Long Phụng Bảo Thoa Duyên

Chương 25: Mưu gian kế độc quân nham hiểm - Trung nghĩa khó toàn khổ tướng quân


Đọc truyện Long Phụng Bảo Thoa Duyên – Chương 25: Mưu gian kế độc quân nham hiểm – Trung nghĩa khó toàn khổ tướng quân

Nội công của Thiết Ma Lặc sớm đã đạt đến cảnh giới lô hỏa thuần thanh, y phục giải dược xong, mặc vận huyền công, không quá nửa khắc toàn thân xuất mồ hôi, độc tố trong cơ thể cũng theo mồ hôi thoát ra, khôi phục lại như xưa.

Lúc này cũng đã nửa đêm, chợt nghe tiếng bước chân hối hả chạy đến như cơn lốc, một người đẩy cửa lảo đảo bước vào hớt hải kêu lên:

“Thiết trại chủ, ngươi có việc gì không?”

Nguyên lai là Kim Kiếm Thanh Nang Đỗ Bách Anh. Thiết Ma Lặc cười nói:

“Đỗ thúc thúc, thúc nhìn tiểu điệt có chỗ nào không ổn đâu, hà tất phải hốt hoảng như vậy. Tốt rồi, chúng ta ra ngoài bàn chuyện, thúc và tiểu điệt đều vi phạm quy củ rồi”.

Đỗ Bách Anh lau mồ hôi trán rồi nói:

“Khi ta đến đây, thấy mười mấy thớt khoái mã ngay trong đêm phóng ra, ta nhận ra đều là thuộc hạ của Mưu Thế Kiệt, bọn họ thấy ta cũng không hề chào hỏi, ta cho rằng nhất định là xảy ra chuyện. Nhất thời cấp bách nên không kể đến quy củ, Mưu Thế Kiệt đâu rồi?”

Đoàn Khắc Tà đáp:

“Y sớm đã đi rồi. Ra ngoài rồi nói”.

Đoàn Khắc Tà dẫn Thiết, Đỗ hai người quay lại phòng mình, đóng cửa phòng rồi chàng mới thở phào một hơi nói:

“Hiểm thật, hiểm thật!”

Thiết Ma Lặc cười rằng:

“Đỗ thúc thúc, Mưu Thế Kiệt cũng không tệ hại như thúc nghĩ, chuyện đã qua rồi, Khắc Tà, đệ cũng không cần phải trách mắng y nữa”.

Đỗ Bách Anh nhìn đi nhìn lại Thiết Ma Lặc rồi nói:

“Không đúng, ngươi vừa bị trúng độc, chuyện thế nào? Không phải là Mưu Thế Kiệt lén hạ độc à?”

Thiết Ma Lặc cười đáp:

“Đỗ thúc thúc, thúc thực không thẹn với danh xưng Kim Kiếm Thanh Nang, y thuật cao minh khiến người bội phục! Nhưng thúc nhìn ra tiểu điệt bị trúng độc, chẳng lẽ không nhận ra tiểu điệt đã giải độc rồi sao?”

Đỗ Bách Anh nói:

“Nên ta mới thấy kỳ quái, giải dược….”

Thiết Ma Lặc đỡ lời:

“Không có gì kỳ quái cả, giải dược cũng là do Mưu Thế Kiệt đưa cho”.

Đỗ Bách Anh ngạc nhiên:

“Hắn đã hạ độc thủ, sao mà hắn…”

Thiết Ma Lặc đáp:

“Không phải là y hạ độc thủ, thúc đoán sai rồi”.

Lập tức Thiết Ma Lặc mang chuyện mới phát sinh nhất nhất kể lại với Đỗ Bách Anh.

Đỗ Bách Anh thở dài một hơi rồi nói:

“Tuy nói Mưu Thế Kiệt không táng tận lương tâm nhưng hắn là Lục lâm Minh chủ, bây giờ hắn lại cùng đi với yêu nữ đó, độc hành độc đoán, có thể sẽ mang huynh đệ lục lâm đến tai họa. Thiết trại chủ, ngươi có nhớ tại anh hùng hội trên Kim Kê lĩnh, ta đã từng khuyến cáo ngươi không được nhượng Mưu Thế Kiệt làm Minh chủ, đáng tiếc ngươi lại không nghe ta”.

Thiết Ma Lặc buồn bã không lên tiếng, qua một hồi lâu, mới thở dài đáp:

“Luận về tài mưu lược, Mưu Thế Kiệt hơn tiểu điệt thập bội, chỉ tiếc y quá gấp gáp vì cái lợi trước mắt”.

Đỗ Bách Anh theo song cửa nhòm ra xem sắc trời rồi hỏi:

“Trời sẽ rất nhanh sáng, Thiết trại chủ, hôm nay ngươi có đến hội trường không?”

Thiết Ma Lặc nghi hoặc:

“Vì sao Đỗ thúc thúc lại hỏi như vậy?”

Đỗ Bách Anh nói:


“Ta có điểm lo lắng”.

Thiết Ma Lặc lại hỏi:

“Thúc lo lắng chuyện gì?”

Đỗ Bách Anh đáp:

“Thiết trại chủ, mặc dù ngươi chân thành đối đãi với Mưu Thế Kiệt nhưng chỉ sợ lòng hắn không giống như ngươi. Nhất là bây giờ hắn lại cùng con gái của Sử Tư Minh đi chung với nhau, chuyện gì chẳng dám làm. Ta không dám quá tin tưởng vào bọn chúng. Mặc dù Mưu Thế Kiệt nói sẽ từ bỏ kế hoạch tấn công hoàng cung nhưng không nói bọn họ sẽ không gây ra chuyện khác. Ngươi lại mang thân phận khâm phạm của triều đình….”

