Linh Phi Kinh

Chương 3: Đông Đảo Tam Tôn


Đọc truyện Linh Phi Kinh – Chương 3: Đông Đảo Tam Tôn

Nhạc Chi Dương tiu ngỉu trở về phòng, trong lòng ngập tràn hình ảnh lúc chia tay Chu Vi ban nãy. Gã đối với chuyện tình cảm nam nữ chỉ hiểu biết lờ mờ, đôi mắt ngần ngận nước của thiếu nữ hệt như một dấu ấn khó phai in đậm trong tâm trí. Nghĩ đến cảnh sau khi xuất cung sẽ không còn gặp lại Chu Vi nữa, gã chợt có cảm giác hụt hẫng to lớn, cứ thế lặng lẽ ngồi bên mép giường mãi cho đến khi tiếng gà râm ran báo sáng.

Ngày hôm sau, Chu Vi không còn cho người đến triệu kiến Nhạc Chi Dương nữa. Cô nép mình trong tẩm điện chẳng hề ló chân ra khỏi cửa nửa bước, thi thoảng ở đó có tiếng đàn dìu dặt phát ra, âm điệu du dương trầm bổng. Nhạc Chi Dương tập trung lắng nghe, cảm giác như trong tiếng đàn có trăm mối nghìn tơ muốn níu giữ lấy gã. Đang muốn nổi sáo hòa nhịp, thế nhưng khi gã rút sáo ra lại chợt nhớ đến thân sáo giờ đây đã rạn nứt chẳng thể véo von được nữa. Gã rầu rĩ ngập lòng, chẳng có cách nào bày tỏ, hận không thể phá cửa xông vào trong mà nói với Chu Vi rằng, bất kể Thạch Ngư hay chuyện sống chết gã đều mặc xác, chỉ cần một lời nói của cô, gã sẽ ở lại trong cung, ngày ngày cùng cô gảy đàn thổi sáo sống hết kiếp này.

Nghĩ đến đây chợt có cảm giác nhói buốt đằng ngực, Nhạc Chi Dương bừng tỉnh nhớ đến lời nói của Lãnh Huyền, sắp đến thời điểm thần châm phác tác, tính mạng của gã cũng chẳng còn kéo dài được lâu, đừng nói đến chuyện răng long đầu bạc, ngay cả có thể sống đến ngày mai hay không cũng là việc chưa thể đoan chắc.

Gã ủ rũ nằm vật xuống giường, đầu hồi tưởng lại từng cuộc chạm trán trong mấy ngày qua, cảm giác như bản thân đang chìm trong một giấc mộng dài.

Ăn cơm trưa xong thì Chu Vi chợt đòi gặp mặt, Nhạc Chi Dương phấn chấn tinh thần vội vã đi đến tẩm điện. Còn chưa bước vào cửa, một mùi hương lạ đã bay xộc vào mũi, gã ghé mắt nhìn ra, trong làn khói sương lượn lờ, tiểu công chúa đang chấp tay quỳ xuống phía trước một bàn hương án, trên bàn có thờ một tượng quan âm bằng ngọc trắng, vẻ mặt hiền từ, y phục ra dáng bay chấp chới. Hai mắt Chu Vi khép hờ, gương mặt nhợt nhạt như được tượng ngọc soi chiếu lấp lánh.

Nhạc Chi Dương ngắm nhìn thiếu nữ đến mức quên cả thở, đến khi gã giật mình choàng tỉnh thì chúng cung nữ đã lặng lẽ rút lui cả rồi.

Chu Vi thở hắt ra một hơi, đứng lên rồi quay đầu lại. Một đêm xa cách, sắc mặt của cô đã tiều tụy đi không ít, đôi tròng mắt ảm đạm thiếu sức sống toát ra vẻ mông lung mờ mịt. Nhịp tim Nhạc Chi Dương lập tức đập dồn, trên người xốn xang như có một mồi lửa thiêu đốt, vốn định bước đến trước hai bước nhưng có lẽ vì mùi khói hương nên thân thể gã cứ mềm oặt chẳng gượng được chút sức nào.

Hai người lặng nhìn nhau thật lâu, Chu Vi trỏ vào tấm đệm bên cạnh trác đàn, bảo:
– Ngồi xuống đi!

Nhạc Chi Dương ậm ừ trong miệng rồi hậm hực ngồi xuống. Gã liếc mắt trộm nhìn thiếu nữ, vẻ mặt Chu Vi lạnh nhạt thờ ơ không thể đoán được tâm tư trong lòng.

Tiểu công chúa cũng ngồi xuống, tựa người vào một bên Phi Bộc Liên Châu, ngón tay chạm trên tơ đàn, ánh mắt cứ ngây phỗng nhìn lên trần nhà.

Nhạc Chi Dương ho khan hai tiếng, thấp giọng nói:
– Công chúa, ta … Ta…

Chẳng hiểu sao gã vốn đã chuẩn bị câu chữ đàng hoàng nhưng giờ phút này một từ cũng không thốt ra được.

– Ống sáo của ngươi đâu? – Chu Vi chợt cất tiếng hỏi.

Nhạc Chi Dương rút sáo ra, thiếu nữ cầm lấy lướt mắt quan sát rồi khẽ giọng:
– Đúng là đã hỏng thật rồi!

Hóa ra, lúc Nhạc Chi Dương thổi lên vài tiếng vào hôm qua, Chu Vi vốn là người sành âm luật, chỉ cần nghe thoáng là biết ống sáo đã bị hư hại. Nàng khẽ khàng vuốt ve thân sáo, lặng im hồi lâu mới rút ra một chiếc hộp gỗ tử đàn dài ở bên người, đẩy nhẹ đến trước mặt Nhạc Chi Dương. Nhạc Chi Dương nhận lấy hộp gỗ, chẳng hiểu đầu cua tai nheo, chỉ nghe Chu Vi giục:
– Ngươi mở ra mà xem!

Nhạc Chi Dương hé mở nắp hộp, trên tấm vải lót sa-tanh màu vàng tươi có đặt một thanh sáo dài bằng phỉ thúy. Thường thường, ống sáo thông dụng chỉ dài một thước tám tấc còn ống sáo này dài phải đến hơn hai thước, điêu khắc hoàn toàn từ nguyên khối phỉ thúy, tay nghề hết sức tinh xảo, cả trong lẫn ngoài đều bóng loáng, thân sáo lấp lánh sắc xanh biếc trông chẳng khác nào một dòng nước thu. Phần đuôi sáo có chạm trổ hai chữ Triện thanh thoát được mạ vàng, nét chữ mảnh mai mà sắc sảo, ở bên cạnh còn có ghi một hàng cổ Triện nhỏ li ti. Nhạc Chi Dương đọc hoài không ra, chân mày khẽ chau lại.

– Hai chữ lớn ấy đọc là “Không Bích”, còn hàng chữ nhỏ ghi là “Thạch Quý Luân đắc Thương Ngô Huyền phủ.”(*) – Giọng nói của Chu Vi vang lên hết sức điềm đạm: – Thanh sáo ngọc phỉ thúy này vốn được Thạch Sùng đời Tống tặng cho ái thiếp của mình là Lục Châu. Lục Châu dung mạo sẵn kiều diễm, tài thổi sáo lại tuyệt diệu vô song khiến cho Thạch Sùng yêu chiều nàng hết mực. Về sau, Xa Kỵ tướng quân Tôn Tú đến phủ họ Thạch làm khách cũng say mê nàng Lục Châu như điếu đổ, y bèn phái sứ giả đến thỉnh cầu Thạch Sùng ban tặng Lục Châu cho y.
(ND chú: nghĩa là “thanh sáo này do Thạch Quý Luân – tên hiệu của Thạch Sùng, có được ở vùng Thương Ngô Huyền – Quảng Tây ngày nay”, câu chuyện Chu Vi đang kể là 1 câu chuyện có thật trong lịch sử.)

Nhạc Chi Dương nghe thấy không vui, nhủ bụng: “Nhà quyền quý bọn cô sao cứ hay mang người ta ra tặng tới tặng lui thế? Hừ, bộ tưởng hay ho lắm sao?”

Chu Vi không nhận ra sắc mặt của gã, vẫn kể tiếp:
– Thạch Sùng sau khi nghe lời sứ giả liền tập hợp toàn bộ người đẹp trong phủ lại, bảo rằng: “Đây là giai nhân trong phủ của ta, xin tùy ngài chọn ra một người!”

– Sứ giả của Tôn Tú nói: “Ta vâng lệnh phải mang Lục Châu trở về, trong số này ai là Lục Châu?”

– Ngờ đâu Thạch Sùng nghe xong thì cả giận quát lớn: “Lục Châu là tỳ nữ yêu dấu nhất của ta, tuyệt đối không tặng cho ai cả!” Khi ấy Tôn Tú cấu kết với Triệu Vương – Tư Mã Luân, quyền hành khuấy đảo khắp cả triều chính lẫn dân gian, nghe được lời ấy thì nổi trận lôi đình bèn đưa lời sàm tấu lên Tư Mã Luân, nói rằng Thạch Sùng mưu phản cần phải diệt trừ. Tư Mã Luân nghe lời sai đội binh giáp bao vây lấy phủ Thạch Sùng. Lúc đó Thạch Sùng đang thết đãi quan khách trên lầu, trông thấy Tôn Tú dẫn binh lính phá cửa xông vào, lập tức hiểu chuyện gì đã xảy ra. Hắn thê lương nhìn Lục Châu, thở dài tuyệt vọng: “Lục Châu ơi Lục Châu, hôm nay ta nhà tan cửa nát đều là do nàng cả!”

– Lục Châu nghe xong buồn tủi vô hạn, nước mắt ngắn dài: “Lục Châu bất tài, xin nguyện được chết trước mặt đại nhân!”

– Nói rồi không đợi cho Thạch Sùng kịp trở tay, nàng giắt theo thanh sáo Không Bích rồi gieo mình khỏi tòa lầu cao mấy trượng, ngã xuống chết ngay trước mặt Tôn Tú.

Nhạc Chi Dương nghe mà thầm giật mình, theo ý thức miết lấy thân sáo, chỉ thấy da tay truyền lên cảm giác rét buốt, mềm mịn sống động, giữa sắc xanh lành lạnh như có ánh sáng lấp lánh, thoảng như linh hồn Lục Châu vẫn chưa tiêu tán mà còn lẩn khuất trong thanh sáo này. Gã tò mò hỏi:
– Về sau thế nào?

Chu Vi cười buồn: “Về sau Thạch Sùng bị tịch biên tài sản, họ tộc chết sạch, toàn bộ già trẻ lớn bé trong nhà không ai sống sót. Kể ra, tay Thạch Sùng này sinh thời là kẻ giàu sang hách dịch, thê thiếp trong phủ nhỡ mà trái ý sai lời hắn thì nhất định bị trừng phạt chẳng tha. Theo “Thế Thuyết Tân Ngữ”(*) mô tả, lúc Thạch Sùng còn đương quyền tại vị, các buổi yến tiệc đãi khách đều để cho mỹ nhân trong phủ mời rượu, vị khách ngồi bàn nào mà không uống hết rượu trong chung thì hắn sẽ sai chém đầu mỹ nhân mời rượu bàn đó, vì thế khách nhân dù cho tửu lượng kém đến đâu cũng phải miễn cưỡng uống cạn. Về sau có vị đại tướng quân Vương Đôn đến dự tiệc, ông ta vốn là người lòng dạ sắt đá, cố chấp không uống để xem Thạch Sùng ứng xử ra sao. Thạch Sùng vì việc này, đã một hơi mang ba mỹ nhân ra giết chết. Ôi, một kẻ đại ác nhân như vậy đến giây phút cuối lại vì một tỳ nữ thổi sáo mà bán cả mạng sống, đủ thấy vật này ấp ủ bao nhiêu tình cảm không thể kể xiết được!”
(ND chú: đây là bản bút ký tiêu biểu thời kỳ Nam Bắc triều do danh nhân thời Tống là Lưu Nghĩa Khánh và các cộng sự biên soạn, tác phẩm gồm 3 tập thượng-trung-hạ với hơn một ngàn cố sự về tư tưởng sinh hoạt của các kỳ sĩ, đại phu bên cạnh diện mạo xã hội thời điểm đó.)

Nhạc Chi Dương lòng đầy cảm khái, buông thanh Không Bích xuống, hướng mắt sang Chu Vi để cho đôi mắt hai người đối diện nhau. Tròng mắt Chu Vi tối đen, lộ vẻ thảm đạm, ánh lệ loang loáng ẩn hiện hệt như một lớp sương mờ bao phủ trên đầm nước sâu.

Khoảnh khắc đó, đầu óc Nhạc Chi Dương trở nên trống rỗng, đến khi gã tỉnh lại thì Chu Vi đã nằm gọn trong lòng mình. Thiếu nữ nép vào nơi ấy ngoan hiền như một chú mèo con, khuôn mặt trắng phao ngẩng lên, ánh mắt lấp lánh chuyển động, ngón tay mềm mịn như tơ vuốt ve khuôn mặt Nhạc Chi Dương suốt từ cạnh trán dọc xuống bờ môi khóe miệng, như muốn thông qua ánh mắt và bàn tay này mà ghi khắc thật sâu dung mạo của gã vào tâm khảm.

Nhạc Chi Dương ôm ghì lấy cô, đôi cánh tay gần như dùng hết cả sức lực. Thảy những Tử Cấm thành, cung diện, sống chết, vương quyền… tất cả ngoại vật đều đã tan biến hết, giữa cõi trời đất này chỉ còn lại mỗi hai người bọn họ mà thôi.

Nhạc Chi Dương mê muội đi trong thứ cảm xúc diệu kỳ, trước tiên là vui sướng, kế đó là đắm say, về sau nơi cõi lòng dâng lên một nỗi bi thương khó diễn tả. Gã có cảm giác người con gái trong lòng mình đang thổn thức khóc thầm, dòng lệ xuôi theo lọn tóc mai mà nhỏ xuống, trôi qua mu bàn tay của gã rồi ngấm thẳng vào đáy tim.

Hai người cứ ngồi như thế chẳng biết đã qua bao nhiêu thời gian, chợt nghe vang lên tiếng gõ cốc cốc, cả hai giật mình hoảng sợ vội tách nhau ra, theo tiếng động nhìn lại, trên song cửa giấy hiện lên bóng hình của một người, giọng nói của Lãnh Huyền trôi tuột vào bên trong:
– Công chúa điện hạ, đã đến giờ rồi!

Chu Vi sắc mặt buồn bã, khẽ giọng nói:
– Lãnh công công, mời vào!

Lời vừa vơi đi, trong gian phòng nổi lên một trận gió nhẹ, Lãnh Huyền trong bộ áo trắng tang tóc như từ một thế giới khác xuất hiện trước mặt hai người. Nhạc Chi Dương thấy lão mà tim đập thình thịch, cảm giác kẻ này nào phải con người mà đúng thật là hồn ma bóng quế.

Lãnh Huyền tay cầm phất trần, cúi đầu nói:
– Công chúa điện hạ, mọi việc đã được an bài thỏa đáng, chỉ còn đợi ta thi triển thuật giả chết mà thôi!

Chu Vi ngần ngừ một thoáng, bảo:
– Lãnh công công, việc này thật sự không nguy hiểm chứ?

Lãnh Huyền cười đáp:
– Công chúa an tâm, nô tài lấy tính mạng ra bảo đảm!

Chu Vi gật đầu, ánh mắt dõi sang Nhạc Chi Dương.

Nhạc Chi Dương đứng lên, mặt hướng về Lãnh Huyền. Lãnh Huyền chăm chú nhìn gã một lúc rồi gật gù, ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải hợp lại vẫy nhẹ vào không khí, tấm đệm cói dùng lễ phật như có sự sống bay tốc lên cao rồi lăn tròn đến trước mặt Nhạc Chi Dương. Nhạc Chi Dương chứng kiến kỹ năng thần kỳ như vậy, đầu óc trở nên mơ hồ, chỉ ngờ đang trong cõi mộng, bên tai vọng đến tiếng nói của Lãnh Huyền:
– Mời ngồi!

Nhạc Chi Dương ngồi xếp bằng, Lãnh Huyền cũng ngồi xuống phía đối diện, sắc mặt nghiêm túc, hai mắt nhắm hờ, gương mặt khô đét ánh lên một luồng hào quang lấp lánh. Nhạc Chi Dương đang lấy làm lạ chợt thấy Lãnh Huyền giơ tay lên, nhập hai ngón trỏ và giữa lại điểm vào bên trái người gã. Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy một dòng nước lạnh buốt đổ ập vào thân thể, từ đầu gối trái trở xuống lập tức mất đi tri giác. Gã giật mình bèn đưa tay sờ thử, nơi ấy tê dại hệt như một tảng đá.

Đang lúc khó hiểu, Lãnh Huyền lại vung một ngón tay điểm vào đằng sau gối trái mang theo cơn lạnh rót vào bên trong, từ gối trái trở lên cũng mất hẳn cảm giác. Nhạc Chi Dương hô khẽ một tiếng, giãy giụa toan đứng lên. Lãnh Huyền ra tay nhanh như chớp, điểm ngón tay trúng vào mắt cá chân phải của gã, khí lạnh ùa vào, từ cẳng chân trở xuống trở nên cứng đờ. Nhạc Chi Dương vùng vẫy một thoáng lại ngồi oạch xuống đệm, hai mắt mở trừng trừng nhìn Lãnh Huyền, trong lòng ngập tràn lo sợ. Chợt đâu Chu Vi vỗ nhẹ lên vai gã, thỏ thẻ:
– Đừng sợ, ông ấy chỉ phong tỏa kinh mạch của ngươi mà thôi!

