, nào ngờ ngựa vừa lao ra khỏi đoạn
thước thợ, bỗng cả hai giật nảy mình thấy trước mặt một đám nhân mã sịch tới, không sao tránh kịp.

-Ôi chao! Bị chặn đầu rồi! Cậu hai! Quay ngựa mau! Quản Kình bật kêu nhỏ, ngựa chưa kịp lộn lại, đám nhân mã kia đã trôi ập tới, tiếng
quát thét lên, muốn vỡ màng tai. Đám người lạ xuất hiện thình lình, chỉ
cách có một con suối. Võ Minh Thần, Quản Kình sịch thấy, tưởng đám quân
dị của Bá Âm Thánh Quân, cả hai đều giật mình, chừng nghe tiếng người
sang sảng như chuông khánh hắt lên, toàn tiếng Kinh, hai thầy trò vội
định thần nhìn kỹ, nhờ ánh trăng mờ, lúc đó mới nhận rõ đám đông này vừa cưỡi ngựa vừa đi bộ, nhiều gấp rưỡi bọn Bá Diện Bá Âm ban nãy. Và giống hết một đám rước thần thường thấy tại Việt Nam. Cờ ngũ hành bay phấp
phới, tàn tán lọng xanh lọng vàng nhấp nhô như nấm, người cũng mặc quần
ào như trong đám rước, tốp mặc áo tứ thân khăn mỏ rìu cầm túi roi, tay
thước, mã tấu, dao bảy… Tốp áo nâu đỏ nón chóp vác dáo, khiên. Tốp áo
đoạn áo the đen, quần ống sớ. Tốp áo thụng xanh hệt các bô lão quan viên đi tế lễ, có cả phường kèn bát âm, chiêng, trống, thêm một đội kèn tây
trống tây như trong đám rước “văn minh” đương thời. Ngoài ra, còn một
toán lính hầu lính rước chi đó, mặc áo dài đen, thắt lưng xanh đỏ, đi
ủng, vác súng, coi từa tựa lính triều đình thời vua Tự Đức. Nhác coi
dáng điệu thảy đều trang trọng hết sức, nếu không nghe tiếng người nói
vọng vừa rồi, thầy trò Võ lại tưởng một đám dân địa phương đi tới chỗ
tập trung, đình chùa nào đó, để rước sớm. Đang chạy gặp quái nhân, thầy
trò Võ lật đật rẽ cương sang phía hữu đi vòng ngang tránh đường. Nhưng
mới được vài thước, bỗng nghe phía sau đám rước kia, có tiếng loa vang
rền, rồi tiếp liền một hồi chiêng trống nổi lên vang động rừng khuya,
đám nhân mã kia đồng loạt chuyển dịch cờ quạt tàn lọng dập dờn, chân
người vó ngựa chạy rầm rập thoắt đã dàn ngang bên kia suối đứng nghiêm
chỉnh. Thầy trò Võ thử tiến thêm mấy bước, đám người này cũng chuyển
dịch theo, hai thầy trò lộn lại phía tả, cũng vậy. Hồi chiêng trống dứt,
chợt từ phía sau đám người này bay vụt lên một cây đuốc lớn. Ngọn lửa
cháy xèo xèo kéo dài vút thẳng tới đầu ngựa hai người, chiếu sáng rực khu suối. Bực
mình, Quản Kình chực chụp bắt ném đi, nhưng ngọn đuốc đã chạy ngang đảo
vù trốc đầu hai người như đèn cù, Võ Minh Thần cũng bực mình bỗng dưng
bị soi mặt, chàng trai bất thần thò tay vụt thoi đuốc trở lại, dòm theo. Ánh lửa bay qua nhiều đám đông, kẻ một vệt sáng, soi tỏ cây cối bờ bụi, hai thầy trò thấy dưới tán cây có một chiếc kiệu sơn son thếp vàng chạm hình rồng phượng.

Giống hệt kiệu rước thần, chỉ khác là kiệu này nhỏ hơn, kiệu cao ngất nghểu sát tàn cây do tám lực sĩ cao lớn khiêng, xung quanh có quân hầu mặc áo nâu đỏ che tàn lọng san sát, lại có mấy trai, gái loại đồng
nam đồng nữ bưng điếu, tráp, các đồ tạp dụng.

Khi cây đuốc bay gần cỗ kiệu, chợt thấy bức rèm trước lay động, rồi cây đuốc bay vụt vào trong kiệu, tắt ngấm.

-Kha! Kha! Một chủ một tớ mặt mũi lạnh như tiền, quần áo Thổ
rừng, mặt mày Kinh đặc. Lục lâm tứ chiếng thua lỳ, tay chơi trong mấy
cõi Tây Tàu Ta chắc tay nào ăn đứt? Mặt kia mà đánh xì phé, bất xất cẩu, tàu ngầu… khối thằng mất nghiệp! Kha kha! Bán mặt “nàng ta”. Ăn chết! Ăn chết! Chơi một canh! Chơi một canh! Xuống ngựa! Xuống chơi với tớ!

Thầy trò Võ Minh Thần nghe rõ tiếng người từ trong cỗ kiệu sơn
son thếp vàng vọng ra nói toàn tiếng sang sảng như chuông lại nghe khen
“Mặt mày đánh xì phé ăn chết”. Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, Võ Minh
Thần càng ngẩn ra chẳng hiểu “chơi một canh” là cái quái gì, nhưng nghe
bảo xuống ngựa, Võ cũng nói lớn:

-Xin có lời chào bậc quý nhân nào đó! Thầy trò mỗ có việc khẩn cấp, chẳng thể dừng chân, xin quý nhân nào đó xá cho.

Dứt lời định giục ngựa đi, nhưng tiếng lạ lại hắt ra:

-A! Tớ đoán không sai! Ăn nói văn vẻ lịch sự, đúng là dân có
học, con nhà gia giáo “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”! Ngó qua
cái mặt lạnh như tiền, biết ngay chú mày là tay tổ. Thấy mắt tớ có tinh
đời không? Chớ chối! Tớ đây nghiện dữ rồi! Ôi chao! Mấy tháng nay đi
khắp cõi Đông Dương, đến xó nào chúng nó cũng bảo “vái tớ cả nón”, chẳng đứa nào dám “chơi” với tớ! Tỉnh nào chúng nó cũng bầu tớ làm tiên chỉ,
vua chúa, tổ sư, không đứa nào chịu chơi với tổ sư! Đứa nào cũng bảo tổ
sư bịp! Nó có biết đâu tớ có mắt tinh đời, mắt tháu có thể dòm qua bát!
Đêm nay lớ ngớ vớ ngay được chú mày! Lãnh diện tiền! Chơi một canh! Cửu
vạn bát sách chi chi thông tâm lèo thập hồng kính cổ, xì tây đầm chức
xập, lưỡng phế, mìn sầu, sấp một sấp ba ông cụ tống cửu thập, tài giỏi
mấy cũng thua thằng vận đỏ cửu văn rút nửa ly ông cụ, gặp hồi đen, nhị
văn tống cửu, kha kha!

Tiếng cười cất lên hết sức khoái trá. Quản Kình khẽ bảo tiểu chủ:

-Y rủ đánh bạc! Y bảo cậu hai đánh xì phé giỏi!Võ Minh Thần trợn mắt ngó Kình thở phì, lắc đầu nói lớn:

-Quý nhân nhầm rồi! Mỗ từ nhỏ đến lớn có biết đánh bài đánh bạc gì đâu!

Tiếng người cười ré lên:

-Hí ngôn! Hí ngôn! Lãnh diện tiền đồng! Mặt hai chú mày là mặt
dân trùm xì phé, tháu cáy như ma! Tớ đây mài thủng mấy chục cái đũng
quần trên chiếu bạc, mất mấy cái cơ nghiệp ông cha nội ngoại để lại, mới học được cái nghề lấy cơ nghiệp thiên hạ nhãn tiền, xem mặt bắt hình
dung, sai thế nào được! Hồ lì đâu! Vào cuộc!

Lập tức từ phía cỗ kiệu lại bay vù ra một cây đuốc, tiếp theo có tiếng gọi:

-Đốt đèn đuốc lên cho bọn tao làm một canh! Mặt tiền cẩu! Tiền chủ hậu khách, châm lấy khước!

Theo tiếng hô, ngọn đuốc chạy dọc từ dưới lên, cứ chạy tới đâu,
đuốc lại cháy bừng bừng tới đó, đến hàng người đứng ngang suối, cây đuốc chạy hình thước thợ, lại hàng đuốc nữa cháy lên.

Nhờ ánh lửa rực soi, thầy trò Võ Minh Thần mới nhận ra mỗi người cầm sẵn một cây “hồng”.

-Lại quái nhân dị khách nào đây? Thù hay bạn? Hung hay ác? Khoe
mắt tinh đời mà cứ nhất định liệt kẻ không biết đánh bạc vào hàng trùm
xì phé… Nhân vật nào đây? Chưa thoát khỏi “đám rước vua” đã tới nạn
“đám rước thần”! Phiền thật!

Đang nghĩ vẩn vơ, cây đuốc đã bay qua suối lao thốc vào mặt, Võ
tiện tay kẹp cán lửa, đoán có lẽ y muốn thử mình chăng, chàng trai vận
điện công quăng vù cây đuốc, ánh hồng chạy theo hình thước thợ bay vút
về phía kiệu son, cả khu suối đã thành hình chữ “T” in kép lửa. Cây hồng đuốc chui tọt vào kiệu, Võ sực hỏi lớn:

-Quý nhân chưa cho biết tên họ!

Tiếng cười ha hả vọng lên hồn nhiên hết sức:

-Ha ha! Vậy ra chú mày vẫn chưa biết tớ là đứa nào ư? Thấy đám
rước thần tàn lọng, kiệu sơn son thếp vàng, còn chưa biết ai ngồi trong. Thôi! Đúng chú mày mới ở bên Tàu bên Tây về nước rồi! Tớ là Thần đây
mà!

Ngạc nhiên, Võ buột miệng:

-Thần? Lạ dữ chưa! Trùng tên với mỗ!

Lập tức tiếng trong kiệu bốc cao giật giọng:

-Sao? Chú mày cũng là Thần? Hay dữ a! Thần ngộ Thần! Nhưng chú mày là loại thần gì chứ?

Ngơ ngác, Võ nhíu mày:

-Thần là Thần chứ còn gì nữa! Minh Thần! Còn quý nhân…

-A! Thần Minh Thần! Tớ là thần Đổ! Vẫn ngơ ngác, Võ hỏi:

-Thần Đổ? Mà sao lại đổ?

Võ định hỏi “Đổ” gì? Đổ vỏ hay đổ đất đổ cát, lại hãm được. Tiếng trong kiệu quát:

-Còn đổ gì nữa? Đổ Bác chứ còn gì? Chú mày là dân trùm xì phé, xóc đĩa, không biết Đổ Bác thần này sao?

Cả Minh Thần, Quản Kình bỗng giật nảy mình, nhìn nhau chột dạ.
Mãi khắc đó, hai người mới sực nhớ đến “Tứ Hung Tứ Khoái”. Trong thiên
hạ có bốn nhân vật khét tiếng được giới giang hồ tứ chiếng Tàu Ta liệt
vào hàng chúa tể bốn món khoái hung nhất đời: Tửu, Sắc, Yên, Đổ! Với câu truyền tụng “Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc Yên, Nam Đổ”, mỗi vị một phương,
bản lãnh cao cường, nghề chơi cũng trác tuyệt, bốn vị hung thần khoái
thần này được thiên hạ kể như “bốn món ăn chơi” ai gặp chưa hẳn là có
phúc! Vì cả bốn nhân vật này đều là hạng quỷ khốc thần sầu ẩn hiện bất
kỳ, tính nết dữ hiền tỉnh say không lượng! Và cùng với tứ dị “Nam Khấp,
Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu” thành bát quái khắp mấy dải Lĩnh Nam, Bắc
Quốc ai cũng phải ngán.

Bất giác, Võ vùng hỏi lớn:

-Đổ Bác thần… có phải thiên hạ thường gọi Nam Đổ chăng?

-Còn gì nữa! Nội nước Nam này chỉ có một tên trùm Đổ Bác, đánh
bạc như thần, vơ tiền như chớp, thóc đụn tiền kho, đứa nào không biết!
Hồ lì đâu? Giải chiếu! Đánh ngay trên suối cho mát mẻ!

Thuộc hạ dạ ran, người ngựa chợt di động như đèn cù, từ dưới,
một người cao lêu nghêu mặc áo the, thắt lưng đỏ, chít khăn, tay cầm loa đi một cặp cà kheo lênh khênh gần chạm ngọn cây, bước lên đứng giữa
suối, gọi loa rền rĩ, bọn cầm túi roi tay thước chạy lăng xăng dẹp đám,
mấy tên vạm vỡ khiêng lên một bộ ghế ngựa đặt phăng giữa suối thành một
cái sập rông, một tên gầy gò áo the rộng lùng nhùng trải một chiếc chiếu hoa cạp điều, vẻ rất thạo, quát một tên đàn em đội ra một cái rương đặt phịch góc sập. Bọn chúng làm rất nhanh, gọn, bọn hồ lì quen giải chiếu
mời khách đến độ “đồng thuộc”.

Thầy trò Võ Minh Thần ngó đám người chạy lăng xăng thoắt đã thấy giữa một vòng nhân mã, đuốc sáng rực như hồi nãy trên gò, bỗng thấy một đám tàn lọng cờ quạt nhấp nhô tiến tới, bọn khiêng kiệu đặt phịch xuống đất, kiệu vẫn còn cao đến gần tám thước tây, một bọn cầm cờ quạt cắm
lia lịa quanh khu kiệu, sập, tàn lọng che nghiêng cả về trước cỗ kiệu.
Bọn đồng nam đồng nữ thoăn thoắt trèo lên kiệu, chợt bốn tên cầm lọng
xanh lội sang suối che luôn trốc đầu hai thầy trò Võ, chàng trai ngơ
ngác lúng túng chưa biết tính sao, vùng hướng sang cỗ kiệu nói lớn:

-Đổ Bác Thần! Mỗ xin khất tuần sau! Thú thực mỗ bị trọng thương, đang chạy kẻ thù nguy hiểm, trong mình khó chịu không thức chơi được!

Tiếng trong kiệu hắt xuống:

-Chơi một canh! Tớ ghiền lắm rồi; gặp thần đổ bác, không làm một canh sao được! Bị thương? À! Không sao, tớ có món thuốc bổ âm như thần
uống một viên thức hàng tuần vẫn tỉnh như con sáo à! Sao? Chú mày chạy
kẻ thù à? Không hề gì! Cứ ngồi chơi, nó đến, tớ bắt đánh một canh được
rồi!

Võ Minh Thần, Quản Kình hết sức khổ tâm bực mình bối rối, muốn
bỏ đi xem chừng rất khó, phải hạ hết mới đi nổi. Đang nát óc, dòm lại,
bất thình lình sực thấy ánh đuốc hiện chập chờn trên ngọn đồi sau lưng,
Quản Kình bật kêu:

-Nó kia rồi! Nó đuổi tới… phải đi mau!

Minh Thần chưa kịp đáp, tiếng trong kiệu đã vọng ra:

-Phải lũ đuổi chú mày? À! Cứ đứng chơi! Bay đâu! Đón mời đám
khách mới! Hồ lì! “Đèn thần” đâu sao chưa đưa ra? Đánh bạc phải chơi đèn mới phải phép chứ!

Thầy trò Võ nóng lòng như lửa đốt, chợt thấy gã hồ lì trưởng tốp khệ nệ bưng ra một cây đèn đặt giữa sập. Phải gọi là cây đèn quái mới
đúng vì tuy chỉ là một cây đèn thắp bằng dầu hôi, nhưng cả đời hai người chưa thấy cây đèn nào vĩ đại đến thế. Đèn cao viễn chiếu, nguyên chiều
cao của nó đúng bằng một người cao nhất, chân đèn to như cột đình, còn
cái phao còn quá cỡ, chu vi đúng bằng cái nia đường kính tới thước rưỡi
tây, không biết đổ mấy thùng dầu mới đầy. Cái bóng đèn bằng pha lê còn
to gấp mấy cái chân, nguyên ngọn đèn mỗi bấc cũng hơn ba gang tay đường
kính. Thấy hai người trố mắt dòm cây đèn quái gở, nhân vật trong kiệu
nói vọng ra:

-Cây đèn thần này phải “thửa” mấy hãng mới được đó. Tớ đã “thửa” một cây đèn “măng xông” tận bên Tây chưa thấy gửi sang!

Võ ngoảnh nhìn ánh lửa sau lưng rõ dần, vùng nói lớn:

-Đổ Bác Thần! Để mỗ đi cho tiện! Bọn chúng lợi hại vô cùng, mỗ không biết đánh bạc, trong túi chỉ còn ít đồng “xòe”! Vừa dứt lời bỗng cả hai cùng giật mình một cái nghe tiếng cười hắt xuống:

-Không sao! Tớ có vàng bạc, chú mày có vòng ngọc điểm huyết, đủ
rồi! Chớ ngại! Đổ Bác Thần chơi rất đường hoàng, được ăn thua chịu,
không bịp đâu!

Minh Thần động tâm, vùng hỏi:

-Sao biết có vòng xanh?

-Kha kha! Đổ Bác Thần tinh mắt, chú mày đeo vòng xanh lè đỏ khé trong ống tay áo lại không thấy ư?

Hai người dòm xuống, lúc đó quả chiếc vòng bị ánh lửa phản chiếu phát sáng xanh, đỏ rực như dạ minh châu, đến nỗi chỉ nhìn xuống suối
cũng thấy ánh dị lấp lánh.

Còn đang túng xử, đã thấy gã hồ lì cầm đuốc thắp đèn, ánh sáng
bừng lên, khói lửa vĩ đại chiếu sáng rực cả khu chiếu bạc. Bọn đồng nam
đồng nữ khiêng từ trên kiệu xuống mấy cái rương, mở ra, đầy ắp bạc
“xòe”, bạc giấy, vàng lá, vàng thoi sáng chói.

Quản Kình buột miệng bảo Minh Thần:

-Thần Đổ Bác giàu dữ à! Không thua Thạch Sùng, Mao Diên Thọ, đi chơi còn đem theo hàng mớ chắc ở nhà đầy kho!

Kình thì thào ghé sát tai chủ, nào dè vừa dứt lời bỗng nghe tiếng quát từ trong kiệu hắt xuống:

-Nói càn! Phỉ thui! Oải đen! Đóng cái miệng lại! Thiên hạ đông
tây nhiều đứa còn máu mê cờ bác, của cải cơ nghiệp nhà nó là của tao,
vàng bạc châu báu thiếu chi, nhà băng còn chưa ăn đứt tao, sao ví với
mấy thằng đó! Vương Khải tiền phúc hậu bần, hạng ngu dốt, ngáp phải
ruồi, có ít của, hết vận may sạt nghiệp chết hóa con thạch sùng tiếc của tặc lưỡi nghe ngứa cả tai. Còn lão Mao Diên Thọ là hạng gian thần mãi
quốc, thừa cơ ăn hối lộ, tích của ngồi dòm, của cũng hết mà đầu cũng
đứt. Còn như lão Quách Khai nước Triệu, cực phẩm đại thần mà còn tham
của địch Tần. Vàng tích mấy mươi xe, khi Triệu mất, vàng, đầu cũng mất.
Còn tao đây Đổ Bác Thần làm giàu chính đại, được ăn thua chịu lầm thua
dốt nát mất tiền, giỏi cứ việc vơ tiền thiên hạ giàu có cả đời, tụi nó
máu mê bao giờ tao hết của? Tao đã giầu vậy, chủ mi kém gì, có cả càn
khôn trong túi, vàng bạc nào mua nổi càn khôn?

Hai thầy trò đều kinh ngạc không hiểu sao nhân vật trong kiệu
bên kia suối lại nghe nổi lời Quản Kình nói nhỏ, cả hai còn đang ngơ
ngác nhìn nhau đã thấy sau lưng rầm rập, ngựa hí quân hò inh ỏi, từ nẻo rừng già đèn
đuốc đổ ra sáng rực, nhác trông tàn vàng tán tía biết ngay lính tráng cổ kim của Ma Quân Bá Âm đuổi tới, tiếng trong kiệu vọng ra:

-À tụi nó đến kia! Phải tụi rượt chú mày? Coi như cáng võng của “con ma trăm giọng”!

-Dạ chính y! Con chó sói thành tinh lúc hóa đàn bà, Ma Quân Bá Diện đó!

-A! Vậy đợi chút, tớ tính cho, làm canh sau chưa muộn!

Lời vừa dứt, đã thấy đám tàn tán dàn đối diện vòng ngoài, có tiếng loa vang động chõ vào:

-Nghe đây! Xa giá Thánh quân tới, truyền dẹp đường mở lối, Thánh quân ngự giá đuổi bắt giặc kia!

Tiếng loa trong trỏ luôn rền rĩ:

-Nghe đây! Chúa thần sắp đánh canh bạc lớn, truyền ai thích vào
chơi, không thích, bỏ đi tùy ý. Đây sòng bạc của Thần, không có giặc,
địch lôi thôi, chỉ có chẵn lẻ.

Tiếng loa vang dậy, cứ bên kia hô “dẹp đường” bên này hô “xáp
chơi”, bên kia hô vào bắt giặc, bên này lại hô chỉ có khách đỏ đen, lời
qua tiếng lại hai bên chĩa súng gươm thủ thế không ai chịu ai, bỗng có
tiếng hét lanh lảnh hắt vào:

-Tàn lọng nghênh ngang, đến đâu gây sòng đấy, phải Đổ Bác Thần? Sao không bảo đầy tớ lui ra, cho Thánh quân bắt hai tên trọng phạm?

Lúc đó tiếng trong kiệu mới vọng ra như chuông khánh:

-Tàn tán ngả nghiêng, võng cáng rập rờn, phải Ma Quân Bá Diện?
Ha ha! Người anh em đến hơi chậm chút, sòng đã dựng rồi, chỉ có cách vào làm một canh, “được ăn thua chịu, tinh ăn lầm thua vô ý mất tiền, đứa
nào bịp, ba đời đi hành khất”!

Tiếng cười thét nổi lên:

-A, con ma đổ bác này khôn dữ, chuyên rủ người đánh bạc để lột tiền của, đồ gia bảo. Nhà ngươi định lột vòng càn khôn của hắn?

-Chớ lộng ngôn, nói giỡn! Hắn có thể lột hết nghiệp của ta. Đã
gọi đỏ đen, ai dám chắc? Đổ Bác Thần lại không thể thua thằng vận đỏ
được ư? Tài giỏi mấy cũng thua thằng vận đỏ, ta đôi xì đôi tẩy, nó hai
con sất, nó tháu, ai biết nó tẩy xì, tẩy sất? Không bắt có mà điên, bắt
vào nó tẩy sất chết không kịp ngáp!

Im lìm, khu rừng vụt chờn vờn sát khí. Mũi súng gươm lừ lừ lăm
le nhả đạn. Chợt xa xa cáng gấm theo tàn tán lướt lên, có tiếng quát sắc đủ mọi thứ giọng làm ngựa đồng hí loạn bậy cả lên:

-Nếu ta không thích đánh bạc?

-Thì đánh nhau! Lệ ta đã đặt, sòng bạc dựng, chiếu hoa trải sẵn, đèn thần đã châm, toàn quyền thống sứ đến cũng vào chiếu bạc muốn phá
sòng cứ đánh bạt Thần đi!

Lại im. Cáng gấm xẹt ngang, dọc qua như quan sát chiến trường, bỗng tiếng dị quát lớn:

-Được! Ta vào đánh một canh cho vui! Nhưng nghề phải cho cân, vừa uống rượu vừa đánh bạc! Ta có nhiều rượu ngon!

-Càng hay! Bay đâu! Mời khách quý vào! Gã đi cà kheo lênh khênh
bước qua suối, bắc loa gọi rền rĩ, đám quân hầu đầy tớ của Đổ Bác Thần
lập tức dạt ra mở một lối đi rộng ngay qua con đường mòn. Tít ngoài xa
dưới vầng sáng đuốc chập chờn thấy nhô vụt lên cao, tàn vàng tán tía dập dờn chạm ngọn cây có tiếng quát vọng vào, mỗi tiếng
một giọng nghe như đóng búa lỗ tai.

-Uống rượu nghe nhạc đánh thắng bạc, quả nhân sẽ dẫn thầy trò khách vòng xanh đi, còn nhà người cũng phải theo quả nhân làm nội thị!

Tiếng trong kiệu hắt ra:

-Không những thế bao nhiêu của cải quân hầu, đầy tớ của ta sẽ nhập cả vào kho ngươi! Còn nếu ngươi thua?

Lưỡng lự ít giây, tiếng Bá Âm vọng tới:

-Thua tất nhiên quả nhân sẽ để của quý lại cho ngươi! Và quả
nhân sẽ để cho ngươi mọi điều tùy ý người sai khiến! Nhưng cấm làm trò
quỷ thuật!

-Yên chí! Ngươi sòng phẳng lắm, nếu ta lắt léo gạt người, thiên
lôi đả chết! Kiến mục dị chi… hèn! Thần Đổ Bác nổi danh thánh sư cờ
bạc vì tài nghệ cao thấp, chơi đúng đỏ đen, được ăn thua chịu, ta dẫu
máu mê, rất ngán danh cờ bạc bịp! Nếu ta chơi cờ bịp tam đại ăn mày! Vào mau! Thần Đổ Bác nhập rồi! Còn thầy trò chú Thần kia cứ đứng chầu rìa
cho tăng phần long trọng! Canh bạc này to nhất Đông Dương!

Ngoài xa chợt tiếng nhạc trỗi lên, vừa đàn sáo bát âm sênh tiền, vừa kèn Tây, trống Tây dập dình trầm bổng, cứ một cung Lưu Thủy, lại
một cung Bình Hành, hòa tấu lẫn lộn nghe rất lạ tai, thầy trò Võ Minh
Thần nhìn ra, tiếng tốp quân mặc áo lốt lính khố xanh, khố đỏ, phò cáng
gấm lên vào tàn vàng tán tía, nghênh ngang đi đầu là viên râu xồm xưng
là Điện tiền chỉ huy với mấy tên quân mặc áo màu đỏ cầm giáo dàn mặt đúng nghi thức vương Tàu xưa, bên
tả vẫn mấy ả phi hầu mang các đồ tửu khí nhật dụng, dàn nhạc theo sau.
Đoàn người ngựa kỳ dị đi êm như lướt trên mặt cỏ, đã thoắt chuyển dịch
tới gần chỗ thầy trò Võ đứng ngựa cách đường năm bảy bộ. “Rạp” đứng cả
lại âm nhạc tắt, lúc đó cáng còn cách bờ suối khoảng bốn năm thước. Lập
tức, phường kèn nhạc của sòng bạc cất lên một bản nhạc như đón chào
khách quý. Khi nhạc hết lập tức có tiếng quát lui trong cáng, đám quân
phò cáng cúi đầu kính cẩn đi vòng lại bên cáng, buông súng gươm giáo mác chào nổi nhạc, lục đục lội ra thẳng tít phía ngoài xa, dàn đợi xa xa,
chỉ còn bọc che tàn tán phủ cáng, gái hầu.

Ngay lúc đó, đám quân phu kiệu cũng rút hết ra sau chỉ còn để
lại bọn đồng nữ, phu kiệu cùng tốp hồ lỳ. Trong kiệu có tiếng vọng ra,
giọng thấy cao hứng:

-Khách quý vào sòng! Hồ lỳ đâu! Đồ nghề!

Hồ lỳ dạ ran, tiến lại bên sập mở nắp rương lôi dụng cụ đổ bác ra.

Võ Minh Thần bình sinh chưa hề chơi cờ bạc bao giờ, ngoại trừ
vài lần theo tôn sư, bạn bè chầu rìa đám bạc, hoặc theo vào sòng bên Hồng Kông, trên Packha nhưng chàng trai không có máu mê nên đến nay vẫn hoàn toàn
mù tịt, như chim chích vào rừng.

Trái lại, Quản Kình lại là một tay chơi một thời, nhất hồi còn
“đi lính sang Tây”, nên cũng thạo nhiều món, ghé sát bên, thì thào giảng từng môn một cho chủ hiểu. Hồ lỳ trịnh trọng bày đồ nghề ra sạp, đâu
vào đấy, chợt y bưng ra một cái bát hương, một cỗ bài vị sơn son, có
viết ba chữ vàng “Đổ Bác Thần” lấp lánh. Đoạn y thắp một bó hương lớn
cắm bát hương rồi cùng đám “đàn em” đứng chắp tay kính cẩn hướng vào
“bàn thờ”.

Từ trong kiệu, bỗng có tiếng vọng ra, “khởi chinh cổ” ngân nga
hệt giọng văn tế. Rồi sau mấy tiếng “hương bá” kéo dài, trong kiệu bỗng
vọng ra đúng giọng “phụ đồng ếch” vang động cả cánh rừng khuya:

-“Phụ đồng cờ! Phụ đồng cờ! Phụ đồng cờ bạc! Thỉnh hồn đổ bác
hồn lạc phương nào nhập vào chiếu bạc! Mấy tầng lính gác cũng cố mà vào, mấy tầng gươm đao cũng vào cho được! Phụ đồng bạc thỉnh hồn đổ bác về
ngự chiếu bạc, về vác đống tiền, ba bề bốn bên đồng lên cho chóng, mấy
tầng cửa đóng cũng cố mà vào, mấy tầng nhà rạp cũng vào cho được!

Phụ đồng cờ, phụ đồng bạc! Thỉnh hồn đổ bác! Nhập vào con bạc!
Cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà bán hết cho chân vào cùm, về nhà vợ
chửi um sùm, hết tiền hết bạc nhảy ùm xuống sông. Đổ bác phụ đồng vào
trông chiếu bạc, phụ đồng cờ bạc thỉnh hồn đổ bác nhập vào con bạc! Cờ
bạc là bác thằng giàu, tiền làng vơ hết tậu trâu tậu bò, canh bạc tốt, tậu nhà mấy hồi sắm ngựa cưới ba vợ liền!

Bạc tốt như tiên, bạc tiền bạc của! Phụ đồng cờ bạc! Thỉnh hồn
đổ bác nhập vào con bạc! Cờ bạc là bác đỏ đen, ngồi vào chiếu bạc như
tiên non bồng, cờ đen mất vợ mất chồng, mấy canh bạc đỏ như rồng gặp
mây. Máu mê chơi suốt đêm ngày, tổ tôm xóc đĩa cò quay tài bàn. Một canh khát nước đời tàn, mấy hồi tháu cáy tiền nàng vào tay. Máu mê cờ bạc
đêm ngày, một canh bạc bịp mặt ngây cán tàn.