Thiết Ma Lặc cắt ngang lời y:

“Tiểu điệt chính là sợ bọn họ nhất thời sanh sự, làm liên lụy đến Tần Tương, có mặt tiểu điệt ở đó có lẽ tốt hơn chút ít. Lại nói hai người Tần Tương, Uất Trì Bắc là cựu giao của tiểu điệt, tình như huynh đệ, dù bây giờ hoàn cảnh vị trí khác nhau, tiểu điệt dù không muốn nói chuyện với bọn họ nhưng cũng muốn trông thấy bọn họ”.

Đỗ Bách Anh biết Thiết Ma Lặc coi trọng nhất là nghĩa khí, trong lòng y đã quyết thì có khuyên cũng chẳng thay đổi, nên liền nói:

“Vậy chúng ta đi thôi nhưng lần này cũng phải cẩn thận, tùy nghi mà hành động”.

* * * * *

Trong số người lần này đến kinh thành chuẩn bị phó hội thì bộ hạ thân tín của Mưu Thế Kiệt chiếm đến bảy tám phần mười, phần Thiết Ma Lặc trực tiếp quản lý gồm nhóm huynh đệ Kim Kê lĩnh và bộ hạ cũ của phụ thân y Yến Sơn Thiết Côn Lôn thì đều đã được chuyển đến trong Phục Ngưu sơn do mấy người Tân Thiên Hùng và Mã thị song hùng quản lý. Nhân vật thủ lĩnh đến Trường An chỉ có Thiết Ma Lặc và Đỗ Bách Anh. Đêm qua Mưu Thế Kiệt đã mang người của y đi hết, còn lại là thủ lĩnh của các tiểu sơn trại, ước chừng có hơn mười người.

Qua một lát, sắc trời đã hửng sáng, Thiết Ma Lặc mang nhóm người này cùng đến hội tràng. Đoàn Khắc Tà cũng cùng đồng hành. Đám người này không thấy Mưu Thế Kiệt đâu thì trong lòng đều lấy làm kỳ lạ.

Hội trường của anh hùng đại hội chính là đại giáo trường mà ngày thường Thiên tử duyệt binh, giáo trường nằm ở chân núi Ly Sơn chiếm một vùng đất rộng mấy trăm mẫu, có thể chứa được mấy vạn nhân mã, có sáu cửa đại môn đều đồng loạt mở rộng.

Đoàn người Thiết Ma Lặc theo dòng người lũ lượt tiến vào hội trường, chỉ thấy bốn bề xung quanh quân đội bày bố, có một số mang phục trang vũ lâm quân, số còn lại là “Kinh sư vệ” (một chức quan vệ sĩ kinh đô) do “Cửu thành tư mã” (chức quan cảnh vệ tối cao ở kinh thành) thống lĩnh, kiếm kích nườm nượp, ngùn ngụt sát khí. Thiết Ma Lặc nghĩ hôm nay hảo hán khắp tam sơn ngũ nhạc đều tụ hội nơi này, đương nhiên phải phái quân đội duy trì trật tự, đề phòng sinh chuyện, điều này cũng hợp lý nên không để trong lòng.

Thảo mãng hào kiệt đến từ các nơi chen lấn tranh nhau chỗ đứng xem, đương nhiên trật tự rất không tốt. Trong dòng người chen chúc, đám người Thiết Ma Lặc cũng đều tự phân tán.

Đoàn Khắc Tà đang muốn đi nhanh lên hai bước để kịp Thiết Ma Lặc, chợt bị một người đụng phải, chàng ngoảnh đầu nhìn thì chỉ thấy một thiếu niên hoa lệ đã dựa vào cạnh chàng, người này dường như đã từng quen biết nhưng trong nhất thời không nhớ ra là ai.

Tâm niệm còn chưa qua, người kia đã cười nói:

“Đoàn tiểu hiệp, còn nhận ra ta không?”

Đoàn Khắc Tà nghe giọng nói của y, đột nhiên tỉnh ra, chàng nói:

“Ngươi, ngươi hôm qua làm mãi, mãi…”

Chàng nói được nửa câu rồi chợt nhớ ra hôm nay nữ tử đã cải dạng nam trang, đương nhiên là không muốn hiển lộ thân phận của mình, vội vàng nuốt lại nửa câu sau.

Thiếu niên trang phục hoa lệ chính là nữ tử mãi võ, nàng cười nói:

“Không sai, ngươi nhận ra ta rồi. Đa tạ hôm qua đã ngầm trợ thủ ta, ta còn chưa hướng ngươi cảm tạ”.

Đoàn Khắc Tà biết nàng ta là sư tỷ của Sử Triêu Anh, lúc này đối với Sử Triêu Anh vẫn chưa nguôi tức giận, tình cảnh trong lòng so với hôm qua rất khác nhau, cho nên hảo cảm đối với nữ tử cũng biến mất, chàng liền lãnh đạm nói:

“Chỉ là chuyện nhỏ, không đáng nhắc đến”.

Chàng đang muốn rời đi nhưng nữ tử kia lại giữ chặt tay chàng, nhỏ giọng nói:

“Đoàn tướng công, xin hãy theo ta, ta có vài lời muốn nói với ngươi”.

Với bản lĩnh của Đoàn Khắc Tà mà muốn thoát khỏi nàng ta thì dễ như trở bàn tay, thế nhưng dưới ánh mắt của chúng nhân, co co kéo kéo cũng rất khó coi, Đoàn Khắc Tà chỉ đành nhẫn nhịn tức bực, thầm nghĩ, “Cũng được, để xem cô ta nói gì”.

Nữ tử kia kéo Đoàn Khắc Tà sang một bên rồi thấp giọng nói:

“Ta là sư tỷ của Sử Triêu Anh, Triêu Anh không phải cùng đi với ngươi hay sao?”