– Kinh mạch?

Nhạc Chi Dương ngỡ ngàng không hiểu, chỉ nghe Chu Vi thở dài:
– Ông ấy trước tiên điểm vào huyệt “Tam Âm Giao” của ngươi, sau lại điểm huyệt “Âm Lăng Tuyền”, đó đều là những yếu huyệt của “Túc Thái Âm Tì Kinh”, cho nên một khi huyệt đạo bị phong tỏa thì máu huyết cũng ngừng lưu thông, cẳng chân này của ngươi đương nhiên là không cử động được…

Trong khi cô giảng giải, Lãnh Huyền ra tay lúc nhanh lúc chậm, thoắt trái thoắt phải, liên tiếp điểm trúng vào các yếu huyệt của Nhạc Chi Dương, điểm trúng chỗ nào thì chỗ đó mất đi tri giác. Đầu ngón tay của lão thái giám cuồn cuộn hơi lạnh, trong quá trình ra tay cũng từng chút một xóa tan đi sự sống của Nhạc Chi Dương, Chu Vi còn chưa giải thích xong thì từ thắt lưng gã trở xuống đã hoàn toàn mất đi cảm giác hệt như cành khô đá cuội.

Lúc này Lãnh Huyền đặt cây phất trần xuống, bật người đứng dậy, lần bước đi vòng quanh Nhạc Chi Dương. Lão càng đi càng nhanh, hay tay vung ra một lượt, ngón tay như gió lần lượt điểm vào trước ngực, sau lưng và đôi cánh tay của Nhạc Chi Dương. Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy một cảm giác tê tê từ ngón trỏ ở hai bàn tay nhói lên rồi lan ra như thủy triều tuôn chảy về phía lồng ngực, tích tắc sau, từ bụng dưới lên đến hai vai cũng mất đi cảm giác hoàn toàn.

Lãnh Huyền ra tay mỗi lúc một nhanh, khí thế như nỏ thần giật bắn, thân pháp lẹ như cuồng phong. Chu Vi đứng xem bên cạnh cũng cảm thấy váng cả mặt mày. Chợt nghe Nhạc Chi Dương “A” lên một tiếng, cùng lúc đó Lãnh Huyền tung ra một ngón tay ấn trúng vào huyệt “Thiên Đột” nơi yết hầu của gã. Tiếng kêu của Nhạc Chi Dương nghẹn tắc lại, hệt như cảnh xén đứt cổ một người còn sống.

Chu Vi hết sức lo lắng, “Thiên Đột” là huyệt quan trọng trên cơ thể đồng thời cũng là tử huyệt trí mạng, nghĩ đến đây cô nhịn không được bèn xông lên phía trước, nhưng chưa kịp tới gần đã cảm thấy một luồng khí lạnh ập tới trúng ngay vào huyệt “Đan Điền” phía bụng dưới. Chu Vi máu huyết dường đông lại, cứng người ra tại chỗ. Cô cảm thấy không ổn, một ý nghĩa chợt lóe lên trong đầu: “Thôi chết, Lãnh công công muốn hại Nhạc Chi Dương!” Nhưng cô ngẫm lại, nếu Lãnh Huyền muốn hại người thì vốn dĩ chẳng cần nhọc nhằn, lãng phí nhiều thời gian công sức đến vậy, thật làm người ta nghĩ mãi không ra.

Trong lúc cô lo lắng, Lãnh Huyền bất chợt giảm tốc độ lại, thân người như nước chảy mây trôi chầm chậm xoay quanh Nhạc Chi Dương, đôi lúc đảo lên trên hai vòng, vừa rồi lại vung ngón tay điểm vào những yếu huyệt trên đầu Nhạc Chi Dương. Lão ra tay chậm hẳn đi, Chu Vi trông thấy mới dần hiểu ra, những huyệt mà lão vừa điểm đều thuộc về “Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh”; đầu lại là phần tối quan trọng trong Lục Dương, muốn phong tỏa sự sống mà không làm thương tổn đến não bộ quả là một việc chẳng hề dễ dàng, cho nên Lãnh Huyền mới hai mắt trợn trừng, ánh nhìn như chớp lóe, cơ mặt khẽ giần giật, rõ ràng là đã trầy trật không ít.

Điểm xong “Tam Tiêu Kinh”, lại đến “Túc Thiếu Dương Đảm Kinh”, trong dãy kinh mạch này thì gần như “Thiên Trùng”, “Não Không”, “Dương Bạch” là những nơi ấn vào chết ngay, vì thế Lãnh Huyền ra tay chậm rãi, bước chân lần khần không dứt khoát, ngón tay như đeo lấy ngàn cân, trên mặt tỏa ra một làn khói xanh nhạt, trên lưng áo cũng rịn ra từng bệt mồ hôi lớn. Từ khi Chu Vi nhận biết đến nay, lão thái giám này luôn xuất quỷ nhập thần, cười nói tự nhiên mà đương cự địch thủ, chưa bao giờ thấy lão phải vất vả như thế này. Cô suy nghĩ đến điểm này, nỗi nghi hoặc trong lòng cũng giảm thiểu đi, cố gắng mở to hai mắt chăm chú quan sát từng cử chỉ của Lãnh Huyền.

Chẳng bao lâu, Lãnh Huyền đã điểm xong các huyệt đạo ở “Đảm Kinh”, bèn chuyển ra phía trước người Nhạc Chi Dương phong tỏa nhâm mạch. Lần này lão ra tay thần tốc, thoáng chốc đã làm xong, lại nhoáng cái bay ra sau lưng Nhạc Chi Dương, niêm kín các huyệt của đốc mạch.

Nhạc Chi Dương ngồi ngay đơ tại chỗ, hơn nửa người đã mất đi cảm giác, bên tai lặng im phăng phắc, lỗ mũi chẳng còn ngửi được hương thơm, mồm miệng đã đánh mất đi đằng nào, chỉ có đôi mắt là còn trông thấy được sự vật, thế nhưng thị giác cũng chập chập chờn chờn, vật vờ buồn ngủ. Gã cố gắng nhướng mí mắt lên, trong lúc mơ hồ chỉ thấy đằng trước bóng trắng lay động, hiện ra khuôn mặt già háp của Lãnh Huyền. Lão thái giám đôi mày trợn ngược, bờ môi mím chặt, chầm chậm giơ tay lên, hai ngón tay khép lại như mũi kiếm điểm thẳng vào ấn đường của gã. “Phụt!”, một luồng khí lạnh xông thẳng vào trán, đầu óc Nhạc Chi Dương lùng bùng, hai mắt theo đó tối sầm lại rồi ngất đi, chẳng còn biết trời trăng gì nữa.

Thình lình, một sự rung chuyển phát ra bên dưới cơ thể, Nhạc Chi Dương từ cõi mịt mờ hư vô choàng tỉnh lại, bốn bên đều đen kịt, nồng nặc mùi bùn đất. Gã giãy giụa một lúc, tay chân vẫn không chịu nghe lệnh điều khiển, bên trên vọng đến âm thanh sột soạt, chẳng bao lâu, âm thanh ấy cũng dần dần lặng đi, xung quanh lại trở lại vẻ im lìm như cũ.

Nhạc Chi Dương có cảm giác nhịp tim đã đập trở lại, một làn khí ấm từ buồng tim đang lan tỏa khắp tứ chi, hơi ấm truyền đến đâu tay chân lập tức phục hồi tri giác đến đấy, cảm giác tê dại từ trong xương tủy cũng đồng thời nổi lên khiến cho gã khó chịu khôn xiết. Mất cả buổi trời cảm giác tê dại ấy mới lùi xuống thì cảm giác nghẹt thở lại chợt xuất hiện, ngực gã như bị một tảng đá lớn chèn lên, sức nặng của nó ngày một bành trướng khiến cho gã chật vật không sao tả được. Gã co duỗi thử tay chân, cảm thấy có chút sức lực bèn giơ tay sờ soạn hai bên thăm dò nhưng đều chạm phải lớp ván dày cộp, sờ lên phía trên lại là một thớt gỗ cong cong, bề mặt nhẵn nhụi như được phết lên một lớp sơn bóng.

Thần trí ban đầu còn lờ mờ, lúc này đã dần tỉnh táo trở lại, Nhạc Chi Dương đột nhiên nhận ra giờ phút này gã đang nằm trong một cỗ quan tài, còn âm thanh kỳ lạ ban nãy chính là tiếng hạ huyệt, trên nắp quan lúc này toàn là bùn đất, không khéo gã đã bị người ta chôn sống!

Nhạc Chi Dương lính quýnh ra sức gõ đập nắp quan tài, mấy tiếng “thình thình” vang rền khắp bên tai, gã chỉ cảm thấy đầu váng mắt hoa, còn nắp quan thì vẫn im ỉm không nhúc nhích. Không khí trong quan tài có hạn, sau mỗi lần gã vùng vẫy lại càng tiêu hao nhanh hơn, cảm giác ngột ngạt chèn ép trong ngực mỗi lúc một tăng khiến cho khoang ngực gã gần như muốn nổ tung.

Nhạc Chi Dương cảm thấy trước mắt sao xẹt loạn xạ, ý thức cho gã biết rằng trong chuyện này có gì đó nhầm lẫn, lỡ như Lãnh Huyền không có mặt kịp thời chỉ e lúc lão tới nơi gã đã chết ngạt mất rồi; hoặc giả đúng là lão thái giám lòng dạ khó lường, toan tính muốn chôn sống gã thật. Đúng rồi, vì lẽ đó, Nhạc Chi Dương với thân phận thái giám mới có thể danh chính ngôn thuận chết chôn mà không làm tổn hại đến thanh danh của công chúa Bảo Huy, điều buồn cười là gã đã tin tưởng mà sa vào toan tính của lão thái giám. Mà khoan đã, nếu như muốn giết gã thật, việc chôn sống chẳng phải tốn công phí sức hay sao, dựa vào bản lĩnh của Lãnh Huyền thì chỉ cần nhấc ngón tay cũng có thể lấy đi cái mạng nhỏ của gã.

Nhạc Chi Dương nghĩ mãi vẫn không ra, hít thở càng lúc càng khó khăn, giống như có một đôi bàn tay lớn đang bóp chặt lấy cổ.

Trong cơn tuyệt vọng, gã chợt chạm tay vào một chiếc hộp dài, mở nắp ra bên trong chính là thanh Không Bích nọ. Trong quan tài tối tăm ảm đạm, ngay cả ngọc thạch hiếm quý cũng mất đi ánh hào quang. Nhạc Chi Dương tay cầm sáo ngọc, trong đầu nảy ra một suy nghĩ đáng sợ: “Chẳng lẽ Chu Vi đã sớm biết việc này? Nếu không vì sao cô ấy lại rơi nước mắt? Thanh sáo ngọc này có lẽ không đơn thuần là một món quà tặng mà chính là một vật bồi táng.”

Ý nghĩ này lướt qua, Nhạc Chi Dương không kềm được giận dữ, gã dùng ống sáo gõ cật lực lên nắp quan tài. Chất liệu phỉ thúy cứng rắn đến lạ kỳ, để lại vô số vết lõm sâu trên ván gỗ.

Cơn giận này khiến cho gã nhanh chóng kiệt sức, gõ đến lần thứ năm, Nhạc Chi Dương toàn thân bủn rủn, đầu óc mơ màng choáng váng, vô số ý niệm phức tạp đan lồng vào nhau mà chẳng thể lý giải được.

Bỗng đâu quan tài trở nên rung lắc. Nhạc Chi Dương còn chưa kịp hiểu xảy ra chuyện gì, phần thân dưới đã bị tròng trành kịch liệt, đầu của gã va bộp vào nắp quan tài. Tiếp đó, cổ quan tài bật mở, luồng không khí rét căm ùn ùn xổ vào trong, luồn vào ngập mũi miệng của gã, trái tim tê dại từ nãy giờ cũng đập trở lại. Nhạc Chi Dương hé mắt ra nhìn, chỉ thấy sao giăng đầy trời, lấp lánh sáng ngời dưới màn đêm.

– Chui ra đi! – Thanh âm the thé của Lãnh Huyền cất lên vào lúc khuya khoắt thế này giống hệt như tiếng quỷ gọi.

Nhạc Chi Dương nghe được lời nói ấy mới dám tin rằng mình đã sống lại. Gã hít sâu vào một hơi, tay chân bỗng nhiên lấy lại sức lực, lập tức bật người đứng dậy, phóng mắt nhìn quanh. Lãnh Huyền đứng cách đó không xa đã thay đổi trang phục trên người, lão mặc áo đen mũ nồi làm cho đôi gò má gầy đét càng nổi bật hơn.

Xung quanh lố nhố những nấm mồ cao thấp, cỏ dại um tùm khua xạc xào trong cơn gió đêm, một trảng sương mờ bốc lên sống động hệt như những bóng ma chập chờn.

– Nhạc Chi Dương…

Một giọng nói khẽ khàng vang lên, trong nỗi xúc động còn pha lẫn sự ngập ngừng.

Ngoài Lãnh Huyền ra còn có ai khác ư? Nhạc Chi Dương theo tiếng gọi dõi mắt ra nhìn, phía sau lưng Lãnh Huyền có một người đang đứng.

Bóng người ấy chuyển động bước khỏi bóng lưng Lãnh Huyền, hóa ra là một người trẻ tuổi áo vàng, tay mang kiếm dài, bờ vai nhỏ nhắn, tứ chi thon thả, hai má bóng mịn như ngọc, chân mày uốn lên như lông chim trả, dưới làn mi là đôi tròng mắt to đen lay láy.

Người trẻ tuổi ấy rưng rưng nhìn gã nửa cười nửa khóc, Nhạc Chi Dương ngẩn người rồi bất chợt hét toáng lên, nhảy nhổm ra khỏi quan tài, chạy ào đến trước mặt người trẻ tuổi ấy rồi giơ tay ra ôm chặt người ấy vào lòng. Người trẻ tuổi ấy thoáng cựa quậy rồi thân thể mềm nhũn đi, giọng nói nhẹ hẫng đến mức gần như không nghe thấy:
– Nhạc Chi Dương, ngươi còn sống đây ư…

– Còn sống, ta còn sống! – Nhạc Chi Dương vừa sống lại từ cõi chết, tâm tình vô cùng kích động, không kềm được bật cười ha hả: – Công chúa điện hạ, sao cô lại đến nơi này vậy?

Chợt nghe Lãnh Huyền hừ một tiếng, hai người mới giật mình nhớ ra còn có người khác, lập tức tách nhau ra. Lão thái giám sắc mặt u ám, lạnh lùng nói:
– Công chúa điện hạ, đừng quên thân phận của mình.

Chu Vi mặt nóng như lửa đốt, cúi thấp đầu xuống. Lãnh Huyền lại liếc nhìn Nhạc Chi Dương, nạt:
– Thằng quỷ nhỏ, ngươi cũng chớ suồng sã quá mức!

Nhạc Chi Dương lâng lâng như thể đang nằm chiêm bao, gã nhìn xung quanh thắc mắc:
– Lãnh công công, đây là nơi nào?

– Đây là bãi tha ma ở phía bắc kinh thành, tất cả những cung nữ, thái giám không nhà cửa đều được chôn cất tại nơi đây, kẻ nào khi sống được ân sủng thì có thêm một cổ quan tài, kẻ thất sủng cùng lắm chỉ có một manh chiếu lau quấn xác rồi quẳng xuống hố là xong!

Lãnh Huyền nói đến đây liền đưa mắt nhìn ra đám mồ mả xung quanh, vẻ mặt thoảng đượm thê lương.

Nhạc Chi Dương gãi gãi đầu, trong lòng vẫn chưa tan hết sợ hãi:
– Lãnh công công, ông đến muộn chút nữa thì ta đã đi đời nhà ma rồi!

Lãnh Huyền hừ một tiếng, lạnh lùng nói:
– Việc này thì ngươi phải hỏi công chúa điện hạ kia kìa!

Sắc mặt Chu Vi lúc đỏ lúc trắng, ấp úng kể:
– Nhạc Chi Dương, đều là do ta cả! Ta thấy ngươi được liệm vào quan tài, trong lòng rất lo lắng, định bụng phải thấy bằng được ngươi tỉnh lại nên mới quấn riết lấy Lãnh công công đòi xuất cung. Lãnh công công chịu mè nheo không thấu đành phải dẫn ta ra đây, vì thế dọc đường đi mới bị chậm trễ. Ôi, chỉ trách ta tùy hứng, suýt nữa đã hại tính mạng ngươi…

Cô nghĩ lại mà còn cảm thấy sợ, thân thể bỗng chốc ớn lạnh.

– Không sao cả, không sao cả! – Nhạc Chi Dương liên tiếp xua tay: – Ta còn cho rằng sẽ không gặp được cô nữa, nếu có thể hội ngộ thế này, ta có chết thêm lần nữa cũng không hề gì!


Chu Vi cảm thấy bùi lòng mát dạ, ngoài miệng thì mắng:
– Nói nhảm vừa thôi, người ta chết một lần là đủ rồi, còn có thể chết đến mấy lần chứ?

Nhạc Chi Dương cười bảo:
– Chẳng phải có câu “Cửu tử nhất sinh” hay sao? Xem chừng, biết đâu người ta có thể chết đến chín lần đấy!

