Lửa Hận Rừng Xanh

Chương 11: Cung a phòng dưới đáy hắc giang


Đọc truyện Lửa Hận Rừng Xanh – Chương 11: Cung a phòng dưới đáy hắc giang

Tây Bắc biên thùy!

Độ Xuân, cữ tháng giêng, hai tuần hạ. Xứ Thái Sơn La, Lai Châu đang vào hội mùa Xuân.

Rượu cần chảy như suối, “khèn” lan dìu dặt, âm thanh nguyên thủy uốn khắp
rừng ngoài rừng trong, những hình dáng các cô nàng Thái đen, Thái trắng
đang chờn vờn lả lướt theo nhịp “xòe” chùm “xòe” cặp tiếng ca chuốc rượu của cô sơn nữ bốc lên cao vút như tiếng linh hồn đồi núi chơi vơi…
Tây Bắc thần tiên mơ mộng, hội tung còn rách giấy hồng điều, trai gái
bói nhân duyên.

Dòng Hắc Giang uốn khúc giữa núi đồi trập trùng, hai bên bờ hoa “bướm” nở trắng xóa rừng xuân, con sông vẫn khét tiếng
“nghịch” nhất biên thùy, về mùa này, nước chảy lững lờ thao thiết cũng
dịu “tính rừng” trong tiết Xuân thiêng.

Một buổi chiều…

Mây quang lảng vảng, trời đẹp, không gian trong như ngọc lưu ly.

Con sông Hắc trôi dưới nắng, khúc thượng nguồn Tây Bắc cực Lai Châu, hai
bên bờ đồi núi trùng trùng hoang dã, vẫn không mất vẻ thần tiên.

Vào khoảng bốn giơ chiều, bỗng có một con thuyền độc mộc từ đâu nhô ra, lướt về thượng nguồn.

Trên thuyền có hai người Thổ, Thái chi đó, một trung niên, một già đăm chiêu lạnh lùng như không biết đến cảnh sông xuân tươi đẹp. Cả hai ngoi câm
nín, thỉnh thoảng lại nhìn lên các ngọn núi hai bên bờ những hình quái
vật hồng hoang đứng soi mặt dưới đáy nước sâu thăm thẳm, trên con thuyền độc mộc, có đặt một cỗ quan tài mộc, một đôi chó con đen con trắng đứng ngay đầu quan tài, tất cả im lìm. Mới trông, ai cũng tưởng con thuyền
đưa xác đi chôn.

Hình như thuyền từ mạn Lai Châu trấn lên vừa
bữa nay đang lần ngược dòng trườn lên thượng nguồn, đã qua mạn Mường Tè
từ lâu, giờ ngược sâu vào vùng hoang vắng có nhiều khúc “dữ” có tiếng.

Trời chiều chợt sa sầm, mây đùn lớp lớp, khí đá bốc mù, mặt trời bỗng trương phình lên đỏ gay như mặt người thắt cổ, gục xuống rặng núi tây.

Chợt từ nẻo thượng lưu, có một chàng Mán hối hả xuôi xuống, lướt sát mạn thuyền độc mộc, lão chài trạc lục tuần trợn mắt, nói vang vang:

– Quay lại mau! Khúc trên mới có bầy thuồng luồng dữ lắm! Chớ đi nữa. Ông già trên thuyền độc mộc cao giọng:

– Cám ơn! Nghe đồn khúc trên nó có ma thiêng dữ lắm, phải không? Lão chài hạ giọng, vẻ sợ hãi:

– Hình như vậy! Nhưng mãi trên ngã ba! Thuyền đắm nhiều lắm! Khúc đó có
nhiều vụng xoáy, lâu nay không ai dám đi qua. Hai bác tới đó… nguy!
Hai bác đi lên đó làm gì?

– Kiếm chỗ tang thủy! Vũng sâu mới
tốt! Chiếc chài xuôi đi, thuyền độc mộc cứ ngược. Cảnh chiều sông ảm
đạm, huyền bí, hình như hai người Thổ kia có vẻ hài lòng… Chừng hai
mươi phút, chợt lại gặp một chiếc chài nữa, trên chài có một chàng Kinh
gầy gò xanh xao, người này cũng khuyên chớ ngược nữa… áp mạn, thấy cỗ
quan, người này có vẻ ái ngại, hỏi vài câu, đưa tay vuốt nhè nhẹ trên
mặt ván thiên. Người Thổ trung niên vạm vỡ đang ngồi khua chèo, bất thần xòe tay chặt xuống một nhát nghe “rắc” một tiếng, cổ tay người chài
Kinh gãy liền! Y vừa lảo đảo gục, đã bị người Thổ túm lấy mạch môn,
phát giọng khô khan:

– Tự nhiên mi gây sự, định vuốt nát xác
người trong quan, phải mi là thủ hạ của Ma Vương? Cung động nó đâu? Gã
kia nhổ toẹt bãi nước bọt, nghiến răng két, mặt xám xịt, mềm nhũn, cạy
miệng ra xem thì ra y đã nuốt cả chiếc răng nanh giả chứa đầy thuốc độc.

Người Thổ trung niên chép miệng, ném cái xác sang chài, bồi một nhát. Thuyền độc mộc lướt đi, chiếc chài chìm nghỉm. Người Thổ lẩm bẩm:

– Đúng rồi! Đã vào vùng sào huyệt tinh. Ông già gật đầu, mặt vẫn lạnh như xác chết.

Lúc sau, tới một khúc rừng hoang vắng lạ, con thuyền dạt vào bụi lau kín,
người Thổ lao vụt xuống nước mất dạng. Hơn giờ sau mới thay trồi lên,
lắc đầu. Ông già buông gọn:

– Đợi khuya! Giờ tìm chỗ thật kín!

Rồi dạ thần trùm áo đen xuống vùng sông Hắc.

Con thuyền chở quan tài lại hiện trên dòng, lướt trên sông lạnh sương mờ, không khác một bóng oan hồn đi tìm xương cốt cũ.

Hai người lạ mặt này không ai khác thầy trò Võ Minh Thần, chở
quan tài “quỷ xó” đi tìm miền cung động Ma Vương. Ngày nọ, sau khi rời
vùng sông Gầm nhánh, bọn Võ rời vùng Tĩnh Túc xuống miệt chợ Rạ, rồi
chia tay hai ngả. Giao Long Nữ dẫn beo đen, chở xác “xó Ma Kinh” xuyên
sơn sang mạn hồ Ba Bể, còn bọn Minh Thần dẫn Hắc Bạch Cẩu, Ma Khách
xuyên rừng, sang miệt Tây Bắc Lai Châu.

Và trải nhiều đêm ngày
vất vả, hai thầy trò ngược dòng sông Đà qua xứ Thái, vượt nhiều khu hiểm hóc, chiều nay dò theo tăm cá, hai người hóa trang lần mãi lên miệt
thượng nguồn sông Hắc, lòng mừng biết đã tới “miền lanh địa Ma Vương
Sắc”, nhưng sông rừng bí ẩn trùng trùng, chưa biết đích cung động Sói
tinh ở đâu.

Chỉ biết động ở tận dưới đáy sông Hắc, thượng nguồn, thế giới riêng Ma Vương Sắc có cả một “Cung A Phòng” đầy đàn mỹ nữ,
toàn hoa khôi các bộ tộc thượng du, một nơi huyền bí như trong truyền
thuyết, chưa kẻ nào tới nổi. Vì “Cung A Phòng” này có mấy “hàng rào thần chết”, kẻ nào bén mảng tới là bị thần chết đến thăm luôn “không bao giờ báo trước”.

Có điều lạ là thần chết thường hay viếng khách lạ,
bất luận quan binh, du khách, giới giang hồ tứ chiếng, khách buôn… còn thổ dân vẫn sống yên ổn. Sông Hắc, chính là thượng nhánh sông Đà với
nhiều nhánh bắt nguồn bên Vân Nam và bên Việt, từ miệt Mường Lẹo Tẩu
chảy qua vùng biên địa xuống mạn Mường Tè xuống xuôi nữa, vốn là con
sông “dữ”, ghềnh thác hang vụng nhiều, có lắm thủy quái hung tợn như
giao long, dải, táp cả người đi thuyền lôi xuống đáy nước ăn thịt, trên
bờ lại không thiếu mãnh thú, cướp rừng, thổ phỉ biên thùy… nên xưa nay vùng thượng nguồn Hắc Giang vẫn là “vùng nước nghịch” hạng nhất biên
thùy. Từ dạo khách qua miệt sông biên này thường mất tích bí mật, trong
dân gian có tin đồn ngầm về “một cung động bí mật của một con tinh chúa
phi phàm”, thì miền đất giang biên Tây Bắc xứ Thái này càng trở nên
“lãnh địa của tử thần”, khách phương xa co việc tới vùng Mường Tè không
dám ngược lên miệt “đất chết” này nữa”.

Nhưng hai thầy trò Võ
Minh Thần đã đi khắp mấy dòng phụ lưu sông Hắc, và tối nay, hai người
đang lầm lũi đi sâu vào lãnh thổ tử thần như hai bóng oan hồn “dò theo
bóng chim tăm cá” đi tìm cung động Ma Vương.

Sông rừng quạnh
vắng, núi dựng trăm hình thù quái dị xuống dòng Hắc Giang, nhưng đợi đến lúc trăng hạ tuần lên, vẫn chẳng thấy gì lạ cả. Sông núi rừng già như
ngậm kín bí mật trùng trùng không chịu nhả ra một dấu vết nhỏ.

Võ Minh Thần khẽ bảo Quản Kình:

– Lạ thật! Theo quẻ độn Lục Nhâm và các điều dò hỏi được, nhất
định sào huyệt Tây Sắc tinh phải nằm về nẻo thượng nguồn, khúc trên
Mường Tè, dòng chính, không phải phụ lưu. Ta đã đi qua Mường Tè, sắp tới ngã ba rồi, sao vẫn chưa thấy gì? Ít nhất phải vào vùng ngoại cứ của
“nó” chứ? Tên chài chiều qua chính quân giữ mặt ngoài.

Quản Kình nhìn sông trắng im vắng thì thầm:

– Nghe đồn cung động Ma Vương dưới đáy nước hang sâu vụng thẳm. Nhưng
“nó” có cả quân người. Vậy quân người chắc ở trên mặt đất, đóng vòng
ngoài cung động và có le đóng khá xa, có thể ở trong hang núi hoặc ở nhà hầm đào vào đồi đất, nên bề ngoài vẫn không thấy gì cả. Tôi ngờ ta chưa vào cứ địa nó. Ta đã cố tìm con tinh tại sao không ra mặt nhử chúng,
bắt một tên hỏi đường?

– Ra mặt sợ “động ổ” chúng. Vả tụi quân
người, chắc gì đã biết cung động ở đâu. Con tinh dùng thủ hạ, chỉ cho
biết từng chuyện một.

– Cậu hai nói đúng! Nhưng ít nhất cũng
kiếm được chút đầu mối, còn hơn cứ mò mẫm trong bóng tối như mấy ngày
nay. Để mình tôi ra mặt đủ rồi.

Minh Thần ngẫm nghĩ giây phút,
đành để Quản Kình đi thám sát. Hai người khiêng quan tài Ma Khách đặt
vào hốc núi cho Quản Kình lấy thuyền chèo ngược lên nẻo thượng lưu.

Đem trăng nhạt, con thuyền độc mộc trôi giữa dòng sông Hắc, lát sau đã tới
ngã ba phụ lưu. Quản Kình vừa chèo vừa hát nho nhỏ mấy câu đồng dao. Bốn bề vắng lặng, trăng khuyết lồng bóng nước nhấp nhô gợn sóng.

Đang vơ van nhìn mặt sông rừng huyền bí, bất thần để ý thấy có một ngọn sóng khác thường từ phía bờ Đông chạy ra.

– À có con cá lớn? Hay người đang bơi dưới nước? Cá cắn câu chăng? Kình
ngồi bên mạn, khua nhẹ tay chèo, gợn sóng chạy quanh rồi chợt mất. Bất
thần, con thuyền độc mộc nghiêng hẳn lại, rồi dưới nước có một vật loằng ngoằng bắn vọt lên, túm nghiến cổ Kình kéo xuống nước, coi không khác
chân vuốt thuồng luồng, vòi tuộc vậy. Quản Kình lộn cổ xuống sông. Và
chỉ hai phút sau đã thấy y vọt nhô lên, nách cắp một người trần trùng
trục chỉ đóng có mỗi cái khố.

Hắn bị điểm huyệt, mở mắt trừng trừng nhìn Quản Kình. Giải huyệt, Quản Kình lạnh lùng hỏi:

– Cung động Tây Sắc đâu? Nếu mi nói ta thề sẽ tha mạng. Tên này cười dữ tợn, nói tiếng Mán:

– Mày có cánh cũng không bay được vào cung Chúa Sài Lang. Trành sẽ bắt mày.

Quản Kình cười gằn, vừa toan vuốt huyệt, bắt nó khai, đã thấy nó trợn ngược
hai mắt, sùi bọt mép, “đi” luôn. Xem lại tên này cũng có một cái răng
giả nhét đầy độc dược.

Tặc lưỡi, Quản Kình buộc một hòn đá lớn, thả “tõm” xuống giữa ngã ba, đoạn quay thuyền về bảo Minh Thần:

– Chỉ một tên độn thủy định lật thuyền, bắt người lạ, nhưng nó cũng nuốt
độc chết liền. Bắt ánh mắt nó, hình như sào huyệt con tinh mãi phía biên thùy, có “trành” canh gác.

Minh Thần ngẫm nghĩ, bảo:


Tất nhiên cung động nó cực kỳ bí mật, có “trành xó” canh và nhiều thứ
nguy hiểm nữa. Vùng này chắc xa sào huyệt chính, có đi cũng chỉ hạ được
mấy tên canh gác rải rác dọc sông, bất lợi lắm. Mai ta rà trên bộ ngược
tận biên thùy.

Hai người bàn bạc giây lát, đoạn cho thuyền về
nẻo hạ lưu. Sớm mai, trời vừa hửng sáng, đã thấy con thuyền độc mộc chở
quan tài lướt ngược dòng Hắc Giang, trên thuyền có mỗi Quản Kình ngồi
chèo trong lốt người Thổ trung niên. Còn Võ Minh Thần cưỡi ngựa đi trên
bờ trong lốt một ông già có mấy chòm râu muối tiêu. Lát sau qua khỏi ngã ba sông, Quản Kình cũng vờ khiêng thuyền lên, giấu vào hốc núi, dựng
quan tài xó, để các món nặng lại, đoạn cưỡi ngựa, đem theo Hắc Bạch Cẩu, vai đeo cung tên, tiến về nẻo biên thùy. Thượng nguồn Hắc Giang khúc
này từ vùng núi Vân Nam đổ sang chảy chếch từ Tây sang Đông, tới ngã ba
mới chảy xuôi vát Đông Nam xuống Mường Tè Lai Châu vốn miền sơn kỳ thủy
tú, càng lên gần biên giới ba nước cảnh trí càng hùng vĩ hoang sơ. Nhưng hai thầy trò Võ Minh Thần vẫn đinh ninh đây là lãnh thổ ngầm của Ma
Vương Sắc, nên nhìn đâu cũng thấy phảng phất vẻ quái gở lạ thường. Hai
người men theo bờ sông đi được một quãng, chợt gặp một lối mòn chạy từ
trong núi ra. Lối đi cỏ bị dẫm khô héo, chứng tỏ vẫn có người qua lại,
Minh Thần bảo:

– Theo bản đồ, đây chắc lối đi lên biên thùy, tới miệt bản Cao Lan. Cao Lan cách xa Hắc Giang, ta không nên đi hướng đó.
Nhưng chỗ này núi chắn, ta cũng phải theo lối này một quãng rồi sẽ liệu.

Bèn bắt ngựa vào đường mòn. Đi hơn dặm, quả nhiên gặp một con đường từ mạn Tây Bắc chạy tới, hai người rẽ luôn sang.

Vó câu lóc cóc xuyên qua nhiều cánh rừng sơn lâm trùng điệp, vào khoảng giữa trưa, vẫn chẳng thấy nhà cửa bản dân nào.

Vừa tới gần một con suối khá rộng, chợt từ đâu có một con trĩ lớn bay qua.
Quản Kình bắn luôn một phát, một con trĩ xòe cánh rớt ngay xuống bờ
suối. Hai người cùng tiến đến định nhặt con trĩ, nhân tiện cho ngựa uống nước, bỗng hai con chó chạy xồ lên, sủa rộ, tiếp liền mấy tiếng “cà
uôm” vang động, trông sang thấy hai con mãnh hổ đứng sừng sững giữa bụi
lau bên kia bờ, cách khoảng ba mươi bộ xế. Xoạt! Quản Kình rút phắt ngọn lau thép cài bên sườn ngựa, định phóng. Võ Minh Thần vùng hô “Khoan! Để bắt sống”. Kình dừng vội.

Hai con hổ này toàn hùm xám, còn to
hơn hai con bên sông Gầm trong rặng Phi Mã. Chúng lừ lừ dòm người, vật,
mắt tia đỏ coi rất dữ, đầu hơi lắc lư. Minh Thần nhảy xuống ngựa, cùng
Quản Kình tiến lại, hú lên một tràng âm dị. Chẳng hiểu sao hai con hùm
xám kia vùng rống lên, xoay mình nhảy chồm qua khóm lau dày, bỏ chạy.

– À lạ dữ chưa! Sau chúng nghe hiệu âm lại phá chạy? Đuổi bắt! Hai con cọp này khôn lắm.

Hai người vội lên ngựa, phóng qua suối rượt theo. Hắc Bạch Cẩu vọt trước.
Hai con cọp cứ cong đuôi chạy, bị kẹp hai đầu, chúng cứ theo đường mòn
xuyên thung lũng lao như gió.

Qua một rặng núi, bỗng cảnh hoang
sơn đột biến, trước mặt vụt mở ra một cảnh lâm tuyền cẩm tú, hoa “bướm”
nở trắng xóa như hoa mai, rụng đầy đường mòn, mặt cỏ. Hai con cọp bỗng
trốn biến đâu mất.

Bọn Minh Thần dừng ngựa bên một dòng suối
rộng, đưa mắt nhìn quanh. Hai con ngựa thở phì, gặp suối mát, bước ngay
lại cúi mõm định uống. Trong khi đó, Hắc Bạch Cẩu đã vọt qua, đang sục
sạo phía trước.

Tình cờ, Võ Minh Thần cúi nhìn xuống dòng suối
xuân, vừa lúc hai con ngựa ghé sát mõm sắp uống. Bóng người ngựa lung
linh đáy nước, về mùa xuân, dòng suối lại đục lờ vì nước chảy qua rặng
núi có nhiều chất vôi làm bóng nhân mã cũng mờ mờ. Chàng trai giật vội
tay cương, la:

– Suối nước độc!

Quản Kình cũng kịp làm
theo. Hai con ngựa thở phì phì, hếch mõm. Bất thình lình bên suối có
tiếng chó kêu rống vút. Hai người giật mình trông sang, đã thấy Hắc Bạch Cẩu bị treo ngược bốn vó lên ngọn cây, đang giãy giụa.

– Chó mắc bẫy treo! Vùng này có người ở!

Quản Kình kêu lên. Trên sơn cước, thổ dân vẫn dùng cạm bẫy bắt
thú, đào hầm phủ cỏ lá, hoặc vít các cành dẻo, nhất các loại tre, vẫn
gài bẫy dưới phủ kín, thú rừng dẫm phải, lập tức bị dây trói nghiến bốn
vó bật vụt lên, treo lơ lửng. Mãnh thú hung tơn mấy đạp nhằm bẫy gài
cũng chịu phép. Và trên rừng, chuyện đánh bẫy bắt thú là thường.

Thấy hai con vật trung thành bị treo ngược, bọn Minh Thần bèn vọt qua suối,
chạy tới cứu. Còn cách mươi sải, Minh Thần đưa mắt quan sát, thấy gần
đấy có nhiều tre xần, cành xòa, chàng trai vội giơ tay làm hiệu, cả hai
vung tay đánh thử mấy đường phản phong vào quanh chỗ hai con thú bị
treo.

Bùng, bùng, rào, rào! Lập tức rải rác hàng chục cành bật
lên, tung tóe cỏ, đất sát bên chân ngựa. Hai người giật cương, dạt sang
phía hữu.

Bất ngờ “sụp sụp”, mặt đất bỗng tụt ngay xuống thành
hầm sâu, cả hai con ngựa sa theo nhanh như ảo mộng. Khi hai thầy trò
Minh Thần kịp biết thì người ngựa đã rớt sâu hai, ba sải giữa khu cành
lá um tùm.

Nhưng cả hai đều cao bản lãnh, đã kịp thời vọt thẳng
lên, bám được cành trên cao. Dòm xuống, thấy hai con ngựa rớt sâu tít,
lưng đầy đất, cỏ, lá. Rừng vẫn vắng lặng như không.

Đang định
nhảy xuống cứu mấy con vật, bỗng nghe mấy phía xôn xao, rồi đến ba bốn
chục tên mặc quần áo chàm xách súng ống, giáo mác, lưới rọ, câu liêm,
móc sắt, đổ tới như bầy thú dữ.

Quản Kình, Minh Thần cùng bíu
một cây, sang cành khác, thấy quân lạ kéo tới, Kình làm “chú quyết”,
Minh Thần xua tay. Bọn kia reo hò thích chí, lũ vít cần xuống bát chó,
lũ đem câu liêm, thòng lọng lại bắt người ngựa, đứng lố nhố dưới gốc
cây. Mấy tên chợt kêu:

– Chỉ có hai con ngựa, không có người. Lại coi! Lại coi!

– Rõ thấy cả người ngựa rớt xuống mà! Hay nó vọt được? Chúng bu quanh hầm, cúi dòm, nhiều tên ngửa mặt dòm lên cây cối.

Không thấy bóng người, cả lũ ngơ ngác kêu “ma quỷ”, chợt nghe tiếng quát xa xa:

– Cứ đem ngựa lên, khám đồ vật xem! Tìm chúng sau! Thầy trò Võ vẫn nấp
trên cây. Nhưng hai người đã giở thuật “ẩn thân” dùng sương mù nhân tạo
bao phủ nên chúng không thấy. Chỉ mấy phút sau, chúng đã lôi được ngựa
lên. Thầy trò Minh Thần định dùng “Mê hồn công” đánh bọn áo chàm này,
bỗng nghe tiếng quát rợn người:

– Hai tên phạm cấm địa, không ra mặt, trong mười giây sẽ bị đạn quét! Tản!

Tiếng hô dứt, tự nhiên bọn áo chàm vùng xa hết, để cả ngựa, chó
lại. Minh Thần, Quản Kình đứng trên nghe tiếng quát không khỏi kinh tâm, khó nghĩ. Nhảy trên sẽ bị đạn quét, nhảy xuống lấy khiên, súng dài cũng có thể cự địch được, nhưng phải hi sinh mấy con vật. Thả độc vật cũng
không kịp, hai người định xuất đầu nhử địch rồi bất thần hạ thủ. Thình
lình tiếng quát rõ giọng đàn bà:

– Bọn ngươi làm gì ồn ào thế?

Có tiếng đáp đầy vẻ cung kính:

– Bẩm chúa nàng, có hai tên Thổ lạ vào vùng cấm lâm. Chúng nô bộc đã giật hầm bẫy được ngựa, chó, còn chúng trốn đi mất.

Tiếng đàn bà quát:

– Sao bọn ngươi dám chắc họ là gian tế? Có khi người ta lạc đường, lạc
lối hoặc đi săn bắn là thường. Nếu không, dại gì cưỡi ngựa, dắt chó, đi
giữa ban ngày cho bọn mi vây bắt? Hừ! Ta đã dặn, phải thận trọng kẻo
giết oan người vô toi, bọn mi đã quên sao? Lui!

Có tiếng dạ ran, rồi bốn bề im phăng phắc. Nhưng hai người vẫn cứ ẩn trên cây. Bỗng nghe tiếng nhạc ngựa khua vang, rồi có tiếng gọi thánh thót:

– Hai
người khách phương xa nấp đâu sao chưa ra lấy ngựa? Đúng tiếng suối, đàn cũng không trong hơn giọng nói, nghe thánh thót, êm ái hết sức, có mãnh lực quét sạch bầu không khí dữ tợn quanh khu rừng. Hai thầy trò Võ nghĩ mươi khắc, đoạn tặc lưỡi, giải tỏa sương mù nhan tạo, dòm xuống. Bọn áo chàm đã đi đâu hết. Xa xa có một bóng nhấp nhô phi tới, thấp lè tè sát
đất, ẩn hiện sau cành lá. Thoắt bóng này đã tới chỗ hai con chó bị mắc
bẫy vẫn bị túm bốn vó nằm trên cỏ, hiện ra một thiếu nữ mặc lối Thái đen cưỡi một con cọp mộng lông xám có cái bờm sù. Thiếu nữ dừng cọp, khuôn
mặt lộ hẳn sau cành lá. Đó là một cô gái đẹp lạ thường, xiêm y toàn lãnh đen tuyền, nẹp cổ tay cổ áo chần kim tuyến, “phá” gấm thủy ba cũng bằng kim tuyến chấm gót, chân đi hài sảo, ngực phây căng nét nhũ, bụng nhỏ
thắt đáy, mông bạnh, chân tay mình mẩy đều thon lẳn, coi bằng khổ người
Giao Long Nữ nhưng khuôn mặt nàng này tuyệt đẹp, không xấu xí như nàng
kia. Mắt phượng, mày liễu, mũi thon dọc dừa, môi cong, da dẻ trắng ngà.
Cô gái trạc mười bảy, mười tám, coi rất thông minh, nhưng không có vẻ
chi điêu ác, dáng đúng gái quý tộc miền núi.

Nàng vừa dừng cọp, đã thấy hai con chó bò dậy sủa. Cô gái ngước
mắt trông lên cây. Võ Minh Thần, Quản Kình buông mình xuống ngồi trên
lưng ngựa, chưa kịp nghiêng mình chào cô gái, nàng đã chào luôn thỏ thẻ:

– Hai quý khách miền nào tới? Bọn gia nhân đầy tớ mạo phạm, xin khách thể tình tha thứ cho.

Minh Thần, Quản Kình ngó chòng chọc, lòng đầy nghi vấn, chẳng hiểu nàng là
hạng gái nào mà lại ở ngay cánh rừng bị coi là “lãnh địa ngầm” của Ma
Vương Sắc. Tuy vậy, thấy nàng ăn nói dịu dàng lễ phép, Võ Minh Thần cũng vuốt râu, lịch sự bảo:

– Chúng tôi đi săn voi, tê giác, hổ báo, gấu ngựa. Chúng tôi từ Lai Châu, Mường Tè tới. Vừa đuổi hai con cọp
xám, tự nhiên bị sa bẫy. Chẳng hay đây là đâu? Sao lại cấm người lạ vào?

Cô gái mỉm cười:

– Đây là đất của bộ tộc Thái đen. Nhưng hai ông khách không phải là ông lão có râu dài. Hai ông đeo mặt nạ da người.

Thầy trò Võ giật lòng sửng sốt, không ngờ hóa trang khéo hết sức, nàng ta vẫn biết. Chợt nàng lại tiếp:

– Nếu không có việc cần, hai ông đi săn sao phải hóa trang? Hóa trang thường bị ngờ định làm điều ám muội.

Võ Minh Thần biết đã đến lúc phải ra mặt, bèn đưa mắt cho Quản Kình, cả hai cùng thò tay bóc hẳn tấm mặt nạ da người, từ tốn:

– Chẳng dám giấu cô nương, bọn ngu mỗ cũng có chút việc, nên buộc lòng
phải đeo mặt nạ, phòng quân gian ám hại bất ngờ. Bọn mỗ tính lên biên
giới.

Cô gái nhìn chàng khách trẻ tuổi có bộ mặt khôi ngô lạnh lùng khó tả, chừng như nàng ta có cảm tình đặc biệt, dịu dàng bảo:

– Chuyện riêng, thiếp chẳng dám quan tâm. Nhưng nếu ông khách muốn nghỉ
ngơi chốc lát, xin mời quá bộ thêm quãng ngắn nữa. Chốn này giáp ba biên giới, thổ phỉ, giặc cỏ, thú dữ nhiều nên chúng nô bộc phải canh phòng
cẩn mật, xin ông khách cứ an lòng. Bộ toc thiếp rất vui sướng được tiếp
rước khách phương xa. Hai ông không phải người Thổ?

Câu hạ bất thần của cô gái lạ làm thầy trò Minh Thần không khỏi chột dạ. Cô gái cười tiếp:

– Hai ông cũng không là thợ săn, vì thợ săn phải có súng khai hỏa, thợ săn thoát sao được hầm bẫy.

Minh Thần đành cười nhẹ:

– Cô nương tinh mắt lắm. Bọn mỗ không phải thợ săn thật. Nhưng
cũng gọi là thợ săn được vì cung đi… săn giống vật, một thứ rất khó
săn, hay chui tận hang sâu động thẳm.

Cô gái nhìn hai người, chừng như không lưu ý nhiều về câu nói đó, nàng cười tươi bảo:

– Vùng này rừng nhiều nghịch lắm, lâu nay ít người tới săn. Nhà tôi cũng gần đây, mời hai ông tới nghỉ chân.

Hai thầy trò Minh Thần thấy cô gái đẹp cùng với một toán quân rừng xuất
hiện tại vùng lưu vực thượng nguồn Hắc Giang, nơi đồn có động Ma Vương,
hai người hết sức ngơ vực, nhưng đã quyết xuất đầu tầm cừu, chưa thấy
tăm hơi, ngay nghe nàng ta mời, bèn nhận lời ngay, không chút do dự.

Cô gái thấy khách lạ nhận lời có vẻ thích lắm, lập tức nghiêng mình vẫy tay, thánh thót:

– Nào, mời hai ông!

Đoạn giục cọp mộng, quay đầu, đi về hướng Tây Bắc. Hai thầy trò Võ Minh Thần cố ý đi sau giữ phép, nhưng được mấy bước, cô gái lạ bảo:


Vùng này chúng tôi đặt nhiều cạm bẫy, hầm hố, có cả địa lôi phục nữa đó. Hai ông phải đi sát bên tôi mới được. À quên! Hai ông phải bảo mấy con
vật đi bên, chớ chạy lung tung và chớ uống nước bậy bạ. Suối nước tại
đây về phía hạ lưu đều có bỏ thuốc độc, uống vào cấm khẩu, chết liền,
khó thuốc trị.

Nghe nàng bảo, hai thầy trò không khỏi kinh tâm,
sực nhớ dòng suối vừa qua, lờ nước hến, không tinh ý chút, chắc nguy
rồi. Bèn đưa mắt nhìn quang cảnh, lâm tuyền, nơi lưu vực sông Hắc dưới
trời xuân coi hết sức kỳ tú thần tiên, tuyệt không có vẻ chi dữ dội. Lại lấy làm ngạc nhiên sao nàng ta chỉ vạch cho mình hết cạm bẫy yểm tàng.
Bọn Võ vội giục ngựa lên, nhìn nàng như dò xét. Quản Kình hơi lui lại
một chút, nói luôn:

– Thưa, tôi là kẻ theo hầu tiểu chủ.

Thản nhiên như không, nàng mỉm cười:

– Tôi biết từ lúc nãy. Minh Thần hỏi:

– Sao cô nương có nhã ý cho biết điều bí mật trong miền? Sao miền này nhiều cạm bẫy thế?

Vẫn tự nhiên, cô gái lạ mỉm cười:

– Hình như tôi đã nói với ông vùng Hắc Giang này “nghịch” lắm. Lãnh thổ
tù trưởng phải là nơi khó xâm phạm. Còn những thứ cạm bẫy đó để phòng gian tế cừu nhân, đâu phải để hại khách lạc hướng như hai ông. Vả chăng với người như ông, các thứ đó cũng là đồ vô dụng.

Minh Thần
không nói gì. Chàng nghĩ: Nàng này không phải gái thường, hoặc hiểm hơn
rắn độc, hồ ly, hoặc hồn nhiên phóng khoáng, lòng như tờ giấy trắng.

Hai thầy trò theo nàng đi qua khỏi cánh rừng, vừa lên một trái đồi, bỗng
thấy trước mặt mở ra một khu sơn đình tuyệt đẹp, nhà sàn nằm như bát úp, bóng người, ngựa, gia súc, gà vịt, chim câu rải rác đầy đàn, quang cảnh hết sức tấp nập, có lẽ từ khi xuống núi, chưa bao giờ Võ Minh Thần gặp
một sơn thôn, sơn trại như thế. Ngay khu đồn điền của nghĩa phụ chàng để lại dưới Yên Bái cũng còn kém xa.

– Chà! Vùng sơn thôn tuyệt
đẹp. Không ngờ tại miền lưu vực Hắc Giang gần biên thùy hẻo lánh mà lại
có khu dân cư đông đúc lạ thường. Cô nương ở đây đúng cảnh “biên thùy
một cõi”.

Cô gái cười khanh khách, khoát tay trỏ quanh:

– Vậy mà tôi lại cứ tưởng chốn sơn đình này là một nhà tù lồng son giam
hãm chim sơn ca. Tôi chỉ muốn phá hết đi, chia hết cho gia đinh, lính
tráng rồi cưỡi hổ đi rong chơi khắp mấy miền sơn cước thủy, tìm thênh
thang như giống chim người.

Minh Thần theo nàng đi qua thung lũng, vào khu sơn trại đầy hoa thơm cỏ lạ, chàng trai cười bảo:

– Cảnh đẹp thế này mà cô nương lại muốn bỏ đi, nhưng ai cấm cô nương? Cô gái cười:

– Thói quen bộ tộc! Tôi phải thay cha mẹ, nối chức tù trưởng. Bỏ đi, bộ tộc tan, không đành lòng.

Con đường đá đưa vào khu trại, quân rừng cúi chào kính cẩn, thảy đều gọi
“chúa nàng”, qua mấy xóm cư dân, bọn Võ thấy có cả đàn bà, trẻ con qua
lai, ai nấy rạp đầu cung kính. Nàng cứ dẫn khách đi hết con thung lên
một rặng đồi tươi đầy hoa nở, vào một vùng có tường gỗ lim phiến bao
quanh, có cả hào lũy, đồn canh, coi đúng khu dinh tiểu vương sơn cước
lại giữa “pháo đài rừng” không kém phần kiên cố.

Từ trên vọng
lâu, chợt nổi lên một hồi cồng đồng khoan nhặt, tiếp theo một hồi tù và
chìm nổi âm u. Từ trên lũy, hạ xuống một chiếc điếu kiếu bắc qua hào.
Quân canh đứng hai hàng bên cần trục. Điếu kiều bắc lên một dãy hành
lang chạy vòng từ ngoài vào vọng lâu như chiếc cầu vồng dài.

Cô gái đưa hai người tới bên hào, leo qua điếu kiều, đi thẳng
vào “pháo đài dinh”, qua khỏi vòng ngoài pháo đài, bên trong lại hiện ra một cảnh trí hữu tình, tòa ngang dãy dọc, hoa viên, vườn tược, võ
trường, tàu ngựa, chỗ đóng quân, nhà thủy tạ giữa ao hồ nhân tạo, một
lạch nước uốn quanh, cỏ cây tươi tốt, khu chính dinh có cả điếu kiều vào tận nơi, coi vừa xinh, vừa lạ mắt.

Bọn Minh Thần theo nàng vào, nhìn trên dưới đường xuyên qua vườn hoa trước có hàng chục cọp beo lững thững đi lại, nhiều con nằm lim dim dưới gốc cây. Hai người nhớ đến hai con cọp khôn ban nãy, không khỏi phục thầm tài dạy thú của cô gái lạ.

Nàng đưa khách vào tiền sảnh, tiến vào một căn phòng rộng rãi trần thiết rất uy nghiêm thanh lịch. Bọn Minh Thần thấy cảnh thâm nghiêm, lính rừng
lấp ló, không khỏi chột dạ nghĩ thầm:

– Tình thế này, nếu nàng
dụng tâm đánh lừa đưa mình vào tròng, bất thần hạ độc thủ, kể cũng đáng
ngại lắm. Tốt hơn hết là cứ kèm sát bên nàng, có gì ta làm luôn Phàn
Khoái dự Hồng Môn hội ẩm, Tào Muội hiếp Tề Hoàn Công cho tiện.

Nghĩ vậy, nên cứ nghiễm nhiên theo nàng vào. Quản Kình rút luôn cả cây trung liên xách theo, mắt ngó cô gái coi phản ứng nhưng nàng ta không hề lưu ý tới, vẫn tươi cười uyển chuyển an tọa.

Võ Minh Thần ngồi vào
ghế, Quản Kình giữ lễ, nhất định chống súng đứng “hầu” sau lưng chủ. Một bầy gái hầu từ nẻo hậu dinh chạy ra, cô nào cũng chỉ trạc mười sáu,
mười tám, xinh xắn, tươi tỉnh, lễ phép, đúng cung cách gái hầu trong nhà các tù trưởng tiểu vương sơn cước.

Cô mặc lối Thổ, Thái trắng,
cô mặc lối Thái đen, bộ tộc miền núi mặc quần áo đen tuyền để phân biệt
với dòng Thái trắng chứ không phải vì da đen. Không cần khảo sát, thầy
trò Minh Thần chỉ nhác qua dáng dấp, đã biết ngay toàn hạng gái có võ,
quen chuyện súng gươm cũng như têm trầu, dâng nước.

Đám gái hầu cúi chào khác, cô bưng khay trầu, cô bưng điếu, cô bưng đồ trà toan dâng khách. Cô chủ phất tay bảo:

– Trầu điếu để đó, còn đồ trà hãy đem vào. Công tử đây quen giang hồ đây
đó, tất là bực ẩm giả sành trà, để ta phải tự tay nấu nước pha trà đãi
khách. Các ngươi khá đem hỏa lò vào đây. Hai ba em theo ta vào lấy bộ đồ trà đặc biệt cùng “Diệp sương liên”, “Phi Mã trà”.

Gái hầu dạ
ran, thừa lệnh răm rắp, thoăn thoắt đi vào nẻo hậu cung, còn cô gái chủ
cùng hai, ba gái khác để khách ngồi lại, kéo nhau đi về phía hữu phòng.
Nhà sàn các tù trưởng thượng du to lớn, rộng mênh mông, có cái chứa hàng ngàn khách chỉ mới đầy một gian, mỗi cây cột to mấy vòng, đục làm tủ đứng, tủ gương đựng võ khí, căn sàn dinh này lại kiến trúc pha lối Tây, Kinh, trông càng đồ sộ nguy nga, từ chỗ khách ngồi tới căn phòng kế cận dài hun hút.

Lòng đấy áy náy bất an, Quản Kình thấy cô nàng dẫn gái hầu đi vào, cũng xách cây trung liên đi theo liền. Cô gái chủ quay
nhìn lại chợt hiểu, nhướng mày cười bảo:

– Chú ngại gì mà phải
theo bén gót? Cứ yên lòng ngồi lại phòng khách, tôi vào lấy đồ trà đó
thôi. Lòng thành đãi khách, nếu có âm mưu, đâu có cần đưa khách vào tận
nơi đây mới hại được. Tôi đã nói vùng này đầy cạm bẫy. Nếu chú chẳng ác
tâm, để tôi mất công triệt vậy.

Dứt lời, nàng bảo Quản Kình lui lại chỗ Minh Thần, đoạn bước tới bên cây cột lớn, vỗ chát một cái, hô lảnh:

– Vệ đội! Triệt cơ quan, rút khỏi chính dinh! Reng reng, liền hồi chuông
trong tủ nổi lên, vụt nghe rầm rầm sập sập liền năm, bảy tiếng, cả khu
nhà khach như chuyển động, từ hai bên vách ván gỗ hé mở, phóng vút ra
hàng chục mũi giáo nhọn, là là sát mặt sàn lên tới đầu người, cứ hàng
giáo này phóng sang vách bên kia mất hút, đạn xuyên qua hàng loạt tên
độc, bắn chéo kín phòng, trừ chỗ hai người ngồi. Trên trần năm, sáu tấm
lưới chụp xuống, rồi sàn gỗ mở, bật lên năm sáu tấm. Từ dưới, hàng chục
tay súng rừng lùi lùi nhô lên, hàng năm, sáu con mãnh thú trồi lù lù, lừ đừ sừng sững đi ra phía cửa tiền hết.

Ngoài hành lang, bọn gác cũng xách súng bỏ đi. Cô gái vỗ tủ, rút hết lưới lên, đóng các cơ quan cạm bẫy lại, cười bảo:

– Các thứ này trước do phụ thân tôi chế ra, phòng quân gian đột nhập,
chúng quân vệ vẫn giữ lệ cũ. Không muốn làm tiên sinh kinh động nên tôi
chỉ lẳng lặng để tiên sinh ngồi chơi nơi tử giác. Giờ chắc hai thầy trò
đỡ ngại, tôi có thể đi lấy đồ trà được chứ? À quên, còn tủ súng nưa.

Dứt lời, nàng lại ngồi nơi bộ ghế cẩn đá xế bên bộ hai người và vỗ vào tay
ghế một cái. Nghe cạch hai tiếng, từ hai gốc cột tủ, bỗng mở ra một
đường rộng hơn phân, ló dạng hàng mũi súng đen ngòm chĩa vào khu ghế
nàng ngồi.

– Nếu vỗ hai tiếng, súng khai hỏa luôn. Dứt lời, nàng ta cũng gái hầu bỏ đi về phía hữu.

Hai người nhìn theo bóng uyển chuyển mất hút sau rèm, thật tình vẫn chưa
biết nữ chúa rừng xanh này là loại hảo nữ hay hồ ly đột lốt. Vì nếu nàng có thể thành thực tiếp khách không ác ý, nàng ta vẫn có thể là tay “cao đòn” cho biết năm, bảy món “bảo bối” và làm cách nào biết được nàng còn giữ lại vài ba món khác nguy hiểm gấp mười để chờ dịp ra tay? Quản Kình lẩm
bẩm: “một cô gái khó hiểu”. Minh Thần bâng khuâng “bí mật như thượng
nguồn sông Hắc” và chàng trai quyết tâm dò hỏi thực hư.

Rất kín
đáo, chàng trai đưa tay phát điện nhè nhẹ quanh chỗ ngồi, quả không còn
chạm một luồng nhiệt khí nào nữa. Bèn thử rê vào tận cửa thông, bỗng hơi giật lòng nghe trong phòng có tiếng cô gái chủ thánh thót vọng ra:

– Tiên sinh này đa nghi như Tào Tháo. Tôi một lòng thành thực tiếp khách, chàng cứ mãi ngờ vực lòng người, gái này còn biết tính sao cho chàng
khỏi nghi?

Giọng nàng ta có vẻ hơi trách móc, lại bị bắt quả
tang đang dò trộm, Võ Minh Thần ngượng hết sức, vội co tay, gãi cằm,
cười xòa bảo:

– Xin cô nương miễn trách. Nhất nhật tương kiến,
lại gặp cô nương trong cảnh khác thường, nên ngu mỗ lấy làm… thắc mắc
vậy thôi. Nếu có lòng như Tào A Man, chắc ngu mỗ chẳng dễ tin mà vào
chơi trong “pháo đài kỳ lạ” này.

Cô gái cười khanh khách, cầm
bình trà cùng bọn gái hầu uyển chuyển bước ra. Đám thị nữ khác cũng vừa
mang hỏa lò tới. Cô gái xua tay cười bảo:

– Thôi! Bỏ chuyện nghi nan áy náy đi. Tiên sinh! Ta uống trà cho vui. Đời người nhiều oan
trái. Gặp gỡ bất ngờ ngàn năm dễ lấy gì mua nổi.

Minh Thần nghe
nàng nói, bỗng nhiên lòng cảm động lạ. Bề ngoài coi tươi tỉnh, cứ nghe
khẩu khí, cô gái này chẳng phải gái quý tộc chỉ quen vui hưởng đời sống
cơm bưng nước rót, ra giày vào dép, nàng vẫn còn có tâm hồn vô cùng
phong phú, tế nhị, thiên về đời sống tinh thần và hình như còn một tâm
sự u uẩn mang mang, thật khó hiểu.

Có điều kỳ khôi nhất là chỉ
một câu nàng vừa nói, tự dưng chàng trai thấy hết nghi ngờ, sinh vững dạ hơn, mặc dù chưa rõ nàng là hạng gái nào. Tần ngần ngồi ngắm nàng quạt
hỏa lò than nấu nước và các “đồ nghề”, rõ ràng nàng ta đã quen sinh hoạt lối người Kinh và rất sành “điệu nghệ” uống trà của giới phong lưu ẩm
giả dưới xuôi, có thể nói đã thông thạo “trà đạo”.

Ấm thuộc loại “Cò bay” có “kim hỏa ” để tính độ nước sôi “mắt tép, mắt cua”; bộ đồ
trà nàng vừa đem ra thuộc loại cổ, khay khảm ấm chén đều cổ, bốn cái
chén trôn quýt, một cái chén tống, thứ nào cũng đặt trên đĩa cổ, vào bộ, có mảnh vải điều phủ; ấm có ba cái, một cái độc ẩm bé như ngón chân
cái, một song ẩm và một quần ẩm, gọi là quần ẩm nhưng cũng chỉ vài ba ẩm giả vậy thôi; đặc biệt cả ba đều thuộc bộ “Ngọc phủ” màu chu sa đỏ thắm như vành môi nữ chủ.

Thứ nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Đức Bội, thứ ba Mạnh Thần (Đức Bội là Thế Đức, Lưu Bội). Liếc sang bàn nước, bình trà, chàng trai nghĩ thầm:

– Bàn nước kia là “Diệp sương liên”, “Diệp thủy tiên dạ
vũ”, trước tôn sư vẫn dùng, sau trận mưa đêm, lá sen sạch sẽ tinh khiết
còn đọng lại vài giọt nước mùi hoa lá, sáng sớm chèo thuyền ra hứng từng giọt nước sau cơn mưa đêm, gọi “Diệp thủy tiên dạ vũ” hoặc với những
giọt sương đêm còn đọng trên lá sen gọi “Diệp sương liên”, tay ẩm giả ít khi vớt sương đọng trên cánh, đài sen, sợ mùi vị sen thơm quá “giết
chết” hương trà. Món này, trước mình vẫn phải đi vớt về dâng tôn sư uống trà sớm. Nhưng con “Phi Mã trà” chẳng hiểu trà gì? Thường nghe người ta nói “Trảm mã trà” cho ngựa đói ăn trà ướt, chặt cổ mổ bụng lấy trà pha
uống, trà ướp thêm “chất trong bụng ngựa” uống vào tuyệt ngon, thiên hạ
đồn Tây Thái Hậu hay dùng như món óc khỉ, chuột sâm bao tử. Nhưng quả
mình chưa nghe nói “Phi Mã trà” bao giờ.

Tuy nghĩ vẩn vơ, nhưng chưa tiện hỏi, và vừa khi có nước sôi, cô gái lấy trà pha, đưa khách chén “tống khẩu”, cười bảo:

– Tiên sinh uống thử coi thứ trà này ngon chăng? Từ trước, thiên hạ vẫn
ca tụng trà hái trên ngọn Vũ Di Sơn, tôi cũng đã uống được đúng thứ trà
khỉ hái trên ngọn đỉnh. Nhưng tôi lại thấy thua thứ trà “Phi Mã” này. Do chuyện tình cờ, một bữa tôi cùng phụ thân lên rặng Pi A Ya chơi, có đem theo mấy con vượn lớn rất khéo. Đàn vượn leo lên ngọn Phi Mã cao hơn
2000 thước, kiếm trái ăn và bứt xuống một cây trà rất lạ. Thân bằng cổ
chân, lại thấp lùn chỉ sáu, bảy chục phân, cành cũng to, sù sì, coi như
loại cây cảnh có những chiếc lá, búp nhỏ bằng nửa trà thường. Bèn hãm
sống uống thử, thấy ngon, đem sao ướp, uống vào tuyệt hảo. Có lẽ đất xứ
ta vốn trồng trà rất ngon, thứ thượng sơn trà này mọc đỉnh núi đã lâu
nên hấp thụ được lắm màu mỡ, khí trời cao sơn nên mới ngon hơn trà Vũ Di bên đất Quý Châu.

Thầy trò Minh Thần uống thử, quả thấy ngon
đậm lạ thường, không sai lời nàng nói. Lúc này Quản Kình cũng đã yên trí đôi chút, cùng ngồi uống. Chủ khách uống trà đàm đạo rất tương đắc,
nhưng toàn chuyện trà nước, sơn thủy, phong tục gần xa, nàng chẳng đả
động gì tới chuyện “lạc lối” của khác. Võ Minh Thần chợt hỏi:

– Chẳng hay lệnh song thân đâu, không thấy? Ngu mỗ ước được bái yết, tiện chăng?

Cô gái dịu dàng đáp:

– Song thân tôi đi vắng đã mấy ngày chưa về! Người xuống Lai Châu. Tôi hiện chỉ có một mình, còn chú em cũng đi vắng.

Võ lại hỏi:

– Cô nương có thể cho biết quý danh? Rất tự nhiên, nàng đáp:

– Tôi tên Nguyệt Kiều, họ Đèo! Còn tiên sinh?

Không cần dấu, chàng trai đáp liền:

– Ngu mỗ Minh Thần, họ Võ, người dưới Yên Bái. Còn đây là chú Kình.

– A! Thế ra tiên sinh người Kinh gốc, tôi thấy, đoán ra ngay. Coi tiên sinh hình như lệnh từ mẫu là người miền núi.

Minh Thần chịu nàng tinh mắt, cười bảo:

– Còn cô nương tuy công chúa Thái đe, ngu mỗ coi chắc lệnh từ mẫu là người Kinh.

Cô gái mỉm cười:

– Tiên sinh thấy tôi giống người Kinh nhiều sao? Nhưng điều này, ông đoán sai rồi.

Minh Thần ngạc nhiên nghĩ:

– Không có máu Kinh sao coi giống Kinh rất nhiều. Chẳng lẽ cha họ Đèo lại là dân ta? Hay nàng du học lâu dưới xuôi?

Chàng trai uống từng ngụm nhỏ trầm ngâm, đang mơ màng nghĩ cách hỏi dò thêm, sực nghe cô gái họ Đèo vùng hỏi:

– Chẳng hay tiên sinh lên miền thượng nguồn sông Hắc này có chuyện chi?

Như được gãi đúng chỗ ngứa, Võ ngó cô gái họ Đèo, không đáp ngay mà chậm rãi hỏi:

– Chẳng hay cô nương ở đây có biết miệt lưu vực Hắc Giang nguồn thượng này có sào huyệt một con tinh cực kỳ nguy hại?

Nàng nhướng mày:

– Một con tinh? Tiên sinh muốn nói loài quái vật thành tinh? Chàng trai mắt ngó thẳng mắt nàng:

– Vâng! Một con tinh, chó sói thành tinh, thiên hạ vẫn gọi “Tinh chúa
tứtúc Hồng Cẩu Quẩy”, một trong hàng tứ khoái tứ hung, cực kỳ độc ác.
Chính ngu mỗ đang đi tìm cung động Tây Sắc Ma Vương.

Mặt vẫn không đổi sắc, cô gái hơi nhíu mày, liền hỏi:

– Có chuyện chi quan hệ, tiên sinh có thể cho biết chăng?

Giọng u buồn, Võ nói chậm muốn nghẹn hờn:

– Nó giết hại
sinh linh, gieo oán khắp biên thùy, nó hấp sát mẹ mỗ, sau khi đã tàn hại gia đình, còn tìm tận diệt ngu mỗ từ lúc chưa rời vú mẹ. Oán ấy tích đã mười bảy, mười tám năm, mỗ chỉ sợ chết đi chưa được moi gan mổ ruột nó
tế vong hồn cha mẹ. Cô nương ở miền này có nghe chuyện nó?

Cô gái họ Đèo khẽ thở dài:

– Nếu vậy thật là điều bất hạnh cho tiên sinh. Quả tôi có nghe nói tới
nhân vật kỳ bí đó, nhưng hình như ở mãi tận bên kia hữu vực mạn gần ba
biên giới, vùng A Pa Chải, Pam Pou Txe, có khi bên kia đất Vân Nam, hay
Phong Salỳ chưa ai biết rõ. Xưa nay, miền này chưa bị nhân vật đó phạm
tới. Tôi có nghe nói nơi Ma Vương ở vô cùng bí mật, xưa nay chưa ai tới
nổi, hình như có cả ma trành, ma xó canh gác nữa. Lũ âm binh này sẽ vật
chết tươi kẻ nào tới gần. Chắc ông cũng biết? Vào chỗ đó là vào “cửa tử
thần”, sao ông không đợi cơ hội đợi hùm thiêng ra khỏi hang?

Minh Thần ngậm ngùi:

– Cừu hận kéo dài ngót hai mươi năm rồi, nay gươm mài đã sắc, không thể đợi thêm.

Chủ khách ngồi đàm đạo, xem ý nàng ta có vẻ lo ngại cho khách gặp phải kẻ
thù vô cùng lợi hại, nên nàng cũng không khuyên bỏ đi. Tàn tuần trà, Đèo Nguyệt Kiều mời thầy trò Võ Minh Thần dùng bữa tiệc đủ món sơn hào.

Rượu cẩm hạ thổ lâu năm ngon lạ, hai người uống mềm môi, còn muốn uống cho
đến say mềm. Nhưng nữ chủ pháo đài vẫn không để khách quý say, thầy trò
Võ cố ý vờ say, Đèo Nguyệt Kiều thấy thế mới hết nghi ngại,

Xong tiệc, Minh Thần cáo từ ra đi. Nàng lưu lại không được, bèn đưa tiễn hai người ra tận cửa rừng. Lúc đó, trời đã xế chiều.

Lời cô gái họ Đèo vẫn không căn cứ. Hai người bàn nhau không đi ban ngày
nữa, lộn vô chỗ để quan tài, chờ đêm xuống để ngựa lại, dẫn theo hồn
“quỷ xó” nương đêm sương lạnh rừng già, đi ngược lên thượng nguồn.

Vào khoảng giờ Hợi, đã tới khu giang biên vẫn chẳng thấy chi lạ. Tới ngay
vùng ranh giới trông sang lãnh địa Vân Nam, giữa cảnh sơn lâm thiên
hiểm, bỗng gặp mấy con đường mòn ngang dọc cũng ra mạn Hắc Giang. Thượng nguồn thác réo, bốn bề hoang vắng không một ánh lửa nhà sàn, giang biên trùm bí mật, núi đồi chớm chở khắc đậm vào nền trời thành hình quái
thú. Nhìn thế núi sông hiểm cố, Minh Thần bảo Quản Kình:

– Coi thế sơn thủy này là nơi lập sào huyệt tốt lắm. Biết đâu
không phải nơi có hang động “nó”. Trên bờ hoang vắng, tịch liêu, biết
đâu dưới nước không là Cung A Phòng Tây Sắc? Tinh chúa khôn quỷ, làm vẻ
hoang sơ, không quân gác vì nó có trành xó rồi. Ta đợi quanh đây.