Đoàn Khắc Tà đáp:

“Không phải”.

Thanh âm rất gắt gỏng, nữ tử kia nào biết sự tình phát sinh giữa bọn họ tối hôm qua, bất tri bất giác ngẩn người ra, Đoàn Khắc Tà quay đầu bước đi.

Nữ tử lại vội vàng kéo chàng lại, Đoàn Khắc Tà bực dọc nói:

“Sư muội ngươi và ta không còn giao thiệp gì, chuyện của ả ta một mực không biết! Ngươi cũng đừng hỏi ta nữa”.


Nữ tử khe khẽ cười, nàng chỉ nghĩ Đoàn Khắc Tà trước mặt nàng ngượng ngùng không dám thừa nhận có quan hệ với Sử Triêu Anh cho nên vẫn giữ chặt Đoàn Khắc Tà không chịu buông tay. Đoàn Khắc Tà tức đầy bụng, nữ tử kia lại nói tiếp:

“Đoàn tướng công, đây là sự tình khẩn yếu phi thường, ngươi nhất định phải nhanh chóng nói cho nàng ta biết”.

Đoàn Khắc Tà thoáng rúng động trong lòng, “Sự tình gì khẩn yếu? Chẳng lẽ Sử Triêu Anh lại có mưu đồ gì nữa, hay là sư tỷ cô ta làm việc cho cô ta?”

Chàng nghĩ vậy nên nhẫn nhịn nói:

“Được, vậy ngươi nói mau đi!”

Dòng người đang tràn đi, bọn họ đứng sang một góc, xung quanh không có ai. Nữ tử kia chợt trở nên cẩn thận, cơ hồ đôi môi tiếp xúc với lỗ tai Đoàn Khắc Tà, nàng nói nhỏ:

“Ngươi bảo Sử Triêu Anh mau rời khỏi hội trường, nếu không sợ rằng tánh mạng nó hôm nay khó giữ!”

Đoàn Khắc Tà tuy nói đã cùng với Sử Triêu Anh đã nhất đao lưỡng đoạn nhưng cũng không khỏi thất kinh, chàng hỏi:

“Cái gì?…”

Nữ tử kia không chờ chàng nói hết câu đã tiếp tục:

“Còn nữa, ngươi cũng phải nhanh rời khỏi hội trường, ngươi cùng nàng ta đồng hành một lượt, kẻ đối đầu sớm đã biết! Tin tức này quả thực chính xác, ngươi không có nhiều thời gian nữa, nhanh, nhanh đi tìm nàng ta rồi đồng thời rời khỏi, trì hoãn là không kịp nữa”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“Ngươi hôm qua…”

Nữ tử kia gấp gáp nói:

“Hôm qua ta còn không biết ngươi, ngươi đã minh bạch chưa? Có gì để sau hãy nói, nhanh đi, nhanh đi ngay!”

Lúc này không chờ Đoàn Khắc Tà thoát khỏi nàng, nàng đã kéo tay bỏ chạy.

Đoàn Khắc Tà chỉ thấy một mảng mờ mịt, chàng không biết tin tức mà nữ tử kia nói đến là gì, kẻ đối đầu là người nào? Nhưng lời nói của nàng lại cũng quá rõ ràng, có người muốn hại Sử Triêu Anh, liên đới muốn hại luôn chàng, thời điểm là hôm nay, địa điểm là nơi này, cho nên muốn chàng và Sử Triêu Anh nhanh chóng rời khỏi hội trường!

Đoàn Khắc Tà nghĩ thầm trong bụng, “Chuyện này thà nên tin còn hơn không. Xem ra sư tỷ của Sử Triêu Anh không thực sự là nữ tử mãi võ trên giang hồ mà nàng che giấu thân phận, dựng cờ tỷ võ chiêu thân ở kinh thành nhằm dẫn dụ sư muội mình để mang tin tức này nói cho cô ta. Nhưng nàng lại không biết đêm qua sư muội mình đã cùng Mưu Thế Kiệt ly khai kinh thành rồi”. Nghĩ như vậy, tâm tình chàng cũng dần dần bình tĩnh lại, rồi nghĩ tiếp, “Triêu Anh cũng đã ly khai kinh thành, trên đường có gặp nguy hiểm gì thì đã có Mưu Thế Kiệt ở bên, cũng đủ để ứng phó”.

Nữ từ mãi võ mang trang phục hoa lệ sớm đã rời đi không còn thấy bóng dáng đâu, Đoàn Khắc Tà cũng đi đến trung tâm hội trường, đầu người lúc nhúc, chàng đưa mắt xung quanh không biết Thiết, Đỗ hai người đang ở chỗ nào.

Chàng còn chưa phát hiện ra Thiết, Đỗ hai người thì chợt thấy một bóng lưng quen thuộc, là ba thiếu niên quan quân. Đoàn Khắc Tà mới đưa mắt liền nhận ra, hai người đi đầu mặc trang phục hoa lệ chính là Sử Nhược Mai và Niếp Ẩn Nương. Theo sau Niếp Ẩn Nương chính là Phương Ích Phù, người hôm trước ở khách điếm tra hỏi chàng, nửa đêm đã cùng giao thủ với Đoàn Khắc Tà một trận.

Trong sát na đó, Đoàn Khắc Tà vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, chàng đến Trường An tham gia anh hùng đại hội vốn là vì Sử Nhược Mai, bây giờ quả nhiên được gặp nàng! Nếu như không phải là trong đại hội thì cơ hồ Đoàn Khắc Tà đã liền gọi toáng lên.