– Ăn nói linh tinh! – Chu Vi nửa bực nửa buồn cười: – Cửu tử nhất sinh” đâu phải có ý nghĩa như vậy!

Nhạc Chi Dương cười khì khì định nói tiếp, chợt nhiên Lãnh Huyền nhìn lên nền trời giục:
– Không còn nhiều thời gian nữa, Linh Đạo Thạch Ngư ở nơi nào?

Nhạc Chi Dương đáp:
– Ở tại bờ sông Tần Hoài!

Lãnh Huyền liếc mắt nhìn gã, nhạt giọng:
– Hiện tại là giờ Dần ba khắc, non nửa giờ nữa thánh thượng sẽ tỉnh giấc, hôm nay có buổi triều sớm đến cuối giờ Ngọ thì bãi triều, vào giờ Tỵ ta phải trở về. Phần công chúa, lừa được kẻ khác chứ không lừa được người trong cung Bảo Huy, trước giờ Ngọ mà chưa hồi cung chắc chắn sẽ làm kinh động mọi người. Theo tính toán lúc này chúng ta còn hai canh rưỡi thời gian nữa. Nhóc con, ngươi đừng hòng ăn nói qua loa với ta, bằng không hôm nay trên người ngươi sẽ mọc ra một lỗ thủng đấy!

– Không dám, không dám! – Nhạc Chi Dương cười nói: – Lãnh công công võ nghệ cái thế, ta đoán đâu có chuyện gì làm khó được ông.

Lãnh Huyền hừ một tiếng, bảo:
– Võ nghệ cái thế à? Nói nghe sao dễ? Bốn chữ ấy trên đời này chỉ có một người xứng đáng mà thôi!

Nhạc Chi Dương tò mò hỏi:
– Ai vậy?

Lãnh Huyền không nói lời nào, ngẩng đầu nhìn về phía tây xa xa, nơi đó treo một vành trăng khuyết lạnh lẽo đang lặng lẽ chìm vào rặng mây. Lãnh Huyền nhìn mãi một lúc rồi thở dài thườn thượt. Chu Vi thắc mắc:
– Lãnh công công, sao ông lại thở dài?

– Không có gì. – Lãnh Huyền nhấc lấy một gói quần áo ném cho Nhạc Chi Dương, giục: – Mặc vào đi!

Nhạc Chi Dương mở gói đồ ra xem, hóa ra bên trong là một bộ thường phục bằng vải trơn màu xanh. Lúc gã được an táng, trên người vốn phục sức theo kiểu thái giám, lỡ bị ai đó trông thấy thì khó tránh khỏi cảnh phô trương gây chú ý. Gã ngẫm nghĩ rồi quay sang nhìn Chu Vi, tiểu công chúa đỏ bừng mặt lặng lẽ hướng đầu đi nơi khác. Nhạc Chi Dương thay xong quần áo, Lãnh Huyền cũng đã sớm bịt kín quan tài, lấp đất đá lại rồi bảo:
– Đi thôi!

Nói rồi lão sải bước lên trước, tiến về phía sông Tần Hoài.

Nhạc Chi Dương ngó sang Chu Vi, người đằng sau lấp ló lúm đồng tiền xinh như hoa, đôi mắt đẹp chớp láy long lanh. Nhạc Chi Dương cảm giác lồng ngực nóng ran, đột nhiên với tay ra nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của cô. Bàn tay thiếu nữ thon thả, mềm mại như không xương, da thịt trắng trẻo nõn nà, nắm trong tay như nắm một viên ngọc mịn.

Chu Vi nào ngờ tên tiểu tử này lại cả gan như vậy, cô định hất tay ra theo ý thức nhưng hất kiểu gì cũng không thoát khỏi bèn nhướng mắt nhìn lên, Nhạc Chi Dương cười tủm tỉm ngó cô làm lộ ra hàm răng đều tăm trắng bóng.

Ánh sao bóng trăng soi rọi từng đường nét thanh thoát, hài hòa của thiếu niên, Chu Vi nhìn đến ngơ ngác, nghĩ thầm: “Hóa ra chàng lại đẹp trai như vậy!”

Nhạc Chi Dương nâng sáo ngọc lên bảo:
– Công chúa, cô vứt thanh sáo này vào trong quan tài nè…

Chu Vi mỉm cười:
– Thanh sáo này là ta tặng cho ngươi đó!

Nhạc Chi Dương giật mình:
– Vậy sao được chứ?

– Sao lại không được?- Chu Vi giơ tay ra vuốt ve món đồ cổ ấy: – Thanh sáo này là anh Thập Thất đã tặng cho ta nhân dịp sinh nhật lần thứ mười, tiếc rằng ta thổi sáo không giỏi, để ở chỗ ta sẽ khiến cho nó bị phí hoài mai một. Bảo kiếm thì phải xứng với anh hùng, ta tặng nó cho ngươi, Lục Châu dưới kia nếu biết được hẳn sẽ rất an tâm vui vẻ.

Nói đến đây, cô chợt nảy ra điều gì đó liền cho tay vào tay áo, lấy ra một sợi tơ vàng rồi luồn nó qua lỗ ống sáo, buộc vào thắt lưng Nhạc Chi Dương, vừa làm vừa ngâm nga:
– Phỉ thúy vàng, phỉ thúy vàng, phỉ thúy phải phối với màu vàng mới bắt mắt!

Dòng nhiệt huyết trong người Nhạc Chi Dương đang cơn sục sôi, gã định nói gì đó thì Lãnh Huyền ở đằng trước chợt tằng hắng một tiếng, quay đầu lại nhìn hai người, chân mày nhíu chặt. Chu Vi mặt đỏ tới mang tai, toan rụt tay về, nào ngờ Nhạc Chi Dương dứt khoát nắm chặt, sải bước dẫn cô vượt lên phía trước. Lãnh Huyền trừng mắt nhìn hai người, mặt mày chằm dằm một đống nhưng cũng không tiện nhiều lời, lom khom đi bên cạnh.

Đến bờ sông Tần Hoài thì sắc trời cũng vừa hửng sáng, dưới ánh bình minh soi rọi, nước sông ánh lên màu xanh biêng biếc hệt như một dải lụa đào dập dờn uyển chuyển. Những kỷ viện thanh lâu hai bên bờ sông đang ngon giấc say nồng sau một buổi tối hoạt động hết công suất; đâu đó nổi lên tiếng gà râm ran gáy sáng vừa hay nối tiếp vào lời ca tiếng nhạc dặt dìu đêm hôm trước.

Gió sớm phơn phớt trên mặt truyền đến cảm giác mát rượi, cõi lòng Nhạc Chi Dương bỗng nhen nhóm lên một bầu lửa nóng, gã đón lấy làn gió ban mai se sắt ấy, tinh thần trở nên hết sức phấn khởi. Chỉ trỏ những lầu quán ven sông, gã lần lượt kể cho Chu Vi nghe những câu chuyện ly kỳ lạ lẫm: nơi này ai giành được hoa khôi, đằng kia ai bày tiệc trăng gió, đêm xuống pháo hoa giăng đầy trời đẹp đến nhường nào, cô nương ở nhà này không những giỏi đàn hát mà còn khéo diễn tạp kỹ, thân dẻo như bông, chui lọt qua được một chiếc vòng kim loại nhỏ xíu. Khúc sông kia vào đêm Thất Tịch sẽ tổ chức hội hoa đăng, Nhạc Chi Dương trong những lần tốt số đoán trúng mấy câu đố đèn đã thắng được không ít tiền thưởng. Chu Vi mải miết lắng nghe từ chuyện thi đố đèn cho đến câu chuyện tòa nhà lớn tiêu điều màu xám tro nọ, nơi đó năm xưa cũng là chốn náo nhiệt bậc nhất, về sau có nàng ca kỹ gặp chuyện tình duyên trắc trở, bị sở khanh lường gạt rồi trầm mình tự vẫn, hóa thành ác quỷ, từ đó quẩn quanh tại tòa nhà ấy quấy phá đến nỗi mỗi năm đều có vài vụ người nữ nhảy sông, thế nên ngày qua tháng lại nơi ấy càng trở nên đìu hiu, quạnh quẽ.

Chu Vi từ thuở chào đời đến nay mới được xuất cung lần đầu, thấy gì cũng mới, gặp gì cũng lạ. Nhạc Chi Dương càng khua môi múa mép, những chuyên hết sức đơn giản qua cái mồm của gã cũng trở nên thú vị tuyệt vời. Nghe đến đoạn nữ quỷ quấy nhiễu, Chu Vi tròn mắt há miệng, tay ghì chặt lấy Nhạc Chi Dương không dám buông lơi. Nhạc Chi Dương thấy cô sợ sệt, nổi hứng thêm thắt tợn hơn, bịa ra chuyện vài nàng danh kỹ chịu nhục biến thành ác quỷ, kể đến trời sầu đất thảm, dọa cho tiểu công chúa mặt mày tái mét, trong dạ cứ thấp thỏm không yên, theo ý thức nép sát vào người thiếu niên, chẳng dám để tụt lại bước nào.

Nhạc Chi Dương cảm thấy khoái chí vô cùng, thầm nghĩ bọn vương công quyền quý đến nơi này tìm thú vui không ít nhưng người có thể dẫn theo công chúa Đại Minh đi du ngoạn ven sông Tần Hoài thì tự cổ chí kim e rằng chỉ có một mình gã mà thôi. Cô nàng công chúa này vừa ngây thơ lại vừa e thẹn, gã thật muốn bày trò để làm cô vui, tiếc là ban ngày mặt sông vắng lặng, kế bên còn thêm một lão thái giám mặt lạnh như tiền, thật không thể cùng cô quậy phá cho thỏa thích được.

Gã ngại lão thái giám chướng tai gai mắt, ngờ đâu Lãnh Huyền cũng đang tức anh ách một bụng từ nãy đến giờ. Hóa ra vì thời gian gấp rút, lão cứ nghĩ sau khi tìm được vật ấy thì trở về cung ngay lập tức, ai dè Nhạc Chi Dương đi dọc bờ sông cứ luôn miệng khoác lác vẽ vời, hai người nam nữ trẻ tuổi tay nắm vai kề cười đùa rôm rả đến mức ngay cả những cặp tình nhân đi trẩy hội xuân cũng không thân mật được như vậy. Thấm thoát chặng đường dọc bến Tần Hoài đã đến điểm cuối, Lãnh Huyền sau nhiều lần kiên nhẫn cũng hết chịu nổi, quát lên:
– Tiểu tử thối, Thạch Ngư rốt lại là nằm ở đâu?

Nhạc Chi Dương nghe vậy thì vỗ đầu, cười khì khì bảo:
– Ây da, mãi lo huyên thuyên ta quên khấy đi mất chuyện lớn này rồi, à ừm…

Gã dòm trái ngó phải, sắc mặt thay đổi:
– Thôi chết, ta nhớ nhầm rồi, Thạch Ngư không ở bãi sông, nó ở… ở…

Gã vừa nói vừa gãi đầu, chợt thấy lão thái giám nhíu chặt chân mày, mặt hầm hầm sát khí, bèn cười giả lả:
– Ta nhớ ra rồi, Thạch Ngư cất ở miếu Phu Tử!

– Tiểu tử thối, ngươi dám!

Lãnh Huyền giận đến run người, vừa rồi đi qua miếu Phu Tử, Nhạc Chi Dương cứ ngoảnh mặt ngó lơ, bây giờ lại đòi trở ngược lại nơi đó chẳng khác nào bắt lão đi dạo sông Tần Hoài thêm lần nữa. Lão thái giám ra tay nhanh như điện, quắp lấy vai trái của Nhạc Chi Dương. Tiểu tử nọ đau đớn thấu xương, tức thì la lên oai oái. Lãnh Huyền nghiêm giọng:
– Tiểu tử thối, ta có thể khiến ngươi sống, cũng có thể làm ngươi chết. Ngươi còn dám gạt ta, ta sẽ lấy cái mạng nhỏ của ngươi!

Lão đang lúc nghiến răng giận dữ, không để ý một cánh tay trắng nõn nhẹ nhàng phất tới dẫn theo năm luồng kình phong xuyên thấu vào kinh mạch, với năng lực của Lãnh Huyền cũng cảm thấy mu bàn tay tê dại, theo ý thức lật tay chộp lấy cổ tay ngọc ngà ấy. Người nọ kêu khẽ một tiếng, âm điệu nhu mì. Lãnh Huyền trong lòng giật thót, vội vã buông năm ngón tay ra, lùi về sau một bước, nói:
– Phất Ảnh Thủ” đúng là danh bất hư truyền, Lãnh mỗ ra tay cấp bách, mong công chúa thứ lỗi!

Chu Vi xoa chỗ đau nơi cổ tay, trong lòng thầm kinh ngạc. Một đòn vừa rồi chính là “Phất Ảnh Thủ” của Thái Hạo Cốc, âm kình nơi ngón tay như có như không, nhìn thì có vẻ không đáng ngại nhưng thực tế có thể gây tổn thương kịch mạch, hư hại ngũ tạng, chuyên để phá các loại chân khí hộ thể. Ấy vậy mà Lãnh Huyền chẳng những an nhiên vô sự, lại còn trở tay đánh trả, suýt nữa thì phá vỡ Ngưng Hà Thần Công và bóp vụn cổ tay của cô.

– Lãnh công công! – Chu Vi định thần lại, miễn cưỡng cười bảo: – Nhạc Chi Dương chẳng phải đã nói rồi ư? Y mãi mê trò chuyện với ta nên vô tình quên mất Thạch Ngư, người ta đâu phải thánh hiền mà không mắc sai sót. Ông trời cũng có đức hiếu sinh, Lãnh công công sao có thể vì một chút sai vặt cỏn con mà làm hại tính mạng người ta chứ?

Lãnh Huyền ráng kềm cơn giận trình bày:
– Công chúa có điều không biết, thằng nhóc này nói dóc thành thần, có trời mới biết biết y đang âm mưu trò gì!

– Nói dóc thành thần? – Chu Vi liếc nhìn Nhạc Chi Dương, gã ta đang xoa xoa vai, vẻ mặt ra chiều oan ức lắm. Chu Vi buột miệng bảo: – Ta thấy y rất tốt, câu nào câu nấy đều là thật bụng!

Lãnh Huyền cả giận:
– Công chúa thấy y toàn lời nói thật là vì công chúa đối với y…

Nói đến đây, lão ngập ngừng khựng lại. Chu Vi lườm Lãnh Huyền hỏi:
– Ta đối với y thế nào?

Lãnh Huyền hừ một tiếng, đáp:
– Có mấy lời nói ra không lọt tai, công chúa tự mình hiểu rõ.

– Ta chẳng hiểu rõ chuyện gì cả! – Chu Vi mặt mày dửng dưng: – Nhờ Lãnh công công chỉ ra chỗ sai giúp!

Lãnh Huyền trừng mắt nhìn công chúa, sắc mặt lúc xanh lúc trắng, lão cố nuốt ực vào một ngụm nước bọt rồi nặn ra một nụ cười:
– Công chúa điện hạ thân phận cao quý cần gì chấp nhặt với lão nô. Thời gian gấp rút, lấy được Thạch Ngư rồi mau chóng trở về cung mới là thượng sách! Ta nổi giận với thằng nhóc này chẳng qua cũng vì công chúa mà thôi!

– Vì ta à? – Chu Vi cười khẩy: – Sợ là vì chính ông thì có! Lãnh công công, ông dụ dỗ ta xuất cung, đáng phải chịu tội gì?

Lãnh Huyền ngớ người nghẹn giọng:
– Công chúa điện hạ, là cô mè nheo đủ kiểu nên ta mới đồng ý dẫn cô xuất cung mà…

Chu Vi mỉm cười:
– Ai thấy ta mè nheo với ông? Đến chỗ phụ hoàng, người sẽ tin lời ta hay lời ông?

Lãnh Huyền vừa bất ngờ vừa tức tối, lòng thầm cảm thấy hối hận, chỉ trách lão chịu không nổi màn khóc lóc mè nheo của tiểu công chúa mà dẫn cô ra khỏi chốn thâm cung, để giờ đây quả đúng là đi dễ về khó rồi. Lão thấy mình đã tự chúi đầu vào rọ, đành phải bấm bụng chịu trận, chậm rãi nói:
– Công chúa điện hạ, lão nô nhất thời sốt ruột, không tránh khỏi thất lễ, những mong công chúa lấy đại cuộc làm trọng, đừng gây khó dễ cho lão nô.

Chu Vi bảo:
– Thôi được, ông không gây khó dễ cho Nhạc Chi Dương thì ta sẽ không làm khó ông!

Lãnh Huyền lòng thầm toan tính, đánh mắt đi nơi khác. Nhạc Chi Dương chắp tay sau lưng, mặt mày tủm tỉm, không khỏi lấy làm đắc ý vì nghiễm nhiên tìm được chỗ dựa. Lãnh Huyền giận muốn nổ phổi, hận không thể xoạc chân tống tên tiểu tử này xuống sông làm mồi nuôi cá cho rồi.

Chẳng còn cách nào khác, ba người đành quay đầu trở về miếu Phu Tử, mới đi chừng trăm bước, Nhạc Chi Dương bỗng đề xuất:
– Đi cả buổi trời chắc công chúa điện hạ cũng khát nước rồi? Bên kia có một tòa Tiên Nguyệt Kí nổi tiếng trà ngon, thức ăn tuyệt diệu, ngồi trên lầu cao thì cảnh sông Tần Hoài thu gọn trong tầm mắt, quả là một địa điểm thưởng ngoạn hiếm có trên đời!