Phụ đồng cờ! Phụ đồng bạc! Thỉnh hồn đổ bác nhập vào chiếu bạc,
nhập vào con bạc, nhập bác thằng bần, nhập gần nhập xa, nhập qua nhập
lại, nhập tái nhập hồi, nhập vào chiếu bạc”.

Tiếng phụ đồng đổ bác tuôn như nước chảy, bó hương lập lòe như
lên đồng, khói xám tàn bay. Võ Minh Thần liếc nhìn không khỏi ngạc nhiên thấy bài vị bát hương sập gỗ chiếc cạp điều, bọn hồ lì cùng tàn lọng,
kiệu son, đồng nam đồng nữ cũng đảo theo coi hết sức quái gở. Chàng trai liếc sang bọn Bá Diện Ma Quân, cũng thấy cáng gấm, quân hầu nam nữ lắc
lư hòa nhịp!

Bèn ngó sang Quản Kình định nói chi bỗng trố mắt sửng sốt, thấy
Quản Kình cũng lắc theo. Rồi chợt ngạc nhiên bỗng thấy chính mình cũng
lắc lư như lên đồng. Võ vội định thần chú ý mới hay chính con ngựa đang
lắc lư ngả nghiêng theo nhịp phụ đồng đổ bác. Võ vội gò cương, vỗ nhẹ
ngựa, thích Quản Kình. Y bàng hoàng chớp mắt, lật đật định thần. Võ khẽ
bảo:

-Coi chừng! Phải tỉnh táo! Nhân vật Đổ Bác Thần trong kiệu rất
giỏi thôi miên đó! Giọng tống cho phụ đồng của y có mãnh lực “ru ngủ”
người vật như không! Điện lực y càng ghê, phát ra chấn động cả tàn lọng
bát hương đảo nghiêng ngả mà vẫn ung dung! Cuộc chiến đấu sẽ gay go hết
sức! Đông Âm, Nam Đổ này là loại gì đây? Sao không thấy xuất hiện? Chiếu trải kia chắc phải xuống ngồi.

Chợt tiếng phụ rất người chợt vụt im phăng phắc, tiếng trong kiệu cất cao:

-Thần nhập rồi! Vào cuộc! Xóc đĩa, thò lò, quay đất, bất, đố
mười, còquay, trạc tếch… thích chơi món nào trước cứ chơi! Nào! Xuống
chiếu cạp điều!

-Khoan! Ta không ưa xuất đầu! Ngồi trong cáng kiệu, được rồi! Rượu, nhạc đã!

-Ôi chao! Chơi vậy đâu có khoái! Lại mệt nữa! Thôi cũng được!
Tiền chủ hậu khách, ta bàn thế này: mời sang nhà nhau uống vài tuần rượu rồi chơi! Dân đổ bác chính tông phải hào hoa phong nhã! Ta mới cất được vò “rượu quý” ngâm “hổ tu trùng” ngon hết sức!

-Hay lắm! Quả nhân có vò “mỹ tửu” cất toàn phân rãi “kim tằm trùng” thơm dữ, chắc ngươi vừa ý!

Thầy trò Võ nghe qua hai nhân vật trong Tứ Hung Tứ Dị giới thiệu rượu quý cũng đủ ớn gáy. Vì cả hai món đều thuộc loại cực độc trên thế
giới. “Hổ tu trùng” là giống sâu râu cọp sinh, còn “kim tằm trùng” là
cũng do độc chất mà ra. “Hổ tu trùng” dân miền núi Đông Dương cũng có
một số dòng họ nuôi còn “kim tằm trùng” nguyên của dân Miêu bên Tàu, một sắc dân quán quân về môn đầu độc chế ra…

Thầy trò Võ còn đang ngó nhau phát ớn, chợt nghe tiếng hô “nào
quý khách đâu”, bỗng thấy rèm phủ cáng lay động cuộn lên rồi dưới vùng
đèn đuốc sáng rực, một bóng đỏ chót lăn xòa, bắn vọt từ cáng qua suối
phi tọt vào cỗ kiệu son!

Từ chỗ cáng gấm đậu đến cỗ kiệu son khoảng cách độ chục thước,
bóng đỏ bắn sang nhanh đến nỗi hai thầy trò Võ Minh Thần chỉ kịp thấy
một khối đỏ như con bướm xòe cánh bay sang, không ai nhận ra hình dạng
“con” gì cả!

Và khi con bướm đỏ đã chui vào kiệu, luồng gió tạt lại phả vào
mũi hai người một mùi thơm thơm hăng hắc kỳ ảo lạ, phảng phất rõ mùi da
thịt đàn bà. Quản Kình dòm trố mắt, ghé tai chủ trầm trồ:

-Ghê dữ à! Nó nhảy sang như tên bắn chim bay, cậu hai có thấy rõ hình thù không? Lại có mùi giống cái!

Chàng trai ngó cỗ kiệu kín, trong rèm còn lay động, nhíu mày, vẻ nghĩ ngợi đăm chiêu:

-Lạ thật! Lần này lại giống hệt con bướm đỏ, nếu không phải hóa
hình, có lẽ “nó” khoác mảnh lụa hình con bướm, dang tay nhảy sang. Kỳ dị nhất là “nó” tiết ra mùi “người” đàn bà hệt ban nãy trên gò! Mùi nữ
nhân này, thường xưa nay người nào nhuận thịt, thắm da lắm mới có!

Cả hai lòng đầy thắc mắc, cùng nghĩ đến “con tinh đực Hồng Cẩu
Quẩy chúa” đã ép duyên hấp sát mười bảy năm về trước, và đầu óc càng
hoang mang, nghi vấn nặng.

Lúc đó, bốn bề im phăng phắc, nghe rõ cả tiếng ngựa thở phì quất đuôi. Chợt trong cỗ kiệu son bật lên một thứ ánh sáng xanh lè như đom
đóm lân tinh, nhưng rèm kiệu dày, không rõ hình bên trong. Chợt nghe
tiếng oang oang phát ra:

-Đông Âm nổi danh hiếu khách thường mời khách uống rượu nghe
nhạc, tất là bậc hiếu âm! Nay mời Đông Âm uống rượu, không có nhạc,
chẳng hóa

Đông Câm! Ta cũng võ vẽ học nhạc, xin thổi một bài mừng quý khách nghe chơi trước khi uống rượu!

Lời dứt, âm thanh nổi lên ngay, không phải tiếng đàn địch chi cả mà là tiếng kèn đồng. Tiếng kèn ồ ề gióng lên nghe thê thảm hết sức làm thầy trò Võ Minh Thần đứng bên này chợt nổi da gà, chạnh niềm tưởng
ngay tới tử biệt não nề, vì cung âm quen thuộc muôn đời, bất cứ người
Việt nào nghe cũng mủi lòng thảm thiết nghĩ tới cảnh chết cha chết mẹ
đưa đám bà con. Vì đó là “tiếng kèn đám ma” thổi điệu Lâm Khốc! Trong
đêm khuya rừng vắng, trăng nhạt sao mờ, giun kêu dế khóc, tiếng kèn não
ruột bổng trầm rên rỉ ò e, trước còn nghe ra tiếng kèn, sau một hai cung tiếng kèn “đi” luôn vào chiều sâu linh hồn tâm tư tri giác hòa với lòng người thành ra như tiếng người than khóc gào rống hàng chục, hàng trăm, hàng chợ người tóc xõa, đội mũ rơm, mặc áo xô gai, chống gậy rơm lăn
lộn kêu gào than khóc… trong lỗ tai, làm chàng trai mồ côi nghĩ ngay
tới đám tang ông già họ Võ nghĩa phụ, đến cái chết thê thảm của mẹ
chàng, tự nhiên nước mắt chảy ròng. Thầy tớ đều cúi đầu lặng lẽ, hai con mắt đỏ hoe. Cho đến khi tiếng kèn ma dứt hẳn, thì cả cánh rừng khuya
như biến thành một bãi tha ma. Bỗng nghe tiếng hét lanh lảnh trong kiệu:

-Ma đổ bác này! Mừng khách sao thổi kèn đám ma?

Tiếng oang oang vọng ra như vừa khóc vừa quát:

-Kiếp phù sinh nhanh như gió thoảng hữu hình hữu hoại, người
ngợm ma quỷ thần thánh gì cũng không thoát khỏi vòng sinh diệt. Nhà
ngươi giống gì, đã có hình tất có hoại, ta đãi ngươi rượu quý, có thể
đưa về âm phủ, ta phòng xa tống tiễn, kèn đám ma thì vừa! Bài nay Nam
Khấp có lần đãi ta, nghe buồn chết cha chết mẹ, ba vạn sáu ngàn ngày
nhanh lắm, nghe một lần chết khỏi nghe! Ồ! Coi kìa! Bọn chúng đều chảy
nước mắt! Ha ha! Thiên hạ Đông Tây sớm muộn đều chết cả, kèn đám ma của
ta ăn khách, thua chi Nam Khấp. Cám ơn các chú mày đã khóc vì tiếng kèn
ta!

Võ vội lau nước mắt, bỗng giật thót mình sực nghe tiếng lảnh trong kiệu vọng ra cười khanh khách:

-Đổ Bác! Ngươi đã lẫn rồi ư? Bá Âm Bá Diện Thánh Quân không cần
nghe tiếng kèn chó chết của ngươi! Để dành thổi… đưa đám tang nhà
ngươi! Hà hà! Còn ta! Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn, càn khôn đảo
lộn! Hà hà! Càn khôn sắp vào tay quả nhân! Rượu quý đâu? Đưa uống cho
rồi!

Tiếng oang oang ré lên khoái trá:

-À à! Nếu ta quên! Nếu vậy càng phải đãi ngươi kèn đám ma. Còn
ta! Kha kha! Càn khôn đảo lộn càn khôn vào tay ta! Kha kha! Chơi một
canh, đứa nào ăn nổi Đổ Bác Thần? Nào! Rượu quý đâu, cùng nhau cạn chén! Đây đây!

Thấy chứ? Con “hổ tu trùng” này thuộc giống hổ vằn, nó lên mười đó! Một hòn phân mắt muỗi, cả chợ nghe kèn!

Rồi trong kiệu chợt im. Mọi thứ đột nhiên im lìm như trong quan
tài. Hai thầy trò Võ lắng nghe, mắt không rời kiệu, tưởng tượng cảnh đối ẩm bên trong “cỗ kiệu rước thần”.

Võ khẽ bảo Quản Kình:

-Chú vừa nghe rõ chứ? Hai “nhân vật” ma quái kia vừa nhắc đến
câu “càn khôn… đảo lộn”, Tửu Chúa từng đọc trên Hồ Kiều! Chắc có điều
bí ẩn liên quan đến cái vòng điểm huyết này.

Quản Kình gật đầu:

-Tôi cũng nghĩ thế! Cứ như lời họ vừa nói, vòng cậu hai đeo dính dấp tới càn khôn vũ trụ chăng? Nên thiên hạ nhiều người muốn chiếm, ông bà trước bị hại cũng vì thế!


Hai người bàn bạc to nhỏ chừng mươi phút, trong kiệu vẫn im lìm. Kình thì thào:

-Hổ tu trùng độc ghê gớm… ma quái uống vào cũng chết như không, hay họ gục cả rồi?

Võ đang nghiêng ngó, lắng tai, sực nghe trong kiệu có tiếng vùng nói lớn, lần này năm bảy thứ giọng:

-Cám ơn! “Hổ tu trùng” của ngươi ngon lắm! Giờ sang nếm thử “Kim tàm cổ tửu” của quả nhân! Nào!

Hai người trừng nhìn không chớp, lòng hồi hộp, bỗng cửa rèm
trước lay động, rồi bóng con bướm đỏ to bằng người bắn vụt sang phấp
phới, đúng con bướm vỗ cánh, vút cái, đã chui tọt vào cáng gấm mất dạng, Lần này Võ nhận rõ thêm chút… thấy càng giống một con bướm khổng lồ,
cũng rõ cả cái đầu đúng đầu bướm có cả ria, mắt trố lồi như hai hòn bi
ve sáng loáng.

-Hừ, bí mật! Người hay ma quái? Thời buổi điện lực máy móc này có thể có loài tinh hiển hiện nhãn tiền có trăm mặt? Hay…

Nghĩ loanh quanh chưa dứt đã thấy rèm động lần nữa, rồi cả hai
giật mình sửng sốt thấy một con dị điểu đo đỏ đen đen to bằng người từ
trong kiệu son bay vù ra xòe cánh vút qua suối, vừa tới cáng thu cánh,
chui luôn vào, êm như không.

Nhờ ánh đèn lửa, hai người thấy mình nó đỏ, mỏ đỏ, cánh đen,
chân đen, đầu đen tựa con quạ, coi hết sức quái đản. Hai thầy trò nhìn
nhau lại một phen điên đầu chẳng hiểu chim ma chim quái, hay người vật
khoác lốt chim.

-Mình có cánh đen… khoang đen đỏ như quạ. Đổ Bác Thần là con quạ? Vô lý!

Im mấy khắc, bỗng trong cáng vọng ra từng tràng âm thanh dữ dội, như xé rách không khí, chiêng khua trống gióng, kèn thổi tiêu lộng như
trời long núi lở vang động rừng khuya… Tiếng “đại hòa tấu” hai thầy
trò Võ đã nghe qua, nhưng không trực chỉ vào họ, nên chỉ thấy chói tai,
không cần vận sức chống. Mấy phút sau, âm thanh tắt, có tiếng ong ong
cất lên:

-Vạn tạ Đông Âm gẩy đàn ồn hay dữ à! Rượu quý đâu? Uống vào còn
chiến! Ta ngứa tay lắm rồi! A! Đẹp chưa! Ma quân nhà ngươi nuôi được con trùng ngộ lắm, coi không khác con chim trùng “thần nanh đỏ mỏ”.

-Kim tằm cổ trùng này một người Miêu cống cho quả nhân đó. Lên
mười rồi! Một giọt nước rãi, hòn phân mắt muỗi, đủ cho cả mấy họ về âm!

Lời dứt, trong cáng im lìm. Không khí muốn ngạt thở. Khoảng năm phút sau, bỗng có tiếng lệnh vỡ khua chói tai hắt ra:

-Ngon dữ à! Rượu chi uống một muốn mười! Nào! Rượu quý ngà ngà!
Chơi một canh đỡ ghiền! Chớ để thần Đổ Bác chờ lâu! Xuống sập ngồi chiếu cạp điều mới thích!

-Không! Chơi cách không! Nhà ngươi không bịp được!

Cáng động rèm lay, bóng quạ khoang bay vụt qua suối, chui vào kiệu mất dạng, rồi có tiếng hắt ra:

-Con bạc thích chơi món nào? Bất? Tài xỉu? Cò quay? Xóc đĩa? Món nào trước đây?

-Năm món! Mỗi món ba tiếng! Ba ván thôi! Xóc đĩa trước!

-Hồ lì đâu! Đồ nghề! Gã cao mặc áo the “dạ” ran, bưng ra một bộ
bát đĩa đặt giữa sập, mở ra trong có bốn đồng “trinh” Khải Định sáng
loáng. Gã quơ vạt áo the lau bát đĩa, tiện tay lấy vạt áo phủi lia lịa mặt chiếu, đoạn lui ra chắp tay đứng
một góc. Bỗng có tiếng lanh lảnh trong cáng vọng ra:

-Tên hồ lì của ngươi coi như gã cờ bạc bịp! Sao không chơi tiền diêm? Tiếng trong kiệu cười ha hả:

-À! Ngươi tưởng tiền diêm khó “nghe” tiếng bạc sao? Nếu vậy nhà
ngươi phải bán vài cơ nghiệp nữa mới chơi nổi với ta! Phải biết dân chơi xóc đĩa đã tới bậc thần sầu, tiền nào cũng “nghe” được hết. Tiền xòng
chữ sắc, dễ nghe, tiền trinh chữ tầy, nhận. Tiền diêm khó nghe chút
nhưng cứ hai mặt khác nhau là nghe được ráo. Kha kha! Cái mặt diêm có
dán giấy khi ngã nằm xuống đĩa nó “sền sệt đùng đục” nghe càng sướng tai hơn tiền trinh. Thực ra, dân xóc đĩa bày đặt ra chơi diêm chỉ cốt cho êm ru, sợ lính nhà nước rình bắt. Ôi
chao! Xóc đĩa mà lại im ỉm như pháo tịt ngòi, khác nào Bá Nha, Tử Kỳ, Sư Khoáng lấy phải con vợ điếc! Tiền đồng khua rền âm thanh nghe khoái lỗ
tai! Coi! Bát đĩa của ta toàn đồ gia bảo, truyền đã năm đời! Nội khắp
Đông Dương này, không có “bộ” nào sánh kịp!

Thầy trò Võ Minh Thần nghe Đổ Bác Thần khoe bộ đồ nghề chi bảo,
tưởng ít nhất cũng bát vàng chén bạc, mạ kim cương chi đó. Chừng dòm kỹ
muốn cười phì vì chỉ là một thứ bát đĩa rất thường mà lại rạn vỡ nham
nhở coi như bát đĩa ăn mày. Chừng bằng sắt, gỗ chi đó, tráng sứ ngoài,
men sứ đã nứt nẻ, tróc lở lỗ chỗ, lòi cả lần cốt trong.

Bộ bát đĩa này chỉ to bằng bát đĩa ăn cổ, nếu có đặc biệt, là
màu men tráng bát đĩa đều chỉ hai màu đen đỏ, chừng tượng trưng cho món
chơi đỏ đen. Hai thầy trò nhìn nhau, không dám cười, bỗng nghe tiếng
trong cáng hắt ra thé lảnh:

-Bát đĩa hủi! Đồ gia bảo gì coi như chén bát thằng ăn mày! Nhà
ngươi vét bao nhiêu cơ nghiệp con bạc, không sắm được món đồ nghề nào dễ coi hơn? Keo bẩn!

Tiếng trong kiệu vọng xuống đầy cao hứng:

-Thị bất tri kỳ vật. Nhà ngươi là hạng hiếu âm ta mới cho chơi
bộ đồ nghề quý hóa này. Nếu hạng trọc phú bò sữa ta sẽ để chơi bát vàng
đĩa bạc! Phải biết về đời vua Gia Long, hồi triều đình còn lệ xử phạt
nặng dân cờ bạc như đời vua Lê Thái Tổ, một lần, ông nội ta mở sòng tại
một tỉnh có ông quan tỉnh rất ghét cờ bạc. Ông nội ta đang ngồi xóc cái
bằng bộ đồ này, thì ông quan tỉnh kia dẫn lính ập vào êm ru, không ai
biết. Và khi nghe tiếng xóc rồi, ông ta thành luôn một con bạc chính
tông, ấy chỉ vì… mê đồng tiền xóc bằng bộ đồ nghề này!

Thầy trò Võ Minh Thần nghe Đổ Bác Thần tán tụng mãi “bộ đồ hủi”. Hai người không nhịn được cười. Quản Kình ghé tai tiểu chủ vừa định nói chi, bỗng nghe tiếng “cái xóc”. Rồi “cạch cạch”, chiếc bát động đậy,
bất thần nhảy lên khỏi mặt chiếu chừng nửa thước tây, rồi lại úp chụp
xuống, như có bàn tay vô hình mở ra “trình làng” nhìn cho tỏ bốn đồng
tiền ngửa.

Và lập tức cả bộ bát đĩa lại nhảy lên, lần này chỉ độ hai gang,
hơi nghiêng, rồi cứ thế xóc liên hồi. Thầy trò Võ Minh Thần hơi giật
lùi, nhìn nhau, ngạc nhiên hết sức, vì bốn đồng trinh xóc trong bát úp
thoát ra từng mớ âm thanh lạ lùng, không phải tiếng tiền đồng khua bát
đĩa, mà là thứ âm kỳ dị bổng trầm véo von có đủ âm giai nghe như tiếng
đàn trai thánh thót lẫn cả tiếng đàn cồng xứ Mường hay dùng, tiết tấu
nhịp nhàng rộn rã, có hồi lại như chiêng khua, trống gióng, vui tai hết sức! Bát đĩa xóc rền đủ ba hồi,
rồi mới từ từ hạ xuống mặt chiếu, dư âm còn thánh thót vang ngân trong
tai mãi còn chưa dứt, cái bát xoay nửa vòng. Trong cáng tiếng dị bật lên lanh lảnh:

-A… đàn xóc đĩa! Đàn xóc đĩa! Hay dữ! Ngộ dữ! Nghe vui tai lắm! Xóc thử hồi nữa mau! Quả nhân mê rồi đó!

-Kha kha! Kha kha! Thấy không? Ta đã bảo đồ gia bảo ngũ đại mà!
Đồ nghề bát đĩa thần nghe mà khoái chứ? Vậy mới xứng với món “đệ nhất
khoái” chứ!

Nhờ bát xoay nửa vòng, lúc đó Võ Minh Thần mới thấy rõ trên mặt
bát có cẩn mấy chữ vàng lấp lánh như có cả dạ quang. Bên men đỏ có hàng
chữ: “Thiên hạ đệ nhất khoái, hí cuộc tuyệt cùng”. Bên men đen có hàng
chữ “Thiên hạ đệ nhất hung, gia tài khánh tận”.

Vừa đọc nhẩm xong, bát đĩa lại nhảy lên mấy hồi nữa. Lần này âm
thanh càng vang vọng giữa đêm rừng khuya, nếu không thấy bát đĩa xóc,
người ta có thể tưởng tay nhạc sĩ rừng già nào đang dạo đàn, cũng như
trước, cái bát chợt xoay nửa vòng, rồi nằm im.

-Mở thử tiếng chơi!Tiếng trong kiệu vừa vọng xuống, chợt nghe
tiếng trầm trồ suýt soa bên tai: “Sấp ba! Nhất định sấp ba!” Võ Minh
Thần vội liếc nhìn sang, thấy Quản Kình đã hạ khiên xuống từ khắc nào,
mắt nhìn lau láu vào bộ bát đĩa đặt giữa sập, miệng lẩm bẩm, xắn tay áo
lia lịa, nhấp nhổm y hệt con bạc khát nước lăm le thò tay mở bát! Thì ra tiếng tiền đồng xóc rền trong bát đã khơi dậy “máu cờ bạc” trong người
Quản Kình.

Chàng trai họ Võ thích nhẹ khuỷu tay vào sườn người đồng hành,
Quản Kình giật mình ngơ ngác, chợt ngượng, kéo vội khiên lên, nhe răng
cười:

-Sòng xóc đĩa… ma! Không người bát đĩa cũng xóc, tiền khua như gẩy đàn! Tiếng này chắc sấp ba!

-Điện lực y mạnh lắm! Phát trảo xóc đĩa vững như cầm tay! Chú
hiểu sao tiền phát âm lạ thế không? Bát đĩa này trong rỗng, sáng chế ra
từ công phu dùng kim khí, dây vàng dây bạc, ve chai, da trâu… ghép vào lòng bát đĩa, có chia ra mấy bộ cung, mỗi cung nhiều âm, thành một cái
“đàn bát”, khi xóc, nhân điện ảm vào cũng như người ta đánh đàn cắm điện trời, nên tiếng mới kêu to đến thế! Coi chú có vẻ khoái đánh bạc dữ,
chú đánh khá không?

Quản Kình ghé tai chủ:

-Biết đủ thứ! Tổ tôm, tài bàn, xóc đĩa, quay đất, bất, tài xỉu,
xì phé… ngón nào cũng được! Nói cậu hai đừng cười, hồi đi lính sang
Tây tôi bịp cả tụi quan Tây, tiền vào như nước. Nghề bịp không đứa nào
bằng!

-À! Thế ra chú cũng là “vua cờ bịp” một thời! Hay rồi! Vậy mình
đỡ lo! Chú nhớ giảng từng món cho tôi nghe! Đang thì thào, bỗng nghe
tiếng trong cáng hô: “lẻ”. Cái hô “bán lẻ”; cáng hô “lẻ”, cái hô “cân
hồ”. Mở ra sấp ba.

Cái kiệu cười ha hả: “hòa”. Cáng hét “sao lại hòa, ta đánh lẻ
mà”. Cái “Ơ! Ngươi không biết chơi sao? Cái “cân hồ” mặt được thì hòa,
mặt thua cho hồ. Hồ là ta, ta là hồ mà!”.

Lại xóc “lẻ”, cái hô “bán chẵn”. Con bạc nói lớn: “Cân”. Chiếc
bát bay vụt lên quật đến chát vào tên hồ lì, tưởng vỡ bụng. Tên hồ lì
đưa luôn hai tay bắt dính. Sấp hai, Bá Âm thua một tiếng.

Đến tiếng sau, Bá Âm lại thua. Con bạc thét:

-Đổ Bác! Để ta xóc! Nhà ngươi bịp?

-Chớ đổ oan! Đổ Bác Thần nghe tiền sấp, ngửa như… thánh, cần gì phải bịp!

Im, rồi bát đĩa lại nhảy lên, xóc lung tung hai, ba hồi. Khi hạ xuống chiếu, Quản Kình thì thào:

-Cái bát đàn này, nó xóc, nghe dễ hơn Đổ Bác Thần! Mặt có chữ hạ xuống đĩa sào sạo rõ thật! Cái này sấp ba!

Chợt nghe Đổ Bác Thần trong kiệu hô “chẵn”. Hồ lì xướng “chẵn
đánh”, cái hô “cân”, xoay nửa vòng bát. Quản Kình ngạc nhiên bảo chủ
tiếng này Đổ Bác Thần thua như chơi, bạc sấp ba rõ quá mà, nhưng khi mở
bát ra, lại đúng sấp hai. Bá Diện Ma Quân hất tung cái đĩa tiền, hét:

-Ma Đổ Bác đánh bịp! Sao lại sấp hai? Đổ Bác Thần cười ré lên:

-Ngộ dữ chưa? Nhà ngươi xóc cái kia mà! Đã bảo: Thần không chơi bịp đâu! Sao không hỏi mấy đồng tiền?

Bá Âm giận rít lên, cứ hỏi: “sao lại sấp hai”, “sao lại chẵn”, “tưởng”… Đổ Bác Thần cười ha hả:

-Bất quá tam! Món khác!

-Tài xỉu!Võ Minh Thần chợt bật cười. Bá Âm hét:

-Vòng xanh! Cười gì? Sao lại cười?

Võ điềm nhiên:

-Mỗ cười… sao lại sấp hai! Đáng lẽ sấp ba mới phải!

Có tiếng thở phì rung cả cáng rồi im bặt. Quản Kình vẫn chưa hiểu, cứ ngơ ngác ngó chủ. Võ ghé tai:

-Chú chưa hiểu sao? Tiếng bạc vừa rồi đáng lẽ sấp ba. Đổ Bác
Thần thừa biết sấp ba, nhưng y già đòn, đoán Bá Âm sẽ lật ngược nước bạc y đánh, vì Bá Âm biết Đổ Bác là vua cờ bạc, nghe không sai, nên tính
bịp Đổ Bác. Bá Âm đinh ninh không sấp hai thì sấp bốn, ngửa tư nên dùng
luôn điện công gẩy lật một đồng tiền, nào dè, bạc lại sấp ba, gẩy đồng
nào cũng hóa ra chẵn hết.

Quản Kình vỡ lẽ, chịu Đổ Bác ma mãnh. Canh tài xỉu bắt đầu. Quả
nhiên Đổ Bác Thần đánh như ma xó, thắng cả ba tiếng bạc. Tiếp theo quay
đất, xì phé, tam cúc, Bá Âm đều thua, tuy cũng có vài tiếng được, nhưng
điểm số Đổ Bác Thần vẫn trội hơn. Cuối cùng, Bá Âm hét “cò quay”. Vì hai con bạc, nên phải chia số, kẻ lấy chẵn, người lấy lẻ. Bá Âm nhận lẻ:
một, ba, năm, bảy… hô:

-Vòng xanh, quay tiếng bạc này!

-À phải đó! Đánh bạc định mạng chú mày, chú mày làm cái giùm là phải.

Minh Thần búng vù một nhát chỉ phong. Cần quay tít, bàn cò quay
có gài thêm một bộ phận phát tiếng leng keng cho vui tai. Tiếng leng
keng chậm dần, từ từ dừng lại số bốn. Tưởng dừng, nào dè lại lừ lừ trôi
nhích sang số năm. Nhưng vừa chớm hàng kẻ vạch, chợt dừng lại nhích vào
chút, rồi lại trôi, tới vạch lại nhích về bốn. Quản Kình thì thào:

-Cả hai đang đấu lực ngầm! Cả hai bịp!

-Không! Bá Âm thua, dùng ma thuật. Đổ Bác tự vệ, cuộc lôi, ghìm còquay còn ngụ ý thử lượng sức nhau.

Võ vừa nói xong, bỗng cả bàn cò quay rung động bần bật, rồi
“rắc” tiếng khô dòn, cần gỗ gãy làm hai, bắn tung lên cao. Rầm! Cả bàn
quay cũng bắn lên theo. Gã hồ lì nhảy vọt lên đỡ lấy trịnh trọng đặt
xuống chiếu. Bá Âm vùng rống lên cực kỳ bi phẫn:

-Đổ Bác! Ta thua ngươi rồi! Giờ ngươi được một điều sai ta! Muốn gì nói ngay!

Chỉ có tiếng Đổ Bác cười ha hả, Bá Âm hét:

-Muốn gì? Muốn ta cởi trần không? Hay muốn ta nộp hết cơ nghiệp, quân hầu đầy tớ…?

-Hà hà! Chưa muốn gì cả! Cho ngươi khất đấy! Và hình như vòng xanh đợi ta lâu rồi thì phải?

-Đổ Bác! Vậy ta sẽ trả sau! Vòng xanh! Mong đánh giỏi hơn ta! Bay đâu! Hồi loan!

Tiếng hô trăm giọng vang âm rừng đêm, lính tráng, phường kèn
chạy vào, âm thanh Đông Tây kim cổ hòa âm bài “tẩu mã”, cáng gấm nhô
lên, tàn tán ngả nghiêng, đèn đuốc vật vờ, đoàn nhân mã bỏ đi vùn vụt
theo âm điệu bôn hành, thoắt đã chìm hút cuối cánh rừng xa xa… Ánh lửa nhỏ dần trong sương mờ rồi chìm hẳn như đoàn âm binh rút về cõi âm bên
kia thế giới. Ai nấy trông theo. Đổ Bác Thần phát cười sằng sặc:

-Con ma trăm giọng định bịp cả Đổ Bác Thần! Ta cứ việc đánh sao
cho nó lật ngược, thế là ăn hết! Ta đã được canh bạc to, nó thua liểng
xiểng còn bị “tam đại đi ăn mày” đau hơn hoạn! Nào đến lượt chú mày!