Quản Kình đưa mắt nhìn tứ phía, bảo chủ:

– Chỗ này địa thế, thủy thế đều hiểm trở, có thể là vùng thiết lập cung
động chúa tinh. Đêm nay, ta cứ phục đây, nếu chẳng thấy chi lạ, mai ta
sang lưu vực bên kia. Tôi nghĩ cậu hai cứ khiến “xó” tới sát biên giới,
phòng có việc dùng ngay.

Minh Thần gật đầu:

– Rất tiếc
“xó quỷ” không thể lìa xác được xa, phải chi ta có đủ thì giờ luyện
“gà”, “gà” có thể thám sát hàng trăm dặm. Nhưng đấu chiến, “xó quỷ” này
lợi hại nhiều, vậy ta cứ triệu tới. Có lẽ cho cả cặp sơn cẩu đến.

Khoảng gần giờ Tý, hai người đã ngồi trên một ghềnh núi cao, ngay bên con
đường xuyên biên hiểm trở, gần bờ Hắc Giang, sát biên thùy.

Biên địa chập chờn âm khí. Bốn bề quạnh vắng không một bóng sinh vật, ngoại
trừ tiếng “khắc khảm loọng sôi” hai bên đầu núi, tiếng chim oan gia
“trót thì bóp” gọi đôi rót vào linh hồn chàng tuổi trẻ cô đơn gợi oán
sầu mồ côi thê lương. Gói thi hài mẹ bọc sáp ong vẫn đeo dính sau lưng,
chàng tuổi trẻ ngồi bó gối nhìn xuống dòng sông Hắc nhấp nhô ghềnh thác, nước réo ào ào như tiếng… mơ hồ từ cõi xa xăm…

Quạnh quẽ,
hoang vu, man dại, khắc khoải… Đến lúc trăng lên, vẫn hoang vắng vô
cùng, mảnh trăng khuyết nhô khỏi rặng núi Đông, chảy mảnh vàng vọt xuống vùng Hắc Giang, sương khuya từng dải trôi lơ lửng, cảnh trí coi càng
quái gở như trong thế giới hồng hoang. Minh Thần lẩm bẩm:

– Lạ
thật, que độn Lục Nhâm ứng “giang biên hữu sự hung cát bất phân” sao…
vắng vẻ mãi thế này? Con đường mòn tuy cỏ mọc cao, nhưng vẫn có mùi cỏ
dập chứng tỏ vẫn có người đi, không lẽ thổ dân?

– Đã sao, mình cứ nấp đây… mai sẽ đảo vùng khác… Hay thử thám sát một vòng?

Quản Kình vừa dứt lời, thình lình từ nẻo trăng lên, có tiếng chó sói tru một tràng, âm nhọn hoắt vãi lên không trung vàng vọt, tỏa rộng khắp biên
thùy, Quản Kình nắm vụt lay tay chủ, thì thào:

– Sài kíu! Sói hoang hay có chủ?

– Tiếng tru mạnh tợn, có lẽ Hồng Cẩu Quẩy. Vùng này vẫn có chó sói…

Minh Thần vừa dứt lời, lại nghe vẳng tiếng sói tru tràng nữa.
Vừa dứt, dư âm chưa ngấm hẳn vào ánh trăng mờ, bỗng xế nẻo thượng lưu
sông Hắc có tiếng sói tru nhọn hoắt, vãi lên không liền hai tràng. Rồi
cả vùng sơn thủy hiểm cố lại rơi vào im vắng sâu thẳm, bặt cả tiếng khảm khắc.

Cặp Hắc Bạch Cẩu phục bên Võ hếch mũi lên đánh hơi, chúi mõm vào chàng, kêu “hí hí” nhỏ.

– À nó báo có người. Hắc Bạch! Xuống coi mau! Minh Thần ghé tai truyền
mật hiệu, hai con sơn cẩu phóng vụt xuống núi như hai mũi tên đen trắng, thoắt mất dạng. Nhưng chưa đầy ba phút, đã thấy hai con vật tinh khôn
này vọt về, cắn áo phát âm nhí nhí. Minh Thần vỗ đầu chúng, người vật
phục im sau ghềnh đôi cành xòa. Vụt đã nghe tiếng vó ngựa rầm rap chuyền sịch tới. Rồi từ sau núi, hiện ra một tốp nhân mã rầm rập đi thẳng ra
bờ sông Hắc. Chỗ này đường mòn lượn ngay dưới chân núi bọn Võ phục rồi
chạy quanh co sát lợi nước về nẻo thượng lưu giữa những mỏm đá nhap nhô
cao thấp không đều, rất thưa cây cỏ. Thấy tốp người ngựa đi tới, Võ Minh Thần, Quản Kình vội rời chỗ ẩn, men xuống dưới. Chỗ này kín, nhiều mỏm
đá che chắn hết sức thuận lợi, hai người cùng Hắc Bạch Cẩu vọt xuống còn cách mặt đất độ mười sáu thước thì tốp người ngựa kia cũng vừa ra tới
bờ sông. Cả đám dừng lại, hướng cả về phía dòng trăng. Chừng hơn chục
bóng khỏe mạnh, cưỡi ngựa, đeo súng, dàn đứng hàng một, tất cả mặc quan
áo chàm rừng, chít khăn Mèo. Bọn này hộ tống một chiếc “cáng” lớn đóng
trên lưng hai con ngựa khỏe giống Nước Hai. Cáng dài ngót hai thước,
rộng khoảng bảy mươi phân, toàn bằng thổ cẩm màu sặc sỡ, mảnh phủ có
tua, viền thủy ba màu, có một khoảng dệt trống làm cửa sổ hình tròn nhật nguyệt, trong còn có bức rèm trúc nhỏ, mỗi cơn gió thổi, trúc mành khua lách tách dòn khô. Phía sau càng có hai cô gái cưỡi ngựa Thổ nhỏ nhắn,
mặc lối Mèo, chít khăn nhiễu vành như cái rế, chân quấn sà cạp trắng,
đeo “xà tích” khua loảng xoảng. Cuối đoàn có một người Mèo trạc ngũ
tuần, râu ba chòm lưa thưa, đi với hai gã cao lênh khênh, cưỡi ngựa cũng cao, hai tên này mặc quần áo đen tuyền, mặt trùm vải đen, chỉ hở hai
con mắt coi âm u quái gở như hai bóng cô hồn vì cả hai con ngựa cũng
trùm vải đen hệt ngựa kéo xe đòn đám ma. Dưới chân ngựa còn có hai con
sơn cẩu lớn nữa. Cả bọn coi đung đoàn lữ hành từ miền xa tới, vì người
ngựa đều ướt loáng mồ hôi, yên sau có cả hành trang. Vừa dừng lại, lão
Mèo nói chi với hai gã trùm mặt, hai gã cúi xuống ra hiệu, hai con sơn
cẩu vùng lên đi hai chân khật khưỡng tiến ra sát bờ sông, trèo lên một mỏm đá trống, ngửa mặt tru mỗi con một tràng “quăng quăng” âm nhọn vãi về phía mặt trăng lạnh. Lập tức có tiếng sói tru đáp ứng. Minh Thần thì thầm:

– Trùm mặt, sói
tinh đi hai chân… đúng quân Ma Vương Sắc rồi. Không lẽ nó ngồi trong
cáng? Nó thường ngồi kiệu, có chó đàn đi theo. Bọn Mèo kia là bọn nào
đây?

Lúc này, cả người vật đều bôi thuốc không sợ sói đanh hơi,
hai thầy trò Minh Thần ẩn sau ghềnh, chiếu nhãn tuyến quan sát đoàn lữ
hành lạ, cả hai mừng khôn xiết, cố đợi nghe lỏm, nhưng tất cả câm nín
như lũ oan hồn.

Bỗng nghe có tiếng kêu “kia rồi”, lão Mèo cùng
hai tên trùm mặt tiến ra phía bờ sông. Từ sau mỏm đá thượng lưu xế Bắc
ngạn, phóng vụt ra một con sài kíu to lớn thuộc giống Hồng Cẩu Quẩy mắt
đỏ, trên lưng “cõng” một bóng lòa xòa đen thui. Hình người sói chờn vờn
dưới trăng khuyết, coi huyền bí hết sức, thoắt đã tới sát đoàn lữ hành,
bóng lòa xòa nhảy xuống. Đó là một tên khổ người tầm thước, gầy đét,
khoác mảnh chăn đen, cũng trùm kín mặt.

Tên này vừa nhảy xuống,
hai tên kia lập tức nhay xuống theo, cúi rạp chào, vẻ kính cẩn hết sức,
lão Mèo cùng toán người cưỡi ngựa hộ tống cáng cũng rạp chào xuống đất.

Một tên cao trùm mặt phát âm:

– Phìn Mường La Nam Cương trên núi cao đem con gái quý tiến cung, xin

Quỷ Môn Tiền Độn Thổ cung tiếp nhận.

Tên này nói giọng Thổ, nói xong quay lại bảo lão Mèo:

– Đây quan Chưởng vệ trấn cửa tiền vương cung Thủy! Phìa cứ nói. Giờ bọn này hết nhiệm vụ, phải quay lại cửa rừng.

Dứt lơi, bọn này định đi luôn, lão Mèo gọi giật:

– Chưa mở mắt mà! Tới sao chưa mở mắt? Hai tên này lừ lừ tiến lại cạnh
lão Mèo. Mãi lúc đó, bọn Minh Thần mới kịp để ý thấy lão Mèo Phìa cùng
bọn hộ tống, cáng gái hầu, ke nào mắt cũng dán tem đen. Hai tên này dùng thứ bông gòn tẩm thuốc riêng quét lên mặt tem trước khi bóc. Xong quay
đi liền. Bọn Minh Thần mừng hết sức. Trên Mèo, ông Phìa cũng như chức
chính tổng dưới Kinh, và Phìa là một chức quan coi một vùng lãnh thổ.
Mường La nằm trên sông Nậm La thuộc Vân Nam, Nam Cương thuộc đất Việt
vùng biên thượng.

Phong Thổ là miền sơn lâm trùng điệp và cũng như các miệt thượng du suốt từ Lĩnh Nam sang tới Quý Châu, Tứ Xuyên, sắc dân Mèo ở rải rác
trên các ngọn núi đồi chót vót mờ sương.

Gái Mèo mắt hơi xếch
coi giống mắt phượng, đùi dài thuôn lẳn, bụng thắt, nhũ căng đầy sức
sống, nước da hồng hào vì khí hậu cao sơn rất tốt, xưa nay xứ Mèo thường sinh nhiều gái đẹp.

Vậy nay lại chính ông Phìa miệt Mường La,
Nam Cương phải thân dẫn con gái tới tiến dâng cho Tây Sắc. Dẫu Phìa nhỏ
hơn tù trưởng lớn, nhưng cũng là một thứ tù trưởng nhỏ địa phương, cũng
đủ để bộ tộc thí mạng đương đầu.

Hai thầy trò Minh Thần bỗng
sinh tò mò muốn coi mặt cô gái tiến cung. Sực nghe tên gầy đét có chức
“Quan Chưởng vệ trấn cửa tiền” hỏi dõng dạc kho âm bằng tiếng Mèo:

– Phìa được lệnh Chúa Ma Vương cho tiến cung con gái, có thẻ bài chăng?
Lão Phìa Mèo gật đầu moi trong mình ra một… miếng xương trắng hếu, có
lẽ là xương người, mài giũa rất nhẵn, chừng trên có khắc hình chữ chi
đó, nấp trên không thấy rõ. Chỉ thấy tên kia vừa cầm lấy soi ánh trăng
coi qua, chợt kêu lên sửng sốt:

– À thẻ bài huy hiệu Tây Cung. Tây Phi mới mất, con gái Phìa được phong phi cung Tây.

Kêu xong, tên “quan Chưởng vệ” này lại cúi chào lão Mèo, đoạn xăm xăm tiến lại chỗ cáng đậu, nói một tràng tiếng Mèo:

– Chưởng vệ quỷ môn tiền, Độn Thổ cung nô tướng, xin bái yết Tây Phi và thỉnh Tây Phi nhập cung môn.

Bên trong có tiếng khóc thút thít đưa ra, lão Phìa Mèo đứng bên cáng vùng sa nước mắt bảo tên Chưởng vệ:

– Phìa hiếm hoi, trên ba mươi mới sinh được mụn con gái này. Nó tên Kheng Lan, mới mười tám tuổi, từ nhỏ chưa hề xa nhà, nay Chúa Sài lang tứ túc truyền đem tiến cung, nó sợ lắm, khóc suốt ngày đêm, xin Chưởng vệ tâu
với Chúa Sài lang hãy rủ lòng bao dung, dạy dỗ. Phìa đội ơn.

Dáng vẫn lạnh lùng âm u, bóng đen lòa xòa có tôn hiệu “quan Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn” hơi nghiêng mình, lễ phép:

– Soái Vương Tinh vốn có thiên tính thích mỹ nữ lưng eo như Sở Linh Vương Hùng Kiều xưa. Nội trong Ngũ Cung Thập Viện, các nương nương cai quản
cung viện đều thuộc bực “Tế Yêu Nương”, cả năm cung đều là “Tế Yêu Cung” phi hậu. Lệnh Kheng nương đã được Soái Vương Tinh phong phi, cai quản
cung Tây, đứng đầu hàng trăm mỹ nữ khắp hai viện, chẳng những đã được vương gia sủng ái, tất nhiên oai quyền trùm cung thất, không còn
phải ngại điều chi nữa. Xin cho bái yết nương nương.

Dứt lời, y
gọi con sài kíu lớn tới, cả người vật phủ phục luôn xuống đất, coi không khác thần dân, quan chức làm lễ triều phục trước ông hoàng, bà chúa
vậy.

– Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn Độn Thổ cung xin bái yết Tây Phi Chúa nương nương trường thọ.

Thầy trò Võ Minh Thần nấp ngay ghềnh núi xế trên nghe y “tấu yết” không cười nổi. Cử chỉ ngôn ngữ y kể ra cũng đầy vẻ trào lộng, giữa vùng biên
hoang dã, nhưng lòng hai người đang hồi hộp, chỉ thấy rõ là miền biên
địa quạnh hiu vắng vẻ này chỉ có bộ mặt hoang sơ cô tịch, nhưng bên
trong là cả một triều đình bí ẩn, với đủ thứ quái nhân, quái thú, cạm
bẫy, ma xó, ma trành ẩn nấp tiềm tàng dưới đất, dưới nước và tuyệt đối
trung thành với Ma Vương Sắc như lũ thiêu thân say mê nhảy vào “ngọn lửa ma”.

Chợt nghe trong cáng có tiếng phụ nữ Mèo vọng ra líu lo, giọng vẫn đầy nước mắt:

– Thôi thôi! Mi đứng dậy, không phải lấy lời ngon ngọt lừa ta nữa. Đàn bà con gái vào cung Tây Sắc, còn gì mà chúc sống lâu! Chúa Sài Lang nhà mi chuyên hấp sát đàn bà con gai, vào cung Chúa Sài Lang ghê hơn vào địa
ngục. Ta còn lạ gì thân phận gái tiến cung.

Nói xong, lại nghe
tiếng hắt ra bi thảm hết sức, làm lão Phìa Mường La Nam Cương thương con gái quá, lại vùng sa nước mắt, miệng kêu “Kheng Lan con ơi”!

Tên “Chưởng vệ” cô hồn đứng dậy, tiến lại sát cáng, vẫn lễ phép bảo:

– Tây Phi nương nương lầm rồi! Mỹ nữ trong Thập viện sao sánh nổi các bậc “Tế yêu nương nương” trong Ngũ cung? Mỹ nữ Thập viện như loài hoa bứt
đem cắm lọ, và “Tế Yêu Nương” Ngũ cung là những đóa hoa vương giả đời
đời đậu nguyên trên cành để vương gia thưởng ngoạn nâng niu. Trong Ngũ
cung đâu không có tiếng cười, chim ca hoa nở. Tế Yêu Nương đi một bước
chuong khua nhạc nổi, đi hai bước hoa nở gót hài. Dương Quý Phi ở cung
Đường, Tây Thi ở Cô Tô Đài Ngô Cung cũng đến thế thôi! Hàng vạn mỹ nữ
trên đời ôm giấc mộng vàng son chưa được, dưới Cung Thủy chỉ có năm bậc
quốc sắc mới được phong phi, hậu. Đời thục nữ tiến cung làm phi hậu là
điều đại hạnh, hoa nở vườn thượng uyển càng thêm hương sắc, cớ sao lại
héo sầu? Tây Phi hãy vui lên, để kẻ nô bộc này rước xuống Cung Thủy, vui duyên A Phòng.

Giọng y nói tiếng Mèo rất hay, tuy vẫn lành
lạnh, mà nghe êm hết sức, hình như cũng làm gái tiến cung trong cáng đỡ
lo buồn, héo hắt, kinh mang.

Thầy trò Minh Thần đều thông nhiều thổ ngữ sơn cước, nghe rõ
từng lời tên “Chưởng vệ” cô hồn kia nói. Chàng trai bất giác thoáng ngạc nhiên nghĩ thầm:

– À tên cô hồn này xem chừng không phải chỉ
biết nghề canh cửa cho Ma Vương. Y nói văn vẻ, chải chuốt như hạng “xuất khẩu thành chương”, chứng tỏ đầu óc phong phú khác người. Ma Vương Sắc
không hổ tiếng “thành tinh”, đến kẻ nô bộc của nó cũng là tay điệu nghệ, còn nói chi nó nữa. Người như tên này cam tâm thờ Tây Sắc, chẳng hiểu
do “ngải yêu” hay chỉ vì liệu tài hâm mộ? Tối nay, không ngờ lại nắm
được “đường dây mật” đi cung động Ma Vương, phải cẩn thận giấu tung tích lắm mới được.

Đang bế điện, nín thở, theo dõi, chợt thấy mành
trúc sào sạc, rồi bưc rèm che khung trống vén hẳn sang bên, có một khuôn mặt đàn bà lấp ló, nghển trông sang.

Chừng cảnh sơn thủy thượng nguồn Hắc Giang dưới trăng khuyết đầu xuân làm nàng xúc động, người nữ
nhô hẳn cả nửa mặt ra với bơ vai thon lẳn. Ánh trăng xiên chiếu chếch
khung cửa sổ, soi rõ mặt hoa rừng làm hai thầy trò Võ Minh Thần trông
thấy phải khen thầm là trang mỹ nhân biên thùy, tuy mặt nàng vẫn che một lần “voan” mỏng như tơ trời, coi như gái Thổ Nhĩ Kỳ che chàng mạng. Dầu vậy cũng trông thấy dung nhan. Đó là một cô gái Mèo trạc mười bảy, mười tám, mắt hơi xếch, sáng long lanh, mũi thon, mặt hoa còn hoen nước mắt
sau lần “voan” rất thưa, mỏng coi mờ mờ huyen ảo đẹp như bông hoa rừng
còn ướt sương sớm.

Nàng đưa một tay lên nắm mép “voan” trùm, cất tiếng líu lo thánh thót như chim sơn ca:

– Đây là đâu… chú “vệ”?

Tên quan “Chưởng vệ” ngó lên hơi cúi đầu như không dám nhìn thẳng vào mặt
Tây Phi sợ mòn mất nhan sắc Tế Yêu Nương của Chúa Sài Lang Tinh:

– Dạ, đây là thượng nguồn Hắc Giang ngoại cung thủy.

Cô gái Mèo tên Kheng Lan này đưa mắt nhìn cảnh sơn thủy nằm bặt dưới trăng khuya sương mờ, khẽ hỏi:

– Cung động đâu? Sao chỉ thấy núi đồi rừng cây như bên Mường La?

– Thưa nương nương, cung Thủy mãi dưới đáy sông Hắc phía trên nguồn nước kia.

Tên cô hồn “Chưởng vệ” đưa tay trỏ xuống Hắc Giang nguồn thượng xa xa chút, nơi sóng rừng cuồn cuộn, đá nhọn nhấp nhô ngăn dòng lưu thủy thành từng ngọn nước bạc đầu như hình quái nhân quái thú từ dưới vụng vừa
chui lên chực nuốt người bội thủy.

Nghe y bảo cung động dưới
sông, cô gái Mèo đầy vẻ kinh ngạc, lên tiếng hỏi nhưng tên này không
đáp, có lẽ y vừa sực nhớ đã đi ra ngoài nhiệm vụ trấn nhiệm tiền môn,
nên vội giang tay nói lớn:

– Giờ xin rước Tây Phi qua tiền môn,
kẻ nô bộc này còn bào cho dưới cung Thủy lên đón. Còn Phìa và gia nhân
có thể quay về Mường La. Phìa thân dẫn Tây Phi tiến cung tới tận tiền
môn này, là tròn bổn phận rồi. Soái Vương Tinh sẽ hài lòng, chac sẽ tặng Phìa nhiều châu báu.

Lão Phìa Mèo nói luôn:

– Phìa
không cần châu báu vàng bạc. Nhà Phìa có. Phìa chỉ cần đưa đứa con gái
quý của Phìa xuống cung Thủy dâng cho Chúa Sài Lang là Phìa vui. Dẫn
Phìa đi.

Tên cô hồn trùm mặt nghiêm giọng:

– Xưa nay vẫn có lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, “ai muốn vào chặt đầu để
ngoài”. Không có lệnh Chúa, kẻ này không dám dẫn. Phìa hãy trở về. Dưới
Độn Thủy cung, ma trành, ma xó vật chết người. Kẻ này cũng còn chưa biết cung Thủy mà.

Lão Phìa xua tay:

– Không không! Phìa
phải đưa con gái Phìa xuống gặp Chúa Sài Lang. Chúa đã bảo Phìa. Phìa
không trao con gái Phìa cho ai đâu. Nếu không gặp Chúa Sài Lang, cha con Phìa về Mường La.

Tên cô hồn “Chưởng vệ” vẫn không nghe, chỉ
một mực đòi thỉnh Tây Phi xuống Độn Thủy cung, có lẽ vì y quá sợ cấm
lệnh của Ma Vương. Y dùng hết lời lẽ ngọt ngào khuyên lão Phìa, viện đủ
điều khó khăn nguy hiểm, nhưng lão Phìa cũng nhất quyết đòi trao con gái tận tay Tây Sắc Tinh. Cuối cùng, chợt lão Phìa nói lớn:

– Chúa
Sài Lang đã có lệnh cho Phìa đưa con gái xuống cung động. Nay “vệ” coi
cửa ngoài cứ đòi Phìa về, một mình đem Tây Phi đi, hay “vệ” có ý như Phí Vô Cực? Phìa đã đọc Đông Chu, Phìa biết mẹo Phí Vô Cực à.

Chẳng hiểu sao, nghe lão Phìa Mèo nhắc tới chuyện Phí Vô Cực tráo hôn, tên
“Chưởng vệ” cô hồn bỗng thất kinh, trợn tròn hai mat, không dám một mình lãnh gái tiến cung nữa, chắc y cũng chột dạ sợ mang vạ vào thân.

– Kẻ này không dám đem Phìa theo chỉ vì cấm lệnh. Để Phìa theo, phạm cấm
điều, một mình lãnh Tây Phi còn lo tai vạ hơn nữa. Vậy cũng đanh dẫn cả

Phìa tới Độn Thủy cung để trong đó định liệu. Thôi. Phìa cùng
hai thể nữ mau rước Tây Phi theo kẻ này, còn toàn quân hộ tống hãy theo
bọn tiền sát trở ra.

Lão Phìa cả mưng, vội truyền đám gia đinh
lập tức quay ra, mắt vẫn bịt kín, đoạn cùng hai cô gái hầu “phò” nàng
Kheng Lan theo tên “Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn” đi thẳng lên nẻo thượng
nguồn Hắc Giang.

Đợi bọn này đi khỏi quãng ngắn, hai thay trò Võ Minh Thần bèn truyền “xó quỷ” mở đường, dẫn Hắc Bạch Cẩu theo hút luôn chúng.

Nhờ có hồn quỷ xó Ma Khách và cặp sơn cẩu thính hơi, bọn Minh Thần phát
giác ra được tất cả các trạm gác ngầm dưới đất, trong kẽ đá. Khu này
cũng chỉ có một vài trạm gác, có lẽ vì đã lọt nội cung, thủ hạ đóng
ngoài vòng đai. Nhờ tại dạ hành điêu luyện, hai người đã vượt êm thắm
không hề bại lộ.

Tên Chưởng vệ dẫn đám lão Phìa đi dọc bờ sông
quanh co ẩn hiện giữa mỏm đá, cây cỏ, bờ bụi, chừng nửa dặm nữa, chợt
dừng lại, con Hồng Cẩu Quẩy vênh mõm tru lên ba tiếng dài, tiếng sói tru trăng khuyết đêm sương lạnh, kẻ bạo gan nghe cũng phát rợn vì âm gai
quái gở như trong ác mộng hồng hoang. Lập tức có tiếng sói tru đáp ứng
giữa sông.

Bọn Minh Thần đứng cách đó chứng 20 thước ẩn trong
bụi rậm đưa mắt quan sát, thấy khu này địa thế, thủy thế hiểm hóc, vừa
cẩm tú lạ thường. Hai bên tả hữu ngạn, núi đồi rừng rú trùng trùng điệp
điệp, nhấp nhô hình quái tượng, tuy về cữ giêng, hai không có mưa nguồn
nước lũ, Hắc Giang khúc này coi vẫn “nghịch” hết sức, nhiều ngọn bạc
đầu, vụng xoáy đựng đầy ánh trăng, nước réo ào ào phát ra một thứ âm rất lạ tai, nghe ầm ừ như tiếng thú dữ “gừ” mồi, có lẽ xói vào những hốc
ghềnh chìm nổi dị thể.

Bọn Minh Thần đảo mát nhìn, phỏng đoán có lẽ khúc này nằm giữa hai lãnh thổ, bốn bề tuyệt không ánh lửa le lói.
Sực nghe tên Chưởng vệ trùm mặt bảo lão Phìa, tay trỏ ra sông:

– Cung Thủy dưới đó.

Cả hai cha con lão Phìa cùng hai cô sơn nữ tỏ vẻ kinh ngạc, cô gái được phong Tây Phi vén rèm trúc, thò hẳn đầu ra dòm:

– Cung Thủy đâu? Có thấy căn nhà nào đâu?

Tên Chưởng vệ phát ra tiếng chìm âm u:

– Quỷ tiền môn Độn Thủy cung đến đây là hết nhiệm vụ kẻ này. Từ đây lên
phía thượng nguồn Tây Bắc thuộc “vệ” khác. Từ đây xuống dưới thuộc Độn
Thủy cung. Kẻ này cũng chỉ biết cung động soái vương Tinh Quân dưới đó,
kẻ này trấn đã mười năm trên này, vẫn chưa được thấy cung son. Lệ của
Tinh Quân Chúa, đàn ông cứ hầu một giáp sẽ được xuống xem thủy cung.

Hai cha con lão Phìa vẫn chưa dứt kinh nghi sửng sốt, lão Phìa chợt bứt râu than:

– Ôi chao! Cung ma cung quỷ gì lại xây dưới nước như lâu đài vua Thủy Tề. Chúa Sai Lang ngự được, con gái lão là người cõi thế, xuống bội thủy
mất thôi.

Tên Chưởng vệ lạnh lùng:

– Chúa Tinh Quân cho
ai xuống, kẻ đó có kỳ duyên được ở động thần như trên mặt đất. Dưới cung A Phòng có cả Ngũ Cung Thập Viện, đầy chim kêu hoa nở, kỳ diệu như miền nước nhược non Bồng, giống như cung vua điện chúa trên trần.

Y
vừa nói xong, bỗng nghe đến “ùm” một tiếng lớn dưới sông Hắc, ai nấy
giật mình trông ra, không khỏi lạ lùng thay từ dưới đáy nước bắn lên một con đại chiêm ngư cực kỳ quái gở. Con cá bắn mình lên khỏi mặt nước hơn sải, mang theo cả một khối nước trắng xóa theo chiều chếch 45 độ, quạt
nước thốc về phía đuôi coi như cái dải quạt. Khi nước tóe cầu vồng đã

trút hết xuống, con đại chiêm ngư mới vật mình nổi phờ trên mặt sông,
bơi vụt vào chỗ lão Phìa đứng. Dưới trăng khuya, thì ra không phải con
cá quái, mà là một cái thuyền độc mộc không mái, hình thuyền coi như con quái nước kỳ dị. Trên thuyền có hai bóng người đen thui, mũi thuyền sơn son, có thiếp vàng chạm trổ lấp lánh coi như thuyền thờ.

Hai
bóng người đứng cứng đơ, thỉnh thoảng mới ngoáy bơi chèo nhẹ chọc xuống
nước, coi như hình gỗ đá. Nhưng chỉ vài mái chèo chọc nước, con thuyền
sơn son đã lao vụt vào bờ, nhanh xé nước.

Bỗng nghe “bựt” một
tiếng, ai nấy nhìn xuống đã thấy thuyền bật lên một cái núm gấm lam,
trùm uốn cửa tò vò che kín một khoảng đuôi thuyền.

Sự vọt xuất
đột ngột của con thuyền son làm cả bọn lão Phìa lẫn bọn Võ đều có cảm
giác chứng kiến một cảnh phi phàm. Tên Chưởng vệ cô hồn trỏ tay, giọng
trở nên háo hức:

– Coi kìa! Thuyền son dưới cung Thủy lên rước
Tây Phi. Ngồi trong cáng, nàng con gái ông Phìa nghe nói có người lên
đón, có vẻ xúc động, vén rộng mành trúc, thò cả đầu ra dòm, miệng hỏi
“đâu, đâu? “. Còn lão Phìa lật đật bước theo tên “quan Chưởng vệ Độn Thổ cung” ra sát bờ sông. Nấp xế gần cáng, bọn Võ Minh Thần chú mục trông
ra, thấy con thuyền quái từ dưới đáy sông vọt lên, bao nhiêu nước trong
lòng thuyền chảy ồ xuống sông hết, y hệt thuyền độc mộc đổ thác Bà thác Ông miệt Lục Yên châu, và khi thuyền hạ xuống theo đà chèo lao đi vùn
vụt theo một vệt thẳng băng kẻ chếch từ ngoài vào, hai thầy trò không khỏi khen thầm cho tài chèo
thuyền của hai bóng đen thui. Võ Minh Thần nghĩ ngay đến sức đẩy khác
thường, ghé tai bảo Quản Kình:

– Dưới nước, nếu không do một sức đẩy phi phàm, tất dưới đó có dây cáp cần trục đầy lên. Chắc còn nhiều cạm bẫy.

Chàng vừa dứt lời, con thuyền dị đã cập bờ, lượn vòng thúng, đậu quay mũi vô
hướng thượng lưu, mặt nước cách mặt đất độ ba thước cao, hai bóng đen
chỉ lắc nhẹ một cái đã vọt lên đứng cạnh tên Chưởng vệ trên bộ.

Hai bóng này đứng lù lù như tượng đá, câm nín như cô hồn. Nhìn gần, bọn
chúng trông càng giống tượng, coi càng gớm ghiếc, vì thân thể chúng
không mặc quần áo, mà lại bọc một thứ sáp hay chi đó, tựa thứ nhựa của
sắc dân Mán sơn đầu vẫn dùng để làm “bê rê nhựa”. Suốt từ bàn chân lên
đầu đều bọc một thứ nhựa sáp đen thui, vẫn giữ nguyên hình tứ chi mình
mẩy, cái đầu nhẵn thín hệt Mán sơn đầu, chỉ có các khớp xương chính là
có đường để cử động. Dưới ánh trăng khuyết, coi cái mặt chúng, kẻ bạo
gan cũng phát rợn, vì mặt bọc nhựa và giữ nguyên hình mồm miệng mũi mắt, nhưng đã hóa một cái mặt nạ có mấy lỗ mắt mũi mồm tai như mấy lỗ huyệt, sau lần nhựa sáp, hai cặp mắt chúng đỏ khé như mắt thú rừng ăn đèn săn, coi không khác hai cái “xác ướp” giữ mồ Kim Tự Tháp vừa đội mồ sống lại sau mấy ngàn năm đứng trong lòng đất Ai Cập.

Không chậm trễ nửa khắc, tên “Chưởng vệ Độn Thổ cung” nói:

– Đây ông Phìa Mường La đem gái tiến cung. Soái Vương chúa sắc phong Tây
Phi, chưởng quản cung tây Tế Yêu. Còn đây là quan Chưởng vệ Độn Thủy
cung tiền môn dưới cung Thủy.

Hai bóng vẫn đứng như xác ướp giữ mồ, phát âm trầm khô:

– Kiểm chứng! Khách quý có tín bài?

Lão Phìa lấy mảnh bài ngà xương chi đó trao cho hai tên bọc nhựa. Tên cao
hơn chút đỡ lấy, lật đi lật lại coi, đoạn trả lại lão Phìa, hai tên nhất loạt tien lại bên cáng phục luôn xuống kính cẩn:

– Độn Thủy cung Chưởng vệ hạ quan nô thuộc xin bái yết Tây Phi, chúc nương nương sống lâu trường tồn.

Cô gái tiến cung thò tay ra xua lia lịa, kêu líu lo:

– Ôi chao! Còn bày chuyện lễ lạy, phi phi nương nương là gì cho thêm tủi
người ta. Chúa Sài Lang các người bắt ta phải nạp mình hầu chăn gối Sài
Lang, không chịu cả nhà bị chó sói ăn thịt, có vinh hạnh gì đâu mà các
người cứ mãi xưng hô bái lễ mãi. Nay ta đã đến đây, mau đưa xuống động ma động quái
cho xong kiếp hồng nhan. Hai tên vẫn phủ phục, một tên ngước trông lên,
nghiêm giọng:

– Tây Phi chưa biết cung Thủy nên nói vậy đó thôi. Cung Thủy của vương chúa nhan sắc là miền nước Nhược non Bồng trên
trần, cung vua điện chúa chưa sánh kịp. Nương nương được phong Phi,
chưởng quản Tế Yêu cung Tây, địa vị tôn quý không ai bằng, trăm ngàn my
nhân vọng ước suốt đời chưa được. Tế Yêu cung tháng ngày chỉ có tiếng
đờn ca, chim hót, hoa nở, rượu ngon, yến tiệc vàng son, gấm vóc; mỗi
bước Phi đi gót nở hoa vàng… Kẻ nô bộc này tưởng nương nương xuống
cung Thủy một lần, suốt đời không muốn trở lên cõi thế trên bộ nữa.

Dứt lời, cả hai gã “người bọc nhựa” nhất loạt đứng dậy. Võ Minh Thần nấp nghe, không khỏi ngạc nhiên, thầm nghĩ:

– Lạ dữ chưa! Tụi cô hồn canh cửa Tây Sắc Tinh sao tên nào ăn nói cũng
văn hoa bóng bẩy, xuất khẩu thành chương? Hay Tây Sắc bắt chúng học
thuộc lòng? Hừ! Cứ nghe lời chúng ta, cung A Phòng của Tây Sắc là miền
hoan lạc như chốn Bồng Lai, ai dám chắc là cái “lò hấp sat”, “ngục giam
giữ đời hoa”?

Sực lại nghe một tên “người bọc nhựa” lên tiếng thỉnh Tây Phi sửa soạn xuống cung Thủy. Tên Chưởng vệ trên bộ bảo:

– Phìa muốn theo dẫn Phi xuống gặp mặt Soái Vương gia. Phìa bảo Soái Vương gia đã cho lệnh tại Mường La.

Hai tên quái nhân bọc nhựa sáp cũng sợ phạm cấm lệnh. Lão Phìa nhất định
đòi theo con gái, nói mãi không được, lão lại đem chuyện Phí Vô Cực tráo hôn nàng Mạnh Doanh ra dọa, gã “bọc nhựa sáp” lúc đó mới chịu nghe lời. Cực chẳng đã, tên cao Chưởng vệ Độn Thủy cung phải chép miệng bảo:

– Xuống cung Thủy rất khó khăn, cách trở nước sông, hang sâu vực thẳm.
Vậy Phìa và nương nương hãy cho gái hầu trở về, còn theo kẻ nô thuộc
này. Ngựa cũng phải để lại trên bộ.

Cô gái ngồi cáng nói vọng ra:

– Thị nữ sẽ hầu ta dưới đó, ngươi cứ dẫn cả theo. Chúa Sài Lang không trách phạt đâu.

Hai tên bọc sáp ngó nhau mấy khắc. Tên cao vùng cao giọng:

– Đêm khuya rồi! Thỉnh Tây Phi xuống thuyền, còn tới “lò nấu sáp”!Lão Phìa ngơ ngác nhắc “lò nấu sáp”. Tên cao phát âm Thổ:

– Cung Thủy không giống trên bộ. Ai cũng phải nấu sáp mới xuống dưới đó được.

Lão Phìa Mèo Mường La lại gần cáng, nói vọng vào:

– Kheng Lan con! Theo cha! Giờ phải xuống thuyền! Để nó tháo cáng, cuốn lại!

Hai gái hầu lập tức lấy ra một cái thang gấp nhỏ, bắc dựng len ngựa. Nàng
Kheng Lan vén rèm phủ, bước qua lưng ngựa, xuống thang. Cặp gái hầu
nhanh nhẹn tháo cáng, cuốn lại cùng một bó hành trang.

Dưới
trăng vơi, hai thầy trò Võ Minh Thần lúc này mới nhận ra nàng Mèo Kheng
Lan mặc lối Mèo hoàn toàn, chân có quấn cả xà cạp, nhưng có điểm khác là xà cạp cùng màu với khăn chít, màu cá vàng, rất ăn ý với bộ quần áo Mèo tay rộng, màu xanh không phải xanh chàm cố hữu mà là màu xanh đậm. Minh Thần thì thào:

– Chú thấy không? Nàng Mèo tiến cung này văn
minh lắm. Vẫn dùng y phục bộ tộc mà màu sắc lại phảng phất lối cô dâu
Kinh bên Nam. Kể cũng không lạ. Bên Tàu đất rộng, nhiều vùng biên thường giao tiếp với bên Nam nhiều hơn nội địa. Dân Mèo sống trên núi cao,
biên giới bị họ xóa nhòa là thường. Cô Mèo này lọt mắt Tây Sắc Tinh kể
cũng khổ. Gái đẹp phải làm vợ chó sói.

Quản Kình im bặt, quay
nhìn tiểu chủ, chàng trai vừa thở dài, cắn chặt hàm răng. Hình ảnh dĩ
vãng lại hiện về, đầy nắng quái hoàng hôn nơi biên thùy Trùng Khánh phủ
mười bảy, mười tám năm xưa, người đàn bà quốc sắc thuộc bộ tộc Thái, Thổ chi đó bị Chúa Sài Lang hấp sát thành cái “túi da người” chỉ vì không
cam tâm thờ chó sói… Người đàn bà đã chết thảm nhục giữa thời xuân
sắc, để lại trên đời một giọt máu mồ côi với mối thù chung thân chưa báo được.

Hai thầy trò Võ trông theo, thấy con thuyền không theo
hướng cũ, mà cứ lướt vùn vụt lên thượng lưu. May khúc này cũng quang,
trăng chiếu nên vẫn thấy rõ. Đợi cho tên Chưởng vệ trên bộ khuất hẳn,
hai người mới truyền “xó Khách”, Hắc Bạch Cẩu đi trước mở đường, rồi mới theo sau. Nhưng may từ chỗ này đi, không còn trạm độn thổ nào nữa.

Hai người nương bóng tối mờ, vọt theo thuyền cung Thủy, chừng trăm thước,
không thấy đâu nữa, bèn lướt thẳng tới, phát giác con thuyền đậu sâu một ghềnh đá, lau lách mọc đầy, dưới thuyền chẳng còn bóng nào. Nhưng với
“xó Khách”, chó thính, bản lãnh cao, hai thầy trò Minh Thần cũng tìm
luôn được chỗ hai tên Chưởng vệ cung Thủy đưa cha con lão Phìa Mèo vào,
cách chỗ thuyền đậu chỉ độ ba mươi thước xế.

– Cậu hai! Tôi làm cậu buồn! Bậy quá!

– Có gì đâu. Hừ! Loài cẩu trệ! Đêm nay tôi sẽ làm cho vong hồn mẫu thân được ngậm cười trong cõi u minh.

Ngay khi đó, tên Chưởng vệ trùm mặt cúi chào bọn lão Phìa, nhảy lên lưng
sói, dắt ngựa lộn ra phía ngoài, lao vọt qua chỗ hai người nấp. Hai tên
dưới cung Thủy thỉnh bọn Phìa Mèo xuống thuyền cáng mui gấm vóc. Thuyền
quái lướt ngược dòng Hắc Giang.

Đó là đầu dải núi, mấy bề cây cỏ um tùm, nơi chân núi có một cái cửa tò vò đen ngòm như cửa địa ngục.

Hai tên cung Thủy “bọc sáp sơn dầu” vẫn đứng xế bên cửa tò vò với bọn lão
Phìa Mèo như chờ đợi chi, đứng xa xa thầy trò Võ thấy tên cao chỉ trỏ
làm hiệu, chừng như đang căn dặn điều chi.

Chừng mười phút, bỗng trong cửa tò vò lừ đừ đi ra hai bóng đen lòa xòa, trùm mặt. Tên chưởng vệ Độn Thủy cung vùng cao giọng:

– Mọi thứ xong rồi! Giờ Phìa có thể đưa Tây Phi vào lò nấu sáp. Xin chớquên lời dặn. Coi chừng sơ ý có thể nguy hiểm.

Lão Phìa Mèo lập tức cùng cặp gái hầu đưa cô gái Kheng Lan vào bốn lò nấu
sáp. Hai tên chưởng vệ cung Thủy vẫy tay, truyền hai bóng lòa xòa kia
cùng đi ra phía bờ sông đợi.

Minh Thần, Quản Kình tò mò, chẳng
hiểu trò “lò nấu sáp” có chi lạ. Hai người đứng vài mươi giây, Minh Thần nảy ý muốn vào do thám xem sao, bèn bảo Quản Kình đứng ngoài, đoạn đi
vòng sang phía hữu, nương bóng tối lách vào cửa tò vò.

Tối mờ,
nham nhở. Trước mắt Võ có một bức rèm màu đỏ buông sát nền chia đôi gian đá. Trong màn, lửa cháy rừng rực, hắt soi mấy bóng nữ đen ngòm, cao lêu nghêu như bóng quỷ nhập tràng. Có nhiều tiếng líu lo thánh thót hắt ra, toàn tiếng Mèo.

Chàng trai rón rén bước lại bên rèm, nhẹ kéo hở chút, ghé mắt dòm vào. Thì ra là lò nấu sáp. Mot cái bếp rất to, bếp
kiềng đường kính rộng hơn thước, chiếu cao non thước không đậy vung. Bếp đốt củi thông, lửa bốc cao liếm thành chảo, trong chảo đang sôi sùng
sục một thứ chi đặc sệt như cháo kê, cạnh đấy có máng nước chảy ồ ồ và
một bể đá, bên kia là cái bể nữa đựng những cục vàng vàng, đen đen như
sáp ong, nhựa đường. Cô gái Mèo tiến cung và cặp gái hầu đứng bên bếp,
một cô gái cầm gáo múc nước đổ vào chảo, còn một cầm xẻng xúc sáp nhựa
đổ vào.

Chảo sáp sôi sùng sục xông mùi hắc, chợt nghe một cô gái hầu lên tiếng giục:

– Sáp chảy hết rồi kìa, xin “cô nàng” thay xiêm áo.

Vừa nói, cô sơn nữ này vừa lại xách lấy một mớ quần áo mỏng như giấy, đứng gần Kheng Lan.

– Nào thì thay! Vừa nói, Kheng Lan vừa lần tay cởi khuy áo.

Chợt cặp gái hầu khiêng trong hốc đá ra ba pho tượng gỗ. Giật mạnh một cái
tượng bể làm hai, mới hay tượng rỗng. Cặp gái hầu áp luôn vào mình mẩy
Kheng Lan. Chát! Pho tượng rỗng “ăn mộng” vừa khớp, nàng đã chui vào
ruột tượng.

Rất nhanh, hai gái hầu lại giúp nhau chui vào ruột tượng, thoắt cả ba đều hóa ba pho tượng gỗ đứng lù lù.

Hai cô gái kêu “giờ bắt đầu đổ khuôn”, và mỗi cô vớ lấy một cái gáo múc
nhựa sáp đang sôi sùng sục đổ rót luôn vào đỉnh đầu tượng, nơi có một lỗ thủng bằng đồng xu, cắm một cái phễu sắt.

Võ động lòng, chợt hiểu:

– À! Chúng đổ khuôn mặc quần áo sáp nhựa cho gái chủ. Sôi sùng sục thế
kia nêu không có chất chi kỵ nóng chắc thành heo luộc mất. Bọn gái Mèo
lúc nãy coi ủ ê sướt mướt, giờ coi mạnh bạo không sợ hãi chút nào, kể
cũng lạ.

Hai gái hầu đổ một chập mấy chục gáo đặc sệt, phát
tiếng “ọc ọc” như đổ chè đặc vào chai, bỗng nghe âm âm có tiếng cười từ
tượng gỗ vọng ra:

– Ha ha! Không đến cái cung chó má này làm sao được nếm mùi “đúc tượng đúc chuông”? Kể Chúa Sài Lang cũng khôn dữ à.
Đã cho mặc áo phèn chua, lại còn hồ cả người bằng “xà phòng” thơm phép
thần thông giỏi lắm! Nào! Xong chưa để ta đổ khuôn cho?

– Dạ
cũng gần xong! Bỗng thấy hai cô gái hầu dừng tay, trao gáo cho Kheng
Lan, nàng Mèo múc sáp nhựa đổ khuôn cho cặp gái hầu. Xong, lại gói các
thứ xiêm y cùng thổ cẩm vật dụng thành mấy gói, lấy giấy sơn quang dầu
bọc lại, đem bọc sáp het. Giây phút xong, cả ba tháo khuôn tượng cho
nhau. Tượng gỗ vừa bể đôi, trong lò nấu sáp đã hiện ra ba “xác ướp giữ
mồ” coi gớm ghiếc. Chợt nghe tiếng lão Phìa gọi gian bên, Võ Minh Thần
vọt luôn ra, vừa kịp lão Phìa bọc sáp cùng ba gái Mèo ra ngoài, lúc này
coi cứng nhắc đúng bốn pho tượng sáp.

Bốn hình bọc sáp nhựa vừa ra, hai tên trùm mặt coi lò nấu sáp
lập tức đi vào cửa tò vò. Nghe “rịch” tiếng nặng, cửa tò vò biến mất,
thầy trò Minh Thần trông vào chỉ thấy vách đá lạnh lùng như ngậm kín bí
mật Hắc Giang.

Bọn lão Phìa Mèo Mường La Nam Cương theo hai tên Chưởng vệ cung thủy bước xuống con thuyền quái có căng khoảng mui gấm.

Hai thầy trò Minh Thần nhìn theo, thấy chúng lấy dưới sạp ra mấy bình dưỡng khí đeo cho bọn lão Phìa, sáu người sáu chiếc như các tay thợ lặn vẫn
dùng, nhưng nhỏ gọn hơn.

Ngay khi đó, hai tên Chưởng quản đã vớ bơi chèo khuấy nước, con thuyền rời khóm lau sậy lướt chếch ra ngoài dòng.

Ánh trăng vàng nhạt chảy đầm đìa mặt Hắc Giang, sương mờ từng dải kéo lê
trên bờ dưới nước, bốn bề quạnh quẽ tiêu sơ gió lùa lau lách đìu hiu…
con thuyền chạy vát thượng lưu ra tới giữa dòng thì có ngọn nước bạc đầu nhấp nhô, bỗng nghe “bùm” như tiếng mìn nổ dưới nước, khói xám tỏa rộng mặt sông, chắn mất tầm mắt hai người.

Nửa phút sau, khói tan
hẳn, nhìn ra giữa dong chỉ thấy một vùng sông nước đìu hiu, nguồn đổ ào
ào, sương đêm vương vất, chẳng thấy con thuyền quái dị kia đâu nữa.

Sực nghe tiếng thét gai rợn như vuốt nhọn cào tai người:

– Mùi cỏ dập hăng, có đứa nào vừa đi qua đây! Bọn mi canh “Lò nấu sáp”
không thấy? Tụi gác cung độn thổ biết chưa? Hai thầy trò Võ Minh Thần
nghe rõ mồn một, lòng không khỏi ghê thay tài đánh hơi ma quái của con
tinh chúa.

Bỗng nghe tiếng người đáp giọng Thổ cực kỳ cung kính, như tâu với vua chúa:

– Khải Chúa thần thông, không gì qua mắt chúa. Mùi cỏ dập đó quả mới có khách đáo lâm, kẻ nô bộc này cũng vừa đóng cửa lò!

Có tiếng Ma Vương hét:

– Khách nào?

– Khải Chúa, Chưởng vệ Độn Thổ cung mới dẫn vào một đám khách bên Tàu
sang, xưng Phìa Mường La, đem Tây Phi tiến cung. Chưởng vệ cung thủy tề
đã cho mở lò nấu sáp!

Có tiếng “à” lớn, tiếp liền giọng Ma Vương Sắc dịu hẳn đi, đượm nhiều hứng khởi:

– Phìa Mường La Nam Cương mới tới? Hà hà! Lão Phìa này biết uy lệnh Chúa Sài Lang, đáng thưởng nhiều vàng bạc! Tây Phi đâu?

– Khải, nấu sáp mặc áo độn thủy xong, nương nương đã được Chưởng vệ cung
thủy đưa xuống cung thủy. Khải, thuyền mui gấm đi khỏi, có cả Phìa cùng
hai gái hầu nương nương.

– Cho bay lên! Có tiếng dạ ran, tiếp
liền tiếng tru lảnh nhọn, lập tức đàn Hồng Cẩu Quẩy chồm đi nhấp nhô như sóng cuộn. Nhưng chỉ bước lững thững, riêng cỗ kiệu son vừa di chuyển
vừa lướt chếch ra sát bờ sông Hắc, thoắt đã đi qua xế chỗ bọn Võ nấp.

Võ Minh Thần xách áo bảo Quản Kình:

– Chú cùng cặp sơn cau ở trên này! Tôi đem “xó” xuống tùy cơ ứng biến.
Giờ phải bọc súng, quần áo lại! Quản Kình chỉ muốn theo, nhưng thấy chủ
có lý, đành chịu phép. Minh Thần cởi phăng quần áo, súng lục, dụng cụ
thiết yếu bỏ vào một mớ, dùng sáp đem theo sẵn bọc kín lấy cho khỏi ướt.

Đoạn mặc quần áo chẽn bằng da rái cá ghép, đeo gói di hài mẫu
thân, chàng tuổi trẻ vỗ mạnh vai Quản Kình. Kình nắm lấy tay chủ, cả hai câm nín, nửa phút mới buông nhau ra. Minh Thần bắt quyết gọi “xó”,
truyền khẩu lệnh xong, chàng trai lao “bõm” xuống dòng Hắc Giang đêm mất tăm.

Người quản gia dẫn Hắc Bạch Cẩu vọt vào bóng cây biên địa, sông rừng chỉ còn trăng khuya treo đầu núi như lưỡi hái tử thần lăm le
hạ xuống cổ kẻ nào tò mò dám lần tới vùng “lãnh thổ Ma Vương”.

Ngay sau khi lao xuống dòng sông lạnh, Võ Minh Thần lập tức vận sức điện
công cho ấm người, cứ thế chiếu hướng lao chênh chếch ra phía chiếc
thuyền son vừa mất dạng. Sông hồ càng dưới sâu càng ấm, khí lạnh sông
hàn thường chỉ có phía trên.

Hắc Giang thượng nguồn có lắm đá
ngầm nên dưới sâu có nhiều luồng xiết kỳ dị cùng những vụng xoáy sâu
thẳm chỉ chực uốn xoắn người vào các nhũ đá tai mèo, răng cưa, kẻ không
giỏi bơi lặn bị nước xoáy chạm phải sẽ nát mình như bị hàng trăm lưỡi
dao sắc băm vằm, không kém kẻ lội qua suối bị ngã, nước cuốn vào đá ngầm vậy.

Nhờ đã học được thuật độn thủy của Xích Quỷ Ngũ Đầu Nam,
Võ Minh Thần cứ lao vùn vụt xuống đáy sông, trườn lách qua khu đá tai
mèo tìm kiếm cửa động. Khi đã phỏng ước đến chỗ thuyền mất dạng, Võ mới
nhô đầu lên quan sát thuy thế, rồi lại hụp ngay, lao hẳn đến khu hiểm
hóc.

Chỗ này quá giữa sông, nằm xế bên tả, đá ngầm, đá nhô khỏi mặt
nước trùng trùng. Võ bám sát đá ngầm nhè nhẹ nhô lên, tai nghe âm thanh
dưới nước thật lạ, nhờ đêm trăng, nước về xuân không có lũ nên trong
vắt, thấy được lờ mờ.

Võ Minh Thần lần vách đá trồi lên suýt
đụng phải chùm thủy lôi thả chìm dưới mặt nước khoảng một thước tây
xuống, trái thấp trái cao không đều, chàng trai phải lách giữa mớ thủy
lôi để nhô lên vì ngay bên có một tấm lưới thép đen xỉn khác hẳn nước
chỗ khác.

– À lọt vào khu cạm bẫy! Nếu vậy các mỏm đá chắc cũng
có tẩm thuốc độc! Có lẽ phải kiếm đúng khu chiếc thuyền trồi lên, mới ra cửa động!

Minh Thần nhờ học được nghề bơi lặn của Ngũ Đầu Nam,
lúc này chàng có thể vẫy vùng, thở ngay dưới nước như loài thủy tộc nên
chuyện độn thủy không còn khó khăn nữa, thoắt chàng đã nhô lên mặt sông
lượng định vị trí.

Nhưng vừa thò đầu lên chàng đã phát giác ngay một con Hồng Cẩu Quẩy ngồi chồm chỗm giữa khe đá khuất, thò đầu lên dòm mặt trăng khuyết, nửa mình nó in vào nền trời vàng úa, thoạt nhìn có
thể lầm tưởng đó là một mỏm đá giống hình con chó sói. Minh Thần nhô xế
bên sườn nên nó không hay, chàng trai lại lặn luôn, vòng sang phía tả
ngạn.

Bỗng chạm phải một sợi dây cáp, dưới chiều sâu khoảng ba thước.

– À! Ta hiểu rồi! Chiếc thuyền son ban nãy đã chạy trên dây cáp này, do
một bộ máy hay có sức khỏe đẩy lên. Nếu vậy, cuối dưới dây cáp này có
thể là cửa động.

Minh Thần cả mừng lập tức độn thủy lao chúc đầu theo đường “cáp” xuống mãi. Nhưng chỉ hai sải, dây “cáp” lại chạy ngang sang mỏm đá khác, rồi mới ăn chênh chếch xuống nữa, chỉ chừng mười lăm
độ. Chàng cứ theo đường dây lao vun vút mãi, được chừng mười sải, chợt
lòng sông tối sầm lại.