Lãnh Huyền nghe xong tức muốn trào máu, nhưng vì không tiện ra tay trừng trị nên chỉ đành lớn tiếng quát:
– Thời gian khẩn cấp, lấy được vật kia mới là ưu tiên chính!

Nhạc Chi Dương bỗng nhiên hóa thành kẻ điếc, cười híp cả mắt, giả lơ kể tiếp:
– Đáng tiếc bây giờ là ban ngày, mà mấy chỗ đặc sắc bên sông Tần Hoài chỉ có vào ban đêm, công chúa khó có dịp xuất cung để thưởng thức không khí náo nhiệt bậc nhất ấy thì ít ra cũng nên ghé xem khung cảnh xếp vào bậc hai này: uống chút trà, ăn tí điểm tâm, ngắm nhìn dòng sông, xem như không uổng phí một chuyến đi.

Chu Vi hiểu rõ dụng ý của Nhạc Chi Dương, biết gã không nỡ xa mình nên mới trăm phương ngàn kế kéo dài thời gian như vậy. Hai canh giờ rưỡi này lúc bình thường kể cũng không ngắn thế nhưng hiện tại lại trôi vùn vụt như tên bay, một khi cô trở về cung rồi, sợ rằng sẽ chẳng bao giờ được ra ngoài nữa. Nghĩ đến đây lòng thêm buồn rười rượi, chẳng thèm để ý đến sắc mặt khó coi của Lãnh Huyền, cô gượng cười:
– Nói mới để ý, ta cũng thấy hơi đoi đói rồi, cứ đi uống trà ăn chút điểm tâm như ngươi bảo đi!

Lãnh Huyền vội can:
– Công chúa điện hạ…

Chu Vi cười bảo:
– Lãnh công công, ông đừng gấp, ta tự có chừng mực. Có điều nơi này không phải hoàng cung, ta với ông cần thay đổi cách xưng hô, đến quán trà rồi ta sẽ gọi ông là Lãnh tiên sinh, ông gọi ta Tiểu Chu là được!

Lãnh Huyền giật mình:
– Lão nô không dám!

Vừa nói vừa lườm lườm nhìn Nhạc Chi Dương, ánh mắt đầy vẻ hung tợn, hận không thể xẻo thịt rút gân trên người gã ra cho hả dạ. Mặc dù lão giận sôi bụng nhưng cũng chẳng thể lay chuyển được tâm ý hai người trẻ tuổi, đành bất đắc dĩ theo họ đến Tiên Nguyệt Kí.

Quán trà này cao khoảng ba tầng, rào đỏ ngói xanh, trông thẳng ra một dòng khói sóng mênh mông, không gian vô cùng khoáng đãng trang nhã. Đương vào giờ sáng, trên lầu quạnh quẻ vắng tênh, khách khứa loe hoe, ba người chọn một chỗ ngồi hướng mặt ra sông trên lầu ba, gọi một bình trà Minh Tiền Long Tĩnh(*) cùng bốn món ăn thượng hạng, mặc dù không được tinh tế như trong hoàng cung nhưng cũng mang một hương vị đặc sắc riêng biệt. Nhạc Chi Dương tươi cười chỉ trỏ trên dòng sông, mô tả những câu chuyện trăng hoa thi vị, Chu Vi lặng thinh lắng nghe, cảm giác mông lung như mộng như ảo. Đáng tiếc, đã là mộng ảo thì đến khi tỉnh giấc chẳng thể sống lại khoảnh khắc như vậy được nữa. Cô cúi nhìn bọt nước nổi bồng bềnh trong tách trà, chợt nảy sinh một nỗi niềm cảm thương cho những số kiếp truân chuyên, thân bất do kỷ.
(ND chú: một loại trà búp nổi tiếng hái trước tiết thanh minh của vùng Hàng Châu)

Đang lúc âu sầu, chợt nghe ngoài sông truyền đến một tiếng ca trong trẻo:

Xuân đi đi mãi không về
Cảnh xưa rày khác sơn khê đổi màu
Ngẩng đầu vọng ngóng trời cao
Én bay thuở trước chốn nào tìm đây?
Đêm thâu quạnh vắng thành này
Sóng xô xào xạt chở đầy tịch liêu
Chuyện xưa nhớ tiếc càng nhiều
Kim Lăng năm ấy mọi điều đã xa
Sương lam che lấp cỏ già
Quạ đen nương bóng chiều tà loạn bay
Chẳng còn ai hát đêm nay
Khúc ca Ngọc Thụ ru say cõi lòng
Yên Chi giếng cạn dòng không
Ve kêu thê thiết khói nồng miên man
Kim Lăng giờ chỉ hiên ngang
Tần Hoài nước biếc, đỉnh ngàn Chung Sơn

(ND chú: đây là từ khúc “Mãn Giang Hồng – Kim Lăng Hoài Cổ” do thi nhân nổi tiếng thời Nguyên là Tát Đô Lạt sáng tác, không phải bài Mãn Giang Hồng của Nhạc Phi mà chúng ta thường biết. Bài từ này điển cố khá nhiều, các bạn có thời gian thì nghiên cứu thêm: baike.baidu.com/view/5571869.htm )

Khúc “Mãn Giang Hồng” này cất lên du dương trầm bổng, vang vọng khắp mặt sông, đoạn vút cao thì xuyên tận mây trời, chỗ xuống thấp như thép luyện uốn khúc, triền miên không dứt. Khúc ca hát xong, dư âm còn lãng đãng tựa như tiếng chuông ngân nga trong hang vắng, lâu mãi vẫn chưa tan đi.

Chu Vi không khỏi ngạc nhiên, theo tiếng nhìn ra ngoài, chỉ thấy một con thuyền lá từ đầu sông lướt đến. Đứng ở mũi thuyền là một vị thầy tu trẻ tuổi, thân hình cao ráo, bộ tăng y màu trắng phớt xanh khoác trên người bay phất phơ theo gió hệt như cảnh tượng sương tỏa mây giăng che lấp cả một vầng trăng sáng. Chu Vi bất giác nhủ thầm: “Giọng hát thật hay, phong thái thật tuyệt!”

Tiếng ca làm kinh động hai bên bờ sông, đám kỹ nữ từ trong mấy lầu gác thủy tạ ùn ùn đổ ra, trông thấy thầy tu nọ, thảy đều vẫy chào thích thú. Thầy tu áo trắng ấy cũng niềm nở mỉm cười, phất ống tay trái lên ra ý chào lại.


Chu Vi lấy làm kinh ngạc, thắc mắc:
– Vị hòa thượng này là ai? Hắn là người xuất gia, sao lại có vẻ quen biết đám kỹ nữ này như vậy?

Nhạc Chi Dương cười bảo:
– Ta không quen tên hòa thượng này, nhưng nghe người ta đồn, biệt danh của hắn là “Tình Tăng”, quanh năm suốt tháng lêu lổng ở bến Tần Hoài này. Nghe nói tài nghệ cầm kỳ thi họa của hắn món nào cũng điêu luyện độc đáo, thêm vào tướng mạo ưa nhìn, giọng ca mê hoặc, mấy nàng danh kỹ ở ven sông đều có quan hệ mập mờ với hắn.

Chu Vi nghe mấy câu này, trong bụng tỏ ý khinh thường, chép miệng:
– Hắn ta thân là người cửa Phật, sao có thể qua lại những nơi trăng hoa như thế? Cái gì là “Tình Tăng” chứ, hừ, ta thấy nên gọi là “Dâm Tăng” mới đúng!

Ngoài miệng thì chê trách nhưng trong lòng cô cũng cảm thấy tiếc rẻ: “Uổng cho một thân phong độ! Ôi, nếu so về giọng hát, anh Thập Thất cũng phải kém hắn một bậc!”

Lãnh Huyền chợt hừ lên một tiếng, bảo:
– Qua lại chốn trăng hoa chưa chắc đã là dâm tăng, ngồi tít trên triều cao chưa hẳn là quân tử. Lữ Động Tân trong bài “Xao Hào Ca” từng nói: “Kẻ có tài, quân nhàn hạ, rượu chẳng xa lạ còn hoa là tri âm, chốn lạc dâm chân nhân nào đến, chân nhân chỉ đến dạo ngắm phường hoa!” Cấm tiệt gái rượu chẳng qua chỉ là đạo hạnh hàng thứ ba mà thôi, dù những vị đại đức cao tăng kia mặt mày lúc nào cũng trong sạch thanh cao nhưng lòng dạ thực chất lại trần tục nhơ nhớp; ta gọi bọn họ một từ là “tăng”, hai từ là “hòa thượng”, ba từ là “ma ham vui”, bốn từ là “quỷ đói háo sắc”.

Nhạc Chi Dương nghe lời này có vẻ lý thú, cười hỏi:
– Đạo hạnh mà cũng phân cao thấp sao? Hàng thứ ba như vậy, còn hàng thứ hai thế nào?

Lãnh Huyền đáp:
– Đạo hạnh hàng thứ hai, thấy rượu thì uống trộm, gặp sắc thì dâm lén, hay bị trần tục cám dỗ nhưng thường sẽ biết kềm chế kịp thời, tuy không có khả năng bảo vệ chính kiến nhưng thế còn tốt chán, giống như cảnh đi trên cầu độc mộc, dưới cầu là trần gian cuồn cuộn hỗn loạn, lỡ sai một bước sẽ bị thế tục nuốt chửng. Loại nhân vật này mặc dù hành tẩu khó khăn nhưng vẫn còn hơn xa cái bọn ngụy quân tử, thầy tu giả.

– Con hạng nhất thì sao? – Nhạc Chi Dương lại hỏi tiếp.

– Đạo hạnh hạng nhất là loại uống rượu không để say, gặp sắc không dâm loạn, vào được ra được, đến được đi được, “hòa kỳ quang, đồng kỳ trần”(*), ra khỏi bùn nhơ không vấy bẩn, lẫn lộn thế tục không nhiễm bụi trần, dẫu có lưu lạc vào chốn trăng hoa cũng không đánh mất đi tấm lòng son vốn có.
(ND chú: “Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần – có nghĩa “pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi bẩn” là một tư tưởng đặc sắc trong sách Lão Tử chương 56, nguyên văn “Tỏa kỳ nhụệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng”. Lão tử nêu quan điểm “hòa quang đồng trần” để giải thích về lẽ Huyền đồng. Người đời sau dùng “Hòa quang đồng trần” để chỉ triết lý sống nổi chìm cùng thế tục, tùy tục tùy thời hành xử, không để lộ ra một sự khác biệt hay đặc biệt nào)

Nhạc Chi Dương cười bảo:
– Luận điệu của ông nghe thật thú vị, vậy dám hỏi Lãnh… Lãnh tiên sinh, tên hòa thượng này được xếp vào hàng thứ mấy?

Lãnh Huyền cười không đáp, nhâm nhi trách trà, nhạt giọng hỏi:
– Hai người uống xong chưa?

Chu Vi còn chưa lên tiếng, Nhạc Chi đã cướp lời:
– Vẫn chưa xong!

Lãnh Huyền liếc mắt nhìn gã, lạ thay không hề nổi giận theo thói thường mà chỉ thở dài:
– Thôi vậy, có muốn đi cũng không kịp nữa rồi!

Nhạc Chi Dương và lão đối mặt nhìn nhau, Chu Vi thắc mắc:
– Sao lại không đi kịp?

Lãnh Huyền nhướng mày, trầm ngâm không đáp.

Nhạc Chi Dương thầm cảm thấy có sự lạ phát sinh, ngoái đầu nhìn ra, trông thấy thầy tu áo trắng nọ đang phe phẩy tay áo, khoan thai bước về phía Tiên Nguyệt Kí, dáng đi như nước chảy mây trôi.

Chu Vi và Nhạc Chi Dương đưa mắt nhìn nhau, người này đều trông thấy vẻ ngạc nhiên trong mắt người kia. Chẳng mấy chốc, thầy tu áo trắng đã lên đến lầu ba, lúc nhìn gần tên hòa thượng này có thân hình ngất ngưỡng, trội hơn hẳn người bình thường một cái đầu, tay chân to dài cân xứng, da dẻ sáng bóng hồng hào, còn về ngũ quan trên khuôn mặt thì tuấn tú như một bức họa, nhìn kiểu nào cũng thấy đẹp như thể chẳng phải đàn ông. Trông thấy ba người, hắn mỉm cười tựa hoa nở trăng ngời, cả lầu trà này chẳng hiểu vì sao như sáng bừng lên. Dẫu là thân con trai, trông thấy nụ cười này, Nhạc Chi Dương cũng không tránh khỏi mặt đỏ tim run, len lén nhìn về phía Chu Vi. Thiếu nữ cũng giương mắt nhìn hòa thượng, nơi khóe mi toát lên đôi nét mơ màng.

Thầy tu áo trắng bước tới hai bước rồi ngồi xuống một chiếc bàn đặt trong góc tường, cao giọng gọi:
– Hầu trà đâu, mang cho ta một bình Bích Loa Xuân vùng Quân Sơn.

Tiếng nói của hắn trong trẻo như ngọc đá va chạm vào nhau.

Không lâu sau, tên phục vụ bưng trà đến đặt lên bàn. Thầy tu áo trắng vẫn điềm nhiên như không, tự rót tự thưởng thức, ánh mắt nhìn thẳng không hề ngó nghiêng đến bên này. Lãnh Huyền thì lại nhíu mày, tay cầm chung trà quên cả uống, cũng chẳng chịu hạ xuống.

Bất chợt, phía ven sông dậy lên một trận huyên náo, Nhạc Chi Dương nổi tính tò mò, ló mặt qua thành song hóng chuyện, chỉ thấy con đường cặp mé sông có một gã đàn ông trung niên đang đi tới, mình vận áo nho dài màu bạc, đầu đội mão trân châu, vẻ mặt nhợt nhạt xanh mét như có bệnh, bước chân phập phều bất ổn, lúc đi cứ liêu xiêu chực ngã.

Cách y không xa có một nhóm nam nữ đuổi theo sau, có kẻ phanh cả ngực áo rặt dáng đồ tể, có kẻ hông thắt tạp dề, ống tay áo dính đầy dầu mỡ nhìn như đầu bếp. Mấy kẻ này vừa chạy vừa la lối om sòm, mệt đến thở phì phà phì phò nhưng bất kể chạy nhanh thế nào cũng không đuổi kịp vị nam tử áo bạc ốm yếu kia.

Nhạc Chi Dương hết sức kinh ngạc, tập trung nhìn kỹ, phát hiện đằng sau vị nam tử áo bạc ngoài nhóm nam nữ nọ còn có mấy thứ quái lạ như đao mổ heo, móc treo thịt, chảo xào rau, gậy cời lò, thậm chí đến cả chậu đồng, sạn nhôm, neo thiếc, bừa sắt… Mấy vật dụng này y như có sự sống, thứ thì nhảy loi choi, thứ thì trượt xoàn xoạt, có thứ lại lăn loảng xoảng, bất luận vật lớn vật nhỏ thứ ngắn thứ dài nào cũng đều xoay tít xung quanh thân thể người áo bạc ấy.

Người áo bạc điềm nhiên như không, bước đi lúc nhanh lúc chậm, khi chậm thì sải bước một thước, khi nhanh thì nhấc chân cả dặm, đi ngang một cửa hàng thêu hoa, trong cửa hàng vùn vụt bắn ra một màn kim thêu dày đặc như ong vỡ tổ. Nhạc Chi Dương hết hồn toan kêu to thì người áo bạc đã giơ tay, chảo sắt dưới chân y bỗng tưng lên cao, mấy tiếng kêu rổn rảng vang lên không dứt, màn kim châm đầy trời chẳng biết đã tan biến đi đâu mất cả. Bà chủ tiệm thêu đang ngơ ngác chẳng hiểu xảy ra chuyện gì mà đám chỉ tơ trên kim thêu bị xé đứt hết, dõi mắt nhìn ra lập tức sợ đến điếng người, tay víu lấy bậu cửa, đôi chân run lẩy bẩy.

Đám người truy đuổi cũng cảm thấy bất ổn, trước sau ngừng cả lại, ngây dại đứng quan sát từ xa. Người áo bạc mang theo một đám vật dụng kim loại, từ từ đi đến gần Tiên Nguyệt Kí; y ngẩng đầu nhìn bảng hiệu một thoáng rồi bụm miệng ho khan hai tiếng, tay trái vẽ xuống nền đất một vòng tròn, tiếp đó lại dậy lên một tràng âm thanh loảng xoảng, đám vật dụng kim loại nằm la liệt trên mặt đất nảy tưng tưng rồi gom lại thành một quả cầu sắt. Người áo bạc thờ ơ đưa tay đón lấy quả cầu như thể xách một cái giỏ kẹo rồi đủng đỉnh tiến vào cổng chính.

Mọi người trên lầu ba chỉ nghe tiếng động thùng thà thùng thình vang lên, cả tòa lầu gỗ cũng bắt đầu kẽo kẹt xao động. Chốc lát sau, người áo bạc ló đầu lên, đảo mắt một lượt qua mọi người rồi thả quả cầu lăn về phía trước, y đến bên một chiếc bàn ngồi xuống, uể oải gọi:
– Hầu trà, cho ta một bình trà xanh Lục An!