Sử Nhược Mai lại không phát hiện ra chàng, mặc dù khoảng cách giữa Đoàn Khắc Tà với nàng không phải là xa lắm nhưng ở giữa chỗ dầy đặc đầu người, trong khoảng thời gian ngắn Đoàn Khắc Tà cũng chẳng dễ dàng rẽ đám người mà bước qua.

Đúng lúc này, chợt thấy một nam một nữ từ trong rừng người chạy ra, thần tình kinh hỉ vô cùng, hướng ngay đến Sử Nhược Mai hỏi han. Đôi nam nữ này chính là huynh muội Độc Cô Vũ.

Đoàn Khắc Tà trong lòng chùng xuống, “Bất kể bọn họ có ước hẹn hay không nhưng lúc này họ đang luận bàn, ta sao có thể đến phá đám được?”

Chàng đưa mắt lén nhìn, chỉ thấy thần tình Sử Nhược Mai cũng thập phần kinh hỉ, Đoàn Khắc Tà lại càng cảm thấy một mảng hỗn độn, trù trừ không dám tiến về trước, “Ôi, tại sao ta vừa mới thấy nàng thì đã quên mất biểu ca, ta cần phải đi tìm Thiết biểu ca”.

Chàng nghĩ thì như vậy nhưng đôi chân lại không nghe mệnh lệnh, song nhãn thủy chung chẳng rời khỏi Sử Nhược Mai.

Trong lòng đang trù trừ chợt nghe thấy “đông, đông, đông” ba hồi trống hưởng, “đương đương đương” mấy bận thanh la, sáu cánh thiết môn khép chặt, giờ ngọ đã đến, anh hùng đại hội cũng tuyên bố khai tràng.

Giữa tràng là một tòa cao đài, dưới đài chính là tràng luận võ, Đoàn Khắc Tà đưa mắt nhìn lên đã thấy Tần Tương xuất hiện trên đài.

Trên đài có ba người đang đứng thành hàng, ở giữa là thống lĩnh vũ lâm quân Tần Tương, bên trái là phó thống lĩnh Uất Trì Bắc, bên phải là “Cửu thành tư mã” Đỗ Phục Uy. Sau ba hồi trống rền, Tần Tương hết sức cao hứng nói:

“Đa tạ chư vị bằng hữu từ xa đến, chẳng những khiến Tần mỗ mở mày mở mặt mà còn là cái phúc của quốc gia. Lời xưa có nói: ‘Học thành văn võ nghệ, mại dữ đế vương gia’. Anh hùng đại hội chính là tuyển mộ anh tài cho quốc gia, nhất thân võ nghệ của các vị không lo không gặp đường người nhận ra”.

Lập tức y tuyên bố phương pháp tỷ võ, nhân vì số lượng người quá đông, phương pháp là phân tràng, phân tổ, phân ngày cử hành, hôm nay những người đến hội đều được phát cho một thẻ đồng, dựa theo số hiệu cứ mười người làm thành một tổ, mỗi lượt đồng thời cử hành mười tràng. Phỏng chừng số người tham dự đại hội lần này có đến ngàn người, phải mười ngày sau vòng sơ loại mới có thể kết thúc. Một trăm người chiến thắng trong mười ngày đầu vòng sơ loại sẽ chọn ra mười người. Năm người đầu tiên sẽ nhận chức quan tam phẩm “Khinh Kỵ đô úy”, năm người sau sẽ nhận chức quan tứ phẩm “Suất Kỵ đô úy”. Kỳ dư chín mươi người còn lại đều được biên nhập vào làm quan quân trong vũ lâm quân.

Tần Tương tuyên bố phương pháp xong xuôi rồi nói tiếp:

“Nếu như không nguyện làm quan, triều đình cũng không miễn cưỡng, mười người chiến thắng cuối cùng đều có ban thưởng, mỗi người danh mã một con, bảo đao một thanh, ngoài ra hoàng kim trăm lượng, gấm vóc trăm thất”. (bốn trượng vải gọi là một thất vải).


Chúng nhân phó hội, đến chín phần mười đều mong chiếm được công danh, thiểu số chí sĩ không ham lợi lộc nhưng đối với danh mã bảo đao thì cũng thèm muốn vô cùng, vừa nghe Tần Tương tuyên bố xong, tiếng hoan hô nổ ra như sấm động.

Thiết Ma Lặc lúc này đã rẽ đám người đến bên cạnh võ tràng, y đứng trên hàng đầu tiên, đối diện với đài duyệt binh, y cảm thấy nhãn quang của Tần Tương cũng đã đảo qua mình. Thiết Ma Lặc vốn không muốn làm quan, chẳng nghĩ đến danh mã, bảo đao, trong lòng thầm nghĩ: “Ta chỉ muốn nhìn mặt hai vị đại ca một lần, bây giờ đều đã thấy rồi. Ta cũng đã lưu tâm bốn phía, không thấy Mưu Thế Kiệt ở đây, thiết nghĩ y sẽ không nuốt lời, nhất định là đã rời khỏi Trường An rồi”.

Vốn dĩ Thiết Ma Lặc vẫn lo lắng Mưu, Sử hai người sẽ đảo loạn hội tràng hoặc tấn công hoàng cung nhưng lúc này đã qua giờ ngọ, nếu như có người tấn công hoàng cung thì tin tức cũng đã truyền đến rồi, có thể thấy được đích xác là Mưu Thế Kiệt giữ lời hứa, từ bỏ kế hoạch kia. Thiết Ma Lặc liền nghĩ: “Đại hội đã khai tràng thuận lợi, đến chín phần mười hôm nay sẽ không có chuyện gì. Thẻ đồng này ta không lĩnh cũng được, chi bằng sớm quay trở về, đêm nay bảo Khắc Tà đưa tin cho Tần đại ca, nhắc huynh ấy cẩn thận nhiều hơn, thế cũng được rồi. Ngày mai ta và Khắc Tà cũng nên rời khỏi Trường An”.