Vận nhãn tuyến trông, mới hay đang vào
giữa kẽ đá, chừng một cái hốc vụng lộ thiên, vách đá có chỗ chỉ cách dây độ thước tây. Chàng có đeo kính lặn có cả đèn rọi, nhưng không bật đèn, sợ lộ. Cứ lần dây lao xuống, thỉnh thoảng dừng lại thở hít lấy khối lọc dưỡng khí vào phổi. Đường xuống cung động Ma Vương này hiểm hóc vô
cùng, nếu phải nhịn thở độn thủy chắc khó lòng nín hơi lần tới đích.

Lướt vào hẻm đá lộ thiên chừng năm, bảy sải chếch, bỗng trước mặt tối om,
trông lên không thấy vệt nước sáng trên mặt sông nữa. Và trên dây “cáp”
đậu lù lù một con thuyền cổ quái. Hình thuyền mờ mờ hiện ra với nét quen quen, đúng con thuyền vừa lên đón cha con lão Phìa Mèo.

Có một con đường vòng uốn cong như cái cầu vồng nối liền hai
vách đá. Minh Thần lướt lên trốc thuyền đi, vận hết nhãn lực quan sát,
mới hay đó là một tấm biển. Sờ thử, đó là biển đá nhẵn như mài, trên có
một hàng chữ Hán cẩn vàng nổi lấp lánh giữa cảnh tranh tối tranh sáng,
hình như chữ bằng vàng y. Chàng ghé mắt nhìn, nhưng đêm trăng nhạt, dưới đáy Hắc Giang tối mờ trông không rõ đủ nét, chàng bèn thò ngón tay sờ
thử từng chữ một: “A PHÒNG CUNG” Nét chữ nổi sắc như dao cắt truyền qua
xúc giác Võ Minh Thần vang âm trong trí chàng trai thành ba tiếng gọi
cực kỳ quyến rũ, khiến cặp mắt chàng trai vụt sáng tia hận thù sau lần
kính lặn.

– À! A Phòng! Hang A Phòng dưới đáy Hắc Giang sào
huyệt của con tinh chúa tứ túc Hồng Cẩu Quẩy đây rồi! Đội ơn thiên địa
đã run rủi kẻ mồ côi khốn khổ này tới được cửa Ma Vương Sắc! Song thân
oan khuất, hồn có linh xin về chứng kiến giọt máu rơi này vào hang tinh
sói, báo thù chung thân!

Tự nhiên máu như sôi sục, Võ Minh Thần
hiểu ngay đây đã bắt đầu vào cửa tử thần, chàng trai đưa tay bấm cung,
triệu “xó quỷ”, tay kia bịt kín miệng hú khẽ truyền quyết lệnh:

– Ma Khách xó! Đã tới cửa động Ma Vương Tinh Hồng Cẩu Quẩy, khá đi trước
dẫn đường cho thầy! Coi chừng cạm bẫy ma trành! Gặp trành xó, phải báo
ngay cho thầy bắt nhốt! Chớ để nó thoát đi báo cho Ma Vương!

Có tiếng âm âm “tuân lệnh” bên tai, rồi một bóng mờ vọt vào cửa động thủy, tan biến trong bóng tối nước dập dờn.

Minh Thần đứng bên mạn thuyền chừng nửa phút, bỗng thấy tít cùng trong một
hang có một đốm xanh lè như hạt đâu xé nước lao ra, đậu bên tai, mơ hồ
có tiếng Khách Quảng Đông:

– Cửa thủy đạo này dài sáu mươi
thước! Ngay cửa này có cái máy bẫy thuyền, từ đây đi vào là đường dây
cáp khác. Đầu mối cạm bẫy đó, chạm vào sẽ có giáo đâm súng tên bắn, sang tả có nhiều thủy lôi nhỏ thả giữa kẹt đá, phải đi sang ngả hữu, đường
“cáp” tối mò! Xó nô dẫn lối, thầy chớ chạm dây “cáp”!

– Bật đèn rọi được không?

– Cũng được! Nhưng chỉ bốn mươi thước, đến khúc quẹo thầy tắt đi, trong
đó có hai con xó trành canh cửa cung! Vào đó xó nô sẽ hiện báo thầy.

Minh Thần bật đèn rọi, vệt sáng quét tấm bảng đá cầu vồng, sáng
lòa ba chữ “A Phòng Cung” vàng rực. Chàng trai lao mình vào phía hữu dây cáp chăng giữa ruột hang.

Ruột hang sâu hun hút, ăn lên ăn
xuống không đều, Vừa trườn vừa chiếu đèn sang tả, quả thấy vách đá đầy
thủy lôi, mũi giáo, mũi súng lắp sẵn, tên nhô tua tủa, lướt qua cũng
thấy gai người.

Thoắt đã tới khúc quẹo, Võ tắt đèn, đóm xanh
hiện ra, xé nước lao trước dẫn đường, xó Ma Khách rất khôn, cứ lướt sát
dây cáp cho chủ liệu chiều độn thủy. Chừng hai mươi thước, bỗng đốm xanh táp vào vách tả đậu sau hốc đá.

Ruột hang tối, nhưng phía trong hắt ra một thứ ánh sáng la làm nước đỏ lờ như máu loang, từ chỗ Võ nấp
vào trong vài thước, nước réo cuồn cuộn, sông ngầm sói vách đá, phát ra
một thứ âm kỳ dị nghe vừa như tiếng biển sóng ngầm vừa như tiếng chạm
nước xoe xóe làm mặt hang như sôi sục.

Võ Minh Thần quan sát,
nhờ ánh sáng le lói chiếu ra, chàng chợt phát giác hai bên vách dựng hai cỗ quan tài độc mộc, mặt ván thiên ghép kính dày, trong quan tài đứng
sừng sững hai xác người mặc quần áo rừng núi, một cái nữ quấn xà cạp
trắng đeo xà tích, đầu đính khăn Mèo, còn hở một mảng trọc lóc, chừng
đàn bà Mán cóc; còn cái kia xác nam, chít khăn chàm, chừng Nùng, Thổ chi đó. Cả hai đều đứt lìa cổ họng, vết lìa còn in ro khuôn nanh răng nhọn, chắc bị Hồng Cẩu Quẩy cắn chết.

Sau lần kính nước lung linh đỏ màu máu, hai con xó trành này mắt mở trừng trừng như đang bặt thiếp trong giấc ngủ ngàn đời.

Rất nhanh, Võ Minh Thần đưa tay bắt quyết đọc chú. Đúng lúc, mắt xó trành
vụt long lên sòng sọc, nhìn ra xó tối, chừng như nó đã phát giác có
người lạ đột nhập cung cấm. Võ nghe rõ hai tiếng xé nước lao tới, chàng
trai lập tức đứng thẳng người, chân kẹp mỏm đá, quắc mắt bắt “quyết”
chặt hai tay vào nhau.

Tiếng xé nước dừng trước mặt. Đốm xó Ma
Khách xẹt ra chặn hậu. Đáy nước réo sôi, phát âm dị, sóng quật vách đá,
dưới nước trọng lượng nhẹ đi, Võ chao động người, đứng giư tay ấn. Cuộc
vật lộn kinh hồn vô ảnh diễn ra chỉ độ mươi khắc, bỗng nước đỏ cuốn réo, hiện ra hai đốm xanh lè bằng hạt đậu, sà xuống nền hàng như hai con đom đóm bị gió thổi bạt. Minh Thần thở phào, che tay lên miệng quat:

– Đem nó nhốt vào quan tài! Hai mươi bốn giờ sẽ thả! Nếu nó kháng cự, cho mi tru diệt.

Vút! Hai đốm xanh lao vào quan tài. Minh Thần múa quyết cầm xó
xong, cùng xó Ma Khách lướt vào. Mới hay đã tới cửa cung Thủy! Giữa một
hang có một cái guồng đao quay tít hàng mấy chục lưỡi thép sắc như gươm
chém nước xoe xóe liên miên. Xó Ma Khách vụt vào, hãm phắt guồng đao.
Hiện rõ một con đao ba mươi sáu lưỡi to bản áp sát nóc trần, có một
khoảng trống vừa người hẹp.

Võ theo xó trườn vào. Qua hai thước
nước nữa, hang đá ăn chếch lên, chỗ này vừa hết hang thủy đạo. Trước
mắt, xế trên cao, hiện ra một cái cửa tò vò hai bên có hai tòa thạch
thất nhỏ, trong ánh sáng đổ vật vờ. Trên cửa tò vò có một tấm biển uốn
cầu vồng nữa bằng đồng hun đen bóng, có cẩn hàng chữ vàng rực. Lần này
không là Hán tự mà là quốc ngữ, viết kiểu “La Tinh” hang trên nhỏ hơn
hàng dưới:

“Động Thủy Cung” A Phòng Chúa Ma Vương Tây Sắc. Không bóng người vật, nhanh như cắt Võ Minh Thần vọt luôn lên bờ, ẩn luôn vào chỗ khuất, chàng trút vội bộ quần áo da rái cá, bỏ bọc sáp lấy quần áo
chàm, lau khô mình mẩy, mặc giáp sắt, tra đạn, đeo súng cối, dắt gươm
sau lưng, cài liễu dao… Chỉ hơn phút sau, đã gọn ghẽ trong bộ quần áo
chẽn chít khăn thổ, dận giày Tàu, đội mũ sắt kéo sụp mặt, vụt trở nên
một hình thù dữ tợn. Chàng tuổi trẻ đeo di hài mẹ sau lưng, chụp khiên
thép Thập Vạn Đại Sơn, đứng trong bóng tối bắt quyết triệu “xó Khách”,
đọc chú, chìm giọng hô âm lệnh:

– Quỷ xó! Thầy nuôi dưỡng xó mấy tháng trời không như pháp sư chủ khác bắt xó truyền đời hầu hạ! Thầy có mối hận thù với con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, báo cừu xong sẽ giải
nguyền giải chú, làm lễ siêu sinh cho xó hoàn nguyên âm hồn, đi đầu thai kiếp khác. Bình sinh xó là người giỏi võ tinh khôn, nay khá đem tài
linh mẫn giúp thầy cho thiêng! Giờ đây thầy bắt đầu tiến vào cửa động Ma Vương Sắc, đêm nay thập tử nhất sinh, vì thầy phải tìm bắt chúa tinh tứ túc, truy nguồn gốc. Trước khi ra tay báo cừu, hành động phải thật êm,
“xó” hãy theo sát thầy, lưu ý nhất “ma trành” của nó. Nếu gặp ma trành
phải báo thầy biết ngay, chớ để bại lộ.

Quỷ xó Ma Khách đã vào cõi u minh, bên tai Võ có tiếng âm u:

– Thầy cứ yên lòng, có xó nô hầu hạ. Xin thầy cho xó đi trước mở đường.

– Không nên! Tây Sắc Tinh Hồng Cẩu Quẩy trí cao thuật cường. Cung A Phòng này là hang động nó nhốt gái đẹp, có nhiều chỗ “khoán”. Xó đi một mình
lỡ sa vào bùa “khoán” nguy ngay! Phải đi bên, lỡ gặp thầy còn giải
“khoán”.

Quỷ xó vâng lệnh, từ đó theo sát bên mình người thầy trẻ cao
tay. Ánh sáng đỏ khé từ trong hai căn nhà đá nhỏ hắt ra. Võ Minh Thần
men vách đá, vừa tới bên cổng, quả nhiên đã phát giác ngay nóc tò vò,
dưới chữ “A Phòng Cung” có dán một đạo bùa “khoán” nét vẽ loằng ngoằng,
dấu son đỏ chót trên giấy vàng, sau lần đồng trụ có treo một ngọn đèn
lồng vải điều, dưới đèn có chăng một tấm lưới ngũ sắc chạy vòng sau tấm
biển, đứng phía trước không trông thấy. Giơ tay làm hiện, Võ Minh Thần
bắt quyết nhẩm đọc chú giải, đoạn cắn chót lưỡi, nhảy lên đu nóc cổng tò vò, phun phì máu vào lá bùa, tấm lưới ngũ sắc. Lạ thay. Máu vừa bắn vào lập tức loang rộng, lá bùa, tấm lưới ngũ sắc bỗng xông khói, rồi bốc
cháy bùng, đốt tiêu luôn cả chiếc lồng đèn xế trên. Võ Minh Thần vẫy
tay, thầm gọi xó, vừa lọt qua cổng tò vò, bỗng nghe trong căn nhà đá có
tiếng người bật lên giọng Thổ:

– Quái! Sao đèn lồng cháy tanh
mùi máu? Ra coi! Tiếng kêu vừa dứt thì Minh Thần đã xẹt vào bên cửa, từ
trong căn tả, có hai cái bóng đen thui chạy vụt ra, nhìn lên nóc cổng tò vò. Dưới vùng sáng tối nham nhở, Minh Thần nhận ra hai tên hình người
bọc sáp coi như hai xác ướp giữ mồ Ai Cập. Chưa biết tà thuật chúng đến
mức nào, Võ Minh Thần quất vụt luôn hai ngọn chỉ phong điểm cách không,
pha cả “Mê Hồn Công”. Hai bóng đen bọc nhựa này cũng vừa phát giác Minh
Thần, chúng mới giật nhẹ mình vì sửng sốt, trúng đòn, thủng luon lần
nhựa bọc, đổ dụi xuống như hai khúc cây, không kịp kêu một tiếng. Minh
Thần vọt vào, đứng bên cửa hữu. Hai bóng sáp nữa chạy ra, bị chặt liền
hai phát, gục theo, không kịp phản ứng trước tài xuất thủ thần tốc của
chàng trai. Võ nhìn vào nhà đá, mỗi gian chỉ có một cây đèn đất có lồng
vải to như cái thang treo trên vách với vài món khí giới, điếu cày… cả hai gian không còn tên nào. Lục soát qua, chẳng thấy chi khả nghi, Võ
bước, lôi cả bốn bóng nhựa vào. Cả bốn đều ngất lịm, có kẻ tim ngừng
đập, sờ thử, có hai bóng sáp còn ẩm ướt, mới hay trong bọn có hai tên
xưng Chưởng vệ Độn Thủy cung vừa lên đón cha con lão Phìa Mường La. Võ
nhặt tên cao nhất, thò tay búng vỡ lần sáp nhựa bọc mặt, nhắc ra từng
mảng lớn. Ánh đèn nham nhở hắt vào mặt thật vừa hiện rõ, đó là một bộ
mặt sần sùi đầy sẹo, còn như in vết dao rạch nát, nổi bóng như mơ, coi
phát ớn.

Tên này nãy nghe y nói văn hoa đúng con nhà văn tự hào hoa sao
mặt mũi lại ghê thế này. Minh Thần búng vỡ mặt nạ nhựa tên khác, cũng
vậy. Vẫn bộ mặt sẹo chằng chịt xấu xí bất thành nhân dạng. Đầu óc lóe ý
ngờ, chàng búng luôn nơi hạ bộ, chạm bộ phận sinh dục khám như thầy
thuốc thăm bệnh, bật kêu khẽ:

– À! Đoán không sai! Bọn này đều
là hoạn quan. Rạch nát mặt mày hủy hình dung, thiến cho hầu dưới cung A
Phòng để tránh chuyện thông dâm với mỹ nữ. Hừ! Tây Sắc Tinh áp dụng luật khuê phòng cung cấm còn gắt hơn cả vua chúa đời xưa. Xưa vua chúa chỉ
hoạn các quan hầu cận, hoặc chọn kẻ ái nam ái nữ, còn Tây Sắc lại cho
hủy cả hình dong, cho dứt hẳn cảm tình của mỹ nữ, kể tàn bạo hơn nhiều.
Bọn này xem ra toàn kẻ có chữ nghĩa, sao lại cam tâm để tàn thân hoại
thể thế này. Không lẽ chúng có chí Thụ Điêu?

Bèn giải huyệt cho tên cao tỉnh lại, lôi hắn ngồi dậy. Tên này trợn mắt kinh hoàng, Minh Thần dịu hỏi:

– Chỗ con tinh Tây Sắc đâu? Trỏ, ta sẽ tha mạng, cứu ngươi thoát móng vuốt sài lang. Mi là “Chưởng vệ Cung Thủy” này?

Tên Chưởng vệ lạnh lùng lắc đầu:

– Ta không biết! Biết sao được chỗ chúa ngự! Mà có biết cũng không trỏ đâu.

Minh Thần cau mày:

– Tây Sắc hủy mặt, thiến giống, tàn hại đời ngươi, ngươi không oán sao? Tên Chưởng vệ mặt lạnh cười khô:

– Oán? Hà hà! Mi không điên rồ sao thốt lời ngu ngốc thế? Ta đây dốc lòng thờ Chúa, chết còn chẳng tiếc, tiếc gì cái giống. Mi tưởng Chúa thiến
bọn ta sao? Không, bọn ta tự nguyện đó.

Võ Minh Thần không khỏi cho là lạ, lắc đầu bảo:

-Mi bị yêu thuật tinh chúa rồi! Nói đi, trỏ chỗ nó, ta sẽ giải độc cho. Tên Chưởng vệ nhếch mép cười:

-Mi vào đây là vào chỗ chết, ta xuống âm trước đợi mi

Lời vừa dứt, y đã trợn trừng mắt, ngoẹo cổ sang bên. Nạy miệng coi, thì ra tên này cũng có một cái răng giả nhét sẵn độc dược.

– Hừ! Bọn cuồng tín. Chắc bị ngải độc, yêu thuật con tinh. Gớm thật. Tây Sắc dùng người “độc”, đúng chúa Sài Lang.

Võ Minh Thần đứng lên, xốc bọn chúng đặt gác lên bàn, đoạn lập
tức rời căn nhà đá, tiến vào đường hang. Qua chừng mười bước, ruột hang
tối dần, quanh co uốn khúc, sâu hút.

Nhưng đi chừng ba mươi bước nữa, ruột hang lại sáng dần, lại là thứ ánh sáng xanh lè như lân tinh,
khiến cảnh trí càng trở nên quái gở lạ. Nhưng chẳng biết từ đâu phát ra. Đường hầm quanh co khúc khuỷu im vắng đến nỗi Võ Minh Thần nghe rõ cả
tiếng đập của trái tim, mơ hồ đâu đây có một thanh âm nổi chìm huyền
hoặc, người thường chắc khó phân biệt, nhưng Võ Minh Thần đã học bí
thuật độn thủy dưới sông với Ngũ Đầu Nam, nên nhận ngay ra đó là tiếng
nươc ngầm xé ghềnh đá.

Đoạn thạch đạo ngầm ăn dưới lòng Hắc
Giang. Minh Thần cứ xăm xăm đi miết giữa vùng ánh sáng xanh lè. Bất
thần, chàng dừng phắt lại. Trước mặt có tiếng nước đổ ào ào như thác lũ. Có tiếng gió hu ghê người, phả lên mũi một mùi tanh đến lộn mửa. Dạt
sát vách đá, chàng định thần nhìn kỹ.

Cách chừng năm, bảy bước,
đường hàng bị cắt đứt bởi một vùng nước rộng khoảng bốn mươi bộ, sóng
cuộn nhấp nhô bắn tóe bọt trắng lên bờ. Vẳng như có tiếng phì phò lạ tai hết sức, pha những tiếng chí chóe như dơi kêu chuột chiếp.

Võ nhẹ gót tiến sát lại gần, nhưng còn cách độ sải tay bỗng nghe tiếng “xó” thì thào hô “đứng lại”. Chàng khựng luôn.

Dừng nhìn, không phải vũng nước không mà còn một lạch nước chảy ngang qua,
lạch rộng khoảng hai thước tây, nhưng vách đá chụp xuống cách mặt nước
hai bên chỉ độ ba gang. Gió thổi vù vù như tù và rúc, từ hữu sang tả,
vụng, lạch chừng có nhiều đá ngầm, nhưng chẳng có mỏm đá nào nhô lên mặt nước. Chú ý, chàng còn thấy vụng phảng phất như có màu đen nhạt hơi
khác màu không gian chỗ khác. Mùi tanh vẫn theo gió phả xông vào mũi
nong nặc.

– Ngã ba! Chẳng hiểu ngả nào vào cung? Võ quan sát,
thấy hai ngả lạch đen ngòm, nếu đi phải lội nước, chỉ nhô được cái đầu,
coi đầy cạm bẫy. Còn ngả thượng bên kìa thì lại rộng quá, nhảy khó, chỉ
còn cách vượt theo vách đá hoặc lội qua, nhưng ngả này cũng đầy nguy
hiểm.

Đang phân vân chợt nghe tiếng xó kêu bên tai:


Hai bên lạch đầy thủy lôi phục. Gió thổi vù vù, trúng người hộc máu chết tươi. Vì nó thổi qua túi thuốc độc bot treo trong vách hữu lỗ chỗ tổ
ong. Luồng độc thổi ngang tầm người. Dưới nước vụng, những chỗ nước nhỏ
gợn đều là thủy lôi ngầm. Vụng sâu ngập đầu người, toàn nước độc. Nhưng
đường bên kia là ngả vào cung. Minh Thần quay nhìn sang vách đã hữu, quả nhiên thấy một khoảng lỗ chỗ tổ ong từ mặt nước lên khoảng hai thước.
Võ khẽ hỏi:

– Vậy thầy nên vào cách nào đây?

– Thầy nhảy qua luồng gió độc mà vào! Nếu cách xa, thầy nhảy hai nấc. Võ quan sát,
trần hang cao, nhưng nếu nhảy ngồi co chân rất khó vượt trốc luồng độc
vừa băng qua vụng rộng hàng bốn mươi bộ. Hang tranh tối tranh sáng. Thấy bốn bề vắng lặng, Võ bat luôn đèn rọi lên trần, rẽ ngang, chợt thấy xế bên kia luồng gió độc thổi, có hai dòng thạch nhũ cụt chỉ còn độ gang
tay.

– À đây rồi! Ta lấy nó làm điểm tựa, bíu quăng mình đi, vậy mới có thể nhảy nằm được.

Chàng vừa lùi lại lấy đà, bỗng nghe gầm gừ phì phò chí chóe nhiều âm dị tợn,
rồi dưới lạch tả kẽ đá bắn ra ngàn con rắn độc, bên kia sóng bỗng nhô
cao, có một bầy dải độc, thuồng luồng xé nước lao ra xoe xóe, há mõm,
múa vuốt, trố mắt, định phóng lên bờ; ầm ầm lại một bầy hàng năm, bảy
con hà mã từ đáy nước nhô lên, phun phì phì, con nào cũng to hơn con
trâu mộng, giương mắt trố như đèn pha.

– Chà! Bầy thú thật hung
tợn! Bên ta xưa nay không có loài hà mã, sao vùng Hắc Giang bên này lại
có? Chắc Tây Sắc lấy giống bên Tàu, thả từ thượng nguồn sông Đà sang
nuôi trong cung?

Rất nhanh, Võ lùi lại, vận dụng luôn bí thuật
Thanh Âm động, khẽ cất mấy tiếng hiệu thú âm thú ngữ đã dày công luyện
tập. Quả nhiên bầy thú nhất loạt dừng lại, hếch mõm, phì phì, lắc lư.
Thấy bầy hà mã, dải, thuồng luồng bơi sát các ngọn sóng thủy lôi, Võ
Minh Thần phát ớn, lập tức lùi mấy bước lấy đà nhảy vút qua vụng nước.

Vì trần không cao nhiều, luồng độc phong lại tạt ngang từ mặt nước tây,
nên Võ Minh Thần phải nhảy theo lối đầu đi trước, phóng vút qua khoảng
trống giữa luồng độc phong và trần đá, vừa lao qua trên luồng gió độc,
vừa hãm lại, Võ chụp luôn hai dòng thạch nhũ sát trần và hắt ngược lại
lấy đà, quăng vút mình qua phần vụng bên kia, hạ hai chân xuống nền hang nhẹ như chiếc lá rụng.

Dòm lại, bầy thủy quái vẫn há mõm nhe nanh, trố mắt nhìn theo.
Ngọn độc phong vẫn thổi vù vù thành luồng đen mờ trốc đầu vụng. Minh
Thần tặc lưỡi cái, dẫn “xó quỷ” tiến luôn vào thạch đao ngầm.

Đường hầm sâu hun hút, quanh co uốn khúc, chập chờn một thứ ánh sáng xanh lè lân tinh, chỉ đủ soi lờ mờ các vật thể lớn.

Tiếng gió thổi, nước xô bờ lùi lại sau lưng khi Võ Minh Thần vượt thân được
năm bộ nữa. Bên tai, thứ âm nước sóng ngầm dưới đáy hồ cũng vụt tắt hẳn, chàng thấy mình đi vào một vùng im lìm kỳ dị, thứ im lìm như trong quan tài làm tay bạo gan mấy cũng phát rờn rợn, cảm giác như rơi vào một cõi “vô vi” nào ben ngoài cuộc sống.

Đường hầm rộng khoảng thước
rưỡi, trần cao, mắt đảo nhìn quan sát từng mỏm, hốc, Võ Minh Thần còn
phải đề phòng cạm bẫy, địa lôi phục, hầm hố… Chàng phải bế huyệt, vận
khinh thân phù, lướt hờ trên mỏm đá nhẹ như bấc. Đang tiến bước, bất
thần nghe bên tai có tiếng thì thầm “Coi chừng, thầy”. Võ ngồi thụp
xuống bên vách, vừa kịp thấy sau khúc đường cong, ghềnh chìa, một con
sài kíu lông vàng ngực khoang trắng nhô ra, cách hơn chục thước.

Đó là một con Hồng Cẩu Quẩy to lớn, nó đi hai chân sau, khật khưỡng, lắc
lư lừ lừ, giữa vùng ánh sáng màu lân tinh hình thù quái gở in đậm lù lù, rõ cả nanh vuốt trắng nhởn, hai con mắt xếch đỏ khe. Nó cũng vừa phát
giác có bóng người bên vách, lập tức lắc mình một cái, nó lướt tới đi
hai chân sau thoăn thoắt, mõm nhe ngoác như gợi hình ảnh loài tinh tứ
túc.

Nhanh như chớp, Minh Thần thả vụt liễu đao, ánh sáng bach
nháng cầu vồng, con “quỷ mắt đỏ” thò chân trước gạt mạnh, bị lưỡi thép
chặt đứt lìa. Võ sợ nó kêu, thả vụt lưỡi thứ hai, cái đầu con sói nhảy
“bộp” xuống đất, con thú còn đi thêm mấy bước, không đầu, cổ cụt phun
máu phì phì, coi gớm ghiếc.

Minh Thần thu đao, đứng bên, con sói cụt đầu đổ huỵch. Chàng tiến lại chùi đao vào lông con thú độc, xách
thây cụt đầu kiếm hốc tối ném vào, và tiếp tục tiến vào hang.

Từ chỗ này không gặp thứ gì cản trở. Đường hầm lồi lõm, lên xuống gập
ghềnh, nhưng hình như ăn lên nhiều, sâu hun hút, chàng trai càng vào
càng thấy lạ vì đường hầm sâu dị thường, xưa nay cõi trần thượng du, đặc biệt thượng nguồn Hắc Giang chưa hề nghe nói đường hang ngầm nào lại
dài đến thế. Võ Minh Thần thấy hang sâu kỳ dị, đoán có lẽ đây là hang
nhân tạo, tuy vậy chàng vẫn có cảm giác bàng bạc mơ hồ như mình đang lạc vào một con đường phi phàm dẫn tới cảnh trí thế giới phi phàm dưới đáy
Hắc Giang.

Mải lần theo đường ngầm quanh co hun hút, Võ cứ đi trong cảnh im lìm quái gở, thình lình đường hầm hết.

Trước mắt Võ, là những bậc thềm trùng trùng toàn đá phiến, nổi
bật cao khoảng bốn mươi phân, loe rộng như trái bầu, hai bên có hai “ông thạch cẩu” bằng đá trắng to lớn gấp mấy chó thường. Và hai bên, hoa leo chằng chịt, mọc đầy cả vách đá trần, dọc từ dưới lên cao tít, mùi thơm
ngào ngạt át hẳn mùi rêu phong ẩm thấp.

Đồng thời, chàng cũng chợt nhận ra lồng ngực mình bỗng nhẹ hẳn, không khó thở như lúc đầu vào địa đạo.

Ẩn sau cây leo rườm rà trườn lên, ít nhất cũng đến ba mươi bậc thoai
thoải, tít lên cao, là một khung cửa hình nguyệt, chạm trổ tinh vi với
hai con rồng uốn khúc, đúng thế lưỡng long triều nguyệt, miệng rồng ngậm hai đầu tấm biển hình ống lối cuốn thư, tháp bút, sơn son có ba chữ đại tự bằng vàng diệp nét sắc như dao cắt sáng rực đứng xa đã thấy rõ:

“A Phòng Cung”

Dưới có hàng chữ nhỏ hơn:

“Thủy động Sài Lang Chúa Tinh Quân Tây Sắc”.

– À tới nội cung sào huyệt Ma Vương tứ túc rồi. Lạ thật! Dưới đáy Hắc
Giang ai ngờ lại có “thế giới kỳ dị” thế này? Chắc trên kia phải có quân canh.

Mơ hồ hình dung như trên kia có âm thanh văng vẳng đưa
ra, vi vu như tiếng sáo diều đêm thu, hay tiếng đàn sáo chìm nổi lưu
thủy khiến Minh Thần có cảm giác bàng bạc như thứ âm giai từ dĩ vãng xa
xăm vọng về trong các cuộc đăng đàn, tiến tửu cung vua…

Giơ tay phát điện, Minh Thần vừa định thám sát, bỗng nghe bên tai có tiếng “xó Ma Khách” âm u:

– Thềm không có gì. Nhưng trên cửa “lưỡng long triều nguyệt” có hai con “trành” canh cửa, sài kíu như rươi. Thầy!

– Được, để thầy liệu! Theo thầy! Minh Thần men sát vách đá dây leo rườm
rà vượt lên ngọn thềm. Vừa hết bậc cuối cùng, dòm vào trong cửa cung A
Phòng, sâu khoảng hai thước, hai bên vách đá có hai cái hốc dựng lù lù
hai cỗ quan tài độc mộc sơn then, ván thiên bằng kính ghép, trong quan
đứng sừng sững hai cái xác mặc quần áo Mèo, chít khan vành rế, chân quấn xà cạp, mặt mày đẹp lạnh như băng, hai cặp mắt mở trừng trừng, bất động như mắt tượng. Cả hai thây nữ, cuống họng đều há ngoác vết nanh chó sói cắn, dấu máu chảy tím xỉn còn in đậm trên ngực áo.

Võ Minh Thần vừa phát giác hai con “trành cái”, lập tức hai mắt trành bỗng long lên
sòng sọc liếc dòm ra ngoài, chạm mắt chàng trai. Kịch! Kịch!

Nắp ván thiên kính chợt chay sang bên, mở rộng quan tài, hai con trành cái lắc lư, cử động tay chân coi cực kỳ dữ tợn.

Minh Thần đưa tay bắt quyết, tưởng trành cái vọt ra, nhưng cả hai vẫn lắc lư trong quan tài. Minh Thần nhìn quanh mới hay nóc cổng có bùa “khoán”
lưới ngũ sắc y hệt cổng ngoài.

– À nó khoán. Nội bất xuất ngoại bất nhập, nên hai con trành cái chỉ chực vồ người vào cung thôi.

Bèn đọc chú bấm cung, giải “khoán”, đánh hai con trành cái. Hai con trành
này uy lực mạnh tợn, mấy phen xô quan nhảy ra đều bị “quyết” đánh bật
vào. Cuối cùng, cả hai đều bị Minh Thần nhốt trong quan.

Tình
thế nghiêm trọng buộc Võ Minh Thần phải xuất đầu lộ diện, đứng giữa cửa
cung, tung ấn quyết giải “khoán” nhanh như chớp, nhờ vậy “xó quỷ Ma
Khách” đã thừa thế xông vào trở lực chủ, cầm giữ hai con trành cái không cho thoát ra ngoài quan tài. Nhưng hai con trành cái này dữ tợn hết
sức, tuy bị chú quyết kiềm chế, chúng vẫn dùng het ma lực để xông ra
“vật” người và báo động trong cung. Minh Thần cũng đã dự phòng nên vận
hết tinh lực, giữ vững tay quyết, cắn chót lưỡi, phun phì máu vào mặt
kính. Điều hơi khó là hai cỗ quan tài trành cái Mèo này lai dựng hai bên hông cửa cung, nên Minh Thần phải đứng chính giữa, tả xung hữu đột.
Cuộc vật lộn giữa thần lực ma lực dữ đến độ tay “quyết” của Võ rung lên
mãnh liệt, còn hai cỗ quan đảo như lên đồng, ván thiên rung động, phát
ra tiếng “lịch kịch loảng xoảng” vì hai hồn ma cứ định thoát ra mang
theo cả thây xác giữa vùng ánh sáng lân tinh, hai cặp mắt trành long
sòng sọc, nó húc cả đầu vào ván thiên ghép kính, coi mười phần hung hãn. Nhưng chỉ hơn mười giây, tay “quyết” Minh Thần đứng im, không rung nữa, và cả hai cỗ quan tài vụt giãy lên đành đạch như đỉa phải vôi, phát ra
những tiếng rên rỉ âm âm mơ hồ xa xăm lạ.

Mắt quắc long sòng
sọc, Võ Minh Thần tiến lai một bước, uốn lưỡi không chạm miệng đọc chú,
ghé miệng phun phì phì hai búng máu tươi vào mặt kính.

Hai cỗ
quan tài giãy lên một cái rồi đứng yên, sau lần kính lấm tấm máu đỏ, hai con trành cái trợn trừng bốn con mắt trắng dã rồi từ từ nhắm lại, như
ngủ giấc thiên thu. Trành cái đã bại trận, bị chú quyết nhốt kỹ trong
thân xác, quan tài như kẻ tù bị cấm cố trong ngục tối.

Võ Minh
Thần thở phào, buông tay quyết lau mấy giọt mồ hôi lấm tấm trên trán.
Chàng hiểu vừa hạ được hai con trành cái linh đến độ sắp thành tinh. Mỗi con bằng hàng đàn xó.

Chàng trai xốc áo tiến qua cửa cung, đụng một bức rèm xương
trắng hếu, coi như ghép bằng xương ngón tay người. Từ đâu luồng gió thổi vi vu, khua nhẹ bức rèm xương phát âm khô dòn như lau xô trúc cọ. Đứng
sát bên Võ ghé mắt dòm vào, bên trong cảnh trí hư ảo lạ. Chàng vén luôn
rèm, lách vào.

Hai con đường chạy hai bên vòng theo đường móng
lừa, lại hai tầng bậc thềm cao vút nữa, và chính giữa, cách bức rèm
xương chừng hai, ba thước là một hình chó đá to như con trâu mộng, cao
đến ba thước, rất tinh xảo, từng chiếc lông, râu, bờm coi hết sức linh
động, nhất là hai con mắt đỏ khé ghép bằng hồng ngọc, phản chiếu ánh
sáng long lanh phát cả tia đỏ như mắt chó sói thật.

Ngay dưới
chân con Hồng Cẩu Quẩy mày vàng này có mot chiếc bàn độc cao, trên có
phủ một tấm vóc đại hồng mép rủ che gần hết chân bàn. Chẳng hiểu bàn độc đặt đồ vật chi, Minh Thần thấy nhô hẳn lên, đoán chắc các món đồ thờ.

– Hình tượng chó sói lông vàng này, chắc tượng con tinh chúa thờ ngoài cửa cung đây.

Lơ đãng, Võ thò tay nhón mép vóc lật lên coi thử. Bỗng chàng trai giật nảy mình, sửng sốt vì vật nằm dưới lần vóc là một hình người nằm ngửa phờ
phờ. Hình nữ, hai nói đúng hơn, hình một cô gái khỏa thân đẹp tuyệt
trần, nằm ngửa không có gối, dòng tóc dài chảy xuống nền đá vẫn còn thừa để quấn vào cột hai, ba vòng nữa. Ngực nữ rướn cong vút, nét nhũ kỷ hà
phây ngọn gần chạm móng vuốt tượng Sài Lang, hay tay tròn khúc rắn giơ
lên như đón mời, thân hình thuôn lẳn thắt đáy lưng ong, hai bắp đùi dài
búp hoa quỳ buông thoảng mép bàn dáng nửa như cung kính dâng hiến nửa
như uốn éo mời mọc làm nũng, toàn thân trắng mịn như ngà, dưới làn ánh
sáng lung linh xanh xanh coi nàng đê mê kỳ ảo lạ.

Bất giác, Võ Minh Thần phải tặc lưỡi khen:

– Chà! Tay họa sĩ nào lại có tài khắc hình mỹ thuật đến chừng này. Con
Hồng Cẩu Quẩy khắc đã khéo, đến hình tượng mỹ nhân này tưởng đến “bà mụ” nặn người cũng chỉ tinh vi đến thế thôi. Hừ, tượng bạch thạch hay bằng
sáp… coi linh động như thật.

Vừa lẩm bẩm, chàng vừa lơ đãng sờ tay vào ngực tượng mỹ nhân, mắt quan sát hai bên đường thềm lượn móng
lừa. Bỗng chàng trai giật nảy người lên như phải điện, cảm thấy rõ mấy
ngón tay đụng phải vật mềm mềm lạnh lạnh như đụng phải da thịt đàn bà.
Chàng quay phắt lại, nhìn, lấy tay miet thử, vụt ớn mình khi phát giác
ra đó không phải là một pho tượng khắc bằng đá trắng hay đắp bằng thạch cao, sáp chi cả mà chính là một cái xác nữ
thật, thây cô gái đep khỏa thân nằm đó bằn bặt thiếp trong giấc ngủ ngàn năm.

Tuy đã quen sống với ma xó, tự nhiên Minh Thần vẫn thấy
lạnh lòng trước cảnh thây nữ nằm dâng mình cho chó sói và chàng nghĩ
ngay tới thảm cảnh của người đàn bà có nhan sắc đã bị con tinh chúa hốt
hồn đem xác để bàn độc làm đồ cúng vẫn nguyên trong cái dáng vẻ dâng
hiến trước khi lìa trần.

– Mẹ ta cũng bị như thế! Chỉ khác là nó hấp thành cái túi da, nhưng cũng bị yêu thuật dược của nó làm biến tâm
chịu nhục hiến thân xác cho nó hấp. Đêm nay ta vào hang ổ gặp nó, chẳng
những báo cừu riêng, còn trừ mối họa gớm ghê cho lương dân mấy cõi!
Thiếu nữ vô danh! Xác nằm dày giữa cửa cung lạnh, oan hồn vơ vẩn chốn
nào? Nếu có linh thiêng hãy chứng cho ngu mỗ đây vì trả thù oán, quyết
vì nàng rửa giúp mối oan.

Cúi đầu, Vô Minh thần nhón mép vóc kéo cho kín thây người nữ khỏa, chàng trai xẹt luôn sang đường thềm hữu.

Chợt ngửi thấy mùi hôi hám thoáng bay ra, xẹt thử sang tả, cũng mùi hôi hám! đang phân vân chưa biết nên đi ngả nào, bỗng nghe “xó quỷ Ma Khách” thì thào bên tai:

– Ngả nào cũng vào trong, hai bên vách là chuồng
chó sói! thầy cẩn thận. Ngả nào cũng vào trong, hai bên vách là chuồng
chó sói! Thầy cẩn thận! Mỗi bên nó nhốt hàng mấy trăm con, cửa chuông mở sẵn! Trên trần cũng vậy!

Minh Thần gật đầu, men vào dòm, quả
nhiên ngả nào cũng đầy sài kíu nhe nanh nhởn, hai bên vách trên trần
cũng đều có chuồng, từng ô cặp một, muốn qua phải đi lọt giữa mấy dãy
chuồng sài kíu.

Không do dự, Võ lập tức vận công, tiếp khí hàn làm sương mờ nhân tạo ẩn thân, và nhẹ gót tiến luôn vào… chuồng sói độc.

Bộ quần áo chàm, khăn mũ giày đã bôi thuốc trừ hơi người ngay lúc tiến vào Độn Thổ cung chàng không phải e ngại chi nữa, nhất lại mới lặn khá lâu
dưới nước lên hơi người xông rất nhẹ, chàng chỉ lo chú ý tới làm sa mù
nhân tạo cho vừa độ, mỏng quá sẽ lộ ngay vì hang cẩu quẩy tinh mắt hết
sức, dày quá cũng dễ lộ! Vận khinh phù nhẹ như bấc, chàng vượt hết mấy
bậc thềm, thì sa mù nhan tạo để tỏa khắp châu thân, Võ Minh Thần thì
thào:

– Thấy hình thầy không? Tiếng “xó quỷ Ma Khách” âm u bên tai:

– Từ đầu xuống gối kín lắm, từ gối xuống chân còn mỏng, nhìn kỹ vẫn thấy đôi giầy!

Minh Thần lấy ống hơi, lật ngược, bấm nút sì hơi nghe tiếng xó
thì thầm “được rồi, thầy”. Chàng lập tức nín hơi, tiến luôn vào đường
hầm chó sói. Hồi nãy, lúc ẩn thân trên cây, nhờ cành là rậm. Chàng còn
để chừa khoảng từ mắt lên, để quan sát đàn sói Ma Vương, giờ lối đi
trống trơn phải bao phủ kín người, nên chẳng còn thấy gì nữa. Lúc nãy
còn nhìn bằng xúc giác, khứu giác, thính giác!

Nền hầm lát toàn
đá phiến nhẵn thín, vừa lọt vào được mấy bước, đã thấy nóng sực hơi điện khí, quay mặt phía nào cũng chỉ ngửi thấy mùi hôi hám đặc biệt của loài sài kíu ăn thịt sống, khăm khắm tựa mùi phà hơi thở.

Chàng bò
lọt giữa hai dãy chuồng sói, giữa cảnh hang sâu im lặng, tai nghe rõ cả
tiếng sài kíu thở phì phì, tiếng vuốt cào mặt đá va đặc biệt là khắp hai dãy tả hữu trên trần đều phát ra những tiếng lục cục cháp cháp, rau
ráu, răng nanh nghiến ken két lẫn tiếng gừ gừ nghe phát ớn.

– À! Hay lắm! Chắc đàn “quỷ mắt đỏ” này đang ăn! Đường xa theo con tinh chúa, chắc tụi chúng đói ngấu, ta vào đúng thời cơ!

Đi dược hơn năm mươi bước, vẫn thấy êm, Minh Thần không khỏi mừng thầm,
tuy sa mù bao quanh nhưng đã có con xó tinh khôn làm hướng đạo không
ngại đi lầm vào chuồng sói. Chợt nảy ý muốn biết chúng nhiều đến mức
nào, Võ thò hai bàn tay xòe, phát điện rè nhè nhẹ, chạm cho nào cũng
thấy lúc nhúc như rươi, chàng không khỏi ghê thầm. Đàn “quỷ bốn chân”
này nếu đồng loạt sổ ra tấn công, giữa khúc hang nghẽn, tưởng kẻ bản
lĩnh cao mấy cũng phải nguy.

Bất thần vừa chạm phải luồng điện
mạnh, tiếp luôn tiếng “gầm gừ” giật âm, Võ bỏ vội phát điện, thu tay
lại. Lập tức có tiếng vuốt cào cửa chuồng, rồi có một con sài kíu to lớn sổ ra đi theo sủa lên mấy tiếng cụt! Tiếng con vật di động làm Võ giật
mình, voi lướt đi mau thêm, được mươi bước vẫn nghe thấy tiếng chân sói
đi theo gừ.

Đã tưởng lộ, may nó chỉ gừ bóng gió, rồi dừng lại,
quay về chuồng, có lẽ nó lấy làm lạ về khóm sương đặc trôi cuồn cuộn
trong hang! Thở phào, Minh Thần gia tăng sức di chuyển giữa sa mù, ba bề toàn sài kíu độc, chàng có cảm tưởng như vuốt sắc có thể bất ngở chụp
xuống. Tuy vậy theo đường vòng móng lừa vượt thêm khoảng trăm bộ nữa,
chàng đã qua chuồng sói vô sự.

Mùi hôi hám, tiếng thú dữ, như
tắt sau lưng. Võ vừa nghe tiếng xó thì thầm “hết chúng chó” rồi, lập tức dừng lại, đặt vào sát vách đụng ngay cành lá rườm rà. Cảnh im lặng cũng vừa chấm dứt, âm thanh kỳ diệu tràn ra ùa vào tai chàng tuổi trẻ, tiếng đàn sáo véo von, tiếng sênh tiền gõ nhịp, lẫn cả chục thứ tiếng bổng chìm réo rắt, nghe thao thao như nguồn lưu thủy. Hắc Giang
khua người vào hơi mùa xuân dưới lòng nước biếc!

Ngay chỗ Võ
Minh Thần đứng, có hai con đường chạy vòng tròn quanh cung động, tẽ ra
hàng bao nhiêu con đường phụ nữa, chằng chịt quanh ngay bên dường là mấy lạch nước uon quanh, chảy ra nhiều phụ lưu nữa, nước chảy thao thiết
qua các khu vực, thông khắp bốn mặt. Thỉnh thoảng lại có một cây cầu gỗ, tre, bắc qua lạch nước, hoặc cầu mây treo vắt vẻo, dập dềnh, nối liền
các đường vào cung. Hai bên đường lạch cây cối um tùm, có hoa tươi tốt,
toàn loại kỳ hoa di thảo, lạ nhất là cây cối đều không cao mấy nhưng
nhiều cây gốc sù sì, coi không khác các cây cảnh lâu năm, đã được “hãm”
rất giỏi! Khiến Võ nhìn, có cảm tưởng kỳ bí như trông thấy những rừng
cây trong huyền mộng hay trong những tấm “phông” trên sân khấu!

Đến những tòa ngang dãy dọc, coi lại càng khác trần. Nhà cũng có cái cao
cái thấp, nhưng lối kiến trúc cũng la như vật liệu. Trông từa tựa như
đền đài miếu mạo cổ Á Đông, lại phảng phất pha cả lối Thái Tây trung cổ, rất khó phân định nhưng có điều đặc biệt nhất là trong toàn bộ những
dãy ngang tòa dọc, coi không khác một bức tranh lập thể kỳ bí với các
đường nét kỷ hà hết sức quái gở làm người trông có cảm giác mơ hồ như
đứng trước một cung động dưới… âm, âm cung hơn là tiên cung vì các
đường nét kiến trúc cũng như màu sắc hoa cỏ tuy rat đẹp, nhưng không
thanh thoát phiêu phiêu, mà toàn khối lại toát ra thứ chi quái ảo kỳ bí
rờn rợn như cảnh trí úp chụp lấy tâm hồn cảm quan người ta trong những
cơn mộng ác nặng nề!

Ngay chỗ Minh Thần đứng, có mấy cây cành lá lòa xòa rủ thấp, che cả vòm cao, chàng quan sát giây khắc, lòng đầy
thắc mắc, nghĩ thầm:

– Ai dám ngờ dưới Hắc Giang biên thùy lại
có một khu cung động kỳ dị thế? Yêu thuật hay bàn tay nào tạo nên kể
cũng công phu, biết vào ngày tháng mới xong? Nó dùng ma lực, hay bắt
nhân công đào núi đào hầm tạo tác, dùng cốt mìn phá núi chăng? Không thể có hang thiên tạo rộng thế này! Hang Chùa trong Hương Tích Sơn còn nhỏ
hơn nhiều! Trần xem chừng cũng cao lắm!

Bèn bước ra chỗ ít cành
xòa, nghiêng ngó trông lên, suýt bật kêu sững sờ, may lúc đó mới phát
giác các làn ánh sáng ngũ sắc muôn màu từ đâu phát ra.

Vì trên
cao, cách ngọn cây, chừng thước rưỡi, hai thước “vòm trời nhân tạo”
(sinh tạo đúng hơn) uốn cong như cái vung khổng lồ úp lấy vùng cung động Ma Vương Sắc, nền trời cũng nhiều màu và như thu gọn cả vòm trời trong
cõi thái dương.

Tít xa, ấn định phương đông, có một mặt trời đỏ
khé, chẳng hiểu bằng chu sa hay thứ chi, dưới tàn cây lại có chiếc đèn
lồng đỏ, xế phương Tây là vành trăng khuyết vào độ hai mươi, hai mươi mốt hạ tuần, bằng kim nhũ, và
rải rác khắp vòm trời tinh tạo, có đủ các sao chính như sao Hôm, sao
Mai, Kim Hỏa tinh, Mộc tinh, Ngân tinh, Hải Vương tinh, Vệ Nữ, Tua Rua,
Bắc Đẩu, sao chổi, chòm Ngân Hà v.v…

Hằng hà sa số tinh tú,
mỗi chòm sao đắp bằng một loạt phát ánh sáng màu, chòm bằng ngân nhũ,
chòm bằng lân tinh có sao bằng “sa phia”, ngọc thạch, hoặc bằng các thứ
hóa chất khác v.v… Cứ sao màu nào dưới tàn cây nóc nhà lại có một ngọn đèn lồng to màu đỏ ánh sáng đủ màu trên dưới giao nhau, khiến cả vùng
cung động chan hòa ánh sáng mơ hồ hư ảo phi phàm lạ!

Minh Thần
nhìn vòm trời lấp lánh trăng sao tinh tạo, không khỏi lấy làm quái gở
cho bộ óc Chúa sài lang, chẳng những cơ trí cơ tâm mà lại còn có đầu óc
một nhà thiên văn, kiến trúc, họa sĩ, thi sĩ nữa! Một bộ óc minh mẫn hơn người, chẳng những thông suốt về nhâm cầm độn toán, trận bài binh, lục
thao tam lược, suốt cả thiên văn, địa ly, nhân sự làu mấy xe kinh sử,
hiểu được cả khoa học đông tây, mà còn thạo cả cầm kỳ thi họa tửu sắc
yên đổ, đến độ bá chủ ngôi hào hoa chiêm ngưỡng sắc đẹp giai nhân trên
đời, lại là bộ óc chó, chó sói, cực kỳ tan độc coi chuyện bắt đàn bà con gái hấp sát, như một khách hào hoa ngửi hít bông hoa thơm đẹp! Chàng
tuổi trẻ khẽ chép, sốc áo, tiến vụt vào đường hữu!

Bóng cây lá
loang lổ đọng trong vũng tối trên bầu trời Hắc biên khu. Có điều trái
ngược là cảnh trí lại im lặng như tranh vẽ chẳng thấy bóng người vật,
chim chóc nào cả.

Minh Thần nghĩ thầm:

– Âm thanh phảng
phất lẫn lộn, có lại khu cung động nằm dưới lòng đất đáy sông, đã bị vây hãm kín, lối kiến trúc các vật liệu đều đặc biệt nên vang âm hỗn hợp!
Quái! Sao không thấy bóng sinh vật? Hay tất cả đều ở phía trong, đây chỉ là ngoại cung! Chắc hết quân canh gác rồi chăng, nếu còn, chắc cũng
trong cung!

Quan sát thêm giây khắc, chàng lập tức men sát vách, lần vào. Địa thế thủy chế trong Cung A Phòng này, đường vòng sát vách,
rồi mới đến con lạch, vách đầy hoa cỏ dây leo, nền thuộc loại đất pha đá như thường thấy tại cac rặng núi thượng du xứ Bắc, nên các loài kỳ hoa
dị thảo mọc rất tốt, nhiều nhất giống vạn niên thanh phong lan rừng
hương thơm kỳ ảo lạ. Nhờ hoa cỏ bóng cây, Võ Minh Thần lẩn vào rất tiện
đỡ nhiều công ẩn thân.

Im đen rợn người! Âm thanh lẫn lộn chập
chờn mơ hồ giữa cảnh im lặng càng làm tăng không khí ma quái trong cung. Nhưng mới lần vào chừng hai mươi bộ dột tim một cái, vì chợt bắt gặp
hai con mắt đỏ khé trên tàn cây!

Rất nhanh chàng giơ vụt tay định thả lưỡi dao nhưng vừa nghiêng
mình giơ tay, chàng lại vụt phát giác ra hàng chục con mắt nữa rải rác
ngang xế trước mắt:

– À mắt cú mèo! Nó dùng cú mèo canh động! Cú meo ban ngày, trái mít chưa thấy rõ nhưng ban đêm thấy cả cái kim sợi tóc!

Không chậm trễ Võ ngừng xuất thủ, lập tức rúc lên khẽ mấy tiếng chim cú dùng
luôn bí pháp sai khiến loài thú điểu! Quả nhiên cả chục con cú mèo cùng
xòe cánh đập phành phạch, phát ra tiếng rúc mừng rỡ đầu gật gà như chào
đón.

Như cái bóng, Võ Minh Thần lướt vụt đi dưới hàng cây cú
đậu… êm ru! Cả mừng, chàng cứ men dọc vách, đi khoảng năm mươi thước
nữa, nhìn sang tả, có con đường nhỏ chạy vào một khu nhà cửa màu tím
nhạt hoa cà có chiếc cầu the bắc qua lạch. Âm thanh dìu dặt từ trong
vẳng đưa ra, bây giờ nghe rõ hẳn, có thể phân tách được đó là tiếng đàn
tỳ bà, hòa với tiếng quyền, và cả tiếng hát véo von, giọng nữ nhân thánh thót nghe thỏ thẻ như tiếng chim oanh hót! Đang sôi máu căm hờn, ngùn
ngụt tâm trạng tìm thù báo oán, vậy mà khi nghe âm thanh trầm bổng đưa
ra. Võ Minh Thần cũng thấy dịu hẳn người, lòng nhẹ lâng lâng như đang
nghe tiếng nhã nhạc từ cung tiên nào vọng tới, phiêu phiêu muốn bay bổng hình hài, cưỡi tiếng quyển, tỳ theo lên tận trời cao! Vén cành lá cỏ
hoa dòm vào, thấy bên kia cầu có bốn cái cổng uốn cong, mở rộng, đường
hoa mơn mởn dưới làn sáng hoa cà, chạy hút vào sâu, tuyệt không một bóng người vật phảng phất coi giống hệt bức tranh lập thể vẽ một cảnh hoàng
hôn tím cung môn đền đài thời thượng nào! Võ cau mày lẩm bẩm, tiến vụt
vào, kiếm cả cửa sổ dòm. Tòa nhà nhiều buồng, trước có một dãy hành lang chạy vòng ba mặt, dưới ánh đèn lồng đỏ nhạt, có hàng mấy chục cô gái
qua lại thoăn thoắt, nhác trông tựa một bầy vũ nữ đang dượt thử trước
khi trình diễn. Vì tất cả đều mặc rất lạ mắt, mỗi nàng một kiểu áo
khoác, có nàng mặc áo khách có nàng mặc may ô tắm biển, có nàng mặc áo
búi que sông Vị, nhưng tất cả vạt trước đều chỉ tới háng, còn từ háng
xuống để trần, như người mặc đồ tắm biển để phô bầy trọn vẹn cặp đùi. Đủ loại đùi đẹp như búp hoa!

– À Túc Hoa Viên là thế này đây, Viện mỹ nữ đùi dẹp! Võ tặc lưỡi bỏ sang dãy cách đó một cái vườn hoa, có
lạch chảy chia ngăn, ngoài có biển đề “Bàn Tọa cung” từ trong vẫn thứ
kèn trống như dãy kia đưa ra, kèn là loại âm nghe như vuốt da thịt người ta.