Tên hầu trà mặt mũi tái nhợt, lần dò bám theo vách tường mà xuống lầu lấy trà. Người áo bạc ngồi ở nơi ấy thở hổn hà hổn hển, Nhạc Chi Dương thấy đám kim loại kia kết hợp lại thành một khối cầu, gắn chặt không tách rời, cổ quái khó mà tưởng tượng, trong lòng gã nảy sinh tò mò cứ nhìn quả cầu sắt mê mải không thôi. Nào ngờ người áo bạc ngoảnh đầu quắc mắt nhìn lại, Nhạc Chi Dương bắt gặp ánh mắt ấy, chẳng hiểu sao cả người giật bắn, vội vã cụp mắt xuống.

Lúc này ở mé sông lại dội đến từng tràng hô hoán kinh ngạc, người ở hai bên bờ sông tràn ra xem không ít, thi nhau chỉ trỏ về phía xa xa. Nhạc Chi Dương ghé mắt nhìn ra lập tức ồ lên một tiếng, chỉ thấy nơi xa có một chiếc thuyền mui đen đang bay tà tà cách mặt nước vài thước, đầu thuyền thấp thoáng một người phụ nữ, đuôi thuyền lộ dáng một gã đàn ông, hai người mặt xám như đất, khua tay rối rít với đám người hai bên bờ sông.

Thuyền bay trên không trung! Giữa ban ngày ban mặt chẳng ngờ lại xảy ra chuyện quái gở như vậy? Nhạc Chi Dương tim đập thình thịch, trố mắt nhìn con thuyền bay ấy càng lúc càng tiến gần mình. Chợt, gã nhận ra điều kỳ lạ bên trong, chiếc thuyền bay không hẳn là không có điểm tựa, bên dưới đáy có một người đang giơ tay lên trời, gồng sức chống đỡ cả con thuyền, dưới chân của hắn là một đôi cà kheo cao lêu khêu như chân cò, đang sải từng bước đi về phía này.

Nhạc Chi Dương cười rộ:
– Cách này cũng thú vị phết, có thời gian ta cũng làm thử mới được!

– Chẳng biết trời cao đất dày! – Chu Vi khẽ lắc đầu: – Người ta làm thì thú vị, còn ngươi đến bước chân cũng chả cất nổi.

Nhạc Chi Dương khó hiểu:
– Tại sao vậy?

– Ngươi xem! – Chu Vi chỉ xuống mặt sông: – Đôi cà kheo ấy được làm từ một thân trúc lớn, xuống nước nhất định sẽ nổi lên. Người đi cà kheo một khi bước xuống nước, hai chân lúc cao lúc thấp nhất định sẽ lảo đảo không vững, cho nên hắn vừa đi vừa gánh thuyền, cộng cả người bên trên phải đến hơn ngàn cân, ví như đem vật nặng đè lên thuyền, ép cho cà kheo ngập xuống tận đáy nước. Chưa kể với cách đi này, so với trên đất bằng còn có thêm lực cản của nước, cà kheo càng dài thì lực cản càng lớn, nếu không có sức mạnh nghìn cân đừng hòng nhích chân được một bước!

– Dẫu có sức cũng chưa chắc làm được! – Lãnh Huyền làu bàu: – Về khoản này còn phải rành công phu nội gia, nếu không tác dụng một lực vừa khéo thì chẳng té nhào từ cà kheo cũng sẽ làm gãy gập hai đòn trúc to tướng ấy!

Lời vừa nói xong, người áo bạc ngồi bên kia liền hừ lên một tiếng. Nhạc Chi Dương liếc nhìn, người nọ chỉ lo chăm chăm uống trà, mắt không hề ngó sang bên này.

Cà kheo dài đến lạ kỳ, người sắp đến nọ mỗi một bước chân sải ra hơn trượng, chẳng bao lâu đã đến phía trước Tiên Nguyệt Kí. Hắn chợt ngừng lại, nhẹ nhàng ném chiếc thuyền mui xuống dòng nước. Đôi cà kheo bằng trúc mất đi sức nặng từ con thuyền lập tức nổi hẫng khỏi mặt sông. Người nọ nương theo sức đẩy, vọt người lên cao, đến nửa chừng không thì lộn người một vòng. “Phập!”, cà kheo rơi xuống trước quán trà, cắm xuyên qua lớp gạch lót sân, rung lên bần bật.

Người nọ cười khẩy, vứt cà kheo sang bên rồi nhảy sấn vào lầu trà, bỏ lại hai đòn trúc dài dựng đong đưa trước quán.

Nhạc Chi Dương quan sát kỹ người vừa đến, chỉ thấy hắn ta ước độ ngoài bốn mươi, mặt gầy râu dài, thân vận áo hoa sặc sỡ, đai lưng thỏng thượt thắt cho có lệ, đầu trán toát lên vài phần buồn cười, thoạt nhìn cứ như mấy nghệ nhân làm trò hề xiếc ở ven đường chứ không tưởng ra được hành vi hết hồn vừa rồi của hắn.

Người áo hoa này quét mắt nhìn quanh, mở miệng cười hỏi:
– Thi Nam Đình, ngươi đến sớm thật!

Người áo bạc ậm ờ bảo:
– Sao có mỗi mình lão, còn Dương Phong đâu?

Người áo hoa cười đáp:
– Bọn ta khi đến đây đã đánh cược, ta đi bằng đường sông, hai chân không được phạm một giọt nước; y đi trên mái nhà, tay chân không được chạm manh ngói nào, thử xem ai đến được nơi này trước. Hiện tại ta nhanh hơn một bước, xem ra cố tật của y lại tái phát rồi, nơi này phòng ốc trùng điệp, với y chẳng khác nào một tòa mê cung cả!

Nói đến đây, hắn quay đầu lại mỉm cười:
– Kìa, y cũng đến rồi!

Mọi người đưa mắt nhìn ra, một người áo đen dáng điệu thoăn thoắt đang nhấp nhô lên xuống giữa những mái nhà bên bờ đối diện. Trong tay y nắm hai dải lụa trắng dài và mảnh, giống như hai vật sống, thay nhau quấn lấy rìa cong gác mái, mỗi lượt móc và thả người lại lướt qua một tòa nhà, phía dưới có kẻ trông thấy liền kêu réo õm tỏi.

Chỉ chớp mắt sau, người nọ đã đến bờ đối diện với trà lâu. Người áo hoa cười bảo:
– Hấp dẫn rồi đây, để xem y qua sông thế nào?

Chỉ thấy dải lụa trắng bên tay trái của người nọ quấn giữ vào góc mái, ngừng lại một thoáng giữa không trung, tiếp đó thân thể lay động phóng người lên cao rồi nhảy vọt ra giữa dòng, dải lụa trắng bên tay phải tung ra vừa đủ quấn vào mui chiếc thuyền mà người áo hoa bỏ lại ngoài sông. Chiếc thuyền khẽ tròng trành đôi chút, người ấy thân như gió lốc, xoay mòng mòng bốc lên cao, lụa bên tai trái lại phóng ra cuốn lấy đôi cà kheo mà người áo hoa cắm lại phía trước quán. Cà kheo bị lực làm cho cong oằn trở thành một cánh cung, lụa trắng giống như dây cung buộc trên giàn, “Vút” một tiếng, tống người áo đen bay tít lên lầu trà.

– Dương Phong Lai! – Người áo hoa hét lên chí chóe: – Thuyền do ta mang đến, cà kheo cũng là ta cắm sẵn, thế quái nào lại trở thành đồ trợ lực cho ngươi? Đúng là chẳng có công lý mà!

Dương Phong Lai dáng người không hề cao lớn, ngược lại còn lùn xủn, hai vệt râu hình chữ bát (八) bên mép mọc lưa thưa lớt thớt. Nghe thấy câu này, hai mắt y đảo tròn, mở miệng mắng ngay:
– Minh Đấu, ngươi nói mà chẳng biết xấu hổ, ta với ngươi hẹn ở Tiên Nguyệt Kí tại miếu Phu Tử, ta lòng vòng ở miếu Phu Tử cả buổi trời, đừng nói là Tiên Nguyệt Kí, cả Cẩu Nhật Lầu cũng không thấy một bóng. Ngươi lừa ta đi miếu Phu Tử, còn mình thì ung dung chạy đến nơi này. Bỏ! Bỏ! Vụ cược này xem như không tính nữa!

Minh Đấu cười tủm tỉm:
– Dương Phong Lai, hai năm trước ngươi chẳng phải đã đến đây rồi sao? Ai bảo nhà ngươi quên đường nhầm lối làm chi! Ta nói miếu Phu Tử thì chính là miếu Phu Tử à? Ta có phải cha ngươi đâu mà ngươi phải nghe theo!

Dương Phong Lai tạm thời á khẩu, giận đến hai mắt trắng dã. Chợt nghe Thi Nam Đình thở dài:
– Minh Đấu, ngươi già mồm át lý lẽ rồi, ngươi thừa biết lão Dương là kẻ hay quên đường, lại đi chỉ hướng lung tung, chẳng phải chơi mánh mun thì là gì?

Dương Phong Lai liên tục gật gù:
– Lão Thi nói hợp lý lắm!

Minh Đáo cười:
– Hợp lý khỉ khô gì! Binh bất yếm trá(*), tướng quân đánh trận còn phải giở trò mèo nữa là. Dù sao ta cũng đến trước, Dương Phong Lai nhà ngươi thua kèo rồi, mau giao vật cược ra đây!
(ND chú: nghĩa là việc đánh trận không ngại dối trá)

Dương Phong Lai lầm bầm vài tiếng, moi từ trong ngực ra một cái hộp nhỏ, đang định mở ra thì Minh Đấu đã nhanh tay giật lấy, hắn mỉm cười:
– Hầu trà đâu, mang cho ta ba cái bát sứ đen cùng một bình nước đun sôi ra đây!

Tên phục vụ nãy giờ biết rõ bản lĩnh của ba người, sớm đã thất kinh hồn vía, lập tức vâng dạ chạy đi lấy bình nước, bát sứ mang đến. Minh Đấu mở hộp, nhón một nhúm lá trà bỏ vào trong bát đen, sắc trà màu xanh ngả trắng thoạt trông hết sức kỳ dị, thế nhưng pha vào nước sôi, giây lát sau khắp lầu thoang thoảng tỏa ra một mùi thơm nức, nửa như hương trà, nửa như hương sữa, nhưng lại không hoàn toàn giống với hai thứ mùi trên mà thậm chí còn mang một hương vị xiêu hồn lạc phách hơn.

Thi Nam Đình trố mắt nhìn loại trà ấy, vẻ mặt hết sức ngạc nhiên:
– Đây là loại trà gì mà mùi vị kỳ lạ thế?

Dương Phong Lai mặt đen mày tía, hầm hầm không nói câu nào. Minh Đấu bật cười:
– Ta biết, loại trà này gọi là trà Thần Anh! Lão Dương lấy được từ tay một tên yêu đạo!

Thi Nam Đình thắc mắc:
– Trà Thần Anh à? Vì sao lại có tên gọi này?

Minh Đấu cười bảo:
– Nghe tên cũng đoán được, loại trà này giống như hình ảnh một đứa trẻ sơ sinh được nuôi lớn bằng sữa mẹ.

Hắn thấy Thi Nam Đình còn ngờ ngợ, không nhịn được bật cười:
– Lão Thi nhà ngươi tính tình ngay thẳng, không biết việc đời hiểm ác. Nói trắng ra, loại trà này chả rõ yêu đạo có được từ nơi quái quỷ nào, chỉ biết hắn bắt đi rất nhiều đàn bà trong thời kỳ cho con bú, ngày ngày dùng sữa tưới lên gốc trà ấy, gốc trà lớn lên cho ra hạt giống, hắn lại gieo hạt giống kia xuống đất. Cứ thế cây lớn sinh hạt, sinh hạt lại gieo, trải qua chín độ gieo nảy mới có được hương sắc như vậy. Tên yêu đạo đó như bị quỷ ám, luôn đinh ninh rằng loại trà này sinh trưởng từ sữa mẹ giống như đứa bé vừa lọt lòng, uống loại trà này lâu dần có thể đắc đạo thành tiên.

Thi Nam Đình ngắm nghía chất trà trong bát, nhíu mày bảo:
– Vậy tên yêu đạo ấy đâu rồi?

Minh Đấu cười khẩy, quay đầu lại nhìn Dương Phong Lai; người đằng sau hờ hững đáp:
– Hắn ta chẳng những không thành tiên, trái lại đã ra ma rồi!

Thi Nam Đình hỏi:
– Ngươi giết hắn rồi ư?

Dương Phong Lai nói:
– Hắn bắt giữ nhũ mẫu hại bọn con nít chết đói, ta đúng lúc đi ngang qua nên thuận tay chõ mũi vào thôi!

Thi Nam Đình gật gù:
– Giết hay lắm!

Tên phục vụ ở bên cạnh nghe được chuyện giết người, sợ đến mức đùi run lẩy bẩy, gần như đứng không vững.

Minh Đấu mỉm cười, nâng bát trà lên uống một ngụm, tấm tắc:
– Hương thơm lãng đãng, dư vị đậm đà, trà ngon, trà ngon, biết đâu chừng uống thêm mấy hớp nữa Minh mỗ sẽ hóa thành một cơn gió bay thẳng đến Nam Thiên Môn ấy chứ!


Dương Phong Lai xùy một tiếng, bảo:
– Ngươi có vào Nam Thiên Môn cũng chỉ là một con khỉ bọc da mà thôi!

Nói rồi y nâng bát trà lên nhấm nháp một ngụm, hai mắt nhắm lại, rung đùi đắc ý như đang thưởng thức dư vị.

Nhạc Chi Dương ghé sát tai Chu Vi thầm thì:
– Trông có vẻ ngon nhỉ!

Thiếu nữ lườm mắt nhìn gã, nghiến răng bảo:
– Ngươi mà dám uống một hớp, ta… sẽ nghỉ chơi ngươi luôn!

Nhạc Chi Dương lấy làm lạ:
– Sao lại nghỉ chơi?

Chu Vi suy nghĩ rồi khẽ giọng:
– Yêu trà của yêu đạo, người uống vào rồi cũng sẽ có yêu khí!

Nhạc Chi Dương nhìn cô bật cười:
– Yêu khí thì chưa chắc, chỉ sợ bốc mùi sữa tanh thôi!

Chu Vi bị gã đi guốc trong bụng, vừa thẹn vừa giận bèn gắt gỏng:
– Ngươi muốn uống thì đi mà uống, ta thèm vào quản ngươi!

– Tiểu huynh đệ muốn uống à? – Minh Đấu đột nhiên ngoảnh đầu sang mỉm cười với Nhạc Chi Dương: – Trà ngon thì nên thưởng chung, gặp mặt âu cũng là duyên!

Nói rồi hắn nhìn xuống một bát trà, ngón tay gạt nhẹ, hất vèo về phía Nhạc Chi Dương.

Tách trà phăng phăng bay đến như có một bàn tay vô hình đỡ ở bên dưới. Nhạc Chi Dương đang tính giơ tay đón lấy chợt nghe Chu Vi hét lên:
– Không được động đậy!

Nói dứt cô xoạc tay ra, ngón tay khẩy trúng rìa bát, cái bát sứ đen ấy xoay mòng mòng như chong chóng, nước trà bên trong bị tác động sánh lên cao đến hai thước, lấp lánh trắng lóa như sóng như tuyết.

Chu Vi vừa chạm vào cái bát ấy, sắc đỏ lập tức lan đậm trên bờ má, buộc phải giật lùi về sau, thành ghế dựa “rắc” lên một tiếng gãy đoạn, thiếu nữ không ngăn được đà lao, lại va độp vào cột trụ sau lưng, cả tòa lầu khẽ rung lên nhè nhẹ, bụi mạt từ xà gỗ trên cao rụng xuống lả tả.

Lãnh Huyền vươn tay ra giữ lấy bát sứ đang không ngừng xoay tít, nhấp vào một ngụm, thờ ơ bảo:
– Cái thứ tà đạo lạ lùng này uống vào thật chả ra vị gì!

Nhạc Chi Dương hoàng hồn lại, lập tức nhổm dậy chạy đến đỡ Chu Vi, sốt sắng hỏi:
– Cô không sao chứ?

Chu Vi mím môi lắc đầu, hít vào một hơi sâu, sắc đỏ trên má dần dần tan đi, nhẹ giọng đáp:
– Ta vẫn ổn!

Nhạc Chi Dương không hiểu đầu đuôi bèn thắc mắc:
– Sao cái bát ấy lại đột nhiên như trúng tà thế nhỉ?

Chu Vi thở dài, quay đầu sang nhìn Minh Đấu chằm chằm, đôi môi khẽ miết chặt.

Minh Đấu mỉm cười:
– Lãnh công công suốt ngày ở trong hoàng cung, của hiếm vật lạ đã thấy nhiều rồi, đương nhiên là không ưa nổi thứ trà quèn này. Minh mỗ lưu vong hải ngoại, thân nghèo rớt mồng tơi, ngoài trừ cái bộ áo quần rách tả tơi trên người này ra thì chả còn thứ gì đáng kể. Lãnh công công là người tốt, người tốt làm chuyện tốt, mong ngươi hãy xót thương phận quỷ bần cùng này mà hào phóng ban tặng vài xu lẻ cho ta nở mặt!

Nhạc Chi Dương vừa nghe vừa giật mình, theo hàm ý của Minh Đấu thì hắn rõ ràng có quen biết với Lãnh Huyền. Gã nhớ lại hành vi và lời lẽ của Lãnh Huyền ban nãy, trong lòng chợt cảm thấy thấp thỏm. Gã ghé mắt quan sát, phía bàn Minh Đấu gồm ba người: Dương Phong Lai đang mải miết nếm trà trong bát; Thi Nam Đình thì ngồi vững trên ghế, ngắm nghía những hoa văn in trên thành bát đến mê mẩn, tựa như trong chiếc bát ấy chứa đựng cả càn khôn; còn Minh Đấu cứ giữ khư khư khuôn mặt cười cợt, bộ dạng như thể thích đùa bỡn với đời.