Thiết Ma Lặc nhân vì sau khi vào hội trường, luôn rẽ người đi đầu tiên, còn chưa biết sáu cánh thiết môn của đại giáo trường đã đóng chặt. Y quay đầu lại nhìn, nhìn tới nhìn lui vẫn không thấy Đoàn Khắc Tà, trong lòng hơi bực, “Hài tử này thực sự không hiểu chuyện, chẳng biết lăng xăng đi đâu? Trong trường hợp này sao có thể bỏ đi một mình được chứ”.

Tâm niệm của y còn chưa dứt, đồng bài cũng chưa phát đến lượt y, chợt thấy một khoái mã phi như bay trên dải đất hoàng thổ ở sân tràng, thẳng đến trước đài mới dừng lại. Thiết Ma Lặc biết quy củ này, ở giữa sân duyệt binh, chỉ khi Hoàng đế đích thân đến, tùy tùng y mang theo, hoặc nguyên soái, tướng quân, thay thế Hoàng đế duyệt binh, hoặc trung sứ (tức sứ giả của Hoàng đế hay thái giám) mới được phi ngựa trên dải đất hoàng thổ.

Tần Tương càng ngạc nhiên, nguyên lai kẻ đến không phải là người lạ mà chính là thông lĩnh túc vệ trong cung, Long Kỵ đô úy Vũ Duy Dương. Năm đó An Lộc Sơn tạo phản, đương kim Hoàng đế Lý Hanh còn là Thái Tử, Vũ Duy Dương này là tướng quân bảo giá hộ tống Lý Hanh đến Linh Vũ, sau đó Lý Hanh tự lên ngôi tại Linh Vũ, Vũ Duy Dương cũng có công phò trợ, chờ đến khi loạn An Sử được bình định, Lý Hanh hồi đô lại Trường An, luận công ban thưởng, liền ban cho Vũ Duy Dương làm Long Kỵ đô úy, cùng với Tần Tương chức vị ngang nhau.

Túc vệ trong cung vốn là do Uất Trì Bắc thống lĩnh, Lý Hanh điều Uất Trì Bắc sang làm phó thống lĩnh vũ lâm quân, rồi bổ nhiệm Vũ Duy Dương vào chỗ khuyết. Vũ Duy Dương vốn muốn làm thống lĩnh vũ lâm quân nhưng vì Tần Tương là hậu nhân của khai quốc công thần, hơn nữa uy vọng rực rỡ, Hoàng đế cũng không dám vô cớ mà đoạt chức vị của y, mấy lần cân nhắc không xong, nên mới phải điều Uất Trì Bắc đi mà giao túc vệ cho Vũ Duy Dương thống quản. Nhưng nếu nói về được Hoàng thượng sủng tín thì Vũ Duy Dương so với Tần Tương lại hơn xa. Lần này Tần Tương chủ trì anh hùng đại hội, Vũ Duy Dương một mực không hỏi han, Lý Hanh vốn cũng định đến ngày cuối cùng mới đến. Cho nên Tần Tương thấy y đến thì bất giác thầm bất an, không biết là có sự tình khẩn yếu gì mà Lý Hanh phái y đến trước? Tần Tương đang muốn bước xuống nghênh tiếp thì Vũ Duy Dương người chưa xuống yên đã từ lưng ngựa bay lên đài. Tần Tương giật mình kinh hãi, vội vàng hỏi:

“Vũ tổng quản, có chuyện gì mà rời cung?”

Y chỉ nghĩ trong cung phát sinh sự tình gì đó. Vũ Duy Dương nói:

“Hoàng thượng có thủ chiếu cho ngài!”

Chiếu theo quy củ, nếu Hoàng đế có chiếu thư ban tới thì trước tiên nên có trung sử tới báo để chuẩn bị bày hương án quỳ nghênh tiếp chiếu. Tần Tương thấy chuyện rất ngoài ý liệu, chân tay luống cuống, trong nhất thời cũng chưa chuẩn bị hương án, chỉ đành vội vàng quỳ xuống. Vũ Duy Dương nói:

“Sự tình khẩn cấp, Hoàng thượng có lệnh, kêu Tần đại nhân bất tất phải câu nệ lễ nghi. Thỉnh đại nhân đứng đậy, ngài hãy tiếp chiếu thư, tiếp thánh chỉ xong lập tức thi hành. Cũng bất tất phải để ta tuyên đọc”.

Tần Tương hai tay đón lấy chiếu thư, vừa mở ra xem tức thì sắc mặt tái nhợt, muốn đọc cũng đọc không lên tiếng. Vũ Duy Dương hét:

“Tần đại nhân, ngươi dám bất tuân thánh chỉ sao?”

Tần Tương cầm chiếu thư giống như đang nâng vật nặng ngàn cân, hai tay run rẩy, chiếu thư chợt rơi xuống, Tần Tương đột nhiên quát to một tiếng rồi lao đầu vào cột trụ.

Tức thì toàn trường chấn động, trong tiếng kinh hô thảng thốt, Uất Trì Bắc đã bắn vọt đến ôm chặt lấy Tần Tương, kêu lên:

“Tần đại ca, huynh phạm tội gì? Ta và huynh đến kim điện kiến giá”.

Tần Tương quát:

“Buông tay, ngươi muốn hãm ta vào vòng bất trung bất nghĩa hay sao?”

Uất Trì Bắc hỏi:

“Là thế nào?”

Tần Tương kêu lên:

“Nếu ta không phụng chỉ chính là bất trung, nếu ta phụng chỉ chính là bất nghĩa! Trung nghĩa khó lưỡng toàn, Tần Tương ta chỉ có thể bỏ cái mạng này để tạ bằng hữu!”