Ghé cửa sổ nhìn vào thấy hai, ba chục gái mặc nhiều thứ quần áo
sặc sỡ, đang đi lại nhún nhảy uốn éo, như vờn múa theo âm thanh. Chừng
dòm kỹ, chàng trai không khỏi đỏ mặt tức cười vì cô nào quần áo cũng
khoét đoạn giữa, để lộ cả khu bàn tọa. Dẫu vừa phát giác ra, chàng đã
ngoảnh mặt đi vì ngượng, nhưng cũng kịp nhận thấy khu bàn tọa nào cũng
tuyệt đẹp, nét kỷ hà lượn uốn cong veo, tròn trịa, bàn nhỏ bàn phình mâm sôi, bàn nào cũng toát ra nét cong phây có sức lôi cuốn lạ thường.

Cung viện chứa mỹ nữ có mông đẹp! Hừ! Tây Sắc tinh này thật không hổ tiếng
“vua sắc” “sưu tầm” đủ loại đàn bà đủ bộ! Đàn bà có hàng trăm bộ phận.
Ngũ cung thập viện của nó còn chứa bộ chi nữa đây?

Minh Thần bèn rời “Bàn Tọa viện bắc cung” lẫn giữa cỏ hoa bóng tối kiếm chỗ Ma Vương.

Hết bắc cung, loanh quanh lại tới năm cung gặp thêm mấy viện khác, “viện
Khẩu Hoa” chứa gái miệng xinh, “viện Nhĩ Hoa” chứa gái có vành tai đẹp,
cùng với viện chứa gái mũi đẹp, cổ đẹp, mắt đẹp, tay đẹp v.v… Mới hay
các cung viện A Phòng không án theo đông tây nam bắc, mà án theo một lối kiến trúc riêng biệt nào đó lấy tứ tượng đặt tên!

Nên các khu
cung viện tuy đều có cửa riêng lại không nằm chia từng khu vuông vắn, mà lại xen lẫn nhau, chằng chịt tương quan, khiến kẻ ngoài có cảm tưởng
như đi trong “mê hồn trận”, chỉ vào quãng ngắn đã quên ngay đường ra.
Khi Minh Thần sực phát giác ra điều đó, thì chàng cũng đã bị lạc mất lối lúc nào không biết.

Đành cứ nương bóng tối loang lổ, tìm mãi có lần lạc cả vào khu cũ. Vì ánh mặt trăng mặt trời, các vì sao đính trên
vòm trời giả tạo rất khéo biến ánh sáng màu. Đứng ngoài, thấy khu vực
kia màu vàng, nhưng đứng phía tả, nhìn lại màu khác, hữu màu khác, biến
hóa linh hoạt lạ, y như nhìn một bức tranh đắp nối chia nhiều màu trên
son đắp vậy!

Vì các vì tinh tú, đèn lồng luôn luôn biến đổi, chờ hoa cả màu sắc các khu vực. Đang sục tìm chợt đến cổng tây cung. Sức
nhớ đến cha con lão Phìa Mường La Nam Cương, Võ vọt luôn vào, nghĩ:

– À! Hay dữ! Nếu cô gái Meo Tây Phi này còn đây, ta cứ đeo sát, con tinh
mới về thế nào cũng cho gọi, hoặc nó tới cung này ta cũng hi vọng gặp nó ngay!

Bèn nương bóng cây lần vào, chỉ nghe tiếng nhạc uốn éo đưa ra,
ghé mắt nhìn qua cửa sổ khép hờ, thấy một căn phòng rộng, trần thiết
lông lẫy, có một bọn năm, bảy gái đang hòa nhạc, và một bọn mấy gái nữa
đang lăng xăng bày biện đèn lông, mang khay trà… xoay lưng lại.

Quái! Bon gái này làm chi, coi rộn rịp như đón rước ai? Hay “nó” đến? Vừa
nghĩ, Võ vừa lùi ra chút, bước quanh, thấy tấm biển đề “Tế Yêu cung”
“Nhũ Hoa cung” và chợt lại nghe trong phòng vẳng ra tiếng gọi nhau thánh thót chàng vội lộn đến ghé mắt trông thấy lũ gái khiêng ra một chiếc
ghế tay ngai cao nghệu sơn son đặt cuối phòng. Ngay khi đó, bỗng thấy
bóng chiếc cáng thổ cẩm hiện ngoài thềm nhà, nhạc nổi lên? Một bọn độ
vài gái xiêm y sặc sỡ phò một mỹ nhân xuống cáng đi vào. Bọn gái trong
phòng nhất loạt chạy ra dàn hai bên, phục luôn xuống hô lảnh:

– Nô tỳ cung nữ xin bái kiến nương nương, chúc nương nương trường thọ cho Tây cung hoa nở bốn mùa!

Hô xong đứng lên, Võ ngó lại, thì ra cô nàng đi cáng không ai khác Kheng
Lan con gái Mèo tiến cung hồi nãy. Phía sau cô nàng vẫn có lão Phìa
Mường La theo “hộ tống”. Cô Mèo lúc này coi càng ngơ ngác, sững sờ,

không tươi nhanh như lúc nau sáp bọc mình, nàng ta giơ tay vẻ lúng túng
nói chi, rồi theo lũ gái đi thẳng vào, ngồi xuống ghế son, một cung nữ
trạc non ba mươi vẻ thành thạo, cúi đầu cung kính:

– Xin cho mỹ
nữ Tế Yêu, Nhũ Hoa cung ra mắt nương nương! Dưt lời, từ ngoài tiến vào
một đám gái trẻ, từ mười bảy tới ba mươi, xiêm y cả loạt rực rỡ, đi hàng một bước đến trước ghế son. Phựt! Cách hai thước, gái dẫn đầu bất thần
đưa tay giật mạnh một cái tiếp theo những tiếng khuy bấm xổ tách tách cả tấm áo mỏng mở bung chạy gập xuống tận hông, để lộ thân hình trắng ngà
không mảnh vải lót trong. Gái trần vai yểu điệu bước ra trước mặt Tây
Phi. Nghiêng đầu một cái, đứng thẳng người, gái nay chầm chậm xoay mình
một vòng chừng muốn trình thân dáng. Đúng là một tấm thân tuyệt đẹp! Bộ
nhũ phây trên lồng ngực hoa căng sức sống, tấm lưng thon thắt dây tò vò, coi như pho tượng khắc thật giỏi! Hai bộ chân này noi bật lên, còn các
bộ phận khác như bụng, vai, cổ, mắt, mũi, tai tuy không nổi bật bằng
nhưng cũng thuộc loại xinh xắn cả. Chỉ nhìn qua cũng thấy gái “Tế Yêu
cung, Nhũ Hoa cung” này đẹp hơn gái mấy cung viện trước!

Cô gái này xoay người một vòng, rồi tiến sang bên kia, nhường chỗ cho gái thứ hai.

Phụt! Tách tách! Gái này cũng giật tung khuy bấm chiếc áo may ghép sổ tung,
chảy xuống tận hông, lại phô tấm lưng thon, nhũ hoa căng sức sống, dưới
ánh sáng đèn lồng gái này cũng làm các động tác y hệt như gái trước, rồi bước đi nhường chỗ cho gái sau. Cứ thế tiếp tục phô eo, nhũ dưới đèn.

Nàng Mèo Kheng Lan gật đầu, Võ Minh Thần sực nhớ tới “lão Phìa vô liêm sỉ”
đem con gái nộp Chúa sài lang, mặt mày hớn hở như không, chàng trai nhăn mặt đưa mắt tìm, ông già Phìa kia đã lảng ra đứng ngoài hành lang lúc
nào không biết, chắc lão ta ngượng vì thấy gái lưng trần! Bỗng nghe
tiếng lão vọng vào:

– Này các cô? Sao không đem Tây Phi đến gặp Chúa sài lang? Ngồi đây làm gì?

Cô lớn tuổi thưa:

– Dám bẩm Phìa, lệ A Phòng, dẫn phi hậu tiến cung cũng ở riêng biệt!

Chừng nào có lệnh Chúa cho gọi, hay Chúa ngự tới, mới được gặp!

Dứt lời, ả quay bảo cô nàng Mèo:

– Tâu nương nương, giờ xin nương nương theo kẻ nô tỳ đi tắm rửa, thay đổi xiêm y, chờ Chúa gia ngự!

Cô nàng Mèo lắc đầu:

– Tắm sạch rồi! Giờ ta đợi Chúa sài lang!

Chàng trai liên tưởng đến cảnh mẹ chàng chết nhục vì không chịu khuất phục Chúa sài lang, máu bỗng sôi sục trong huyết quản.

– Hừ! Cung viện chứa thứ gái chi mà âm thanh ma mãnh thế này? Nó sẽ tới
đây “ngự” Tây Phi mới tiến. Ta chờ ngoài này, ít nhất, nó phải cho thủ
hạ đến vời cô gái Mèo Mường La kia, ta sẽ theo sát!

Bèn cứ đứng
ẩn giữa bóng lá, dòm, đợi thấy bầy gái đi vòng lại nhất loạt cúi đầu làm lễ ra mắt Tây Phi, nàng Mèo Tây Phi mới xuống cung động, ngồi xem bọn
mỹ nữ lượn, không hé môi, khi chúng dàn chào, nàng ta chợt cười khanh
khách:

– Dưới này ăn mặc lạ thật! Có quần không có áo!

Một cô nhiều tuổi nhất lễ phép:

– Dạ tâu nương nương, Tây cung này là Tế Yêu cung, Nhũ Hoa cung. Chúa
vương gia tuyển toàn gái có lưng to nhũ đẹp! Theo lệ A Phòng, cung viện, mỹ nữ phải để phô lộ nhũ, bất thần Chúa ngự! Vì Chúa hay tới Tế Yêu
cung!

Chỉ trong giây phút, trong phòng đã lố nhố đầy mỹ nữ khỏa bán
thân phô những tấm lưng eo, những lồng ngực căng sức sống, đẹp như tượng khắc. Bầy mỹ nữ thiết tha đi dưới ánh đèn, vạt áo để bay phất phi, coi
không khác một bầy tiên hạ giới đang lướt theo nhịp vũ tuyệt vời!

– À! Cung viện chứa gái lưng eo, nhũ đẹp là thế đây! Hừ! Quả con tình
Chúa Hồng Cẩu Quẩy này có mắt tham mỹ hơn người, chọn bắt toàn mỹ nữ
lưng thon ngực nở trong thiên hạ! Lạ thật! Coi mặt mũi dáng thân toàn
con nhà khá giả bị con tinh chúa nhốt dưới, cái cung ma quái này, sao
coi họ có vẻ tươi tỉnh ríu rít như bầy chim oanh, chẳng vẻ chi ủ rũ âu
sầu thê thảm? Không lẽ đời sống dưới cung thảy này thích hợp với mỹ
nhân? Hay bọn họ đều bị ngải yêu, ma thuật làm cho mê hoặc?

Tự
nhiên chàng tuổi trẻ khẽ thở dài, ái ngại cho đám gái xấu so, cam tâm
lìa gia đình thân thích, xuống lòng đất cung ma hầu loài tinh chó sói.
Vẫn lễ phép, gái hầu kia chừng cung nữ trưởng đã quen “nghề” dưới động
hơi cúi đầu thỏ thẻ:

– Tắm gội nước thơm là luật chung dưới A
Phòng, thập viện ngũ cung đều phải theo. Đó là lệnh Chúa Vương gia ban
xuống! Ai không tuân là phạm cấm điều, kẻ nô tỳ này phải trình cho “quan Chưởng pháp”!

Nghe lời gái cung nữ trưởng bảo trình Chưởng
pháp, nàng Mèo Tây Phi Kheng Lan tự nhiên có vẻ giận dữ, mất cả nét ngơ
ngác bỡ ngỡ của người mới xuống cung ma động quái, nàng ta cau mày lớn
tiếng:

– Ta đã bảo không cần tắm rửa chi cả! Bọn ngươi nên biết, trước khi nhận làm Tây Phi, ta đã ước với Chúa sài lang phải để ta được tự do, không kiềm chế quá! Vậy lúc nào ta muốn tắm sẽ bảo! Chưởng pháp
là kẻ nào có thể áp chế được vợ Chúa sài lang!

Đám mỹ nữ tế yêu, Nhũ Hoa cung xúm lại khuyên nhủ, nhưng nàng Tây Phi nhất định không
nghe, lão Phìa đứng ngoài căng nói vọng vào:

– Kheng Lan Phi à!
Tuy con đã tắm rửa sạch sẽ rồi, nhưng đi từ Mường La tới đây đường
trường bụi bặm, mồ hôi, cũng nên tắm lại cho thơm tho, Chúa ngự hài lòng mới có phận nhờ! Con nên nghe lời chúng đi!

Nàng Mèo vùng vằng:

– Cha đã tắm chưa mà đã bắt con tắm! Đã đem con tiến Chúa sài lang, cha
lại còn áp chế con mãi! Sao cha không đi tắm cho thơm tho! Cha đừng quên từ phút này con là Tây Phi, cha phải theo con mới đúng chứ?

Từ lúc gặp trên mặt đất, đây là lần đầu Võ Minh Thần nghe nàng
Mèo nói câu đầy vẻ oán trách cha, chàng cũng lấy làm lạ, tự nhiên có cảm tình đối với nàng ta, chàng nghĩ thầm:

– Kể lão Phìa kia cũng
vô liêm sỉ thật! Mặt mũi coi cũng khá mà dám mở niệng bảo con tắm rửa
thơm tho cho Chúa sói “đi lại”, kể thật hết chỗ nói! Chắc nàng Mèo kia
vì hiếu đã cố chịu đựng hy sinh quá mức rồi, nên mới bực ngang thế! Nghĩ cũng tội? Mà cô ta cũng lạ? Tắm rửa có chết chóc chi mà phải làm to
chuyện?

Đang nghĩ vẩn vơ chợt nghe lão Phìa thở phì than “ôi
chao! Phìa ngu thật, con gái Phìa giờ này lên chức Tây Phi, Phìa quên
mất! Phải phải! Tây Phi không tắm cũng phải!”, Võ hơi nhếch cười trước
giọng “a dua xu phụ con gái quý” của lão Phìa vụ lợi.

Chợt lại
thấy ả cũng nữ trưởng cúi đầu bỏ ra ngoài. Nửa phút sau, bỗng nghe xa xa có tiếng cười the thé nhọn hoắt rót vào Tế Yêu cung:

– Hé hé! Chưởng pháp xin ra mắt Tây Phi! Sao Tây Phi không tắm? Tây

Phi không thích tắm “thủy phương”, hé hé!

Nàng Mèo Kheng Lan nghiêng tai, hỏi lớn:

– Ngươi là Chưởng pháp, muốn gì, sao không tới đây? “Thủy phương”, thì là món chi?

– Ao nước thơm! Luật A Phòng, Phi hậu cũng phải tắm nước trước khi Chúa
ngự! Xin Tây Phi đi tắm ao thơm! Chưởng pháp xin báo tối nay Chúa mới
về, có thể ngự ở cung Tây đó!

– Vậy để gặp Chúa sài lang, cùng
tắm chưa muộn! Không tiếng đáp, dư âm giọng gái Mèo vang ngân trong
cung, im lặng mười khắc. Thình lình có tiếng vút gió, rồi vùn vụt bốn,
năm hình thù đen ngòn từ ngoài bắn vọt vào giữa phòng lẹ như mấy bóng
chim cắt, đứng dừng sững trước mặt nàng Mèo Tây Phi. Hiện ra năm hình
hết sức quái gở làm kẻ bạo gan cũng phải giật mình. Dưới đèn, đó là năm
bóng người khoác áo đen lòa xòa như mặc “măng tô san”! Không phải người cả! Vì đó là bốn con chó sói cao lớn, loại Hồng Cẩu Quẩy đầu đàn khoác
áo thụng chấm gót, chúng đi hai chân như người, vểnh tai, hích mõm mắt
đỏ khé dòm lừ lừ, nanh nhe nhọn, chân trước vuốt nhọn hoắt cào cào không khí như chực vồ người, mũi phập phồng đánh hơi hít hà coi bộ thèm mùi
thịt mỹ nữ hết sức!

Và đứng trước bốn con “quỷ mắt đỏ” này một mụ đàn bà trạc bốn
mươi, mập như con trâu chương, mặt to như cái thớt, hai con mắt trố ốc
nhồi sáng như đèn pha, lông mày sâu róm, mồm ngoác tựa mép con dãi đỏ
lòm màu son máu, môi gắp chả, tóc búi đỉnh đau, tay phải cầm một cái gậy trắng hếu, ghép bằng xương người, tay trái cầm một tấm lưới đen xì,
quay xoe xóe.

Mụ mập quái gở cùng bốn con chó sói khoác áo cứ
đứng lù lù tìm cô Mèo Kheng Lan, coi không khác hình mụ dạ xoa dưới âm
dẫn chó ngao lên bắt hồn người ta!

Nàng Mèo Mường La cứ ngồi ngó mụ mập với bốn con chó quái, chợt phát cười khanh khách:

– Hà hà! Dưới cung Chúa sài lang cái chi cũng lạ, chó mặc áo như người, mụ này mập dữ, coi như con trâu! Vào làm gì đó?

Tự nhiên đám mỹ nữ Tế Yêu cung đều biến sắc, đưa mắt cho Tây Phi, chúng sợ thay cho nàng, Nhưng vẻ ngây thơ của nàng Mèo bỗng làm mụ mập cười sằng sặc, cúi chào cất giọng the thé:

– Chưởng pháp ngũ cung, lập
viện A Phòng cung, gái già Dạ Xoa xin chúc Tây Phi trường thọ, cai quản
cung Tây đúng uy pháp Chúa Vương gia, và đi tắm “thủy phương trì” ngay!

Nàng Mèo Kheng Lan xua tay:

– Ta đã bảo không tắm! Mụ đừng nhắc đến nữa! Ta đã giao hẹn với Chúa sài
lang rồi! Bọn người không thể coi ta như lũ Phi tầm thường được!

Giọng đĩnh đạc của nàng Mèo làm Võ Minh Thần nấp ngoài cửa sổ không khỏi ngạc nhiên, cho nàng ta có “tính đồng bóng” vì một cô gái bướng đâu chịu dẫn thân tới hiến cho Chúa sói, cả mụ Dạ Xoa cũng ngạc nhiên, trợn mắt,
cười dữ tợn:

– Chưởng pháp quan chỉ biết luật cung cấm, không
biết điều giao ước riêng của Phi! Phi không đi tam, nên phải bỏ rọ, cho
chó sói thả dìm ao!

Lưới trên tay quay mở xòe bốn con sài kíu gừ gừ, lắc lư chực xông lại, lão Phìa chạy vội vào đứng bên con gái, nói lớn:

– Không được hỗn với Tây Phi? Chúa sài lang đã thuận cho Tây Phi được tùy ý trong cung, mụ phạm tới sẽ bị Chúa cho chó ăn thịt!

Mụ Dạ Xoa dòm sững, chừng cũng chột dạ:

– Lấy gì làm bằng? Việc tắm “thủy phương trì” quan hệ, cả cung phải theo, chính luật Chúa ra!

– Coi đây sẽ rõ ta không tắm cũng được!

Cô nàng Mèo lấy trong người ra một mảnh xương có khắc mấy chữ
chi đó với hình cung động, đầu sói bé tí. Mụ Dạ Xoa dòm kỹ vòng qua mảnh xương, nói nhanh:

– Chưởng phap mượn tín bài giây lát!

Dứt lời, mụ ta phất tay gậy một cái, cùng bốn con sói, khắc bắn vọt mình ra ngoài.

– Chắc mụ đi gặp Chúa sài lang! Thoáng nghĩ nhanh như tia chớp, Võ Minh
Thần lập tức rời hồi sau, vọt ra đằng trước, theo hút mụ Dạ Xoa. Nhưng
ra được tới đầu hồi, ngó quanh, đã chẳng thấy hình quái kia đâu nữa! Tây Cung cây cối rườm rà, tòa ngang dãy dọc như mê hồn trận! Võ vụt đảo một vòng, vẫn biến dạng Dạ Xoa. Thất vọng chàng bèn lại nấp chờ. Mười phút, rồi hai mươi phút, vẫn chẳng thấy chi khác, chỉ thấy bầy mỹ nữ lưng lộ
nhũ trông tha thướt lượn quanh nhà như phô diễn “bảo vật trời cho”, làm
Võ muốn lủng con ngươi! Bèn tặc lưỡi, bỏ cung Tay Tế Yêu, lần mò trong
bóng tối sương mờ, đi miết về nẻo có ánh mặt trời giả tạo. Quanh co mãi
mặt trời xoay chuyển biến màu chừng mấy phút sau, bỗng chàng lọt vào một khu kiến trúc thật quái gở với những đường nét het sức phi phàm, coi
khác hẳn lối kiến trúc trên trần. Con lạch chạy ôm lấy khu vực này, bóng cây che rợp. Ánh sáng mặt trời lúc hoàng hôn phủ lên khu nhà cửa một vẻ quái ảo như trong mộng ảo hang hoang! Một chiếc cầu sơn son cong vút
bắc qua lạch, bên kia là một hoa viên, nhưng không phải vườn hoa thường
thấy, mà là thứ vườn trồng toàn loại cây khẳng khiu, coi từa tựa hình
người gầy trơ xương đứng đấy, càng giống tay chân lêu nghêu giơ ra chực
vồ người. Một đàn non trăm con Hồng Cẩu Quẩy đứng ngồi rải rác quanh
đấy, mắt đỏ xéch phản ánh hoàng hôn. Cuối vườn “cây giống người” có một
cái cổng mái uốn cong, với tấm biển đen cẩn chữ vàng nổi hai hàng chữ
Hán trên to, quốc ngữ dưới nhỏ hơn: “Cấm cung động phủ”, “Ma Vương Tây
Sắc tinh Quân Sài Lang Chúa”.

Trống ngực chàng trai đập mạnh vì xúc động hàng chữ nhảy múa, Võ Minh Thần chắp hai tay lên trán thở phào:

– Hang ổ soi tinh kia rồi! Đội ơn thiên địa giúp kẻ mồ côi! Mẫu thân!
Linh thiêng xin về chứng kiến con vào hang ổ kẻ thù hấp sát, báo nhục
hờn cho bậc sinh thành.

Âm thanh ảo vọng ra, một thứ âm phi phàm phảng phất như có oan
hồn kêu khóc rên la mơ hồ. Dùng thuật ẩn thân, Võ trôi vào theo làn
sương bọc.

Lúc này, tuy dưới cung động Ma Vương là cả cảnh mặt
trời hoàng hôn ngụy chiếu cấm cung, nhưng trên cõi thế, đã qua nửa đêm
lâu rồi, lòng đất lạnh, đá hàn đang xông khí trắng hơi sương, cấm cung
sâu dưới lòng đất càng bốc lãnh khí, nên vầng sương mờ nhân tạo của Võ
Minh Thần lại được nhiều khóm sương vây bọc, sương bốc mây đùn là là mặt đất, đặc sệt vẫn là cảnh rất thường. Nên làn sương mờ bọc Minh Thần
trôi qua lạch vào hoa viên “quỷ mộc”, cũng tựa như không, chẳng bị ai để ý.

Minh Thần đã bôi thuốc át hơi người lại ngâm thêm dưới nước, phơi sương khá lâu, nên tuyệt chẳng gây mùi, bầy Hồng Cẩu Quẩy đứng
ngồi rải rác khắp vườn cây, không con nào đánh hơi thấy.

Đến nỗi làn sương bọc mình đặc sệt, Võ Minh Thần lướt vào có lúc suýt đụng cả
vào lũ chó sói loanh quanh, mà chúng vẫn không hay.

Dùng tia
phát điện sờ soạng, thám thính, Võ trôi thẳng qua cổng “cấm cung động Ma Vương Tây Sắc tinh quân Sài Lang Chúa” dừng lại một xó đầy bóng cây.
Xua hết sương mờ, Võ đưa mát quan sát. Rải rác mấy dãy tả hữu có nhiều
bóng đàn bà thấp thoáng qua lại ngoài thềm, cảnh tượng náo nhiệt, nhưng
tuyệt chẳng thấy một bóng đàn ông nào cả.

Văng vẳng có tiếng sáo véo con chìm nổi đâu đây, nhưng nghe phảng phất xa xăm lạ!

Nương bóng đêm, Võ men lại gần, quan sát. Mới hay cửa đền ghép kính, suốt mấy dãy, chỉ thấy bóng đàn bà con gái, mỹ nữ cung hầu, hơn hết đều xinh xắn tươi vui, chẳng cô nào rầu rĩ cả!

Nhìn kỹ sắc phục vẻ người đúng là đám mỹ nhân hầu cận Chúa tể. Không cô nào nói cười to tiếng, chừng sợ kinh động tới Ma Vương!

Lần hết mấy dãy có ánh đèn huyền ảo, Võ đang dịnh bỏ đi tìm chỗ khác bỗng
tới trước một căn phòng cạnh một hành lang nối tít trong, bên con lạch
có cầu bắc trước hành lang trong phòng có tiếng đàn bà khóc thút thít.

Chàng bèn lần sát tới, ghé mắt dòm vào, thấy mụ Dạ Xoa ban nãy đứng cùng bốn
con sài kíu mặc áo thụng đen va vài gái khác, vây quanh lấy một cái
giường thất bảo, màn lan tiên buông rũ, chừng đang nói gì đó.

Minh Thần chú mục nhìn vào qua lần màn mỏng thấy lờ mờ bóng người nằm trong.

– Không lẽ con tinh Chúa nằm trong màn? Tieng đàn bà khóc…?

Đang phân vân thắc mắc, bỗng thấy mụ Dạ Xoa vùng lùi lại một bước dài khua cây gậy, nói to:

– A Phòng cung mỹ nữ đầy đàn, được Chúa vời lẽ có phúc lớn, sao lại nằm
khóc mãi! Chưởng pháp dỗ hết nước bọt rồi, chịu hay không nói phắt cho
xong, mụ còn lo liệu định! Mụ không thích cho chó sói ăn thịt lây với
nương nương đâu!

Lời dứt trong màn vẫn có tiếng khóc thút thít, thỏ thẻ giọng gái nói tiếng Kinh:

– Xin tha cho em, em sợ vào hầu Chúa sài lang lắm! Chúa hớp hồn ăn thịt…

Lại có tiếng gái Thổ vọng ra:

– Em không dám vào đâu! Tối nay em không sạch, vào hầu Chúa phạm tội, Dạ Xoa cũng tội lây!

Mụ Dạ Xoa cười ré:

– Hầu Chúa không muốn, muốn hầu quân, để mụ cho “người” vào thăm! Dứt lời mụ hú lên một tiếng ám hiệu, lập tức có hai con hang cẩu quẩy đen thui
lông lá xồm xoàm vùng ngửa mặt hếch mõm nhe răng cười khà khật khưỡng đi hai chân mò lại cửa màn, thò chân trước vén cánh lan lên, nhảy tót lên
giường thất bảo. Có tiếng kêu rú trong màn. Võ Minh Thần dòm vào, chỉ
thấy thấp thoáng bóng người bóng chó loang loáng giằng co, có tiếng hét
“Chịu! Chịu… em chịu xuống”, mụ Dạ Xoa cười rú lên một tiếng, trong
màn im, hai con chó nhảy tót ra, đứng lù lù, chóp chép mõm lưỡi thè lè
vẻ thòm thèm hết sức. Ngay khi đó từ trên giường bước xuống hai bong mỹ
nhân, xiêm y tơi tả, đầu tóc lòa xòa, không phải xiêm y mà chỉ là mảnh
“voan” mỏng một đen, một trắng khoác ngoài thân dáng, coi không khác mặc lần kính pha lê vậy. Vạt “voan” khoác bay soạt về sau, theo Võ Minh
Than thấy rõ thân hình hai cô gái này, biết ngay là mỹ nữ Tế Yêu, Nhũ
Hoa cung và Túc hoa cung. Vì một cô gái Kinh dung nhan coi giống gái Từ
Sơn Nội Duệ Cầu Lim, sông Thao, có tấm lưng thắt đáy tò vò tuyệt đẹp,
bàn tọa nở bạnh, chỉ nhắc qua đã biết ngay tướng đàn bà “mắn” và một cặp nhũ hoa đanh như tượng khắc, tuy thân thể cô này tầm thước, nhỏ nhắn!
Còn cô kia, coi mặt biết ngay gái Thổ Thái, khổ người đậm hơn, to hơn,
đặc biệt có cặp dò thuôn lẳn hình búp hoa quỳ, dài tựa đùi ếch lột, coi cũng hiểu ngay gái này thuộc loại leo núi giỏi hơn khỉ vượn, sơn dương, sức trường kỳ ít ai sánh kịp.

Cả hai đưa tay khép mép voan lại, mat hoa còn hoen đầy nước mắt, dáo dác nhìn mấy con sói dữ và mụ Dạ Xoa. Mụ Dạ Xoa cười ré lên, bước
lại, vỗvai hai mỹ nữ này thét giọng:

– Nào! Tươi tỉnh lên! Theo
ta! Hai nàng gượng cười, gật đầu, như cơn gió mụ Dạ Xoa, bầy gái trẻ,
bốn con sói khoác áo đen lưới vụt ra ngoài cửa! Minh Thần ẩn kín dòm
theo, thấy bọn này đi vụt qua cửa vào khu nhà tối, bên kia lạch. Rất
nhanh chàng quay vụt mình theo. Nhưng vào tới khu nhà tối, chẳng thấy
bon kia đâu nữa. Bốn bề im lặng dị thường, tối om và lạnh lẽo tưởng
chừng như lọt vào cỗ quan tài vùi giữu tuyết băng! Mơ hồ vẫn có âm thanh quái gở chờn vờn, Võ theo hành lang tối tiến vào sâu, sờ tay mới hay
hai bên la vách đá dung, chừng ba mươi bộ, bỗng tia mắt chạm phải mấy
chữ lân tinh lập lòe trong bóng tối chữ thật khó hiểu nhưng làm Võ bỗng
giật mình một cái vì sửng sốt!

“Hóa sinh môn

Nhục thân bảo tàng viện”

Tám chữ này đều bằng Hán tự phết theo loại chữ thảo như rồng bay phượng
múa, nét giống gươm dao mã tấu, liềm móc, coi sắc, mạnh, mà lại phảng
phất như ẩn hiện vẻ chi huyền bí lạ!

Ngay dưới tám chữ lớn này,
lại có mấy hàng chữ nho, viết phết theo lối chân phương thật tốt nét, ít nhất phải tay bút lông của hạng khoa bảng trứ danh còn sót lại giữa
thời bút sắt:

“Càn khôn hựu càn khôn, càn khôn biến hóa thập tử nhất sinh, càn khôn càn khôn hựu càn khôn biến hóa, thập tử nhất sinh”.

Tuy mấy hàng chữ này nhỏ, nhưng phết lân tinh, nên đứng xa cũng thấy rõ.
Minh Thần đọc hết mấy dòng cuối, vụt nhớ ngay tới mấy câu quái gở “càn
khôn, càn khôn” chàng đã từng nghe mấy lần có dính đến mấy cái vòng càn
khôn bí mật! Lòng đầy thắc mắc, chàng bèn tiếp luôn vào.

Im đến
rợn người! Minh Thần nghe ngóng động tĩnh, không thấy một bóng sinh vật
nào bèn bước lại đưa tay đẩy cửa giữa. Cửa sất nặng nề khóa chặt.

Bảo tàng viện này kín như bưng, không có cửa sổ, Minh Thần định lên mái,
kiếm lối vào chợt nghe tiếng “xó Khách” thì thào bên tai:

– Không có quân canh! Để xó mở cửa!

– À phải đó! Két
két! Cánh cửa thép từ từ hé mở, Võ lách luôn vào, khép cửa lại. Tối như
mực tàu! Chàng vận nhãn tuyến chỉ thấy lờ mờ nhiều đốm dạ quang nhỏ, sực nhớ có đem theo chiếc đèn bấm nhỏ, bèn lấy ra soi. Tách! Tia sáng xanh
lè rè ngang từ cửa, một hình chó sói đứng lù lù ngay trước mặt! Đó là
một tượng Hồng Cẩu Quẩy dát vàng, có lông bờm đứng hai chân, coi giống
hình sài lang Chúa, mồm ngậm một xắn ba cái vòng lớn, trên mỗi vòng đều có khắc phết dạ quang bốn câu hai mươi chữ, loại thơ “ngũ ngôn tứ
tuyệt”:

“Hóa hóa ngũ hành âm

Sinh sinh ngũ hành dương

Âm dương đồng bản thể

Vong tồn sinh hóa tương”

Minh Thần đọc đi đọc lại hai, ba lần lời thơ thật khó hiểu, tuy vậy chàng
cũng phỏng đoán bốn câu này ẩn chứa điều bí mật chi đó về vật lý trong
việc sinh thành tru diệt.

Tặc lưỡi, Võ rè đèn bấm soi quanh.
Cảnh tượng trong viện đập vào nhãn quang, vì giữa tia đèn xanh lè, vụt
hiện rõ từng dãy hình người đứng ngồi lố nhố khắp mấy gian buồng rộng,
coi không khác đám người đang họp mặt, tắt đèn nhà kín!

Có nhiều bóng lom khom, như vừa nhổm dậy, ngóc cổ nhìn chàng vừa bước vào, những cặp mở trừng trừng trắng dã! Mùi tanh khẳm đến lộn mửa! Tuy vậy, Võ
cũng trấn tĩnh được ngay, khi nhớ đến hai chữ “nhục thân” trên tấm biển
ngoài cửa viện! Võ tiến vào, rẽ luồng sáng xanh, loài xác người! Toàn
xác đàn bà đúng hơn!

Những thiếu nữ trẻ trạc mười sáu, mười tám
lần hoa nở, mặc đủ loại quần sắc Kinh lẫn Thổ, Thái Mèo Mường Kha Nhắng, Mán Nùng Lào v.v… Kẻ đứng người ngồi, kẻ nhấp nhỏm, người muon eo,
dáng điệu hết sức tự nhiên. Cô nàng đứng trên bục gỗ, nằm trên giường kẻ ngồi đang chải tóc, kẻ ôm đàn ngồi trên sập gụ, có nàng mặc xiêm y, lại có nàng khỏa thân, xõa tóc, rướn cong mình mẩy như đang điên cuong níu
ghì kẻ dị tính đòi theo lên đỉnh Vu sơn, cũng có nàng đang trong thế
giãy giụa như đỉa phải vôi lại có bọn trong thế say sưa hoan lạc, có đám trong thế kinh hoàng, thống thiết. Tóm lại đủ mọi sắc phụ nữ, đủ mọi
thế nằm ngồi đi đứng hỉ nộ ái ố bi lạc dục, sơ qua cũng hàng trăm xác, coi không khác căn phòng bày triển lãm các kiểu “búp bê” bằng xương thịt vậy.

– Quái đản! Quái đản! Hầm chứa xác của “con tinh râu xanh”! Ghê gớm như trong truyện hoang đường!

Đúng các thây xác đàn bà bất hạnh này đều bị con tinh Tây Sắc hấp sát rồi
tàng trữ nơi đây! Thật kinh tởm! Thủa nay lại có kẻ sát nhân, lấy xác
bày lưu trữ làm bảo tàng việc nhục thân người ta, như bầu hình nhân mà
chơi vậy! Giống Sài Lang độc ác có khác, nghĩ thương thay cho đám nạn
nhân, thác oan chết uổng giữa thủa thanh xuân tươi đẹp! Tội ác con tinh
chó này trúc rừng không ghi hết. Nước Hắc Giang rửa ngàn đời không sạch
hồn oan!

Chàng cắn chặt răng, nén xúc cảm lẩn quanh, xem xét
từng cái xác thây nữ, không khỏi ngạc nhiên, thấy cái thây nào cũng đều
chết cứng như còn mang nguyên dạng chết khi hồn lìa khỏi xác, không có
vật gì đính phía sau?

Xác nào cũng xông mùi tanh khẳm như xác mẹ chàng, nhưng khi Võ ngửi từng cái một, chàng chợt để ý thấy có điều đặc biệt là: Xác hàng gần cửa, cái nào cũng nặng mùi hơn cái hàng trong,
càng vào trong, xác càng nhẹ mùi!

Minh Thần chiếu đèn soi kỹ,
thấy mỗi cái thây đàn bà lại có một tấm lắc bạc đeo cổ, ghi rõ họ tên
nạn nhân, ngày, giờ, tháng, năm bị sát hại cùng địa danh nơi nó vồ mồi!

Căn cứ vào tên họ nạn nhân Võ nhận thấy mấy hàng xác phía ngoài đều bị giết từ hai mươi năm trước, trong khoảng mười lăm năm, thuộc nhiều dòng họ,
sắc tộc, tính ra cứ mỗi con trăng là hai người! Mặt mũi vẫn mang nét mặt người ta. Nhưng mặt nào coi cũng sưng sưng chứ không rúm ró.

– Lạ thật! Coi mớ xác chết nạn nhân này, nhiều cái bị hấp cùng thời với mẹ ta, mẹ ta hấp sát theo lối trừng phạt nên mới thế?

Nghĩ phân vân, tay cầm từng tấm “lắc” coi kỹ lại, vô tình chạm vào lồng ngực cái xác thiếu phụ người Kinh mặc áo ngủ mỡ gà, ngón tay cảm thấy rõ
chạm phải một vật chi mềm mềm căng chứ không rắn chắc như xác thường.

Ngạc nhiên, Minh Thần bèn rút cây châm chọc cài trên đầu cái xác, chọc nhẹ
vào rãnh ngực một cái. Bỗng cái xác giật mình như bị kiến đốt, thở phù
một hơi dài, làm Minh Thần cũng giật mình lùi lại trừng mắt dòm, một tay bịt vội mui. Một mùi tanh khẳm kinh tởn tạt thốc vào mũi, muốn lộn mửa, chàng dòm lại, xác nữ đã lép xẹp, dúm dó, mất cả hình nhân dạng, không
khác trái bóng xì hơi!

– À! Cái túi da người!

Minh Thần bật kêu khẽ, bước lại, vén áo quan sát kỹ, thì ra hoàn toàn là cái túi da, xác nữ đã bị hấp hết gân thịt chỉ còn mớ xương lổn
nhổn, đã được ghép lại, phết một thứ chi thật kín các lỗ hổng, và bơm
hơi vào, hai con mắt chỉ là mắt bi ve, thoạt nhìn tưởng xác người đặc!

Quan sát, sờ nắn thử những dãy xác khác, càng giống xác này, toàn túi da
người bơm hơi phồng lên, Minh Thần bèn tiến vào phía trong. Hết mấy gian ngoài, tới một cái cửa thông khép chặt, Võ đưa tay đẩy “két két!” lách
vào!

Lại một gian nhà chứa xác nữa. Cũng toàn đàn bà con gái, có điều hơi khác là toàn đàn bà khỏa thân và nguyên hình “túi da người”
treo tủ kính, trong căn buồng kín, im lìm như trong quan tài cảnh tượng
quái gở, thê lương cực độ làm chàng gai óc, mủi lòng. Xác nào cũng có
tấm “lắc” đeo cổ, nhưng là lắc đồng trụ đỏ ối như vàng Tây ghi tên họ
ngày giờ bị hấp tính ra đều bị sát hại từ hai mươi đến hai nhăm năm về
trước tức vào khoảng thời gian Võ Minh Thần còn nằm trong bụng mẹ!

Minh Thần chỉ nhận ra điều khác là: Xác trong buồng này thối khẳm hơn xác
buồng ngoài nhiều, rỗ ràng thời gian càng hấp sat nhiều, con tinh càng
“tiến bộ” về vệ sinh, hấp đỡ thối xác đi! Xem xét hết, chàng tiến vào
phía cuối, lại thấy một khung cửa nữa. Chàng lại đẩy, lách vào. Chiếu
đèn, vẫn gian hầm chứa xác, nhưng gian này ngắn hơn, chỉ độ hai mươi xác nữ, đứng ngồi, nằm rải rác khắp chỗ, trên giường, ghế bành, ghế xích
đu, v.v…

Đặc biệt là không có mùi hôi thối xông vào mà lại có
mùi thơm thoang thoảng phả vào mũi chàng trai, rõ mùi da thịt mỹ nhân!
Ngạc nhiên, Minh Thần tiến lại dòm, thấy xác nào cũng còn nguyên hình
dạng, dung nhan, sờ ấn thử, mới hay xác đặc, chưa mất thịt gân chi cả!
Dưới đèn, hiện ra toàn là đàn bà nhan sắc, coi xác còn tươi lạ! Chàng
bước lai bên chiếc ghế xích đu.

Giữa vệt đèn bấm xanh lè, thiếu
nữ ngồi dáng lả lơi nhí nhảnh như người ngồi bóng mát, đu ghế xích
nghịch chơi, mặt cô ta tươi mơn mởn chưa tắt nét cười hàm tiếu! Đây là
một cô gái Kinh, vẻ người giàu sang, khuy áo bấm mở bung hai cái. Phô
rãnh ngực đeo “su chiêng”, thấp thoáng ẩn hiện chim uyên vẫn căng tròn
như lúc sống. Đọc hàng chữ ghi trên “lắc” đeo cổ, mới hay thiếu nữ này
mới bị giết khoảng ba năm về trước!

Minh Thần buông tấm “lắc”
ghế xích đu hơi động đậy đu đưa, coi linh động hết sức, chẳng khác nàng
ta đang mỉm cười, uốn éo, tình tứ với chàng.

Khẽ thở dài, Võ
bước lại bên một cô Thổ mặc “phá” lãn mép thủy ba kim tuyến, cô này quỵ
chân trên bục gỗ, trông dáng miền quê đang ngồi chuốc rượu cần hay
“dâng” điếu cày cho khách! Mặt cô này bầu bĩnh coi điềm đạm loại con tù trưởng và sắc diện cũng tươi tỉnh như cô Kinh ngồi ghế xích đu. Tấm “lắc” ghi ngày tháng cho biết cô Thổ này cũng “bị” cách đây
hai, ba năm. Khi Võ cúi sát xuống đọc chữ trên lắc, chàng ngửi thấy một
mùi thơm tho vị của hoa phương thảo, tựa mùi rễ nhang bài, trầm hương,
trộn với hương quế vậy.

Đoán cô này được tẩm ngũ vị hương chi đó, Minh Thần bỏ đi xem xét các thây xác nạn nhân khác.

Chợt Võ để ý mỗi cái thây chẳng những không hôi thối tanh tao, ngửi kỹ mới
thấy. Có mui rõ mùi dâu thơm, kỳ hoa dị thảo nhưng cũng có mùi không thể định rõ nó thuộc loại mùi gì, tuy cũng phảng phất giống mùi hoa cỏ, dầu thơm!

Chắc con tinh sói dùng các thứ nước hoa ướp xác nạn nhân
còn thơm! Dầu ướp cũng kỳ lạ, giữ mùi thơm được hàng mấy năm là điều hãn hữu thật! Hơi vô lý! Có lẽ cứ vài ngày, tuần lễ “nó” lại ướp xác lại
mới đúng!

Minh Thần chiếu đèn nhìn quanh, nghĩ thầm bỗng để ý thấy cuối gian có bức rèm nhung đỏ che kín ngang buồng cao hơn hai thước.

Chàng trai bèn lách giữa đám xác nạn nhân bước vào, vén rèm nhìn thử. Mới
hay, trong này còn một bục gỗ, trên để hai lồng kính hình chữ nhật trong lồng, có hai cái cáng, một bằng gấm xanh, một bằng vóc đại hồng mép
cáng, mép gấm phủ trên có tua vàng rất xinh. Lồng kính không có cửa.

Chàng trai bước lại bên chiếc cáng đỏ, lật mảnh phủ lên, chiếu rè đèn bấm.

Trong cáng, có một thây nữ nằm thang cẳng phủ bờ mảnh “voan” đen, lờ mờ nhân
ảnh, hình nữ khỏa tuyệt không mảnh vải, lụa bám người! Qua màn “voan”
đen nhánh, thân xác vẫn lồ lộ nét cuốn đường cong tuyệt mỹ, của một
trang nhan sắc hiếm có, với khuôn mặt xinh đẹp, mi tằm môi cung, cằm hơi lẹm, tai đeo hoa đầm lấp lánh kim cương, chỉ nhìn làn “voan” cũng đã
thấy đó là một tấm nhan sắc đài trang trên đời.

Võ Minh Thần
không phải trai hiếu sắc nhưng lại là một chàng trai mồ coi có lòng từ,
thương hương tiếc ngọc, cứ thấy xác bị Chúa sài lang giết lại chạnh nhớ
đến mẫu thân oan thác, nên thấy cái xác nữ đài trang nằm trong cáng,
chàng bỗng ngậm ngùi xót xa không xiết, rung giọng thương tâm:

– Lại một đời hoa rụng dưới vuốt sói lang? Nguyên trong bảo tàng viện này đã có hàng trăm xác đàn bà xấu số chết oan chết ức giữa tuổi thanh xuân đầy hoa mộng! Còn biết bao nạn nhân nữa, xác quàn nơi khác? Hai cái
thây này để nằm cáng gấm, riêng một góc, chắc phải hàng gái quý tộc đây! Chẳng hiểu bị “nó” sát hại hồi nào?

Võ khẽ thở dài, ái ngại, đưa tay nhón mép “voan” lật nhè nhe
sang bên. Dưới vệt đèn xanh thân xác nữ lang càng hiện ra lồ lộ trắng
như ngà. Xác nằm ngửa hai tay vắt trên bụng, đầu hơi nghẹo vào trong
vách, hai mắt nhắm nghiền, tấm “lắc” vàng cũng rớt phía trong. Đứng dưới bục gỗ, Minh Thần rướn người đưa tay kéo sợi dây đinh cầm tấm “lắc” coi vô tình chạm phải cằm cái thây nữ. Chàng cảm thấy như chạm vào một vật
âm ấm chứ không lanh như đồng theo lệ thường các thây khác. Ngạc nhiên,
chàng buông tấm “lắc” rụng nằm trên ngực thây, vội đưa tay sờ nhẹ lên
mặt nạn nhân! Ấm thật! Chàng vội đưa tay sờ thử khắp mình mẩy, càng sửng sốt, thấy cái thây quả còn nong nóng, chàng vớ ngay tấm “lắc” đọc vội
mấy con số ghi ngày giờ chết, tính ra đã hàng trăm ngày! Sao lại có
chuyện quái gở thế này? Xác nữ này chết đã mấy tháng mà còn ấm được sao? Xưa nay thường người ta chỉ chết một cái là thân thể lạnh ngắt như đồng mà! Minh Thần lạ lung hết sức, giật mình nghĩ ngợi chợt để ý thấy khuôn mặt cái thây coi hao hao quen quen chàng trai giật mình một cái, nâng
vội đầu thây nữ cho ngoảnh mặt ra. Chỉ suýt nữa chàng buột miệng kêu
kinh hoàng, khi chợt nhận ra toàn khuôn diện nữ.

– Bạc Khao Lan! Trời nữ chúa con gái vị Chúa tể Hồng Cẩu Quẩy miền động thất Pi A Ya!
Mới cách biệt mấy tháng, nàng đã ngộ nạn chết thảm đến thế này được ư?

Động thất Pi A Ya là nơi rất khó xâm phạm, có thiên la địa võng bát quái mê
hồn trận, quân gia, chó sói, ma xó dữ. Tây Sắc suýt tiêu vong đêm nọ, đã dễ gì bắt nổi nàng? Hay nàng ra khỏi động, gặp “nó” như hồi bị Huyết
Quỷ mũi vẹt hút tủy não!

Minh Thần xúc động đến run tay, giương
mắt ngó trừng trừng giơ tấm “lắc” lên nhìn từng chữ tên nạn nhân nhảy
múa trước mặt chàng: “Bạc Khao Lan, nữ tử tù trưởng Chúa hang cẩu quẩy
Pi A Ya động thất…”

Tấm “lắc” rớt xuống ngực cái thây gái họ
Bạc, toàn thân Võ Minh Thần rung lên mãnh liệt, chàng trai quỵ phục luôn xuống bục gỗ, nắm lấy mép cáng, nước mắt chảy dòng dòng, lòng đau khôn
tả, thương cô gái thông minh có ân có nghĩa, đã được chàng cứu một lần,
và lại cứu chàng mấy bận thoát chết, hết dạ thương mến chàng như nghĩa
huynh muội!

– Có thể thế được chăng? Nàng tươi vui trung hậu hiền đức, lại
phải chết thảm dưới nanh vuốt sài lang chúa, chuyện đời toàn oan nghiệt
trái ngược mãi sao? Mới ngày nào nàng cùng ta chia tay nàng còn hết lời
căn dặn ta phải bảo trọng lấy thân, thân khốn khổ mồ côi này đang lần
vào hang sói, còn nàng lại nằm đây, lạnh lùng trong nhà tối… Định mạng thật khắt khe, ta cô đơn trên đời, phải chăng phải sống để thấy người
thân yêu lần lượt mất đi…? Buồn thay cho đời người hiền lương! Thương
thay nàng oan thác!

Nghẹn ngào, chàng trai rung giọng lẩm bẩm,
quên cả tỵ hiềm nam nữ kẻ sống người chết nàng lại khỏa thân chàng gục
xuống, ôm lấy thân xác nàng nữ chúa Pi A Ya, khóc như mưa lúc nào không
biết.

Đến gần phút, bỗng Võ chợt thấy âm ấm mới nhớ ra, vội
buông thây người bạn gái đứng phắt dậy, mới hay nước mắt đã rỏ ướt đẫm
ngực hoa! Chàng trai vội cầm mảnh “voan” lau ngực nàng, lòng đầy thắc
mắc không hiểu sao nàng chết đã hơn ba tháng, xác vẫn còn hơi ấm?

Vo cúi xuống, soi đèn như kiếm lò sưởi dưới sáng, nhưng chẳng có chi ngoài mấy lần kính gỗ lạnh lẽo như đồng!

Chàng vội đắp mảnh “voan” lên mình xác cô gái Bạc, nói vài lời u uất, xót xa, tay vuốt nhẹ mi mắt nàng, mắt chàng vẫn rưng rưng… Nhưng vừa buông
tay, bông chàng giật mình bắn người lên một cái, vì… tự nhiên rõ ràng
nghe có tiếng nàng thở phì một cái, lồng ngực vụt nhấp nhô động đậy, rồi cái thây gái Bạc vụt mở mắt ra, chớp chớp hàng mi mấy cái!

Chàng trai bật kêu “trời”… lùi lại, thoáng nghĩ đến ba tiếng “quỷ nhập
tràng”! Tay trái chiếc đèn bấm, tay phải bấm cung bản mệnh, chàng nhìn
trừng trừng mặt cái thây nữ, dầu óc đảo điên.

Chúa sài lang hấp
sát, biến nàng thành “con trành cái” đặt nằm đây canh viện bảo tàng lừa
bóp cổ cắn chết kẻ nào độ nhập? Hay chỉ là cái xác chết chưa qua tuần
bách nhật, gặp hơi nhân khí, nước mắt ta, nên hóa “nhập tràng”?

Chỉ thấy rợn vì xác chết trong hầm tối bất thần mở mắt nhưng đã quen luyện
“xó” từ ngày thọ pháp Thanh Âm, Võ không hề sợ, cứ đứng nhìn, đợi. Hai
con mắt gái Bạc mở ra không thấy long sòng sọc, mà lại lờ đờ như đã gần
xuất tinh lạc, ngó sững chàng mấy khắc, rồi từ từ nhắm nghiền lại!

– Khao Lan! Bạc Khao Lan…!

Chàng tuổi trẻ cúi xuống, vừa lay gọi vừa ghé sát tai nghe tim. Tim nàng đã
ngừng đập, sau tiếng thở hắt ra nhẹ như gió thoảng! Tất cả vụt rơi vào
im lìm, thời gian ngưng đọng theo nhịp tim ngừng trong lồng ngực băng
trinh! Đầu nàng nghẹo sang bên, trong dáng dấp của kẻ hồn lìa xác.

Nhưng tai chàng áp sát lồng ngực, vẫn thấy ấm lạ, thứ ấm của sinh khí mà
người chết không bao giờ có, một điều lạ nữa là vẫn chẳng thấy tinh lạc
nàng xuất ra, theo thông lệ của kẻ lìa trần vào đêm âm khí nặng nề, mưa
khuya sùi sụt sau ngày nắng hun hay vào những lúc tối tăm tịch mịch,
lãnh khí chờn vờn, khi một người nằm xuống tat thở, thường có một đốm
sáng nhỏ từ tam tinh tuệ nhãn bay ra tan biến trong không gian!

Cho là nàng vừa chết nên vẫn còn ấm, Võ Minh Thần đợi thêm giây khắc cũng
chẳng thấy gì, chàng bèn đưa tay bắt mạch, lại càng ngạc nhiên khi nhận
thấy trong mình nàng, chưa phát hiện tử mạch.

Nghe thật kỹ, vẫn
thấy hơi động nghe lại tim, cũng phát giác ra điều kỳ dị đó, Minh Thần
bèn khám nghiệm khắp huyệt đạo, tuyệt chẳng thấy vết thương nào cả, du
chỉ bằng mũi kim.

Chừng cậy miệng thử coi, Võ phát giác trong có nhét một con nhân sâm đã tiêu mòn gần hết, có lẽ thuộc giống nhân sâm
rừng Cao Ly! À! Nhân sâm! Phải chăng nó hại nàng gần chết, rồi bỏ nhân
sâm vào miệng nên cơn hấp hối kéo dài?

Vì đã theo tôn sư kỳ danh Quy Võng Lạng (theo sự phỏng đoán mơ hồ của nghĩa phụ chàng cùng chúa
núi Mã Đầu Quảng Tây) Minh Thần cũng biết qua tính dược đặc biệt của
loại vốn có sức tăng sinh lực phi thường!

Xưa bọn khách để của
vẫn bắt các trinh nữ làm thần giữ của, để trinh nữ ngồi ngai đóng đinh
chặt tay chân dính liền ghế, dùng dị thuật yểm kho tàng, chúng bỏ vào
miệng trinh nữ một con nhân sâm, rồi đóng cửa hầm lại, trinh nữ ngồi
ngai ngậm nhân sâm sẽ sống qua tuần tứ cửu bách nhật mới chết và khi đó, bắt đầu linh thiêng hóa nữ thần giữ của, chỉ trao kho tàng cho kẻ nào
làm đúng lời pháp sư đã định trước.

Đủ biết sức kéo dài sức sống của con nhân sâm kiến hiệu chừng nào?

– Nhưng để làm gì, chẳng lẽ con tinh chúa muốn nàng thành linh thần coi
viện bảo tàng cho nó. Không có lý! Vậy nó kéo dài cơn hấp hối làm chi?
Và nó giết cách nào?