Biết không khất nổi, Võ Minh Thần nói lớn:

-Thú thực mỗ đánh bạc dốt lắm, có khi chưa sạch nước. Nhờ cả chú người nhà đây bàn bạc được chứ?

Lập tức có tiếng cười thét vọng sang:

-Ôi chao! Cái mặt chú mày lì như cái phản hàng thịt, mặt vua xì
phé thò lò xóc đĩa bầu cua mà! Làm gái mãi! Cờ ngoài bài trong kéo cả
làng cả nước bàn bạc, ai cấm? Lạ đếch gì nữa, còn hỏi vờ.

Võ đang thắc mắc chẳng rõ chơi cách nào, sực lại nghe tiếng Đổ Bác Thần kêu lớn:

-Bá ngọ Bá Âm bày trò giấu mặt đánh mò như sẩm sờ, chán như cơm
nếp nát. Giờ chỉ còn chú mày với tớ, mấy thằng ung dung chễm chệ ngồi
chiếu cạp điều chơi mới khoái chứ. Nào! Hạ mã, thượng sàng thượng sập!

Võ thấy hồi hộp lạ, chẳng rõ Đổ Bác Thần thuộc chủng loại nào,
bỗng thấy bọn đồng nam đồng nữ, bọn che tàn tất tả chạy như đèn cù, đám
giương lọng, đám bưng điếu tráp, đồ tạp dụng càn dọc từ cỗ kiệu ra đến
sập, rồi bức rèm kiệu chợt lay động, vén lên, bóng con quạ khoang đen đỏ từ trong đập cánh bay vù ra, lao chúc đầu xuống sập kê giữa suối, nhưng khi tới nơi, chợt con quạ ngóc đầu lên, lẹ làng đáp xuống ngồi chễm chệ trên chiếu cạp điều, đúng dáng con bạc vào chiếu.

Ánh đèn vĩ đại, ánh đuốc hắt sáng rực, soi tỏ mặt mũi, dáng
hình, thầy trò Võ đứng cách có mấy sải trông rõ mồn một, lòng càng kinh
dị, cứ giương mắt ngó chòng chọc không thôi. Vì đúng hình một con quạ,
to bằng người ta, chỉ khác là quạ thường khoang đen trắng, quạ này lại
khoang đen đỏ, từ thủa lọt lòng mẹ, hai người chưa hề thấy con quạ nào hình thù sắc lông lại ma
quái phi phàm đến thế. Mỏ bằng nắm tay, đỏ chót, mắt trố thao láo màu
than tàu khé, con “thần ô” hay “ma ô” cũng vậy, gật đầu vẫy cánh gọi léo nhéo tiếng người giọng Kinh:

-Xuống đây! Sao còn đứng giương mắt ếch dòm tớ như cú dòm bệnh vậy?

Vừa gọi vừa vỗ chiếu, thầy trò Võ cứ trố mắt nhìn ngơ ngác, Quản Kình buột miệng kêu:

-Ồ… Sao lại có “ông” quạ to lớn thế này?

Võ thích nhẹ khuỷu tay mãi đến lúc Đổ Bác Thần giục đến lần thứ ba, hai thầy trò mới hoành khiên, nhảy vèo xuống sập. Vừa ngồi xuống sập, chàng trai nói luôn:

-Quả thực bọn mỗ không thể tưởng tượng trên đời này lại có… quạ làm

Đổ Bác Thần nói sõi cả tiếng người như tiên sinh.

Quạ Đổ Bác Thần cười khanh khách:

-Chú mày coi tớ ngộ lắm sao? Kha kha! Làm đếch gì có con quạ to
như người, có quạ ma! Chú mày thích thấy mặt thật tớ không? Mừng rỡ cả
hai gật lia lịa.

Quạ đen hô “ngoảnh mặt đi”, hai thầy trò vừa quay đi bỗng nghe
“bóp” một tiếng, lật đật xoay mình lại chỉ thấy một khu suối khói um còn đặc hơn cả tạc đạn khói mù, chẳng thấy bóng quạ đâu nữa, khói lên cao
dần xóa nhòa cả tàn lọng trốc đầu. Võ Minh Thần hỏi lớn:

-Đổ Bác Thần đâu rồi?

-Tớ vẫn ngồi đây! Kha kha! Chú mày đã xem tụi nó làm xiếc quỷ
thuật chưa? Nó nổ một cái pháo, cái lồng không bỗng hóa có con chim bồ
câu bên trong, tớ khoái từ hồi còn để chỏm. Nay tớ cũng “nổ” phát cho
quạ khoang hóa ta… kha kha…

Khói tan dần, mọi vật hiện ra, thầy trò Võ hơi giật mi mắt, trố
dòm, thấy con quạ vĩ đại kia biến đâu mất, trước mặt hai người hiện ra
một ông già tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào như người say rượu, tướng
phương phi béo tốt coi còn hơn cả Tửu Chúa. Ông ta đầu đội khăn xếp, mặc một cái áo gấm xanh cúc đại đóa, quần ống sớ, đi giày bản giống giày
vải Tàu, nhưng đôi giày để bên cạnh. Ông già này ngồi xếp chân bằng
tròn, cười rung cả má phính, đưa tay vuốt chòm ria cá chốt vểnh như “ghi đông” xe máy, hai con mắt thì sáng long lanh vẻ tinh nghịch hết sức.
Chỉ nhìn qua, cũng có thể đoán sơ được đó là một ông “lão đồng tử” thông minh tuyệt hảo, ma mãnh khác thường mà lại có tính phóng dật hồn nhiên
như con nít, bất giác Võ Minh Thần bật kêu khẽ:

-À… Đổ Bác Thần đấy ư? Ồ, tóc đã bạc phơ, da dẻ vẫn hồng hào,
thanh niên không ăn đứt! Bác làm cách nào mà vẫn còn phương phi đẹp lão vậy?
Đổ Bác Thần vươn tay vỗ đôm đốp vào vai chàng trai, cười ha hả:

-Chẳng làm đếch gì cả! Nguyên có món cơm ăn ba bữa, áo mặc cả
ngày, bạc đánh quanh năm, không thê tróc tử phọc! Nào! Giờ chú mày chơi
món gì được?

Minh Thần đưa mắt nhìn Quản Kình, Quản Kình vừa bảo “xì phé”, Đổ Bác Thần đã chụp luôn trong mớ dụng cụ đổ bác ra một bộ xì phé còn mới
tinh đặt phịch xuống chiếu.

-Coi! Mới gửi mua tận bên Tây!

Võ Minh Thần cầm cỗ bài “xì” lên xem qua, trao cho Quản Kình, Kình trang mấy cái, lật lên ngắm mặt bài khen trầm trồ:

-Chà! Cụ lớn mua đâu được cỗ bài Tây đẹp thế này? Chưa thấy bài nào in rõ bằng! Phải cụ lớn “thửa”?

Đổ Bác Thần cười ha hả:

-À, anh này nói một câu biết tay chơi có hạng! Giống bài tây này là phải “thửa” bên Tây chớ còn gì! Sao biết? Này coi tớ có cả chục cỗ
mới tinh.

Miệng nói tay quơ mấy cỗ bài trao hai người xem. Quản Kình lật qua lại ngắm, anh lễ phép đáp:

-Bẩm! Coi cái mặt ngoài biết ngay! In chéo đỏ đen thế này bài in bán làm gì có! Bẩm, mặt nó nhẵn không hoa không ô kẻ, coi biết ngay cụ
lớn là bậc chơi phân minh cao thấp đường hoàng, chứ cụ lớn còn lạ gì dân bịp cao thường cứ dòm mặt hoa ngoài là biết mặt trong con nào rồi!

Vừa nói y vừa trang cái “xoạc”, để trả, Đổ Bác Thần mặt mày cao hứng nói vang:

-Đúng! Đúng! Chính tớ thấy cờ bịp hay chơi xấu thói vậy, tớ sợ
thiên hạ có đứa tưởng Đổ Bác Thần cũng giỏi cái khoản đó, tớ phải thửa
có kỹ. À mà sao anh này lại gọi tớ là cụ lớn? Nghe lạ dữ à? Ai lại gọi
thần là cụ lớn bao giờ? Cái này anh mày hỏng!

Võ Minh Thần lễ phép bảo:

-Dạ chú Quản đây quen mồm đó! Xưa nay, người ta vẫn gọi thế để tỏ lòng kính trọng, chẳng hạn như quan lớn tuần tranh đó.

Đổ Bác Thần thích chí cười sằng sặc, vỗ đốp vai Quản Kình hét:

-Phải! Phải! Chí lý! Vậy tớ hỏng! Anh này ăn nói có văn tự lắm!
Phải! Phải! “Quan lớn tuần tranh”, quan lớn là quý lắm! Quan công sứ,
quan thống sứ, toàn quyền to hơn vua, quan dưới âm thì có quan ôn… ờ! Vậy mà tớ
cứ tưởng quan là nhỏ, quan huyện, quan phán, hai ả đào cũng là quan…
viên. Nếu vậy cụ lớn lại còn to hơn quý hơn! Kha kha! Bay đâu! Bảo tụi
nó từ giờ kêu tao là cụ lớn nghe. Cụ lớn Thần à! Nghe kêu dữ!

Quân hầu đầy tớ dạ ran, gã hồ lì chắp tay ngang mặt như quan tế đình:

-Bẩm… thỉnh cụ lớn thần chủ khai bài!

Đổ Bác Thần cầm mấy cỗ bài xếp vào góc sập, đoạn cầm một cỗ trang lia lịa, úp vào đĩa, bảo:

-Nào, tiền khách hậu chủ! Võ Minh Thần bình sinh chẳng biết đánh xì phé là cái quái gì, nay mới nghe Quản Kình giảng qua, biết lõm bõm
“xì tẩy đầm”, cũng cứ thò tay rút đại một cây đặt ngửa xuống chiếu, cây
“xất” cây tẩy, lại cây “xất”, cây thứ ba con

“bạc”, thứ tư con sập, bên Đổ Bác Thần bài đã đôi tây, còn “xì” lấy “xì” nốt, Đổ Bác Thần “phe” luôn, Quản Kình ngạc nhiên:

-Bài cụ lớn diện đẹp quá sao lại “phe”?

-Kha kha! Anh mày còn lạ gì nữa! Nghề xì phé, thường mất nghiệp
vì các ván bài diện đẹp như vậy đó! À tố vào gặp thằng tháu cáy, rút bừa được luôn con “xất”, khà khà, cây “xất” là bỏ mẹ thiên hạ rồi!

Tuy nói vậy, nhưng khi Quản Kình xui chủ tố, ông ta lại tố liền.

-Chú mày có giỏi chơi độc ván này?

Võ Minh Thần gật đại, Quản Kình rút giúp, quả nhiên rút trúng con “xất”! Đổ Bác Thần rút con “sập” ông ta cười khà:

-Thấy chưa? Tớ nói đúng chưa? Tớ bảo như thần bảo mà! Chú mày tẩy

“xất”! Hết “láng” rồi dám vay vào món khác không?

Lạnh lùng, Quản Kình bảo:

-Bài cụ lớn lấy gì cũng chỉ có hai đôi lưỡng phé ăn sao được ba
con? Đổ Bác Thần dòm mặt thầy trò Võ, sắc mặt hồn nhiên ngờ nghệch của
Võ khác hẳn với bản mặt lạnh lùng cương nghị cố hữu, khiến lão đâm khó
hiểu, nghĩ thầm:

-Chà! Chà! Thằng này vua xì phé có khác! Mặt thật cứ như đếm, hỉ nộbất xuất hỉ lạc bất phát, ghê chưa! Nhưng cái mặt thằng tùy tòng hắn
lạnh như tiền! Khà khà! Cái mặt tháu cáy! Ông là Đổ Bác Thần lại bị tháu cáy, có mà loạn!

Lật lên, tẩy “xất”, lão thua. Ấn định chỉ chơi năm canh, mỗi
canh ba ván, vậy là thầy trò Võ được luôn hai canh, chỉ còn ba. Đổ Bác
Thần thét:

-Được rồi! Tao đã biết là vua xì phé, thua cũng đỡ đau! Món khác! Gì nào?

-Quay đất! Hồ lì dẹp bài tây, bưng mâm “quay đất” ra, nhưng đến
quay đất, chẳng biết búng sấp, ngửa ra sao, Đổ Bác Thần ba canh chỉ ăn
một. Bèn quay ra “rút bất”, chẳng biết đánh sao lão ăn hai thua một.
Cuối cùng đánh xóc đĩa, Quản Kình quả tay có hạng, nghe rất tài, tiếng
bạc nào cũng cả hai đoán trúng, không ai chịu chơi. Giằng co mãi, Đổ Bác Thần dòm quanh chọn đồ nghề
khác, Võ Minh Thần buột miệng:

-Đã vậy sao không đánh cờ? Đánh cờ mới đúng cao thấp!

Quản Kình thuộc tay cờ thấp, vì xưa y chỉ thích chơi đỏ đen, nghe chủ nói, lật đật gạt ngang:

-Đánh cờ không có đỏ đen, đâu phải đánh bạc? Bạc có cả đỏ đen cao thấp!

Nhưng Đổ Bác Thần đã cười thét gật lia:

-Được đó! Cờ mà lại hay đấy! Sao không được? Không phải môn, sao gọi cờ bạc? Cờ cũng là bạc, bạc là cờ, canh bạc này thực ra là đánh
cuộc, đâu phải ăn tiền thưởng. Vậy là cờ cuộc, cuộc cờ… Kha kha! Hay
dữ à! Hồ lì! Đem bàn cờ tướng ra đây!

Quản Kình hoảng nhìn chủ, đinh ninh Võ là hạng “chưa sạch nước
cản”, nhưng y không ngờ về môn này, Võ lại là tay thượng thặng, có thể
nói là thiên tài. Xưa nay theo hầu tôn sư, hồi mới lên năm, lên bảy, Võ
xem thầy chơi cờ tướng, đã phát lộ kỳ tài, tôn sư là tay đánh cờ tuyệt
giỏi, không hẳn ăn đứt Võ. Thấy Kình lo, Võ trấn an:

-Để tôi hầu lão tiên sinh vài nước, không sao! Có thua tiên sinh cũng được! Tôi cũng biết vài thế!

Mãi đến khi “ra quân”, Quản Kình mới hơi yên trí. Đi hơn chục
nước mới hay tiểu chủ là tay cao cờ. Đổ Bác Thần đánh rất hay, đi toàn
nước hóc hiểm, Võ vẫn gỡ như không. Chừng đến nước thứ mười lăm, mười
bảy thì Võ đã đưa ông ta vào thế bí.

Thêm hai nước nữa, lão hết nước đi, đành chịu thua. Sang ván thứ hai lại thua nữa. Võ Minh Thần liếc dòm, thấy mặt Đổ Bác Thần đỏ gay
như người say rượu, hai con mắt long sòng sọc, lão đang ngồi xếp chân
bằng tròn vụt ngồi nhỏm lên “hừ” một tiếng kèm theo hơi thở phì dao, làm bắn cả vào lòng Võ, Quản Kình.

Lão lắc lắc cái đầu, nhổm người, thò tay mặt nhặt con cờ, tay
trái thọc lên đầu gãi sồn sột, trễ ngược cả cái khăn xếp về đằng gáy, và đưa tay vuốt soạt bộ ria cá chốt, vẩy lia lịa. Mãi khắc đó, Võ mới để ý thấy mồ hôi lão chảy ròng ròng, mặc dầu lúc đó đã canh tư từ lâu, đêm
rừng lạnh ngắt! Và chàng trai lại càng chột dạ thấy tay trái lão buông
ra một mớ ria bạc như cước.

-Tức nước cờ! Ông ta tức nước cờ. Ông ta là Thần Đổ Bác mà nãy
thua mấy canh liền, vẫn giữ được vẻ ung dung phong lưu tiêu sái không lộ vẻ giận dữ vì thua mình là đứa vô danh hậu sinh. Mà giờ mới thua hai
ván cờ coi đã cay cú ra mặt. Đến vã mồ hôi hột, vuốt ria mà vặt cả ria
không hay. Lão tức nước cờ dữ rồi! Nguy lắm! Xưa nay trò thua cờ dẫu
không mất tiền cũng thường tức khí bằng mấy thua bạc, gây án mạng như
chơi! Mình phải… khéo léo vờ thua một ván mới được. Nếu không lão cay
quá hóa cục như Nam Cung Trường Vạn xưa, phiền dữ à!

Xưa Nam Cung Trường Vạn là một tướng soái khỏe nhất nước Tống,
chẳng may một lần sa cơ bị Lỗ Hoàn Công bắn trúng tay kích, và bị Lỗ bắt sống. Sau Tống, Lỗ giảng hòa, Lỗ tha Vạn về. Vua Tống là Mẫn Công vốn
rất thân với Vạn, tính Mẫn Công lại hay nói đùa. Bữa kia, cần một người
đi sứ sang nhà Chu, Trường Vạn tâu:

-Tôi nghe nói nhà Chu nhiều cảnh đẹp lắm, vậy xin chúa công cho tôi đi, nhân dịp được xem cảnh đẹp!

Vua Tống đùa:

-Nước Tống thiếu chi người lại dùng tù nhân đi sứ!

Nam Cung Trường Vạn lui ra. Quan đại phu Cừu Mục can vua Tống:

-Vua đối với bề tôi phải nghiêm chỉnh, sao chúa công lại đùa Trường Vạn thế?

Vua Tống cười đáp:

-Ta đối với Trường Vạn thân nhau, có gì! Ít ngày sau, Tống Mẫn
Công mở tiệc nơi cung viện, vui cùng phi tần cung nữ, có Trường Vạn cầm
kích theo bên. Tiệc say, đám đàn bà vốn nghe danh Vạn cùng yêu cầu Vạn
ném kích cho xem. Kích nặng hàng tạ sắt, Trường Vạn múa, tung bổng lên
trời rồi lại nhảy theo bắt lấy múa, trăm cái không sai một. Đám phi tần
cung nữ reo hò khen nức nở. Tống Mẫn Công thấy đàn bà khen tài Vạn cũng muốn trổ tài mình, bèn rủ Vạn đánh cờ. Vạn thua liền
ba ván, đòi đánh nữa, vua Tống cười bảo:

-Đánh bao nhiêu nữa cũng thua thôi! Cờ nhà ngươi là cờ nguyên soái thắng sao nổi cờ vua?

Vua tôi lại đánh tiếp, Vạn lại thua. Mẫn Công khoái vuốt râu cười khà:

-Ta đã bảo mà! Cờ của anh tù sao thắng được cờ vua?

Phi tần cung nữ cười ồ, Trường Vạn đang tức nước cờ, bị đùa, thẹn đỏ mặt, trợn mắt nói lớn:

-Kẻ tù này có thể giết người được!

Vua Tống quát:

-Tên tù kia! Ngươi dám vô lễ với ta sao? Trường Vạn chẳng nói
chẳng rằng, cầm luôn bàn cờ đập vào đầu vua Tống chết tươi. Khi cung tần mỹ nữ, quan hầu sợ hãi kêu ré lên ù té chạy, Trường Vạn cầm cây kích dựng bên, lững thững bỏ ra ngoài, mặt vẫn đầy sắc giận,
sẩy gặp Cừu Mục vào, chào, hỏi:

-Chúa công còn đó không?

-Hắn vô lễ, ta đã đánh chết rồi! Cừu Mục mỉm cười:

-Uống bao nhiêu mà say thế?

Trường Vạn điềm nhiên:

-Ta không say! Vào mà coi… đã đập vỡ đầu rồi! Cừu Mục thất kinh quát lớn:

-Tên giặc này sao dám giết vua? Ta phải giết ngươi! Bèn xông vào cầm hốt đánh Vạn. Vạn dựng cây kích xuống, tay trái gạt, tay phải đấm
một quả trúng hàm Cừu Mục, vỡ nát đầu óc, răng bắn ghim vào cửa cung như lông nhím. Đoạn về dinh, đem quân vào triều lập vua khác. Nhưng sau
Trường Vạn bị con Mẫn Công là công tử Ngự Thuyết đánh bại. Vạn đem mẹ
chạy sang nước khác, bị lừa bắt nộp về Tống. Vua Tống Hoàn Công Ngự
Thuyết băm Vạn làm mắm, gửi cho mẹ Vạn. Tất cả chỉ vì tức nước cờ. Võ
Minh Thần đang nghĩ cách đối phó, bỗng ngay lúc đó, một tên trong bọn hồ lì thấy Đổ Bác Thần đổ mồ hôi, bèn bước đến quạt. Đổ Bác Thần
nhổm phắt lên tát bốp muốn bay quai hàm, hét:

-Ai khiến mày quạt! Trời lạnh gió rừng mày không biết sao? Cút!

Tên kia ôm má, lủi xa. Hét xong, Đổ Bác Thần lại vuốt ria, mồ hôi, cởi phăng áo gấm ném một bên, giục lớn “nào một ván nữa”, vừa nói, lão vừa tình cờ nhìn lên.

Chẳng may lúc đó, Quản Kình, vốn tuy có máu mê, thấy tiểu chủ
thắng, y khoái hết sức, lại chứng kiến cảnh ông thần Đổ Bác vuốt tuột cả ria, mồ hồi, tát tên hầu quạt, lại trễ khăn, cởi phăng áo gấm. Quản
Kình bất giác nhớ ngay đến câu “lão ô bách tuế, phượng hoàng sơ sinh”,
tự nhiên nhếch môi cười, buột miệng “đúng lão ô…”.

Vừa tới đây, chợt chạm ánh mắt Đổ Bác, y nhớ ra, im vội, nhưng
trong trường hợp đó, cái cười của Kình đượm đầy vẻ “xỏ”, Đổ Bác Thần lập tức trợn ngược mắt hét:

-Cười gì? À phải ngươi bảo tao là con quạ già không? Nói mau! Quạ già này có thể… có thể…

Lão ngừng lại, nhấp nhổm, giận như lấp mất họng. Võ Minh Thần
đang bầy cờ, giật mình ngó sang, thấy ngay vẻ giận như điên của Đổ Bác
Thần, chàng trai cũng phát hoảng, chưa biết tính cách chi vuốt dịu cơn
tức nước cờ, giận cá chém thớt của ông ta, may sao vừa ngoái sang, trông thấy cái cán ô vẫn móc trên vai, chàng trai vốn nhanh trí, lập tức cười lễ phép, vỗ vào cái ô, bảo:

-Lão tiên sinh, hiểu lầm đó! Y cả đời không biết đùa đâu! Là y
vừa bảo mỗ đây sao cứ đeo mãi cái ô này trên vai đó. Cái ô này cũ kỹ lâu đời, vốn của thầy mỗ cho, nên mỗ không muốn lợp lại lớp vải mới, đám
bạn bè thường gọi đùa là cái “ô lão hạng”, “ô già”, y cũng quen miệng đi đó thôi!

Đổ Bác Thần đã định đánh, nghe Võ nói nguôi liền, lão dòm Quản
Kình, dòm gã gia nhân, chừng cũng sực nhớ ra mình đã tức vô lối, lão bèn thở phì một cái, nhe răng cười:

-À à cái ô già! Không phải con quạ già! À mà con quạ cũng được!
Chính tớ là con quạ đây! Lão ô bách tuế thua phượng hoàng sơ sinh! Kha
kha! Lão ô thua phượng hoàng, lão ô thua phượng hoàng, càng hay! Con hơn cha là nhà có phước. Tre già măng mọc, già thua trẻ là nước hùng cường. Khà khà! Vậy tao Thần già có thua Thần trẻ cũng thuận lẽ tuần hoàn, can chi mà tức! Nào! Đi pháo đầu!

Lão dằn chát con pháo. Chẳng hiểu lão đã thực nguôi cơn tức nước chưa, nhưng con cờ vừa chạm mặt gỗ, khi lão rụt tay lại, cả hai thầy
trò Võ đã thấy con pháo chui tọt xuống bàn cờ, để lại một lỗ hổng tròn
xoe. Võ Minh Thần nghĩ thầm:

-Mới ra quân, con “pháo” đã bắn thủng bàn cờ, ván này mà lão thua, “pháo” dám bắn thủng đầu mình!

Bèn phanh tượng. Đi được vài nước, vội ra hiệu ngầm cho Quản
Kình. Kình trước còn bàn, sau mặc nhiên đánh thay chủ. Đúng mười sáu
nước thì Đổ Bác Thần thắng cuộc, lão dằn con mã, hét cười thét:

-Chiếu tướng! Hì hì! Thiên lý mã của tớ hay chưa? Biết đường
rồi! Kha kha! Con ngựa Đích Lư này coi thế mà hay! Lưu Bị vượt Đan Khê!
Kha kha! Nó vào tận thâm cung nhà ngươi rồi phượng hoàng sơ sinh ơi!
Phen này phượng hoàng chết với lão ô! Ô này là Ô Truy! Ha ha! Lão ô bách tuế phi thiên lý, đồng phượng sơ sinh bại nhất keo!

Tiếng cười khoái chí bốc chín tầng mây, cả thân xác phương phi
của lão rung lên, lão vuốt râu lia lịa, cứ mỗi cái vuốt lại bứt theo mấy cọng ria bay trước gió, vẫn không thèm lưu ý, nhưng có lẽ Võ Minh Thần
còn khoái hơn, nhẹ hẳn người. Vừa toan mở miệng khen một, hai câu, chợt
thấy lão vụt im, ngơ ngác dòm hai thầy trò, rồi kêu lên:

-À, mà coi ra ta có thắng được phượng hoàng mới đẻ đâu! Ta được
con cú mèo. Ván này chú mày có đánh đâu, anh người nhà kia đánh mà!
Không được! Không được! Làm lại keo này mới được.

Minh Thần nói mấy lão cũng chẳng nghe, đành bầy đánh ván khác.
Lần này lão cấm Kình bàn vào. Không may cho chàng, vẫn đinh ninh nhường
lão, nhưng chẳng dám nhường lộ liễu, nên cũng phải đi tử tế, nào dè linh tay linh óc, chưa kịp nhường, lão đã bí, không cách nào gỡ nổi, Võ lại
được mới phiền.

Lập tức lão hắt tung bàn cờ xuống suối, hét như sấm:

-Thua rồi, thua cờ thua bạc, Đổ Bác thua rồi! Thiên hạ đệ nhất
thần thua hai đứa vô danh tiểu tốt! Thần già thua Thần trẻ! Quạ già trăm tuổi thua chim non ra ràng! Canh bạc to nhất Đông Dương, tao thua rồi,
bọn mi thắng cuộc cứ việc đi đi, không ai dám giữ! Con hơn cha là nhà có phước, già thua trẻ là nước hùng cường! Tao đấu cờ bạc quanh năm đâu có phải là phường vong bản! Ôi thôi! Vàng ngọc đi đời, càn khôn mất sạch!
Bọn mi thắng cuộc lên ngựa đi mau, bằng chậm trễ có khi tao không chịu
nổi!

Dứt lời là chộp lấy tay thầy trò Võ lắc lắc đại như xóc đĩa rồi
quơ áo gấm vắt vai bắn mình lên như chiếc lò xo rời khỏi chiếu bạc nhảy
vọt lên kiệu, thò tay ra giật “phạch” rèm cửa xuống.

Võ Minh Thần, Quản Kình nhìn nhau, ngơ ngác. Kình kéo nhẹ cánh
tay chủ, giục: “lão thua cay nổi nóng, ta kíp rời mau, chớ nên chậm
trễ…”, Võ Minh Thần chưa kịp đứng lên, sực lại nghe trong kiệu hét:

-Dẹp cờ dẹp quạt dẹp bát dẹp đĩa đem cho chó ỉa! Dẹp tàn dẹp
lọng trống dẹp chiêng dẹp tiền dẹp của! Dẹp đồ chó mửa, dẹp cả kiệu son, cụ lớn, quan ôn, khôn hồn dẹp ráo!

Bọn hồ lì, kiệu phu che tàn, quân hầu đầy tớ dạ ran, mặt mày ngơ ngác, chạy ngược chạy xuôi, chẳng đâu vào đâu, chỉ có bọn hồ lì lẹ tay
quơ “đồ nghề” bỏ rương. Võ Minh Thần nhác trông thấy cảnh tượng, biết
nán lại có khi mang vạ như chơi, vội đứng sổ lên, nghiêng mình nói lớn:

-Kẻ này mang bệnh ngặt, phải lên tận biên giới tìm thầy, xin cáo biệt lão tiên sinh, đường thế ngược xuôi, biết đâu không có ngày tái
ngộ!

Dứt lời, lập tức khều Quản Kình, hai thầy trò nhảy vọt lên lưng
ngựa, giật cương vỗ đốp, bôn hành. Nhưng hai con ngựa mới chồm lên vểnh
bờm, phóng vĩ, vừa quay đầu chạy, bất thần có tiếng Đổ Bác Thần trong
kiệu quát như sấm:

-Mà khoan! Khoan! Hai thầy trò dừng vội nhưng vẫn không nhìn lại.

-Nán lại chơi canh nữa đã! Đi đâu vội! Nán lại làm vài “tiếng”
nữa, cho tớ gỡ. Nghĩ cho cùng không gỡ không xong! Bay đâu! Đâu để
nguyên đó chớ có động vào.

Quản Kình lẩm bẩm “không êm rồi”, Võ Minh Thần vùng nói lớn, tiếng sang sảng như chuông:

-Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, một lời nói như dao chém đá, chính lão tiên sinh đã ước “được ăn thua chịu”, canh bạc đã tàn được
thua đã rõ, còn đòi gỡ thế nào? Quân tử nhất ngôn! Đổ Bác Thần lừng danh thiên hạ, đứng hàng trùm “Tứ Khoái Tứ Hung”, chẳng lẽ hai lời?

Nói xong quất ngựa đi liền, được mấy bước lại nghe Đổ Bác Thần hét:

-Khoan! Mà khoan đã! Chú mày chưa nghe hết lời tao! Phải rồi:
“Một lời đã nói ra, ngựa Châu Tứ (bên Tàu) đuổi không kịp nữa”, “người
quân tử chỉ nói một lời”, tớ đây đã thuộc làu như cháo, “được ăn thua
chịu”, “tinh ăn lầm thua vô ý mất tiền”, tớ là Thần Đổ Bác đỏ đen, đâu
có hèn cãi xóa? Nghe đây: Canh bạc đánh cuộc vừa qua chú mày được rồi,
được đứt rồi, không nói ngược xuôi vớ vẩn. Chú mày cứ đi tự nhiên, không đứa nào được động tới! Nhưng đây tớ mời ở lại, là để gỡ… gỡ canh bạc
vừa rồi! À mà nhớ là không phải là gỡ cái vòng đâu, mà là gỡ… gỡ…
Chà! Gỡ… khó nói dữ à!