Uất Trì Bắc nghe thấy mơ mơ hồ hồ, không biết là xảy ra chuyện gì. Nhưng có một điểm nghe rõ ràng, đó là Tần Tương không nguyện làm theo chiếu thư và hoàn toàn không phải Hoàng thượng có chỉ bắt y phải chết. Uất Trì Bắc nghe ra ý này, càng không chịu buông tay, ôm hắn càng chặt hơn. Bản lĩnh giữa hai người, luận võ nghệ thì Tần Tương cao hơn nhưng nếu luận khí lực thì Uất Trì Bắc lại mạnh hơn.

Uất Trì Bắc dùng hết khí lực toàn thân ôm chặt y, trong lúc cấp thiết Tần Tương làm sao giãy giụa thoát được. Vũ Duy Dương đột nhiên quát:

“Tần Tương kháng chỉ bất tuân, bắt hắn lại!”

Sau đài có người ứng thanh mà ra, đó là một lão đầu lưng gù, thân mình cao lớn nhưng hành động lại cực kỳ nhanh nhẹn. Vũ Duy Dương còn chưa dứt lời đã thấy hắn ra tay nhanh như điện, điểm mạnh vào “Dũ Khí huyệt” dưới nách Tần Tương, Tần Tương hắt ra một hơi, thân hình từ từ nhuyễn đổ xuống.

Thiết Ma Lặc cả kinh không ít, lão đầu lưng gù này chẳng phải ai xa lạ mà chính là Thất Bộ Truy Hồn Dương Mục Lao, hẳn là do Vũ Duy Dương và Đỗ Phục Uy sớm đã an bài mai phục phía sau đài. Vốn dĩ nếu song phương chân thực giao thủ thì Dương Mục Lao cũng vị tất thắng được Tần Tương, nhưng hiện tại Tần Tương bị Uất Trì Bắc ôm chặt, hắn lại từ phía sau đánh trộm, đâu còn đường cho Tần Tương tránh né, lập tức y bị hắn chế phục.

Dương Mục Lao đã làm một thì không bỏ hai, hắn lại một chỉ điểm tới Uất Trì Bắc, Uất Trì Bắc quát:

“Ai dám bắt đại ca ta?”

“Cầm nã thủ” của y là tuyệt kỹ gia truyền, thiên hạ không ai sánh kịp, song phương cận thân giao chiến, thủ chỉ của Dương Mục Lao còn chưa điểm trúng huyệt đạo y thì đã bị y chụp lấy cánh tay, liền dùng thế “Xa Kiên thức” ném hắn bay qua vai. “Rầm” một tiếng, Dương Mục Lao đã bị ném xuống dưới đài, hắn dùng thế “Lý Ngư Đả Đỉnh” búng mình đứng dậy nhưng chỗ bị Uất Trì Bắc chụp trúng thì nóng rát như bị áp lửa vậy.

Tần Tương lúc này đã bị võ sĩ tùy tòng của Đỗ Phục Uy trói lại, Uất Trì Bắc hai mắt như phun lửa lại muốn đến đánh mấy tên võ sĩ, Tần Tương quát:

“Uất Trì huynh đệ dừng tay, đây là thánh chỉ của vạn tuế, sao ngươi dám to gan vọng động? Tổ tiên chúng ta là trung lương, chỉ có thể mặc cho triều đình xử trí, quyết không thể làm hậu nhân bất trung bất hiếu được!”

Uất Trì Bắc tính nóng như lửa nhưng nghe Tần Tương nói ra hai chữ “Trung lương” thì lửa giận tựa như bị chậu nước lạnh đổ vào, cho dù Uất Trì Bắc có nóng nảy thế nào thì cũng không thể không chợt kinh hãi, một cỗ khí nóng nhất thời biến mất. Y lập tức nói:

“Được, đệ lấy roi vàng cùng với huynh lên kim điện kiến giá! Ai dám vô lễ với huynh, sẽ nếm một roi của ta trước. Vũ Duy Dương, Tần đại ca của ta mà ngươi trói được à?”

Nguyên lai tổ tiên của Uất Trì Bắc là Uất Trì Cung nhân cứu giá có công mà được Đường Thái Tông Lý Thế Dân ngự ban cho roi vàng, roi có thể đánh bất luận là hoàng thân quốc thích, công khanh đại thần, tiên đả hậu tấu. Cho nên mặc dù chức vị của y chẳng tính là cao nhưng bình thường, trong triều mọi người đều nể sợ y ba phần.

Nào ngờ lời y còn chưa dứt, Vũ Duy Dương, Đỗ Phục Uy đột nhiên từ sau lưng y đồng thời xuất thủ. Đỗ Phục Uy dụng “Hổ trảo thủ” chụp lất xương tỳ bà của y, Vũ Duy Dương tức tốc lôi hai cổ tay y ra trói lại. Uất Trì Bắc hét lên một tiếng lớn, hai vai rung mạnh, tức thì hai người Vũ, Đỗ loạng choạng loạng choạng liên tiếp thối lui mười mấy bước, cơ hồ muốn rớt xuống đài nhưng xương tỳ bà của Uất Trì Bắc cũng bị bóp vỡ một rẻ, hai cổ tay cũng bị trói chặt với nhau. Dương Mục Lao còn chưa yên tâm, hắn nhảy lên xem rồi lại dùng trọng thủ pháp điểm vào “Nhuyễn Ma huyệt” của y.

Vũ Duy Dương ha hả cười nói:

“Không những phải trói Tần Tương mà ngay cả ngươi cũng phải trói!”

Uất Trì Bắc tức giận đến thất khiếu phun khói, y hét lớn:

“Gia Viện, mang roi vàng của ta đến đây!”