Minh Thần nghĩ nát óc, vụt tưởng đến thói
hấp sát của Ma Vương Sắc, liền với mấy hàng chữ lân tinh viết cửa viện
có dính tới vòng càn khôn có bốn câu:

“Hóa hóa ngũ hành âm

Sinh sinh ngũ hành dương

Âm dương đồng bản thể

Sinh sinh hóa hóa tương…”

– À, có lẽ sài lang chúa nó
hấp sát đàn bà con gái để luyện huyền công bí pháp chi đây? Như vầng
huyết khí bao quanh mình nó, có lẽ đúc kết bầng tinh huyết nạn nhân đây? À! Cứ theo biển đề trên “lắc” đeo cổ nạn nhân, thì rõ ràng những xác
này bị nó hấp sát trên 20 năm lại có mùi thối khẳm hơn những xác mới
hấp, và tính theo niên đề, cứ cái nào bị hấp lâu ngày càng thối khắm.

Phải chăng càng ngày con tinh sói càng tiến bộ về khoa hấp luyện huyền công
bí pháp? Cứ coi xác Bạc Khao Lan này đủ hiểu, nó hấp hơn ba tháng rồi,
mà nàng vẫn dở sống dở chết, chắc còn điều gì cực bí ẩn đây! Có điều rõ
nhất là cứ đà này, càng ngày nó càng trở nên lợi hại khác thường nếu
thời gian kéo dài, cho nó tiếp tục hấp luyện môn pháp quái gở mãi, sức
ghê gớm của nó sẽ phi phàm, khó ai trừ diệt nổi, thật là mối đại họa
khủng khiếp cho bàn dân thiên hạ!

Chàng tuổi trẻ càng nghĩ càng
rung động tấm thân vội xẹt sang bên chiếc cáng xanh, đưa tay vén tốc
mảnh gấm lam phủ lên. Trong cáng cũng có một xác nữ nằm thẳng cẳng, khỏa thân, đắp một lần “voan” trắng tinh, trông thấy rõ cả làn da trắng hồng với bộ mặt đẹp huyền ảo lạ. Chàng đưa tay vón mép “voan” lật lên coi,
dưới ánh đèn bấm xanh, hiện ra một thây nữ lớn con hơn Khao Lan chút,
nhưng cũng rất đẹp, đầu búi tóc về đàng trước trâm cài lược giắt rõ lối
búi tóc biểu hiện gái Lào chưa chồng, vẻ quý tộc Xiêng Khoảng, Luang Pha Băng, ngực nở, nhũ đanh tròn, bụng thon, đùi dài thuôn lẳn, đặc biệt
hai bàn chân lại không thô như phần đông gái các sắc dân miền núi, điều
này càng chứng tỏ cô này là gái giàu sang ít khi đi bộ leo núi.

Mặt nàng cũng thuộc loại mặt phụng, mi tằm, môi cong mũi thẳng còn in rõ vẻ tươi mởn y hệt gái nằm ngủ trong giấc mơ hoa!

Minh Thần cúi xuống, áp tai nghe ngực xem mạch, càng ngạc nhiên thấy vẫn
chưa phải tử mạch, sờ khắp mình mẩy, thấy còn âm ấm hơn cả thân xác Khao Lan, chàng bèn cầm “lắc” coi, mới hay nàng này mới thác non bốn tám
ngày!

Quan sát mươi khắc, Võ cầm mép “voan” toan đậy xác lại,
bỗng nghe cái xác gái Lào thở phì một cái, mở choàng mắt ra, nhìn lơ
láo, làm Võ cũng giậy mình một cái, mở to mắt nhìn!

Lạ thay! Tuy đã chết ngót năm mươi ngày, xác nữ Lào quý tộc này thấy ánh sáng đèn
chói mắt, vùng kêu lên mấy tiếng yếu ớt, phều phào:

– Ai đó?

Giọng ú ớ, phúng phính như người ngâm kẹo, Võ nghe biết xác này
cũng ngậm sâm như Khao Lan. Chàng vội cúi xuống, hỏi nhưng xác này nữ
Lào này lại từ từ nhắm mắt lại, nghẹo cổ im lìm như cũ!

Thở phì, Võ thì thào gửi vài lời an ủi vô vọng, đậy “voan” gấm lại như cũ, quay
sang cáng Bạc Khao Lan. Lòng hắt hiu sầu thảm, như mưa gió não nề, chàng tuổi trẻ ngó xác nàng, vùng sa nước mắt, cúi dầu lẩm bẩm giọng nghen
ngào:

– Số mạng thật khắt khe! Khao Lan nàng bị hấp sát, còn
thuốc nào cứu nổi chăng? Ngu mỗ phải đi tìm con tinh độc, lát nữa sẽ
quay lại đưa xác nàng về Pi A Ya, tìm thánh Y Si Công Linh may ra còn
cứu được chăng? Nàng nằm trong hầm lạnh… thương thay!

Giọt lệ, Võ đắp điếm kỹ thân xác nàng nữ chúa Pi A Ya, đoạn quay ra ngoài lòng cừu sục sôi.

Ra đến ngoài âm thanh kỳ dị vẫn nổi chìm bên tai, Minh Thần lắng nghe khá
lâu, tưởng chừng như từ cửu trùng địa ngục đưa lên, bốn bề vẫn quạnh
vắng tối om, đang nát óc nghĩ, bỗng nghe âm âm tiếng “xó khách” thì
thầm:

– Thầy à! Xó vừa tìm thấy cửa hầm ngay trước viện bảo tàng! Ấn vào chữ “tàng” là mấu chốt mở cửa hầm!

– À, hay lắm! Minh Thần nhảy vào lên, ấn mạnh ngon tay vào chữ “tàng” quả nhiên, nghe mơ hồ có tiếng động dưới đất, rồi bộ cửa dưới biển từ từ hạ sâu xuống để lộ một khoảng huyệt vuông, chừng hơn nửa thước vuông.

Võ dạt sang bên, cúi dòm, thấy lỗ huyệt tối om, không dám chiếu đèn sợ lộ. Đang phân vân bỗng, lại thấy bệ đã dịch dâng lên kín như cũ.


À! Một chiều vận chuyển! Nếu vậy cứ đứng ngay bệ đá đó là được! Bèn bấm
lại, làm theo liền. Bệ đá hạ xuống, xuống mãi, bốn bề tối om, đã có kinh nghiệm vào lỗ huyệt. Võ thì thào truyền “xó coi chừng”. Kịch! Bệ đá
chạm vật rắn, dừng lại. Võ quét tia nhãn tuyến, thấy bên tả có một cái
cổng tò vò, có treo ngọn đèn lồng vàng, Võ bước vội sang, bệ đá dâng lên ngay… Nhưng ngay khi đó, có một lưỡi đại dao chém vụt xuống sau lưng
Võ, từ kẹt đá, nhảy ra hai con sài kíu to lớn, múa vuốt chop vồ lưng,
nhanh như chớp, huỵch một con bỗng bị quật xuống nền đá, Võ đánh mot đòn Mê Hồn công hạ nốt con kia. Võ tiến luôn vào cổng tò vò. Biết đã chính thức vào “hang ổ sói tinh”, Võ Minh Thần vẫn không dám cho “xó khách”
đi trước sợ lọt chỗ “khoán”. Qua cổng tò vò đúng ba bước, bỗng thấy một ngọn đèn lồng treo lơ lửng trên trần, dưới có tua tủa ngũ sắc, hai bên kẽ đá, có hai cỗ quan tài thủy tinh trong đó có hai con
trành đứng sừng sững đói diện nhau.

Võ vừa bước tới, hai con
trành cũng sịch quay mặt ra, hai con trành cái mặt mày trắng như vôi tỏa ra phát ớn. Không chậm nửa phút, Võ đọc chú, thư phù, tháo khoán ngay.
Chàng hiểu chính hai con mắt trành cái xác đàn bà Sơn Cước Mán Cóc không thể vụt qua bùa “khoán”, tấn công ngay được? Khi lửa bắt đầu phụt cháy
đèn lồng tua ngũ sắc, Võ đã ngầm thủ thế, lửa vừa thiêu rụi lập tức bắt
quyết đánh ngay cặp trành cái, vừa đúng lúc chúng sổ ra cửa quan.

Nghe “huỵch, huỵch” hai tiếng, cả hai cỗ quan tài rung động ngả nghiêng, hai cái xác đứng trong lảo đảo lắc lư mấy cái như lên đồng, hai cặp mắt
trợn trừng trắng dã rồi từ từ khép lại. Võ bước vụt tới múa tay “quyết”
thư phù, phun phì máu chót lưỡi hai con trành buông thõng tay đứng đờ
như gỗ, trành cái đã bị khuất phục trước ấn quyết cao tay của chàng tuổi trẻ!

Kéo sụp mũ trụ, chỉ để hở cặp mắt điện rực ánh căm hờn, Minh Thần dẫn xó khách vọt nhanh vào đường hầm.

Đường hầm rộng chừng thước rưỡi, cao đến ba thước, sâu hun hút hai bên vách,
trên trần, nền hầm kiến tạo toàn đường nét phi phàm, như cuốn hút người
ta vào các nét kỷ hà kỳ dị gây cảm giác.

Võ Minh Thần dùng thuật khinh thân, chạy vụt vào, dưới ánh sáng mờ ảo, lúc này Võ đội mũ che
kín mặt, coi cũng như một bóng cô hồn, câm nín lướt trong đường hầm dị.
Khoảng hơn tám mươi bộ, đường hầm vừa tới chỗ trũng, bỗng bị cắt đứt,
những bậc thềm loa rộng đến ba thước, đầy hoa cỏ dây leo chằng chịt, còn đẹp hơn cổng Độn Thủy cung phía ngoài.

Vừa đến bậc thềm, Minh
Thần đã nghe rõ âm thanh quái ảo từ phía trên vọng ùa xuống theo lối
kiến trúc dị kỳ như ngặn chặn cả các tiếng động nãy giờ. Lắng tai phân
biệt tiếng địch, tiếng tỳ bà và tiếng kèn không ra Sarsophone, cũng
chẳng ra kèn Tàu chìm nổi mơ hồ xa xăm lạ.

Phảng phất từ phía
vách, nen trần đùn ra từng khóm sương khói trắng mỏng, trôi vẩn vơ không định, coi như khí đá đêm hàn bốc ra.

Mừng hết sức, Võ vọt lên
thềm, đúng mười bậc như chốn Thập diện Diêm Vương, chàng đã thấy đứng
trước một cái cổng kiến trúc cũng phi phàm biển vòng cung sáng lập lòe
một hàng chữ Hán:

“Tàng Hình cung”

Võ cảm tưởng đang lạc vào một công trình kiến trúc của một thế giới nào bên ngoài trái đất,
thuộc một tinh cầu khác trong thái dương hệ vậy!

Vì nền trần ăn vào theo hình sóng cuộn, song hành, nền chạy
thoai thoải sâu dần tới trong rồi lại chạy nhô cao, có ánh sáng vàng sệt le lói, nhưng không thấy đèn lồng treo, không bóng chi khác ngoài mấy
bức vách xám, coi càng hoang vắng bí ẩn.

“Động thất Ma Vương
Sắc”, tám chữ đập vào mắt Võ, gợi nhiều cảm giác bâng khuâng xúc động,
nhất mấy chữ “Tàng Hình, động thất”…

– A, sào huyệt sài lang
chúa đây rồi! Gớm thật! Cung vua, động chúa xưa nay chắc cũng không thâm u, hóc hiểm đến thế này! Nơi đây, sâu thẳm dưới lòng đất chắc không có
“quân người” canh, tất chỉ có trành xó, cạm bẫy! Ta phải cẩn thận lắm
mới được!

Ngay khi đó, từ trong cân phòng sáng, một đàn bà con
gái lố nhố bước ra, đi vòng tiểu hoa viên, lên điếu kiều. Dưới làn ánh
sáng mờ ảo hiện ra hai, ba bóng nữ mang vật thực chi đó đi trước, roi
tới mụ mập Dạ Xoa chưởng pháp dẫn hai mỹ nữ Tế Yêu có bốn con sài kíu
khoác áo đen hộ tống. Cả lũ vọt lên điếu kiều đi rất nhanh, thoắt đã mất dạng bên kia góc phòng.

Điếu kiều này, hai bên có đổ đất trông
cây coi xanh tốt lạ, chẳng hiểu giống cây gì vì trông cũng quái gở như
vườn “quỷ mộc” ngoài. Không để lỡ dịp, Minh Thần vận khí hàn băng, dùng
thuật ẩn thân chuyển theo làn sương mờ nhân tạo, vút qua điếu kiều. Tới
nóc, chàng xua sương trước mặt quan sát ánh sáng tối mờ, trong khoảng
tối mờ hư ảnh, hiện ra cảnh trí lạ, điếu kiều chạy xuống một khu hoa cỏ
vàng vàng như tráng kim nhũ, có một vách đá lồi lõm cao, chạy quanh co,
coi như vách núi vom trên tối đen, chỉ có ánh sáng mờ khoảng ba thước
xuống, xa xa có một cái cửa tò vò ánh sáng, coi đúng là… hang sói thâm u! Vừa kịp thấy lũ đàn bà đi vào cửa tò vò mất dạng.

Võ lướt
vút xuống, vừa tới cửa tò vò, sịch thấy mụ mập cùng bốn con chó đi ra,
chàng nép vội vào vách bên, sương mù bao phủ, mụ mập, chó sói đi vụt qua điếu kiều vẻ vội vã hết sức.

Đợi chúng đi khỏi, Võ lách luôn
vào cửa tò vò. Lúc này, âm thanh hồi nãy đã tắt ngấm lúc nào. Trong cửa
tò vò, khung cảnh quái ảo, mờ hư ảnh, không khí yên lặng bao trùm lấy
mấy dãy hành lang nhỏ vắng hoe. Đặt chân vào phòng, chàng có cảm giác
như bước vào một thế giới phi phàm, thế giới riêng biệt của loài tinh!

Đặc biệt sương khói từng nhóm vơ vẩn trôi quanh quẩn, khí lạnh trong này
buốt thấu xương, có lẽ là vì sâu dưới lòng đất đá. Nhưng chàng không lấy làm lạ, khi đi qua một khóm sương khói, mũi lại ngửi thấy một mùi là
lạ, thơm thơm ngai ngái. Thấy vắng, Võ Minh Thần xẹt vụt vào tít trong, tay thủ thế sẵn sàng ra đòn đánh phủ đầu, mắt đảo
lia quan sát.

Vòng hết nửa móng lừa chỉ thấy tối mờ, với năm,
sáu đường rẽ ngang dọc, có một lối sáng hơn, Võ lộn lại, lướt luôn vào.
Chừng năm thước, gặp một hành lang tối, khói sương mờ mịt, nhưng có ánh
sáng vàng le lói, chàng vào luôn, độ sáu thước. Gặp một khung cửa rộng,
có bức rèm vàng buông rủ cửa khép hờ, chung quanh không thấy bóng sinh
vật.

– Có lẽ buồng con tinh trong này! Toàn màu vàng, màu lông
nó! Thành tinh, linh mẫn, nó ăn ở như người! Không có quân canh gác,
chắc nó nghĩ không ai có thể lọt vào hang ổ này ẩn sâu dưới đất, sau cả
chục khu vực bí mật, đầy bóng tử thần!

Mừng thầm, chàng lách
luôn vào. Tối mờ mờ, nhưng nhãn quang của chàng đụng phải một cảnh trí
hết sức lạ mắt, trái với óc tưởng tượng hiện giờ. Vì đây là một căn
phòng rộng trần thiết nguy nga, với những chùm đèn pha lê chính giữa các đồ vật bầy biện quanh phòng toàn thứ quý giá vàng ngọc lấp lánh, coi
không khác căn phòng của các bậc đế vương Tây, Tàu, ta xưa tổng hợp cả
ba sắc thái, có cả hoành phi câu đối, bát bửu v.v… Tuy các chùm đèn
chưa thắp, chỉ có một ngọn đèn lồng nhỏ, cũng đủ soi chiếu mờ mờ cảnh
vật, xế trong, có một khung cửa thông cũng sáng mờ le lói, có dựng hai
pho tượng bằng đồng vàng chói, một pho cầm cái chùy đồng to, một pho cầm ngọn kích, coi oai phong lẫm liệt, cao bằng người thực, hai pho tượng
đứng hai bên đối diện nhau. Võ Minh Thần nương bóng tối mờ, tiến qua
phong, tới cửa thông. Chàng vẫn không hề để ý, khi còn cách cửa thông
hai thước, thình lình bên tai có tiếng âm u:

– Tượng đồng
“trành”! Giật thót người, nhanh như cắt, Võ ẩn vụt sau một chậu cảnh lớn đúng lúc hai pho tượng vụt xoay mình lại, tay trùy, tay thương đảo vút
cái. Trong ánh mờ, Võ thấy hai cặp mắt tượng đồng chợt long lên sòng
sọc, coi cực kỳ hung tợn chiếu lia căn phòng, dừng ngay phía chậu cảnh.
Không để chúng kịp trở tay, Võ Minh Thần múa tay bắt “quyết” miệng đọc
chú linh cắn lưỡi sẵn. Sịch! Cả hai pho tượng lắc lư khật khưỡng đi lại
gần chậu cảnh. Rất lẹ, ngay khi chúng vừa sịch tới, nghiêng ngó, tay giơ trùy thương, Võ vừa đứng sổ dậy, vừa đánh “chát” tay ấn quyết, phun
phì máu lưỡi nhắm giữa tròng mắt tượng.

Sức quyết đánh dốc toàn lực, kèm theo sức “xó khách” ngầm yểm
trợ, cả hai pho tượng chưa kịp ra tay, đã nẩy lên hai cái đứng đó, thõng tay trùy thương, hai cặp mắt từ từ nhắm lại!

Chỉ hai đòn
“quyết”, mồ hôi đã ướt xẫm trán Minh Thần! Đứng yên mấy giây, chàng mới
tiến lại, sốc luôn tượng để vào chỗ cũ. Đó chỉ là hai cỗ quan tài tượng
đồng rỗng, như bộ giáp, bên trong có hai con trành quái và cả hai đã bị
thúc thủ, đứng yên trông như hai cái bị cầm tù vì “khoán”!

Minh Thần bước sang phòng bên, phong này tối, tít cuối tay hữu, có cửa thông le lói ánh sáng, chàng trai thận trọng lấn tới.

Thốt nhiên, cảnh im lặng đến rợn người xâm chiếm chàng tuổi trẻ. Trấn tĩnh,
nén xúc động, chàng vận sẵn khí công, bế kín huyệt đạo, trừng mắt, lướt
nhẹ trong bóng mờ đầy sương khói.

Quanh co qua hai, ba căn buồng tối nữa, vẫn chưa thấy gì lạ. Bỗng dưng trước một dãy hành lang dẫn lên chín bệ cao chót vót, sương khói mờ ảo, ánh sáng chờn vờn, hai bên hành lang, bệ đầy phong lan, các giống vạn niên thanh, tít trên ngọn bệ có
một khung cửa tò vò, lập lòe mấy chữ “Mê Hồn Cung Tinh Viện Ma Vương
Sắc”.

– A! Kia rồi! Đúng hang ổ sài lang Chúa nó ” ngự” khuất
trên cao, tất có nhiều cạm bẫy! Vong hồn mẫu thân khôn thiêng xin phù hộ cho giọt máu mồ côi báo được thâm cừu!

Như cái bóng, Võ Minh
Thần lướt vụt qua hành lang, chín bệ, lên cửa “Mê Hồn cung”. Nhìn qua
cửa “Tinh Viện” lại một khu lầu nữa hiên ra với đường móng lừa chạy ôm
lấy nhiều căn buồng sáng, tối huyền ảo.

Điều Võ nhận thấy ngay
là “thế giới trên này” nó có nhiều lối lên xuống tuy chỉ cách tầng dưới
dăm bộ, nhưng vừa đặt bước lên chỗ cửa “Tinh Viện”, chàng vụt cảm thấy
cái lạnh thấu xương biến đâu mất, chẳng khác đã lui vào… dĩ vãng! Và
cũng với sức im lặng vô cùng bao trùm không gian, một làn hơi ấm cũng
xâm chiếm nhanh vào thân thể, dễ chịu hết sức!

Ngạc nhiên, Võ
nghiêng tai, liếc mắt hít nhẹ một hơi. Một mùi thơm cay cay ngầy ngậy
phả vào mũi, chàng quờ sương khói ngửi lần nữa, mùi thơm ngậy! Chàng dí
mũi vào vách và khám phá ra ngay.

– A vách có nhào quế, trầm và
tiêu… trong buồng cũng có đốt trầm, hương thơm. Hừ! Con tinh sói Ma
Vương Sắc này ăn chơi không thua Tần Thủy Hoàng, Triệu Chính xưa, bắt
trát hồ tiêu vào vách mùa đông cho ấm, đây còn thêm cả quế trầm có lẽ
còn quý hơn cả vách cung Tần bạo chúa xưa! “Kỳ nam” là một thứ quý trong thiên hạ, mà “nó” dùng để trát vách, đủ biết
Ma Vương Tây Sắc giàu có đến mức nào? Nếu chẳng phải “nó” có tài chế
biến ra chắc nó đã khám phá ra được kho vàng nào đó!

Rất thận
trọng, Võ Minh Thần đi trong cảnh im lặng thâm sâu. Vòng quanh đường
móng lừa, chàng lại lần qua hai, ba căn buồng mờ ảo đầy màn trướng, bỗng dừng lại nghiêng tai.

“Vo vo vo vo! ồ ề ồ ề! Vi va vi vu…”
Rồi lại “tí ta tí tách” lại tiếp những tiếng “vo vo ồ ề vi vi” trong im
lặng, nổi chìm một thứ âm kỳ dị, phảng phất như tiếng sáo diều đêm thu,
mà lại chờn vờn như tiếng địch, hư hư thực thực, rất khó phân biệt.

Võ Minh Thần lần theo âm thanh kỳ dị, bỗng tới một khung cửa bán nguyệt,
có một bức màn sương buông rũ. Rõ ràng âm thanh từ trong hắt ra. Võ nín
thở, ghé mắt dòm qua rèm sương. Bên kia rèm, căn phòng khá rộng, bầy
biện những đồ vật hết sức lạ mắt, với những đường nét kỷ hà chàng chưa
từng thấy từ trước tới giờ.

Mọi vật mờ mờ, hư ảo. Một vùng ánh
sáng vàng sệt, lung linh. Đảo mắt mấy vòng, chàng mới chợt để ý tìm ra
có mấy đốm đèn vật vờ tít cuối buồng có một bức bình phong che hờ.

Sau binh phong, lố nhố có hai, ba bóng nữ ngồi một xó, cạnh sập. Khu buồng
quây bình phong này, thấp thoáng có nhiều bóng nữa nhưng bình phong che
mất.

Bình phong chỉ cao hai thước, Võ Minh Thần bíu mép vách cửa nhoài lên dòm vào và chàng trai lập tức giật bắn mình một cái vì xúc
động, chàng cảm thấy run cả người, tim đập mạnh, máu muốn sôi len.

Vì trong kia có bốn cái ghế bốn góc buồng quây rộng, chính giữa có một cái giường thất bảo, không buông màn, trên bốn cái ghế dựa có bốn mỹ nữ
trước mặt mỗi mỹ nữ có một cái bàn độc, trên bàn có một ngọn đèn dầu
vàng sệt. Trên giường thất bảo có một mỹ nhân ngồi bên một ngọn đèn nữa, cũng đèn dầu.

Trên bốn cái ghế, có một sợi dây chuyền vàng đều
mắc tới trốc sạp, thành hình chữ “X” chéo chùng võng gần đèn. Và trên
giường lót da báo gấm, có một bóng đắp chăn vóc đại hồng ngoảnh mặt vào
ngọn đèn xoay lưng chênh chéch ra phía Minh Thần đứng. Bóng này trùm
khăn qua gáy, chỉ hở chút đỉnh đầu lòa xòa. Chỗ này nằm giữa bóng mờ,
chưa ro, trông như người đội mũ vàng.

Chợt “tí tách tí tách” có vật chi đen đen vàng vàng chạy trốc
bàn độc lại trốc giường thất bảo, mỹ nữ ngồi đây chụp lấy, đưa qua bóng
đắp chăn. Từ đó, bỗng phát ra một tràng âm dị “ồ ề vo vo vi vu” nổi chìm dìu dặt, phảng phất lại như tiếng kèn ma dưới chín tầng địa ngục hết
sức quái gở.

Võ đứng nghe, không đoán nổi cái bóng kia thổi thứ
kèn gì nữa! Minh Thần chú mục, dòm kỹ vật đen, vàng cùng mấy mỹ nữ ngồi
quanh giường. Cả bốn nàng bốn góc đều cử động giống nhau, tay cầm vật
chi sáng loáng múa tít trên ngọn đèn và nhét nhét thứ nhựa đen đen vàng
vàng vào vật đen, vàng dài như cái cột kia! Thì ra bàn độc kia chỉ là
bàn thờ “cô”, ngọn đèn trên bàn độc là ngọn đèn dầu lạc, hay mỡ chó chi
đó, có lẽ mỡ chó. Vật to bằng cái cột kia là một cái dọc tẩu mà cũng
không phải dọc, càng chẳng phải kèn vì thư này phát ra âm thanh.

– À… mâm đèn thuốc phiện! Bóng kia nằm hút thuốc! Nhưng “cây kèn dọc
tẩu” kia là thứ kèn gì? À “kèn Tây Sắc”! Bóng nằm kia đúng là bóng Tây
Sắc Ma Vương Sài lang chúa tứ túc Hồng Cẩu Quẩy tinh rồi! Tuy nghĩ “Cung Mê Hồn, Tinh Viện Ma Vương Sắc” này, chỉ có Sài lang Chúa nằm kia,
nhưng cái bóng đội mũ vàng đắp chăn vóc nằm “thổi kèn Phù Dung” dáng
điệu coi “đầy vẻ người” hệt một khách trưởng giả đệ tử “nàng tien nâu”
đang buôn hồn theo ma túy, dẫu sao cũng làm Võ Minh Thần phân tâm, nghi
hoặc, không dám võ đoán. Vì chỉ sơ hở chút là đủ hỏng việc rồi, nên Võ
kìm hãm ngay được xúc cảm, để vụt nhận ra luôn điều nguy hiểm sơ suất vô chừng, là mình vừa ngó chòng chọc vào “cái đầu đội mũ vàng” của bóng dị nằm trên giường thất bảo. Thói thường tia mắt nhìn chòng chọc quá chú ý bao giờ cũng phát điện tuyến, kẻ bị nhìn nóng gáy có thể “cảm” thấy
liền, vì đường dây thần kinh sau ót thường rất bén nhậy. Rất nhanh, Võ
nhắm phăng mắt lại, ngó lệch xuống dưới, mới mở mắt ra, dòm bao quát
toàn khối, tránh tuyến điện tập trung, “Vo vo ồ ề vu vu” bóng đắp chăn
vóc vẫn nằm không nhúc nhích, thổi kèn “Phù Dung” đều đều, liên tục, nhả khói mịt mờ. Giữa cảnh huyền ảo lờ mờ hư ảnh từ mấy ngọn đèn, đến mấy
bóng nữ sau bình phong, coi càng giống những bóng hình trong huyền mộng, quái gở, phi phàm.

Vì cả mấy nữ ngồi “hầu” thuốc kia đều khỏa
thân, mình mẩy hiện lồng lộng, tóc đều buông rủ xõa thành giòng mun,
không búi quấn quýt quanh mình. Cả năm nàng, mỗi nàng ngồi một dáng, ngực nở bụng thon, chân tay
thuôn lẳn, dáng nào cũng dễ coi, ánh đèn dầu lạc, mỡ chó chi đó chảy
mùi, mình mẩy vật vờ như mơn da thịt trắng rợn người coi càng giống vóc
dáng hồ ly trong động thất.

Còn góc trong, chỗ giáp bình phong,
hai ba mỹ nữ khác, trong số, Võ nhận được có hai nàng khoác “voan” thuộc Tế Yêu Nhũ Hoa, Túc Hoa Cung vừa bị mụ Dạ Xoa Chưởng pháp áp dẫn vào.

Hai nàng này ngồi co ro, im thít, mặt mày tuy cố làm ra vẻ tươi, nhưng vẫn
hiện rõ nét kinh hoàng khó tả. Chốc chốc hai nàng này lại lấm lét ngó
vào giường thất bảo, như hai nữ tội nhân đợi đến phiên xử mình.

Bóng đắp chăn hình như quá quen thuộc cảnh mỹ mữ khỏa xiêm đối diện nên
chẳng tỏ vẻ chi lưu ý. Y quay mặt vào ánh đèn, Minh Thần leo lên tận
trần cũng chỉ thấy mép nhấp nhô, đang mong y cử động, để có dịp nhìn cho rõ, bỗng thấy y hơi cựa quậy, hất nhẹ mép chăn góc một cái. Mép chăn
trễ xuong tận gáy, và dưới ánh đèn dầu, vụt nhô lên hai cái tai vàng:
Hai cái tai vểnh, to dài như hai cái lá mít!

Võ Minh Thần dột tim, xúc động:

– Hai cái tai chó! Đúng rồi! Hai tai chó sói… không sai!

Đồng thời chàng cũng nhân ra “cái mũ vàng” chính là chỏm đầu của một con
sơn cẩu to lớn có chùm lông bờm như đầu sư tử cái, lông bơm vàng nuột
như tơ tằm, lóng lánh như bôi kim nhũ!

– À! Hồng Cẩu Quẩy lông
bờm vàng… cái đầu Sài lang chúa! Đúng “nó” rồi! Tây Sắc Ma Vương tứ
túc, kẻ đại thù của ta đúng nằm kia rồi! Trong nháy mắt, máu trong huyết quản chàng trai mồ côi, chí hiếu sôi lên, chỉ chực nhẩy sổ vào ra tay
liền!

Nhưng trí khôn chàng đã vụt kìm lại.

– Nó nằm đó,
kẻ đại cừu, nhưng còn nguồn gốc ta? Mẹ ta đã chết, di hài hiện nằm trên
lưng ta, cha ta đâu! Không ai biết? Cha ta cũng bị “nó” tàn sát trước
khi “nó” rượt đuổi mẹ ta lên tận biên giới Việt Tầu! Không ai biết,
ngoài thủ phạm! Chỉ có “nó” Sài Lang Chúa Tinh Quân hấp sát “nó” mới rõ
nguồn gốc gia đình ta! Nếu hạ thủ nó ngay, dẫu “nó” có bị, nó sẽ đem
theo bí mật gốc nguồn ta xuống âm ty! Thù bất nhược phải bình tĩnh đã!
Không còn cách nào hơn là phải ra mặt đối đầu nó, hỏi cho ra lẽ, trước
khi xuất thủ! Bắt buộc ta phải đấu chiến đường đường, diện đối diện, hạ
được “nó” ta sẽ phá tan hang ổ, đốt cháy Cung A Phòng. Như Hạng Võ xưa
nhập Hàm Dương, rửa hờn cho trăm họ, rồi sẽ mang “nó” lên, làm lễ tế

vong hồn song thân, mẫu thân! Mẫu thân sống hiền, thác oan, hồn có linh xin phù hộ cho con thêm sức mạnh
đấu sức, đấu trí với kẻ đại thù, một con vật thành tinh, cực kỳ xảo trá, cao tài!

Để tự trấn tĩnh, Minh Thần lùi nép sau khung cửa,
choàng tay về đàng sau, ôm lấy gói di hài người mẹ đã bị hấp sát hơn
mười tám năm xưa trên biên thùy Trung Khánh phủ.

Vốn tính đa
cảm, tuy mặt lạnh lùng, chàng tuổi trẻ lại thấy cay cay cánh mũi, vốn
mím môi trấn áp, đưa tay toan vén bức rèm sương, tiến vụt vào phòng Ma
Vương.

Nhưng ngay khi đó, bỗng bóng đắp chăn, tai voi vàng chụp
lấy dọc tẩu, kéo thật mạnh. Lần này, âm thanh không còn chìm nổi ồ ề nhè nhẹ như trước nữa, mà như rống lên nghe tựa ma kêu quỷ hú nghe phải rởn óc.

Minh Thần ghé trông vào, thấy bọn mỹ nữ cũng tiêm thuốc,
thả dọc nhanh hơn, loang loáng dưới đèn vàng, khói ảo, dọc chạy vi vút,
âm rít vi vu như xoáy gọi hồn ma bóng quỷ, cứ như thế mấy hồi, bất thần
im bặt, từ trong chăn, có một bàn chân sơn cẩu đầy vuốt nhọn giơ lên vay bóng tai vểnh bờm vàng phát tiếng âm u còn khàn rè khói thuốc:

– Mỹ nữ Tế Yêu Nhũ Hoa, Túc Hoa Cung lại đây kiến Chúa Sài Lang! Lập tức
có tiếng “dạ”, hai cô gái khoác “voan” đứng lên, khép nép bước đến bên
giường thất bảo, đứng ngay dưới chân Sài lang tinh, vẻ mặt đầy kinh
hoảng:

– Vào kiến Chúa Sài Lang là điều đại hạnh, mỹ nữ không
phải sợ! Vào Cung Mê Hồn là vào cửa Bồng Lai! Khỏa! Hai nàng vẫn đứng co ro, bỗng “soạt!” “soạt!” cả hai tấm voan vụt bay phất phới, rồi nằm phủ trên tấm chăn vóc coi hết sức lả lơi.

Và theo nhịp “voan” bay
hạ xuống chăn vóc phập phồng như hai cánh bướm, búi tóc hai nàng kia
cũng vụt sổ tung chảy ròng gần chấm gót, cả hai chợt bay về phía Chúa
Sài lang, coi như hai con chăn gió, khuôn dáng hai nàng hơi chao nghiêng về đàng trước, đường cong nét uốn chờn vờn, bỗng đẹp dưới đèn vàng vọt
như hai bóng hồ ly.

Võ Minh Thần tuy từ thủa hạ sơn, chưa biết
chuyện “gió trăng nhan sắc” là gì, nhưng tư chất rất thông minh, nhạy
cảm, chỉ nhìn qua cử chỉ nhỏ của Sài lang chúa, chàng tuổi trẻ thấy ngay cả cái điệu nghệ hào hoa phóng dật của một khách phong lưu tiêu sái
thừa bản lãnh chung đụng với đàn bà. Chàng trai bất giác dột lòng, nghĩ:

– Hừ! Đúng cử chỉ của Ma Vương Sắc! Không phải “vua nhan sắc”
không thể có cử chỉ lả lơi tình tứ đến thế! Ai dám tưởng kẻ vừa giật làn “voan” thành cánh bướm đậu trên mình, là một con vật thành tinh? Ôi chao! Chuyện
thật quái gở! Khách hào hoa phong nhã nằm kia lại là một con chó sói!

Trong kia, cặp mỹ nữ Tế Yêu cung đứng nghiêng chúi vẫn chưa dứt vẻ sợ sệt,
bỗng như có một bàn tay vô hình lôi kéo, hai thân dáng mỹ nữ đều chầm
chậm đổ xuống giường thất bảo cả hai cùng cuống vội tay, hơi lùi giật
mình một chút, một nàng cất tiếng líu lo:

– Bẩm… Chúa Sài lang… em sợ…

– Hà hà! Nàng sợ Chúa sao? Được Chúa Tây Sắc Ma Vương vời đến Mê Hồn cung là điều sung sướng, được Chúa Tây Sắc đưa lên nước Nhược non Bồng, sao
lại sợ? Ngoan! Hãy cười tươi lên! Nhìn Chúa Sài Lang!

Hai nàng
chống tay đứng thẳng người hai cặp mắt mở to, bỗng nhiên vẻ kinh sợ vụt
biến sạch, cả hai cùng nhướng mày, trên khuôn mặt cùng hiện rõ nét đam
mê kỳ dị, cả hai như không còn biết sợ là gì nữa! Rồi như hai con mèo
đầy khát vọng cả hai nàng cùng nhoẻn miệng cười tình tứ, rướn cong
người, dang thẳng bốn cánh tay ra như mời mọc, và tự nhiên phá lên cười
khanh khách, từ từ ngả dáng liễu xuống giường thất bảo!

Sắc diện thay đổi nhanh và bất ngờ của cặp mỹ nữ Tế Yêu cung làm Võ Minh Thần
ngạc nhiên hết sức. Chàng sực nhớ lại lời viện Chúa núi Mã Đầu Quảng
Tây, theo đó, trước khi bị con tinh hấp sát, chính mẫu thân chàng cũng
chợt hóa điên cuong hoại trí cam chịu nhục van cầu hiến dâng thể xác,
chỉ vì bà đã bị liễm yêu khí quái ác của con tinh!

– À! Hai nàng vừa rồi sợ hết hồn, giờ lại ngả xuống đầy vẻ mê say… có lẽ cũng bị tà khí của nó mê hoặc đến nỗi quên cả kinh khiếp chăng?

Rất nhanh, Minh Thần nhảy vọt lên phía sát nóc cửa dòm vào, đúng khi đó, đầu có
bờm vàng trên giường hơi ngóc lên, Võ nhìn thoáng thấy một khoảng bên má con tinh, và bỗng nhiên giật mình kinh dị, suýt bật tiếng “ồ” sửng sốt! Vì đó không phải mặt chó sói, mà là mặt người, đúng mặt người!

Ánh sáng đèn vàng hắt lên, khói sương quyện mờ, nên một khoảng mặt trông
cũng mờ loang lổ, nhưng rõ ràng không thể nào hoa mắt trông lầm được!

Tuy vậy, Võ cũng sợ mình hoa mắt, hay bị ảo giác, chàng vội đưa tay dụi mắt lia lịa, trợn nhãn quang dòm lại nhưng ngay khi đó, hai bóng mỹ nữ Tế
Yêu cung cũng vừa ngã sát xuống bên đèn, từ mép chăn đệm bỗng có một bàn chân sói thò ra, bíu túm, nâng vụt lên cao che khuất hết cả nửa thân
hình mỹ nữ, ngọn đèn che luôn cô gái ngồi “hầu” thuốc!

Ngay sau
khắc chăn vóc được nâng lên không khí căn phòng vụt trở nên yen lặng vô
cùng. Năm cô gái hầu tiêm hầu tẩu bỗng lặng lẽ đứng dậy cùng lui xó đàng kia, đi vào khung cửa thông gần tấm bình phong. Trong buồng chỉ còn Sài Lang Chúa với cặp mỹ nữ.

Tự nhien Võ Minh Thần cũng bị
sự im lặng xâm chiếm tâm hồn, chàng trai khó nghĩ hết sức, lòng bối rối, cứ nấp trên nóc cửa nhìn vào. Lúc đó mảnh chăn vóc đã che phủ quá nửa
mình mỹ nữ, chỉ còn hở từ nửa bàn tọa xuống. Từ trong chăn, bỗng nghe
tiếng khàn khàn gai gai vọng ra, đến rợn người:

– Mỹ nhân!
Ngoan! Đời người chỉ một lần sinh tử! Từ buổi định càn khôn, hóa âm
dương mở tứ tượng, sinh bát quái, hóa muôn loài, từ ngày đó, muôn loài
đều chịu kiếp phù du! Sinh ra đó, rồi ít năm sau, hóa đó, kiếp con người càng hóa phù du… Sinh thành trụ diệt, một khoảng thời gian ngắn như
ngựa qua cửa sổ, chịu đủ xót xa, vui buồn tạm bợ, rồi một cơn gió bụi,
con người nằm xuống, hình tiêu ảnh diệt “cái thức” hồn kia hỏi có còn
gì? Ha! Sinh sinh hóa hóa cái hình phù du! Mỹ nhân! Ngoan! Theo Chúa Sài Lang vào cõi mê hồn sinh hóa… Ha ha!

Tiếng nói càng lúc càng
trở nên xa xăm huyền bí la, chìm dần mất, bỗng nghe tiếng cặp mỹ nữ cười rú lên, giọng cười dòn như thủy tinh vụn, nửa chừng bỗng như nấc nghen, cười thét lên, nghe như con heo bị chọc tiết, dưới mép chăn vóc, hai
khối bàn tọa và sáu cặp đùi “Tuc hoa” vùng dẫy lên đành đạch như đỉa
phải vôi, làm cả tấm chăn cũng nẩy lên, mảnh “voan” chảy xuống.

Mắt mở trừng, Minh Thần ngó hai cặp đùi dẫy dụa, liên tưởng đến đuôi con
thạch sùng bị chặt đứt, bên tai chàng, tiếng cười thét từ trong chăn
vọng ra, nhọn hoắt tựa dùi xiên, làm chàng càng sôi máu hận!


“Nó” đang làm gì kìa… Con tinh sói? Cặp mỹ nữ kia sao kêu hét dữ thế?
Chắc đang bị con tinh “hấp sát”? Hấp sát hay hiếp sát? Cảnh tượng thật
gớm ghê. Ta nên ra mặt chưa? Mẹ ta xưa cũng bị thế này sao?

Đột
nhiên, chàng trai thấy rúng động cả tâm thần, buông vụt mình xuống. Hình ảnh cuộc thảm sát mười tám, mười chín năm xưa hiện lên chờn vờn phảng
phat như có tiếng rú thê thảm nơi biên thùy phân mao. Hít một hơi dài
mắt ngó trừng vào trong, hai cặp đùi ếch vẫn dẫy dụa, cùng tiếng cười
nhọn, sương khói mờ mờ. Võ Minh Thần nghĩ ngay tới mấy chữ “Mê Hồn cung, Tàng Hình cung, Hóa Sinh cung…” Chàng trai quyết định nhanh như tia
chớp, thò tay toan gạt rẽ tấm rèm sương. Nhưng… bất thần, tiếng cười
rú trong chăn vụt tắt. Căn buồng quái ác bỗng rơi vào im lìm như trong
quan tài. Mơ hồ như có tiếng âm âm trầm trầm bên tai:

“Hóa hóa ngũ hành âm

Sinh sinh ngũ hành dương

Âm dương đồng bản thể

Sinh sinh hóa hóa tương…”

Rõ ràng từ trong chăn vọng ra, mà xa xăm như tận thế giới nào! Thình lình, có tiếng Ma Vương thét nhọn:

– Gái vô dụng! Đỏ da thắm thịt, nhũ đanh, lưng eo, đùi dài, lẳn người,
nhân khí tiên thiên bất túc, nửa chừng đã đứt hơi! Hừ! Tốn công nuôi!
Bay đâu! Đem hai đứa gái vô dụng ra cho chó sói ăn thịt!

Lập
tức, nghe tiếng “dạ” vang âm đâu đây, nhưng chẳng thấy bóng nào chạy
vào! Bỗng “sịch” nền đá giữa buồng chợt tụt xuống một mảnh để lộ ra một
lỗ huyệt độ thước vuông đen ngòm.

Rồi từ dưới lỗ, lừ lừ chui lên hai mụ đàn bà to lớn phốp pháp như con trâu mộng, mặt mày ghê ghiếc,
không khác con quỷ cái từ dưới đất nhô lên! Hình thù mặt mũi hai mụ này
coi phát gớm, không thua chi mụ Dạ Xoa Chưởng pháp ban nẫy, khiến Võ
Minh Thần ngó thấy phải nhăn mặt.

Bộ điệu của hai mụ “trâu
chương” trông thiện nghệ hết sức, môi dầy như miếng thịt trâu bôi phẩm
đỏ, ngực, mông như mấy đụn rạ, mắt ốc nhồi láo liên tựa đèn pha. Hai mụ
vừa nhô lên đã nhe răng cười khan dòm vào gian buồng quây bình phong.
Mỗi mụ tay cầm một con dao bầu to bản còn hơn cả dao bầu dân thọc huyết
heo (chẳng biết làm gì?) không hấp tấp, hai mụ này đi hai bước về phía
bình phong, đồng cất tiếng thé nhọn như đọc bài thuộc lòng:

– Nô tỳ đã đến, đợi lệnh Chúa truyền!

Trong giường thất bảo, có tiếng Sài Lang Chúa vọng lên khàn lạnh như đồng, như gai đâm nạo mặt nứa:

– Hai đứa con gái này vô dụng! Xác to khí đoản, chưa chi đã đứt hơi, tụi
bay dẫn chúng ra cho chó ăn thịt! Hai mụ mập cùng “dạ” dàn hàng đôi tiến lại, lách qua đầu bình phong đến bên giường thất bảo.

Cử chỉ
rập khuôn, hai mụ vừa lôi giật, vưa lùi một bước dài, sát tấm bình
phong, nghe “bạch bạch”, hai tiếng tay vỗ vào thân thể, dưới đèn, thấy
loang loáng, cả hai thân hình mỹ nữ đã… đứng lơ lửng trong không khí,
hai cặp đùi buông thõng cách mặt nền chừng ba gang tay, đu dưa vắt vẻo
như con “búp bê” treo.

Minh Thần trừng mắt dòm kỹ, bỗng phát ớn người, vì hai mỹ nữ đã
bị hai mụ mập kia xoắn tóc túm bêu lên, như bêu hai con ngóe, dưới vùng
ánh sáng vàng vọt, cả hai nàng quay tứ phía, bốn con mắt trợn trừng
trắng dã như dòm người… Không! Chỉ là bốn cái lỗ huyệt sâu hoắm con
ngươi tròng mắt đã biến tiêu, và cũng chẳng còn là hai cô gái mới vưa
đầy xuân xanh hơ hớ, căng đầy nhựa sống nữa, mà là hai cái xác không
hồn!

Đúng hơn, chỉ là hai cái… túi da! Vì bao nhiêu gân thịt
đã tiêu hết, hai mỹ nữ chỉ còn xương bọc da, hoặc nhiều lắm chỉ còn dính ít thịt thừa chi đó.

Không cần quan sát lâu, Võ Minh Thần cũng
hiểu ngay hai mỹ nữ Tế Yêu cung này vừa bị Ma Vương hấp sát! Đúng là
cuộc sinh tử biến hình này ra trong chớp mắt, thoảng như cơn mộng ảo,
nhanh hơn cả ý nghĩ của chàng. Khiến chàng trai thoáng sinh hối hận vì
đã không nhảy vào ngay khi “nó” lột “voan” trùm hai nàng kia!

Đang nghĩ loanh quanh bỗng lại thấy hai mụ mập giơ vụt hai cái túi da lên
cao, hai mụ ngửa mặt dòm tận mắt hai cái xác này, đã hóa bất thành nhân
rồi y hệt hai con quỷ vớ được miếng mồi ngon, hai mụ vùng nhe răng cười
khan, dí luôn mũi vào mặt “túi da” hít lấy hít để, không khác người hít
hoa thơm vậy!

Và vừa hít, hai mụ vừa khật khưỡng bỏ ra giưa
phòng, tay vẫn bêu hai “cái túi da” lừ lừ chui luôn xuống lỗ huyệt đen
ngòm. Dưới vùng ánh sáng vàng vọt, đầy sương khói, Võ Minh Thần còn thấy hai cái túi da người “đu đưa lủng lẳng” xương khua lục cục, hai mụ mập
hôn hít chùn chụt coi phát gớm!

Kịch! Phiến đá dâng lên, lỗ
huyệt bít kín bưng. Hơi gió tạt thốc lại phả vào mũi Võ Minh Thần một
mùi tanh khắm đến lộn mửa! Vô tình hít phải, suýt hắt hơi, may chàng đã
kịp hãm lại ngay khi vừa nhảy mũi. Bất giác Võ liên tưởng đến mùi di hài mẫu thân, suốt mười bảy năm quàng trong hang đá, mở ra vẫn nặng mùi,
điều quái gở này, xưa nay trên đời chưa hề thấy!

– Có lẽ do phép hấp sát phi phàm của con tinh sói…? Yêu khí của nó đã liễm vào xác,
và ướp mãi mùi sú uế cũng như cổ nhân ta xưa đã có thuật ướp xác, luôn
cả hương thơm tho.

Mùi tanh khắm khủng khiếp đến thế, vậy mà hai mụ quái mập kia cứ hít hà rối rít. Kể cũng lạ! Có lẽ mụ đã “hầu xác”
lâu năm, nên hóa nghiện mùi hôi thối chẳng khác giống Ma Cà Rồng thèm ăn bẩn vậy!

Oan nghiệt!

Minh Thần đưa tay xua mùi sú uế bất thần nghe Sài Lang Chúa vùng quát gọi với vẻ như vừa uất giận:

– À bay đâu!

Rất lạ, là cửa huyệt đã đóng ập hàng chục giây, bỗng lại sịch mở, hai mụ mập thò ngay đầu lên “dạ”.

– Không cho chó ăn! Tiêu gần hết gân thịt còn gì! Đem bỏ vào Bảo Tàng
Viện, mai ta coi lại! Hai mụ mập lại bên túi da, ghé mũi hôn hít vẻ
thích thú hết sức làm Minh Thần phát gớm. Kịch! Nắp huyệt lui kín như
bưng.

Mơ hồ trong chăn vóc chợt có tiếng thở phì văng vẳng giọng khàn xa xăm như kẻ nói trong mộng:

– Sao tự nhiên lại xẩy ra chuyện khác thường trở lại như buổi sơ khai?
Sinh sinh hóa hóa cái hình phù du… Hóa hóa ngũ hành âm, sinh sinh ngũ
hành dương, âm dương đồng bản thể, sinh sinh hóa hóa tượng càn khôn hữu
càn khôn, càn khôn biến hóa thập tử nhất sinh, càn khôn, càn khôn hựu
càn khôn, biến hóa càn hóa thập sinh nhất tử… A! Sao đêm nay có chuyện lạ thường, lòng ruột xốn xang, huyết khí đảo điên, hấp pháp thoái hồi
nhị thập niên di thượng? Có triệu chứng chi đây hay khí lực nó tiên
thiên bất túc?

Tiếng lẩm bẩm trong chăn lọt tai Võ câu được câu
chăng, có lúc tiếng chìm hẳn, nghe không rõ, chỉ loáng thoáng một, hai
tiếng quái gở, lạ tai, như không phải ngôn ngữ của giống người trên trái đất…

Minh Thần nghe đến câu “sao đêm nay, lòng ta xốn xang… Có triệu chứng chi đây?” Chàng trai bỗng giật mình một cái, ghê thay
linh tính nó cảm thấy chính là chuyện chàng hiện nấp ngoài rèm sương
này! Nhưng rất may, có lẽ con tinh tuyệt không ngờ điều đó, vì “nó” đinh ninh khó có kẻ nào đủ bản lãnh thập toàn để có thể độn thủy vào tận
cung A Phòng, lần đến “Mê Hồn Cung, Tinh Viện” này, êm ả qua biết bao
“cửa tử phi phàm”.

Chợt từ trong chăn vóc, tiếng Sài lang Chúa lại cất lên trầm khàn:

– Bảo nó dẫn Tây Phi xuống đây. Đêm nay Chúa ngự Tây Phi! Giọng nó vang âm, nhưng bốn bề vẫn im lặng, chợt nghe vẳng có tiếng

“dạ” xa xôi, góc phía sau, bỗng lại có tiếng the thé nhọn hoắt từ đâu vọng âm tới cũng y hệt tiếng nói trong máy phóng thanh:

– Khải Chúa, Tây Phi nương nương không chịu xuống tắm “Thủy phương trì”,
bảo Chúa đã cho Phi tùy sở thích! Khải Chúa, Phìa Mường La nhất định
không chịu rời Tây Phi, bảo phải đích thân dẫn Phi tới dâng Chúa ngự mới chịu! Phìa bảo Phìa lấy chuyện Phí Vô Cực tráo hồn nàng Mạnh Doanh làm gương! Phìa không muốn mắc lừa như công tử Bồ nước Tần! Nên chỉ bằng
lòng trao cho… Chúa! Chưởng pháp nô tỳ chưa dám áp dụng luật A Phòng
với bực Chưởng quản Tế Yêu cung!

– Ha ha! Con gái Phìa Mường La
bướng… Chúa thích! Dẫn nương nương tới đây mau! Chúa động phòng! Cho
cả Phìa theo! Xa xôi có tiếng “dạ” mơ hồ, trên giường thất bảo, lúc đó
mép chăn căng giương cao mới từ từ hạ xuống, nhưng vẫn trùm tận ót Ma
Vương Cẩu Quẩy!

Ngay lúc đó, bọn gái “hầu thuốc” chợt lặng lẽ đi vào ngồi chỗ cũ, tiếp tục… Võ Minh Thần đã toan nhẩy vào, lại cố nán. Chàng đã nẩy mưu đánh phủ đầu một đòn “điện công” vào thẳng thất khiếu
Ma Vương gồm cả Mê Hồn Nhuyễn Khí, lẫn Cương Khí Kình Phong, kiềm chế nó để truy tầm gốc thân thế mình! Nên cứ nấp buồng ngoài đợi.

Trên giường, bóng Sài Lang Chúa “thổi kèn dọc tẩu nhả khói” liên miên, rồi
kéo chăn trùm cả đầu, chỉ thò mõm ra ngậm dọc! Ánh đèn lung linh tỏa
giường thất bảo, Minh Thần chỉ muốn dòm mặt nó, không cách nào thấy
được, vì nó ngoảnh mặt vào trong.

Trên giường thất bảo, Ma Vương Tây Sắc vẫn trùm kín chăn nằm, mấy nàng hầu thuốc cũng ngồi nghỉ tay,
điềm nhiên như mấy pho tượng bạch thạch.

Chợt có tiếng Ma Vương trong chăn phát ra:

– Cho bọn mi vào! Không phải chầu Tinh Viện nữa! Mấy bóng nữ “dạ” kính
cẩn đứng cả dậy, bỏ vào căn phòng xế sau góc bình phong. Mâm đèn dọc tẩu cả năm bộ vẫn để nguyên, Mê Hồn cung ánh đèn dầu vàng đọng, khối Phù
Dung, hàn khí mờ mờ, cảnh trí coi càng như trong huyền mộng.

Im lặng đến vô cùng. Bỗng nghe tiếng mụ Dạ Xoa Chưởng pháp vang âm thé nhọn:

– Khải Chúa, Tây Phi nương nương đã đến chầu! Có cả Phìa theo! Còn đợi lệnh Chúa truyền!

Trong chăn, tiếng Ma Vương hắt ra:

– Cho vào! Võ ghé sát rèm sương, dòm vào, chợt nghe có tiếng cửa sịch mở, tiếp theo tiếng mành trúc, sương chi đó dao động lách tách, rồi từ nẻo
cuối Tinh Viện, đối diện xế giường thất bảo, bỗng hiện ra cái bóng mập
như trâu chương của mụ Dạ Xoa ban nãy. Tay mụ cầm cái gậy đen, tấm lưới quanh mình còn giắt dao bầu cùng nhiều món tạp dụng chi nữa.

Mụ tiến vào chừng ba thước, dừng lại. Và ngay phía sau mụ, thập
thò lão Phìa Mèo Mường La Nam Cương cùng cô gái Kheng Lan Tây Phi. Lão
Phìa nhìn quanh, hai con mắt lão coi láo liên như mắt giặc, vừa bước
vào, lão đưa tay kéo áo mụ Dạ Xoa hỏi nhỏ:

– Cung Chúa đây ư? Ôi chao! Cung động gì mà sương khói mờ coi như động ma động quỷ thế này?
Chúa Sài Lang đâu? Mụ Dạ Xoa trợn mắt “suỵt” vẻ sợ sệt, vội vào phía
giường thất bảo.