Nghe lão bảo “không phải cái vòng” Võ cũng hơi yên tâm, nhíu mày nói lớn:

-Phải tiên sinh muốn gỡ… cái tức còn thua bạc? Gỡ cái tiếng Đổ Bác Thần mà lại thua bạc một kẻ vô danh, ít tuổi không?

-À à… không biết có phải vậy chăng nữa? Nhưng nếu chú mày cứ
đi, không cho tao đánh gỡ, vài tiếng nữa, chắc tao không ngủ nổi! Quay
lại chơi… nào!

Võ Minh Thần cao giọng:

-Nếu vậy lão tiên sinh không cần phải gỡ nữa, canh bạc này bọn
mỗ được là nhờ vận đỏ đó thôi, còn về cao thấp nghề chơi của tiên sinh
chắc chắn là bậc thầy, bậc thánh sư trong thiên hạ, bọn hậu sinh tiểu
tốt như mỗ đây làm sao theo kịp? Vậy cần chi phải gỡ nữa?

-À à, thoạt nghe chú mày nói, cũng có lý, nhưng ngẫm kỹ lại,
cũng không chí lý! Vì bạc có đỏ đen, cờ có cao thấp, cờ bạc cả cao thấp
đỏ đen còn toàn cao thấp, nghĩa cứ đánh là được, đếch có rủi may, đến
bậc thần sầu quỷ khốc, vậy mà canh bạc vừa rồi bậc thánh sư, tổ sư cờ
bạc lại thua anh tiểu tốt, thử hỏi… còn ngủ làm sao? Chú mày phải quay lại cho tao gỡ! Còn khoản bệnh khỏi lo, ta tuy chẳng phải Biển Thước
nhưng có thuốc tiên, bệnh quỷ gì cũng đỡ!

Quản Kình thì thào giục chủ “cứ đi”, Võ cũng không muốn trì hoãn, bèn nói lớn:

-Nếu lão tiên sinh cần gỡ xin khất tháng sau, giờ bọn mỗ cần đi
như lửa cháy. Nói xong, cùng Quản Kình giục ngựa bỏ đi liền, ngựa phi
kiệu đại.

Nào dè vừa rạp mình chạy được vài chục thước, đã thấy Đổ Bác
Thần đứng lù lù trước ngựa, áo gấm vắt vai, tay cầm khăn xếp khua lia
lịa:

-Khoan! Khoan! Ở chơi canh nữa, cho tớ gỡ đã! Cùng là bạn làng ta sao nỡ ăn non, để nhau hộc máu!

Thầy trò Võ Minh Thần phải phục thân pháp khác thường của Đổ Bác Thần, túng xử, chàng trai hỏi lớn:

-Đánh thêm canh nữa, lần này ăn gì? Đổ Bác Thần khoa tay, chụp khăn, đáp luôn:

-Ăn gì cũng được, tùy ý chú mày! Chú mày muốn ăn gì tùy ý. Bạc vàng cơ nghiệp, cả cái đầu tớ đây cũng được, miễn cho gỡ một canh!

Võ Minh Thần nghĩ thầm:

-Xem ý lão ta cay gỡ lắm rồi, chối không nổi nữa! Lão là một
trong “Tứ Hung Tứ Khoái” quen rộng biết nhiều, mình lại đang cần dò tung tích kẻ đại thù, sao chẳng nhân dịp này kiếm ít manh mối?

Bèn nghiêm sắc mặt trầm lời bảo:

-Bạc vàng cơ nghiệp mỗ đây không thích! Cái đầu lão tiên sinh mỗ càng không ưa nữa! Mỗ đây có chút việc riêng, cần biết tung tích một
nhân vật, chẳng hiểu lão tiên sinh có chịu không?

Đổ Bác Thần sấn lại, giục:

-Được, được! Nhân nào chẳng được, vật nào không xong, nào cứ nói đại đứa nào đi, còn làm gái mãi.

Võ ngó đăm đăm, chậm rãi:

-Tây Sắc, Đông Âm! Tây Sắc là một trong “tứ tài tử” Tửu, Sắc,
Yên, Đổ, còn Đông Âm là một trong “Tứ Dị”. Mỗ đây đang truy tầm một con
tinh chúa sói mười bảy năm trước đã hấp sát một thiếu phụ trên biên
thùy, mỗ cần biết hai nhân vật kia!

Đổ Bác Thần nói luôn:

-À! Tớ biết! Tây Sắc là Ma Vương Sắc, có danh Hấp Sát Tinh Quân, chính là vua sắc đẹp đời nay, y có đủ tam cung lục viện như Tần Thủy
Hoàng xưa! Còn Đông Âm là Ma Quân Bá Diện, chú mày đã gặp đấy, tớ đây
cũng biết, nhưng còn cái khoản chúng là người hay vật, ma quái, kỳ nhân, giống đực giống cái, nhà nó hiện ở đâu thì… cứ cho tớ đánh gỡ một
canh, rồi sẽ tính! Cứ cố thắng được tớ, tớ sẽ cho biết!

Cả mừng, Minh Thần hăm hở:

-Nếu vậy bọn mỗ xin sẵn sàng chơi canh nữa! Nhưng nếu bọn mỗ thua…?

-Thì cứ việc lên ngựa đi luôn một mạch, còn sao nữa! Nhưng cũng
cần nói cho hay, nếu chú mày cố ý đánh nhường, không chơi thực sự, chớ
trách tớ tử sinh kiếm chuyện.

Dứt lời, lão ta thò luôn hai tay túm cả hai sợi dây cương, kéo lôi sềnh xệch trở lại chiếu bạc.

-Bay đâu! Đốt đuốc giải đen, cho chủ gỡ! Canh bạc này to nhất Á
Đông! Hồ lì dạ ran, chạy lại dâng một cây đuốc thông lớn mùi khét lẹt.
Đổ Bác Thần trịnh trọng cầm đuốc lội xuống suối, vừa đảo rê cây đuốc
quanh sập gỗ dưới gầm trên mặt chiếu, lại cầm từng món đồ nghề rê trên

ngọn lửa, miệng hô

“phụ đồng cờ bạc” lại lẩm bẩm “giải đen”. Thấy thế, Võ Minh Thần vội ghé tai Quản Kình khẽ bảo:

-Hồi nãy bảo canh bạc to nhất Đông Dương, giờ lại to nhất Á Đông. Canh bạc gỡ này quan hệ lắm đó! Phải nãy chú bịp?

-Còn gì nữa! Không bịp thắng sao nổi?

-Vậy canh bạc này chớ bịp! Cứ chơi thật, giở hết tài cao thấp, không bịp, không nhường, nhớ kỹ.

Hơi ngạc nhiên, Quản Kình dùng tiếng lóng riêng hỏi:

-Sao phải rắc rối vậy? Nếu cậu hai muốn tìm tung tích kẻ thù, đây là cơ hội tốt nhất…

-Vẫn biết thế, nhưng nếu bịp lão canh nữa lão thua có khi phải
đánh nữa! Nhường lão được, để lộ, lộ cũng không xong, vì đây là canh bạc tức khí!

Võ Minh Thần dặn vừa xong, thì Đổ Bác Thần cũng vừa “giải đen”,
“phụ đồng cờ bạc” xong, xoa tay rủ vào chiếu. Quản Kình đem hết tài nghệ ra “phò” tiểu chủ, không bịp không nhường. Quả nhiên Đổ Bác Thần là tay “vua cờ bạc” đánh tới canh năm, thắng luôn hai thầy trò Võ Minh Thần.
Vừa tan cuộc, chàng trai nghiêng mình, xá một cái, bảo:

-Tài nghệ lão tiên sinh quả vô địch trong thiên hạ! Bọn mỗ đã
đem hết nghề riêng vẫn không theo kịp! Nay trời sắp sáng, bọn mỗ có việc gấp phải đi, xin cáo biệt lão tiên sinh!

Đổ Bác Thần mặt mày rạng rỡ cười ha hả vỗ vai thầy trò Võ, nói như hét:

-Cảm ơn! Cảm ơn đã cho tớ đánh gỡ! Giờ tớ ngủ được rồi! Hai chú
mày cũng cao dữ à! Nhưng hai chú mày thắng canh bạc to nhất Đông Dương,
chú mày đỏ thật, còn được canh bạc to nhất Á Đông này, vừa đỏ vừa cao!
Vậy là lòng trời muốn chú mày được làm chủ cái vòng xanh điểm huyết, tớ
xin có lời mừng.

Võ cùng Quản Kình đứng lên chào, định đi ngay. Đổ Bác Thần trợn mắt oang oang:

-Kìa đi đâu vội? Nán lại mười phút uống cùng tớ một chén chè Tàu cho tỉnh đã! Sắp sáng rồi, chú mày tính có cần hỏi tớ điều chi nữa mà quên sao? Võ Minh Thần thật thà:

-Dạ, không quên đâu! Nhưng đã giao ước, thua rồi, bọn mỗ đâu dám đòi hỏi nữa!

Đổ Bác Thần vuốt bộ ria vểnh, cười ha hả:

-Sòng phẳng! Sòng phẳng đó! Tay chơi giang hồ sòng phẳng là
phải! Nhưng nếu tớ đãi chú mày vài điều cần hỏi, gọi là món quà tri ngộ
giữa đường, chú mày nghĩ sao? Tớ muốn đãi, đứa nào cấm tớ?

Võ từ tốn:

-Lão tiên sinh đã đuổi Bá Diện Ma Quân, lại vui lòng để bọn mỗ
được mang vòng xanh điểm huyết đi, vậy là quý hóa lắm rồi, mỗ đâu dám
đòi thêm điều chi nữa!

-Làm gái! Thôi cứ ngồi xuống đây chơi đã! Bay đâu! Dẹp đồ nghề mau!Sửa soạn trà nước!

Đám thuộc hạ da ran, hồ lì xếp các món “dụng cụ đổ bác” vào
rương, bọn đồng nam đồng nữ mang tới một bộ trà, đèn cồn, ấm chén, khay
lớn nhỏ, đủ lệ bộ. Đổ Bác Thần tự tay đốt đèn nấu nước pha trà mời thầy
trò Võ uống, nói cười ha hả, không khác đôi bạn vong niên tri kỷ xa cách lâu mới gặp. Hai người vừa uống vừa ngắm bộ đồ trà, ngắm Đổ Bác Thần,
nghĩ loanh quanh. Đèn cồn có bếp lửa réo vo vo, chén trôn quýt, ấm thuộc loại Ngọc Phủ đỏ chót, loại quý nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Thế Đức,
thứ ba Bội Thần (Lưu Bội, Mạnh Thần), coi cung cách lão đúng tay ăn chơi phong nhã, không lẽ là loài dị vật hóa thân? Lòng thắc mắc muốn hỏi,
lại thôi, chợt Đổ Bác Thần đặt chén trà xuống vùng hỏi:

-Phải nãy chú mày nói bị thương? Cho tớ coi thử được chăng? Tớ
tuy không có tài chữa, nhưng có tài xem thuốc gia truyền may ra hợp
bệnh?

Hai thầy trò nhìn nhau, Võ Minh Thần hơi do dự… Nhưng sực nhớ lại giấc mê gặp mẹ trên đồi, chàng trai nghĩ thầm:

-Xem ý Đổ Bác Thần này không phải hạng bất lương độc hiểm. Nếu
ông ta định hại cần gì phải hại ngầm? Cứ để ông ta coi biết đâu chẳng có điều hay?

Bèn đặt hành trang xuống xoay lưng cho Đổ Bác Thần coi. Vết
thương lưng cao sát gáy, ngay chỗ bị búa chém thủng áo giáp. Đổ Bác Thần soi lửa, vạch coi, chợt kêu lên:

-Lạ dữ chưa! Coi như vuốt thú, mà lại không phải thú. Coi như
đòn công, mà không hẳn đòn công. Từa tựa như thứ đòn ma đòn quái! À sao
vậy? Chú mày bị hồi nào?

Võ Minh Thần đem chuyện ngộ Giao Long chúa miệt hồ Ba Bể, nhất nhất kể lại cho lão nghe. Đổ Bác Thần bật giọng:

-À thế chứ! À ra chú mày gặp con thuồng luồng tinh! Trách nào ta coi giống đòn âm! Chính tớ đây có nghe đồn hồ Ba Bể có con thuồng luồng tinh nói tiếng người bắt đàn bà đẹp làm vợ, tớ đã đi lùng coi mà chưa
gặp! Vết thương này nếu tìm được Lãn Ông tái thế miệt Si Công Linh mới
trị nổi! Hay tớ có thuốc cầm, cho nó không tấy phát ngay, đãi chú mày
một viên uống thử!

Dứt lời lão moi trong bọc ra một viên thuốc đỏ chót như chu sa, trao cho Võ Minh Thần. Võ cảm ơn, uống xong, hỏi liền:

-Thưa lão tiên sinh, xin người cho biết về Tây Sắc?

Đổ Bác Thần vuốt ria, lim dim mắt:

-À Ma Vương Sắc Hấp Tinh Quân, một nhân vật thần bí, thiên hạ
chỉ nghe nói chưa ai đối diện. Một kẻ mê say nhan sắc nhất đời, mà gái
nào gặp hắn cũng phải mê, và bất cứ gái nào gặp hắn là không bao giờ thoát khỏi “cung động” của hắn nữa! Vì sẽ phải giam hãm suốt đời trong động như
trong cung cấm Tần Thủy Hoàng xưa để hắn hấp tinh hấp sát! Nên gái nào
lọt vào mắt hắn, coi như đã vào cấm cung suốt đời rồi, vì hắn xuất quỷ
nhập thần, không ai lường được! Cho tới nay, cũng chưa mấy ai rõ hình
thật hắn, quái nhân hay dị thú? Hắn là giống gì? Tất cả đều trong vòng
nghi vấn! Nhưng tớ đây, đã gặp hắn rồi!

Thuốc Đổ Bác Thần quả nhiên công hiệu. Lão vừa nói dứt câu, Võ
Minh Thần đã cảm thấy dễ chịu hết sức, không còn váng vất như trước nữa, rõ ràng dược chất đã kìm hãm hẳn sức phát tác của vết “quái thương”,
lại nghe lão bảo đã gặp Tây Sắc, chàng trai cả mừng hỏi luôn:

-Lão tiên sinh đã gặp, vậy chẳng hay nhân vật đó là người thế nào? Bao nhiêu tuổi? Hiện ở đâu?

Đổ Bác Thần vuốt ria, cười rung cả má:

-Sao lại nhân? Sao lại người? Tây Sắc chính là con vật, chú mày
chưa biết sao? Một con quái vật thành tinh, đi hai chân, nói tiếng như
người, nói rõ hơn y là một con chó sói thành tinh.

Cả hai thầy trò Võ Minh Thần cùng rúng động tâm thần ngạc nhiên, mừng rỡ như vừa được thấy một tia sáng rực giữa sa mù đêm tối. Võ bật
kêu lên:

-Con chó sói thành tinh? Trời! Tây Sắc Ma Vương là sói thành tinh? Nếu vậy Bá Diện Đông Âm nói đúng rồi, nó là con tinh đực thuộc loài chúa sói! Gật đầu, Đổ Bác Thần nghiêm giọng:

-Phải đó! Con tinh chúa thuộc giống Hồng Cẩu Quẩy thành tinh! Nó cao lớn như người, thông minh tuyệt xảo, văn võ kiêm toàn, nghề chơi
trác tuyệt. Nó nói tiếng Tàu, tiếng Thổ, Mán, Mèo… còn giỏi hơn cả tớ. Chú mày có thể tưởng tượng rằng nó còn biết nói cả tiếng Tây? Ôi chao!
Tiếng Tây nó nói Tây đầm còn phải phục! Nói tóm lại: Tây Sắc Tinh quân
Hồng Cẩu Quẩy không khác một người hào hoa phong nhã, thông minh tài trí khó có người nào sánh kịp. Trên thế gian này, đàn bà có hàng trăm vẻ
đẹp, y đều biết “sưu tầm” cả trăm bộ, không thiếu bộ nhan sắc nào!

Không nén được ngạc nhiên, Quản Kình buột miệng:

-Hay y là người đội lốt?

Đổ Bác Thần bâng khuâng nhìn ra phía rừng xa như dõi theo hình ảnh xa xôi đã chìm sâu xa mờ thời gian không gian:

-Chính trước khi gặp, ta cũng nghĩ vậy, mà ai cũng nghĩ vậy.
Nhưng gặp rồi, thật khó nói sao cho đúng. Nên nhớ quân gia thủ hạ y, có
cả “quân người”, thường theo y như hình với bóng, đến nỗi dân sơn cước nhiều kẻ bảo
“đoàn quân ma trành” – Oan hồn kẻ bị hùm tinh sói vồ thịt. Mà có khi lại chính là người thực, chịu sự sai khiến của y, nhưng vẫn mù tịt như theo phò cái bóng, tiếng vang. Mà người ta còn bảo có lần y “hiện” hình
người đến viếng mỹ nhân, một con sói chúa thành tinh hay một người đội
lốt? Cả hai thứ hình như chưa đúng! Điều bí mật đó chính tớ cũng chưa
biết rõ, vì trước sau tớ chỉ gặp có một lần! Đêm đó… cách đây đã mười
lăm, mười sáu năm rồi, trên đường du ngoạn, khai xuân, đến vùng Yên Bái
giáp Lào Cai, tớ đến chơi nhà một viên quan châu Thổ lai Kinh, nhà y có
việc “ăn khao” đứa con gái mới đỗ dưới Hà Nội về.

Trên sơn cước, vẫn có lệ đó, đậu cái bằng tý con cũng giết trâu
mổ bò khao linh đình, mời đủ mặt quan khách quanh vùng, rượu chè, thuốc
phiện, múa hát tưng bừng, tớ đến cốt dựng một canh xóc đĩa, nhưng tụi nó có nhiều đứa biết tiếng Đổ Bác Thần, xui nhau hàng, chỉ chơi tổ tôm còm lấy vui. Tớ chán, nằm hút thuốc phiện cho khuây.

Vào khoảng nửa đêm, thình lình có tin Tây Sắc tới thăm, Ma Vương tới nhanh êm như gió thoảng, khi trong nhà chủ khách biết, thì bao
nhiêu lính dõng canh gác đã gục như tượng gỗ. Ma Vương đã tới trước sân, bất thần tru lên một tràng rợn óc, phát âm tiếng Thổ vọng vào:

-Con gái nhà tri châu Bảo Hà có duyên với Ma Vương Chúa! Chúa Ma Vương thân hành đến đón về làm ngũ phu nhân! Khá đưa nàng ra theo chúa
lang quân về động!

Tiếng vang âm trong đêm khiến quan khách giật mình, bỏ cả “xòe”
chạy túa ra cửa sổ dòm, thất kinh, thấy một bầy hàng trăm con chó sói
đứng lố nhố, bón con to lớn khiêng một cỗ kiệu hoa rèm buông kín. Viên
quan Châu hô lính dõng đóng đã ngủ gục, lật đật lấy súng định bắn, may
có người khách Kinh làm nghề săn thú, giằng lấy súng, thì thào:

-Không cự nổi “nó” đâu! Ma Vương Sắc đó! Phải khéo léo mềm mỏng, nếu không tất cả vào bụng sói!

Viên quan Châu kiếm cách nói dối con gái đi vắng. Tiếng trong kiệu hét ra:

-Không che được mắt Ma Vương! Nàng trong buồng tả với mấy con
bạn vừa “xòe” xong! Mau ra kiệu! Chúa lang quân đợi năm phút, nếu không
ra, quân thú vào ăn thịt hết!

Chủ khách hoảng hồn, rủ nhau trốn cửa hậu, nhưng dòm ra cửa hậu cũng đầy bóng sói. Người khách săn sực nhớ ra:

-Quan Châu mau vào cầu cứu Đổ Bác Thần! May có cơ thoát nạn. Bằng không về động Ma Vương, kể như đầy một kiếp.

Lúc đó Đổ Bác Thần nằm chìm hỉm nghe rõ lời qua tiếng lại bên
ngoài. Nhưng canh xóc đĩa bất thành, Đổ Bác Thần cứ nằm thây kệ. Khi
viên châu Bảo Hà vào báo nguy Đổ Bác Thần đặt luôn điều kiện:

-Lão mỗ đây đang lên cơn nghiện xóc đĩa! Nếu muốn lui Tây Sắc, làm một canh!

Còn phải nói! Chủ khách gật lia lịa. Khi Đổ Bác Thần khăn áo tề
chỉnh tiến ra, thì bầy chó sói đã phò kiệu hoa sịch tới gần thềm dinh.
Đổ Bác Thần đứng trong khung cửa sổ nói vọng ra:

-Phải Ma Vương Sắc đó chăng? Lão mỗ nghe danh quý hữu đã lâu, không ngờ tối nay hạnh ngộ! Xin có lời chào!

Kiệu dừng, có tiếng hắt ra:

-Ngươi là ai mà biết Ma Vương Chúa?

Đổ Bác Thần cười lớn:

-Ôi chao! Cùng hàng “Tứ Hung Tứ Khoái” sao không biết nhau? Ma
Vương nhan sắc thông minh trác tuyệt hào hoa phong nhã đứng đầu về “sắc” trong “Tứ đổ tường”, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn càng xa nữa. Mỗ
đây cũng trong hàng “Tứ trụ giang hồ” sao không biết? Mỗ là…

“Tình tang tang! Long tong bùng!” “Đàn xóc đĩa” rung khua inh ỏi trong đêm, nghe như có một ban nhạc hòa tấu, cung âm kỳ dị khiến đám
khách quanh miền chưa hề nghe, xúm lại trầm trồ, bầy sói ngoài sân cũng
nhiều con hếch mõm, vểnh tai vẻ khoái hết sức. Tiếng trong kiệu vọng ra:

-À “đàn đĩa”! Phải nhà ngươi là Đổ Bác Thần, tay trùm cờ bạc Đông Dương?

-Khà khà! Quý hữu tinh lắm! Mỗ đi ngao du sơn thủy, tới đây gây sòng xóc đĩa đó!

-À nếu vậy nhà ngươi cũng thuộc hàng “Tứ trụ”, nể tình, Ma Vương tha cảsòng toàn mạng! Vậy lui sang bên hữu cả, Ma Vương vào đón đệ ngũ
phu nhân về đây.

Đổ Bác Thần lại xóc một hồi, nói oang oang:

-Ấy, đâu có được! Bữa nay ăn khao con gái chủ nhân, quý hữu đem
nó đi sòng bạc mỗ vỡ còn gì! Khác nào gặp lúc tang gia bối rối, còn ma
nào ngồi đánh bạc với mỗ? Chớ làm thế hại mỗ. Nước bạc này tốt lắm, quý
hữu hãy đánh một canh.

Tiếng kêu vọng vào nhọn sẵng:

-Về làm vợ Ma Vương sung sướng nhất đời, nhà ngươi đã nghe tiếng Tây Sắc hào hoa phong nhã, thương hoa tiếc ngọc, nàng về với lang quân
Tây Sắc, sao dám ví với tang gia?

Lúc đó cô gái quan châu Bảo Hà cũng vừa rón rén cùng mấy cô bạn
nhìn ra, vừa thấy bầy sói nhe nanh nghe tiếng trong kiệu hắt ra, nàng ta buột miệng kêu rú lên, làm ai nấy đều kinh sợ. Đổ Bác Thần nói luôn:

-Đó! Nghe thấy chưa? Sung sướng mà chưa chi đã ré lên như ma
bắt, lại không phải “nhà có đám”? Mỗ nghe Ma Vương Sắc tài hoa phong
nhã, ăn chơi có điệu lắm, làm gì mà như đi ăn cướp vậy? Thôi! Vào chơi
vài tiếng đã! Một canh làm duyên gọi mừng cuộc đón dâu cổ kim hy hữu!
Tây Sắc là bậc hào hoa, sành điệu, lẽ nào không biết đánh bạc?

Dứt lời, Đổ Bác Thần quát oang oang:

-Nào quan khách anh em ta đâu! Vào chiếu! Nào! Mời chú rể vào
“khai bát”! Cô dâu đâu! Khá phấn son tô điểm xinh lịch, đợi chờ lên kiệu hoa về làm đệ ngũ phu nhân… nếu Ma Vương thắng Đổ Bác Thần.

Ai nấy đều ngơ ngác, nhưng thấy Đổ Bác Thần khoát tay làm hiệu,
thảy đều răm rắp ngồi xuống chiếu hoa, vòng hai bên, để hở một khoảng
trống gần cửa sổ.

Có tiếng vùng hét lớn:

-À Đổ Bác! Phải ngươi muốn Ma Vương đánh cuộc?

-Không phải đánh cuộc! Cuộc bạc này mỗ mời Ma Vương là để bói
cuộc nhân duyên. Ma Vương được là điềm đại hỉ, lưỡng hỉ trùng phùng cưới vợ tốt, nếu thua là đại hung lấy vợ xấu như “vận áo xám”, “họa vô đơn
chí” cơm không lành canh không ngọt mà có thể chui tọt vào áo quan!

Bỗng tiếng trong kiệu cười thét lên:

-À con ma cờ bạc này! Ngươi lời nói quanh, sao không bảo thách
Ma Vương đánh cuộc cho xong! Nhà ngươi muốn cản ta, phá cuộc nhân duyên, cứu gia chủ. Ngươi tin tài cờ bạc thách Ma Vương? Nếu ta không đánh?

-Thì không còn cách gì hơn, phải phủ phục tôn Đổ Bác Thần. Nếu
không tôn, đánh chiến tay đôi! Không tay đôi, thì hô đàn chó cắn! Nhưng
mỗ tin Tây Sắc là tay hào hùng lịch sự, dầu giết người như ngóe, hỏi vợ
như ma, vẫn không phải phường hèn nhát. Có lấy vợ về, nó cũng chửi cho
đến xấu! Xóc nhé!

Im mấy khắc, có tiếng vọng vào nghiêm đanh đầy ngạo khí:

-Tưởng chỉ có ngươi là vua cờ bạc? Ma Vương Sắc tài linh trăm
thứ, lại sợ thua sao? Tối nay không phải động chiến, Ma Vương không cần
xua quân thú. Gái châu Bảo Hà! Sửa soạn xiêm y, còn lên kiệu! Đổ Bác
Thần! Xóc đi! Đàn đĩa ngươi nghe vui tai lắm.

Đổ Bác Thần nhe răng cười bảo mọi người:

-Thấy chưa, Tây Sắc còn mê đàn mỗ, các người anh em lại định phá sòng? Bèn xóc rền luôn ba hồi. Mọi người ai nấy còn nơm nớp, ngồi lén
dòm ra, vừa xóc hết hồi ba, cỗ kiệu hoa ngoài kia đã trôi sịch tới bên
khung cửa sổ.

Rèm hoa trước kiệu vụt cuốn lên, mọi người đều giật thót mình
thấy trong lòng kiệu ngồi sừng sững một con sài kíu thuộc giống Hồng Cẩu Quẩy, to lớn bằng người, hai con mắt đỏ khé than tàu coi không khác một “ông thạch cẩu” người ta thường thờ sau vườn!

Ai nấy đều kinh dị đến ngẩn mặt, cô gái con châu Bảo Hà rú lên, ù té chạy vào buồng, chính Đổ Bác Thần cũng không khỏi lấy làm lạ, nhưng
chỉ thoáng qua đã rung đùi xoay bát mở thử, xóc xong lại xoay bát, mời
oang oang:

-Nào, thỉnh “lang quân Ma Vương” khai bát đi! Nào làng đánh đi!

Khách khứa không còn mấy tay đủ bình tĩnh chơi nữa, ai nấy moi
tiền ném bừa xuống chiếu, lén dòm trộm ra kiệu. Đổ Bác Thần chìa tay:

-Mời Ma Vương đặt tiếng này! Bán chẵn?

Lừ lừ, con “quỷ mắt đỏ” phát âm:

-Ma Vương chỉ chơi ba tiếng! Nhưng không đặt tiếng này! Đổ Bác Thần cười lớn:

-Bất quá tam! Hay lắm! Bát mở, sấp hai, canh bạc thật gay go. Đổ Bác Thần “bán” liền mười tiếng, toàn con bạc khác đặt. Tây Sắc Ma Vương vẫn lặng thinh. Cái đã vơ hàng mớ bạc xòe, giấy bạc, ngót giờ sau Tây Sắc mới đặt một tiếng. Mở
ra, y thua. Y thét chìm:

-Đưa ta làm cái! Đổ Bác Thần cầm cả bộ đồ nghề quăng ra cửa sổ
trống. Tây Sắc chỉ quơ một cái đã bắt dính như nhựa. Y xóc, làm cái.
“Làng” hết hồn, vẫn phải bấm bụng làm gan đánh, những kẻ ngồi gần cửa sổ cứ nhích mãi, ép người trong như bó giò, muốn ngạt thở.

Tây Sắc cũng vơ hàng mớ bạc, bán cả chục tiếng. Đổ Bác Thần vẫn
lắc. Chừng một tiếng, Đổ Bác Thần lại thua. Thấy Đổ Bác Thần thua, ai
cũng lạ, chỉ có Đổ Bác Thần và một kẻ nữa biết: Tây Sắc! Vì không ai bịp, nhưng
Tây Sắc, Đổ Bác Thần chẳng rõ vô tình hay hữu ý, khi xóc, truyền thêm
điện phổ vào cung âm, nghe lạc hẳn tai, thính mấy cũng chỉ hiệu nghiệm
một nửa, nên kẻ xóc vẫn lợi hại hơn.

Từ đó, cuộc bạc trở nên gay go hết sức, cứ luân phiên đặt một
tiếng, lại xóc một hồi, chỉ lát sau, làng hết sạch, ngồi xem. Sợ nhất là cả nhà viên châu Bảo Hà, vừa đứng coi, vừa run, mồ hôi ra như tắm,
xương sống lạnh toát. Nhưng rồi canh bạc cũng tàn, Ma Vương thua Đổ Bác
Thần vào cuối canh tư.

Giữ đúng điều ước, Ma Vương ném bộ đồ nghề vào lòng Đổ Bác Thần, hất tung cả tiền bạc hét:

-Bất hảo lương duyên! Bị ma cờ bạc phá đám! Bay đâu? Về động! Không lấy gái Bảo Hà làm đệ ngũ phu nhân!