Đỗ Phục Uy ứng thanh cười nhăn nhở:

“Đến đây, đến đây!”

Chỉ thấy một võ sĩ hai tay nâng cao roi vàng từ phái sau đài bước ra, cung cung kính kính mang roi vàng dâng cho Đỗ Phục Uy, rồi thưa rằng:

“Đã tuân mệnh đại nhân đoạt lại roi vàng của Uất Trì đại nhân!”

Uất Trì Bắc vừa kinh hãi vừa giận dữ, y oang oang mắng chửi:

“Đỗ Phục Uy, ngươi vô pháp vô thiên, không sợ cả nhà bị xử trảm hay sao mà dám tùy tiện đoạt roi vàng được ngự ban của ta!”

Đỗ Phục Uy nhận lấy roi vàng rồi ha hả cười lớn:

“Hoàng thượng thánh minh, sớm đã liệu ngươi có cây kim tiên này không chịu nghe sai khiến nên có chỉ cho ta, nếu ngươi sanh sự sẽ cho phép ta thu đoạt roi vàng của ngươi. Ha ha, chuyện hôm nay quả nhiên nằm trong dự tính của Hoàng thượng, ngươi hãy nhìn xem mật chiếu mà Hoàng thượng giao cho ta!”

Hắn móc ra một phong mật chiếu, mở ra trước mặt Uất Trì Bắc. Uất Trì Bắc nhìn qua, quả nhiên bên trên viết rất rõ ràng, chuẩn cho Đỗ Phục Uy tùy nghi hành sự, nếu Uất Trì Bắc kháng mệnh thì đoạt lấy roi vàng của y! Uất Trì Bắc có nằm mộng cũng không thể ngờ Hoàng thượng lại ban xuống một đạo mật chiếu như vậy, tức thì hai mắt tối sầm, nỗi tức giận khó có thể hình dung được, y nói:

“Cây roi vàng này là Thái Tông Hoàng đế ban thưởng, Đương kim Hoàng đế cũng không thể nói đoạt là đoạt được!”

Đỗ Phục Uy cười lạnh nói:

“Được rồi, ngươi hãy đến lý luận với Hoàng thượng!”

Uất Trì Bắc á khẩu không nói được, thần tình ảm đạm, chỉ đành mặc cho bọn chúng trói quanh người rồi đẩy xuống.

Vũ Duy Dương nói:

“Tần Tương kháng chỉ bất tuân, Đỗ đại nhân, việc đại hội anh hùng sẽ do ngài chủ trì. Chiếu thư này xin ngài nhận lấy, lập tức tuyên cáo ý chỉ ra sao”.

Từ sau khi Vũ Duy Dương đến, đóng một màn “tuồng hay”, trước tiên là Tần Tương bị bắt, sau đó roi vàng của Uất Trì Bắc bị tước, hết thảy đều do tờ thông chiếu thư này mà ra. Bên dưới đài sớm đã nhiệt náo như một chảo dầu sôi sùng sục, lúc này thấy Đỗ Phục Uy tiếp lấy chiếu thư, bức màn mơ hồ sắp được vén lên, toàn trường lặng ngắt như tờ, người người đều yên lặng lắng nghe.

Những nhân vật tam sơn ngũ nhạc tham gia anh hùng đại hội, chín phần mười là người không thạo viết lách, Đỗ Phục Uy chỉ cần tuân chỉ làm việc, không cần phải tuyên đọc nguyên văn, vì muốn những người này đều hiểu được nên mới đi tới trước đài dùng ngôn từ của mình mà nói:

“Hoàng thượng có chỉ, anh hùng đại hội lần này vốn là vì quốc gia mà lựa chọn anh tài phụ tá cho Hoàng thượng. Bởi vậy chỉ cần không phải phản nghịch, trong quá khứ dù phạm tội gì, chỉ cần thuần phục Hoàng thượng là toàn bộ có thể xóa bỏ. Mọi người có thể an tâm phó hội, không cần lo lắng”.

Đến đây hắn ngừng lại một chút rồi đổi giọng nói tiếp:

“Chỉ có một loại không thể xóa miễn, đó là tội phản nghịch, là nghịch tặc phản bội triều đình thì đương nhiên triều đình không thể dung tha!”

Trong hiện trường, nhân vật lục lâm rất hỗn tạp, lời hắn còn chưa dứt, dưới đài âm thânh nhốn nháo đã nổi lên tứ phía:

“Cái gì gọi là nghịch tặc? Hừ, đây rõ ràng là dùng kế để dụ chúng ta”.

“Chúng ta tin tưởng lời nói của Tần Tương nên mới đến. Hừ, những lời y đã nói, bây giờ Hoàng đế các ngươi lại không thừa nhận hay sao?”

Có một số người nóng nảy đã đao rút khỏi bao, cung đã căng dây, mắt thấy đại sự hỗn náo sắp xảy ra!

Đỗ Phục Uy liền vội vàng la lớn:

“Các ngươi yên lặng nghe! Thánh chỉ nói rất rõ ràng, toàn bộ phản tặc cần bắt quy án chỉ có mười tên. Những tên này đều là xướng mưu gây loạn, cầm đầu vẽ đường cho phản bội triều đình, bằng hữu hoặc bộ hạ của những tên này đều vô can. Thánh chỉ còn nói, nếu như người nào hiệp trợ với quan quân bắt được nhóm giặc này, khả dĩ còn luận công ban thưởng, bắt được một tên sẽ được phong làm ‘Xa Kỵ đô úy’, ngoài ra còn thưởng một ngàn lượng vàng! Cần bắt chỉ là mười tên này, tuyệt đại đa số các ngươi đều có thể an tâm!”