Nhạc Chi Dương cảm thấy bối rối, lại dõi mắt nhìn sang tên hòa thượng nọ, hòa thượng cười tựa gió xuân, mắt như sao sáng, quan sát người trên lầu hệt như một vị khán giả đang theo dõi vở kịch hay.

Không khí trên lầu trở nên khác thường, Lãnh Huyền chợt buông bát trà xuống, thở dài:
– Minh Đấu, đã nhiều năm chúng ta không không gặp nhau nhỉ?

Minh Đấu cười bảo:
– Không dài không ngắn, vừa tròn mười lăm năm!

Lãnh Huyền gật đầu tiếp lời:
– Nói vậy, cha ngươi chết cũng được mười lăm năm rồi?

Gương mặt Minh Đấu đằng đằng sát khí, nét cười trong đáy mắt biến mất, thay vào đó là vẻ hằn học sắc bén như dao. Hắn nhe nanh cười, giọng chát chúa:
– Phải, thêm mười hôm nữa chính là ngày giỗ của cha ta, mọi sự đều đã tươm tất, chỉ thiếu mỗi một thứ…

Lãnh Huyền hỏi:
– Thứ gì?

Minh Đấu trợn mắt, nhìn lão trừng trừng:
– Chính là cái đầu của Lãnh công công đấy!

Lãnh Huyền buông tiếng thở dài, ánh mắt hướng nhìn ra ngoài song:
– Trình độ Kình Tức Công của cha ngươi không hề thấp kém, ví thử nương tay chỉ e người chết đổi lại là ta. Cái đầu của Lãnh mỗ đây kể cũng chẳng đáng tiền, nếu ngươi tự thấy võ công trội hơn cha mình thì cứ thoải mái đến lấy, đem làm vật tế cũng được, làm bô xí cũng được, cứ tùy hỉ sử dụng!

Minh Đấu hừ một tiếng, đang định đáp lời thì Dương Phong Lai bỗng vươn người đứng dậy, lớn giọng quát:
– Lãnh Huyền, anh họ Dương Phong Liễu của ta cũng là do ngươi giết đúng không?

– Phải! – Lãnh Huyền chẳng thèm suy nghĩ, tiện miệng đáp luôn.

– Giỏi cho hạng chó thiến nhà ngươi! – Dương Phong Lai đỏ mặt tía tai, lạnh lùng truy hỏi: – Thi thể của anh ấy đâu?

Lãnh Huyền điềm nhiên nói:
– Ta chỉ lo giết người, còn xử trí thi thể ra sao không phải bổn phận của ta. Có điều đối với loại thích khách này, thánh thượng đa phần thường sai băm vụn xác cho chó ăn, có câu “chết đâu chôn đấy”, chó ăn rồi cứ xem nó như một cỗ quan tài sống, để cho anh của ngươi nằm trong đấy kể ra cũng ổn thỏa, tiện lợi.

Dương Phong Lai tức đến rung bắn người, vung tay trỏ Lãnh Huyền:
– Chó thiến, ngươi chớ đắc ý, hôm nay chính là ngày chết của ngươi!

Lãnh Huyền bật cười:
– Dương tôn chủ quá khen, thái giám như ta thì có gì để đắc ý đâu!

Lão lia mắt nhìn ra, gật gù bảo:
– Đông Đảo tứ tôn đã đến ba người, xem ra thể diện của Lãnh mỗ cũng không nhỏ chút nào. Có điều, Vân Hư thân là đảo vương, lại co đầu rụt cổ không chịu ra mặt, thật khiến cho người khác buồn bực; Phi Ảnh Thần Kiếm rọi sáng khắp biển Đông hẳn cũng là lời khoa trương quá lố mà thôi.

– Rắm thối! – Minh Đấu giơ tay phẩy mũi liên tục: – Ngươi đánh rắm thối không ngửi nổi!

Dương Phong Lai cũng quát to:
– Vân đảo vương không đến chính là vận may của ngươi, vừa thấy ánh kiếm của ông ta thôi thì ngươi đã chết nhăn răng rồi!

– Thật à?

Lãnh Huyền nở nụ cười u ám, vuốt vuốt chiếc cằm nhẵn thín của mình, bảo: – Vậy cớ gì y cứ ở lì ngoài Đông Đảo mà không đến trung thổ? Ha, ta nghe đồn rằng ba mươi năm trước y có lập một lời thề độc: chừng nào còn chưa thắng được kẻ ở phía Tây kia, chừng đó y sẽ không rời đảo Linh Ngao nửa bước. Nhưng ba mươi năm trôi qua rồi, theo ta thấy cả đời này của y cũng không ra khỏi đảo Linh Ngao được đâu!

Sắc mặt của Đông Đảo tam tôn đồng loạt thay đổi, Thi Nam Đình từ từ đứng dậy, hướng ánh mắt về phía Lãnh Huyền:
– Đông Đảo Thi Nam Đình xin lãnh giáo cao chiêu của Lãnh công công!

Lãnh Huyền thở dài bảo:
– Thi tôn chủ, ta nghe nói ngươi là một vị quân tử khiêm nhường, cả đời Lãnh mỗ ngại nhất là giết quân tử, hơn nữa ta và ngươi không thù không oán, tội gì phải phân sống chết như vậy?

Thi Nam Đình lạnh lùng đáp:
– Thân tại phương nào quản việc phương đó, không thể tránh được!

– Hay lắm! – Lãnh Huyền gật đầu: – Nói rất thẳng thắng!

Lão lại liếc sang nhị tôn còn lại:
– Các ngươi muốn lên cùng lúc hay là xa luân chiến?

Thi Nam Đình còn chưa lên tiếng, Minh Đấu đã cướp lời:
– Ba người bọn ta cùng đến thì đương nhiên là lên cùng một lúc!

Lãnh Huyền nhíu mày:
– Chỉ có ba người thôi à? Trương Thiên Ý đâu sao không đến?

Ba người nọ đưa mắt nhìn nhau, Dương Phong Lai cao giọng hỏi lại:
– Việc này thì có mắc mớ gì đến Trương sư điệt?

Lãnh Huyền nói:
– Sao mà không mắc mớ? Chuyện ta xuất cung chả ai hay biết, ngoại trừ hắn ra thì còn kẻ nào để ý thăm dò nữa đâu? Hắn trúng một chiêu “Tảo Tuệ Công” của ta e rằng nội thương chưa khỏi nên mới xúi bẩy ba người các ngươi đến tìm ta tính sổ; chiếu theo ý đồ hoàn hảo của hắn, thuận lợi nhất chính là Đông Đảo tứ tôn đến đông đủ một lượt, tiếc rằng thời gian gấp gáp chỉ tập hợp được ba người! “Quy Kính” không đến, phần thắng của các người giảm bớt phân nửa rồi!

– Lớn lối thật! – Dương Phong Lai hét lên: – Hoa sư muội không đến, ta vẫn có thể ngắt đầu của tên chó thiến nhà ngươi như thường!

Lãnh Huyền gật gù bảo:
– Hay lắm, vậy ta xin lãnh giáo cao chiêu của Long Độn trước!

Lão lôi ra khỏi tay áo một sợi roi ngựa dài ba thước, chuôi gỗ bọc da, trông chẳng có gì khác thường. Chỉ vì “Tảo Tuệ Công” của lão muốn phát huy uy lực vốn không thể thiếu đi một món binh khí mềm mại, mà xuất cung thì không tiện mang phất trần nên lão mới miễn cưỡng bốc đại một sợi roi ngựa giắt theo bên người.

Lãnh Huyền ngồi yên không cử động, bỗng cất tiếng:
– Minh Đấu, trả ngươi bát trà này!

Lão huơ roi quấn lấy bát sứ đen. “Vèo!” Chiếc bát như mang theo một cơn gió mạnh bốc thẳng về phía Minh Đấu.

Minh Đấu hừ một tiếng toan giang tay đón lấy, chợt nhiên bát sứ đổi hướng bay vụt sang Dương Phong Lai. Dương Phong Lai vung ống tay trái lên, bên trong luồn ra một dải lụa trắng là là bay đến chiếc bát. Nào ngờ thế bay của chiếc bát ấy mãnh liệt đến độ xé rách cả dải lụa rồi lao thẳng về phía y.

Dương Phong Lai nhảy tránh về phía sau, ống tay phải phất lên, lụa trắng bắn ra quấn chặt lấy xà nhà, thân thể theo đó bốc cao, chân trái tung ra đá bộp vào bát sứ, miệng cười bảo:
– Chó thiến, trà còn chưa uống xong mà đòi trả bát à?

Cú đá này vừa độc vừa khéo, bát sứ đen dẫu mang theo nội kình của Lãnh Huyền vẫn bị chấn cho vỡ nát, vô số miểng vụn hòa trộn thành một màn mưa lấp lánh, mang theo mũi nhọn ngạnh sắc đâm rào rào về phía Lãnh Huyền.

Lãnh Huyền không thèm quay đầu, trở tay vung roi vẽ ra một đường cong đẹp mắt, “Lốp bốp!” mấy tiếng, trận mưa miểng sứ rơi lả tả xuống đất. Dương Phong Lai quát lớn, liên tiếp huơ chân đá đến như một cơn gió. Lãnh Huyền cười khẩy, roi ngựa dựng thẳng, ngọn roi nhập vào nhả ra hướng thẳng đến huyệt “Côn Lôn” bên gót chân phải của Dương Phong Lai không sai lấy một li. Dải lụa trắng của Dương Phong Lai đang máng trên xà, người y treo lơ lửng giữa không trung, thấy thế thì xoay tròn thân thể né đi, lại vòng sang góc chết bên trái của Lãnh Huyền, đổi chân trái nhắm vào trán của lão thái giám rồi tung cước như một cơn lốc, hận không thể đá cho lão vỡ đầu toạc ốc.

Lãnh Huyền chuyển roi sang phía tay phải, ngọn roi phóng ra vun vút, hư hư thật thật, lại nhắm về phía huyệt “Trùng Dương” nơi chân trái của y, đòn này nhìn có vẻ tầm thường nhưng Dương Phong Lai biết rõ lợi hại, cước đi được nửa đường chợt rụt trở về, thân mình nhào lộn chuyển hướng để tìm một góc chết khác. Lãnh Huyền ngồi yên không nhúc nhích, roi ngựa cứ chuyển qua đảo lại giữa hai bàn tay, ngọn roi chỉ lăm le nhắm vào yếu huyệt trên đôi chân y, chân trái chính là huyệt “Trùng Dương”, chân phải đương nhiên là huyệt “Côn Lôn”, Dương Phong Lai xoay mình hai vòng, tung ra hai mươi cú đá hầu như đều bị lỡ dở nửa chừng.

Nhạc Chi Dương đứng xem một bên gần như thở không ra hơi. Mỗi một cử động của Lãnh Huyền đều rành mạch rõ ràng, còn Dương Phong Lai như có mấy chục hình bóng chập chờn trên không khiến cho người xem hoa cả mắt. Dương Phong Lai ra chiêu liên hồi nhưng không tài nào ép được lão thái giám đứng dậy, trong lòng bực không kể xiết, bỗng thấy Lãnh Huyền chỉ lo tập trung ở phần trên, phía dưới hầu như bỏ ngỏ, tay trái y lập tức thả lụa trắng ra quấn lấy ghế tựa của Lãnh Huyền.

Dương Phong Lai truyền nội lực vào lụa trắng, dốc sức phóng đi, vốn cho rằng lão thái giám phải dùng Thiên Cân Trụy(*) để đối phó, nào hay y vừa ra tay thì lão cũng bắt đầu rục rịch, ghế tựa vọt lên như chớp. Dương Phong Lai trong lòng phát hoảng, thầm kêu không ổn, ý nghĩ vừa nháng lên thì Lãnh Huyền lúc này chẳng thèm quay đầu đã trở tay phất roi trúng vào thân ghế khiến cho đà bay của nó càng nhanh hơn gấp bội, kèm theo một luồng gió mạnh ầm ập lao đến y. Dương Phong Lai vội vã lộn ngửa về sau, người gập thành hình cánh cung, chỉ cảm thấy chiếc ghế trôi qua sát rạt bên mũi rồi va uỳnh vào bờ tường đằng sau; bức vách này như làm bằng giấy bồi, lập tức lủng toạc ra một cái lổ to bè.
(ND chú: Thiên Cân Trụy hay Đề Thiên Cân là một trong 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm)

Dương Phong Lai hết hồn hết vía, còn chưa lấy lại bình tĩnh, chợt nghe Minh Đấu hét lên:
– Coi chừng!

Y đưa mắt nhìn qua, Lãnh Huyền đã lẳng lặng sấn tới sát bên cạnh, thì ra chiếc ghế ấy chỉ là chiêu thức giả, lão thái giám thừa biết chẳng thể đả thương được Dương Phong Lai cho nên tức tốc nương theo đà mà ra tay đánh lén.

Dương Phong Lai vội huơ tay kéo lấy dải lụa trắng ở bên trên, thân người giật mạnh về phía sau. Ngón chân của Lãnh Huyền nhún khẽ lên góc bàn, phóng mình ra xa hơn một trượng, động tác càng thêm nhanh nhạy. Dương Phong Lai xoan xoát tung ra năm chưởng, bàn chân như mãng xà nhả độc liên tục đá ra năm cước. Mười chiêu này thi triển liền mạch đủ khả năng ngăn chặn bất cứ đòn truy kích nào trên đời, với bản lĩnh của lão thái giám cũng phải thụt lùi về sau để tránh lợi hại, roi ngựa của lão lại thoăn thoắt vung lên, linh hoạt như một con giun dài ngoằn, uốn éo vòng qua quyền cước của Dương Phong Lai, đầu roi phất vào vị trí cách cổ họng y ba phân.

Sợi roi ngựa này tuy chỉ là vật bình thường nhưng một khi được rót vào “Tảo Tuệ Công” của lão thái giám thì việc xuyên gỗ đập đá chỉ là chuyện nhỏ. Dương Phong Lai bất đắc dĩ đành phải thu tay trái về, hai ngón trỏ và giữa tạo hình chiếc kéo, nhấp về phía ngọn roi của Lãnh Huyền. Phàm là cao thủ dụng roi, kỵ nhất là đầu roi bị nắm, một khi đầu roi bị nắm thì coi như vô dụng chẳng khác nào rắn mất đầu, rồng cụt đuôi.

Một roi này của Lãnh Huyền khí thế đã tận, nếu không thu hồi nhất định sẽ bị bắt lấy. Dương Phong Lai vốn định khiến cho lão thấy khó mà lui, nào ngờ đầu ngón tay y mềm oặt, định kẹp lấy thì sợi roi ngựa đã vung lên, một luồng nội kình ào ạt đổ ập đến. Dương Phong Lai vội vàng vận khí đánh trả, nội kình quấn vào nhau còn chưa phân thắng bại, tay phải của Lãnh Huyền chợt giơ cao, kẹp ngón tay điểm về phía trước.

Sát na ấy, Dương Phong Lai đột nhiên nhớ ra một chuyện, thân hình cố sức lách qua tránh được vùng nguy hiểm trước ngực, cùng lúc đó bờ vai lạnh toát, một dòng khí rét buốt rót vào hõm vai, cánh tay phải lập tức trở nên tê dại. Thân hình của y treo lửng giữa chừng không vốn phụ thuộc hoàn toàn vào dải lụa bên phải, lúc này cũng nhanh chóng tuột tay rơi xuống. Dương Phong Lai tay chân luống cuống, còn chưa kịp đáp xuống đất, hai ngón trỏ và giữa của Lãnh Huyền lại xuất ra, từ trên điểm xuống ấn đường của y.

Dương Phong Lai bị đơ mất một tay, tay còn lại bị roi ngựa níu giữ, một chỉ này vốn dĩ không cách nào ngăn chặn được. Đang lúc tuyệt vọng, một cơn gió mạnh từ bên hông phất tới kéo y loạng choạng lùi ra sau. Chỉ kình của Lãnh Huyền rơi vào khoảng không, quét trúng một cái bàn vuông. “Phụp!”, bàn gỗ lõm vào một góc hệt như miếng đậu phụ.

Minh Đấu chưởng trái kéo lấy đồng môn, chưởng phải phất về phía Lãnh Huyền. Lãnh Huyền uốn thẳng rọi ngựa quét ra vun vút, hai luồng kình phong chạm nhau, bát đĩa trong quán nảy tưng nhốn nháo, làm rộ lên một tràng âm thanh loảng xoảng vui tai.

Trận đấu hiện tại của hai người khác với trận vừa rồi. Trận vừa rồi giống như thần ưng bắt se sẻ, giữa chừng không có thể trông rõ cao thấp, còn lúc này hai người đứng cách xa nhau, roi ngựa lúc cong lúc thẳng, góc độ kỳ dị, nội kình của Lãnh Huyền cũng theo roi mà phát ra, thẳng cong vô chừng, luôn tìm ra sơ hở mà luồn lách vào. Minh Đấu đứng ở đằng kia, cánh tay trái của hắn xoay vặn theo ý muốn hệt như không xương, có thể ra tay từ mọi góc độ, bất kể ngọn roi cứng của Lãnh Huyền quất tới đâu hắn đều ung dung hóa giải được. Hai luồng kình khí hệt như hai trận gió xoáy càn qua quét lại làm cho bụi bậm khắp lầu trà bốc lên mù mịt.