Nàng Mèo Kheng Lan rón rén bước theo cha. Hai
cho con dòm vào giường thất bảo, nhưng khu giường này có bình phong quây quanh chỉ thấy bên trong ngọn đèn dầu lờ mờ, đặc sệt, bóng chăn gấm nhô cao, trùm kín gáy. Chỉ riêng Võ Minh Thần nhờ chỗ nấp thuận tiện dòm
qua kẽ hở hai mảnh bình phong gập lại, nên mới thấy thấp thoáng bên
trong.

Hai cha con lão Phìa đang ngấp nghé dòm, bỗng “sịch” bình phong từ từ chạy trên nền phòng, loáng cái đã xếp thành một mớ dựng sát vách, cả khu giường thất bảo mở ra dưới mắt mọi người, không khác có
một bàn tay vô hình vừa xếp lại!

Từ trong chăn, có tiếng Ma Vương Sắc hắt ra:

– Cha con Phìa Mường La Nam Cương đó ư? Vào đây! Đường biên thùy xa xôi
hiểm trở, Phìa tuổi tác đã cao, còn chịu khó đưa Tây Phi Lan tới tận A
Phòng cung, tấm lòng đó trời không phụ, Chúa Sài Lang rất bằng lòng? Sẽ
có nhiều châu báu tặng à!

Giọng Sài Lang Chúa vang âm trong căn
phòng lặng, tuy vẫn gai sắc, nhưng đầy vẻ dịu dàng, kẻ cả, không khác
giọng vua chúa bảo thần dân, làm Võ Minh Thần hơi ngạc nhiên, càng ghê
thay cung cách con tinh muôn mặt thạo đời. Riêng lão Phìa nghe qua
chuyện “thấm nhuần mưa móc” có vẻ thích chí lắm, lão phát cười hi hí,
xoa tay vào nhau, rón rén bước lại, miệng hỏi cụt lủn:

– Nằm
trong chăn à? Mụ mập lại trợn ngược mắt, “suỵt”. Võ Minh Thần đảo lia
mắt nhìn từ chỗ cha con lão Phìa vào giường thất bảo, ánh sáng vật vờ,
sương khói vấn vương, bỗng tia mắt chàng bắt gặp một vật gì hơi động đậy xế trên ngọn vách sau giường thất bảo giap trần, xế trước mâm đèn.
Chàng vội chú mục dòm, chợt thấy vật đó lấp lánh, to đầu, long lanh, ngó kỹ mới hay đó là một tấm gương! Tấm gương đồng màu với bức tranh treo
đấy, từ ngọn tường “bò” ra, tròn xoe, thoát đã nằm dán ngay vào hình
thêu trên bức tranh, coi y hệt miếng kính tráng kim thường thấy. Tấm
gương tròn chiếu về phía cha con Phìa Mường La có lúc nghiêng cả về phía Võ Minh Thần ẩn, làm chàng giật mình, lùi vạt vào xó, nghĩ ngay đến chuyện “Tào Tháo hiến đao”. Tào Tháo lãnh sứ mạng vào đâm Đổng Trác, đúng lúc Đổng nằm quay mặt vào tấm gương, Tào tiến
vào khua đao chực chém mới chợt thấy bóng Đổng mở mắt dòm trong tấm
gương phản chiếu. Tào thất kinh, nhanh trí, quỳ luôn xuống làm bộ hiến
đao quý… rồi kiếm cớ “tháo” chạy.

Nhưng đồng thời thấy tấm
gương, Võ lại lóe ngay ý khác, bèn nằm phục xuống lựa chiều, dòm vào
gương, xem mat Ma Vương. Đúng lúc Võ chiếu đúng hướng, thì mép chăn cũng từ từ trở xuống chút tận mắt, và Minh Thần bỗng dột tim một cái, khi
thấy rõ từ chỏm đầu con tinh xuống tới mắt.

Vì chỏm là chỏm lông bờm vàng, hai tai vểnh, nhưng phía dưới lại là trán người, mắt người,
hai con mắt sáng tựa điện quang phản chiếu trong gương coi còn đầy uy
tợn, còn từ mắt xuống che kín.

– Trán người, mắt người! Đúng
trán, mắt người. Phía dưới chắc chắn là mặt người! Phải chăng Tây Sắc
Tinh Quân đã luyện tới độ hóa được mắt người? Nếu nó có thể hóa hình
người nó sẽ thành một thứ tai ách gớm ghê cho thiên hạ, nó sẽ sống lẫn
dưới loài người, khó có cách phân biệt giả chân!

Minh Thần tuy
nhìn vào, nhưng sợ mặt mình phản chiếu trong gương lộ, nên vội quay nhìn hai cha con lão Phìa Mèo, chừng ngó lại, Ma Vương trùm kín mặt, tấm
gương vẫn còn. Sực nghe tiếng Sài Lang Chúa bảo:

– Đêm nay Chúa ngự Tây Phi, Phìa hãy theo chúng ra ở tạm cung ngoài, sớm mai Chúa gặp! Tây Phi vào đây!

Cả hai cha con lão Phìa cùng đi vào. Còn cách giường thất bảo dăm thước,
mụ Dạ Xoa chợt xẹt vào, vẫy lão Phìa, nhưng lão Phìa cứ dòm quanh chợt
cười hi hí:

– A Chúa Sài Lang hút thuốc phiện! Cho Phìa hút với, từ bữa rời Mường La,

Phìa chưa hút, nhớ lắm!

Tiếng Ma Vương trong chăn vọng ra:

– Dạ Xoa ra bảo mỹ nữ cung ngoài tiêm hầu Phìa! Mai Chúa sẽ tặng châu báu!

Lão Phìa cười hí:

– Không thích châu báu, không thích hút một mình, Phìa thích món khác!

– Muốn chi?

– Xem mặt Chúa Sài Lang! Xem xong, ăn thịt chó.

Vừa nói vừa cười, lão Phìa giơ tay lên như vẫy gọi, bất thần nghe đến “vút” tiếng, tiếp liền một tràng “thụt thụt phập phập”, Võ Minh Thần hơi giật mình, vén kẽ rèm sương dòm, chỉ thấy hai cánh tay lão Phìa vung loang
loáng, cả nàng Mèo Kheng Lan Phi cũng khoa tay tít, nghe “huỵch”, tiếng
mụ Dạ Xoa bắn tung lộn người vào vách, tiếp luôn tiếng “kịch”, mụ Dạ Xoa nằm sụm một khối xó buồng, lọt thỏm xuống lỗ huyệt, tràng “thụt phập”
vừa dứt, đã nghe hai tiếng “phập” lớn rung chuyển cả mâm đèn, giường
thất bảo, rồi tất cả vụt im! Trông vào, hiện ra một cảnh lạ mắt. Trên
giường mà chăn vóc đội hình Ma Vương vẫn nằm lù suốt từ đầu xuống đến
chân liễu đao cắm một hàng như lông nhím, ngập lút cán, và hai cha con
lão Mèo đứng hai phía cạnh giường, tay lão Phìa cầm một sợi xích sắt
căng thẳng, đầu kia, một lưỡi đại phù cắm ngập hết hai phần ba chém
ngang cần cổ Ma Vương, xuyên qua lần chăn vóc còn nàng Meo Kheng Lan Phi tay còn cầm đốc gươm đâm suốt qua sườn Ma Vương ngập hơn gang tay, chưa rút!

Và trong phòng im lặng thẳm, thứ im lìm… đến nổi da gà! Trên giường hình Ma Vương vẫn đắp chăn lù lù.

Trong nháy mắt, dưới đèn, hai cha con lão Phìa vụt trở nên nhanh nhẹn khác
thường. Hai người liếc nhìn nhau, nhìn quanh buồng vắng, nhìn vật bị
đâm.

Bỗng cả hai giật mình tay gươm búa. Nghe “soạt” tiếng lưỡi
búa gươm rút ra đã lôi theo cả tấm chăn rộng, lao Phìa chụp mép chăn,
đặt “phạch” gỡ nốt mấy chỗ còn mắc cán dao!

Và cả hai cùng kêu
rú lên “à con tinh bờm vàng” làm Võ cũng phải dột lòng, vì dưới lần chăn vóc, vừa hiện ra một cái thây sài kíu lông vàng nằm co quắp, hàng chục
mũi liễu đao cắm dọc mình mẩy, cổ bị búa chặt gần lìa, nằm không động
đậy!

Nấp ngoài rèm dòm, nhờ bức bình phong đã xếp xó, Võ Minh
Thần trông rõ mồn một, cả từng dấu máu đỏ lòm đẫm mình con sài kíu long
vàng, trong thoáng giây, chàng không khỏi bàng hoàng sửng sốt. Vì dưới
đèn, đúng là hình thù con Hồng Cẩu Quẩy lông vàng có bờm sư tử: Tây Sắc
Tinh Quân Vương Sắc!

– Á! Gớm thật! Hai cha con lão Phìa mèo kia là nhân vat nào dám đội lốt gái tiếp cung lần vào tận sào huyệt Sài
lang Chúa hạ thủ! Coi thế phóng đao, búa, đúng tay cao bản lãnh, gan góc hơn người! Hừ! Thật không ngờ! Trách nào có lúc coi hèn hạ, ngây thơ,
có lúc chợt “dở chứng”. Khó hiểu! Như lúc trong lò nấu sáp chẳng hạn!

– Nhưng Sài lang Chúa thành tinh cực kỳ quái quỷ, có thể nào bị đâm chết
dễ đến thế sao. Hừ! Chẳng lẽ uổng bao nhiêu năm nung thù nấu hận của
mình ư? Vô lý?

Chỉ suýt nữa, chàng tuổi trẻ đã nhẩy vọt vào nếu không vội kìm hãm lại, định ngay thần trí.

Trong kia, hai cha con lão Phìa thấy hình con Sài kíu lông vàng nằm chết trên giường thất bảo, cả hai cùng bật tiếng reo mừng, lão Phìa khoa tấm chăn đẫm máu ném vào xó, tay gại gại nhẹ lưỡi búa, cười ha hả:

– Ma
Vương Sắc! Cái thây sài kíu lông bờm này là thây Ma Vương Sắc thật ư? Ha ha, ta vẫn tưởng Chúa Sài Lang thành tinh ba đầu sáu tay, hóa chỉ có
bốn chân một mõm, nằm hút thuốc phiện trong hang động, vẫn có thể chết
như con chó bốn chân! Trành xó đâu? Hấp sát đâu? Yêu khí đâu? Không lẽ
nhà ngươi chết êm nằm đó? Hà hà! Bậy that, ta tưởng chỉ thử mấy “đòn
gió” chơi, ai ngờ đòn thử lợi hại đến thế?

Nàng Mèo Kheng Lan vùng nói nhanh:

– Hang ổ Ma Vương có nhiều cạm bẫy! Phải đi kiếm chỗ nó nhốt chị Bạc Pi A Ya ngay mới được.

Minh Thần nghe nàng nhắc đến tên Bạc Pi A Ya không khỏi dột lòng, đoán hai
cha con lão Phìa chắc là người thân Khao Lan nữ chúa, chàng chưa tính
nên nhẩy vào, hay cứ đứng yên, chợt nghe nàng Mèo hô “nhanh lên sư phụ”, cả hai đứng cách giường thất bảo hơn sải tay, cùng xuất hữu quơ vụt về
phía xác sài kíu, rút dao bằng điện kình.

Nhưng lưỡi dao vừa nhô lên được nửa lưỡi chợt dừng lại như mắc xương. Không ra nữa, Cả hai vận lực quơ mớ khác nhưng một hàng hơn chục mui dao đều mắc thế, lay mãi
không sút nổi. Bực mình, cả hai buông tay kình tiến lại, thò tay chụp
cán dao nhỏ. Minh Thần nấp ngoài bỗng dột tim thấy xác sài kíu nhấp nhô, bất thần cô gái Mèo Kheng Lan vùng hô “coi chừng” cả hai giật phắt
mình. “Véo, véo”, cả chục mũi dao bỗng bắn vút lên loáng sáng liễu sạt
chỏm khăn Mèo, bật phóng lên trần “keng, keng” tóe lửa, rồi lại rớt lả
tả xuống cắm “phập, phập” xuống giường thất bảo. Mảnh khăn bị hớt, bay
như cánh bướm, hai cha con lão Phìa cùng lùi lại thủ thế. Nhưng tất cả
lại im lặng như cũ. Chẳng khác nào cái thây bị tức hơi đẩy hẳn dao lên.
Cả hai thoáng ngơ ngác. Kinh nghi, đứng dòm, lão Phìa quay búa thả
“véo”, “phập” lưỡi búa chém đứt hẳn cổ con sài kíu, cái đầu văng về phía đầu giường.

Nhưng lưỡi búa đã cắm sâu xuống giường nhổ không được. Kinh hồn, bỗng cái đầu sói vùng tru lên một tiếng gai người, bất thần nhẩy vọt
lên táp lão Phìa.

Cảnh tượng quái đản làm hai cha con lão không
khỏi giật mình, sửng sốt, tay đang nhổ búa, túng thế, lão Phìa vội xòe
tả thủ gạt bịch mõm sói.

Tuy lão vận sức rắn như đồng, cái đầu
sói bắn văng vào vách nhưng nó lại nhẩy sổ ra lần này tỏ rằng nó há mồm
nhe nanh táp cổ lão, lão nổi giân đưa tay đấm bốp vào đầu sói, cái đầu
lại bắn văng đi, nhưng tay lão muốn tê chồn. Còn đang lấy làm lạ, thình
lình cái thây ma chó cụt đang nằm sóng soài, bỗng vùng nhảy chồm lên,
quơ vuốt vỗ cô gái.

-Chó ma, chó quái!Cô gái Mèo múa gươm đâm,
lạ thay cái xác sài kíu cúi đầu sẹt váo sang bên tránh, rồi lại chồm
xuống vồ, cái đầu đằng vách cũng nhảy lại, cắn lão

Phìa, hét lên một tiếng, nhổ được lưỡi búa, lập tức quay vù, vừa chém vừa trợn mắt quát:

-Chó tinh! Phải mày là Ma Vương Sắc, chó yêu chó quỷ cụt đầu còn hung,
tao há sợ loài tinh! Hai cha con di động gươm búa, quần thảo với đầu
sói, xác cụt, cảnh đấu chiến quái đản khiến Minh Thần đứng ngoài không
khỏi lấy làm lạ. Nhưng chỉ nhìn qua mấy đường sói cụt vờn gươm búa,
chàng đa hiểu ngay điều bí ẩn dưới cảnh tượng phi phàm. Và chàng cũng
chợt thấy lòng nhẹ hẳn như vừa trút được vạn cân chì trước cái chết quá
bất ngờ của hình xác Ma Vương.

Trong phòng bất thần, cái đầu chó sói lao vụt tới dính liền vào cần cổ cụt, rồi con sài kíu có lông bờm
mang cả cái thây còn đẫm máu nhẩy chồm chồm qua đầu hai cha con lão Phìa há ngoác mõm nhe nanh nhởn đớp hập hập vào hai người. Làm cả hai phải
xoay trở vùn vụt, tiếng chó sói nhẩy chồm nghe vun vút, cực mạnh tợn,
loang loáng, đứng ngoài chỉ thấy hình thù nó di động vàng vàng như một
luồng ánh sáng hết sức thần tốc. Trước nó còn nhẩy vờn quanh gian buồng
thuốc phiện, sau nó nhẩy dài hơn, có lúc ra tận chỗ Võ Minh Thần nấp
ngoài, tiếng xé gió nghe ớn lạnh.

Vào tay khác chắc sẽ bị cắn
như bỡn nhưng hai cha con lão Phìa này bản lĩnh cao cường, xoay trở vùn
vụt, đánh đỡ đâm chém như chớp, thoắt trong buồng, chỉ thấy ba cái bóng
xanh xanh vàng vàng vi vút đảo lộn lẫn với ánh thép sáng lòa.

Đặc biệt nhất là cả người lẫn quái thú đều dùng thuật khinh phù
tuy mạnh mà êm gọn vô cùng. Cả năm ngọn đèn Phù Dung vẫn không ngọn nào
bị tắt. Bỗng nghe lão Phìa quát lớn:

– À con chó ma chó quỷ này gớm thật! Để coi mi có cưỡng nổi quyết lệnh không?

Dứt lời, cả hai vẹt lùi vào một xó, sát vách cùng đưa tay bắt quyết, đánh
“chát” cái cắn chót lưỡi đọc chú phun phì cái bóng to lớn vàng vàng vẫn
di động trước mặt, ngay khi quyết vừa đánh ra, bỗng nghe con chó quái
cười ré lên một hồi sằng sặc, rồi bất thần nhẩy tới đứng lù lù ngay bên
giường thất bảo, giương mắt dòm hai cha con lão Phìa!

Dưới đèn,
hai cha con lão Phìa đều giật nẩy mình kinh dị, vì con sài kíu lông bờm
lúc nãy cần cổ dứt mới lắp đã liền như thường, các vết dao đâm cũng đâu
mất, máu me cũng sạch như lau chùi, lông vàng óng ả, hai con mắt đỏ khé
như than tàu, con Hồng Cẩu Quẩy bờm sư tử vàng đi hai chân, ngửa mặt,
khật khưỡng cười khà, dáng điệu quen thuộc của Ma Vương Sắc!


Ma Vương Sắc! Mi… tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy! Mi vừa dứt cổ… mi sao…? Phải mi? Lão Phìa Mèo không nén được kinh dị hình thù sài kíu lông vàng đứng lù lù, tuyệt không còn dấu vết đứt cổ thủng bụng!

Con Hồng Cẩu Quẩy đi hai chân, khật khưỡng phát tiếng người âm u rờn rợn:

– Lạ sao? Bản Vương tinh Chúa Sài Lang tứ túc hấp sát đây! Hà hà! Ngươi
tưởng đã chém được bản vương hay sao? Ma Vương Sắc chúa tể thế giới sài
lang tinh dưới đáy Hắc Giang đâu có thể chết vì gươm đao súng ống phàm
trần! Biết không? Cung A Phòng xưa nay không kẻ nào xuống nổi, nay có
một kẻ râu dài, một nàng xuân sắc dám đội lốt cha con Phìa Mường La, tới Tinh Viện mò tận Mê Hồn Cung là giỏi lắm! Lão Phìa, cô gái Mèo vẫn lăm
lăm tay búa tay gươm, quắc mắt nhìn Tây Sắc Ma Vương, chừng vẫn chưa hết kinh nghi về chuyên kỳ dị trước mắt. Ma Vương phát tiếng âm âm lạnh
lẽo:

– Phạm Nhan Nguyễn Bá Linh xưa chỉ là một tên phù thủy
thường, con Nguyễn Bá Cường đất Hải Dương, lưu lạc sang Tàu. Theo bọn
Thoát Hoan sang đánh nước Nam bị chém rụng đầu này còn mọc nổi đầu khác, Sài lang Chúa thông thiên quán địa, tu luyện càn khôn pháp, lại không
lắp đầu Phạm Nhan được sao? Hà hà! Cung A Phòng xuống dễ, lên khó, bọn
ngươi tài gì thoát nổi!

Hai cha con lão Phìa nhìn nhau, cùng lùi một bộ, cô gái thét lảnh:

– Tinh chó! Mi bắt đàn bà con gái nhốt trong hang ổ, hấp sát tàn hại sinh linh, trời đất không dung, người đều oán! Thầy trò ta xuống
đây cứu người thân thích, khôn hồn thả ra mau! Bằng không, dẫu mi yêu
thuật cách nào đừng hòng hại nổi thầy trò ta!

Ma Vương dòm cô gái Mèo, nó hơi nghiêng đầu, bờm sư tử lòa xòa trước trán coi như gấu ngựa, nó phát cười gai gai:

– À! Cô nàng là ai, đội lốt gái Mèo Mường La Nam Cương, coi còn đẹp hơn
gái Mường La! Hà hà! Xứng đáng Tây Phi Tế Yêu Cung! Thân thích là đứa
nào? Bản Vương Sài lang Chúa Cung A Phòng đầy mỹ nữ, sao nhớ nổi? Còn
lão đội lốt Phìa là ai?

Lão Phìa quắc mắt, quát:

– Tây
Sắc tinh! Học trò ta là gái Bạc nữ chúa Pi A Ya, nó ra ngoài rừng về
thăm cha, bị mi lừa bắt đem đi! Ta lặn lội khắp thượng du, theo dấu vết
tới Mường La, mới biết động hang mi dưới đáy Hắc Giang, ta tới đòi học
trò… biết điều đem trả mau!

Dứt lời cả lão Phìa giả, cô gái
Mèo cùng giắt khí giới đưa tay bắt “quyết”! Minh Thần nấp ngoài, nghe
tỏ, lòng cảm động nghĩ thầm:

– À thì ra sư phụ Bạc Khao Lan! Còn nàng Mèo kia chắc là bạn học! Cả hai xả thân đi tìm cứu Khao Lan! Ta
đứng ngoài này phải lưu ý ám trợ mới được.

Bỗng nghe tiếng ông
già quát lên một tiếng lạ tai, chừng đọc chú, đánh Chúa Sài lang. Ma
Vương vẫn đứng yên, bỗng đổi giọng hét chìm:

– Già ngốc! Mi tới
số mới vào Cung A Phòng! Mấy cái quyết “thầy mo mụ ké” đã làm gì nổi
Chúa Sài lang? Ta cho thử sức với lũ nô bộc đàn bà trong cung! Bay đâu!

Lời nó quát chưa dứt, “quyết” thầy trò cô gái đã tung ra, nhưng lạ thay!
Tây Sắc vẫn đứng yên phát cười gai rợn! Thấy “quyết” linh không hạ nổi
con tinh, ông già, cô gái lạ cùng xuất thủ, định ra đòn phản phong,
nhưng bất thần nghe kịch một tiếng, phóng đã mở ra một lỗ huyệt tối om,
từ dưới bắn vọt lên hai mụ đàn bà mập như hai con trâu trương! Chính hai mụ vừa hít thây ma lúc nãy! Mụ nào cũng cao khoảng thước bảy, thước
tám, mắt ốc nhồi, tay như cái cột, mỗi mụ cầm một con dao bầu, coi người không ra người, quái không ra quái, giương mắt ốc nhồi như mấy cục
tiết.

Tây Sắc hất hàm, mồm gai gai:

– Bắt hai con mồi kia cho Chúa! Để sống!

Lập tức hai mụ Dạ Xoa Cung Mê Hồn tiến vụt lại trước ông già, cô gái, hét lên mấy tiếng kinh dị, nhảy xổ tới chém. Ông già, cô gái không hề ngán, cùng rút khí giới ra, hét lớn, quật liền.

Chát chát!
Khí giới chạm nhau tóe lửa. Bốn cái bóng xẹt ngang dọc như bốn con thú
dữ loang loáng dưới đèn, bất thần nghe “keng” tieng một con dao bầu bắn
tung về phía Tây Sắc đứng, nó thờ thẫn chụp dính, “huỵch” mụ Dạ Xoa bị
một ngọn cước đá bắn vào tường, ông già thả luôn búa “xoẹt” bay chỏm
tóc, theo đà quật rớt luôn dao bầu mụ kia, cô gái thừa cơ đá luôn một
ngọn cước, mụ ta ngã lộn nhào.

Nhưng cả hai vọt đứng dậy, toan nhảy xổ tới, Ma vương ném dao, hai mụ bắt dao, nhảy tót xuống lỗ huyệt mất hút. Tây Sắc gật gù:

– Đáng được Chúa Sài lang tiếp! Coi đây! Chúa Sài lang bắt bọn ngươi! Dứt lời nó thổi phù một cái! Từ trong mồm sói tinh, bay vút ra một luồng
hắc khí, chụp thốc ông già và cô gái. Cả hai đã đề phòng, cùng vận kình
phong quật luồng hắc khí, nhưng Tây Sắc đã lắc lư xẹt sang bên, thò chân trước vồ. Cách khoảng bốn bộ từ chân sói bay vút ra hai luồng huyết khí giống hệt vuốt sói, vồ thốc hai người, cả hai tung đòn kình đỡ gạt, chỉ nghe “bùng bùng” hai tiếng, dưới đèn mờ sương khói bong thấy hai cái
bóng người bắn bổng lên hơn thước vật vờ như hai ảo ảnh, xô huỵch lưng
vào vách phòng, tiếp liền tiếng cười the thé của Ma Vương. Võ Minh Thần
dòm vào đã thấy ông già và cô gái lảo đảo ôm ngực, rõ bị kình huyết
phạm thân, chàng trai biết hai người khó địch nổi Tây Sắc, không dám
chậm trễ, lập tức vén tốc rèm bắn mình vào, hét lớn:

– Không được hại người lành! Còn có ta đây! Sài lang Chúa!

Ma Vương quay phắt người lại, vừa thấy bóng Minh Thần, nó vùng phát cười ghê rợn:

– À, tên mặt sắt đêm nào! Ta đang tìm mi khắp rừng già thượng du. Mi lại
dẫn xác tới! Hay lắm! Mặt sắt có vòng càn khôn…! Mi cũng vào tận A
Phòng được? À! Ta thấy triệu bất tường, ra đêm nay mi đến nộp vòng!

Minh Thần liếc thầy trò ông già, xẹt lại đứng chắn trước, hô lớn:

– Lão trượng, cô nương rút mau! Đã có mỗ chặn Ma Vương! Bạc cô nương đã
bị hấp sát rồi, xác đặt trong Bảo Tàng Viện, còn thoi thóp! Rút mau!

Chàng nói qua đường lối chưa dứt, Ma Vương đã nổi giận hét lên nhọn hoắt:

– À tên mặt sắt dám sục sạo Cung A Phòng, Sài lang Chúa không tha!

Dứt lời, nó thổi phù một cái mạnh.

Thấy một bóng đội mũ trụ cổ quái, lưng lại đeo cả kiện hành lý, khiên,
giọng nói sang sảng tựa chuông đồng bất thần nhảy vào, ông già và cô gái đội lốt cha con lão Phìa Mường La vô cùng sửng sốt, cùng xẹt lên dòm
cho kỹ. Tây Sắc Ma Vương dừng đòn, không đánh nữa, nhưng Minh Thần đã
biết sức lợi hại phi phàm của Ma Vương, sợ nó hạ độc thủ, cứ che cản
trước mặt giục đi, ông già vùng nói lớn:

– Nhưng bạn la ai? Sao cũng xuống cung động này?

Thấy hai người còn nấn ná, Minh Thần buộc lòng phải nghiêng đầu nói vọng lại:

– Lão trượng và cô nương bị đòn huyết khí sói tinh rồi! Mau ra khỏi nơi
này! Đã có kẻ này cản sói tinh! Len Bảo Tàng Viện mau! Có linh đơn chưa? Tây Sắc tinh cười thét:

– Không ăn thua đâu! Đòn Ma Vương Chúa
là đòn vong mạng! Hà hà! Cho lão kia đi chết, còn cô nàng, Chúa Sài lang đã phong Tây Phi cứ ở lại đây. Chúa chữa cho khỏi chết, cai quản Tế Yêu Cung!

Tuy bị đòn quái, thần khí hao hụt, cô gái vẫn không sợ hãi, trỏ Tây Sắc thét lảnh:

– Tinh chó trời đất sẽ tru diệt mi! Tối nay, tao quyết chặt đầu lột da
bị, báo thù cho sư tỷ! Ông mặt sắt lui ra, để thiếp báo cừu cho chị Bạc! “Vút, vút”! Nàng phóng hai mui dao lá liễu vào tim cổ Ma Vương.

Vẫn đứng yên, con tinh hơi hạ thấp đầu, đớp nghiến một cái, cắn “chát,
chát” mũi dao kẹp cứng hàm răng nhọn! Nó gật đầu cái nữa, cô gái đang
vận kình thu dao bị lôi chúi về đằng trước như bị “sợi dây vô hình” kéo
mạnh! Rất may, Võ Minh Thần đã dang rộng cánh tay ngang ngực nàng kìm
lại được, hô “cắt điện kình”, cô gái sức tỉnh, làm theo, Minh Thần gạt
nhẹ nàng về phía sau.

Nhưng Ma Vương đã nổi giận hét lên một
tiếng, xòa chân trước chụp Minh Thần, nghe “soạt” tiếng như xé lụa, từ
vuốt nhọn con tinh bay vút ra một luồng huyết khí giống hệt bàn chân
sói, kéo dài như một vì tinh lạc đỏ lòm màu máu vồ thẳng ngực chàng ngay khi chàng vừa gạt cô gái lại sau.

Đã vận sẵn điện kình, Võ Minh Thần vung tay đánh vụt ra một luồng lãnh khí quật thẳng vào luồng huyết khí vuốt Sai lang, miệng thổi phù ra một đòn “Mê Hồn Cung” bí pháp của
bà chúa Thanh Âm truyền dạy!

Lúc này ông già đã lẹ tay quài túm được cổ tay cô gái đồng hành, lôi giật ra xó cửa.

Giữa căn đong lờ mờ sương khói, ánh đèn vàng vọt ma quái, im lặng, bỗng nghe phát liền hai phát “bùng, bùng” như tiếng sấm nguồn, sét đánh cả căn
buồng kín bỗng sầm lại một màu đo đỏ lờ lờ, trăng trắng như tuyết bay,
ông già, cô gái vừa vạt xó cửa về sau Minh Thần còn bị áp khí đè xuống
muốn rung động châu thân, cả căn buồng quái bộng sực lên một mùi máu
tanh nồng khủng khiếp, lẫn mùi thơm ngào ngạt của dễôn loài dị thảo kỳ
hoa hương trầm lan lộn không sao phân biệt nổi khiến ông già và cô gái
vừa muốn lộn mửa đã cảm thấy dễ chịu hơn như được hương thơm kỳ dị kia
hóa giải liền. Tuy vậy, cả hai cũng choáng đầu, hoa mắt mấy khắc, lật
đật lùi vội ra hành lang.

Dòm vào, giữa vùng trắng, đỏ mờ, sương khói, Võ Minh Thần đã vật vờ bắn dội lại hơn hai bộ, còn Tây Sắc tinh
trôi miết hai chân sau vào phía giường thất bảo, cả năm ngọn nến cùng
phụt tắt lúc nào không biết?

Cả hai địch thủ cùng hoành thân đứng nhìn nhau, cả hai xem và cũng thấm đòn kình khí của nhau, chấn động châu thân, hoa cả mắt.

Chỉ qua đòn kép, cả hai đã lượng nổi sức địch, Minh Thần tuy có choáng
váng, nhưng thấy nội tạng vẫn như thường, chàng không khỏi mừng thầm,
thoáng nghĩ:

– Tây Sắc lợi hại phi thường, đêm nó phá Bát quái
Thiên la địa võng Mê Hồn trận Pi A Ya đủ biết! Chưa hiểu đòn huyết khí
vừa rồi nó đánh ra đã xuất bao nhiêu tinh lưc, nhưng nếu trước ngày nhập Thanh Âm Động chắc ta khó lòng chịu đựng nổi! Còn ta, trong lúc vội,
điện lực hàn băng mê hồn xuất được hai phần ba khí lực mà nó cũng hơi
lao đao nếu vậy Mê Hồn Công bí pháp có thể dùng chong trị nó được! Nhưng có điều hơi lạ là: Mê Hồn Công cũng thuộc võ thuật bí truyền, dùng đánh loài người, loài vật, nó là quái vật thành tinh, sao cũng chịu dưới
định luật về vật lý như người ta? Theo chú Thoòng, chúa Ma Đầu Quảng Tây cho biết: chính chú đã bắn nó mấy phát Pạc Hoọc không chết, điều này
lại vượt ngoài luật vật lý cõi thế… Nay nó mình đồng da sắt, như con
“Mạc thú” trước, ta hạ được ngày gặp Bạc Khao Lan? Con Mạc thọ kim khí
mà sinh ra, ăn sắt như bùn, kể đồng tính chất với kim khí không lạ, còn
sài lang đây, hay nó đã luyện được bí pháp chi?

Trong khi Minh
Thần thầm nghĩ, Tây Sắc tinh xem chừng sửng sốt vô cùng vì từ lâu chưa
gặp kẻ vô danh nào có thể chịu nổi đòn huyết khí ghê gớm của nó.

“Người mặt sắt” đã từng suýt chết vì đòn đó mấy phen, giờ y lại
có thể đỡ nổi đòn này, còn khiến Ma Vương choáng váng đầu óc vì kình
khí. Tây Sắc phát tiếng người hét chìm gai:

– Mặt sắt! Phải mi mới học được đòn bí pháp Mê Hồn của chúa động

Thanh Âm?

Thấy nó không đánh ngay Minh Thần vụt nghĩ:

– Khi ta rời sơn động bà Chúa Giáng Tiên có căn dặn: đòn Mê Hồn Công bí
pháp lợi hại nhất là đánh lúc bất ngờ, vì nó là vô ảnh kỳ công đánh ra
không thấy màu sắc! Nay đã đánh lẫn Hàn Băng Công, điều lợi hại bất ngờ
để mất, giờ nó không ra đòn ngay, ta phải lập kế “đánh kín” mới được!
Hãy đánh nó ngất ngư, truy tầm thân thế sau chưa muộn!

Bèn buông thõng hai tay, làm vẻ điềm nhiên, Thần giọng hô “Xó thầy đâu? Mau dẫn
ông già, cô gái lên Bảo Tàng Viện”, con xó khách nãy giờ vẫn đứng ngoài
rèm vội vọt lại giật ông già, cô gái đi, nhưng Tây Sắc đã hú lên một
tiếng rởn óc, từ dưới nền phòng nhảy vọt lên ba mụ mập Dạ xoa luồn hành
lang chặn lại. Phảng phất như có một bóng mờ vật vờ thoáng hien dưới đèn rồi biến mất, Võ hô “Coi chừng con trành cái, thoát mau không muộn”.
Ông già thấy Võ cầm cự nổi Sài lang Chúa lúc đó mới chịu kéo cô gái vọt
ra, miệng hô lớn:

– Người mặt sắt cứ đánh chó tinh, lão đây biet phép cự ma trành!

Tây Sắc giơ vụt chân trước, định làm gì đó, nhưng lại từ từ hạ xuống, ngửa mặt tru lên một tràng vang rợn cười khà:

– Cho đi! Cung A Phòng có Mê Hồn Tứ Tượng, Bát quái biến hóa U minh Âm
hồn trận cam giữ, bản vương đã cho mở trận ma xó vô hình chưa dễ ra
thoát, đứa hữu hình có cánh cũng không qua nổi! Hà hà! Cứ để chúng! Còn
ngươi nữa! Lâu nay Chúa Sài lang chưa được thử tài tu luyện, người là kẻ có bản lãnh, tài thuật, đáng được chết dưới tay ta!

Nghe con
tinh nói đến “trận Âm hồn U minh biến hóa…”, Võ Minh thần không khỏi
lo cho tính mạng ông thầy dạy Bạc Khao Lan, từ lúc nhập A Phòng, chàng
cũng đoán tất Tây Sắc phải có trận đồ lợi hại nào trấn động! Chàng trai
lắng nghe tiếng mụ Dạ xoa hét, lẫn tiếng cô gái la, biết cả bọn đã cuốn
nhau đi khỏi Tinh Viên, nghĩ đã có con “Xó quỷ khách” tinh khôn, cũng đỡ ngại, Minh Thần lập tức ngầm vận chan khí lên buồng phổi trầm lời hỏi
Tây Sắc:

– Sài lang Chúa! Ngươi biết ta là ai không?

Vừa dứt lời thấy Tây Sắc nheo hai con mắt, vẻ chăm chú nghe, chàng trai theo lời nói, thổi phù một cái.

Đòn phản phong bí truyền này vẫn được liệt vào hàng võ thuật
trấn sơn của Thập Vạn Đại Sơn và Thanh Âm động! Nay gặp Tây Sắc Ma
Vương, chàng thừa hiểu con tinh này vô cùng lợi hại, thắng bại chỉ cần
mot đòn, hai đòn nên ngay đòn thứ hai này, chàng đã ngầm vận dụng phần
lớn điện lực trong mình, phối hợp cả Mê Hồn Công lẫn Khẩu Phong Lôi, khí thổi ra vẫn êm như không, mãi lúc luồng hương mê theo gió kình bay sát
mặt Tay Sắc mới tỏa rộng như chiếc lưới vô hình chụp xuống, lúc đó mới
phát ra một tiếng “bùng” như sấm nổ. Tây Sắc nghe thấy thì kình điện mê
hương đã đánh thốc vào mình.

Đòn công phối hợp này vừa có sức
mạnh sấm sét vừa có sức mê, đủ cương nhu, đúng là một đòn lợi hại phi
thường. Đánh ra, thấy Tây Sắc không động đậy, vẫn đứng chăm chú nghe.
Minh Thần đã mừng, sau khi phát lên một tiếng “bùng” dữ dội, Võ Minh
Thần còn thoáng thấy một vùng đỏ như hồng hoàng bốc tóc ra, cái bóng
vàng rực của Tây Sắc vật vờ bốc cao sau làn hồng hoàng mộng ảo.

Ngay lúc đó, chàng cảm rõ như có một sức phản chấn cực kỳ mạnh tợn từ chỗ
phát tiếng “bùng” dội, quật thẳng vào thân thể, nóng rực cả lần giáp
trụ, ngấm vào tận tạng phủ, nhanh như bị sét đánh, hai mắt tóe hào
quang, tai nghe tiếng “bùng” muốn vỡ màng tai…

Và thân hình
bắn tung về phía sau, chân bốc lên khỏi nền nhà, lưng đạp vào tường đá
đến “huỵch” như trời giáng! Rồi kéo sệt lưng trên mặt tường, hai chân
đụng nền nhà, chàng có cảm giác như sắp sụm gập xuống thành một khối
thịt mềm, trong một thoáng nhanh như điện chớp, chàng trai vụt cam thấy
mình vừa lãnh đủ ngón đòn chính mình đánh ra, vì thoáng thấy mùi thơm
quen thuộc tạt thốc vào, phảng phất như có cả mùi máu tanh!

Tuy
vậy, không sụm, cũng không ngất, chàng chỉ lảo đảo một, hai bước, rồi
hãm lại được, nhờ tiềm lực “vẫn dào” trong tạng phủ, mới đánh ra hết bảy phần mười, theo kinh nghiệm chiến đấu của con nhà võ chân truyền, số ba phần mười tiềm lực lưu lại đó cốt để đề phòng đòn địch bất ngờ quật
đánh ngay khi mình vừa ra đòn! Nếu không rất dễ gục, chẳng khác một võ
sĩ vận hết sức vào cánh tay đấm ra tận lực, nếu không trúng lại bị địch
“trả lễ” ngay trúng nhẹ cũng “ao” liền!

Thất kinh, Võ Minh Thần
vội đổi vị trí, đồng thời vận sức điều giải, hít một hơi mạnh, lồng ngực vẫn nóng ran, mắt hoa mũi ngửi vẫn tanh mùi máu. Bàng hoàng, chàng vội
thò tay vào ngực áo, bỗng giật mình thấy áo nóng rực như vừa hơ lửa, thò tay vào túi trong lấy linh đơn, tay hơi run thọc mạnh, thủng luôn túi,
kinh dị chàng đưa mấy ngón tay vo thử. Lạ thay, chỗ vải đó nát vụn như
miếng vải bị hun lửa sắp thành than!

Càng sửng sốt, Võ móc vội được hai viên linh đơn, bỏ luôn vào
miệng nuốt nghiến, tiện tay cầm vạt áo giật nhẹ cái, vạt áo đứt phựt
ngay một mảng bằng hai bàn tay, xoa hai tay vò thử mảng vạt nát nhừ như
tro bột.

Cả kinh, Võ thả nắm “bít vải” lả tả rơi như cát bụi,
vội đưa tay sờ thử lần giáp trụ, mới hay giáp trụ nóng muốn như sắp mềm
chảy ra.

Sờ quá vào trong, đụng lần áo có da con Mạc thú may
đính vào, càng lạ, thấy như thường, khác hẳn óc chàng tưởng. Vì năm nọ,
lên biên thùy Trung Khánh phủ, chàng hạ con “Mạc” theo lối Ngụy Thù nước Tấn đã bóp cổ đến tắt thở, vì con “Mạc” thọ kim khí dưới đất mà sinh
ra, ăn đồng sắt như bùn, giáo đâm không thủng, và chàng đã theo phép
Triệu Thôi bảo quân Sở lấy hỏa đốt, quả nhiên con “Mạc” mềm nhũn, nhờ
thế mới lột được da. Cũng bởi Mạc thú là kim khí kết tinh, kim kỵ hỏa.

Nhưng đây sao gặp sức nóng như lửa hun, muốn mềm giáp sắt sao mảnh da con Mạc lại không hề hấn gì? Ngược lại, chàng còn có cảm tưởng chính mảnh da
Mạc thú đã che chở cho lồng ngực và hóa giải nhiều sức nóng, vì từ lần
áo có da Mạc thú vào áo lót trong vẫn như thường.

Nếu không có
lẽ chàng đã nguy rồi. Bỗng Minh Thần sực nhớ đến lần bị luồng vuốt kình
Giao Long móc thủng giáp vào tận lưng, suýt tán mạng. Nếu sau đó không
được cha con Chúa Pi A Ya triệu Thánh Y Mai Hoa Thương Hải Thượng Lãn
Ông tái thế cứu chữa, Lãn Ông suýt bó tay, nếu không tình cờ có da xương Mạc thú làm vị thuốc. Và theo lời Lãn Ông xương da con Mạc thú là hợp
thế ngũ hành nên đây đã chống lại sức hỏa kình chăng?

Không ngờ
gì nữa! Chính ta đã bị đòn kình ta dội lại. Kẻ khác có lẽ đã cháy nám
đen rồi. Tại sao đánh ta lại dội về? Quái gở! Hay Tây Sắc có phép quỷ
làm “gậy ông đập lưng ông”? Nếu quả thế, mạng ta nguy rồi, vì còn dùng
cách nào đánh nó được? Nhưng nó đâu?

Võ trừng mắt còn hoa dòm
vào khu giường thất bảo. Năm ngọn đèn Phù Dung tắt phụt, Tĩnh Viện vẫn
sang mờ như có ánh đèn từ đâu hắt tới giữa vùng ánh sáng mờ, làn đỏ hồng hoàng vẫn chăng trước giường thất bảo, nhưng chẳng thấy bóng Tây Sắc
đâu nữa.

Bỗng làn ánh sáng mờ cũng tắt nốt, Tĩnh Viện chìm vụt
trong bóng tối. Lúc này, Võ Minh Thần cảm thấy như trong mình đã hao
nhiều điện lực, nhưng tâm thần vẫn tỉnh táo như thường. Lẹ như chớp,
chàng trai biết phút nguy hiểm đã kề, lập tức vận luôn khí hàn tiết
sương mù ẩn thân, tay lần ống khói bấm nút, xì ra mù nhân tạo. Nháy mắt
chàng đã lẫn giữa sa mù, và ngồi thụp xuống nghe ngóng.

Im lìm đến rợn người. Chàng thò hẳn đầu ra ngoài làn sa mù, vận
nhãn tuyến dòm về phía giường thất bảo nhưng tối om. Nhớ trong mình có
mang hỏa pháo, chàng moi ra dộng “bóp” xuống nền đá, cục sáng lòa bắn
vọt chếch lại giường. Ánh sáng vừa lóe lên, bay vút vài sải, soi loáng
làn đo đỏ. Từ trong làn đỏ, rõ ràng có một cái mõm sói vươn ra táp
nghiến ngay cục sáng, tắt phụt.

Nó đứng sau làn khói đỏ! Trời!
Nó không hề gì! Nhưng sao nó không ra đòn? À! Nó xuất làn huyết khí.
Nhanh như chớp, Võ thả vụt ra một ngọn phi đao.

Nghe “Chát” một
tiếng, phi đao bắn “reng” lên trần. Võ giật mình, thụt vội, vừa toan vỗ
báng súng bỗng nghe trong bong tối có tiếng Ma Vương âm vang:


Muộn rồi! Giờ không đứa nào chạm nổi Chúa Sài Lang! Bản lãnh mi cao
cường, đánh được cả đòn Khẩu Phong Lôi, Mê Hồn Công… Hà Hà! Mi đánh
bao nhiêu, mi chịu bấy nhiêu, mi quên nguồn gốc Ma Vương Sắc. Ma Vương
đâu phải xác phàm? Gươm đao súng đạn sao chạm nổi Ma Vương? Hà hà! Không đủ ba đầu sáu tay mi dám vào A Phòng? Đứa nào lọt xuống đây, không có
đường lên cõi thế. Dưới đây là cõi âm hồn.

Minh Thần vừa hét
“Tây Sắc tinh! Ta có điều hỏi mi” bỗng cảm thấy dưới chân hơi động đậy
nhẹ, chàng có cảm giác rõ rệt nền đá đang “trôi” như ngồi trên một vật
phiêu bay. Chột dạ, Minh Thần vội lùi sát vách, xòe tay áp dính vao ngực bụng như ăn muối. Nhưng vừa co chân lên, lại có cảm giác cả tường cũng
“trôi”. Minh Thần đang đảo óc tính kế, bỗng “sịch”! Cả căn buồng đảo lộn dốc ngược đầu xuống, hình như quay, chuyển dịch. Vụt cái, cả bức tường
chàng đang đứng bất chợt chạy vút đâu mất như giáng tay ra. Võ thất kinh thấy mình rơi vút xuống khoảng không hệt kẻ rơi vào cõi “vô vi” làm
ruột gan đảo lộn hẳn.

Đầu óc kinh mang khó tả, chàng trai có cảm giác kỳ dị như đang rớt vào một cõi phi phàm không còn trọng lượng nữa.

Nhưng chỉ mươi giây, bỗng từ đâu, ánh sáng huyền ảo ùa vào nhãn quang, chàng
thấy rõ cả làn khói trắng đục bao quanh mình, lúc đó đầu chàng thò hẳn
ra, vì quay đảo, khói mù cũng tan mỏng, Võ thấy đang rớt giữa khoảng
không loang loáng, nằm ngang, ngả dọc lộn bậy hoa cả mắt.

Bỗng
cảm thấy chân dậm phải vật lùng nhùng như tấm lưới, chưa kịp cúi nhìn kỹ đã bị hất tung đi như trái banh bị vợt hất “tiu” vậy. Hình như hất lên, Võ xốn xang gan ruột, vội đề khí, như bị chạm vào một vật lùng nhùng,
lần này chạm đầu, chưa kịp hoành thân, lại bị hất bắn đi nữa. Lần này
hất xuống.

Rồi cứ thế, Võ bị hất tung loạn bậy như xóc giỏ cua, banh tung
lưới, hết sức quái gở. Mở mắt, Võ thoáng thấy màu sắc thay đổi lung
tung, cũng như các đường nét kỷ hà kỳ lạ luôn luôn hiện ra, theo kịp
thân hình bị xóc.

Võ tung tay chụp được màng lưới, bíu chặt,
nhưng có lẽ bị một bộ máy trục, hay bị sức chi đó, màng lưới hất đi cực
mạnh, đứt phựt, hất phăng đi, mang theo cả nắm lưới đứt.

Vừa chạm phải màng lưới nữa, màng lưới rút biến đâu. Võ rớt phịch xuống. Ánh mờ vụt biến theo, Võ định thần, đầu óc kinh mang.

Vì… chàng đang đứng trong một căn phòng rộng, hay một căn hầm tối, lập lòe
đầy ánh lân tinh xanh lè, tứ bề gió gào mưa hú sương khói mịt mù, khí
lạnh thấu xương… đúng là nơi trùng trùng âm khí, không chút dương khí. Võ bình sinh là tay lỳ có hạng, vậy mà chợt sa vào vòng âm khí lạnh
buốt này cũng phát ớn. Lại sợ bị phóng gươm đao súng đạn, độc khí tà
yêu, chàng vội vận công, đặt luôn giáp kẹp cuộn tròn, tức thời di động.
Bỗng từ đâu có tiếng âm âm nổi lên:

– Mặt sắt! Ma Vương đã có
lời nguyền “Kẻ nào lẻn vào A Phòng, sẽ cháy thành than!” Tám hướng thành đồng vách đá, lửa Ma Vương đốt mi! Mi tài cán chi ra khỏi vòng lửa?

Rúng động tâm thần, Võ nhìn quanh, chỉ thấy vách dựng thành, biết mình lâm nguy, chàng vẫn không nao núng, phát cười lớn:

– Cứ phun lửa đi! Thử xem lửa có đốt cháy được vòng càn khôn trong mình ta không?

Chàng cốt đánh vào trí khôn sói tinh, vì biết nó vẫn thèm vòng càn khôn, quả nhiên đã nghe tiếng âm trầm.

– Mi thành tro, vòng càn khôn mất vì mi sao! Mi sẽ chết trong gươm đao băm vằm mi!

Võ sùng quát:

– Tây Sắc! Ta cần hỏi mi điều quan hệ! Chuyện đã chon vùi dưới lớp bụi
thời gian… Mười bảy, mười tám năm rồi, ta muốn hỏi… Mi còn nhớ
chuyện hấp sát trên biên thùy Thủy Khánh phủ xưa… Một người đàn bà bị
con tinh sói có lông bờm vàng hấp sát cực kỳ dã man, dưới gốc cây tùng!
Nàng là ai?

Vừa nói tới đó, bỗng nghe Ma Vương rít lên cực kỳ giận dữ, như vừa nói vừa gặm từng lời:

– Thằng khốn kiếp! Mi dám đem chuyện đó nói với Chúa Ma Vương sao?Biên
thùy Trùng Khánh… gốc tùng… Hà há u hù hú…! Biên thùy phân mao, hoàng hôn đỏ úa, con mụ đó, con đàn bá khốn nạn dám nhục mạ Chúa Sài
Lang.

– Hà hà! Mười tám năm… Không, không! Mới chiều qua! Nàng đứng dưới gốc tùng, ngực nàng trắng ngà, cặp nhũ đanh, đùi búp hoa,
lưng ong thắt đáy, tóc sổ tung lồng lộng trong ánh hoàng hôn đỏ khé…
Nàng… nàng… Con đàn bà khốn nạn! Hà há! Sao nàng lại thế? Tên khốn
kiếp! Mi sao biết nó? Mới chiều qua… nàng… Gươm đao băm vằm mi!

Ma vương rú cười như mê sảng bất thần nghe “xoảng xoảng”, sịch sịch bốn
phương tám hướng gươm đạo tên sắt, giáo sắt phóng ra loang loáng nhắm cả vào làn khói mù sàn sạt hàng trăm mũi một.

Giật mình, Minh Thần vội thu mình vào hai vành khiên như con sò. Chát chát! Gươm đao đâm
chém vào khiên như mưa rào mạnh hết sức. Nhưng nghệ thuật vành khiên của Võ đã tới mức cao, bao nhiêu mũi nhọn to nhỏ đều rớt xuống như lông
nhím. Mấy phút, gươm đao, tên, lao, giáo mác đã rớt vung vãi đầy hầm.
Bỗng nghe “xoảng” tiếng bao nhiêu khí giới bắn cả vào chân vách, mất
biến như có bàn tay khổng lồ quơ một mẻ. Tiếng âm u nổi dậy:

– Ma vương đã có lời nguyền: Đứa nào nói chuyện Trùng Khánh phủ, bị âm hồn đòi mạng! Nó hớp hồn mi! Treo cổ lên xà!

Lời dứt bỗng tiếng gió gào mưa nổi lên dữ hơn, “kịch” vách bỗng mở ra một
cái tò vò từ trong, một lũ xương ma lêu nghêu khật khưỡng trôi ra, trắng hếu từng chiếc xương ống quai xanh, sọ tròn mắt sâu hoắm lập lòe như
hai con đom đóm, mỗi bộ xương cầm một thứ, đứa cầm búa cào, đứa lưỡi
liềm… vvv xúm tới chỗ Minh Thần kêu khóc coi phát ghê.

Lúc này trong hầm vụt tối om! Nhưng ánh sáng lân tinh từ những hố mắt xương ma
chiếu ra soi mờ mờ cảnh trí, giữa vùng sáng tối nham nhở hình thù xương
ma trắng hếu khật khưỡng lêu nghêu giơ cánh tay ống sậy xúm lại, níu áo
chàng trai như “đòi nợ tiền kiếp” coi thật gớm ghiếc. Thêm vào đó, lại
còn tiếng mưa gào gió hu âm khí nặng nề, từ trong hố miệng xương ma phát ra những tiếng kêu rú, than van, cười sặc sụa, khóc lóc tỉ tê, tiếng
nghe phi thú phi nhân, phi yêu phi quỷ, tất cả các thứ phi phàm huyễn
hoặc đó đè nặng xuống tâm hồn chàng, gây cảm giác gai gai ớn lạnh. Không phải hoàn toàn vì những xương mà, mà phần lớn vì “Bát Quái Biến Hóa U
Minh Âm hồn trận” nói chung!

Võ Minh Thần biết mình đã sa vào một “bộ máy tinh vi, hóc hiểm,
vô cùng lợi hại” của con tinh. Không phải do phép thần thông nào cả,
theo Võ đoán là do bộ óc cực kỳ tinh không mẫn nhuệ của nó chế ra, vận
dụng cả sức mạnh máy móc hữu hình, tuy bề ngoài mang bộ áo phi phàm quái đản, và Võ hoàn toàn mù tịt trước trận thế bất ngờ bị sa vào.

Điều nguy hiểm nữa là thế trận nó luôn biến hóa, lẫn lộn cả khoa học hữu
hình, vô hình và đòn đánh ra rất nhanh, không cho Võ kịp thời suy đoán,
ứng phó.

Cuộn mình trong chiếc áo khiên dày, Võ Minh Thần dụng
thuật khinh phù, luôn di động. Nhờ đã chung đụng quen với ma xó, ma gà,
hồn âm, tư chất lại thông minh, vừa nhác thấy lũ xương ma mò ra, chàng
trai lóe ngay ý nghĩ:

– Dẫu mơ hồ, nhưng vẫn có tiếng sình sịch
chuyển động đâu đây! Cả nền hầm này xem chừng động đậy, chắc nằm trên
một bộ máy chi đây! Tây Sắc tinh dùng chất nhiên liệu nào để “chạy máy”?

À! Vùng thượng nguồn Hắc giang này chính sông Đà lắm thác lũ,
vụng xoáy, nếu vậy Tây Sắc tinh đã dùng “thủy điện lực” làm nguồn năng
lượng chính. Tại các thượng nguồn sông, thổ dẫn thường vẫn dùng sức nước vào việc trồng cấy, dùng nước đóng gạc, xay lúa, máy tát nước vào ruộng vv…

Con tinh linh mẫn này chế thành thủy điện cho máy chạy
yểm tang, như vừa rồi, nó cho chuyển năng Tĩnh Viện, hắt ta xuống lưới,
tung dần xuống đây, đều do cái máy chuyển dịch.

Thói thường về
âm binh, ma xó bao giờ âm hồn của pháp sư “nuôi” hoặc để nguyên xác ướp
còn da thịt, hoặc chỉ là cái bóng vô hình ẩn hiện, đâu có mấy trường hợp âm hồn di động cả xương khô. Chắc đây chỉ là hình xương vô hon, hay
bằng kim loại chi đây. Nếu ta dùng “ấn quyết” tất bị nó đoạt thời khắc
áp lại!