Theo tiếng rống tru nhọn hoắt, rèm buông soạt, kiệu hoa vụt trôi ra ngoài sân. Chừng ai nấy đổ ra dòm, còn kịp thấy cỗ kiệu “nhảy” vọt
qua hàng rào, bầy sói độc lao biến vào sương đêm mất dạng.

Đổ Bác Thần vuốt râu cười ha hả:

-Canh bạc đó, tớ thắng Ma Vương Sắc rất khó khăn, nhưng cũng là
canh bạc khoái hạng nhất, còn khoái hơn cả canh thắng Đông Âm ban nãy!
Lại vơ tiền cả làng! Kha kha! Tớ đã tưởng đêm đó có cuộc tử chiến!

Võ Minh Thần nghe đầu đuôi câu chuyện Tây Sắc, lòng mừng khấp khởi, hỏi liền:

-Lão tiên sinh có biết sào huyệt y phương nào? Uống liền hai, ba chén trà, Đổ Bác Thần vuốt ria chậm rãi:

-Sau đó một năm, y có sai thuộc hạ đem cáng tới rước ta lên Cao
Bằng đánh một canh nữa cho y gỡ, nhưng vừa lên tới biên, bỗng lại có tin báo vì y có chuyện bất thường. Ta có dùng thuật riêng hỏi tên khiêng
cáng được biết: Tây Sắc có nhiều động phủ, và động chính ở miệt Tây Bắc
vùng thượng lưu Hắc Giang thuộc miền cực bắc Lai Châu! Y cũng không biết hơn nữa! Có dạo tớ định mò lên tìm chơi nhưng sau đó tự nhiên y biệt
tích, từ đó mấy mươi năm, y im hơi tưởng như đã về âm cảnh!

Võ gặng thêm địa chỉ Tây Sắc nhưng Đổ Bác Thần chỉ biết vậy thôi không hơn không kém. Chàng trai quay bảo Quản Kình:

-Nếu vậy đúng Tây Sắc là con tinh chúa mười bảy năm xưa rồi! Nó cũng hấp sát, Đông Âm nói đúng!

Đổ Bác Thần hỏi:

-Chú mày có người nhà bị con tinh sói hại?

Thở dài, Võ ứa nước mắt ngậm ngùi:

-Chẳng dám giấu lão tiên sinh, mười bảy năm xưa, mẹ mỗ bị con
tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy ép duyên không được, rồi hấp sát bà, khi kẻ này
mới hơn hai tuổi. Không biết họ, không biết nguồn gốc thân thế, cả di
tích chỉ còn sót lại cái vòng điểm huyết này và mảnh dây chuyền bẻ đôi!

Đổ Bác Thần dòm chàng trai, bỗng trật khăn gãi đầu, kêu:

-Ôi chao! Thê thảm! Bất hạnh! Vậy mà thằng già này định lột cái
vòng di vật của chú mày, vô lương hết sức! May thằng này lại thua!

Thầy trò Võ thấy lão vò đầu bứt tai xem vẻ hối, lòng cảm động, bèn lễ phép cảm ơn, xin cáo biệt. Đổ Bác Thần hỏi:

-Còn Bá Diện! Y có liên can gì?

-Dạ không! Nãy có lần y hiện hình con Hồng Cẩu Quẩy, mỗ cũng
ngờ. Nhưng cứ lời lão tiên sinh dạy, y không phải kẻ thù hấp sát! Nhưng
chẳng hay y thuộc chủng loại nào?

Đổ Bác Thần lắc đầu:

-Nếu không liên can, đừng bắt tớ trả lời! Chỉ cần biết Đông Âm là giống cái là đủ! Nãy y đã bắt thề độc không cho tiết lộ!

Võ Minh Thần lại hỏi:

-Còn Giao Long chúa kẻ đã gây vết thương chí mạng trên lưng mỗ? Có thể là… Tây Sắc được chăng?

Nheo mắt nghĩ chút, Đổ Bác Thần trầm giọng:

-Có lẽ không phải! Vì con tinh thuồng luồng chưa hề hấp sát đàn
bà! Nó cũng không đi bắt gái tơ, ngoại trừ một lần, đâu mười bảy năm
trước, y có ép một nàng công chúa họ Bạc làm vợ, đem đi. Biết thế thôi!
Có một tay cao thủ giang hồ, một đêm tình cờ đã gặp con tinh đánh nhau
trên tả ngạn sông Gâm. Con Giao Long chúa không địch nổi Hồng Cẩu Quẩy,
chúa tinh phải lặn xuống mất dạng. Nhưng đã lâu rồi!

Võ ngó Quản Kình lòng thoáng lo âu, cứ như tài thuật Giao Long
lại chẳng lợi hại hơn sói tinh? Bất biết, giờ hãy cứ lên biên giới xem
sao, cứ khỏi vết thương dữ này, rồi sẽ đi tìm Ma Vương Sắc! Đêm nay tuy
mắc nạn, nhưng thu thập được nhiều dấu vết kẻ thù, là mừng rồi.

Bèn đứng lên từ giã Đổ Bác Thần lên ngựa ra đi. Băng qua suối
vượt lên tận cửa rừng, vẫn còn nghe tiếng cười của lão Đổ Bác Thần vừa
được canh bạc to nhất Á Đông. Hai thầy trò nhìn lại chẳng còn thấy ánh đèn sòng bạc cùng đám người kỳ quái đâu nữa. Bên tại chợt nghe tiếng nói của ông già lạ truyền âm như rót vào tai:

-Này vua xì phé, trùm xóc đĩa! Tớ bảo thật: Chú mày thắng canh
bạc to nhất Đông Dương, được cái vòng càn khôn quý giá, nhưng cũng như
đeo cái vạ vào người đó. Hiện có nhiều đứa đang sục tìm vòng, Tây Sắc
cũng sục! Chú mày đang bệnh, đeo lù lù cổ tay, cái lối nhử đó nguy hiểm
à! Tớ khuyên nên giấu kỹ, hóa trang luôn, mới có cơ nên việc!

Võ Minh Thần vội cất tiếng cám ơn, bảo Quản Kình:

-Trước chưa biết tung tích kẻ thù, đeo lộ nhử thiên hạ, dò tin. Nay đã biết manh mối, cất đi là phải. Đợi chữa bệnh xong sẽ tính.

Kình tán đồng ngay, lại bàn:

-Từ đây lên biên giới xuyên sơn “nghịch” có tiếng, cậu hai bị thương để tôi đi trước một quãng thám thính, chắc hơn.

Võ Minh Thần tháo vòng, bọc kỹ, cất vào túi áo trong. Quản Kình
giục ngựa lên trước mở đường cho tiểu chủ. Lúc đó, đã sang canh năm, một đêm đầy biến động hiểm nghèo.

Đường dài rong ruổi lúc nghỉ, khi đi, qua nhiều vùng rừng rậm,
sơn thôn, chiều hôm sau, hai người đã tới mạn Nước Hai, không gặp chuyện gì rắc rối. Nghỉ ngơi ăn uống, mua thuốc, cho ngựa ăn, Võ Minh Thần
thấy trong mình khỏe mạnh gần như thường, liền bàn với Quản Kình đi
ngay. Hai người rời Nước Hai ngược lên miệt giữa Trùng Khánh, Sóc Giang
hỏi thăm miền động Thanh Âm nhưng chẳng thổ dân nào biết cả.

Hai người đi lang thang lần vào các cùng cốc, mãi trưa hôm sau
đang đi trong vùng rừng núi A Phi Gia thượng giáp biên chợt gặp một lão
Thổ cưỡi ngựa thồ mới từ mạn Trung Bắc biên đi tới. Võ Minh Thần bèn đón lại lễ phép hỏi:

-Cụ sinh trưởng miệt biên, tuổi trọng, chẳng hay có biết vùng động Thanh Âm thuộc địa phận nào chăng?

Lão Thổ có vẻ sợ sệt, nhìn hai người thấy cũng mặc quần áo Thổ, ngạc nhiên hỏi lại:

-Hai ông không phải dân vùng này? Hai ông phương xa tới?

-Dạ cụ nói đúng! Cậu chủ tôi là người Kinh tận dưới xuôi kia lên rừng mặc quần áo chàm cho tiện! Chúng tôi có việc cần tới Thanh Âm, cụ
làm ơn trỏ giùm!

Lão Thổ mặt tỏ vẻ thành kính:

-Tôi hơn bảy mươi, vẫn chưa biết động đó ra sao! Nhưng tôi có
biết miền động Thanh Âm là miền bí mật thiêng liêng dưới quyền “Bà chúa” quyền phép nhiệm màu, thú dữ đầy đàn, ma thiêng quân mã biến ẩn canh
phòng, người nào phạm tơi chết liền! Đến các quan nhà nước cũng không
chạm đến! Tôi nghe miền động đó ở tận miệt Đồng Văn sát biên, đất Hà
Giang rất khó tìm vào. Các quan cứ đi ngang biên may gặp!

Võ nhớ lời chúa tướng Thập Vạn vội rút bản đồ sơ lược ra coi,
quả đúng ghi miệt đường Đồng Văn, nhưng đường xuyên sơn chằng chịt với
ít lời căn dặn rất rõ, tuy vậy trên thực tế, bản đồ với địa hình địa vật thật khác nhau một trời một vực, nhất là miền sơn lâm chỗ nào cũng đầy
núi đá đồi đất, khe, cốc, rừng, thung trùng điệp giống nhau càng khó tìm hỏi, lão Thổ cũng chẳng biết gì hơn. Võ Minh Thần đành cảm ơn lão, cùng Quản Kình lên đường, nhắm hướng Đồng Văn đi miết. Mấy giờ sau, mặt trời xế bóng, sương tàn dâng, hai người tới một cánh thung đồi cẩm tú, nhìn
xa xa thấy cả bóng nhà sàn thổ dân.

Hai người vừa dừng ngựa bên con suối trong cho ngựa uống nước
bỗng nghe rầm rập tiếng vó câu khua dồn dập rồi một bọn đến ba bốn chục
dân Hán, Thổ, Mông, chi đó dắt díu nhau chạy ùa tới, vẻ hoảng hốt như bị ma đuổi. Hai thầy trò ngạc nhiên ngẩng nhìn hỏi lớn:

-Chuyện gì đó? Đám thổ dân cứ dắt nhau chạy, chỉ một người trạc tứ tuần kêu giật lùi:

-Quỷ mắt đỏ! Có đàn quỷ mắt đỏ… phía rừng trước! Chớ đi nữa! Lộn lại mau! Sài kíu!

Lời chưa dứt, người ngựa đã chạy ào như đàn vịt, qua suối, Quản Kình giục:

-Cậu hai! Ta nên lánh mau!Nhưng Võ Minh Thần máu đã sôi sục cừu hận, vùng nói lớn:

-Giống sài lang tàn hại sinh linh, gặp phải giết hết loài quỷ dữ! Sao lại tránh?

Quản Kình lo ngại:

-Nhưng cậu hai đang bệnh?

-Bệnh cũng chưa đến nỗi chết! Biết đâu chúng có tinh chúa! Để tôi đi xem sao!

Chàng trai nhảy lên ngựa phóng ngược về phía thổ dân vừa chạy.
Quản Kình lật đật chạy ngược lên trước, hai ngựa phi đại, thoắt đã qua
hai con thung, rừng chiều quạnh quẽ, nắng tàn ngọn núi, gà rừng eo óc
buồn tênh. Hai người gò cương nghe ngóng.

Bất thần, chim chóc bay tán loạn, từ đầu hẻm núi, hai, ba con
nai cong đuôi chạy xé gió, vẻ kinh hoảng như sợ cọp. Rồi bên kia hẻm
núi, bỗng có tiếng chó sói tru nhọn hoắt, âm gai sắc bốc vãi qua đỉnh
núi tưởng thấu trời mây, như dùi cào màng tai, kẻ nhát gan muốn ớn xương sống.

Võ Minh Thần, Quản Kình nhảy xuống đất rút soạt cây súng đeo
hành lý, mang khiên, thả ngựa chạy lộn lại, hai thầy trò tiến vào hẻm.

Hẻm này rộng chừng vài thước sườn đá, nhấp nhô, đường mòn chạy
giữa chỉ sâu chục bộ, mở ra một cánh rừng khá phong quang, tùng bách
xanh um, cỏ hoa tươi tốt. Vẫn tiếng sói tru. Hai người nhảy lên sườn núi đứng đầu ghềnh, nhìn xuống rừng, nhưng vướng tàn cây, lại phải nhảy
xuống đất, đứng ngay cửa hẻm, đưa mắt nhìn vẫn không thấy gì. Chừng hai
phút, bỗng nghe tiếng sói tru vang động, tiếng ngắn, cộc, dữ dằn, lẫn cả tiếng gừ hộc, rồi một đàn hai, ba bầy sói từ cuối rừng phía trước chạy
ào tới như những luồng gió độc. Hình thù to lớn nhấp nhô, lông lá xồm
xoàm đen, vàng lố nhố, những con mắt đỏ khé dập dờn theo nhịp chạy, đúng giống Hồng Cẩu Quẩy hung tợn nhất.

Đàn sài kíu lao thẳng tới hẻm núi, sịch thấy bóng hai người đứng đầu hẻm, bầy đi trước tru hộc lên chạy tóe ngang, nhe nanh múa vuốt, Võ Minh Thần tưởng lại cảnh mẹ bị chó sói vây bắt sát hại, máu sôi lên:

-Sài lang! Quỷ đỏ mắt! Tao tàn sát hết giống nòi mày! Tiếng quát vang động rừng chiều, hai họng súng thi nhau nhả đạn tặc tặc! Sài kíu
lộn nhào ngã vật, vỡ đầu lòi ruột, cả đàn tru rống kéo ào tới, bất chấp
súng nổ. Như điên, Võ, Kình đứng dạng chân bắn liên hồi, quỷ đỏ mắt quả
hung tợn gớm ghê cứ lớp gục lớp sau lại xông lên tha luôn đồng loại, gặm táp, gầm gừ xốc tới, nhanh đến nỗi khạc đạn liên miên vẫn không cản
kịp, thoáng cái, đàn sài kíu độc đã ào lại chỉ còn cách vài sải, mặc dầu đã bị hạ mấy chục con. Trong làn đạn bay, sói chồm, hai người chợt thấy bầy sau cùng tru lên nhất loạt, có mấy con vùng đi hai chân khật khưỡng như người, chạy túa
ra hai bên rừng ẩn hiện sau cây cỏ. Vẳng có tiếng quát ma âm:

-À tên nào to gan dám giết bầy sói của Chúa động? Tiếp theo có
tiếng tru vang lừng, sài kíu tản rộng cánh cung kéo ào cả lại, vẳng có
tiếng chó sủa, tru khắp gần xa, bầy đi đầu chồm lại vồ. Mãi lúc đó, hai
thầy trò Võ Minh Thần mới hiểu rõ sức ghê gớm tàn hại của Hồng Cẩu Quẩy. Vì mới chỉ có bầy đầu non trăm con, đã ào tới tuy bị hạ vài chục. Hai người hạ thêm được một loạt năm bảy con đầu nữa, thì lớp sau đã chồm
lên. Tạch, hết đạn! Chưa kịp thay, Quản Kình lôi tay Võ, hô:

-Rút lên sườn núi… mau!

Lời chưa dứt, chó sói đã chồm tới lố nhố. Võ Minh Thần, Quản
Kình quật mạnh ra một đòn phản phong, cả lũ sói bắn huỵch lại, dãy dụa,
tru lớn. Cả hai thừa thế nhảy vọt lên ghềnh núi, mỗi người một bên. Bầy
sói kéo tới chân ghềnh tru, chồm, nhe nanh múa vuốt. Hận cừu sôi sục,
chàng trai quên cả bệnh tung liễu đao chém như mưa. Quản Kình thấy thế
vùng gọi sang:

-Nó đông như kiến, liệu dưỡng sức, hình như có tiếng con tinh
chúa!Võ Minh Thần ngừng tay, tra băng đạn mới vào súng, vừa xong thì bầy sói cũng có nhiều con nhảy ghếch lên chồm táp. Rất bất lợi là đầu núi
đá chỗ này ghềnh mọc nhấp nhô, sườn thoai thoải nhiều rất tiện cho các
giống sơn dương, beo, gấu, chó sói leo trèo, hai thầy trò Võ phải rút
lên độ cao ba mươi thước. Máu sói tuôn như suối chảy, nháy mắt hai người đã hạ hàng năm, sáu chục con, sức bắn chém của Võ Minh Thần không sao
tưởng tượng nổi. Đến nỗi Quản Kình đứng bên kia hẻm phát sợ, thình lình có tiếng ngựa hí
loạn cuối hẻm lẫn tiếng sói tru. Võ Minh Thần vùng hô:

-Phía sau cũng có sói! Lại cứu ngựa!

-Coi chừng… cậu hai! Chớ xuống dưới đất! Hai người men theo
ghềnh đá lui lại cuối hẻm. Nhưng mới tới đầu núi trông xuống đã thấy một cảnh tượng hết sức thương tâm. Hai con ngựa vừa hí vừa chạy cuống
cuồng, phía sau có một bầy ba, bốn chục con sài kíu lớn rượt theo, lúc
hai con ngựa chạy tới cách hẻm độ ba mươi thước, lại gặp một bầy khác từ phía hữu ùa ra, chặn vồ, hai con ngựa dạt sang tả, lại bị bầy khác,
hoảng hồn chạy vòng quanh, hí vang lừng. Võ Minh Thần vừa ra tới, chĩa
súng bắn vòng quanh, nhưng đàn sói rất hung, không biết sợ là gì, cứ tiếp
tục ào tới vồ mồi, bắn không kịp, lại thương hai con vật, chàng trai hét lớn:

-Lang sói hung tàn! Không được bắt ngựa của tao! Lời dứt, chàng
dắt luôn dù, nhảy vèo xuống đất, xông thẳng tới cứu hai con ngựa. Quản
Kình thất kinh cũng theo đường mòn dọc giữa hẻm lao ra. Võ lao tới còn
cách hai con ngựa chừng bảy, tám thước thì đàn sói mấy phía đã kéo ào
tới như cơn lốc, bu quanh hai con ngựa như đàn kiến. Võ Minh Thần bị một lũ ngăn trước, cả giận dùng phản phong đánh liền hai nhát, trông ra,
chẳng thấy hai con ngựa đâu nữa, chỉ thấy một đàn sài kíu bu như vùng
mây độc, chàng trai hét lên, nhảy xả vào đàn sói, bùng bùng, đàn sói bật tung tán, từ trong bầy thú dữ, bắn văng ra hai cái yên nham nhở, cùng
hai cái đầu lâu ngựa bị gặm trơ xương, không khác đầu cái trắng, còn
thân xác to lớn của hai con vật đã chui vào bụng sói không sót một cái
lông… như trong cơn mộng thoảng. Quản Kình cũng bị một đàn ngăn trước, trông bốn bề,
thấy chó sói kéo ra hàng đàn, thất kinh gọi lớn:

-Cậu hai… Lên cao! Lên cao mau! Võ Minh Thần đang nổi giận say máu nghe gọi vội đánh ra một đường phản phong thật mạnh rồi theo đòn
quăng mình lên cây đu cành vọt lại đầu núi. Quản Kình cũng đu cành vọt
lên lộn lại sườn bên này. Đàn sói tru hộc nhảy chồm chồm kéo theo như
kiến.

Vừa hạ chân xuống một mỏm đá, Quản Kình bỗng giật thót mình nghe mơ hồ có tiếng ai thét bên tai xa xăm như từ cõi vô hình nào vọng về:

-Bọn mi lớn mật, dám đánh giết bầy quỷ mắt đỏ của Chúa! Hà hà! To gan… to gan… cho mi vào bụng quỷ…

Quản Kình ngó quanh, chẳng thấy bóng ai. Võ Minh Thần cũng dòm
quanh, chợt nhận ra đàn sói đã bao quanh hẻm núi, chàng trai hét lớn:

-Tinh chó sói! Có giỏi chường mặt ra… Ta phanh thây xả thịt cả nòi giống mi chưa hả thù! Tây Sắc Ma Vương! Mi đâu sao không ra mặt?
Loài lang sói khốn kiếp!

Hai tay quật liền hai nhát phản phong tung hàng chục con vừa
nhảy lên sườn núi. Quản Kình đảo mắt dòm, bỗng giật nảy người, chợt thấy trên mỏm núi cao chót vót ngay xế trốc đầu Võ Minh Thần có một con sài
kíu to lớn như người, đứng hai chân, lù lù dòm xuống, hai con mắt đỏ khé trong nắng quái hoàng hôn, ngay dưới chân nó, có một đàn chó đen, vàng, trắng, khoang lốm đốm đủ loại, đang men ghềnh, chạy ào xuống. Kình la
giật:

-Nó trên đầu… cậu hai! Võ Minh Thần giật mình xẹt ngang, ngước mắt dòm theo tay Kình trỏ, vận khinh thân, nhảy vọt lên mỏm ghềnh đá xế trên. Quản Kình chĩa súng định nổ, nhưng bóng con sói đi hai chân thoắt biến đâu mất, bỗng nghe Võ vùng la lên một tiếng lê thê, Kình dòm sang, thấy tiểu chủ vừa hạ xuống ghềnh đá bỗng té dụi như kẻ trúng phong. Cả
kinh, Kình chống súng nhảy vọt sang, chó sói phía dưới lồng tru hộc,

Quản Kình nhảy mấy bước tới chỗ tiểu chủ vừa thò tay đỡ thì Võ
đã gượng đứng dậy được, thở mạnh, mặt tái hẳn đi, phun ra một búng máu

-Trời! Cậu hai sao thế?

-Hình như… dùng quá sức điện công… vết thương phát tác… Kình đỡ chủ:

-Cậu hai để tôi cõng! Phải rút mau trước khi con tinh tới!

-Tôi còn đi được! Chỉ choáng váng…

Hai người dắt nhau, men ghềnh, rút ra đầu hẻm đằng kia. Nhưng ra được tới nơi, đã thấy sài kíu đánh hơi theo ra đừng từng bầy. Võ hoa
mắt, cảm rõ sức suy nhiều, chàng đẩy Kình, phào giọng:

-Chú chạy đi! Chạy theo luồng đạn! Thoát người nào hay người đó!

Quản Kình vừa đáp “Không! Sống cùng sống chết cùng chết!” thì Võ Minh Thần đã vùng hét:

-Tây Sắc! Mi đâu? Nghiệt quỷ! Sao không ra đây? Chàng trai nhảy
vèo xuống giữa đám sói, tay khiên tay đao đâm lia lịa. Quản Kình nhảy
theo, hai người bị chia hai ngả, chó sói ùa lại như kiến, tru hộc, gai
gai, bỗng có tiếng hú ma âm trên cao hắt xuống, Võ Minh Thần tả xung hữu đột, vừa thoát ra khỏi vòng vây, bỗng đầu choáng mắt hoa, đất trời đảo
lộn, quay cuồng, chó sói chồm lại lớp lớp “xoang xoảng” ken két nanh vuốt vồ vào khiên sắt gai gai. Chàng trai loạng choạng run hẳn tay
chân, cố vùng chém, hết cực kỳ u uất:

-Mẫu thân… mẫu thân! Trời, con kiệt lực rồi! Kình đâu! Chú…
Chàng trai đổ dụi xuống, khiên úp trốc mình, trong cơn tuyệt vọng còn
thoáng thấy bóng sài kíu lông lá lồm xồm vồ xoảng xuống khiên, bóng con
Hồng Cẩu Quẩy sịch khắc lù lù vào nền lá úa hoàng hôn, chẳng thấy Quản
Kình đâu nữa. Rồi toàn thân rúng động, mắt khép lại, chàng trai còn
thoáng ngửi rõ mùi hôi hám phả thốc vào mũi, theo hơi thở hộc của bầy
quỷ mắt đỏ phào xuống mặt, nanh nhọn hoắt chạm vào da thịt lởm chởm, lởm chởm… rồi ngất xỉu đi, không còn biết gì nữa!… Không biết bao lâu,
tự nhiên chàng tuổi trẻ sực tỉnh dậy, mở bừng mắt ra. Và bàng hoàng ngơ
ngác thấy sài kíu rừng già biến đâu mất, cùng với những tiếng tru sóc
óc, chàng trai thấy mình đang nằm trên một cái giường thất bảo màn the
trướng gấm huy hoàng trong một động phủ thâm nghiêm như cung điện vua
chúa đời xưa. Bốn bề quạnh vắng thẳm sâu. Quá sững sờ, chàng trai nhận
ra mình nằm ngửa, bèn đưa mắt nhìn quanh, ánh mắt chạm các bức tranh
hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, cùng những vật dụng bày quanh gian
phòng sâu thẳm toàn màu vàng rực rỡ, càng ngơ ngác, thấy rõ mình nằm
trong một căn phòng rộng mênh mông, nhìn ra sâu hun hút, chan hòa một
thứ ánh sáng trong như ngọc lưu ly, không ra ánh mặt trời, không ra ánh
đèn đuốc. Chàng trai hít một hơi dài, không khí nhẹ lâng lâng và kì diệu thay, mãi khắc đó chàng trai mới nhận ra trong mình đã mạnh khỏe hết sức như
chẳng còn bệnh tật gì nữa.

-Lạ chưa này? Rõ “ban nãy” bệnh phát tác, ra máu miệng, ta ngã
gục xuống giữa đàn “quỷ mắt đỏ”, còn thấy rõ cả răng nanh nó ngoạm vào
da thịt rồi không hay gì nữa, chắc chắn đã chui vào bụng quỷ. Thôi! Có lẽ hồn
trần đã sang thế giới bên kia cuộc sống rồi… Phải rồi! Nếu không sao
lại ở chốn này? Bệnh tật lại bay đâu cả?

Lòng đầy kinh nghi thử cấu vào đùi, lắc mạnh đầu, cúi dòm xuống
càng lạ, thấy mặc một cái áo choàng rộng trắng toát coi như áo thầy
thuốc Tây, “màu trắng như vôi bất giác gợi ngay màu bóng ma cố hữu”. Võ
Minh Thần càng đinh ninh đã lìa trần, vùng bật kêu lớn:

-Đây là đâu? Âm phủ hay… Chàng trai vụt im, vì nghe rõ tiếng
mình vang chuyển hun hút, xa xa như có tiếng người nhái lại: “Đây là
đâu? Âm phủ hay..”. Bàng hoàng khó tả, tự nhiên cảnh im lặng đè xuống
tâm trí, chàng trai giật áo coi, lại quài tay sờ vết thương sau lưng,
mới hay áo giáp biến đâu mất, vết thương có buộc băng.

Chàng trai bước xuống giường, bỗng giật mình thấy tít xa xa cuối phòng có một đàn năm, sáu con sài kíu nằm ngồi lố nhố, mắt hau háu dòm
vào.

-Trời! Thôi đúng rồi! Bị sói ăn thịt, hồn thành… con trành…? Đang đứng bên giường, kinh hoàng, dương mắt nhìn bầy sói, bỗng nghe
tiếng “ken két” mở cửa, rồi một bóng nữ nhân sịch bước vào, tay bưng
khay nước chi đó khói nghi ngút, rồi lại hai, ba bóng nữa. Cả ba, bốn nữ nhân thoăn thoắt tiến vào êm như mấy chiếc bóng, đó là các cô gái
khoảng mười tam, mười chín đều mặc “phá” lướt thướt. Võ cứ đứng dòm, vào được năm, bảy thước, bỗng mấy cô nàng chợt nhìn vào, thấy dáng Võ đứng sững bên
giường, cả mấy nàng cùng khựng lại, kêu thánh thót giọng Thổ:

-À công tử thức dậy rồi kìa!

-Sao công tử lại đứng đó? À! Mấy con quỷ này, mi canh cửa ngoài sao dám vào đây?

Mấy nàng lấy tay xua đuổi bầy sói… mấy con thú độc cong đuôi
chạy mất. Nàng cầm khay bảo: “Ra trình chúa nàng mau”, một cô quay ra,
còn hai, ba cô thoăn thoắt tiến thẳng vào, cúi chào Võ, thỏ thẻ:

-Công tử vừa thức? Công tử chớ kinh động, để chúng em đỡ lên giường!

Cô gái đặt tay xuống chiếc bàn kê đầu giường, cùng xúm vào dìu Võ lên giường, lòng bàng hoàng, chàng trai kêu ngơ ngác:

-Không… mỗ đứng được mà… không sao… mà đây là đâu? Phải âm phủ…? Mỗ bị chó sói ăn thịt rồi mà…!

Mấy cô gái cứ ấn Võ nằm xuống nhưng chàng trai lại nhỏm dậy hỏi, mấy cô gái nhìn nhau nhoẻn cười bưng khay lại, nàng lớn nhất cầm bát
nước đen sì, lễ phép dâng:

-Mời công tử uống đi, kẻo nguội! Thuốc bổ đấy!

Tuy vẫn ngơ ngác, chàng trai phải nhắm mắt uống hết bát thuốc đắng như mật, hỏi vội:

-Sao lại cho uống thuốc? Dưới âm cũng uống thuốc? Như hiểu rõ ý nghĩ trong đầu khách, cô gái lễ phép:

-Công tử mạnh rồi, không việc gì hết! Đây là cõi trần mà! Công tử còn mê sảng sao? Trời! Hôm nọ đã tưởng không qua khỏi!

Thấy nói hiện ở cõi trần, Võ Minh Thần càng lạ, hỏi:

-Nhưng mỗ đã bị chó sói ăn thịt mà?

Cô gái mỉm cười lễ độ:

-Bẩm không! Công tử được chúa cứu về đây… Nhưng vết thương sau gáy công tử phát lên rất dữ, công tử mê sảng làm ai cũng lo! Nhiều hôm
công tử nằm thoi thóp…!

-Lạ nhỉ! Nhưng đây là đâu? Mỗ ngất mấy tiếng rồi?

-Bẩm… đúng ba ngày đêm! Giật mình kinh ngạc, chàng trai trợn mắt kêu lên:

-Tưởng mới đây! Kìa! Rõ ràng mỗ còn nghe văng vẳng tiếng sói
tru… mà mấy con sói kia… là gì? Vô lý! Còn con tinh chúa đâu? Phải
mấy cô cũng là con “trành”?

Mấy nàng không nhịn được cười, chợt nàng vừa dâng thuốc hỏi:

-Thế công tử không nhận ra được em sao? Võ Minh Thần ngó sững và thấy phảng phất như đã gặp đâu rồi nhưng không nhớ nổi, lòng đầy sửng
sốt, chàng nhảy tót xuống giường, chạy về phía cửa, mấy cô gái gọi rối
rít. Nhưng khi Võ đến gần cửa, thì cửa chợt sịch mở, một bầy gái trẻ
hàng chục cô tíu tít đi vào, phò một nàng tuyệt đẹp phá lãnh thủy ba quét sàn bó sát thân tròn lẳn coi dáng đúng “cô nàng bà chúa”
rừng thiêng.