Qua lại mấy chiêu, Lãnh Huyền bỗng nhấc tay trái, hai ngón chụm lại điểm ra lần nữa. Minh Đấu cũng vội vàng giơ tay phải lên, ngón trỏ chĩa về phía đối thủ. Không trung vọng lại âm thanh vù vù, hai người cùng lúc lắc mình, trên mặt Minh Đấu nổi lên một tầng sắc tím, chân trái trụ không vững loạng choạng lùi về sau một bước, “Rắc!” Sàn gác dưới chân hắn lộ ra một vết nứt rành rành.

Lãnh Huyền mặt mũi lạnh tanh, roi ngựa càng múa càng nhanh, luồng gió xoáy dẫn theo có vẻ đã giảm thiểu không ít. Minh Đấu đang lúc hứng mũi chịu sào, có khổ cũng tự biết: kình lực của Lãnh Huyền nhìn thì có vẻ yếu đi, thật ra chỉ tạm thời co cụm lại, tựa như chất gỗ rời rạc, đá tảng rắn bền, về sau càng dễ gây thương tổn cho người khác. Lúc này “Tảo Tuệ Công” như một bức tường đá ép đến, “Qua Toàn Kình” và “Thao Thiên Khí” của Minh Đấu dẫu mạnh cũng biết khó lòng đương cự, đừng nói đến việc đối phó với chỉ lực của lão thái giám.

Lãnh Huyền vung ngón tay không nhanh không chậm, thế nhưng mỗi lần xuất chiêu, Minh Đấu đều phải thoái lui một bước, dần dần lùi đến cạnh bàn, sắc mặt từ đỏ thành trắng, mồ hôi như thóc vã đầy hai bên trán.

Lão thái giám cười gằn một tiếng, cất giọng điềm nhiên:
– Minh Đấu, “Kình Tức Công” của ngươi hình như chưa luyện xong, “Qua Toàn Kình”, “Thao Thiên Khí” thì thành thục tạm chấp nhận, nhưng “Tích Thủy Kình” thì ôi thôi, thật chả dám khen ngợi. Đổi lại là cha ngươi chắc chắn sẽ không khốn đốn đến vậy, còn nếu là Tây Côn Luân đích thân đến, “Âm Ma Chỉ” của ta sao có thể thuận lợi đắc thủ như thế được?

Minh Đấu trợn tròn hai mắt, quát lớn một tiếng, ngón trỏ vừa xoay vừa điểm, không khí phát ra những tiếng rít ngột ngạt. Hắn chẳng những không lùi lại mà còn tiến lên trước một bước, trán nổi lên một tầng khí đen, giương giọng nói:
– Lương Tiêu vong ơn bội nghĩa, hạ tiện vô sĩ, người trong thiên hạ ai ai cũng nguyền rủa, dù võ công y có cao đến mấy Minh mỗ cũng xem thường!

Lãnh Huyền cười:
– Thú vị thật, ngươi đã không ưa y tội gì phải luyện võ công của y? Thú vị hơn nữa là ngươi lại còn chưa luyện xong cái thứ võ công đê tiện vô sỉ này!

Lời vừa dứt, thầy tu áo trắng ở bên kia chợt vỗ tay cười lên khùng khục.

Minh Đấu trong lòng giận lắm, đang định mở miệng trả đũa, chợt cảm thấy trước ngực âm ĩ đau nhói. Vừa nãy hắn cố rướn người lên một bước, kinh mạch đã bị chấn động mạnh, chợt nghe một tiếng rít chói lói bên tai, roi ngựa lại xé gió lao đến dẫn theo một luồng khí sắc bén hất tung chưởng lực của hắn. Minh Đấu vội vã phất ra hai chưởng đẩy văng luồng kình khí đang ép đến ấy. Lãnh Huyền nhân cơ hội gộp ngón điểm đến, “Âm Ma Chỉ” lặng lẽ dẫn theo một luồng khí lạnh buốt xương. Minh Đấu huơ ngón trỏ liên tiếp bắn ra “Tích Thủy Kình”, theo câu nói “Nước chảy đá mòn”, tuy ngón chỉ lực này chẳng ghê gớm gì cho cam, nhưng cứ mải miết tung ra, lại thêm động tác nhẹ nhàng kín kẽ, nên cũng chả dễ dàng đương cự.

Tiếng loẹt xoẹt vang lên không dứt, chỉ lực của cả hai lại một lần nữa triệt tiêu lẫn nhau, Minh Đấu mới thở phào một hơi, Lãnh Huyền lại vươn ngón nhẹ nhàng tung ra một chỉ kế tiếp. Hai chỉ này liên tục phát xuất gần như không kịp suy nghĩ. Minh Đấu trong khoảnh khắc cảm thấy bối rối, chẳng rõ vì sao vào lúc nguy cấp Lãnh Huyền lại xuất chỉ nhanh như thế, tuy nhiên sự việc xảy ra quá gấp gáp gần như hắn không thể nghiền ngẫm kịp, chỉ cảm thấy ngực trái lạnh toát, một nửa bên người đã mất đi cảm giác.

Hóa ra lúc nãy Lãnh Huyền xuất chỉ chậm như vậy đều có mục đích cả, lão đợi cho Minh Đấu quen với nhịp điệu ra chiêu của mình rồi bất thần tăng tốc, đánh cho hắn trở tay không kịp. Minh Đấu chưa kịp hóa giải chỉ lực thì “Tảo Tuệ Công” đã ập đến, hắn chỉ cảm thấy lồng ngực nóng ran, cả người văng đi đánh rầm, đè sụm một nửa chiếc bàn ở đằng sau.

Lãnh Huyền tiến về trước một bước, đuổi đến trước mặt Minh Đấu, tay lão múa lên một màn roi vừa chừng quất xuống đỉnh đầu của Minh Đấu. Minh Đấu nửa người tê bại, mắt thấy ngọn roi đáp xuống, vội vàng sử ra một chiêu “Lãn Lư Đả Cổn”, cố gắng lăn sang một bên. Chỉ nghe “độp” một tiếng, đầu của hắn như lùng bùng tiếng chuông trống, chẳng rõ đã xảy ra việc gì, chỉ biết lăn mình huỳnh huỵch ra xa hơn một trượng mới dám bật dậy, nhưng còn chưa đứng vững thì một trận gió mạnh đã quét sượt qua mặt làm cho da mặt rát bỏng từng cơn.

Minh Đấu đưa mắt nhìn lại mới thầm giật thót, thứ sượt sát qua mặt khi nãy chính là một con dao mổ heo, con dao ấy xoay mòng mòng bay như xé gió về phía Lãnh Huyền ở đằng xa. Lão thái giám đang múa roi nháo nhào, chiến đấu giữa một đám chùy thiết, chảo nhôm, xẻng sắt. Lão hất một roi đánh vỡ tan chảo nhôm, ai ngờ mấy mảnh vụn vừa rơi xuống đất bỗng nhiên bốc lên rồi tiếp tục bổ nhào về phía Lãnh Huyền.

Minh Đấu vừa mừng vừa ngạc nhiên ngoảnh đầu nhìn lại, Thi Nam Đình đứng ở bên bàn, hai tay đang quơ quào loạn xạ, ngón lúc cong lúc thẳng hệt như nghệ nhân diễn rối điều khiển một đám đồ sắt. Mấy món thiết khí ở bên cạnh y liên tục phóng ra, quả cầu sắt trên mặt đất bị bong tróc từng lớp hệt như vỏ củ hành.


Thi Nam Đình dọc đường thu nhặt đồ sắt, gom được một kho vũ khí nho nhỏ, y thấy Minh Đấu không địch nổi bèn ra tay giúp đỡ. “Bắc Cực Thiên Từ Công” của y có thể hút nhả mọi món đồ bằng kim loại trên đời, vật sắc mang theo nội lực của y chính là một món ám khí tuyệt hảo. Y thấy ngọn roi của Lãnh Huyền lợi hại, trước tiên dùng một cái chảo to bảng đỡ lấy đường roi ấy, tiếp đó xách ra một loạt chùy thiết, kềm thiết trong lò rèn; bừa sắt, xẻng sắt của dân trồng trọt; mấy trăm cây kim từ cửa hàng thêu; lớn có nhỏ có, nặng có nhẹ có, cái lớn thì che cái nhỏ, vật nhẹ nương cùng vật nặng, hệt như một bầy côn trùng rào rào vây kín lấy Lãnh Huyền.

Đổi lại là người khác hẳn đã chật vật khó mà chống đỡ, nhưng “Tảo Tuệ Công” của Lãnh Huyền lừng danh thiên hạ, sợi roi một khi múa lên giống hệt như tấm khiêng vững chắc có thể chặn được cả cung cứng nỏ mạnh. Lúc này lão đã dễ thở hơn, roi ngựa thoắt nhanh thoắt chậm, màn roi khi lớn khi nhỏ xoay vòng vòng va chạm leng keng với vật sắt làm xẹt ra những tia lửa chi chít.

Cú va chạm này đã rút đi hết nội lực của Thi Nam Đình, đám thiết khí mịt trời tựa như sông hòa vào biển lớn, thi nhau rơi cuốn vào màn roi của Lãnh Huyền. Lão thái giám chợt hét lên một tiếng, roi ngựa bên tay phải quấn giữ thiết khí, hai ngón trỏ và giữa phía tay trái kẹp lại điểm về phía trước.

Thi Nam Đình e ngại chỉ lực của lão, vội vàng hút lấy một cái chậu sành chắn trước người, chậu sành trúng chỉ loảng xoảng rơi xuống đất, lăn thẳng vào góc tường.

Lãnh Huyền được thế lấn tới, tung ra một loạt chỉ như nỏ giật, Thi Nam Đình liên tục triệu hồi thiết khí để chống đỡ, đỡ được một lúc, y vừa định nhấc tay ra bốc tiếp thì phát hiện đã hết nhẵn, hóa ra chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, toàn bộ vật dụng kim loại đã được xài sạch sẽ.

Lãnh Huyền cười khà khà, vung chỉ lao đến, Thi Nam Đình chẳng còn cách nào khác, nghiến hàm tung ra một cú đấm. Đây chính là “Chỉ Nam Quyền” gia truyền nhà y, một khi thi triển, sức lực toàn thân sẽ quy về một mối, có thể đập bia nghiền đá, không thể ngăn cản.

Quyền phong và chỉ lực lặng lẽ va vào nhau, Thi Nam Đình không kềm được phải giật lui một bước, còn Lãnh Huyền thì tiến lên phía trước một bước, ngón tay lại tung ra, hai đòn chạm nhau, Thi Nam Đình tiếp tục thụt lùi. Trong chớp mắt, y đỡ được ba đòn, giật lùi cũng được ba bước, gương mặt vốn vàng ệch lúc này đã trở nên đỏ lựng.

Minh Đấu biết y luyện công không cẩn thận đã để lại bệnh mãn tính, đỡ xong ba đòn này chỉ sợ dính phải nội thương, lập tức vung chưởng lên, chưởng trái “Thao Thiên Khí”, chưởng phải “Qua Toàn Kình”, một đòn hướng ra ngoài đánh về phía Lãnh Huyền, một đòn hướng vào trong thu hút đám thiết khí nọ.

Lãnh Huyền vứt hết thiết khí, huơ roi đánh trả, mấy vật dụng kim loại ấy được tự do liền rơi lộp độp xuống đất. Thi Nam Đình trông thấy cơ hội, hai tay quắp lại, thiết khí chưa kịp rơi xuống đất lại nhảy dựng lên, bay vòng vòng quây lấy Lãnh Huyền. Dương Phong Lai đứng trông một bên, vốn e ngại thân phận không tiện ra tay bố ráp lão thái giám, nhưng khi thấy hai người kia phối hợp, y cũng chẳng dè dặt gì nữa, hai dải lụa trắng cứ bay lúc cao lúc thấp, chực chờ quấn giữ đôi chân của Lãnh Huyền.

Lãnh Huyền ba mặt đều phải chống đỡ với địch thủ, không kềm được hào hứng, sang sảng nói:
– Phải thế chứ! Vào sớm có phải hay rồi không?

Thân pháp chợt trở nên nhanh lẹ, bóng xanh dần dần nhòa đi, luồn qua lách lại giữa những dải lụa trắng, thiết khí và màn chưởng lực đầy trời. Lão đến đi như quỷ như mị, ra tay như sấm như sét, lấy một chọi ba mà vẫn không hề tỏ ra yếu thế.

Ba người phe Đông Đảo càng đánh càng cảm thấy kinh ngạc, thầm nghĩ chẳng trách cha và anh họ mình chết dưới tay kẻ này. Một thân võ công của lão thái giám tựa như người trời biến hóa, cho dù đảo vương Vân Hư có đến thì cũng chưa chắc nắm được phần thắng. Bên cạnh Chu Nguyên Chương có được nhân vật như vậy, hèn chi trải qua biết bao bận ám sát đều có thể bình an vô sự.

Lại đấu hơn mười hiệp nữa, Minh Đấu tình cờ liếc mắt trông thấy tên hầu trà lúc này đang co rúm trong một góc tường, thân thể sớm đã mềm như bún; thầy tu áo trắng thì ngồi yên không cử động, nét mặt tươi cười, cả người được khí lực bao bọc rõ ràng là không chút hề hấn

Minh Đấu trong lòng phát lạnh, vắt hết đầu óc cũng không đoán ra lai lịch của tên hòa thượng này. Hắn có ý thăm dò, cố tình đẩy lệch chưởng phong, quét về hướng hòa thượng. Nhưng chưởng phong ấy tựa như trâu đất xuống biển, vừa đến gần hòa thượng lập tức biến mất không tăm tích.

Minh Đấu cảm thấy hoang mang, lại đưa mắt nhìn sang bên kia, nơi ấy có một đôi thiếu niên đang tựa sát vào cột trụ bên cửa sổ; vị thiếu niên áo vàng dáng vóc thấp hơn lúc này đang che chắn phía trước cho thiếu niên áo xanh, trường kiếm vắt ngang trước ngực, ánh mắt gườm gườm nhìn về phía này.

Minh Đấu chợt nảy ra suy nghĩ, hai người kia ngồi cùng bàn với Lãnh Huyền, ắt hẳn là đồng bọn với lão thái giám. Lão chó thiến võ công cao vời, “Âm Ma Chỉ” càng khó mà đề phòng, hôm nay cho dù có giết được lão ta e rằng tam tôn của Đông Đảo cũng khó thoát cảnh tử thương.

Hắn xưa nay nham hiểm, nghĩ đến điểm này, chưởng trái lập tức vờn ra quét trúng mấy chục mảnh vụn sắt kim thép, tạo thành một trận gió xoáy lùa về hướng hai người thiếu niên.

Thiết khí còn chưa đến gần, thiếu niên áo vàng đã huơ kiếm ra, đường kiếm lấp lánh ánh sáng như rải sao, chi nghe mấy tiếng linh kinh leng keng vang lên, mảnh vụn kim thép bay tản mác khắp nơi.

Minh Đấu thoáng sững sờ, thầm nghĩ: “Đây chẳng phải “Dịch Tinh Kiếm” đấy ư? Con nhóc kia rõ là truyền nhân của Tịch Ứng Chân.” Đang lúc suy tưởng, Dương Phong Lai cũng đã hiểu ra mưu kế của hắn, thân như rồng lượn nhanh chóng lách khỏi vòng chiến, hai dải lụa trắng loạt xoạt quét về phía Chu Vi và Nhạc Chi Dương.

Chu Vi tuy giỏi kiếm pháp nhưng nội lực không đủ, miễn cưỡng đánh rơi được ám khí nhưng cánh tay đã tê rần rật. Chợt thấy lụa trắng cuốn tới, cô đành gắng gượng huơ kiếm đâm ra, nào ngờ lụa trắng như có sự sống, nhìn thì có vẻ bay về bên trái nhưng khi mũi kiếm còn chưa đâm đến lại bất chợt ngoặt sang phải, trói chặt lấy cổ tay của Chu Vi. Cô chỉ cảm thấy một luồng lực hùng hậu đổ dồn đến, phần dưới chân bị kéo hẫng đi, té nhoài về trước. Lúc này cô chợt nghe Nhạc Chi Dương kêu thảm một tiếng, đưa mắt nhìn lại, tên nhóc ấy đã bị quấn kín cả cổ họng, hai mắt trắng dã, lưỡi thè cả ra ngoài.

Chu Vi nóng lòng giơ tay chụp lấy dải lụa trắng nọ, thế nhưng Dương Phong Lai lợi hại hơn cô biết chừng nào, y nhẹ nhàng vận sức giật đi, tách hai người ra xa. Chu Vi sốt ruột đến mức thất thố, chịu không nổi thét gọi:
– Lãnh công công!

Giọng điệu cô trong trẻo êm ái, mọi người ai nấy đều ngạc nhiên, Dương Phong Lai cười ha hả:
– Giỏi cho nhà mi, hóa ra là một con nữ…

Chưa kịp giễu cho hết câu, một luồng kình khí sắc bén đã quét ầm ập đến nơi. Dương Phong Lai cười to, phóng người vọt lên cao. Lãnh Huyền vung roi bức lui được y, hai ngón tay như kiếm rạch lên đôi lụa trắng kia, dải lụa trúng chiêu rách toạc, Nhạc Chi Dương tức khắc ngã phịch mông xuống đất.