Nghĩ thế, nên Võ Minh Thần vận dụng điện kình, quật thử
một nhát phản phong vào ba, bốn bộ xương đang lướt tới. Bùng! Chát! Cả
máy bộ xương bị đánh bắn tung vào vách, nằm song xoài, có bộ bẹp dúm nằm im.

Nhưng từ mấy phía, lũ kia đã ào ào kéo lại vây quanh mình.
Võ Minh Thần ghé mắt dòm qua lỗ kiến, chàng trai chợt nhận thấy lũ xương người này cử động không giống nhau, Minh Thần chợt sực hiểu lũ xương ma này chia mấy loại, chàng lập tức vừa vung phản phong vừa ra mê công vừa đánh hỏa kình, tùy theo từng loại, quả nhiên sau mấy phút “vanh khiên”
chàng đã hạ gần hết lu xương ma nằm ngổn ngang đầy căn hầm tối, mắt lân
tinh vẫn sáng lập lòe, đúng mắt phát dạ quang.

Còn chừng năm, sáu bộ nữa, Võ chưa kịp “dọn” nốt, chúng rùng
rùng bỏ chạy, ào một luồng gió dữ, xương ma bị quét sạch, có tiếng khan
âm vọng ra:

– Mặt sắt giỏi! Trận Âm hồn biến hóa còn nhiều, nếu mi phá nổi, Ma vương sẽ tha chết cho.

Minh Thần hét:

– Tây Sắc! Có giỏi chường mặt ra đấu chiến! Mi quái thú thành tinh hấp
sát tàn hại sinh linh, cũng sợ ta hay sao? Tây Sắc Hồng Cẩu Quẩy! Ta
muốn hỏi mi về vụ hấp sát người đàn bà Thái trắng trên biên thùy Trùng
Khánh.

– Tên khốn kiếp! Không được nói càn! Mặt trời to bằng cái mâm đồng nung, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ vùng phân mao… Ha hú! Càn khôn, càn không hựu càn khôn, càn khôn biến hóa! Ha há! Mười chín năm càn
khôn biến hóa thập sinh nhất tử? Hù ú u hù…

Tiếng con tinh từ
đâu vọng vào như trong cơn mê sảng. Võ Minh Thần ngạc hiên hét “Tây Sắc
đâu! Nghe ta hỏi, ta là…”. “Kịch!” Có tiếng đá phiến chuyển dịch, xế
phía hong Minh Thần bỗng hiện ra một khung cửa tò vò.

Sáng xanh
lè, từ trong tuôn ra hàng chục bóng người đen thui, lơ lửng giữa không
khí, tản mác khắp hầm, lòa xòa, kéo dài ngoắc, mặt hiện to dần, to bằng
cái thớt, đỏ như mặt trời, nhất loạt vồ lại bóp cổ Minh Thần.


Âm hồn! Đây chính lu ma trành bị con tinh ăn thịt, bắt hồn về làm nô lệ
đây! A xem ý con tinh chua tứ túc này định ra đòn từng cửa một để ta hao tốn chân khí cho nó dễ bề bắt sống! Tình thế ta giờ như cua nằm trong
giỏ, không thể kéo dài được.

Chàng tuổi trẻ hét lên một tiếng
đầy uy mãnh, cuốn lưỡi đọc chú, đưa tay bắt quyết, cắn chót lưỡi, thình
lình mở rộng cặp khiên, quát lên mấy tiếng, phun phì phì mấy cái! Tay
quyết Minh Thần cao lạ, vừa đánh ra bỗng nghe tiếng kêu rú thê lê đau
đớn, khác thường, âm phong âm khí đang kéo tới bỗng ào lùi xa hút,
thoáng trong vùng sáng tối nham nhở thấy bóng âm hồn lờ mờ nhân ảnh vụt
thu nhỏ lại, lao vào cửa tò vò biến sạch.

Kịch! Cửa tò vò đóng lại. Hầm tối om, bỗng nghe tiếng Ma vương cười rú:

– Hà hà! Cho mi vào “hồng thủy trận” coi mi trốn cách nào? Loài người chu kỳ một đã bị diệt vì “hồng thủy trận” nay mi có chết cũng là may mắn,
mi được nếm mùi tận thế. Hà hú!

Tiếng cười vang rền tiếp liền
hai tiếng “Đùng đùng”, tả hữu chợt mở ra hai cái cửa tò vò đỏ như máu,
rồi bất thần cả căn phòng bỗng rung chuyển vì những tràng sấm nổ ầm ầm,
chớp xẹt xẹt loằng ngoằng gió giật dữ dội.

Rồi giữa cảnh chớp lòe sấm động, gió cuồng mưa tuôn xối xả, nước từ hai khung cửa tò vò cuồn cuộn tuôn vào như hai dòng thác lũ. Trong
nháy mắt, căn hầm vụt thay đổi hẳn, coi thật khủng khiếp.

Bốn
mặt tám hướng thành vây kín, không khác bị ném vào lu nước, đậy chặt
lại. Vào trường hợp kẻ khác dẫu tay có thượng thừa cũng thấy rõ tử thần
đang kéo tới theo dòng thác, nhưng Võ Minh Thần lại khác hẳn.

Võ thoáng hoang mang mươi khắc đầu, khi chưa rõ “hồng thủy trận” Tây Sắc
Ma Vương ra sao, giờ chàng có thể yên lòng vững trí. Và chỉ suýt nữa,
chàng tuổi trẻ đã bật cười khanh khách khi thấy Ma vương tuôn nước định
dìm mình chết ngộp.

– A… Hồng thủy trận Ma vương tưởng chi
chứ. Dâng nước dìm chết đuối với ai, chứ với ta, đệ tử Xích Quỷ Liên
Hoàn Ngũ Đầu Nam, thủy trận bằng thừa. Cho mi dìm cả ngày đêm ta cũng
bất chấp.

Võ Minh Thần thu mình quan sát, lại sợ nó giở thêm
ngón gì nguy hại. Chàng trai vội “vanh” khiên qua cửa tò vò, dòm, miệng
vờ cười thất thanh:

– À! Tây Sắc tinh quả thâm độc đúng loài lang sói? Không dám đường đường giao chien, dùng nước lụt hại người!

Cửa tò vò, dòng thác lên cao dìm vào thấy sâu hút, chỉ sáng chừng vài chục bộ, bỗng nghe tiếng Ma vương cười ré:

– Nếm mùi hồng thủy trận đời tận thế là mi có phước lắm! Sao không chạy
đi? Võ mắng lớn, xẹt dọc ngang, chàng thừa hiểu cửa tò vò đầy cạm bẫy,
chẳng dại gì chui vào. Nước chảy cuồn cuộn, mưa tuôn ào ào, phút chốc đã ngập hầm, mực nước chỉ cách trần nửa gang.

Rồi chỉ trong nháy
mắt, mưa sa nước lụt đã tới sát mắt chàng trai, đầu đã đụng trần. Vẫn sợ Ma vương giở đòn độc tiếp, chàng phải cố vùng vẫy bơi lội, đợi cho nước dâng ngập hết căn hầm. Biết nó vẫn ẩn quanh, chàng vùng cất tiếng mắng
lớn.

– Tây Sắc khiếp nhược! Có giỏi ra đấu chiến với ta. Tiếng Ma vương cười ác độc:

– Đâu rồi, mi còn muốn gì nữa! Ta muốn xem mi giẫy chết trong “hồng thủy
trận”! Hà há! Mi chết như đời tận thế. Kẻ nào lẻn xuống A Phòng Cung đều phai chết! Chết!

Âm gai kéo dài sạo gợn ầm ầm sấm động chớp lòe, mưa sa nước
cuộn, tiếng cười Ma vương chưa dứt, mực nước đã đụng trần dìm trọn chàng trai dưới hầm thủy trận.

Như cá gap nước, Võ Minh Thần lập tức
xếp khiên đeo sau lưng, bắt đầu cuộc thám sát. Đưa tay ấn thử trần, trần rắn như vách núi, Võ Minh Thần lặn xuống đáy hầm, dò thử mấu chốt cơ
quan, nhưng bốn bề vẫn như vách sắt, không lay chuyển nổi, vì đó là vách đá thật dày, trong có lẽ lần xi măng cốt sắt nữa, vô cùng kiên cố. Và
nhẵn thín, chẳng tìm thấy mấu chốt nào cả.

Quanh mình Võ Minh
Thần, nước vẫn chuyển động mạnh, như biển sóng ngầm. Nước đỏ như phù sa
sông Hồng mùa hạ. Mở mắt ra, chẳng thấy chi cả. Sợ có thuốc độc, chàng
phải vận khí bế chặt huyệt đạo.

Nhưng sau mấy phút thám sát, bỗng nhiên Võ Minh Thần rùng mình liền mấy cái, như bị hàn khí ngấm vào.

Ngạc nhiên, Minh Thần vội ngồi xếp bằng tròn, vận hỏa lực cho ấm người. Lạ
thay, chàng cảm rõ hơi thở không được chắc gọn như trước. Và rõ ràng,
chân lực càng lúc càng hao mòn hệt kẻ ngộ độc. Bất giác, Minh Thần nghĩ
nhanh:

– Hầm có khí độc? Hay nước đỏ này pha độc dược? Hay ảnh
hưởng đòn huyết khí hồi nãy trên Tĩnh Viện Mê Hồn? Bất biết thế nào ta
cũng nhiễm độc rồi. Không ngăn chống lại được, chắc ngất gục đến nơi.

Thử vung tay lao vụt mình, Võ Minh Thần càng kinh dị, thấy rõ sức đã giảm
khá mau, không còn mạnh mẽ như hồi mới lặn xuống Hắc Giang nữa.

Thoáng giây, chàng tuổi trẻ thấy ai oán cực kỳ, khi nhớ di hài mẹ vẫn đeo sau
lưng, mối thù chung thân chưa báo nổi mà gốc nguồn thân thế vẫn mịt mờ
chưa tìm được một tia sáng nhỏ. Chàng thấy hối hận vì không đánh phủ đầu ngay lúc con tinh đang nằm hút, nhưng ý hối đó chỉ thoáng qua, khi nhớ
đến đòn phủ đầu của thầy trò cô gái giả Mèo Tây Phi vừa qua.


Không còn nghi ngờ gì nữa! Cứ sau mỗi tuần trăng, con nước, tài nghệTây
Sắc Ma Vương lại gia tăng một bậc. Hình như nó luyện được bí pháp trong
vòng càn khôn thì phải?

Trong thien hạ, có ba cái vòng, tất nó
giữa được một hoặc hai, và đã đọc được thứ chữ tượng hình kỳ dị kia! Có
lẽ phải làm cách nào đọc được chữ đó mới chế ngự được Ma vương? Nhưng
nay, ta đã bị nó nhốt trong hầm nước, còn gì! Chân lực đang hao hụt…

Càng nghĩ càng bối rối, uất ức, Minh Thần phải trấn tĩnh tinh thần cho khí lực khỏi phát tán.

Giữa tiếng sông nước ầm ì như “sôi bụng” bất thần nghe tiếng ầm ầm giọng khách Quảng Đông bên tai:

– Thầy à? Sao thầy ngồi đây? Giật mình mừng rỡ, Võ Minh Thần che miệng, hỏi trong họng:

– Xó thấy đó ư? Thầy bị con tinh sói nhốt vào trận âm hồn, phá mấy cửa
rồi, nay đến hồng thuy trận, nó dâng nước dìm thầy. Tứ bề đóng kín, chân lực hao mòn, thầy đang điều dưỡng! Thầy trò cô gái đâu?

Tiếng âm ầm đúng giọng “Xó khách” rót vào tai Võ:

– Thầy à! Ngộ đưa hai người đó chạy ra phía ngoài rồi! Tới cung A Phòng,
ngộ quay lại tìm thầy. Nó thả “Trành sói” ra từng đàn, thầy nên chạy đi, sau sẽ liệu à! Cái cung này ghê gớm lắm!

Thở dài, Võ bảo “con xó trung thành”

– Nó dìm nước, trong thành đồng vách sắt chắc quá, pha không nổi! Thầy chưa biết tính sao đây?

Tiếng xó âm u:

– Để ngộ đi tìm mở cửa đưa thầy ra!

– Coi chừng “bùa khoán”! Im! Bên tai Võ chỉ còn tiếng “sôi bụng”, nhìn tứ bề, vẫn một màu đỏ phù sa, chẳng thấy vật nào. Võ cung mừng vì nước
đục, Ma vương càng khó kiểm soát được cử động bên trong. Khoảng năm
phút nữa, bỗng nghe bên tai có tiếng “xó khách” âm âm:

– Thầy à! Tìm được “Cửa sinh” rồi! Nhưng ngoài có hai con “Trành” canh,nó nấp
trong kẹt đá, thầy phải cẩn thận à! Để “xó” đưa thầy ra ngay!

Bỗng trước mặt Võ, hiện lên một ngọn đèn xanh mét bằng hạt đậu, chàng trai
bơi theo liền, bốn bề nước réo cuồn cuộn ầm ì âm ba quái gở. “Ngọn đèn
ma” dẫn Võ lướt vòng sang tay phải, chẳng rõ hướng nào, thoắt đã đụng
vách hầm

– Coi chừng “nó” thấy! Sao “xó” không tắt đèn xanh đi, hiện làm gì?

– Nhiều thứ chết người ngoài này, thầy phải theo sát, coi chừng đụng phải Có tiếng cửa nặng nề mở ra, tiếng nước chảy ập, Võ Minh Thần lao vụt
theo ngọn đèn như con các phóng, khoảng hai, ba cái nhoài, phía sau nghe cửa đóng lại nước dốc theo.

Võ ngoi lên, thấy mình đã đứng giữa một đường hầm tối thui, nước ngập tới bụng rút cuồn cuộn thoắt đã vào
hầm hết. Mới hay chỗ này ăn dốc lên.

– Đi mau lên thầy! Chớ đụng vách “Cửa sinh” ngoài kia! Khu này
vẫn nằm trong mấy cái khối vũng nước này, tới bàn chông, thấy phải đi
lên mũi nhọn à! Giẫm xuống dưới không được.

Ngọn đèn ma lừ lừ
trôi trong bóng tối. Võ vận khinh thân lướt theo, quả nhiên tới chỗ khô
đã đụng “bàn chông”. Chàng cúi xuống sờ thử mới hay đường hầm toàn giáo
nhọn đâm lên, cách nửa thước một.

Trong đêm tối, Võ phải dùng
chân khua từng mũi giáo tua tủa trước khi bước đi. Chẳng may lúc này
chân khí hao mòn, trong người lạnh lẽo, chân tay không được thuận như
trước, đi được vài thước, bất ngờ giày đế trượt mũi giáo, giẫm xuống nền hầm. Tuy chỉ khẽ đụng, nhưng bỗng thấy đường hầm rung chuyển, ầm ầm có
tiếng chiêng trống cồng đồng khua vang dội, vẳng có tiếng Ma vương hét
từ chỗ xa vào:

– À tên mặt sắt đã thoát ra ngoài trận. Đứa nào
mở cửa? Trành! Trành! Chặn cách ngả bắt nó! Chúa tới ngay! Nó thoát lối
“Cửa sinh”!

Tiếng Ma vương hét vang trong hầm, Võ Minh Thần nghe rõ mồn một không khác “nó” đứng ngay cạnh. Chàng trai vừa dò dẫm đi
thêm được, bỗng thấy đường hầm sáng rực lên một thứ ánh sáng đỏ khé như
máu pha, rồi thấy cả đường hầm chuyển động, rung rinh như muốn chạy chỗ
khác.

Thất kinh, Võ Minh Thần đảo mắt quan sát thấy rõ những
hàng giáo mọc ngược tua tủa từ dưới nền đâm lên, như lông nhím, nên chỗ
cao chỗ thấp không đều, chẳng rõ đường chông còn bao thước nữa.

Nhưng hầm đã bắt đầu chuyển sình sịch, bên tai có tiếng “Xó khách” giục “Mau
lên! Nó tới nơi!” Võ Minh Thần biết tình thế đã hết sức ngặt nghèo, chậm sẽ nguy, chàng vội vận tăng thuật khinh phù, lao vụt trên mũi giáo.

Ngọn đèn ma xanh mét vẫn trôi lơ lửng trước mặt. Khi Võ vượt thân được mấy
hàng giáo nhọn, bất ngờ thấy rõ các ngọn giáo dưới chân động đậy khác
thường, rồi rõ ràng hai bức tường thép lừ lừ ép lại. Chỉ mấy khắc, trước mặt chàng, đường hầm rộng hơn thước, thoáng chỉ còn một nửa. Mà hàng
giáo ngược vẫn còn mọc tua tủa chẳng biết bao nhiêu mới tới cửa.


Tình hình nguy ngập, Võ Minh Thần đang chạy lập tức dùng sức đạp nghiêng mũi giáo, hai tay giang rộng, đẩy mạnh vào hai bức tường vách, bắn vụt đi
như mũi tên lao.

Vút! Thân hình chàng lướt đi, dưới chân giáo
nhọn chạy lùi vùn vụt, nhưng rõ ràng trước mặt, đường hầm cứ thu hẹp lại mãi. Khi Võ vượt được hơn chục thước, chàng không khỏi thất kinh, nhận
ra đường hầm chỉ rộng hơn thân thể chàng chừng gang tay. Cảm giác lúc
này thật kinh mang, Võ quật mạnh hai bàn tay sờ vào vách lấy thêm sức
vọt.

Nhưng vừa lấn lướt đi, phía trước đường hầm đã thu lại vừa thân
thể, chàng vội xoay nghiêng người vụt cái, cảm rõ ngực lưng cọ xát vào
vách sắt, tưởng chừng như sẽ bị ép lại, vì sức nhảy vọt đã hết. Thân
hình dừng lại, rơi xuống nghe kịch, tiếng nặng bên tai. Võ chú mục nhìn
mới hay vách đã đã bị khép chặt lại, mất tiêu đường hầm sau lưng, và
chàng đã đứng trước một đường hầm khác nằm ngang trước mặt, rộng và cao
vút.

Hú vía! Võ thở phì, theo “đốm đèn ma” xoay mình, chạy vụt
về phía hữu. Được hai bước, sực nhớ lời “Khách xó”, chàng lập tức kìm
phắt lại, đánh vụt ra một đường “quyết” đầy uy lực, thốc vào vách đá.
Đánh xong mới kịp nhìn kỹ, bỗng nghe tiếng rú ma âm, từ trong kẹt đá,
một hình thù vừa bước ra, bị đánh bật vào hốc như hình nhân mộc. Võ tiến vụt qua. Trong hốc có đựng một cỗ quan tài bằng thủy tinh, xác “Trành”
ngã ngửa, mắt nhắm nghiền! Ánh sáng ngoài này vẫn màu máu khé, coi như
ánh hoàng hôn úa. Đang chạy, bỗng nghe rõ tiếng Ma vương tru hú sởn óc
vở phía sau, tiếp liền hàng trăm, hàng mấy trăm tiếng chó sói tề ưu nhọn hoắt khắp mấy phía. Nhưng nghe âm, hình như cũng còn xa chút. Trong cơn khẩn cấp, Vo Minh Thần nghĩ đến thù mẹ, và những người oan thác đã toan dừng lại đánh trận nữa, nhưng cảm thấy chân lực hao mòn hết mấy phần
mười rồi, chàng lại nhớ đến lời khuyên của chúa tể “Mười vạn núi”, nên
cố nén, bỏ ý liều mạng, cố dụng thuật khinh phù chạy theo “ngọn đèn ma
xó Khách” Lúc này mới hiểu sức vô hình linh mạng lạ thường. Ngọn đèn
xanh trôi vù vù còn lẹ hơn đom đóm bay trên gió. Minh Thần đuổi theo
không nổi. Rất may là trong khi dẫn thầy trò cô gái giả cha con Tây Phi
Lan, con xó khách này đã khám phá ra đường trận chuyển, nên không bị sa
vào cạm bẫy, cứ dễ Minh Thần chạy như gió. Quanh co, lên xuống qua nhiều đường hầm, phòng tối, thoắt Vo Minh Thần đã thấy đứng trước một vòm
tinh tạo trước mắt không thấy gì cả. Chàng định thần vươn cổ đảo mắt
quan sát, thấy mình đang đứng ngay đầu dãy hành lang trên cao độ ba mươi bộ, xế dưới là một khu bãi khá rộng mờ mờ có nhiều hoa cỏ. Bỗng nghe
tiếng âm bên tai:

– Ra khỏi Cung Mê Hồn, trận Âm Hồn của “nó” rồi! Thầy nhảy xuống mau!

Lời “xó Khách” vừa dứt, Minh Thần cũng nhận ra bóng điếu kiều thấp thoáng
vắt cao, bên kia bãi cỏ hoa kỳ lạ, không dám chậm, chàng cất mình nhảy
vèo xuống ngay.

Chạy băng ngang bãi, được mười thước dòm lại, nhận thấy ngay
khung cửa tò vò phía sau hồi nãy chàng đột nhập. Nhưng khi Võ vọt được
lên điếu kiều, đã nghe tiếng Ma vương hét nhọn hoắt:

– Hồng Cẩu
Quẩy! Chớ để nó thoát! Nó chạy lên điếu kiều? Tiếp theo từng tràng tru
sởn óc, từ ngoài Mê Cung, vụt hiện ra hình thù đỏ khé, cao lớn dị
thường, hình con sài kíu Chúa. Võ Minh Thần đã được chứng kiến sức lợi
hại dị thường của vầng huyết khi sực thấy Ma vương xuất hiện với bộ
“Huyết giáp” chàng thêm rung động tâm thần, nhận ra vầng huyết khí lúc
này có điểm khác. Hồi “nó” phá “Bát Quái Mê Hồn trận” Pi A Ya, vầng
huyết khí dày, đặc sệt đỏ đậm trùm hết thân xác “nó”. Giờ vầng khí đó
trong hơn, màu nhạt hơn. Đứng xa có cảm tưởng như Ma vương đứng trong
một cái lò thủy tinh đỏ lờ vậy, trong thấy cả hình thù sài lang mờ mờ
bên trong, tuy chưa rõ hẳn nhưng cũng rõ hơn hồi “nó” phá trận Pi A Ya.
Trong tia chớp trong trí, Võ hiểu ngay sức tiến bộ phi phàm của “nó”
trong thời gian chàng đi học thuật, chàng tiến mot bước, nó lại luyện
vượt lên những hai bước, và có lẽ tới mức nào đó, vầng huyết khí kia sẽ
trong vắt tới mức vô hình vô ảnh, thường trực, và lúc đó, “nó” sẽ đạt
được một chuyện chỉ cực kỳ quan hệ trong cõi càn khon mà xưa nay chưa
mấy ai đạt được. Nhiều phần chắc chuyện bí mật đó xuất phát từ vòng càn
không kỳ diệu kia, mà chàng hiện giữ một những chưa đọc được thứ chữ
tượng hình quái gở trong ruột vòng. Ngay lúc đó, từ cửa to vò, chó sói
tuôn ra hàng đàn hàng lũ, phỉ như cơn lốc đáp xuống, hai con mắt đỏ khó
lập lòe sau làn huyết khí như hai ngọn đèn tinh. Nhanh như cắt, Võ Minh
Thần phóng vụt qua điếu kiều. Điếu kiều vắt qua dãy nhà “mỹ nữ đơi” chạy qua một hoa viên, nhưng khi Võ vừa tới giữa điếu kiều, đã khựng lại,
bối rối, vì thấy hàng chục mụ đàn bà mập xách súng, mang đao thương hầu
móc dẫn từng đàn sài kíu từ mấy ngả ào tới, dưới vườn hoa, trước đieu
kiều trên các mái thạch thất, chỗ nào cũng bị chặn kíu, mà sài kíu đông
như rươi, có lẽ từ trên A Phòng cung thấy động kéo tới. Đàn sói nhe nanh múa vuốt, lũ đàn bà mập Dạ xoa lăm lăm tay súng, chỉ chực thấy là nổ
liền, sau lưng lại Sài lang Chúa sói nữa, tình cảnh thật hiểm nghèo. Dòm sang bên, thấy có một đường đạo phụ chạy dưới tàn cây, Minh Thần vọt
luôn sang, làm đèn ma cũng trôi táp lại, tắt phụt.

Điếu kiều
chạy qua mái nhà, tới một khu khác. Sợ đứng cao bị lộ, Võ nhảy vèo xuống dưới. Đây là một khu vực tĩnh hết sức, hoa cỏ tốt tươi, lại có cả lạch nước róc rách. Minh Thần chạy trong cảnh mờ mờ như sáng trăng, vừa tới
trước một căn phòng có ánh sáng le lói, trông lên phía tả, đã thấy bóng
Ma vương huyết khí đứng sừng sững lố nhố đầy sài kíu, Dạ xoa vây quanh
đứng chật cả mấy khúc sàn đạo. Thấy Ma vương dòm xuống, chàng trai lách
luôn vào khung cửa khép hờ.

Trong cơn khẩn cấp, Võ Minh Thần chỉ kịp thoáng thấy khi nhà này xinh xắn lạ thường, dưới làn ánh sáng tinh
đạo, chỉ riêng gian này có ánh đèn le lói. Ngay khi lách vào, chàng đảo
mắt trong qua, thấy vắng lặng như tờ, ẩn sau khe cửa dòm lên điếu kiều
vẫn thấy bóng Ma vương thấp thoáng với đàn sài kíu. Bỗng nghe rõ tiếng
“nó” tru rống nhọn hoắt:

– Mặt sắt nấp đâu đây, chưa chạy được
xa. Đánh hơi tìm cho được. Xuống dưới coi. Nó lặn như cá, sục lạch. Nó
cũng có thể lẻn vào buồng vắng.

Minh Thần nghe rõ mồn một, lòng
đầy hồi hộp, vừa mừng vừa lo. Khắc trước thấy lạch nước chàng đã toan
nhảy xuống, nhưng sợ “nó” đoán ra, lại thôi, vào đây, cũng chẳng kín gì. Chàng đang bối rối, bỗng thấy đàn chó sói cùng mấy mụ Dạ xoa từ trên
điếu kiều phóng xuống.

Hoảng hốt, Võ Minh Thần quay nhìn vào, thấy phía trong có khung cửa có che bức rèm trúc, chàng phóng vụt ngay vào.

Nhưng vừa vén rèm lao mình vào, bỗng chàng trai giật nảy mình, kìm phắt lại,
vì suýt đụng phải một người đàn bà đang thoăn thoắt đi ra. Người này
cũng giật nảy mình, kêu ối đứng khựng lại.

Sợ nang la lên, Võ
Minh Thần xua tay nói nhỏ “Suỵt! Mỗ ẩn nhờ chút”, và nhanh như chớp,
chàng vươn tay chụp véo vào huyệt nàng ta.

Thủ pháp chàng hết
sức thần tốc, nào dè người đàn bà đã xoay vụt nửa vòng nhanh lạ thường
làm Võ vồ hụt. Hơi sửng sốt, Võ vừa toan thổi đòn Mê Hồn Công, bỗng thấy nàng xua tay, thỏ thẻ:

– Khoan! Chớ ngại! Thiếp không có lòng hại người đâu! Phải người trốn chạy?

Chẳng hiểu sao Võ Minh Thần nghe giọng nàng chợt thấy yên tâm khác thường. Chàng xẹt sang bên nói nhanh:

– Vâng! Ngu mỗ đang bị Chúa Sài lang đuổi bắt ngoài kia. Mong cô nương im.

Miệng nói, tai lắng nghe bên ngoài, mắt nhìn người đàn bà. Mãi khắc đó, chàng mới kịp nhận ra đó là một thiếu phụ, hay thiếu nữ không rõ vì nàng búi
tóc, đầu đính mảnh khăn vóc che rũ trước trán và mặt nàng co bịt một
mảnh nhung đen, mình khoác áo choàng tựa “Kimono” Nhật cũng bằng vóc đỏ, dáng hình thanh tú, yểu điệu đầy nét quý tộc, chân đi dép dừa quai nhung có
bông đỏ. Tuy bịt ngang mắt nhưng vẫn lộ sống mũi dọc dừa miệng tươi như
hoa nở, khi nói phô hai hàm răng như ngọc vụn, đặc biệt là từ giọng nói, cử chỉ dáng điệu đều toát lên vẻ cao quý trong sáng của gái đài trang,
tuyệt không lộ vẻ gì là điêu trác lẳng lơ, nguy hiểm.

Và mãi
khắc đó, Võ mới thoáng để ý thấy cái áo choàng chừng thắt vội, chừa nẹp
áo phía trên chưa che hết khuôn ngực ngà trắng như mỡ đọng mùa đông…
Hình như nàng vừa tắm, mùi xạ lan tiết ra còn thoảng lẫn cả mùi nước
thơm rễ “nhang bài”, hay kỳ hoa dị thảo chi đó.

Nữ lang ngó Minh Thần trong lốt mũ trụ giáp sắt, bỗng ánh mắt thoáng tối lại nét lo âu, nàng khẽ hỏi:

– Phải ông vừa đấu chiến với Sài lang Chúa? Hình như mới thoát “Hồng thủy trận âm hồn”? Bị đòn huyết khí?

Sửng sốt, Võ Minh Thần gật đầu. Bỗng nghe tiếng sói tru nhọn hoắt bên ngoài, lẫn tiếng chân người, thú chạy rầm rập. Minh Thần đột lòng, dáo dác ngó quanh, nữ lang liền điềm tĩnh khẽ bảo:

– Chớ ngại! Ông vào trong này mà nấp! Để mặc tôi liệu. Tần ngần, Võ khẽ hỏi:

– Bà… bà là ai? Bà là…

– Không quan hệ! Tôi giúp ông trốn tránh đủ rồi! Dứt lời, nàng quay phắt
ra, để mặc Võ đứng ngơ ngác bâng khuâng với trăm ngàn ý nghĩ vẩn vơ.

Nhưng bên ngoài, sói rầm rập đã ke gần, vẳng nghe có tiếng một mụ Dạ xoa sói the thé:

– Sục kỹ các nơi coi! Cung còn sáng đèn, để xem còn thức không? A! Kia rồi!

Giữa tiếng nhộn nhịp vẳng nghe có tiếng nữ lang cất lên thánh thót như tiếng suối đàn:

– Bọn người làm chi đó? Sao đêm hôm lại dẫn quân thú vào đây làm huyên náo thế?

Tiếng chân rầm rập, tiếng soi tru, người nói, bỗng im bặt rồi mơ hồ có tiếng
một mụ Dạ xoa vọng vào, nhỏ hẳn, nghe tiếng được tiếng chăng:

– Kính… nương nương… có… gian tế… phá cung… tới điếu kiều… lẩn mất… sợ nó lẻn trốn… đây… lệnh Chúa…

Im ngay khắc, nói chi không nghe rõ, sực lại nghe tiếng huyên
náo trở lại, hình như có cả tiếng Ma vương, từ xa cao vọng tới, và tiếng động như kéo vào phòng.

Giật mình, Võ Minh Thần không dám nấn ná, lập tức chạy vù lại trước tủ gương, mở vội cánh tủ, bước vào.

Bên trong treo đầy y phục nữ, mùi thơm thoang thoảng hăng hắc mùi da thịt
mỹ nhân khiến chàng trai vụt có cảm giác bàng hoàng khó tả. Đóng ập cửa
vào, chàng vén xiêm y, sờ soạng, loay hoay mấy khắc, kéo được lần gỗ
ghép trong, quả nhiên ngay vách tường, có một khung cửa bí mật. Không do dự, chàng chui luôn vào, kéo đáy tủ che kín lại.

Ngách buồng tối thui, Võ đưa tay sờ soạng thử xem rộng hẹp. Bỗng giật thót mình, chạm phải một người đứng sừng sững:

– Ai? Không tiếng đáp, Võ liền bẻ sáp bọc, lấy diêm đánh xòe ánh lửa lóe
lên, soi thấy một cô gái Thổ mặc phá lãnh thủy ba kim tuyến. Đúng hơn là một cái thây ma, nàng Thổ xinh đẹp mắt mở trừng trừng như một xác ướp. Võ lùi lại, vụt bấm cung toan bắt ấn. Bỗng có tiếng nữ âm âm sau lưng:

– Cái người đàn ông cứ trốn đó. Chủ cho vào, “xó” không vật mà? Võ bật
“à” đứng lùi sát vách căn buồng kín độ ba thước vuông. Thì ra đó là con
“xó” của nữ lang kia nuôi. Căn buồng như cách biệt hẳn, nhưng tai Võ vẫn nghe văng vẳng tiếng động bên ngoài, như tự xa lắm. Chừng mấy phút sau, bỗng nghe có tiếng chó “hộc hộc” bên ngoài vách, khắp mấy phía lẫn
tiếng cười nói âm âm, rồi tiếng huyên náo xa dần, bốn bề lại rơi vào im
lặng thẳm sâu. Mười phút rồi mười lăm phút nữa. Hình như chúng đã bỏ đi.

Đứng trong xó tối, cạnh “con xó cái” Võ Minh Thần nghĩ vẩn vơ
về tình cảnh mình, tủi nhục dâng lên tức cả lồng ngực, đầu óc muốn bửa
đôi.

– Mười bảy, mười tám năm luyện kỳ công dị thuật, cục kỳ vất vả, nhọc lòng nhọc sức, bao bậc thương cảm bao dung, nuôi dưỡng truyền
bí pháp! Vạn dặm đăng trình, lên non xuống nước, lặn lội canh khuya rừng vắng, động thẳm khe sâu, mưa phùn gió bấc, nắng lửa mua dầu… để cuối
cùng bị kẻ đại thù trấn nước, đả thương, phải chạy trốn nhờ cửa đàn bà
trong cung quái. Mười bảy mười tam năm di hài mẫu thân oan thác nằm
trong quan lạnh, đợi rửa nhục hờn, giọt máu còn sót lại diệt cừu báo
oán, để cuối cùng thi hài vẫn chưa được siêu sinh. Đến nguồn gốc vẫn mịt mù, chưa tìm nổi một tia ánh sáng…

Mẹ ơi! Xin tha tội cho con bất tài không rửa nổi đại thù chung
thân. Lòng quặn đau, xót như muối xát, chàng tuổi trẻ uất ức muốn trào
máu họng, lảo đảo tựa vào vách. Lại nghĩ vẩn vơ về nữ chủ căn phòng,
chàng càng thêm khó hiểu. Nàng là ai? Nãy Dạ xoa gọi “nương”, có lẽ
“nương nương”? Sống ngay trong Cung A Phòng, lại ở khu riêng biệt gần
khu Tĩnh Viện Mê Hồn, nhất định nàng phải có liên hệ với Ma vương. Vợ
nó? Phi, Tây Hậu chăng? Mỹ nhân sủng ái chăng? Hay là nữ thượng khách
của Ma vương? Điều nào cũng có thể được. Nhưng vợ nhất là nàng phải thân với Sài Lang Chúa… Mà sao nàng lại cứu ta, kẻ tử thù đang bị Ma vương săn đuổi. Lạ thật? Điên đầu! Đang nghĩ loanh quanh, bỗng nghe có tiếng
gọi nhỏ ngoài tủ gương:

– Ông khách, ra được rồi!

Nhận ra giọng quen quen, Minh Thần mở luôn cửa tủ hai lần bước ra. Nữ lang đứng dưới ánh nến lung linh, nàng cười bảo:

– Giờ ông có thể ngồi nghỉ như thường. Chúng bỏ đi phương khác rồi. Mãi
lúc này, Võ Minh Thần mới hoàn toàn yên tâm, hiểu người đàn bà này cứu
mình thật, lòng cảm động, chàng trai bước lại trước mặt nàng, dùng tiếng Thổ khẽ nói:

– Cám ơn bà đã cứu giúp! Ngu mỗ thật mang ơn, biết lấy gì đền đáp! Nữ lang nhếch miệng cười buồn buồn, thỏ thẻ bảo:

– Giúp ông chỗ nấp là chuyện nhỏ nhặt đáng chi ông phải lưu tâm! Coi hình như ông không được mạnh, ông cứ ngồi nghỉ, tôi đi lấy nước.

Vừa nói nàng vừa trỏ ghế mời, nói xong bỏ đi luôn. Võ Minh Thần đưa mắt
nhìn kỹ căn buông xinh lịch, thấy có giường thất bảo, màn “tuyn” vắt,
nệm, gối, chăn đều bằng gấm Thượng Hải, ngoài các món đồ trang trí rất
lạ với những đường nét kỷ hà phảng phất vẻ phi phàm sát vách, xế đầu
giường có cái bàn nhỏ với hai cái ghế rất xinh, coi hình thể cũng lạ mắt hết sức.

Bâng khuâng, Võ lặng lẽ ngồi xuống ghế. Từ chăn màn
nệm gối tiết ra một mùi thơm kỳ dị, thoảng như mùi hoắc hương phả nhẹ
vào mũi chàng trai, gây cảm giác lâng lâng thanh thoát.

– Nàng
là ai lại ở giữa Cung A Phòng? Xem chừng nàng là người cũng bản lãnh,
đâu phải hạng liễu yếu đào tơ, lại chịu làm vợ sói tinh? Vợ chó sói?

Người đẹp cao quý, lại có từ tâm thế này lại phải làm vợ chó sói thật không sao tưởng tượng nổi? Hay khách khứa thân thích?

Chủ căn buồng này biết đâu chẳng phải là một trong số mấy Phi hậu của Ma Vương Tây Sắc?

Ý nghĩ này tự nhiên làm Võ Minh Than thấy xót xa, tức giận chuyện đời hết sức, bỗng cảm thương số phận người đã cứu mình, chàng buột miệng lẩm
bẩm:

– Hừ! Chắc bị yêu khí con tinh!

Vừa dứt câu, chợt thấy nàng vén rèm bước vào, tay bưng đèn cồn, khay trà. Đặt mọi thứ đâu đấy, nàng thỏ thẻ bảo Võ:

– Nhà có mấy gái hầu, tối nay chúng nó bận việc vắng cả, chỉ còn một đứa
ngủ mê man không tiện gọi. Để tôi nấu nước ông uống cho nóng.

Tuy yên tâm không sợ nữ lang đánh lừa nhưng Võ Minh Thần vẫn tưởng mình
ngồi trên đống lửa vì hiện vẫn trốn giữa khu cung động Chúa Ma vương mãi dưới A Phòng, mà Ma vương tinh sói lại vô cùng minh mẫn, bất thần có
thể ập vào. Chàng khẽ lên tiếng:

– Chỗ nay ngay cạnh Mê Hồn Cung, Âm Hồn Trận lại trống trải… Không đợi chàng nói hết câu, nữ lang dịu dàng nói luôn:

– Ông cứ an lòng! Không đâu kín đáo chắc chắn bằng đây! Mặc chúng sục sạo, ông ngồi trong này có thể vững như đã lên mặt đất.

Đang bưng đèn, thắp lửa nấu nước, bỗng nàng ngẩng lên nhìn Võ chòng chọc,
hình như coi sắc diện, nhưng Võ đội mũ trụ che khuất mặt mũi, nàng ngó
xuống hai bàn tay Võ, và chợt hơi nhoài mình về đằng trước, đưa bàn tay
năm ngón búp măng sờ thử vạt áo Võ, đặt nhẹ một cái, bứt luôn một mảnh,
đem soi trước nến, vụt bảo:

– Nãy tôi đã đoán, giờ quả không
sai! Ông bị thọ thương rồi! Thương thế tưởng thường nhưng đã thấm vào
tạng phủ, nếu không có chất gì đặc biệt trong mình, có lẽ ông đã bị tại
chỗ rồi. Nhưng giờ thương thế này, chỉ trong vòng bảy ngày, chân khí sẽ
tiêu dần, rồi đến gân thịt, cuối cùng sẽ…

Nàng ngừng lại, mắt thoáng vẻ ái ngại, Võ Minh Thần rúng động tâm thần, vùng bật giọng:

– Sẽ thành cái túi da người! Phải bà định nói thế không? Nữ lang khẽ thở dài:

– Sao ông biết? Võ thở mạnh như muốn trút cả đau đớn tích lũy trong tâm:

– Vì mẹ tôi đã bị “nó” biến thành cái túi da người! Và hiện giờ…

Chàng định nói “hiện giờ tôi vẫn đeo di hài mẹ sau lưng” nhưng
nghĩ thế nào lại thôi. Dẫu sao cũng chẳng nên thổ lộ chuyện riêng với
người mới gặp, nhất lại là người đàn bà trong cung A Phòng. Nhưng theo
thói quen, tự nhiên cũng đưa tay ra sau lưng sờ, và bỗng nảy người, tim
đập thình thịch kinh hoảng vô cùng, vì mẹ gói trong bọc sáp đã rớt biến
đau mất, trong đó có cả di hài mẹ.

Như bị điện giật, chàng đứng
sổ lên quài tay sờ lưng ngoái nhìn quanh kêu “Trời” và chạy luôn lại mở
cánh tủ gương. Ngạc nhiên, nữ lang vùng hỏi:

– Chuyện chi đó… ông?

– Mất bọc hành trang! Tôi đeo sau lưng, giờ mới biết. Trong có đủ thứ quan hệ.

Nữ lang đứng phắt dậy, nhanh nhẹn mở tủ cho chàng vào buồng tối tìm lại,
nhưng chẳng thấy gì. Hoảng hốt, Võ chạy thốc ra phía ngoài, nữ lang lẹ
tay nắm lại.

– Khoan, ngoài đó trống! Để tôi ra coi giúp. Ông chớ nên ló mặt. Chúng còn lảng vảng khắp nơi.

Dứt lời nàng thoăn thoắt đi ra. Chừng nửa phút bỗng nghe có tiếng nàng reo
“a đây” rồi thấy nàng xách bọc hành trang vào, vút sau lưng nàng có đốm
sáng xanh lè như hạt đậu bóc trần.

– Lạ thật! Sao lại rớt ngay gầm bàn khuất ngay buồng ngoài. Suýt tôi không để ý!

Võ đỡ lấy mớ hành trang bọc sáp, ngỏ lời cám ơn. Mãi lúc đó mới sực nhớ
đến con “xó Khách” của mình vẫn lẩn quất quanh đây. Lòng mừng hết sức
lại sợ “xó” đánh nhau, chàng không tiện dấu, vội bảo:

– Có lẽ
huyết khí Ma vương bắn “đứt đầu quai sắt”, chạy rớt còn đó. Con “xó” của mỗ theo sau nhặt kịp, đem bỏ đấy. Xuống A Phòng, mỗ có đem theo một con xó tinh khôn, vốn trước thuộc Song Ma.

Nữ lang nhìn quanh, thấy đốm xanh đậu trên trần, nàng gật đầu bảo:

– À có lẽ nhờ nó ông mới thoát khỏi Hồng Thủy Trận? Nhưng ông nen bảo
“Xó” chớ ra khỏi phòng! Hiện giờ ngoài chó sói, Dạ xoa còn có cả đàn
“trành” đang sục sạo, nó sẽ thấy ngay! Xó Ma Khác, tôi có nghe tiếng
Song Ma, dẫu tài, cũng không chống nổi đàn “trành” dữ đâu. Chưa nói
quanh đây còn nhiều chỗ có “khoán”

Minh Thần lĩnh ý, truyền “Xó
Khách” ẩn luôn trong phòng. Phút chốc, nước sôi, nữ lang pha trà mời
chàng uống. Lại nhắc đến thương thế, đến Ma vương, nàng thỏ thẻ đáp:

– Bệnh thương này rất nguy, nhưng ông chớ ngại, tôi có thuốc!
Tuy không trị dứt được, nhưng thuốc có thể làm kìm hãm cho bệnh không
phát tác ngay. Và nếu chất độc không dữ quá, thuốc có thể làm phục hồi
khí lực, khỏi dần.

Nói đoạn nàng lấy ra một hộp linh đơn, đưa
chàng năm viên. Võ đỡ lấy, xem thấy đủ năm màu xanh, đỏ, trắng, tím,
vàng lấp lánh như tráng kim nhũ, bèn bỏ vào miệng, chiêu với nước trà.

Quả nhien chỉ uống xong tuần trà, Võ Minh Thần đã thấy trong mình hồi phục
nhiều phần, không thấy ớn lạnh như trước nữa. Võ ngỏ lời cám ơn, từ tốn
hỏi:

– Ngu mỗ mang ân bà cứu giúp, không thể không biết ân nhân! Xin bà làm ơn cho kẻ gặp nạn này được rõ bà là nhân vật nào trong Cung A Phòng? Nữ lang mỉm cười:

– Ông đừng gọi tôi bằng bà, nghe tổn thọ! Vì tôi chưa có gia đình! Ngạc nhiên, Võ nhướng mày:

– Sao? Bà chưa có gia đình? Bà còn là thiếu nữ? Thế bà là ai? Ngu mỗ tưởng bà là… người trong cung A Phòng?

Nữ lang lắc đầu, vẻ bâng khuâng, bỗng thở nhẹ bảo Võ:

– Thôi! Ông đừng bận tâm về tôi nữa! Chỉ biết tôi là kẻ rất không muốn
ông bỏ mạng dưới cung A Phòng, và tôi cũng rất khổ lòng trước hành động
của Ma vương Sắc!

Cảm kích vô cùng, Võ Minh Thần ngỏ lời cám ơn
người đàn bà trẻ. Nàng xua tay gạt đi, ngó Võ vẻ ngẫm nghĩ điều gì, đắn
đo mãi mới chép miệng bảo:

– Linh đơn ông vừa uống, có thể kìm hãm tất cả các chất độc khỏi phát tác nhưng không thể kéo dài quá góc tuần trăng.

Theo tôi biết, ngoài Tây Sắc Chúa Sài Lang trên cõi thế gian này chỉ có vị
Thánh Y Mai Hoa thung có thể trị nổi. Người đó được coi là Lãn Ông tái
thế! Nhưng rất khó tìm gặp vì ông ta hay đi.

Cả mừng Minh Thần nói luôn:

– Tưởng ai chứ Lãn Ông ngu mỗ có thể kiếm được. Vì chính vị đó đã cứu mỗ một lần khi bị nạn Giao Long.

Nghe chàng nói, nữ lang có vẻ mừng hết sức, nét mặt pha trộn lẫn u buồn. Nàng khẽ thở dài:

– Nếu vậy tình mạng ông đỡ nguy rồi. Nhưng sao ông hay chạm trán với… tinh Chúa thế?

Ngậm ngùi, Vo Minh Thần trầm giọng:

– Có lẽ do số kiếp!
Chuyện đó định mạng an bài, ngu mỗ thật vô tâm gặp phải! Còn ẵm ngửa đã
mang mối thù cốt nhục, ma vương sói hấp sát mẹ ngu mỗ, hối hận chung
thân đó, chẳng lẽ trượng phu cam sống lấy thân mình không báo? Còn Giao
Long tinh, là chuyện tình cờ ngu mỗ cứu người đồng cảnh ngộ.

Nữ
lang không nói nữa, nàng lặng lẽ rót trà vào chén Võ. Võ cầm uống tiếp,
bỗng lúc đó mới chợt để ý thấy bộ đồ tra này quen quen, hình như mới
thấy đâu, vì từ khay khảm, chén Tống, mấy cái chén trôn quýt, đĩa đựng
thảy đều mang nét vẻ quen mắt, nhất chiếc ấm pha trà thuộc loại Ngạc Phủ màu chu sa đỏ thẩm, thứ song ẩm, rất hiếm, thứ nhất Ngạc Phủ chu sa,
thứ nhì Thế Đức, thứ ba Bội Thần.

– À! Hình như bộ đồ trà này
coi giống bộ… cô gái con tù trưởng Thái trong “pháo đài rừng” trên
miệt Bắc ngạn Hắc Giang bữa qua thì phải? Cô nàng đó cũng đem ấm Ngạc
Phủ ra pha trà đãi mình, hay hai bộ khác chủ? Có lẽ! Vì đồ trà xưa nay
vẫn “Vào bộ” giống nhau là thường.

Vừa nghĩ tới đó, chợt Võ lại
sực nhận ra hương vị trà đang uống cũng giống hệt hương vị trà đã uống
trên “pháo đài rừng” kia. Chàng trai vùng chép chép miệng khen:

– Trà thơm ngon đậm thật! Thưa phải đây là thứ sơn trà trên ngon Pi A Ya! Nhoẻn cười, nữ lang thỏ thẻ:

– Sao ông biết? Vâng! Đúng trà núi mọc hoang trên ngọn Pi A Ya còn đam hơn thứ sơn trà trên Vũ Di Sơn.

Minh Thần ngó đăm đăm khuôn mặt nữ lang chậm rãi:

– Đây là lần thứ hai ngu mỗ được uống trà này. Lần trước mới đây, có một
cô nàng con gái một vị tù trưởng phía Bắc ngạn Hắc Giang dưới hạ nguồn
có cho mỗ uống qua. Cô nữ chúa trên đó cũng hao hao giống bà. Kể lạ
thật.

Vẻ điềm nhiên, nữ lang gật đầu:

– À ra thế! Tôi có biết cô nàng đó! Trà này chính cô nàng làm quà cho tôi tháng trước,
nhân dịp tôi vô tình lạc vào lãnh địa. Cô gái đó thật lịch thiệp, nói
tiếng Kinh rất thạo, võ nghệ cũng cao.

Minh Thần ngó nữ lang, lòng phân vân nghi hoặc, và chẳng biết là thứ mấy, Võ lại hỏi:

– Bà là ai? Xin cho biết! Điềm nhiên, nàng cười bảo:

– Tôi đã nói rồi thì phải? Là ai, tưởng ông chẳng cần biết, chỉ cần biết tôi là kẻ không có lòng hại ông là được rồi.

Minh Thần bị óc tò mò thôi thúc dữ, buột miệng:

– Ở Cung A Phòng sát Mê Hồn Cung hậu phòng Chúa Sài lang, phải là vợ

Ma vương?

Nữ lang thoáng cau mày liền, vẻ hơi giận, thở dài bảo:

– Ông đáp lại lòng thành thực của tôi bằng lời sỉ nhục đó sao? Cứ ai ở
Cung A Phòng đều phải là vợ Tây Sắc Chúa Sói ư? Không ngờ ông là bực
giang hồ lăn lộn mà còn chưa thông đạt chuyện đời! Tôi đã thưa với ông
là tôi… chưa có gia đình mà! Xin ông chớ gọi “bà”, hay hơn! Và chẳng
nên tìm biet thêm chi cho mệt. Ông bị Tây Sắc truy diệt, lỡ thọ thương,
ông vào đây nghỉ chân tránh nạn, uống trà với một người đàn bà giữa Cung A Phòng. Vậy chưa đủ sao?

Minh Thần lật đật ngỏ lời tạ lỗi, chàng buồn rầu bảo:

– Chẳng phải ngu mỗ có ý bất kính chi đâu! Nhưng quả thật ngu mỗ dồn dập
gặp quá nhiều chuyện lạ dưới A Phòng. Giữa chốn sói lang, mạng sống,
phẩm giá con người bị chôn vùi như trò chơi, tất cả hàng trăm hàng ngàn
mỹ nữ đeu thuộc quyền Ma vương, ai ngờ lại có một người ra tay cứu kẻ
lâm nạn Ma vương… Chính điều này làm ngu mỗ vô cùng kinh ngạc, nên mới lỡ lời. Dám xin… cô nương miễn trách!

Nữ lang thấy Võ có vẻ “khổ sở”, nàng vụt cười bảo:

– Thôi! Bỏ qua chuyện đó đi! Tôi cũng nói thế thôi, có giận ông đâu! Suốt đêm lận đận xông pha, lăn lộn, có lẽ ông vừa lạnh vừa đói rồi! Để tôi
kiếm đồ ăn cho ấm bụng! Xin ông cứ vững tâm, không ai vào đây nữa đâu!
Dầu lũ Dạ Xoa có dẫn chó sói lộn lại, xin cứ như thường, để tôi ra đóng
cửa.

Dứt lời, chẳng đợi chàng đáp, nàng bỏ ra liền, để mặc Võ ngồi thờ thẫn băn khoăn bên ngọn nến cháy vật vờ.

Bốn bề im vắng đến cùng. Cung A Phòng dưới đáy Hắc Giang biên thùy giờ này
càng như một thế giới khác hẳn với “cõi trần” trên kia, thế giới phi
phàm không tiếng động, gây cảm giác im lìm như ngồi trong “áo quan thổ
địa”! Tâm trạng Minh Thần đảo lộn hàng mớ ý nghĩ hỗn tạp, như biển sóng
ngầm.

Giờ phút này, chắc chắn Cung A Phòng các cửa hang ra vào
đều đóng chặt cạm bẫy quân gia, chó sói trành xó, chắc đã án đầy, họa
chăng có phép độn thổ như Đậu Nhất Hổ mới hòng thoát chui lên được. Nếu
không chỉ còn cách liều mạng thêm lần nữa, lộn đánh Tây Sắc, hoặc dùng
cường lực tung vây, mở đường lên mặt đất, và cả hai cách này đều gần như vô vọng khi
sói tinh đã biết, và chân lực càng đã hao mất mấy phần.

Đang
nghĩ loanh quanh bỗng nghe tiếng sài lang tru vọng âm nhọn mãi từ xa
lại, nghe đúng tiếng kêu hú của Sài lang Chúa, tiếp liền lại có tiếng
sói tru tứ bề, vang động một vùng hậu cung. Rồi như ào ào tấn tới, tiếng tru “chạy” lại cả khu điếu kiều xế trên cao, có tiếng Tây Sắc hét âm âm vang nhọn:

– Nó chưa ra thoát nổi cung A Phòng! Nó còn lẩn trốn quanh hậu cung Chúa. Tụi mi phải sục kiếm cho ra! Chúa sài lang vừa
ngửi thấy mùi thịt lạ, có lẽ nó nấp đâu đây! Nó có thuật ẩn thân, thấy
khóm sương mờ, cứ cho sói vồ! Dạ Xoa! Lên thả hết chó sói ra! Tụi bay
coi chừng tấc đá, nó dám chui xuống kẹt!

Tiếng đàn bà the thé dạ ran tứ bề, tiếp liền tiếng chó sói, tru vút, từ cao xuống thấp. Bất
thần nghe tiếng Ma vương thét chìm ngay ngoài cửa khu nhà chàng ẩn nấp:

– Có mùi thịt lạ quanh đây, thịt đàn ông! Chắc mùi thịt nó! Võ Minh Thần
nghe rõ mồn một, kinh sợ, muốn lặng người, sực nhớ mình có bôi thuốc giữ hơi người cho chó sói khỏi ngửi thấy, nhưng sau hồi ngụp lặn dưới Hồng
Thủy Trận, chất thuốc kia đã bị nước rửa sach, nên sói mới đánh thấy hơi người tiết ra. Không chút chậm trễ, chàng vội lục tìm trong sắc hành
trang, lấy lọ thuốc bôi quét khắp người. Chàng vừa bôi xong, bên ngoài
bỗng nghe tiếng Chúa Sài lang vùng hét:

– Hơi thịt người biến mất, chắc nó vừa trốn chui chỗ khác rồi. Theo chúa sài lang!