Dưới đài mọi người ầm ĩ kêu lên:

“Là mười tên nào, nói mau, nói mau!”

Mặc dù quần hào vẫn còn kinh nghi bất định nhưng đã không còn xao động như vừa rồi. Đỗ Phục Uy lau mồ hôi lạnh rồi tiếp tục nói:

“Mười tên này chúng ta sớm đã điều tra rõ ràng, chúng đã đến kinh thành, thời khắc này hơn phân nửa đang có mặt ở hiện trường. Các ngươi muốn vì quốc gia kiến công lập nghiệp, đây là thời cơ rất lớn! Có thể bắt sống phản tặc là tốt nhất, nếu như không thể, giết chết cũng được, đều được thưởng như nhau. Mười tên này là….”

Chúng nhân nín thở mà nghe, chỉ thấy Đỗ Phục Uy chậm rãi xướng:

“Mười tên này là: Thiết Ma Lặc, Mưu Thế Kiệt, Đoàn Khắc Tà, Sử Triêu Anh, Cái Thiên Hào, Đỗ Bách Anh, Lý Thiết Tranh, Long Đằng, Đổng Chiêu và Sở Bình Nguyên”.

Trong mười người này thì, hai người Thiết, Đỗ là thủ lĩnh Kim Kê lĩnh, Đoàn Khắc Tà với Kim Kê lĩnh có quan hệ cũng tính là đồng bọn Kim Kê lĩnh. Mưu Thế Kiệt là Lục lâm Minh chủ, Cái Thiên Hào là trợ thủ đắc lực nhất của y. Sử Triêu Anh bị liệt danh là phản nghịch cũng vì nàng là muội tử của phản vương Sử Triêu Nghĩa, không có can hệ gì với lục lâm. Lý Thiết Tranh, Long Đằng hai người đều là nhất trại chi chủ, mặc dù trong lục lâm không gia nhập liên minh nhưng đều tự thống lĩnh thuộc hạ, xướng ngôn tạo phản. Đổng Chiêu là độc cước đại đạo đã kim bồn rửa tay, lần này cũng bị liệt danh phản tặc. Còn có một người là Sở Bình Nguyên, mọi người trong hiện trường, đến chính phần mười đều không biết lai lịch của y.

Mỗi lần Đỗ Phục Uy xướng lên một danh tự, dưới đài lại ầm vang bốn phía, có khi là tiếng kêu kinh dị, có khi là kêu gào trợ giúp Đỗ Phục Uy, kêu đánh kêu giết.

Quần hào lúc này mới hiểu, sở dĩ Tần Tương phải tự vẫn chính là vì y buộc phải làm trái với điều đã hứa, không kể đến lời hứa của y khiến y khó có thể hạ đài được, hổ thẹn với bằng hữu.

Nguyên lai an bài nhổ cỏ tận gốc này chính là ba người Dương Mục Lao, Vũ Duy Dương và Đỗ Phục Uy bày mưu hạ độc kế. Thứ nhất có thể hạ gục Tần Tương, sau đó tiện tay diệt trừ Uất Trì Bắc. Như vậy đối với hai người Vũ, Đỗ thật là một chuyện quá mức tốt đẹp. Thứ hai, Dương Mục Lao có thể lấy công báo tư thù, dồn Thiết Ma Lặc, Đoàn Khắc Tà vào chỗ chết. Thứ ba có thể tiễu trừ được lãnh tụ trứ danh của lục lâm, đa số lãnh tụ này nằm trong vùng quản hạt của Điền Thừa Tự và Tiết Tung. Dương Mục Lao hiến kế này, đối với hai người Điền, Tiết và các phiên trấn Tiết độ sứ liên quan đều có chỗ tốt. Bởi vì chịu sự công kích của nhóm lục lâm hảo hán này chủ yếu là các phiên trấn chứ không phải triều đình trung ương, có tiếng mà không có miếng. Cho nên Dương Mục Lao lên kinh hiến kế thì được mấy người Điền, Tiết tán trợ, riêng một mình Điền Thừa Tự còn tặng hắn ngàn lượng hoàng kim để giúp hắn chi dùng cho các hoạt động. Dương Mục Lao vốn quen biết Vũ, Đỗ hai người, hơn nữa lợi hại tương đồng, đương nhiên là một lời tức đáp ứng, không cần phải dụng đến tiền lễ, hoàng kim đều chui vào túi Dương Mục Lao hết. Về phần Sử Triêu Anh vốn không có oán cừu sâu sắc với Dương Mục Lao, thân thế của nàng thập phần trọng yếu nhưng vì Đường triều đã chịu đựng loạn An Sử, Túc Tông Lý Hanh đối với kẻ còn đang tác loạn là Sử Triêu Nghĩa vẫn luôn thống hận vô cùng. Mấy người Đỗ, Vũ liệt Sử Triêu Anh vào danh sách phản nghịch hoàn toàn là vì muốn vuốt ve ý tứ của Hoàng Đế. Kẻ làm Hoàng đế đương nhiên rất sợ “Lục lâm đại đạo” “tạo phản”, hơn nữa trong danh sách lại có em gái của Sử Triêu Nghĩa, cho nên Túc Tông mới nghe Đỗ, Vũ mật tấu, lập tức phê chuẩn kế hoạch của bọn chúng, cũng không cần nể mặt Tần Tương nữa, thậm chí là bất kể sống chết.

Đỗ Phục Uy vừa mới xướng xong bản danh tự, ngay trong âm thanh tạp loạn đang ồn ĩ, chợt nghe một tiếng thét chói tai như sét đánh, Thiết Ma Lặc đột nhiên từ trong đám người phi thân nhảy lên trên đài!

Đúng là:

Anh hùng thiết đảm nào đâu sợ

Chính đại quang minh thượng võ đài.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.