-Chúa nàng tới kia rồi! Mấy cô gái vùng kêu lên và cúi đầu chào, Võ giật mình khựng lại, lùi mấy bước, khi thấy sau lưng bọn mĩ nhân mới vào có một bầy chó lông lá xồm xoàm coi dữ tợn. Chúa nàng dừng lại, mặt che ngang một mảnh khăn vàng, búi tó đỉnh đầu, trâm cài lược giắt óng ả như tiên, mắt phượng long lanh nhìn Võ,
cất giọng thánh thót như tiếng đàn:

-Kìa tiên sinh… công tử đã tỉnh, may quá! Công tử thấy trong mình dễ chịu hẳn chưa? Ngoài này gió, công tử nên cẩn thận!

Cả đám tiến vào, Võ đi giật lùi, vùng hỏi:

-Bà là ai? Đây là động phủ hay âm phủ? Chúa nàng cười khanh khách:

-Công tử mê ngủ à? Sao lại âm phủ!

-Nhưng… nhưng bà là ai?

-Đây là miền động phủ của lãnh chúa Pi A Ya, chúa tể các sắc dân bộ tộc, chúa các loài sơn cẩu hùm beo… còn thiếp, chung quanh gọi “nữ chúa Hồng Cẩu Quẩy”!

Giật mình, Võ Minh Thần nghĩ ngay tới con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, lui một bộ hỏi:

-Nữ chúa Hồng Cẩu Quẩy? Bà là chúa các loài sơn cẩu… hay bà là con chúa sài lang Tây Sắc Ma Vương?

Chúa nàng lại cười khanh khách:

-Công tử mơ ngủ? Tây Sắc chúa sài lang nào? À phải công tử nói
con tinh hấp sát người ta đồn là Tây Sắc? Là quỷ mắt đỏ thành người? Ồ!
Công tử lầm rồi! Công tử chưa nhận được thiếp sao?

Thực tình Võ cũng có ý nghĩ “nàng là tinh sói” nhưng nghe giọng
nói lúc đó cũng nhận mang máng như đã nghe quen lần nào rồi, nhưng chịu
không nhớ ra nổi. Chúa nàng chợt nghiêm giọng hỏi:

-Vết thương công tử đỡ hẳn rồi chứ? Không có Lãn Ông tái thế trị, chắc nguy rồi! Công tử cho thiếp coi nào!

Võ ngơ ngác, lùi nữa. Chúa nàng thấy thế phát cười khanh khách
đưa tay búp măng cởi phăng mảnh lụa vàng che ngang mặt! Khuôn mặt đẹp
tuyệt trần hiện ra, chúa nàng mỉm cười, nhìn khách. Võ giật mình mấy
khắc, và bật kêu sửng sốt:

-Trời… cô… cô nương bị nạn con “quỷ đỏ” trên biên thùy Trùng Khánh! Chúa nàng thỏ thẻ:

-Giờ công tử mới nhận ra sao, ân cứu tử ngày nào thiếp vẫn ghi
tâm khắc cốt tưởng không còn dịp nào gặp lại. Ai ngờ lòng trời dun rủi
lại được tái ngộ ân nhân? Chiều nọ may thiếp đến kịp, nếu không còn gì!
Công tử vô tình đã đánh giết đàn sài kíu độc giữa lúc thiếp cùng phụ
thân săn đuổi thu phục chúng.

Mãi lúc đó Võ Minh Thần mới tin hẳn mình còn sống, trong lòng
bàng hoàng tưởng mê ngủ bèn hỏi dồn dập, nàng nữ chúa mời chàng ngồi,
đoạn vui vẻ kể lại đầu đuôi.

Mới hay bữa đó có một đàn Hồng Cẩu Quẩy từ đất Tàu tràn sang
Nam, nàng cùng cha, vị chúa rừng Pi A Ya nghe chúng vào bèn đem chó đồng đi săn đuổi, vừa qua tới thung lũng thì nghe súng nổ, hai cha con vị
chúa tể tưởng kẻ nào, vội xua thú bao vây, nàng nữ chúa đi phía hữu, vừa tới đầu hẻm đã nghe tiếng quen quen vội xông lại vừa kịp nhận ra Võ
Minh Thần bỗng ngã gục, sói bu lại, nàng vội hú hiệu lệnh truyền thú dữ
dừng lại, rất may là bầy sói đã thu phục từ trước, nếu là bầy mới chắc
nguy rồi.

Nàng bèn lay gọi, không động đậy, vạch áo xem mới hay Võ bị
“quái thương” sưng mọng, cả kinh, lật đật gọi quân gia tỳ nữ võng về,
Cha nàng chúa tể Pi A Ya vốn là tay thượng võ ẩn danh, chẩn đoán “đòn
âm” bèn họp các soái lại chữa trị nhưng vô ích, trị lối điện công cũng
không khỏi, ai nấy đều tuyệt vọng. May sao có ngay tới vị thánh y Lãn
Ông tái thế miệt Si Công Linh, nàng liền đi thỉnh về. Nào dè, sau khi
xem mạch, xét thương, thánh y thở dài bó tay, hốt bảo:

-Đòn tuy đánh vào da thịt, mà công phá tiêu hủy tinh lực thuộc
pháp môn phi nhân phi quỷ, chất độc thuộc tinh lực huyết khí sẽ hút tinh lực, bệnh nhân sẽ hết chất kim khí thủy hỏa trong người mà thác, như
con ve sầu! Sức công phá nhanh không cách nào bồi kim khí vào kịp! Âu
cũng là số mệnh bệnh nhân!

Nàng nữ chúa quá thương ân nhân sa nước mắt hỏi:

-Thưa lão tiên sinh… không còn thuốc nào trị nổi nữa sao? Người tốt như chàng đây chẳng lẽ trời bắt đoản mệnh?

Thánh Y buồn bã bảo:

-Có một vị thuốc có thể cấp cứu sinh mạng được nhưng cũng kể như không vì chỉ có xương con Mạc thú, vì con Mạc thọ kim khí sinh ra,
xương da nó là tinh túy kim loại, nhưng con Mạc cả ngàn đời nay chưa
sanh, lấy đâu ra?

Nàng sực nhớ hôm gặp Võ, có hạ được con Mạc thú, bèn gọi nữ tỳ
đem hành lý Võ ra coi, may sao còn một mớ xương da. Thánh Y xem, mừng
hết sức, bèn lấy một ít xương da làm thuốc cho Võ uống, đắp vết thương.
Quả nhiên bệnh giảm.

Kể xong, nàng hớn hở bảo:

-Thánh y dặn chậm lắm bốn ngày đêm sẽ lành, tính ra chưa được ba ngày đã dậy, vậy là lòng trời còn thương người lành mới gặp thầy gặp
thuốc.

Nghe nàng nữ chúa Pi A Ya kể dứt, Võ Minh Thần vẫn bàng hoàng
như vừa trải cơn mê. Nhớ lại lời mẹ đã hiện về giục lên biên giới may
gặp kỳ nhân trị vết thương vong, Võ lúc đó mới tin mình đã thoát khỏi
nạn dữ, bèn đứng lên xá nàng nữ chúa một cái cảm động không cùng:

-Mong ân cứu tử, chữa vết thương kẻ này đã tưởng chết, ai ngờ
được sống, chẳng khác giấc chiêm bao, thật chẳng biết lấy chi đền đáp ân đầy đức trọng của lệnh tôn cùng cô nương.

Cô gái Pi A Ya tránh sang bên thỏ thẻ:

-Tiên sinh chớ nói nặng lời, lòng thiếp không an! Ngày nào trên
biên thùy Trùng Khánh nếu chẳng được tiên sinh ra tay giải cứu chắc thân thiếp đã làm mồi cho ác quỷ, còn đâu trên đời này! Ân đó, ngàn đời ghi
tạc, dẫu phải lấy thân báo đáp cũng chẳng từ nan, huống hồ chi chuyện
nhỏ mời thầy trị bệnh? Thiếp đâu ngờ có ngày gặp lại tiên sinh, dám xin
tiên sinh cứ bình tâm tĩnh dưỡng cho mạnh hẳn, chớ nghĩ nhiều cho hao
tổn tâm thần! Mà chẳng hay tiên sinh đi đâu mà lại gặp sài kíu giữa
rừng?

Võ Minh Thần từ tốn, giọng đượm buồn:

-Ngu mỗ xuôi ngược tìm thù, chẳng may thọ thương Giao Long tinh
hồ Ba Bể, nghe người mách bảo, tính lên biên kiếm bậc thánh y Si Công
Linh, không ngờ giữa rừng gặp sói, tưởng giống độc ác, lòng đau, nên đón đường bắn giết, lỡ phạm bầy thú của lệnh tôn, cô nương, thật cam đắc
tội!

Cô gái chúa Pi A Ya đăm đăm nhìn chàng trẻ tuổi hỏi:

-Chuyện lầm lẫn là thường, nhưng chẳng hay kẻ thù của tiên sinh là ai, mà tiên sinh thấy loài chó sói lại giận đến thế?

Võ thở dài trạnh niềm nhớ đến thâm cừu:

-Chẳng giấu gì cô nương, kẻ thù của ngu mỗ là một con Hồng Cẩu
Quẩy thành tinh! Con tinh độc nói được tiếng người, chính là Tây Sắc Ma
Vương! Vừa dứt, sực nhớ ra di hài mẹ vẫn gói để trong bọc hành lý, Võ
mừng hỏi:

-À chẳng hay… bọc hành trang của mỗ…

Không đợi nói hết câu cô gái chúa rừng đáp ngay:

-Dạ, còn đủ cả! Hiện cất kỹ không mất gì đâu! Mấy bữa trước
thiếp mạn phép lẫy gói xương, da Mạc thú ra thôi, còn tất cả đâu vẫn
nguyên đó. Tiên sinh có cần, để thiếp lại đem vào.

Nói đoạn không chờ Võ đáp, nàng quay bảo cô gái hầu lớn tuổi. Cô này đi ra, thoắt đã đem vào. Võ Minh Thần ngó qua, yên lòng, biết chưa
ai lục tới gói di hài mẹ để tận đáy giỏ. Bèn hỏi:

-Chẳng hay người đồng hành của ngu mỗ còn sống hay…

-À! Quản Kình… chú ấy không hề chi, chỉ xây sát qua loa, hiện ở dưới kia, tiên sinh cứ yên lòng.

Võ mừng hết sức, nói qua mấy câu đoạn từ tốn bảo:

-Mang ơn cô nương giờ ngu mỗ đã mạnh, xin cho được gặp lệnh tôn và Quản Kình. Và chẳng hay vị thánh y còn đây không?

-Lãn Ông tái thế đã về Si Công Linh ngay khi chữa trị xong! Tiên sinh mới tỉnh, nên nằm tĩnh dưỡng là hơn! Thánh y có dặn đúng hai ngày
nữa mới hoàn toàn bình phục! Cử động sớm rất có hại!

Võ Minh Thần đành nghe theo. Nàng nữ chúa trò chuyện thăm hỏi
giây lát rồi cũng cáo từ trở gót, chàng trai nằm lại nơi thạch động thêm hai ngày đêm, từ đó tuyệt không thấy bóng con Hồng Cẩu Quẩy nào ngoài
cửa nữa. Gọi là ngày đêm là nhờ coi chiếc đồng hồ trên vách, lấy bữa ăn, nghe tiếng động mà biết chứ trong thạch động sâu thẳm, lúc nào cũng chỉ có một thứ ánh sáng trong suốt hơi vàng chẳng thấy ánh mặt trời, mặt
trăng, có lẽ là một thứ ánh sáng lồng kính pha lê chi đó!

Nhưng khí hậu nơi đây thật trong lành rất dễ chịu, đêm, thỉnh
thoảng chợt thức nghe mơ hồ văng vẳng có tiếng sài kíu tru lê thê như từ lòng đất dấy lên, khiến cảm giác Võ càng mang mang như đang sống tại
miền xa xăm khuất tịch hẳn cuộc sống dương trần…

Qua mấy bữa thuốc thang ăn uống đều, Võ thấy khỏe hẳn, bèn đến ra cửa, nhưng cửa đóng kín.

Một sáng, vừa tỉnh giấc, đã thấy gái hầu bưng đồ điểm tâm vào,
Võ đang nóng lòng, thì nàng chúa Pi A Ya sịch tới, đẹp lộng lẫy trong
lớp xiêm y thổ thái, cười bảo:

-Bữa nay, tiên sinh bình phục hẳn, có thể ra khỏi cảnh tù giam lỏng này. Lòng mừng, chàng cũng đùa:

-Ôi! Nhà tù này, được nằm giường thất bảo, ăn ngon, mỗ có thể ở tù suốt đời.

Cả hai cùng cười, cô gái cũng vui mừng chàng trai khỏi bệnh
không kém. Nàng đi trước đẩy cửa động đưa Võ vào. Lúc đó mới rõ động phủ này ngang lưng chừng núi, bốn bề đầy kỳ hoa dị thảo, đứng cửa động có
thể nhìn bao quát cả một vùng sơn lâm cẩm tú, thung lũng trùng trùng,
nhà sàn thổ dân nằm san sát mấy cánh thung đồi bát ngát, riêng khu động
phủ này tọa lạc khắp mấy dải núi đá quanh co liên hoàn tuyệt đẹp, mây
trắng bay ngang coi không khác động tiên thường vẽ trong các tranh Tàu
thủy mặc.

Nàng nữ chúa cùng đàn gái hầu dắt Võ đi trên một lối đá quanh co uốn khúc, chạy lượn trên sườn núi, qua một vùng đầy động đá, quân hầu
nam nữ, và Hồng Cẩu Quẩy. Chó sói hung tợn đầy đàn, lố nhố khắp dưới
trên, coi như thạch cẩu, nhưng thấy bọn nàng nữ chúa, tất cả đều vẫy
đuôi, kêu nhỏ, như đón mừng rồi tránh dạt cả lên ghềnh. Thấy Võ ngạc
nhiên, cô gái Pi A Ya thỏ thẻ:

-Giống Hồng Cẩu Quẩy này cực kỳ hung tợn nhưng nếu thu phục, dạy dỗ, chúng lại là giống trung thành hết sức! Chúng cũng có tình cảm,
“ngôn ngữ”, tâm lý riêng, nếu biết bí quyết, có thể sai khiến chúng như
khiến người!

Sực nhớ lại bóng con Hồng Cẩu Quẩy to lớn đi hai chân, Võ vùng hỏi, cô gái thỏ thẻ đáp:

-Đó là con sói đầu đàn, chúa loài sói! Giống sói rất lạ, dẫu
hung dữ đến đâu, cũng phải khuất phục con đầu đàn, cũng chẳng khác một
giòng dõi đế vương vậy. Thu phục được con đầu đàn, việc thu sói dễ dàng
thêm nhiều lắm! Riêng con đầu đàn Pi A Ya này rất linh mẫn, hiểu được
tiếng người.

Vừa đi vừa nói chuyện, mới hay nàng họ Bạc tên Khao Lan, vốn
dòng tù trưởng sơn cước, nối đời làm tiểu vương lãnh chúa các sắc dân
miền núi Pi A Ya. Tổ phụ xưa thường có lệ lấy vợ Kinh, nên ngoài chữ
Hán, còn gửi con cái về Hà Nội “du học”, tù trưởng sinh được hai con gái thì góa vợ, không tục huyền nữa, sống ẩn danh giữa miền cốc thẳm,
chuyên luyện võ, nghiên cứu bí thuật rừng già, thu phục thú dữ rồi lại
thả vào rừng, vui cùng mây núi. Nàng là Bạc Khao Lan, còn người chị là
Khao Linh đi học phương xa. Dân Kinh “dưới chợ” quen gọi là Bạc, từ xưa
triều đình vẫn để quyền tự trị, đến nhà nước Đông Dương cũng theo lệ đó. Dân biên thùy, bất luận lương dân, đạo tặc, quái nhân, thổ phỉ nghe
danh “chúa tể Pi A Ya”, “chúa tể Hồng Cẩu Quẩy”, “chúa nàng”, “bà nàng

Pi A Ya” ai cũng phải nể sợ không mấy kẻ dám tự tiện xâm phạm đến miền
“tiểu giang sơn riêng biệt đầy sài kíu, hùm beo” này. Cũng vì vậy mà
nàng nữ chúa mới dẫn gái hầu đi săn ngoài cõi, không phòng bị nên suýt
chết về tay “quỷ một mắt”.

Bạc Khao Lan đã đẹp lại thông minh duyên dáng, tiếng nói như
giọng chim oanh, tuy cử chỉ tự nhiên chuyện trò cởi mở, vẫn không thiếu
nét quý tộc sơn cước đượm chất kinh kỳ, nên Võ Minh Thần cũng khuây khỏa được lòng buồn trôi dạt cô đơn.

Đi cạnh nhau, coi thật tương phản. Nàng nữ chúa Pi A Ya tươi mơn mởn như bông lan rừng thanh khiết nở bên dòng suối, còn chàng trai
phiêu bạt sắc diện lạnh như tảng băng, tuy có bộ mặt điển như Tử Đô nước Trịnh xưa. Nhác qua, tưởng kẻ ít tình cảm, nhưng người tinh chỉ nhìn
sâu ánh mắt cũng thấy ngay đó là một cái vực thẳm chứa đựng cả nỗi sầu u uẩn của một kẻ giàu
tình cảm đã phải sớm gánh nghiệt số oan khiên mất mát. Gốc nguồn thảm
thê khiến cô gái rừng xanh thấy nao lòng. Nàng hết dạ săn sóc an ủi, lại chỉ trỏ từng ngọn núi, cánh hoa, thế động, nói cho Võ biết, chàng mải
nghe tiếng oanh thỏ thẻ, ngắm cảnh sơn kỳ thủy tú, lòng nhẹ nhõm lâng
lâng tưởng mình đang lạc bước thiên thai, đi giữa bầy tiên nữ. Cảm giác
càng đậm khi chợt nghe tiếng Bạc Khao Lan thánh thót: “Đến nơi rồi!”
Chàng tuổi trẻ cùng các nàng đứng lại. Lối đá quanh co đưa chàng vòng
sang đầu núi Đông lúc nào không biết. Trên đường đã thấy hai mươi mốt
khu sơn động lạ mắt hết sức. Sườn núi uốn lượn muôn hình muôn vẻ, suốt
từ dưới lối đi lên gần ngọn, chỉ thấy mặt tiền, hồi xế ngay trước mặt,
chính giữa, chót vót trên độ cao còn hơn ba mươi bộ nữa hiện ra một tòa
thạch động đồ sộ nguy nga, cột to hai vầng, nhưng cũng chỉ thấy mặt
tiền, với mấy thước hiện nhô ra hàng chục bậc thềm lên, kỳ hoa dị thảo
mọc đầy, phong lan, ti gôn, hoa giấy… quấn quanh cột muôn màu rực rỡ,
trùm cả mái hiên giữa nền hoa lá, để lộ ra mấy cái cửa mở rộng coi như
cửa đền đài sâu thăm thẳm ăn vào ruột núi, và trong khu thạch thất, quân hầu, tỳ nữ qua lại tấp nập, từng bầy Hồng Cẩu Quẩy đứng ngồi lố nhố lẫn với những con chó săn to lớn đủ giòng, giống béc giê, giống chó lai sói cực kỳ tinh khôn.

Khi thấy bóng Bạc Khao Lan cùng đàn gái hầu đưa Võ Minh Thần
tới, các con sơn cẩu chạy ra xồng xộc đông đàn hít chân, vẫy đuôi, kêu
hi hí, có con đeo cả nhạc đồng, lắc, chừng những con đầu đàn, trưởng
toán.

Võ Minh Thần từ nhỏ được theo tôn sư phiêu du rất nhiều nơi,
từng ở thạch động cao sơn cùng cốc nhiều năm, nhưng hầu hết chỉ là những hang động thiên nhiên có cửa tò vò ngoài thế thôi, bình sinh chưa thấy
nơi nào, thạch động lại được kiến tạo thành thạch thất đồ sộ nguy nga
thâm nghiêm kỳ lạ như chốn này, nên Võ Minh Thần không nén được ngạc
nhiên buột miệng khen:

-Lạ dữ chưa! Không ngờ miền núi rừng biên khu, ngay trên trần
thế, lại có một vùng động thất kỳ diệu thế này! Nếu không có cô nương đi bên, ngu mỗ có thể tưởng mình lạc đến vùng động tiên thượng giới nào.
Bàn tay hóa công hay thợ khéo đẽo tạo nên khu sơn động này… cô nương?

Nàng nữ chúa Pi A Ya vuốt đầu mấy con sơn cẩu, thỏ thẻ bảo:

-Vùng núi này xưa chỉ là vùng có nhiều hang động, tổ phụ thiếp
xưa cólần đi thăm thú Pi A Ya, tình cờ đến vùng này, đứng dưới thấy một
bầy phượng hoàng làm tổ trên núi, mới cùng gia tướng leo lên kiếm ổ
phượng hoàng mới khám phá ra tòa thạch động kia. Điều lạ là tòa động đã
có bàn tay người sửa sang, đẽo gọt rất khéo, tổ phụ thiếp tìm thấy di
tích trên vách, thấy nhiều hàng chữ khắc, không phải Hán tự, mà toàn chữ “tượng hình” hình như từ mãi
thời Hùng Vương, đây là nơi tu luyện của một bậc đạo sĩ thì phải. Tổ phụ thiếp thấy nơi nhã đẹp, bèn nhân đó đục núi, mở mang thêm, mỗi đời một
tí, khi thiếp ra đời, khu thạch thất đã có sẵn rồi.

Nói đoạn, Khao Lan đưa Võ Minh Thần lên thẳng tòa thạch thất
chính. Vượt hết các bậc thềm, đến cửa tiền, thấy thạch thất càng thâm
nghiêm, u nhã. Quân hầu đứng canh cửa rạp chào, từ trong mấy nàng sơn nữ thoăn thoắt đi ra, thấy kính cẩn chào tránh sang bên, nói như reo:

-Xin rước chúa nàng đưa công tử vào ngay, lệnh chủ động đang đợi!

Người vừa sai chúng em đi rước.

Khao Lan hỏi:

-Gia gia đang làm gì?

-Bẩm, “người” mới xuống rừng hái hoa, hiện đang uống trà với ông Quản! Cô gái đưa Võ vào, tỳ nữ theo như bầy chim. Động thạch thất kiến
trúc không khác cung vua điện chúa với những cây cột đá to mấy vầng bày
biện trang hoàng rất nhã đạm, ngoài các đồ vật “sơn cước bộ tộc” thạch
thất còn phảng phất nét cổ kính kinh kỳ với những bức hoành phi, câu
đối, thống chóe, đồ bát bửu… Qua mấy gian động tiền, Khao Lan dẫn
khách sang phía tả, vượt lên hai chục bực đá nữa, đến khu “động trên”
rất tĩnh mịch ấm cúng, vào thẳng một gian phòng trang nghiêm bày biện
trang hoàng theo lối tư phòng tư thất các nhà quan Nam Triều pha tù
trưởng miền núi, với những tủ kính sập gụ, bàn ghế căng lót da hổ, cung tên súng ống giáo mác treo đầy vách. Mới tới
cửa, đưa tay vén rèm, đã nghe trong có tiếng vọng ra:

-Khao Lan đó ư? Cứ đưa công tử vào đây! Chàng trai theo nàng nhẹ gót bước vào, đã thấy Quản Kình chờ sẵn trong. Trên sập, vị chúa tể Pi A Ya ngồi giơ tay vẫy. Thoạt trông, chàng trai họ Võ tưởng mình bước vào
tư thất một vị quan Nam Triều đương thời, gặp một viên tuần phủ, thượng
thư dưới xuôi. Vì người ngồi trên sập gụ chân quỳ trạc hơn năm mươi,
chít khăn nhiễu Tam Giang, mặc áo gấm phủ sa tây, quần trắng ống sớ,
dáng nho nhã, tướng người tầm thước coi có vẻ con nhà văn hơn con nhà
võ. Nhưng nhìn kỹ khuôn mặt, đoán ngay được là tay bản lĩnh cao, râu ba
chòm hoa râm, hai con mắt sáng như điện, đầy uy võ, bộc lộ một tâm hồn
phóng đạt chính trực! Đoán chính chúa tể

Pi A Ya, chàng trai không khỏi ngạc nhiên, đứng khựng lại chút,
vì chàng cứ tưởng một vị tù trưởng sơn cước lại khét danh chúa tể Hồng
Cẩu Quẩy tất phải dữ tợn, ít nhất cũng đầy vẻ “rừng rú”, “khác người”,
không thể ngờ “chúa các sắc dân Mán, Thổ”, “chúa quỷ đỏ mắt” lại giống
hệt một trang tao nhân mặc khách dưới Kinh, sắc phục cũng theo lối quan
chức đường xuôi đương thời.

Ngay lúc đó, Quản Kình đứng sổ dậy, chạy ra đón. Võ Minh Thần
vốn người trung nghĩa, nhớ ngay đến ơn cứu tử, vùng chắp tay kính cẩn
nói vọng vào:

-Kẻ hậu sinh ngu muội quá đau thù cốt nhục lỡ phạm đến đàn gia
súc của bậc tiền bối, tội thật đáng chết. Còn được trị thương cứu mạng,
ân trọng này biết lấy chi báo đáp? Dám xin tiền bối nhận cho chút tâm
thành của kẻ hậu sinh ngu xuẩn này!

Dứt lời, Võ sụp luôn xuống định lạy, nào dè lão chúa tể Pi A Ya
đã giơ tay ra phẩy phẩy ngược lên ra hiệu cả, Võ bị một luồng điện kình
nâng thốc lên, không sụp xuống được, lão chúa Pi A Ya vọt người ra nắm
tay chàng trai kéo lại bên sập từ tốn bảo:

-Công tử bất tất phải nghĩ ngợi chi chuyện đó! Cả gia đình họ
Bạc lão cùng các bộ tộc miền này mang ơn công tử chứ! Ngày nọ trên biên
công tử cứu Khao Lan thoát tay “quỷ một mắt” cha con lão vẫn ân hận chưa được công tử quá bộ đến chơi, nay tình cờ lại được tái ngộ là quý lắm
rồi! Xin chớ coi chuyện trị thương làm trọng! Mệnh công tử còn vững,
trời chưa dứt, nếu không có kẻ này tất có người khác chữa trị, có đáng
chi đâu! Nào! Mời công tử ngồi xuống đây dùng chén trà, ta đàm đạo!

Võ Minh Thần nhớ lại lúc tàn sát đám Hồng Cẩu Quẩy, lòng vẫn áy
náy không yên, cố ngỏ lời tạ lỗi. Bạc Khao Lan đứng bên sập phải cười
bảo:

-“Ơn người nên nhớ, ơn mình nên quên”. Nay công tử cứu thiếp
công tử không muốn nhớ đến ơn mình, sao lại nỡ bắt nhà họ Bạc thiếp phải nhớ đến chuyện vết thương của công tử chính Lãn Ông chữa trị, nào phải
họ Bạc?

Lúc đó Võ Minh Thần mới không dám nhắc đến nữa. Bạc Khao Lan sửa soạn ấm chén mới, vị chúa tể Pi A Ya tự tay pha trà mời Võ cùng Quản
Kình, nhưng Kình vẫn thủ lễ, chỉ ngồi bên tràng kỷ gần đấy. Bốn người
vừa uống trà vừa nói chuyện. Cả hai cha con chúa Pi A Ya đều cởi mở,
chân thành, phóng đạt, nên chỉ mấy phút, Võ Minh Thần đã thấy ấm lòng
như ngồi với người thân thuộc lâu năm, không phải giữ ý. Chợt chúa Pi A
Ya bảo Võ cho coi lại vết thương, bảo tại công tử đã vận sức quá khi thọ thương, nay cần tĩnh dưỡng cho chân khí hoàn nguyên.

Cả hai cha con Khao Lan cùng Quản Kình đều có vẻ mừng rỡ như
chính mấy người khỏi bệnh hiểm nghèo. Lão chúa Pi A Ya vuốt chòm râu hoa râm, cười khà, bỗng hơi nhíu chân mày, đăm đăm ngó Võ:

-Phải vết thương do Giao Long chúa hồ Ba Bể gây nên? Chú Quản đây có cho lão biết…!

Võ gật đầu:

-Vâng đúng thế! Nhát đầu nó thả búa chém thủng mấy lần giáp nên
nhát vuốt kình sau mới vào da thịt! Nếu không có giáp chắc nguy mạng
rồi!

Chúa Pi A Ya nghe Võ nói dứt, cầm chén trà trầm ngâm uống cạn, chợt lão bảo:

-Có lẽ vì bận, nên công tử chưa xem lại kỹ càng đó thôi. Nếu
không trúng vết búa chém, vuốt con tinh đó cũng có thể xuyên qua áo giáp vào tới da thịt được. Lãn Ông không những là bực thần y, còn là bực
thượng võ nữa. Chính ông ta cũng lấy làm lạ khi xem vết thương, bắt
mạch! Không ra đòn âm, cũng chẳng rõ đòn trần, âm trần lẫn lộn, khó hiểu hết sức!

Võ Minh Thần nhớ lại chuyện đấu chiến với Giao Long chúa hồ Ba
Bể, càng ngạc nhiên thêm về lời luận của mấy ông già thâm sơn. Bèn lễ
phép nói:

-Chính kẻ hậu sinh này khi tử chiến với Giao Long chúa cũng lấy
làm lạ về điều đó. Cứ xem cung cách ẩn hiện, hình thù rõ ràng là một
giống linh vật quái đản thành tinh quỷ xảo hơn người, nhưng về đòn nó
đánh ra, rõ ràng là một “nhân vật” rất giàu điện công, có vẻ thông hiểu
cả về thôi miên thuật. Thành ra đến ngày nay kẻ hậu sinh cũng chẳng dám
quả quyết nó là giống chi nữa! Riêng về đòn trảo kình của nó cũng chẳng
rõ đòn âm, trần! Có điều nếu không bị nhát búa thủng giáp, chắc trảo
kình không phạm nổi!

Chúa Pi A Ya nhìn Bạc Khao Lan, hai cha con cùng lắc đầu, ông già hất hàm bảo con gái:

-Khiên giáp của công tử vẫn còn để trong nghiên cứu thử, con hãy đem ra đây cho công tử coi lại!