Tiếng chộn rộn rầm rập huyên náo xa mau, chắc chúng kéo đi sục phương khác.
Võ Minh Thần thở phào, quay nhìn ra đã thấy nữ lang bưng vào một mâm đầy sơn hào, trái cây, khói còn bốc nghi ngút.

Đặt mâm xuống bàn, nữ lang rót rượu tươi cười bảo:

– Đêm khuya, gái hầu vắng, nhà còn ít thức ăn, ông dùng tạm cho đỡ đói!
Rượu thuốc này cất chế đặc biệt uống vào mạnh thêm gân cốt, ông có thể
dùng cả bầu không chóng mặt nhức đầu.

Minh Thần liếc qua mâm,
thấy đến tám món sào sáo thơm phức, chàng ngỏ lời cám ơn, thỉnh nữ chủ
cùng ăn. Nàng nể lời cũng ngồi xuống tiếp. Chủ, khách đối ẩm thân mật.

Tuy tình cảnh Võ Minh Thần không khác người ngồi trên tổ kiến,
nhưng nhờ nữ lang ân cần chăm sóc, miệng hoa luôn nhoẻn cười, trò chuyện chàng cũng vơi đi rất nhiều bứt rứt, khắc khoải.

Nhất nàng ăn
nói rất có duyên, cử chỉ bặt thiệp, tuy tự nhiên mà vẫn nghiêm trang
chính đính, khiến Minh Thần càng thêm cảm mến. Nhân kỳ ngộ lại gặp cảnh
buồn thảm bại, chàng trai uống liên miên không từ chối ly nào. Nữ lang
tỏ ra tay uống rất hảo, nhưng nàng chỉ cạn một vài ly tiếp khách vậy
thôi.

Chủ khách vừa uống vừa đạm đạo loanh quanh toàn chuyện
“trên trời dưới đất” cầm, kỳ, thi, tửu, họa, võ không ai nhắc đến hiện
cảnh. Nữ lang chẳng hỏi thêm chi về việc riêng khách, còn Võ tuy trong
lòng đầy thắc mắc, vẫn phải cố nén, không đả động gì đến thân thế nữ
chủ. Chàng chỉ đoán lơ mơ là giữa nàng với Tây Sắc Ma Vương tất phải co
liên hệ nhiều ít, có lẽ lại là kẻ có địa vị lớn trong Cung A Phòng,
nhưng vì từ tâm, vì bản chất hiền lương, đã ngầm cứu chàng qua cơn hoạn
nạn. Và có lẽ nàng cũng khổ tâm không ít, chẳng qua vì cứu chàng mà
nghịch ý Ma vương, hay vì chuyện chi khác. Nhưng Võ thường bất thần bắt
gặp một hai tia mắt u ẩn hiện trong cặp mắt sáng đẹp long lanh như hai
vì sao huyền diệu.

Giây lát sau, cuộc rượu tàn, dư vị còn đượm
vị giác chàng tuổi trẻ giống hệt vị rượu chàng đã được uống cùng cô gái
con tù trưởng Thái trong “pháo đài rừng” hồi sớm.

– Pháo đài
rừng trên mặt đất kia và cung động bí mật A Phòng dưới đáy Hắc Giang
biên này có liên hệ với nhau không? Nếu lãnh địa kia không phải đất đai
Tây Sắc tinh, tất cũng phải quen nhau mật thiết. Vị tù trưởng Thái với
Tây Sắc là chỗ giao tình, nên mới không xâm phạm? Nếu không sao ở nổi
sát miền biên có cung động Ma vương? Lạ thật! Khó hieu thật! Không lẽ
giao du thân mật với loài tinh sói.

À! Nữ chủ đây chỉ có thể là
vợ của Ma vương, vợ chưa cưới chẳng hạn. Vì điều giao ước ràng buộc nào
đó! Vì mạng sống của thân nhân, phụ mẫu chẳng hạn, nàng phải thuận, cũng như “Bạc công chúa” dưới hồ Ba Bể bị Giao Long bắt sống, ép duyên, vì
mạng sống chồng, nàng cam thờ Giao Long tinh…

Nên nàng muốn giấu mình. Tốt hơn hết, mình chẳng nên nhắc tới, gây buồn tủi cho người đã cứu mạng mình.

Nghĩ ngược xuôi, quanh quẩn, Võ Minh Thần cố ngậm miệng, làm lơ, nhưng thâm
tâm vô cùng đau xót khi tưởng tượng một nữ lang xinh đẹp, thông minh
giàu tình cảm như nàng cũng phải khuất thân làm “vợ” chó sói và chan gối với “nó”

– Cẩu trệ! Trời ơi! Cẩu trệ hoành hành, võ lâm thiên hạ bó tay,
còn ta thì… bại nhục phải trốn vào chốn buồng the nhi nữ. Còn mặt mũi
nào trông thấy bậc ân sư!

Minh Thần buột miệng bật lời than uất
ức vừa lúc nữ lang bưng “phin” cà phê vào! Nàng khựng lại ngó Võ, ái
ngại khua sệt dép uyển chuyển, đặt “phin” trước mặt chàng cười bảo:

– Ăn xong, uống một ly cà phê cho tiêu, kể cũng phải. Người phương Tây đã giúp phương ta thói quen “kết thúc” bữa ăn bằng ly “Cà phê” quả chí
lắm! Ông dùng thử sẽ thấy chất “cà phê” này khác hẳn thứ thường bán
“dưới chợ”, vì là cà phê hoang trên Pi A Ya.

Minh Thần chế thêm
nước sôi, bỏ miếng đường uống thử. Quả nhiên nhấp một ngụm, đã thấy mùi
vị thơm ngon lạ, có lẽ còn hơn thứ cà phê Chúa “Mười vạn núi” thường nổi tiếng sành điệu đã cho chàng uống.

Nữ lang tự tay vấn một điếu thuốc lá “sừng bò” Mán, đưa Võ, thỏ thẻ bảo:

– Có lần nhàn rỗi, tôi đã hội mấy tay sành lại, phân tách thứ cà phê này. Cà phê này hái được trên ngọn Phi Mã Yên Sơn, hình như thuộc giống cà
phê đặc biệt nào đó bên Trung Đông Ả Rập, do chim chóc đem sang. Có lẽ
vì hạt giống ướp chất đặc biệt trong bụng chim, lại gặp thủy thổ cao sơn nên mới có chất ngon lạ vậy? Nhà chỉ còn một ít thỉnh thoảng có khách
mới pha.

Võ cạn nửa ly, lòng thêm nghi hoặc, sực nhớ tách cà phê trên “pháo đài rừng”, vụt bảo:

– Cà phê này tuyệt hảo! Lần thứ hai mỗ được dùng, lần trước cô gái chủ

“pháo đài rừng” có cho mỗ uống qua! Hai tách, cùng một vị.

Nữ lang mỉm cười hoi: “Thế sao?” Võ Minh Thần vụt nói khẽ:

– Suỵt! Hình như có tiếng chân đi ngoài kia! Nữ lang quay mặt bước ra
coi. Nhanh như chớp, xuất kỳ bất ý, Võ Minh Thần thò vụt tay xuất chảo
kình, nhón phăng quai mặt nạ giật phắt một cái. Quá bất ngờ, nữ lang
không kịp đề phòng, “phựt” quai vai đứt, nàng giật mình ngoảnh lại, Võ
Minh Thần đã kẹp tấm mặt nạ trên tay như bắt được con bướm đen phất phơ.

Nàng khựng lại, Võ sửng sốt vì dưới đèn vừa hiện ra một khuôn
mặt đẹp tuyệt trần của con gái tù trưởng Thái trên “pháo đài rừng” ban
sáng!

– Trời! Cô nương! Mỗ đã ngờ ngợ từ lúc nãy!

Thoáng giây sững sờ vì bị giật mất mặt nạ, nữ lang trở nên điềm tĩnh như thường, nàng mỉm cười, thánh thót:

– Tưởng ông không cần giật mặt nạ cũng đoán được rồi chứ? Ngay khi ông mới chạy vào tôi đã đoán ra quý khách pháo đài!

Bốn mắt nhìn nhau, Minh Thần bối rối, đầu óc đảo lộn nhiều ý nghĩ trái
ngược, ngờ vực ngổn ngang. Qua khắc sững sờ, chàng chợt hạ thấp giọng
lẩm bẩm:

– Chính cô nương… Thì ra chính cô nương. Tôi đã thua
Tinh Chúa ngay nước cờ thứ nhất. Tinh Sói đã biết rõ đêm nay có kẻ tìm
đến nó, trả thù huyết hận. Tây Sắc chỉ việc nằm trong Tĩnh Viện… đợi
con mồi.

Nghe Võ nói xong, nữ lang bỗng lùi lại, mặt chợt biến
sắc, đang hồng hào trở nên tái nhợt, chừng bị xúc động mạnh, nàng chợt
mở to mắt nhìn Minh Thần, rung giọng:

– Ông… ông có thể khinh
bỉ, nhục mạ tôi đến thế sao? Ông cho là tôi đã lẻn xuống báo tin cho Sài Lang Chúa biết để đón đánh ông? Trời… Tôi… Tôi đã xét lầm người
rồi. Tôi tưởng ông là bực trượng phu khoáng đạt, đủ sức thông cảm cả tâm sự kín của người ta… Tâm sự u uẩn của những kẻ sống trong nghịch
cảnh. Không ngờ… Thật không ngờ…

Như nghẹn họng, nàng im bặt gieo mình xuống giường thất bảo, nước mắt bỗng ứa ra như hai giọt sương mai lấp lánh. Võ Minh Thần ngơ ngác nhìn nàng, vẻ thành thực hiện rõ
trên khuôn mặt đẹp, Võ chợt thấy hối hận hết sức, chưa kịp nói chi thì
nàng đã thở dài tiếp:

– Vì lo ngai mạng ông, tôi mới xuống đây.
Thực ra tôi định xuống ngăn trở ông không để gặp Chúa Sài lang nhưng
không kịp. Hiện giờ khó có ai địch nổi Ma vương, nếu không khám phá được cả ba cái vòng càn khôn. Chỉ có ba vòng càn khôn mới có phép trị vầng
huyết khí vì Ma vương đã luyện theo “Càn khôn bí pháp”, cứ mỗi con
trăng, tài thuật lại tăng một bậc, không biết đâu mà lường.

Minh Thần khẽ thở dài. Chàng biết mình đã nghĩ bậy, vì nếu muốn, nàng đủ sức dùng cạm bẫy hại chàng trên “pháo đài rừng”, cần chi phải báo cho Ma
vương. Võ từ tốn:

– Xin cô nương đừng giận. Ngu mỗ xúc động nên
sảng trí nói bậy đó thôi. Thực lòng hết sức cảm ân cô nương, nếu cô
nương co ý chi khác, giờ phút này ngu mỗ đâu còn ngồi đây? Chẳng qua mỗ
quá ngạc nhiên về hành động của cô nương nên thốt lời ngu xuẩn, xin cô
nương bỏ qua cho. Cô nương hết lòng cứu mỗ mà lại chảy nước mắt vì mỗ.
Thật mỗ toi đáng chết không oan.

Nàng nghe, có vẻ nguôi lòng, nhưng vẫn ngồi yên. Minh Thần lại gần, buồn rầu bảo:

– Ngu mỗ lòng như lửa đốt, tâm thần không được bình tĩnh vì tham cảnh, nên thốt câu ngu muội. Nếu cô nương không tha thứ, ngu mỗ xin đi
ngay, không dám nương nhờ thêm phút nào!

Dứt lời, quơ “sắc” định đi, nữ lang hoảng hốt đứng sổ dậy, xua tay:

– Không, không! Tôi có giận trách ông đau! Giờ này chó sói vẫn sục sạo
quanh động, sao ra được. Thôi thôi! Ông đừng nghĩ ngợi nữa! Mà thật ông
không ngờ vực tôi chứ?

Vừa nói, nàng vừa rút khăn lau mắt, nhìn
Minh Thần, nhoẻn miệng cười tươi mơn mởn như hoa nở, làm chàng không
khỏi cười thầm về tính cách mau nước mắt của cô gái lạ, bề ngoài coi bặt thiệp, rắn rỏi, ai dè trong lại là gái đa cảm, dễ xúc động đến thế?

Hơi mỉm cười, Võ Minh Thần gật đầu, dịu dàng:

– Quả tình ngu mỗ không mảy may nghĩ bậy, ngu mỗ chỉ thắc mắc nghĩ muốn
điên đầu không sao đoán nổi cô nương là nhân vật chi trong cung A Phòng
này

Nữ lang cười, thỏ thẻ:

– Thì hình như tôi đã nói rồi mà! Tôi Nguyệt Kiều, họ Đèo! Lắc đầu, chàng trai nghiêm sắc mặt:

– Tên cũng chưa quan hệ bằng địa vị! Ngu mỗ rất muốn biết cô nương là…
gì dưới cung nhan sắc này? Không giải được điều thắc mắc này, có lẽ từ
đây ngu mỗ khó lòng ngủ yên nổi!

Nhướng cao mày liễu, nữ lang dịu hỏi:

– Điều đó có ăn nhập chi tới chuyện tối nay, mà ông phải quá lưu ý? Mà
tại sao ông lại chú ý thái quá vậy? Tưởng dưới Cung A Phong này có lẽ
cũng còn khá nhiều chuyện ông phải lưu tâm thắc mắc chứ?

Nghe nàng hỏi, Võ Minh Thần thoáng vẻ sững sờ, buột miệng:

– À… thực ra ngu mỗ không hiểu sao nữa! Có lẽ mỗ muốn hiểu rõ về…
thân thế người đã gia ân cứu mỗ! Nữ lang ngồi im, nhìn thoi nến cháy vật vờ:

Minh Thần ngó nàng, ánh sáng thấp thoáng trên mặt hoa tuyệt trần, phảng phất vẻ huyền bí lạ thường, trong cặp mắt phượng nhưng
biêng biếc sáng như hai vì sao trong đêm hè lộng gió. Không hiểu sao Võ
Minh Thần thấy mình gần gũi nàng hết sức, chẳng khác gần một tri kỷ, từ
đuôi mày, ánh mắt, vành môi, thân dáng, từng cử chỉ nhỏ, nàng gieo vào
linh hồn đơn côi của chàng một thứ chi ấm áp dị thường, như ánh lửa bập bùng sưởi ấm lòng
khách viễn hành cô độc giữa đêm dài giá lạnh.

Chợt nghe nàng khẽ thở dài, quay nhìn lại, bốn mắt chạm nhau, nàng thoáng đỏ mặt, mân mê
chiếc vòng đeo tay, chớp chớp hàng mi cong vút, hơi cui đầu, xoay tách
cà phê, giọng đượm buồn, thỏ thẻ:

– Tốt hơn hết, ông đừng lưu ý
làm chi. Tình cờ gặp nhau trong… cảnh nghịch, giúp nhau một vài điều
nhỏ nhặt, uống vài tách trà, nói dăm câu chuyện rồi mỗi người một ngả
như cá nước chim trời, gặp gỡ, chia tay bất định, chẳng hơn sao? Mây tan bèo hợp, cảnh tình đã thế, còn tìm biết hướng mây trôi bèo dạt làm gì
cho thêm buồn. Xin ông thể tình cho, đừng hỏi thêm gì nữa!

Vẻ
buồn mênh mông của cô gái kỳ dị làm Võ Minh Thần càng thêm thắc mắc, chỉ đoán lờ mờ là nàng hiện đang sống trong cảnh huống cực kỳ ngang trái,
không thể thổ lộ cùng ai. Chàng tuổi trẻ lớn lên trong cảnh đơn côi cô
độc, nên rất dễ thông cảm nỗi buồn u uẩn của người khác, nghe nàng nói,
bỗng sinh ngậm ngùi khôn xiết, thở dài bảo:

– Cô nương thứ lỗi
cho… Ngu mỗ thật vô tình đã khơi động tâm sự xót xa của cô nương. Ngu
mỗ vẫn tưởng trên đời này chỉ có ngu mỗ là kẻ bạc số nhất, không ngờ
dưới cung động thâm u này, còn có cô nương cũng mang nghiệt số chẳng vui gì. Thế mới biết cõi thế gian đúng là phiền não. Cô nương đã chẳng tiện thổ lộ gốc nguồn tâm sự, ngu mỗ đâu dám hỏi gạn làm khổ lòng cô nương.
Nhưng quả tình được biết người ân cũng trong cảnh trái ngang, ngu mỗ
thấy lòng chua xót chẳng an.

Nữ lang quay nhìn Minh Thần, cười héo hắt:

– Đời đã chịu nghịch cảnh không lối thoát, tại sao ta chẳng gác một bên,
tưởng mấy phút tình cờ gặp nhau cùng ngồi đối ẩm cũng đủ an ủi rồi, ta
còn mong gì hơn nữa.

Chàng trai kín đáo thở dài. Bên ngoài khu
hậu cung đã chìm vào im vắng mênh mông, không có tiếng động nào trong
lòng đất, ngoài tiếng nước chảy thao thiết ngoài lạch, hiu hiu hình như
có cả tiếng gió lùa đâu đây.

Thoáng tia quyết định, Võ Minh Thần đứng phắt lên, từ tốn:

– Mang ơn cô nương cứu nạn, lại cho ăn uống no nê! Giờ sức mỗ đã hồi, mỗ xin cáo biệt Ngạc nhiên, nữ lang Đèo Nguyệt Kiều nhướng cao mày, đứng
dậy theo:

– Sao? Ông định đi ngay bây giờ?

– Vâng! Ngu mỗ phải rời khỏi chốn này!

Lắc đầu, cô dịu dàng, khoát tay trỏ bao quát:

– Đi sao
được? Khắp cung dưới cung trên, giờ này, các đường lên xuống, ra vào đều bị đóng chặt. Sơn cẩu, trành, xó, Dạ xoa trấn kín, cơ quan, cạm bẫy đều giương sẵn, có cánh cũng không bay thoát. Ông ló mặt ra là bị lộ ngay.

Võ nói nhỏ:

– Cô nương yên tâm! Mỗ có thuật ẩn thân, tuy không dám ví như cỏ ẩn thân của Đông Phương Sóc, nhưng cũng đủ che mắt chúng!

Lắc đầu, cô gái dịu giọng thỏ thẻ:

– Phep đó cũng vô ích lúc này! Ông không nghe Chúa Sài lang truyền lệnh
cho thủ hạ sao? Phép sa mù nhân tạo của ông đã lộ rồi, không qua nổi
đâu! Nghe nàng nói có lý, Võ Minh Thần khẽ thở dài, tặc lưỡi bảo:

– Tình thế đã vậy, không liều thoát, cô nương bảo mỗ tính cách nào đây? Đanh giọng, cô gái Nguyệt Kiều đáp liền:

– Chẳng tính cách nào được. Hiện không đâu chắc bằng… chỗ này! Ông cứ nán lại đợi khi nào thuận tiện đã.

Minh Thần nhìn nàng thấy hết sức bất tiện. Dưới lòng đất, hậu cung, phòng
the vắng, chẳng lẽ đàn ông cứ ngồi lỳ mãi. Như đoán được tâm trạng chàng khách trẻ. Nguyệt Kiều khẳng khái bảo:

– Chấp kích! Tòng quyền! Xin ông chớ ngại!

Nghe nàng nói dứt, Minh Thần buột miệng:

– Quyền biến phải để Chung Kiến cõng chạy, cũng được, nhưng cô nương đã
quên sau này Quy Vu phải lấy Chung Kiến, rửa cái tiếng cõng đó sao? Đèo
Nguyệt Kiều chợt đỏ mặt, lúng túng:

– Là tôi muốn nhắc chuyện cũ để ông đừng ngại chuyện tỵ hiềm, chớ vụ Quy Vy sau lấy Chung Kiến có lẽ do trời định sẵn, nếu không cõng nhau…

Nàng vụt im, mặt càng
đỏ, ấp úng. Khi sực nhớ đến hiện cảnh, tuy chưa cõng nhau, nhưng trai
gái cũng ngồi đối ẩm trong buồng the… kể cũng là giống cảnh Chung Kiến Quy Vu… chẳng lẽ cung do chuyên trời run rủi…

Minh Thần chợt thấy nàng có sắc thẹn, chàng trai cũng đâm ngượng, đứng yên, mấy phút mới lên tiếng bảo:

– Ngu mỗ chỉ ngại cho cô nương, nên chẳng dám làm phiền nhiều, có lẽ cô nương cứ để mỗ đi luôn cho tiện.

Chừng lo cho mạng sống khách, Nguyệt Kiều vùng thỏ thẻ:

– Chơ liều nguy hiểm lắm! Ông cứ an lòng ẩn nấp lại đây, không
lẽ vì chút tỵ hiềm hủ lậu, để ông phải lâm nguy? Thôi! Ông chớ ngại vẩn
vơ! Chúng ta hiểu cảnh ngộ này, chẳng làm chi khác được.

Minh Thần cũng chẳng biết kế nào hơn, đành nghe lời nữ chủ. Nàng trỏ giường, thỏ thẻ:

– Đêm khuya lắm rồi! Ông nên vào nằm ngủ một giấc cho lại sức! Uống thuốc rồi, khỏi sợ nội thương phát tác ngay!

Dứt lời, không đợi Võ nói chi, nàng trèo luôn lên giường, buông màn để sẵn
gối chăn, đoạn nàng bảo chàng lên giường nằm ngủ. Ngơ ngác, Võ ngó quanh khẽ hỏi:

– Còn cô nương…? Hình như có một giường này mà?

– À! Tôi ra phòng ngoài! Nhà còn chiếc giường cho bọn gái hầu! Và tôi cũng cần nằm trấn bên ngoài, có gì còn kịp chặn ngay!

Minh Thần lắc đầu không chịu, bảo:

– Nếu cô nương nằm ngoài, chúng càng sinh nghi! Tiện nhất, xin cho mỗ một chỗ phía sau buồng ngoài!

– Không nên! Ông cần chỗ kín đáo, lỡ xảy ra chuyện, còn vào tủ đứng! Tôi
vẫn thường xem sách nằm ngoài mà! Nói mãi không được, Minh Thần đành cởi giày, lên giường thất bảo nằm.

Cô gái khép cửa, bỏ ra ngoài.
Vừa đặt mình, Võ đã bị “hương thơm” phả vào mũi. Phảng phất gối chăn
giường nệm màn chiếu như có cả mùi lan xạ quyện, thứ mùi thơm “quái lạ”
như thoảng hắt hương len vào khứu giác làm chàng khắc khoải thật khó
hiểu. Vì đó chính là mùi da thịt đàn bà, đúng hơn là mùi mỹ nhân. Xưa
nay phải hạng nhuận thịt thắm da, nhan sắc khuynh thành mới có. Không
phải ướp nước hoa, tắm sữa tươi, mà là mùi tự nhiên mỹ nhân tuyệt thế
như Tây Thi, Tức Vĩ, Văn Khương, Đặng Thị Hue trừ Giao Long Nữ. Cô gái
mặt xấu như quỷ cái dạ xoa, nhưng cơ thể tuyệt đẹp, da thịt cũng thơm
nhuận thế. Minh Thần đã từng ngửi qua lúc bồng nàng chạy chữa vết thương đạn bắn.

Mùi mỹ nhân làm chàng trai khắc khoải trằn trọc mãi, không sao nhắm mắt nổi, lắm lúc có cảm giác như mỹ nhân nằm cạnh.

Không chịu nổi, Minh Thần nhỏm dậy, rót nước uống, vén rèm nhìn ra. Tối om!
Không dám lên tiếng, Võ vừa giơ tay toan thám sát bỗng giật thót mình,
nghe tiếng nàng Nguyệt Kiều thì thào bên tai:

– Vào ngủ đi! Chớ thức! Có mấy con “Trành” cái đang nghe ngóng
ngoài cửa! Chúa sài lang cho Dạ xoa, chó sói phục kín, sai các bóng ma
hồn đi sục sạo! Cứ vào giường, mặc tôi đối phó!

Chột dạ, Minh Thần thì thào:

– Không nên! Mấy con trành này tinh lắm, thấy chú quyết lạ, chúng sẽ biết ngay! Cứ để mình tôi đối phó! Không hề chi đâu! Võ Minh Thần vội rón
rén vào giường nằm, lắng tai nghe ngóng động tĩnh.

Bốn bề im
lặng sau thẳm. Tuy nằm yên trùm chăn kín, Võ vẫn nơm nớp lo “trành” lẻn
vào, tuy chàng đã đoán chắc ngoài cửa tất có “khoán” kỹ. Nhưng với lũ âm hồn tinh ma, bua khoán nhiều khi không ngăn hết được. Vì mỗi lá bùa tùy theo mức cao tay của pháp sư, sẽ phát ra uy lực trong khoảng phân tấc
nào đó thôi. Khu phòng này khá rộng, chỉ một khe hở, lỗ thủng nhỏ cũng
đủ để nó tuôn vào con dễ hơn sương.

Và chính chàng cũng chưa rõ
Đèo Nguyệt Kiều dị thuật cao tay tới mức nào? Độ nửa phút, phía ngoài
vẫn im lìm, tối thui. Bỗng nghe tiếng cô gái trở mình giọng ngái ngủ
quát:

– Tụi nào lảng vảng ngoài đó? Da xoa hay trành?

Không nghe tiếng đáp, tiếp liền có tiếng dép khua lệt sệt, lẫn tiếng cô gái

Nguyệt Kiều quát một tiếng rất lạ tai, chẳng hiểu thứ Thổ ngữ ám ngữ nào?
Không nghe tiếng ai đáp, lại nghe tiếng nàng nói lớn, lần này bằng Thổ
ngữ:

– Khu cũng động này ta ở ngày đêm có “Xó” canh giữ, bốn bề
đều có “khoán” cạm bẫy chăng đầy. Đứa nào lẻn vào đây, qua nổi mắt ta?
Lũ mi phải lục soát phía ngoài, có khi hắn lặn dưới thủy đao ngầm đó! Ta nghe hắn có nghề lặn như tôm cá. Hồng Thủy Trận còn chưa trấn nước hắn
nổi mà!

Lại im! Bỗng văng vẳng có tiếng một mụ Dạ Xoa the thé vọng tới:

– Phải đó! Cung nương nương ở, đứa nào lén vào nổi! “Trành” phải đi rình
chỗ khác! Lạ dữ à! Mà sao lục khắp cung động, chẳng đánh thấy hơi người? Hay tên mặt sắt đó là loài ma quái nó có phép tàng hình.

– Chưa biết! Nhưng các người nên nhớ nó đã đơn thân vượt qua bao nhiêu cung
hiểm lần xuống tận đây. Âm Hồn Trận cũng chưa bắt được, đủ hiểu hắn đâu
phải thường nhân. À! Ta lại nghe hình như hắn bị Chúa Vương đánh bị
thương, có khi hắn nấp kẹt rồi gục luôn đấy à! Bọn ngươi nên cẩn thận.
Còn khu cung này, khỏi mất công tìm kiếm! Đã có “xó” ta canh!

Tiếng nàng lanh lảnh trong đêm sâu lòng đất, rồi sau đó, im lặng mênh mông bao trùm.

Chừng hai phút, bỗng nghe tiếng diêm bật xòe, Minh Than trông ra thấy Đèo Nguyệt Kiều cầm thoi bạch lạp nhỏ uyển chuyển vén rèm bước
vào, cắm nến trên bàn cười bảo:

– Lũ “trành” kéo nhau đi cả rồi. Ông có thể yên tâm nằm ngủ. Buồng này kín đáo, ông cứ tự do để sáng,
khỏi cần tắt nến, nhưng chớ nên ra phòng ngoài. Trà, nước, đường, cà
phê, đèn cồn có sẵn, xin cứ tự tiện! Tôi cũng cần ngả lưng chút cho đỡ
mệt.

Dứt lời lại bỏ đi liền. Võ Minh Thần nằm nghĩ miên man, rồi mệt quá, chan ấm, hương thơm dịu, chàng vào giấc ngủ lúc nào không hay
nữa. Bỗng nhiên, Võ Minh Thần choàng thức! Và nhận ngay ra quang cảnh
căn phòng the chàng tá túc vẫn không thay đổi, riêng ngọn nến trên bàn
đã thay ngọn mới, lơn gấp ba… Cũng chẳng rõ mình đã ngủ được bao lâu.
Minh Thần tung chăn dậy, chưa kịp gấp thì Đèo Nguyệt Kiều tươi cười bước vào, tay bưng một chậu nước nóng:

– Ông xuống rửa mặt! Chà ông ngủ được giấc ngon dữ! Thôi! Cứ đe chăn gối đấy, tôi xếp gọn! Không phải việc đàn ông!

Rất hồn nhiên, nàng đặt chân lên “giá” gỗ, vén màn “đuổi” Võ ra, Võ đành nhảy xuống, cười bảo:

– Cô nương làm mỗ ngượng chết mất! Đã chiếm giường, ngủ nhờ lại còn để nữ chủ gấp chăn giúp… khéo mỗ quên mình trốn tránh, lại tưởng đang…

Chàng trai vụt im bặt. Trong thoáng giây, chàng vừa có cảm giác êm đềm kỳ lạ, thứ cảm giác chàng chưa hề có, kể cả lúc gần các cô bạn gái, “như vừa
thức giấc sau đêm tân hôn, trong căn buồng ấm cúng, có người vợ tâm đầu ý hiệp vào gấp chăn, bưng nước cho chồng rửa mặt”!

Đỏ ai tai,
Minh Thần lúng túng mãi mới tiếp được ba tiếng “ở sơn động”, nhưng thốt
xong mới biết thật vô lý! Chàng nhìn Nguyệt Kiều, cô gái cũng ngó chàng, hình như cũng “linh cảm” thấy điều đó. Nàng thoáng đỏ má, chớp chớp
hàng mi cong.

Nhưng có lẽ tính bướng, hay nghịch, nàng đã trấn tĩnh truy luôn:

– À… Thế ra ở sơn động, cũng có người gấp chăn, bưng nước “hầu ông” đó

ư? Chẳng hay tỷ muội nào? Không dè lại bị “hỏi móc” Minh Thần càng lúng túng, ngượng nghịu, vớt:

– Là ngu mỗ bảo sơn động… Pi A Ya… Xưa chính mỗ gap chăn hầu nước ông tôn sư chứ!

Lời nói chữa không dè làm Nguyệt Kiều thoáng xịu mặt, lại nhướng mày khẽ hỏi:

– À Phi Mã Yên Sơn! Nhưng chẳng hay… ai thế?

– Bạc Khao Lan! Nói xong chàng trai mới vụt nhớ đến xác cô gái họ Bạc bày trên Bảo Tàng Viện, tim đau nhói như dùi đâm, vừa đặt tay thành chậu
đồng, chàng tuổi trẻ chợt đứng đờ ra, mắt muốn rưng rưng, cay cánh mũi. Đang dụi mắt, nhác thấy, Nguyệt Kiều ngạc nhiên, bước xuống dịu hỏi:

– Sao thế… ông? Tôi làm ông buồn…?

– Không đâu! Nhắc tới Khao Lan, tự nhiên ngu mỗ không cầm lòng được. Hồi
bị đòn Giao Long Chúa, chính nàng đã cứu mỗ thoát chết, hồi dưỡng bệnh
tai Pi A Ya, nàng chăm sóc mỗ tận tình như em gái chăm anh. Mới chia tay ít tháng ai ngờ nàng đã nằm trên Viện Bảo Tàng Tây Sắc… Chết bốn mươi chín ngày oan hồn vẫn chưa lìa nổi xác thân, vì ma thuật hấp sát của Ma vương tinh sói!

Đèo Nguyệt Kiều khẽ chép miệng thở dài. Cô gái
im lặng nhìn Minh Thần chừng như nàng muốn lấy lại sự im lặng để chiêu
niệm hồn người oan thác vì Ma vương còn hơn nói vài lời an ủi.

Khá lâu, nàng ta mới lên tiếng giục:

– Ông rửa mặt đi cho ấm còn uống trà! Dầu sao chuyện đã lỡ rồi! Nàng không phải bỏ xác tại Cung A Phòng là may lắm!

Minh Thần ngẩng nhìn nàng, vẻ ngạc nhiên hết sức. Không đợi hỏi, nàng nói luôn:

– Thầy trò cô gái giả Phìa Mường La Nam Cương đã đem xác nàng lên mặt đất rồi!

Mừng rỡ, Võ hỏi dồn:

– Đem được xác lên? Tưởng cả hai đã “bị” rồi!

– Suýt bị! Lúc bị lũ Dạ Xoa xua chó đuổi bắt, thầy trò chạy ra được khúc
đường hầm lên cung trên! May lúc đó tôi xịch tới đã kín đáo cứu hai
người, đem theo cả xác cô gái nằm trong võng. Nhờ lúc đó, Ma vương chúa
mải đối phó với ông!

– Cám ơn cô nương! Nhưng liệu thoát nổi chăng? Cung dưới cung trên chỗ nào cũng đầy bóng tử thần.

– Chắc giờ này họ đã ra khỏi vùng giang biên rồi! Phần lớn, nhờ lúc đóchưa kịp báo động. Ông cứ yên tâm!

Nghe nàng nói xong, Minh Thần thấy nhẹ nhõm nhiều phần. Dầu sao
xác Khao Lan được đem về động thất Pi A Ya cũng là may lắm. Nghĩ tới đó, Võ lại điên đầu, chỉ muốn thoát ngay, còn đến viếng tang, tính báo cừu
sau. Bèn rửa mặt vội vàng, hỏi nữ chủ:

– Chẳng hay mấy giờ sáng rồi?

– Gần Ngọ! Vì ông đã ngủ được hơn hai mươi lăm giờ liền!

Sững sờ, Võ hỏi thăm tình thế hậu cung. Nghiêm mặt, nữ lang dịu bảo:

– Chúa sài lang giận lắm! Một đêm có ba kẻ lẹ đột nhập A Phòng đều để
sổng mang theo bí mật lên mặt đất nên vẫn cho sạo sục truy lùng riết.
Riêng về ông, Chúa sài lang vẫn ngờ còn nấp dưới A Phòng, nên cả vùng
Độn Thủy Độn Thổ cung cung đầy quân gia, chó sói xó trành… hơi ló lên
sẽ bị liền. Hiện tại một con kiến cũng khó lọt qua. Ông nên nén lòng,
đợi dịp tốt. Có gì tôi sẽ báo ngay.

Biết nàng thật lòng lo cho mình, Võ Minh Thần đành theo ý, không dám liều lĩnh nữa. Hai người ngồi uống trà, đàm đạo.

Thời khắc kéo thật dài dưới cung Tây Sắc. Vẫn chỉ có mình Võ với nàng trong
mấy gian nhà đá vắng vẻ. Đàm luận mãi, lại đem cờ ra đánh. Nàng đánh rất cao, nhưng vẫn thua Võ.

Bàn chuyện văn chương võ nghệ, dị thuật rừng thẳm, địa thế sông hồ, lục thao tam lược, cầm kỳ thi họa tửu nàng
đều lầu thông, qua một trang giai nhân thông minh hiếm có.

Thoắt đã hai ngày hai đêm nữa. Võ Minh Thần vẫn sống trong đầm ấm “thế giới
yên lành giữa cung tinh sói dữ dằn”. Hai người càng thêm thân, xem trong tính tình có nhiều tương tri.

Thoắt đã ba ngày ba đêm, Võ Minh
Thần ẩn nấp trong buồng cô gái kỳ dị, vẫn chưa có cơ hội thoát thân. May có nữ chủ làm bạn, chàng trai cũng đỡ sốt ruột, nếu không có thể phát
điên lên giữa cung phòng im lìm dưới đáy Hắc Giang.

Nguy cơ đe
dọa cũng chưa khó chịu bằng sức im lặng quái gở đè nặng xuống tâm hồn.
Biết Võ chưa quen sống im như trong quan tài, Đèo Nguyệt Kiều thường đem đàn ra dạo cho chàng khuây khỏa. Tuy vậy tới ngày thứ ba, Võ Minh Thần
đã thấy bứt rứt hết sức, hỏi nàng vẫn bảo chưa thể được.

Minh
Thần bàn kế hóa trang làm gái Cung A Phòng thoát ra, nàng lắc đầu cho
biết. Một con kiến cũng không thoát khỏi bầy trành tinh và khuyên chàng
ẩn nhẫn.

Minh Thần lấy làm lạ suốt mấy ngày đêm tuyệt không thấy Chúa sài lang tới khu này, cả lũ Dạ Xoa, chó sói cũng không, mặc dầu xế trên
điếu kiều sàn đạo thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng người, thú qua lại, truyền mật hiệu. Và suốt thời gian này, cô gái chủ chỉ bỏ đi đâu một, hai lần, mươi phút đã trở về.

Đêm thứ ba, Võ Minh Thần thấy trong mình
không được khỏe, kiếu nàng đi ngủ sớm. Đang thiêm thiếp giấc nồng, bỗng
được đánh thức, choàng dậy đã thấy Đèo Nguyệt Kiều đứng bên giường, thấp giọng trỏ một cô gái lạ bảo:

– Cơ hội thuận lợi rồi. Đây gái
hầu Phây trên “pháo đài rừng” vừa xuống cho biết tình hình trên Cung Độn Thổ có thể đưa đại huynh đi được. Mau! Còn đi!

Mừng rỡ, Minh
Thần vội rửa mặt uống nước, sửa soạn hành trang, nữ lang cùng gái hầu
giúp chàng hóa trang thành gái hầu, áo trắng “phá” đen dài búi tóc giả,
đính khăn, đi hài sảo, quần áo đàn ông, “sắc” cho vào giỏ mây đeo sau
lưng, phút chốc đã hóa một cô Thổ trắng đứng dưới đèn. Nhờ điển trai,
khổ người tầm thước vẻ thư sinh, giả gái coi giống hệt, rất xinh. Chủ tớ ngắm phải trầm trồ khen ngợi, lấy làm đắc ý.

Võ cùng Đèo Nguyệt Kiều vào gọi “xó” ra. Võ lại dùng thuốc bôi khắp mình át hơi người. Xong cô gái tần ngần chút, bảo:

– Dưới Cung A Phòng, Sài lang Chúa có lời nguyền rất độc. Phàm bất cứ ai
xuống A Phòng không được tiết lộ điều bí mật. Ngu muội đưa huynh đi theo đường riêng, nếu để huynh thấy sẽ mắc lời nguyền độc địa. Huynh thể
tình cho, chẳng phải ngu muội có ý giấu giếm gì đâu, vì huynh thừa sức
đột nhập A Phòng.

Minh Thần khẳng khái gật đầu. Cô gái bèn lấy
mảnh da hình con tam bịt mắt lại như nàng, khác chỗ khóet đều bưng kín.
Mỗi người lại dùng khăn “voan” che mờ mặt, theo thói quen của gái dưới A Phòng. Xong, nàng đưa Võ đi liền, để gái hầu lại.

Nàng đưa Võ ra lối sau nhà, dừng lại. Có tiếng bịch bịch như cơ quan chuyển động. Cô gái ghé tai thì thào:

– Tám bậc! Nhớ đúng! Võ theo lời, nghe “kịch” trốc đầu, hình đậy nắp.
Nàng nắm tay Võ hô “nhảy”. Võ thấy mình rơi vào khoảng không, tới ngót
chục giây, chân chạm lưới dập dềnh.

Nàng dắt chàng vào một đường hầm đá lạnh lẽo ghê người. Có tiếng gió hòa vi vu bên tai, mũi ngửi
thấy mùi rêu mốc, nền đá gập ghềnh lên xuống không đều. Khoảng hơn trăm bộ, quanh co bỗng nghe tiếng róc tách như
ngước chảy đâu đây, dưới nền ướt sũng. Chợt nàng ghé tai thì thào:

– Đàn chó sói! Mặc chúng! Cứ nắm tay ngu muội! Được ít bước, Võ nghe có
nhiều tiếng chân vuốt cào nền đá táo tợn, rồi hàng trăm cái mõm nhọn
chũi vào “phá” như đánh hơi.

Buột miệng Minh Thần tru khẽ một tràng “tiếng chó sói”, lũ chúng phát kêu lên “hí hí”, vẻ phục tùng, bỏ đi liền.

– Suỵt! Chớ lên tiếng! Đã bảo để ngu muội. May chỗ này vắng! Nhớ… huynh! Thôi dừng!

Minh Thần nghe có tiếng sình sịch rồi trước mặt, tiếng nước vỗ ầm ì, chừng
mới “mở cửa đá”. Tiện tay Võ sờ trước mặt, đụng kính dày dưới chân, nước chảy rỉ rỉ.

Bỗng mắt Võ thấy có màu đỏ khé, biết ngay Nguyệt
Kiều vừa bật lửa chi đó. Vốn tinh ý, Võ đoán ngay đường này mở ra đáy
Hắc Giang, có kính dày che như các hồ nuôi cá bên Âu Mỹ.

Quả nhiên chợt nghe tiếng cơ quan sình sịch chuyển động. Có tiếng Nguyệt Kiều thì thầm:

– Không thoát ngả Động Thủy Cung được. “Trành” canh gác hàng mấy con, quá nhiều thuốc đọc thủy lôi mắc chi chú! Đi ngả khác!

Lại một hồi quanh co đi mãi, tiếng nước xa dần, vượt hàng trăm thước địa
đạo, bệ đá giếng khơi như đi giữa Mê Hồn trận, chẳng còn nhớ bao thước
lên xuống quanh co nữa, bỗng cô gái khẽ bảo:

– Để ngu muội cõng
huynh mới được. Khúc này cực kỳ nguy hiểm! Dứt lời, rất hồn nhiên nàng
ghé lưng cõng luôn Minh Thần nhảy vùn vụt, ngang dọc, lên xuống, tứ
tung. Nghe bên tai chó sói kêu “hí hí”, mùi hôi hám sực mũi, như vượt
qua hầm sói.

Nàng đặt Võ xuống, lại mở chốt vượt mười lăm bực đá, bỗng nghe nàng nói nhỏ:

– Qua rồi! Được ba phần nguy hiểm, còn năm! Ngón tay búp măng cởi mạnh da bịt mặt. Võ choàng mở mắt ra, sững sờ, thấy mình đứng trong cái hang
vắng lặng, sâu chừng mười thước, khá rộng, cửa đá đã bị kíp chẳng biết
chỗ nào.

Ngoài kia là khung trời trăng sương. Cô gái kéo Võ ra
cửa hang. Mới ra đã khỏi Cung A Phòng. Hang này lưng chừng sườn núi đá.
Dưới kia, thung lũng, núi đá trùng trùng nhấp nhô, sương khuya từng dải trôi ngang, mảnh
trăng hạ tuần treo ngọn Tây như lưỡi hái tử thần. Minh Thần thở phào,
bốn bề vắng lặng, vài tiếng hoẵng mơ hồ vọng lại nghe cô đơn lạc lõng
lạ.

– Thoát khỏi Cung động A Phòng rồi. Nhưng vùng này vẫn trong vùng Độn Thổ cung. Còn phải qua mấy đợt hiểm nguy nữa. Nhưng chàng cứ
thoăn thoắt trong vai gái hầu theo hầu nữ chúa. Quả nhiên không sẩy
chuyện chi rắc rối. Xuống một đầu núi thấp, cô gái dừng lại khẽ bảo “Tới rừng ngoài rồi”.

Nàng vụt quay nhìn Võ. Cả hai buông “voan”.
Đêm rừng khuya lạnh lùng hơi gió đông khan, mang mang buồn. Nàng chợt
tối mặt lại, ve sầu chia phôi. Mãi mới rung giọng:

– Giờ huynh có thể… ra đi tìm thuốc trị thương. Đường đời đôi ngả, từnay… biết bao giờ gặp nhau! Chúc huynh… mạnh giỏi…

Minh Thần bỗng thấy lòng xao xuyến ngậm ngùi lạ. Chàng đăm đăm ngó cô gái bí mật dưới Cung A Phòng Tây Sắc thoáng buồn khó hiểu.

– Mang ân
cứu mạng! Võ này chẳng biết chi đền đáp. Đời người thật nhiều oan trái,
gặp nhau trong nghịch cảnh rồi chia tay đôi ngả nhưng suốt đời Võ này
quên sao được những ngày ẩn náu trong buồng… hiền muội

Cá nước chim trời gặp gỡ, biết đâu chẳng có ngày gặp lại nhau… Xin hiền muội bảo trọng lấy thân…

Bốn mắt chạm tia nhau, thoáng giây tâm cảm huyền bí, cả hai cùng nao dạ,
không lời. Cô gái dưới A Phòng tự nhiên nắm lấy tay Võ. Võ cũng chợt nắm tay nàng, rung động. Nàng lao thốc lại ôm chầm lấy Minh Thần, nước mắt
chảy ròng ròng.

Chàng đỡ lấy nàng, mũi cay xè, rưng rưng xót xa
cho cuộc tương phùng nghịch cảnh. Chưa kịp trao lời cá nước đã phải đoạn trường trương tri. Xốc lại hành trang, Võ khẽ bảo:

– Nguyệt
Kiều ở lại… bộ xiêm y này, tôi sẽ giữ suốt đời. Võ đặt tay lên vai
nàng, bờ vai tron lẳn rung mãnh liệt. Chợt đâu đây có tiếng một con sài
kíu vang âm trong trăng sương… Rụt tay về, lòng nao hẳn, Võ Minh Thần xoay mình, chạy vội xuống chân núi.

– Võ Minh Thần! Chàng đi…! Vái trời, chàng thoát tai ương…

Cô gái A Phòng quay dòm theo, lẩm bẩm như thầm gởi cho gió, má hồng còn hoen nước mắt phân kỳ.

Cho đến lúc hình bóng chàng họ Võ giả trang đã khuất nhòe trong
sương mờ trắng nhạt, nàng van còn đứng sững trên sườn núi, xa trông như
hình Tô Thị vọng phu trên mạn Đồng Đăng Kỳ Lừa.

Dưới cánh rừng
xa, bóng chàng tuổi trẻ nhòa mau trong trăng sương. Cô gái vừa quay mặt
định trở về, thình lình có tiếng sói tru rởn óc, tiếp liền hàng loạt
vang âm nhọn, ngay hướng Minh Thần vừa thoát đi.

Thất kinh, cô
gái xoay người, cắm cổ chạy như gió xuống khu rừng sói tru. Lúc đó Võ
Minh Thần vừa từ đầu núi băng mình xuống. Chàng định tới con suối gần
đấy thay y phục, vì mặc “phá” đi hài sảo rất bất tiện. Nào dè chàng trai vừa tới bờ suối, định cởi (phá) bỗng nghe có tiếng rào ngọn cỏ như
tiếng chồn cáo đi mò đêm. Chàng ngẩng vội lên, chưa kịp quan sát bỗng
nghe tiếng “xó Khách” nói bên tai:

– Sài kíu! Thầy! Minh Thần
quét lia mắt, bỗng giật thót mình, xế sau lưng, có một đàn sơn cẩu toàn
giống Hồng Cẩu Quẩy, mắt đỏ khé đang ào ào kéo tới theo hình cung
giương, dẫn đầu là một bóng “quỷ mắt đỏ” đi hai chân, lông vàng óng, bờm trắng, mắt than Tàu, lướt êm như gió thoảng, chỉ còn cách năm, sáu
chục thước!

– Trời! Tây Sắc Ma Vương! Chàng trai buột miệng kêu, ngó phía trước, lại thấy một đàn nữa đang kéo tới định chặn lối. Nhanh
như cắt, Võ nhảy vào bụi, nhưng có lẽ Sài lang Chúa đã thấy. Nó vùng tru lên một tràng sởn óc, đàn sói cũng tru âm, xé từng bầy chạy bao vây.
Biết nguy, không thể kiếm đường lộn sang chỗ Quản Kình đợi, “xó” lại
không thể rời xa xác, Minh Thần vội truyền xó chạy ngả Bắc xế, còn chàng lập tức cắm cổ phóng về hướng Nam. Tuy gấp, chàng vẫn còn bình tĩnh
tụt đôi hài sảo dắt vào mình, sợ để lại, nguy hại cho cô gái A Phòng đã
cứu mình!

– Mặt sắt giỏi! Thoát nổi A Phòng! Có đứa phản Chúa sài lang giúp mi. Đứng lại! Đừng mong trốn chạy đem theo bí mật A Phòng.

Tiếng Tây Sắc bay theo, Minh Thần cứ chạy ẩn sau gốc cây bờ bụi, sợ nó tung đòn. Chàng nghiến răng hét:

– Chúa sói! Ta không tiết lộ sào huyệt mi đâu! Ta sẽ trở lại, rửa oán thù, bắt sống mi làm lễ vật tế hồn oan phụ mẫu.

Lời dứt, thân hình đã lướt tới gần bầy sói trước mặt, định bang vọt đi
trước khi chúng ào lại chặn lối. Nhưng vẫn không kịp. Dưới trăng loang
lổ bóng cay ngàn, hàng hai, ba trăm cặp mắt đỏ khé đã dàn ngang lố nhố, trùng
trùng, xẹt vòng sang Tây cũng chẳng kịp nữa.

Vận hết uy lực, Võ
Minh Thần hú luôn một tràng “tiếng sơn cẩu chúa đầu đàn”, và sốc theo
tiếng hú. Đằng sau, lại có tiếng Tây Sắc tru hộc truyền lệnh. Bầy chó
sói này bỗng đứng yên, trố mắt dòm, chừng phân tâm chưa biết tuân lệnh
ai.

Đang lúc đó, Võ lao mình thẳng tới, dụng thuật khinh phù dẫm lên đầu chó sói, bắn người đi.

Nhưng chàng vừa chạy, nhảy được mấy hàng, cách nhau vài sải một thì Tây Sắc
tru thêm dữ tơn trong trăng. Võ thoáng thấy bảy, tám còn vùng đứng hai
chân sau chồm đón vồ, tránh không kịp, Võ đành đạp mạnh đầu sói bắn vọt
mình qua đầu lũ kia, thân hình bay bổng lù lù sát dưới cành cây.

Đoàng đoàng đoàng! Liền mấy phát súng nổ, cành lá trốc đầu Võ rào rắc gãy
lìa, đạn “chíu” bên tai. Võ thất kinh quơ vụt tay túm được một cành
ngang trên đầu, theo đà vọt tung mình lên cao bíu lấy cành lá rậm lòa
xòa. Đạn vẫn bắn vãi theo, lá đứt phựt rào rào theo luồng đạn đi. Chuyền cành tuy khuất nhưng cũng nguy hiểm không kém, Minh Thần thấy đã vượt
qua đàn sói, vội nhảy ào xuống phóng chạy, Tây Sắc Ma Vương tru hú, xua
sài kíu đuoi theo đông như rươi.

Minh Thần chạy, mắc “phá” không bước dài được, trút bỏ cũng chẳng có thì giờ, chàng nhanh trí kéo tốc
lên cho gọn. Nào dè, chạy được chừng hai trăm thước, gặp ngay một rặng
đồi chắn ngang, suối chảy kẽ đồi, chạy theo bờ suối. Đàn “quỷ mắt đỏ”
tuôn theo.

Chẳng may chạy được quãng nữa, lại gặp dây leo chằng
chịt, chàng đành chạy vòng xuống nước. Điều này thật nguy hiểm vì dưới
suối bao giờ cũng trống cả.

Được mươi sải, Võ vừa xẹt vòng lên
bờ thì bỗng đau nhói đùi trên, chàng trai loạng choạng vừa chạy vừa chúi vào bờ. Biết đã trúng đạn, chàng cố cắn răng, chạy lảo đảo.


Mặt sắt tới số rồi! Bắn què hắn rồi! Minh Thần ngoái nhìn lại, thấy hình thù Tây Sắc Tinh đang rượt theo như cơn lốc dữ. Chàng chạy ra được đầu
hẻm thì máu đã chảy ướt đùi, trong mình cảm thấy suy kiệt khác thường,
hình như đòn của Ma Vương Sắc tái phát.

Tưởng đến oán thù chưa báo nổi, chàng trai nhào vào một gốc cây, thở dài kêu ai oán:

– Thân ta chết cũng chẳng sá chi, chỉ hận thù chưa trả… ngờ đâu tuyệt mạng chốn này…

Mắt Võ hoa lên, rừng cây như nhảy múa luồng vào một cơn gió thổi, lá vàng
bay tấp vào người Võ. Chàng chợt giật mình kinh dị thấy từ đằng sau
phóng vọt ra một con thú hết sức kỳ dị, mắt sáng như điện, đầu như có
sừng, hình thù bốn chân mình mẩy rêu phong đat cát giây leo hoa cỏ mọc
um tùm, coi quái đản hết sức. Nó phóng ra đứng sừng sững trước mặt Minh
Thần như cản lối, miệng nó phát kêu một tràng như long mã hí.

Minh Thần trừng mắt dòm, vụt nhận ngay được con quái thú nay chính là con
thú đã đánh nhau với con Mạc tại vùng biên thùy Trùng Khánh phủ và đã
mang chàng lên núi, cứu được Bạc Khao Lan năm ngoái. Chàng lảo đảo tiến
đến, vừa thở vừa kêu:

– Dị thú! Sao lại gặp mi ở đây? Tiếc thay mạng ta sắp tuyệt, mi khôn hồn thì hãy chạy cho xa, chó sói đàn đuổi tới rồi đó.

Lạ thay! Rõ ràng con thú này nhận được Võ Minh Thần, nó gật gật cái đầu
lòa xòa dây leo, ngà vểnh, kêu “hí hí” như mừng rỡ rồi phóng vút lại,
đảo nửa vòng, chồm dựng đứng.

Minh Thần ngạc nhiên hỏi:

– Mi định cứu ta? Quái thú lại gật gật đầu, Minh Thần không chần chờ, vội nhảy ngay lên lưng nó. Con quái thú vểnh đầu, chạy về hướng Nam nhanh
như tên ban.

Phía sau, Ma Vương Sắc đang xua chó ào ào truy đuổi thì bỗng thấy Minh Thần cưỡi thú chạy vùng ra, hắn vội quát lên:

– Bắn què con thú đó đi, đuổi theo, chia ra bao vây bắt lấy nó. Đàn “quỷ
mắt đỏ” chạy ào theo, chia thanh bốn, năm bầy túa ra mấy phía rừng, vây
kẹp. Có hơn chục con vùng đứng hai chân chĩa súng bắn đì đẹt. Minh Thần
nằm mọp trên lưng quái thú, mặc cho nó phi như gió cuốn. Bỗng nghe
“chíu, chíu” hai tiếng vang lên, đã có hai viên đạn trúng mình con thú.
Lạ một điều là con thú vẫn chạy như thường, Minh Thần đang thầm khen nó
mình đồng da sắt thì bỗng lại “chát” một tiếng, bên sườn phải đau buốt
lên. Trong mình Võ có mặc áo giáp nhưng đạn vẫn xuyên qua được, chàng
chỉ la lên được một tiếng nhỏ rồi đổ gục xuống trên lưng con dị thú, bên tai nghe văng vẳng tiếng “quỷ mắt đỏ” tru vang động rừng khuya, tiếng
gió vù vù bên tai… rồi ngất đi lúc nào không biết nữa…


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.