Khao Lan “dạ” thoăn thoắt đi sang buồng bên, qua một khung cửa
thông có bức mành trúc. Không đầy phút, nàng đã mang khiên giáp ra. Chúa Pi A Ya đỡ lấy trải xuống sập, trỏ vết búa chém còn thủng sâu khá dài,
nói gọn:

-Công tử có thấy điều chi khác lại không? Thầy trò Võ Minh Thần
cũng ngó chòng chọc, bỗng cả hai cùng nhìn nhau, ngạc nhiên. Vì mãi lúc
này họ mới để ý phát giác ngoài vết búa chém thủng ra, còn thấy tròn xoe không khác vết dùi khoan xuyên qua ngay bên mép vệt búa chém có chỗ bị
lõm cong, nhưng chỉ vài vết trúng thủng vào thẳng da thịt còn nguyên
hai, ba vết dùi qua cả lần thép dày. Tuy phần nhiều đều dùi ngay chỗ mép thép bị búa chém phải, không còn trọn vẹn hình tròn, nhưng chỉ nhìn qua dấu thép bị dùi khoan, cũng thấy rõ là nếu trảo kình này
vồ trúng chỗ giáp lành, cũng vẫn thừa sức xuyên qua. Và vành khiên, ngoài những
dấu giáo đâm tên bắn xây xát, lửa nám đen, cũng có cái dấu sờn nửa mũi
dùi rất rõ.

Điều này làm thầy trò Võ kinh nghi, chợt thấy chúa Pi A Ya trỏ mặt khiên hỏi:

-Lại còn hàng lỗ thủng ngoài vành và hình bàn tay thủng lần thép bên ngoài… là dấu chi đây sao coi như dấu “át xít”?

Võ Minh Thần, Quản Kình nghe hỏi sực nhớ đến vụ ngộ Bá Âm vội lễ phép trỏ bảo:

-Những dấu lỗ chỗ vành khiên cùng bàn tay này… không phải của
Giao Long chúa mà của Đông Âm để lại! Chẳng hiểu Ma Quân Bá Diện dùng
thuật nào bắn nước cường toan thị uy? Không biết có phải “cường toan
công” chăng?

Chúa Pi A Ya gật đầu “à” nhẹ:

-Lão mỗ có nghe Đông Âm Ma Quân có ngón “cường toan bạch cốt” có thể làm địch thủ rữa nát da thịt trong phút chốc! Đó là một thủ thuật
quỷ xảo, hay là một đòn công, ma pháp? Lão mỗ chưa gặp y nên chưa khám
phá ra! Có điều hơi lạ là: trảo kình Giao Long cũng làm thủng được giáp
thép như cường toan, xem ra còn lợi hại hơn nữa! Công tử là con nhà võ
còn lạ gì, xưa nay, trảo chỉ kẻ nào đánh ra dùi thủng được xương người,
hoặc loài mộc đã là tay lợi hại phi thường rồi. Đây lại thủng cả sắt
thép, xưa nay chưa từng có. Nói về sức mạnh, tên, đạn súng tay còn chưa
thủng được khiên giáp này, sức người sao có thể chém búa thủng, đánh
trảo thủng? Nếu không phải là ma thuật, yêu pháp, đây có lẽ thuộc một
pháp môn bí thuật thất truyền nào đó!

Võ Minh Thần ngồi nhìn dấu trên khiên giáp, chợt hỏi:

-Hai thứ đòn này có liên quan không? Tiền bối là bậc trưởng thượng chắc biết nhiều về các “nhân vật” hiện nay?

Vuốt râu, chúa Pi A Ya trầm ngâm:

-Giống nhau chút, nhưng có lẽ thuộc hai loại pháp môn khác nhau! Cứ theo lời Lãn Ông thần y cho biết thì: đòn này có đặc tính làm tiêu
hủy chất kim loại! Kim loại càng tụ càng dễ bị nó công phá. Bởi thế chạm sắt thép nó khoan thủng liền, còn phạm vào mình công tử chưa táng mạng
ngay là vì cơ thể người ta do ngũ hành sinh hóa, trong người có nhiều
kim loại nhưng chúng chu lưu, hóa thổ, tán phát đi khắp người, đòn thấm
vào độc khí phải chu lưu khắp nơi hủy diệt dần dần mới xong. Một phần có lẽ tại Giao Long chúa chưa đạt tới mức cao chăng? Nhờ thế, mạng công tử mới kéo dài được đó.

Quản Kình buột miệng:

-À, vì thế chỉ có xương da con Mạc mới chữa nổi! Con Mạc thọ kim khí sinh ra, mình nó thuần kim loại tinh tây!

-Đúng thế! Theo lời Lãn Ông, chỉ có bồi dưỡng chất kim khí vào mới khỏi!

Võ Minh Thần đang bâng khuâng tưởng lại đêm tử chiến bên hồ Ba Bể bỗng giật thót mình sực nghe chúa Pi A Ya phát tiếng trầm u:

-May trời còn tựa công tử! Thần y có nói nếu không chữa kịp,
công tử sẽnguy, vì khi thịt kim loại bị hút hết, người sẽ teo quắt như
cái túi da vô cùng ghê gớm.

Câu nói của vị chúa Pi A Ya làm Võ Minh Thần nghĩ ngay đến di
hài mẹ chàng bị con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy hấp sát cũng biến thành “túi da người”, chàng trai buột miệng kêu:

-Lạ thật! Đòn huyết khí Giao Long sát hại người, sao lại giống hệt hấp sát của Tây Sắc tinh sài kíu?

Chúa Pi A Ya nhướng mày hỏi:

-Công tử thấy điều chi mới lạ chăng? Dáng nghĩ ngợi đăm chiêu, chàng trai thở dài khẽ đáp:

-Thưa!… Kẻ hậu sinh này được biết nạn nhân của con tinh chúa
“quỷ mắt đỏ” Tây Sắc Ma Vương, sau khi bị nó hấp sát, cũng biến thành
cái túi da. Có thể nào Giao Long chúa là Tây Sắc tinh sài kíu? Theo lời
Đổ Bác Thần đó là hai con quái thành tinh khác giống, đã từng tử chiến
với nhau. Giao Long chúa thua phải lặn trốn xuống sông tẩu thoát! Nhưng
sao nạn nhân bị chúng hại lại biến hình như nhau?

Chúa Pi A Ya gật đầu:

-Lão mỗ có nghe thiên hạ đồn chuyện Tây Sắc tinh chuyên hấp sát
đàn bà con gái đẹp, nhưng xưa nay chưa kẻ nào thấy xác nạn nhân, vì nó
giấu rất kín. Chỉ có một lần mười sáu, mười bảy năm trước có lần nó hấp
sát một thiếu phụ tuyệt sắc, bị viên chính giám binh Cao Bằng dẫn quân
tới vây đánh, nó phải chạy biến, mới để lại xác nạn nhân. Chính viên
chính giám binh đã tới động này, kể cho lão mỗ nghe! Lão mỗ một thời đã
tiếp khá nhiều khách xa gần, chỉ vì thiên hạ khổ vì con tinh Hồng Cẩu
Quẩy, mà lão cũng là chúa Hồng Cẩu Quẩy biên thùy!

Đang nói, chợt vị chúa Pi A Ya ngưng bặt, thoáng ngơ ngác ngó
chàng khách trẻ đang nghe bỗng sa nước mắt. Pi A Ya ngạc nhiên hỏi:

-Kìa! Sao công tử lại khóc? Lão phu có… làm công tử buồn bực điều chi chăng?

Chàng trai vội lau nước mắt, tạ lỗi, giọng buồn:

-Tiền bối! Tha thứ cho kẻ hậu sinh thất lễ… nghe tiền bối nhắc chuyện cũ, cháu chạnh niềm tưởng nhớ tới mẫu thân đã chết thảm mười bảy năm rồi. Nay cháu đã lớn khôn, mà hận cừu vẫn chưa được báo, hồn oan mẹ cháu vẫn lang thang vơ vẩn trong cõi u minh, biết ngày nào được siêu
sinh? Thiếu phụ bị con tinh sài kíu hấp sát ngày ấy, chính là mẹ cháu
đó!

Nói xong, lệ lại chảy giòng giòng, hai cha con vị chúa Pi A Ya
cũng thương người hiếu tử hết sức, ngậm ngùi mãi không thôi. Mươi khắc,
chúa núi bảo:

-Con tinh chúa thuồng luồng cùng con tinh chúa sài kíu là một
hay hai quái vật, điều này chưa dám quyết. Nhưng cứ theo lời thần y Lãn
Ông, thì cả hai cùng “tu luyện” một môn quỷ pháp võ thuật, ma thuật, hay cùng chung độc khí loại tinh chi đó. Nhưng chuyện con tinh sói là Tây
Sắc Ma Vương là đúng rồi! Có điều hơi lạ là: Cả mấy con quái vật cùng lũ quái nhân trên đời đều đi sục tìm “vòng điểm huyết”, còn gọi “vòng càn
khôn”, nhất Tây Sắc tinh mười bảy năm trước nó sục sạo rất dữ nhưng lâu
nay tự nhiên mất tung tích, chỉ còn nghe nói có con thuồng luồng cùng lũ quái nhân.

Bốn người cùng im lặng, suy nghĩ. Võ Minh Thần vẫn chỉ thấy sa mù dày đặc, chàng trai sực hỏi:

-Thưa… tiền bối chắc rõ điều bí ẩn về “vòng càn khôn”? Chúa Pi A Ya lắc đầu:

-Lão phu cũng chỉ biết qua là “vòng điểm huyết” đó từ thời dã
sử, khuyết sử lưu truyền lại, mỗi cái có liên quan tới một điều hệ trọng chi đó, nếu ghép cả ba cái lại, sẽ tìm được chìa khóa mở cửa vào bộ máy huyền vi của tạo hóa thì phải. Theo lời một thầy phù thủy giang hồ mười năm trước có cho lão phu biết, thì bộ ba cái “vòng điểm huyết” là một
di vật của một đạo sĩ để lại sau khi vị pháp sư tiền sử này đắc đạo, đi
vào cõi viên mãn! Di vật này chứng tỏ là một pháp bảo hay một bảo vật
chứa bí pháp, chỉ biết sơ là bộ di vật đó hình như có liên quan đến điều bí mật về chuyện sinh tử của muôn loài muôn vật. Cho nên thiên hạ bất
kể giống gì, có nhiều kẻ biết thấu đáo hơn, có lẽ chỉ có mấy con tinh!

Võ Minh Thần nghe chúa núi Pi A Ya nói, trí tò mò bị kích thích hết sức vụt nghĩ:

-Cứ như lời chủ động đây, “vòng điểm huyết” được coi là vật báu
trên đời, chẳng rõ sử dụng ra sao, nhưng trong lúc lâm nguy mẹ ta lại
đeo cho ta tất không thể là một “bảo bối”! Muốn rõ cội nguồn, chỉ có gặp Tây Sắc tinh, vì nó theo đuổi rình bắt mẹ ta từ lâu, trước hôm gặp “người”. Cái vòng ta giữ vẫn là mồi nhử con quái rất đắc dụng, điều khó nhất là tài nghệ hiện
lợi hại đến mức nào, ta mới liệu đường báo thù được!

Đang định hỏi thử chủ động, bỗng Bạc Khao Lan vùng cao giọng thánh thót:

-Theo ý thiếp, ba cái vòng có thể có hai gốc tích! Một là của
bậc tiền nhân nào đó chế ra, lưu lại một bí pháp nào chăng? Vị này sinh
vào thời khuyết sử, tiền sử chẳng hạn. Hai là của người không thuộc
giống nhân loại ngày nay, mà là di vật bảo vật của giống người trước nạn hồng thủy! Như vậy người ta đã khám phá ra xưa kia giống người tiền
hồng thủy đã đạt được một nền văn minh rất cao, khác hẳn nền văn minh
ngày nay! Trong khi nền văn minh hiện nay căn cứ vào trí khôn điều dụng
các thứ kim loại nhiện liệu, điện trời, để chế biến ra máy móc lên trời
xuống biển, ngàn dặm phát âm… thì nền văn minh tiền hồng thủy lại là
nền văn minh điều dụng ngũ hành trong mình và đã tới độ siêu phàm. Rồi
thình lình, trận đại hồng thủy dâng lên, phong ba ầm ầm, nước lụt trời
gọi là đời “tận thế”. Cả nhân loại với nền văn minh bị tiêu diệt trong
phút chốc, luật thông thường cũng đảo lộn, thế giới thành cõi hồng hoang như trong cơn ác mộng. Nhưng có người sống sót, có di vật sót lại, như
bộ ba cái vòng ngọc kia chẳng hạn. Hoặc kẻ sống sót đã chế ra lưu lại
hậu thế, hoặc di vật, di pháp còn sót lại, ba cái vòng kia có thể thuộc
về nền văn minh tiền hồng thủy chăng?

Võ Minh Thần khi theo tôn sư thường được nghe kể qua nạn hồng
thủy, nay nghe Bạc Khao Lan nhắc tới, chàng trai cũng thấy có lý, bèn từ tốn hỏi:

-Như vậy cô nương có ý cho mấy cái vòng đó là một bộ di tích của người trước nạn hồng thủy chẳng hạn, một món “bảo bối”?

Nàng nữ chúa Pi A Ya hơi nhíu cặp mày liễu, vẻ suy nghĩ đắn đo, thỏ thẻ đáp:

-Cũng chưa lấy chi quyết đoán hẳn! Nhưng chắc chắn ba cái vòng
đókhông là bộ pháp bảo tối cổ, có năng lực phi thường, thì cũng là di
vật có yểm tàng bí pháp nào đó về càn khôn, vũ trụ, luật sinh tử chẳng
hạn! Vậy ba cái vòng có là một thứ pháp báu tối cổ lưu lại, cũng chẳng
lạ. Nếu không biết sử dụng, cũng khác nào ta đứng trước một “con chim
sắt” chưa hiểu, làm sao bay lên mây được? Nhưng thiếp vẫn có ý nghĩ: Bộ
vòng đó là vật bí mật yểm tàng bí thuật, hoặc trỏ nơi chôn giấu một pháp bảo siêu phàm.

Thầy trò Võ Minh Thần ngồi trầm ngâm suy nghĩ, có vẻ tán đồng lời luận của nàng nữ chúa Pi A Ya, vị chúa rừng chợt bảo:

-Chẳng những ba cái vòng yểm tàng bí pháp, lão phu còn ngờ rằng
hai con tinh sài kíu, Giao Long đã nắm được một, hai bí pháp và đang
luyện tập, như chúng ta khám phá ra trong một cái vòng nào đó, nên mới
sục tìm rất gắt cho đủ bộ ba. Cứ xem đòn đả sát, hấp sát thì biết, xưa
nay trong nghề võ, chưa thấy môn nào quái gở như thế. Rất tiếc lão phu
chưa được thấy cái vòng.

Nghe hai cha con nói, Võ chợt nghĩ:

-Nhân tâm nan trắc thật, nhưng riêng hai cha con Khao Lan đã cứu mạng ta, người đường đường chính chính, nếu ta dè dặt, thật là tệ bạc.
Vả hai người đều hiểu rộng, biết nhiều, biết đâu chẳng tìm thấy điều gì
hay trong đó?

Bèn rút luôn chiếc vòng trong mình ra trao cho chủ nhân, vòng
này vẫn để túi, sau lấy ra để cả vào gói di hài cùng với sợi dây chuyền
nửa đồng tiền, chàng tỉnh dậy mới lấy đem theo. Thấy vòng, hai cha con
Pi A Ya mừng hết sức, chuyền tay nhau xem xét, nhưng chỉ thấy vòng ngọc
to hơn vòng thường, loang lổ đầy vết điểm huyết trong vắt thế thôi. Sờ
kỹ coi kỹ, không qua vết rạn nứt, đúng là chiếc vòng đặc. Xem giây lát
hai cha con Bạc Khao Lan trao trả Võ Minh Thần, lắc đầu, bó tay:

-Chịu! Hay vòng giả? Chẳng thấy điểm gì khác lạ!

Võ lắc đầu:

-Không thể là vòng giả! Vì vòng này chính mẫu thân đã đeo cho ngày oan thác, bị Tây Sắc rượt bắt lấy người lấy vòng!

Chợt chúa Pi A Ya hỏi:

-Công tử định sao?

-Mang ơn tiền bối cứu mạng, giờ đã hồi phục, kẻ này tính xin phép được ra đi tìm cừu! Chẳng hay người có rõ sào huyệt Tây Sắc?

Chúa Pi A Ya nghiêm mặt:

-Lão phu chỉ biết động chính nó trên miệt Tây Bắc, thượng nguồn
Hắc Giang, nhưng cách đây đã lâu năm. Theo lão nghĩ, tìm động tinh cũng
không khó, nhưng công tử nên cẩn thận. Tây Sắc giờ còn lợi hại hơn xưa,
công tử nên rèn luyện thêm thủ thuật phòng thân! Nếu công tử không chê,
động Pi A Ya này cũng giúp được vài điều hữu ích khi công tử đối đầu Tây Sắc!

Bạc Khao Lan thấy cha ngỏ lời mời chàng khách trẻ lưu lại,
truyền bí thuật, cô gái mừng hết sức vì trong thâm tâm từ chiều ngộ nạn
miệt biên Trùng Khánh nàng chỉ ao ước có ngày đáp lại ân sâu. Nên lập
tức tươi cười thánh thót nói thêm:

-Phải đó! Công tử nên tĩnh dưỡng cho mạnh hẳn, sẽ lên đường
không muộn! Vùng sơn động này khí hậu thuận hòa, còn hơn mạn Trùng
Khánh, Tĩnh

Túc, Cha Pa, Tam Đảo! Xuân hạ thu đông bốn mùa đều có hoa nở,
dưỡng bệnh, luyện võ xong, công tử tha hồ xem hoa! Vả Tây Sắc Ma Vương
vô cùng lợi hại, ẩn hiện khôn lường, bên mình lại có hàng đàn sài kíu dữ cùng quân mạnh, công tử tài võ dẫu cao, nhưng võ giỏi cũng khó trị quỷ
thuật, sức ma, nếu vội, có khi nguy hiểm.

Võ Minh Thần từ này biết rõ về cái chết thảm khốc nhục nhằn của
mẹ, lòng lúc nào cũng nóng như lửa đốt, chỉ muốn gặp thù, báo oán, đi
tìm nguồn gốc. Nhưng sau cuộc chiến với Giao Long, gặp Đông Âm, chàng
trai bắt đầu hiểu rõ sức lợi hại phi phàm của quái vật quái nhân biên
thùy, lòng đầy lo ngại muốn tìm ngay đến Thanh Âm động, học thêm bí
pháp. Nay tình cờ gặp chúa tể Hồng Cẩu Quẩy muốn truyền bí thuật, chàng
mừng hết sức, tuy cũng chưa rõ thuật chi, bèn lễ phép nói luôn:

-Tây Sắc Ma Vương độc hại, lắm phép ma thuật quỷ, tài lực phi
phàm, nếu không thông dị thuật kỳ môn sao trị nổi? Tiền bối cùng cô
nương có lòng thương tưởng giúp kẻ khổ thì Võ này đâu dám từ tạ, chỉ sợ
nhọc lòng tiền bối cùng cô nương thôi!

… Từ đó, thầy trò Võ Minh Thần lưu lại động Pi A Ya. Mới hay
nơi này cách chỗ bị nạn sài kíu hai, ba chục dặm, nằm giữa thâm sơn
khuất tịch. Lãnh địa này rộng lớn, phía tây Si Công Linh thượng, các sắc dân bộ tộc Thổ, Mán, Kha, Hmông, Nhắng… quanh vùng đều thuộc quyền
tiểu vương Bạc, bản động rải rác chung quanh, đông nhất là hai sắc dân
Mán, Thổ và mỗi sắc dân bộ tộc lại có một viên tù trưởng đứng đầu. Dần
miền núi thường nặng tính bộ lạc, sắc dân nào chỉ chịu phục dòng tù
trưởng đó. Võ thấy hơi lấy làm lạ, hỏi mới biết tổ phụ nàng quy phục
được các bộ tộc Pi A Ya từ hồi dư đảng Thái Bình Thiên Quốc tràn sang,
chia các nhóm Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng Bàn Văn Nhị, chiếm cứ tung hoành, các bộ tộc Pi A Ya mới chịu tôn phục một
lãnh chúa chung lấy sức mạnh giữ núi. Riêng vùng động phủ thạch thất nằm giữa các dãy núi thành bọc quanh đường vào riêng hiểm nên không ai phạm nổi! Thầy trò Võ Minh Thần vẫn ở riêng thạch động xế phía Nam, ngày
ngày tới khu thạch thất điện của cha con chúa tể Pi A Ya học thuật. Theo lời cầu của chàng, chúa họ Bạc dạy luôn cho cả Quản Kình. Cuộc học tập
bí thuật chân truyền hết sức vất vả, khó khăn, đôi khi nguy hiểm. Nhưng
hai thầy trò Võ vốn quen khổ luyện, chịu đựng, nên vượt qua được mọi
gian khổ. Chúa động Bạc võ rất giỏi, nhưng ít khi thi triển, chỉ truyền
cho khách một vài miếng bí truyền, còn dốc thì giờ vào dạy các pháp môn khác. Thoạt đầu, hai cha con vị chúa Hồng Cẩu Quẩy thay phiên nhau
truyền bí thuật thu phục các giống sơn cẩu. Về tâm lý, thói quen, ngôn
ngữ, mỗi giống cũng có điểm khác nhau, phương pháp thu phục cực tinh vi, nhưng học cũng dễ, chỉ khó nhất học về “ngôn ngữ” của chúng. Ngôn ngữ
sơn cẩu, chó nuôi cũng nghèo nàn, nhưng học nghe được, hiểu được đã khó, tập “nói” tiếng chó, càng khó nữa. Xưa nay nghe chỉ tưởng nó chỉ biết
mấy tiếng tru, hộc, hí, ăng ẳng, gâu gâu, rống, gừ… phát lộ một vài
trạng thái vui buồn giận dữ vậy thôi, nào dè khi được họ Bạc phân tách,
giảng dạy mới hay tiếng chó không giản dị thô sơ đến thế. Những tiếng
tru hú, rống gừ chính là “ngôn ngữ” với những âm thanh khác nhau, khá
phong phú, không phải đơn thuần. Chẳng hạn, con sài kíu gọi nhau, tiếng
tru “quăng” chậm, kéo dài lê thê, cuối cùng là bình thanh, khi nó gọi
đồng loại đến cùng rượt vồ một con mồi không nguy hiểm như con nai, con
hươu, thì tiếng “quăng” ngắn hơn, về cuối tràng bình thanh, khi rủ nhau
tấn công một con cọp, một đám người, thì tiếng “quăng” ngắn, nhọn, đệm
tiếng “gừ”… cũng như con cọp, khi nghe tiếng nó gầm chậm là nó ngáp
ruồi “cà uôm”, bị thương, nó rống từng hồi mấy tiếng cộc, còn khi nghe
nó phát tiếng “bép, bép” êm mà chắc, chính là lúc nó đang đói bụng, đi
sục kiếm mồi trong đêm rừng!

Cha con chúa Bạc dẫn thầy trò Võ xuống rừng, giảng dạy, đem theo cả từng bầy sài kíu, chó rừng để thực tập. Ban đầu, học về các loài
chó, đủ giống ta, Tàu, Đức, Nhật, sau mới tới chó rừng, các giống sơn
cẩu. Học khiến chó đồng xong, mới tìm sài kíu hoang thực tập thu phục.
Khó nhất giống Hồng Cẩu Quẩy, vì giống này hung tợn, bất trị nhất. Nhờ
thông minh, nhanh nhẹn, lại giàu điện lực thôi miên, Võ Minh Thần học
chưa hết tuần trăng đã có thể phát âm bắt chước hệt tiếng sài lang. Quản Kình tuy học chậm hơn chủ nhưng cũng khá thạo nghề. Thu phục một vài
con xong, mới đến thu phục hàng đàn. Tròn một tháng, Võ Minh Thần đã có
thể trong nửa phút, thục bàn tay vào mõm một con “quỷ mắt đỏ” hung tợn
nhất! Nhờ cha con chúa Bạc dạy đủ bí quyết bí thuật chài ngải, luyện “ma xó”, vẽ bùa… Chúa Pi A Ya cùng con gái dạy, lại triệu thêm mấy thầy
mo, mụ ké thay phiên tới động truyền thuật cho chàng khách trẻ.

Trên sơn cước con gái các tù trưởng vẫn có lệ đi học làm “then”, nhiều dòng tù trưởng kiêm pháp sư rừng cũng cho con trai học thuật về
tuân lệnh chúa tể, các thầy mo, mụ ké Pi A Ya dạy thầy trò Võ tận tình.
Võ Minh Thần vốn người sẵn chân khí oai lực, học ma thuật càng mau thành công.

Bí thuật pháp sư rừng cũng vô biên như võ. Một khoảng thời gian
mười ngày tuy chưa giúp Võ thành một pháp sư tài, nhưng cũng học được
những điều căn bản để có thể luyện một mình sau này.

Ngoài những giờ luyện tập bí mật rừng sâu, Võ Minh Thần thường
được nàng nữ chúa Pi A Ya dẫn đi chơi xem phong cảnh hoặc săn bắn, thăm
các động Thổ, Mán quanh miền, trong cử chỉ tâm hồn hai người xem có vẻ
đắc ý.

Nhờ cảnh Thổ đẹp, lòng ưu ái của người động Pi A Ya, nhất nàng
nữ chúa Bạc Khao Lan, chàng tuổi trẻ sớm mồ côi, cô độc cũng khuây khỏa
lòng sầu đau cô độc, có lúc đã cất tiếng cười vang, linh hồn đỡ khổ, tâm trí cũng nhờ đó minh mẫn thêm lên.

Ngày kia, thầy trò Võ Minh Thần tới khu thạch động, được biết
hai cha con chúa động Pi A Ya có việc đi đâu đó chưa về. Đám gái hầu mời khách vào ngồi uống trà đợi. Lúc này trời đã sang tiết đông, khí hậu
sơn lâm lạnh lẽo, thạch thất đã có lò sưởi, hai thầy trò ngồi gây lửa
thêm lòng lòng ấm áp chuyện trò tới chín giờ sáng vẫn chưa thấy cha con
chủ động về.

Ngồi uống trà mãi cũng buồn, Võ Minh Thần bèn đứng lên, lững
thững ra ngoài cửa ngắm cảnh giây phút lại quay vào, xem quanh thạch
thất. Nguyên từ khi tới đây, thường lần nào cũng gặp ngay Bạc Khao Lan
nên Võ cũng chẳng có dịp nào đi xem tường tận, ngoại trừ một lần được
nàng dẫn quanh một vòng. Lần này tiện dịp nhàn rỗi, chàng mới được quan
sát tỉ mỉ hơn. Thạch động quả là một kỳ công kiến tạo phi thường.

Theo lời Khao Lan, hang động thiên nhiên này xưa có một vị đạo
sĩ nào đó ở ẩn chỉ rộng bằng một phần bảy hiện nay. Giờ hang động đã
được mở rộng, sâu thêm, thành một căn động thất có nhiều buồng, vách,
cửa, nhiều chỗ được chạm khắc rất tinh vi, đến nắp hang đều được che
bằng kính pha lê, nên hang động rực lên một thứ ánh sáng huyền ảo không
khác ánh sang trong các hang động thần kỳ. Trên trần lại có những lỗ
thông hơi ăn lên sườn núi, nên không khí vẫn dễ thở, nhẹ lâng.

Võ Minh Thần đi quanh xem xét một hồi, rồi dừng lại phía ngoài
quan sát di tích của đạo sĩ ẩn xưa. Cách cửa vào độ hai mươi thước là
khu đạo sĩ thường nằm ngồi, còn nguyên một tấm thạch bàn chế thành một
cái giường đá, trên có thạch nhũ rũ xuống coi rất đẹp.

Ngay sát giường, vách còn có những lỗ lủng như những ngăn kéo,
có lẽ đạo sĩ dùng để các đồ lặt vặt. Đặc biệt lỗ ngăn nhẵn thín như mài, đủ mọi hình thể lục lăng, bát giác, tam giác, tứ giác… Và quanh khu
giường đá, có rất nhiều nét vẽ kỳ lạ, chi chít vách đá, nét ngang nét
dọc, nét vòng cung, đủ kiểu, kèm theo những hình vẽ rất đơn sơ nhưng hết sức linh hoạt, tuy thời gian đã phủ lên mọt lớp bụi xám rêu phong, nét
hình vẫn còn rõ vì khắc sâu vào đá. Theo lời Khao Lan, người họ Bạc muốn để nguyên di tích nên không cho lau chùi sửa sang khu vực này. Võ Minh
Thần bước dọc bên vách, ngắm từng nét hình một, thấy có đủ mọi hình thú, điểu, cây cối, mây mưa lẫn lộn. Khao Lan bảo đây là chữ “tượng hình” từ vạn cổ lưu lại, chắc cũng chỉ là
phỏng đoán thôi! Vì đã đọc được đâu? Người viết những hàng lưu bút này
là bực đạo võ thượng thừa đây, nét đi cực kỳ linh hoạt đúng nét không
phải đục, hẳn đạo sĩ đã dùng điện công thần lực viết lia lịa lên vách.

Võ Minh Thần khi theo tôn sư đã từng được giảng về thứ chữ tượng hình thời cổ. Tôn sư chàng là bậc thông kim bác cổ, biết rất nhiều thứ, kể cả văn học, nên giảng rất kỹ, từ phép hình dung hình tượng chế biến
ra chữ viết này trước khi Hán tự thành. Nhưng đem so sánh với chữ tượng
hình này, thấy khác hẳn… Chàng trai quan sát rất lâu, cũng chẳng hiểu
gì cả.

-Nét hình này khó hiểu thật! Hay là một bí kíp võ công? Bí mật
vũ trụ? Chẳng rõ từ đời nào! Thời cựu thạch khí hay tân thạch khí? Hay
lại là chữ tượng hình của loài người có trước đại nạn hồng thủy?

Khao Lan nói chẳng sai, cha con nàng đã có lần dày công xem xét
cố đoán, vẫn không ra! Mình trí óc được bao nhiêu, xem kỹ chi cho nát
óc! Quản Kình cũng lân la đứng dòm, thấy tiểu chủ xem, y cũng chỉ xem
qua, kêu “chữ ma, chữ quỷ” rồi hai thầy trò lại lững thững trở về chỗ
cũ.

Uống một tuần trà nữa, vẫn chưa thấy cha con Khao Lan về. Quản
Kình nóng ruột, đứng lên, ra cửa động ngó, còn Võ Minh Thần ngồi buồn,
chợt nhớ đến cái “vòng điểm huyết” bèn lấy ra xem cho khuây. Dạo này
trời đông lạnh lẽo, đám gái hầu trong thạch động gây lửa khá nhiều, ngọn lửa bốc cao, trong đó có cả gỗ trầm, xông mùi thơm ấm dễ chịu hẳn. Võ
Minh Thần xem chán, giơ cả lên ngọn lửa soi qua soi lại, cũng chẳng thấy gì.

Chỉ là một cái vòng ngọc xanh, điểm huyết loang lổ gần hết vòng, thế thôi. Cũng không mọt vết nứt rạn.

Xem lại bỏ xuống, ngồi uống nước, uống chán, lại xem. Lòng càng
lạ lùng thấy không hiểu cái vòng quý chỗ nào mà thiên hạ sẵn sàng chém
giết nhau chiếm đoạt, đến mẹ chàng, có khi cả cha chàng nữa đã chết thảm chỉ vì giữ nó.

Vừa quan sát, gõ, nắn, vừa ngẫm nghĩ loanh quanh, chẳng may sẩy
tay đánh rớt luôn cái vòng xuống. Còn hơi may là không rớt xuống nền đá, vỡ như chơi, mà lại rớt ngay vào bếp lửa. Võ Minh Thần bật kêu lên một
tiếng, sợ vòng sẽ bị cháy, chàng trai thò luôn tay chụp. Nào dè lò sưởi
đã gây từ đêm, lúc lúc lại thêm củi nên lắm than hồng đọng dày tầng,
vòng hơi nặng rớt trúng một khúc củi chi đó, lại văng chỗ khác, chìm sâu xuống lớp than hồng, tay thọc xuống không thấy. Quản Kình nghe kêu,
chạy vội vào hỏi:

-Gì đấy cậu Hai?

-Rơi cái vòng… Chỗ này đây! Chắc văng sang bên!

Quản Kình theo tay Võ chỉ, xắn luôn tay áo, định thọc mò, Võ kêu:

-Lửa than nóng ghê gớm, chớ cho tay vào. Phải vận sức hàn, để
mặc tôi! Miệng nói, tay vận thêm sức hàn băng, thọc quơ vụt xuống nữa.
Quản Kình nghe chủ nói cũng lập tức vận sức lạnh, lại xé thêm mảnh vải
quấn bao tay thọc xuống mò.

Nhưng vòng văng rớt chìm khá sâu dưới lớp than tro, hai thầy trò mò quơ năm sáu cái vẫn không thấy. Quản Kình mím môi dúi sâu thêm, bỗng kêu lên:

-Đây rồi! Kêu dứt, tay đã nắm được cái vòng lôi lên đặt xuống
sập. Nhờ có sức hàn băng, tay hai thầy trò không bị thui, nhưng cũng
nóng rát, vải bọc tay Kình cháy khét mù, tháo ném đi tay muốn phỏng. Nhưng sợ hỏng vòng, Kình cầm
ấm nước toan dội vào, Võ ngăn lại:

-Cứ để nó nguội dần, không sao! Ngọc này chịu nóng hơn đá nhiều! Tay chú có sao không? Vừa hỏi, Võ vừa nắm lấy tay Kình truyền thêm sức
lạnh, Kình cười: “Không sao, chỉ rát chút thôi”, nhưng da tay đã đỏ ran
rõ ràng bị phỏng nặng.

May sao, ngay khi đó, có hai, ba gái hầu, chạy vào thấy thế, một nàng kêu:

-Động có thuốc phỏng hay lắm! Để chúng em đi lấy! Dứt lời, chạy ù vào trong, thoắt đã mang ra một lọ thuốc nước, bôi cho Quản Kình, Võ
Minh Thần quả nhiên thần hiệu, bôi đến đâu mát đến đấy, nháy mắt đã hết
nóng rát. Hai thầy trò cảm ơn đám gái động hết lời. Võ Minh Thần sợ hỏng vòng, thò tay cầm lấy xem thử. Vì bếp lửa nóng hết sức, vòng tay chỉ
rớt xuống ít giây, cũng nóng như nung, cầm vào, vẫn còn nóng ran, phải
vận sức băng cho đỡ nóng. Lúc đó, mới hay ngọc tốt lạ thường, không một
sợi tro nào phạm nổi, tuy còn nóng, nhưng vẫn như thường. Soi mãi không
thấy sao cả, Võ toan cất đi, bỗng một cơn gió lùa thạch động, bếp lửa
bùng lên rực rỡ. Võ Minh Thần chợt chú ý thấy các vệt điểm huyết rõ ràng đậm hơn trước, chàng trai vội soi sát ngọn lửa, bỗng nhận ra có điểm khác thường, vùng kêu lên tiếng “à” sửng sốt.

Ngạc nhiên, Quản Kình nhìn chủ vùng hỏi:

-Chuyện gì đấy cậu hai?

Võ Minh Thần vẫn mải soi vòng trước ngọn lửa, miệng kêu “lạ chưa này” rồi soi ngang, dọc mãi mới dừng, trỏ bảo Kình:

-Chú coi đây này… thấy lạ chưa? Sao lại có chuyện trùng hợp kỳ dị thế này?

Quản Kình vẫn chưa hiểu, vội bước lại bên chủ trố mắt dòm theo
ngón tay chủ trỏ, nghiêng ngó khá lâu, bỗng bật kêu, ngạc nhiên hết sức:

-À tôi thấy rồi! Lạ dữ! Các vết điểm huyết loang lổ hình như…
coi khác mọi khi! À lạ thật! Coi như mới có nhiều vết nào mới nổi lên!

Chàng trai họ Võ soi sát vào ngọn lửa, tay trỏ trên mặt ngọc, giọng vẫn đầy sửng sốt:

-Đúng đó! Trong khoảng điểm huyết loang lổ vừa có nhiều hình vết nổi lên đậm hơn, thoạt nhìn tưởng những đường vân ngọc, nhưng nhìn thật kỹ, chú ý vào, để các khoảng điểm mờ đi, sẽ thấy rõ các nét ngang dọc,
vuông tròn… giống hệt nét vẽ trên vách của đạo sĩ thời khuyết sử hồng
hoang để lại kia! Coi đây! Chú đã nhận rõ chứ? Đây! Phải đúng cái đầu
chim, còn đúng hình người vuông như cái bánh chưng?

Quản Kình reo lên:

-Thấy rõ rồi, cậu hai! Để tôi xem lại!

Dứt lời Quản Kình chạy vụt sang chiếc giường đá chỗ đạo sĩ tiền nhân khuyết sử, hay tiền hồng thủy chi đó vẫn nằm, ngồi nghển cổ nhìn vách đá giây phút đoạn nhìn quay lại, nói lớn:

-Đúng rồi, cậu hai! Hình vân trên vòng giống hệt hình vẽ trên vách đá! Võ Minh Thần vừa quan sát vừa lẩm bẩm:

-Không lẽ đường vân ngọc đá thiên nhiên lại trùng hợp với hình
người vẽ. Hình trên vách là một loại chữ “tượng hình” thời khuyết sử cựu thạch khí, hay từ đời hồng thủy trận chưa rõ, nhưng cũng chẳng hiểu
hình trên vách đá phỏng theo hình vân ngọc thiên nhiên, hay chính vân
này chỉ là một loại chữ tượng hình yểm tàng điều bí mật về càn khôn vũ
trụ.

Quản Kình bình sinh cũng chưa biết về chữ tượng hình thế nào nhưng đầu óc giản dị, nói luôn:

-Cậu hai à! Hai thứ hình giống nhau, chắc cùng một loại đây! Chàng trai gật đầu vẻ suy nghĩ:

-Tôi cũng nghĩ thế! Nhưng có điều hơi lạ là: nếu hai loại hình
này đều một thứ chữ tượng hình do người xưa lưu lại, thì người chủ cái
vòng ngọc này, làm cách nào để viết vào nổi, vì chú coi hình nét đỏ này ăn sâu trong
ruột ngọc, sâu hơn cả dấu loang điểm huyết mà. Quản Kình sực nhớ ngày
nào, hồi đóng đội tại Hà Nội, đã có một lần chú ta được chứng kiến một
đám đánh nhau to vì bắt vạ một cái vòng ngọc.

Nguyên có một bà nhà giàu rất thích vòng ngọc thạch xanh, có một người chủ kim hoàn bán cho bà ta một chiếc vòng ngọc xanh đậm bí đao
với một món tiền khá lớn. Bà này đeo, ít lâu sau vòng xanh cứ nhạt dần
rồi trắng toát thành cái vòng đá trắng. Bèn đến bắt vạ người bán, thành
đánh nhau kiện cáo lôi thôi. Sau Quản Kình được biết đó là cái vòng
nhuộm.

Bèn bảo Võ Minh Thần:

-Bọn kim hoàn lắm người ma mãnh vẫn nhuộm vòng trắng ra xanh,
vậy cái vòng này, chủ nhân nó tất là bậc phi thường, sao lại không biết
cách nào viết vào ruột đá, bằng một bí pháp nào đó. Theo thiên hạ đồn
đại, bộ vòng này chứa đựng bí mật càn khôn, như luật sinh tử chẳng hạn,
tất chủ nó phải là bậc thần tiên quán thế, việc lưu chữ vào ngọc đá cũng chẳng lấy gì làm lạ.

Võ Minh Thần cũng cho lời Quản Kình có lý. Hai thầy trò châu đầu soi xét hình trong vòng, mãi cũng chẳng đoán được điều chi khác lạ,
nhưng càng xem càng thấy rõ hình nét bên trong thần tình, vì cái vòng
đúng liền, đẽo gọt ra.

Đến khi cái vòng nguội hẳn, thì hình nét kì dị trong ruột bỗng
mờ đi rồi biến hẳn, và những khoang điểm huyết lại nổi lên đậm như cũ.
Khám phá ra một điều bí ẩn rồi! Không ngờ xảy tay, chịu phỏng mò vòng
không thấy ngay mà lại có điều hay!

Thế mới biết xưa nay chuyện thành bại sống chết nhục vinh nhiều
khi chỉ do một chuyện tình cờ nhỏ nhoi không ngờ nổi! Cái vòng này cứ
nung nóng, là hình trong ruột nổi lên, nguội lại biến mất, những điểm
huyết này càng nguội càng nổi đậm, càng nóng càng mờ đi. Nếu vậy có lẽ
những vết điểm huyết này cũng chẳng phải tự nhiên mà có, chỉ là vết
nhuộm hấp gì đó thôi!

Hai thầy trò bàn nhau, vừa toan nung vòng coi lại lần thứ hai bỗng cô gái hầu vào báo: “Chúa Pi A Ya đã về!”

Hai thầy trò trông ra, nghe có tiếng sài kíu tru vang động bay
vun vút dưới thung lũng lên, rồi nháy mắt đã thấy bóng hai cha con vị
chúa tể sơn lâm hiện ngoài cửa động thất.

Hai cha con đi vụt vào, thấy hai thầy trò Võ Minh Thần ngồi ngay gian khách điện, Bạc Khao Lan cất giọng thánh thót hỏi luôn:

-Bữa nay công tử chờ lâu lắm không? Thiếp cùng phụ thân định về sáng sớm, không ngờ có việc bận thình lình, phải nán lại!

Chủ khách cùng thi lễ, chợt thấy Võ Minh Thần cầm vòng ngọc, Khao Lan hỏi:

-Công tử quan sát… thấy gì lạ chăng? Ngạc nhiên, chàng trai hỏi lại:

-Sao cô nương biết?

-Có gì đâu! Thiếp thấy tự nhiên công tử lại đem vòng ra, vẻ mặt coi… tươi hẳn, nên hỏi thế thôi! Trời! Tay công tử và chú Quản sao thế?

Võ từ tốn giơ tay ra:

-Bị phỏng qua loa chút! Mấy cô gái hầu đã bôi thuốc cho! Ngu mỗ
đang định thưa tiền bối cùng cô nương hay! Tình cờ bọn mỗ khám phá ra
chuyện lạ! Bèn đứng ngay bên bếp lửa kể chuyện vừa xảy ra đoạn kính cẩn
đưa vòng ngọc cho vị chúa Pi A Ya.

Hai cha con họ Bạc đều lấy làm lạ, giơ vòng qua, nhưng vết dị đã biến sạch, Võ dịu bảo:

-Cứ nung nóng, sẽ thấy liền! Khao Lan bèn rút thanh kiếm bên
sườn, xóc vòng, dúi vào đống than hồng. Mươi khắc trôi qua, lấy soi quả
nhiên đúng như lời Võ nói. Những nét trong ruột còn lờ mờ. Nàng nữ chúa
bèn dúi thêm mươi khắc vào than lửa, đem ra, cả bốn đều ngạc nhiên khôn
xiết vì tất cả những khoảng điểm huyết đã biến sạch, vòng ngọc chỉ còn
là một chiếc vòng xanh biếc, và trong ruột vòng, những đường nét kỳ dị
lúc nãy lại nổi lên thêm rõ, đậm giữa nền ngọc xanh. Vị chúa Pi A Ya không nén nổi ngạc nhiên vùng kêu lên
sửng sốt:

-À hình vẽ giống hệt chữ “tượng hình” trên vách động! Chắc có
điều bí mật phi thường? Cái vòng này càng nóng, chắc càng rõ hình trong
ruột! Khao Lan! Con thử nung thêm mươi khắc nữa coi!

Nàng nữ chúa rừng xanh vâng lời, lập tức xóc lưỡi kiếm nung thêm ít giây nữa. Xong, đem ra soi xét vào ngọn lửa, quả nhiên lần này những nét trong vòng ngọc không những càng hiện rõ rệt mà lại như nổi đại ra
sát mặt vòng, nhìn rõ như hình trên vách đá vậy.

Ai nấy càng cho là lạ.

Chúa Pi A Ya vùng truyền lệnh:

-Gia nhân thị nữ đâu! Nhóm cho ta một đống lửa trên giường đá mau.

Quân hầu dạ ran, giây phút, một đống lửa lớn đã được gây cháy rực ngay trên tấm giường đá của vị đạo sĩ xưa để lại.

Hai cha con chúa Pi A Ya cùng hai thầy trò Võ Minh Thần kéo nhau lại giường đá, cùng soi vòng lên ánh lửa, vừa xem xét vừa so sánh với
nét chữ trên vách, quả nhiên càng xem càng thấy giống hệt từng nét từng
hình. Nhưng có điểm hơi lạ, là có chữ giống hệt từ đường ngang nét dọc,
có chữ không giống.

Chẳng hạn trên vách có chỗ khắc hình con chim đại bàng, thì
trong ruột vòng, cũng có chỗ thấy hình con đại bàng. Lại có chỗ vẽ một
hình con rắn phun lửa, thì trong vòng cũng có hình ngọn lửa với cái đầu
rắn phun. Nếu có khác chút là trong vách là hình con rắn có mào, thì
trong vòng lại là con rắn hổ mang bành… rõ nhất là hình người trên
vách, có sáu bảy hình người thì trong vòng ngọc, cũng có đến năm sáu cái toàn hình người vuông chành chạnh đầu tóc xõa sợi, hình có râu hình
không râu, chỉ che hờ mảnh chi như vỏ cây lớn ngang bụng. Và còn điểm
nữa là hình trên vách to một ngón tay, hình trong vòng nhỏ li ti, người
mắt kém nhìn không thấy.

Chúa Pi A Ya sai lấy ra một cái kính lúp chuyền nhau soi, càng
thấy hình trong vòng rõ hơn. Hai cha con họ Bạc tuy vốn sống ở sơn lâm
nhưng có máu Kinh trong người, cũng như phần đông các dòng tù trưởng
miền núi trên toàn cõi Đông Dương, thường được triều đình, rồi nhà nước
để toàn quyền tự trị từ xưa, nên bao giờ con cái các dòng tiểu vương
cũng phải gửi xuống kinh đô du học, nối đời, bao giờ cũng có trình độ
hiểu biết vượt hẳn thường dân sắc tộc, riêng dòng họ Bạc từ mấy đời vốn
thông minh đặc biệt, học rộng biết nhiều, nên cha con Bạc Khao Lan đều
thông minh xuất chúng, nào dè xem mãi cũng không đoán ra kiểu gì, chúa
Pi A Ya nhíu mày lẩm bẩm:

-Đúng đây là chữ “tượng hình” rồi! Nhưng có điều lạ, là không
phải loại tượng hình vẫn dùng từ đời tiền Hán cổ xưa từ bên Tàu sang ta. Mỗ lão đây tuy không phải nhà khảo cổ, cũng có thể đọc được chữ tượng
hình đó chỉ là loại chữ nho thô sơ trước khi hình thành Hán tự! Còn đây
có cả nét có cả hình, cũng không phải chữ Nôm! Chẳng lẽ là loại chữ của
người tiền hồng thủy? Lạ thật!

Mấy người cùng trầm ngâm suy nghĩ, chợt cô gái Pi A Ya bật giọng thánh thót:

-Cứ xem hình tượng chữ này, thì vị đạo sĩ hay bậc cổ nhân ở
trong hang này cùng người lưu trữ cái vòng có lẽ người sống cùng một
thời đại, hay ít nhất cũng cùng biết về một loại chữ tượng hình! Chữ
tượng hình này có lẽ không phải loại tượng hình tiền Hán, mà là một loại chữ riêng, nếu không phải từ thời tiền hồng thủy trận, có thể là loại
chữ của tiền nhân ta để lại… chẳng hạn người khuyết sử nước Văn Lang.

Chúa Pi A Ya cùng thầy trò Võ nghe nàng nói, cùng nheo mắt, suy nghĩ, ông già họ Bạc chêm lời:

-Con nói cũng có điều hữu lý! Nhưng theo sách sử, dòng giống Văn Lang ta từ thượng cổ vẫn thuộc dòng Lạc Việt miệt Bắc sông Dương Tử
theo vết chim hồng chim lạc đi dần về phương Nam, rồi mới định cư tại
các miền lưu vực sông Hồng Hà, Bắc Giang, Lô, Gầm, Hắc Giang… thành
dân Hồng Lạc, lập nước Văn Lang theo tích Âu Cơ, Lạc Long Quân tương
truyền lại! Vậy là dân giòng Lạc Việt từ bắc sông Dương Tử, Động Đình Hồ sang, tất nhiên tiền nhân ta cũng quen dùng loại chữ tượng hình như của dân Tàu cổ chứ!

Nàng nữ chúa họ Bạc ngắm soi nét hình kỳ lạ trên vách, trong vòng, vẻ nghiêm trang, thỏ thẻ:

-Theo con nghĩ, xưa nay theo sử sách để lại, thì nguồn gốc dân
tộc nào cũng nhiều vẻ thần thoại theo truyền thuyết, tương truyền… chỉ vì dân nào cũng sống rất lâu rồi mới có chữ nghĩa ghi chép lại, và khi
có chữ để ghi chép, thì nguồn gốc đã xa cách hàng vạn năm rồi, khó tìm
ra, đã thế lại có những cuộc biển dâu, đổi dời chuyển cư, thay giống…
nên nguồn gốc càng khó hiểu. Ngay đến nguồn gốc loài người hiện nay, còn có nhiều nhà khảo cổ căn cứ vào các hình vẽ trong hang động Nam Mỹ có
cái từa tựa hình chim sắt không cánh để cho rằng gốc người trái đất tận
Kim Tinh thì đủ biết! Theo con tưởng, xưa nay trên đời vẫn có ngũ sinh.
Hiện nay, còn có tứ sinh: Thai sinh (thụ thai mà sinh), hoại sinh (ẩm
thấp, hủy hoại mà sinh), noãn sinh (trứng nở ra), ký sinh (bám nhờ vật
thể mà sinh ra), nhưng vạn vật đầu tiên là do khí sinh ra. Vậy chính cái khí huyền nhiên âm dương trong trời đất đã tạo kết mà sinh ra giống
người, khí âm thành đàn bà, khí dương thành đàn ông. Vậy khi sinh ra có
thể sinh nhiều cặp một lúc. Phương Tây có khí sinh ông tổ bà tổ dân Tây, phương Bắc Tàu khí sinh ông tổ bà tổ dân Tàu. Thì biết đâu, tại dải đất phương Nam ta, dải Lĩnh Nam này vốn nổi tiếng là miền địa linh nhân
kiệt, thiên khí trùng trùng lại chẳng thể tụ kết thành nhân khí? Vì
phương Nam thời tiền sử thượng cổ, nếu có người từ mạn phương Bắc tránh
rét mà lẩn xuống miền Nam ở, tất miền Lĩnh Nam này phải là nơi khí hậu
nhu hòa, thuận trời thuận đất “còn hơn cả Bắc phương”, vì khí hậu Bắc
Lĩnh Nam từ biên giới Tàu đổ xuống phía Nam không nóng quá, không lạnh
quá, tứ thời bát tiết vừa phải. Vậy đất Lĩnh Nam tất phải có kỳ hoa dị
thảo, giống vật trời sinh rồi, tại sao không thể có giống người khí sinh ông tổ bà tổ của đất Lĩnh Nam? Nên biết đâu, có dòng người Lạc Việt kéo xuống Nam ở thì Lĩnh Nam cũng đã có người rồi. Người Lĩnh Nam thời tiền sử có lẽ ít hơn, có thể có một, hai bộ tộc, thì dòng Lạc Việt xuống
đông hơn ở các lưu vực sông lớn, người Lĩnh Nam ở Sơn Lâm, rồi giảng hòa với nhau mà thành dòng giống Hồng Lạc Văn Lang ngày nay. Ít thường bị
cuốn hóa theo số đông, nên sau này sử gia chỉ còn biết căn cứ vào dòng
Lạc Việt mà định gốc nguồn. Những hàng chữ tượng hình này biết đâu chẳng phải của bậc thủy tổ Lĩnh Nam để lại, nên khác hẳn chữ tượng hình Bắc
phương! Nếu không phải thế thì là di tích thời tiền hồng thủy trận!

Cả mấy người đàn ông đều cho lời luận của cô gái Pi A Ya có
nhiều điều hữu lý, riêng Võ Minh Thần, chàng trai không khỏi ngạc nhiên
về trí suy xét của nàng, một cô gái tuy có du học kinh đô, nhưng vẫn
quen cưỡi ngựa bắn súng, săn thú, bắt sài kíu, bề ngoài xinh đẹp hồn
nhiên như hoa rừng cỏ nội, ai ngờ đầu óc lại phóng khoáng vượt cả khuôn
khổ từ trước.

Vì chính vị tôn sư chàng có lần dạy chàng về mấy ngón võ bí
truyền cũng từng nhắc qua về nguồn gốc võ ta, nhân đó có nói luôn về
nguồn gốc dòng giống Lĩnh Nam, “người” cũng có nêu nghi vấn y hệt Bạc
Khao Lan về một dòng hoàn toàn do khí sinh tại Lĩnh Nam, trước khi có
người phương Bắc xuống. Bèn từ tốn bảo:

-Lời cô nương vừa nói, chính thầy dạy kẻ này có lần đã nhắc tới! Nhưng nếu đúng như lời cô nương thì hiện nay còn tìm được người nào đọc nổi những chữ kỳ bì này nữa?

Chúa Pi A Ya bâng khuâng nhìn chiếc vòng trên tay Khao Lan, chợt nghiêm mặt bảo:

-Tất phải có chìa khóa đọc chữ tượng hình này! Lão mỗ ngờ rằng
mấy con tinh đã nắm được chìa khóa bí mật, nhất là Tây Sắc Ma Vương lâu
nay biến mất dạng. Lão ngờ nó đang “tu luyện” về điều đã khám phá ra
trong một cái vòng nào đó! Chẳng hiểu hai cái kia có giống cái này
không? Giờ nếu muốn tìm hiểu, phải ngồi suy nghĩ liền hàng tháng, mới có hy vọng vén nổi mây mù.

Bạc Khao Lan nghe cha nói quay hỏi Võ:

-Chữ tượng hình này rất hiểm hóc phải tốn công nghiền ngẫm, chẳng hay công tử có cho phép thiếp ghi lại để xem xét về sau chăng?

Võ Minh Thần hơi buồn bảo:

-Nếu cái vòng này không phải là di vật của mẫu thân đeo cho ngày mắc hoạn nạn, ngu mỗ sẵn lòng biếu cô nương làm kỷ niệm dịp thọ ân cứu
mạng, sao cô nương lại hỏi thế? Chỉ e chữ nhỏ li ti, chằng chịt, khó bắt chước nổi!

Bạc Khao Lan bèn gọi gái hầu mang ra một khúc tre xanh đặt trên
cái bàn nhỏ, đoạn tay trái cầm vòng xoay, soi trước lửa, mắt cặp kính
“lúp” như các bác thợ sửa đồng hồ, tay phải rút luôn một mũi thoa trên
búi tóc, vừa soi, vừa vạch lia lịa mũi thoa nhọn hoắt như kim khâu trên
mặt tre xanh.

Võ Minh Thần cũng ghé nhìn, không khỏi phục thầm về hoa tay của
nàng. Múa dọc lia ngang, vạch xuôi vạch ngược, vòng tròn kẻ vuông, phân
cạnh thoăn thoắt không ngừng, tốc độ nhanh không thể thua kẻ hào sĩ
phóng bút thảo bài thơ ngẫu tác. Võ Minh Thần đứng bên coi, không khỏi
kinh ngạc về tay bút của cô gái rừng xanh, vì nếu không là tay có khiếu
họa đại tài không thể nào chép ra những hình nét hiện trong ruột ngọc.
Toàn những hình nét uốn lượn, những hình cầm thú sâu bọ cây cối núi sông và đủ mọi hình thể cảnh trí thường thấy trên đời.

Tuy Bạc Khao Lan múa bút lia lịa không ngừng, khi nét hoa đã
vạch kín ống bương, cũng mới chỉ hết một phần ba cái vòng kỳ dị, cô gái
phải ngừng tay truyền gái hầu kiếm mấy ống bương khác, bảo mọi người:

-Hình như những chữ tượng hình này chứa đựng điều gì bí mật đặc
biệtlắm! Không ngờ chỉ một chiếc vòng tay mà lại nhiều chữ thế này! Chép ra giấy có lẽ phải một cuốn sách dày! Bực kỳ nhân tổ sư nào chủ vòng,
ít nhất cũng phải bậc đại danh họa có hoa tay điêu khắc và tinh mắt phi
thường!

Cả bọn ngồi uống một tuần trà, xong Bạc Khao Lan lại tiếp tục
ghi chép. Mãi cuối giờ Ngọ mới xong. Cộng tất cả mất ba ống bương, mỗi
ống dài tới ba, bốn gang tay, đường kính hơn mười phân.

Cô gái xem lại một lần, đoạn trả vòng ngọc cho Võ Minh Thần.
Ngay hôm đó, chàng trai cáo biệt xin lên đường. Hai cha con vị chúa Pi A Ya lòng vẫn không an, hỏi:

-Giờ công tử định đi đâu? Võ ngậm ngùi:

-Kẻ mồ côi này đi tìm Tây Sắc! Chúa Pi A Ya tần ngần, ngó giây khắc, mới dịu dàng bảo:

-Công tử muốn đi lão mỗ chẳng dám giữ, nhưng có lẽ công tử nên
xét lại trước khi tìm cừu. Về võ công, điện công, khinh công, bắn súng,
cưỡi ngựa, dẫu sao cũng đủ sức đối phó với đời, nhưng về bí thuật bí
pháp có lẽ công tử còn cần chuyên luyện tìm học thêm vài ba môn nữa! Nếu kẻ thù đúng Tây Sắc Ma Vương thì con tinh sài kíu đó lợi hại khôn
lường, thực khó lòng đọ nổi! Theo lão mỗ biết có lẽ nó đi tu luyện hấp
luyện nhân khí theo ma pháp nào đó, cứ mỗi tuần trăng tài thuật tinh lực nó lại thêm một bậc, e rằng hiện nay chưa có người nào trị nổi!

Chàng trai trẻ khẽ thở dài:

-Vẫn biết con tinh chúa lợi hại nhưng cháu đây từ lớn lên là kẻ
không nguồn gốc, lần đầu biết mẹ, thì mẹ cháu còn là tấm hình hài thê
thảm, nằm trong quan tài, mười bảy năm oan hồn không siêu thoát nổi. Nay chẳng lẽ cháu biết được tung tích loài ác quỷ lại không liều mạng báo
cừu sao? Vả chưa giáp chiến, sao lượng nổi sức thù? Lòng cháu thật như
lửa đốt, dẫu thác cũng cam! Bí thuật vô cùng, biết luyện đến ngày nào
mới đạt?

Hai cha con chúa tể Pi A Ya có ý khuyên bảo Võ nên ở lại, đợi mùa xuân sẽ đi, nên chúa Pi A Ya bảo:

-Nếu công tử đã nhất định ra đi, lão mỗ chẳng dám cố lưu, nhưng
dạo này công tử đi không lợi, vì là ngày nguyệt tận. Hãy đợi mấy bữa
nữa, trăng lên!

Võ Minh Thần đành nghe theo. Dạo đó về tiết đông trọng, trời rét mướt lạ thường, có đêm có cả tuyết rơi trên đỉnh Pi A Ya. Trên sơn
cước, nhà nào cũng nhóm bếp lửa sưởi giữa nhà nên cũng ấm. Từ hôm tới Pi A Ya, thầy trò Võ Minh Thần được Bạc Khao Lan tặng cho mỗi người một
cặp áo ngự hàn, một áo bó sát, một chiếc áo khoác, cả hai đều bằng dạ,
thổ cẩm chần bông nên dầu gặp tiết trời giá lạnh mấy cũng không ngại.

Võ Minh Thần lưu lại thêm mấy ngày, thường cùng Bạc Khao Lan vào rừng săn bắn, kiếm hoa phong lan, cô gái Pi A Ya xem ý rất thương chàng trai không nguồn gốc, nặng mang sầu hận nên cố tìm hết cách làm chàng
khuây khỏa.

Nhưng Võ Minh Thần sinh ra đã mang nghiệt số nỗi sầu cô đọng,
không dễ giải khuây, tuy lòng hết sức thông cảm tấm lòng ưu ái của cha
con vị chúa rừng. Khao Lan không quên sửa soạn mọi thứ cho chàng trai
trẻ lên đường.

Thời gian êm đềm trôi qua miền thạch động thần tiên, thấm thoát
mai đã tới buổi thầy trò Võ ra đi. Dự tiệc tiễn hành xong, tối đó hai
thầy trò Võ đi ngủ sớm, lấy sức viễn hành. Rượu tiễn say, cả hai vừa đặt mình trùm chăn đã ngủ như chết, mặc bên ngoài gió lạnh sương sa.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.