Lãnh Huyền lo xoay trở cứu người liền để lộ khoảng trống sau lưng. Những kẻ lão đối mặt toàn là cao thủ đương thời, sao có thể bỏ lỡ cơ hội tốt như vậy. Thi Nam Đình không muốn thừa nước đục thả câu, thoáng ngập ngừng đôi chút nhưng chưởng phong của Minh Đấu thì lại phát về phía Lãnh Huyền như trời giáng, trộn lẫn theo cả mảnh vụn kim sắt.

Lão thái giám gặp nguy không rối loạn, cố sức vặn người lại, roi ngựa hất về phía sau, thiết khí leng keng rơi đầy mặt đất, ngọn roi theo đó cũng vung thẳng, một luồng khí sắc lạnh luồn qua chưởng phong, quất vào bụng dưới của Minh Đấu.

Minh Đấu không dám bức ép thái quá liền tung người nhảy về phía sau. Đột ngột, không khí trong quán trà trở nên trầm lắng, chỉ nghe được tiếng thở hào hển của bốn kẻ đang quần thảo.

“Tách!” Một giọt máu rơi xuống đất, ngón tay Lãnh Huyền khẽ rung lên. Chu Vi đứng ở sau lưng lão thái giám, trông thấy rành rành một vết màu đỏ tươi đang chầm chậm lan rộng trên vai trái của lão, trong lòng cô hiện lên suy nghĩ: “Thôi chết, Lãnh công công bị thương rồi!”

– Lão chó thiến! – Minh Đấu cười the thé: – Xem tình hình này, hôm nay ngươi khó thoát được lẽ công bằng!

Lãnh Huyền chẳng hề biểu lộ cảm xúc, giũ giũ tay áo, hờ hững bảo:
– Ba đánh một là công bằng, lôi kéo người vô tội cũng là công bằng, lẽ công bằng của Đông Đảo hóa ra là như vậy, Lãnh mỗ quả là bội phục vô cùng!

Ba người phe Đông Đảo nghe thấy lời này mặt mũi người nào người nấy đều nóng rần. Chợt đâu nghe dậy lên tràng cười giòn tan, ba người đưa mắt nhìn lại, hóa ra kẻ đang cười chính là vị hòa thượng nọ. Dương Phong Lai từ thẹn hóa giận, buột miệng mắng:
– Tên lừa trọc, ngươi cười cái khỉ gì đó?

Thầy tu áo trắng tay cầm bát trà, ung dung bảo:
– Cười khỉ gì à? Đương nhiên là cười người rồi. Túc hạ hỏi ta cười khỉ, lẽ nào không phải con người?

Dương Phong Lai nổi xung, há miệng chửi:
– Tên lừa trọc, ta là cha nhà ngươi đấy!

Tăng nhân áo trắng cười bảo:
– Vậy thì càng không ổn rồi, ta là lừa trọc, ngươi là cha ta, suy ra ngươi cũng là lừa à? Hà hà, trông nhà ngươi lông lá bồm xồm như vậy sao làm lừa trọc cho được, giống lừa con hơn! Hà hà, lừa con, lừa con, mỗi tội hơi đen một tí.

Dương Phong Lai giận đến hai mắt tóe lửa, đang muốn ra tay dạy dỗ thì Minh Đấu giơ tay ra ngăn cản, trầm giọng nói:
– Chớ linh tinh nữa, việc chính quan trọng hơn!

Dương Phong Lai thấy thần sắc của hắn, biết hẳn là có lý do, lập tức nén lại cơn giận, lại tung lụa trắng cuốn về phía Lãnh Huyền. Minh Đấu ra tay cùng lúc, phát ra liên tục ba chưởng. Thi Nam Đình cũng tiến lên trước một bước, quắp tay chộp ra, thiết khí trên mặt đất đồng loạt nhảy dựng lên.

Ba người cùng ghìm đà bung sức làm cho thế đến càng thêm mạnh mẽ, Lãnh Huyền vừa phải trực tiếp chống đỡ, vừa lo bảo vệ cho hai người sau lưng, chưa đến vài chiêu đã bị một mảnh sắt bay rạch qua người dẫn theo một vòi máu phún ra. Chu Vi trông thấy hoảng hốt vội la lên:
– Lãnh công công!

Nói đoạn, cô giương kiếm muốn xông lên. Minh Đấu lại tẻ ra một chưởng hất thẳng vào mặt của cô. Chu Vi chỉ cảm thấy một luồng đại lực ép đến, máu trong người dồn cả lên trên, bất giác bật ra tiếng kêu tỉ tê. Lãnh Huyền nghe thấy, trở tay tung chỉ, gió lạnh vèo vèo ùa đến, chưởng lực của Minh Đấu tan tành ngay tấp lự. Đúng lúc này chợt nghe Thi Nam Đình quát lớn một tiếng:
– Trúng!

Sườn trái của Lãnh Huyền tóe máu đầm đìa, cùng lúc đó ánh trắng quét đến dưới đất, dải lụa đã quấn chặt lấy chân trái của lão.

Dương Phong Lai sử một chiêu thành công, không giấu được tiếng reo mừng. Lãnh Huyền trên phải chống cự với ba người, dưới lại bị lụa trắng níu giữ, thêm vào trúng thương liên tục, chưa đầy ba chiêu đã cảm thấy đầu váng mắt hoa, cả người trở nên lảo đảo. Chu Vi cũng nhận ra điều không ổn, định giũ kiếm ra giúp đỡ, nhưng lại sợ tính khôn tính dại hóa hại vào thân, còn làm cho Lãnh Huyền thêm mất tập trung.

Đang lúc khẩn cấp, chợt nghe Lãnh Huyền hét lên lanh lảnh:
– Vương tử Tiết Thiện!

Chu Vi ngẩn ra, chẳng hiểu lão hô hoán cái gì, bỗng đâu sau phút im lặng có kẻ chợt cười lên khà khà:
– Lãnh công công, ông gọi ai đấy?

Chu Vi đưa mắt nhìn lại, kẻ vừa tiếp lời chính là thầy tu áo trắng nọ.

Lãnh Huyền hét:
– Tiết Thiện, ta gọi ngươi đấy!

Thầy tu áo trắng mỉm cười:
– Tiết Thiện đã qua đời rồi, ông còn gọi hắn làm gì?

Lãnh Huyền nhổ toẹt một tiếng, bảo:
– Ngươi có muốn chết thì cũng chết kheo khéo tí, thay đổi mỗi cái đầu trọc định lừa ai hả?

Nhà sư áo trắng cười khùng khục đáp:
– Lãnh Huyền à Lãnh Huyền, ông đúng là bệnh nặng đến mức phải vái tứ phương rồi, ngữ vong ân bội nghĩa như ông chẳng lẽ còn muốn ta cứu giúp hay sao?

Lãnh Huyền lạnh lùng nói:
– Ta chết thì đơn giản rồi, nhưng tông tích của món đồ ấy sẽ như đá chìm xuống biển, vĩnh viễn chẳng còn manh mối!

Nhà sư áo trắng cười hỏi:
– Ông biết mục đích đến đây của ta?

Lãnh Huyền cười lạnh:
– Ngươi chẳng phải đến vì di bảo của Nguyên Đế hay sao? Còn không chịu ra tay thì ta sẽ giao nó cho Tam Tôn của Đông Đảo.

– Di bảo của Nguyên Đế?

Tam Tôn của Đông Đảo thảy đều vểnh tai chú ý, sáu luồng ánh mắt hau háu soi cả lên người của thầy tu áo trắng. Nhà sư trầm ngâm giây lát, đoạn đứng dậy cười bảo:
– Lãnh công công, ông lợi hại lắm!

Hắn phất tay áo, tung ra một chưởng nhẹ như lông hồng, miệng cười tươi:
– Minh tôn chủ, xin mời!

Hắn ra tay khoan thai, nói năng lưu loát, nhưng Minh Đấu có cảm giác một luồng nội lực khủng khiếp tựa như cả tòa núi lở đang đổ sụp đến. Minh Đấu hoảng hốt vội xoay chưởng đón đỡ, chợt thấy đôi cánh tay trở nên bỏng rát, trái cổ như muốn tưng ra khỏi cuống họng, lập tức lùi về sau hai bước, buột miệng hô lên:
– Đại Kim Cương Thần Lực!

Nhị Tôn còn lại đều biến sắc, thay nhau ngừng tay nhảy ra khỏi vòng chiến, Thi Nam Đình nhướng mày hỏi:
– Đại sư và Uyên đầu đà xưng hô ra sao?

Nhà sư áo trắng cười đáp:
– Người là gia sư của ta!

Thi Nam Đình tỏ vẻ tôn kính, gật đầu nói:
– Đại sư đúng là truyền nhân của Kim Cương, dám hỏi cao danh quý tánh?

Nhà sư áo trắng mỉm cười:
– Xung…

Mọi người chăm chú nhìn hắn, đợi hắn nói tiếp vế sau, nào ngờ nhà sư áo trắng chỉ thốt đúng một từ rồi không nói thêm gì nữa. Thi Nam Đình chưng hửng, gật gù bảo:
– Uyên đầu đà lấy chữ “Uyên” làm hiệu, còn pháp hiệu của đại sư đây chẳng lẽ là chữ “Xung”?

Nhà sư áo trắng mỉm cười:
– Không sai!

Thi Nam Đình nói tiếp:
– Hóa ra là Xung đại sư, túc hạ đã là truyền nhân của Kim Cương, cớ sao còn giúp kẻ xấu làm ác?

Xung đại sư bật cười:
– Ai tốt ai xấu còn chưa bàn đến, đường đường là Đông Đảo Tam Tôn lại đi vây công một vị thái giám, việc này truyền ra giang hồ nhất định rất khó nghe!

Dương Phong Lai nổi đóa:
– Nói như vậy là ngươi muốn đứng ra dàn xếp à?

Xung đại sư cười bảo:
– Dàn xếp thì không dám, kể ra ta với Lãnh công công cũng có một món nợ cũ cần thanh toán nhưng đã bị ba vị ra tay trước!

Dương Phong Lai trợn trừng hai mắt, đang định quát tháo thì Minh Đấu đã xua tay ngắt lời:
– Xung đại sư, nếu ngươi muốn tính nợ cũ vậy thì cứ tính trước đi đừng ngại!

Dương Phong Lai thấy ánh mắt của hắn, nhất thời hiểu ra vấn đề. Lão thái giám và hòa thượng này đều là kình địch, trước mắt chi bằng để bọn họ đánh nhau một trận cho bầm dập hai phía, sau đó ba người Đông Đảo ra tay đương nhiên giành được thắng lợi nhẹ nhàng.

Xung đại sư mỉm cười bảo:
– Minh tôn chủ, kế sách “Mượn gió bẻ măng” này bình thường có lẽ phát huy hiệu quả, hôm nay đáng tiếc là vô dụng rồi. Món nợ cũ này chỉ có thể thanh toán âm thầm, không thể để người ngoài cuộc ở gần được. Ba vị tôn chủ nếu có thành ý, chi bằng nhượng bộ rút lui, đợi ta và Lãnh công công giải quyết xong xuôi lại đến gặp các người có được không?

Minh Đấu sắc mặt sa sầm, lạnh lùng không lên tiếng. Dương Phong Lai vốn thẳng tính, cao giọng quát:
– Nói chuyện buồn cười gớm, bọn ta mà đi, các ngươi cắp đít chạy mất thì tính sao?

Xung đại sư thở dài bảo:
– Nói như vậy ta cũng hết cách rồi!

Dứt lời, hắn tung hờ ra một quyền về phía Minh Đấu.

Minh Đấu đánh trả lại một chưởng, ngờ đâu quyền của Xung đại sư chưa tung ra hết sức bỗng nhiên biến hóa thành chưởng, quét nhanh về hướng Dương Phong Lai. Dương Phong Lai phóng người nhảy tránh, lụa trắng vươn dài ra mổ vào yết hầu của Xung đại sư.

Xung đại sư cười khẩy, tiện tay chộp lấy lụa trắng vào lòng bàn tay. Dương Phong Lai hoảng hốt gồng sức giật về, ngờ đâu một luồng đại lực đổ dồn đến theo lụa trắng, chân khí của bản thân y vừa tiếp xúc với nguồn lực này hệt như băng tuyết gặp lửa, lập tức tan chảy sạch sẽ. Dương Phong Lai bỗng cảm thấy mắt đỏ gân phồng, thân thể liên tục loạng choạng, chợt nghe Xung đại sư cười dài một tràng, xoay người dạng chân, thuận tay thúc mạnh vào lụa trắng, phần da thịt giữa lòng bàn tay của Dương Phong Lăng nhói đau, cả người lảo đảo ngả về phía Thi Nam Đình.

Thi Nam Đình vừa giơ tay ra đỡ chợt cảm giác lồng ngực nóng ran, máu huyết trào dâng. Dương Phong Lai một đời làm tôn chủ, thành danh nào phải do may mắn, lụa trắng phóng vào không trung quấn lấy một thanh xà gỗ bên trên, tay trái buông dải lụa mặc cho Xung đại sư lấy đi, thân thể theo đó xoay chuyển, lần lượt tung ra bảy cước như cuồng phong quét đến từ bảy hướng khác nhau. Xung đại sư vẫn giữ nguyên nét cười, quay người phát chưởng, ống tay áo vung vẩy phất phơ hệt như một áng mây bay vất vít quanh tòa Ngọc Sơn(*).
(ND chú: tòa núi phía Tây theo Sơn Hải Kinh là nơi cư ngụ của Tây Vương Mẫu)

Âm thanh bồm bộp vang lên không dứt, Dương Phong Lai đá trúng cánh tay của hòa thượng giống như đá phải cột sắt trụ thép, xương chân nhức nhối muốn sụm. Y đang định lùi người về sau, một dải lụa trắng đã bốc thẳng đến trước mặt, bên trong tập trung nội lực của Xung đại sư, thế đến tựa như một thanh chùy sắt bay ngoặc về hướng lùi của Dương Phong Lai, dẫu cho y thân pháp có nhanh như gió cũng bị ép đến mức phải tránh bên này né bên kia. Nhị tôn còn lại đưa mắt nhìn nhau, quyết định ra tay một lượt. Thi Nam Đình đẩy tay phải ra, thiết khí đầy trời rộ lên hệt như bầy ong vỡ tổ, Minh Đấu tiến lên một bước, vận “Thao Thiên Khí” tống ra một chưởng vào đám thiết khí ấy. Thiết khí bắn đi như sao xẹt chớp nháng, đà bay càng nhanh hơn gấp bội.

Xung đại sư vứt dải lụa trắng đi, tung một loạt quyền ào ạt đấm ra, thiết khí từng món một bị gạt phăng bất chợt quay vòng lại, cái thì vây lấy hắn, cái lại lao về phía Lãnh Huyền.

Nếu như Lãnh Huyền không bị thương, dựa vào sức của lão và Xung đại sư hợp lại thì đánh bại Tam Tôn chẳng phải chuyện khó. Thế nhưng lão liên tục trúng thương, máu chảy ra không ngừng, thêm vào tuổi tác đã cao, việc mất máu làm khí lực dần suy yếu, càng đánh lâu càng rơi vào thế hạ phong, đến nỗi Xung đại sư chốc chốc phải quay lại với tay ra đỡ ám khí thay lão. Màn so đấu cứ thế kéo dài mà hai bên vẫn chưa phân định được thắng bại.

Lại trải qua mấy chiêu, Lãnh Huyền chợt nhớ ra hai người trẻ tuổi phía sau mình, khóe mắt lướt nhìn đến, cõi lòng tức thì chùng sâu xuống, chỉ thấy bên song trống huơ trống hoác, Nhạc Chi Dương và Chu Vi chẳng rõ đã tót đi đằng nào. Lão thái giám vừa giận vừa kinh ngạc, gắng sức nhảy về phía sau, lôi từ ống tay áo ra một khúc lụa trắng, bề mặt thấp thoáng sắc mực nước như được viết lên chi chít chữ.

– Tiết Thiện! – Lãnh Huyền cất tiếng gọi to: – Bức tranh chứa bảo vật này tặng cho ngươi đó!

Lão phất tay, lụa trắng bị “Tảo Tuệ Công” cuốn bay phất phơ về phía hòa thượng. Xung đại sư theo ý thức đón lấy, còn chưa kịp xem kỹ thì chợt phát hiện áp lực gia tăng đột ngột; nào mảnh sắt, nào kim thép, rồi lụa trắng, chưởng lực… toàn bộ lao cả về phía hắn. Xung đại sư không dám khinh thường, dốc hết sức tống ra một quyền. Hai bên lấy cứng chọi cứng tiếp chiêu, gió giật khắp lầu thổi cho đám mạt gỗ bay tán loạn đến mức cả quán trà phải rung lên từng chặp.

Lãnh Huyền thừa cơ hội thoát ra khỏi vòng chiến, thả người nhảy xuyên qua một song cửa sổ. Bốn kẻ kia thấy vậy, ngầm có cảm giác bị chơi xỏ, nhưng món di bảo của Nguyên Đế thật quá sức hấp dẫn, thứ mà Xung đại sư đang giữ trên tay không chừng chính là bí đồ chứa bảo vật, ba người của Đông Đảo nhất thời quên sạch mối thù của cha anh, cố sống cố chết bám riết lấy hòa thượng.

Hai bên lại trao đổi với nhau thêm mười chiêu như gió táp mưa sa, Xung đại sư chợt nhảy ra ngoài hét lên:
– Khoan đã!

Nói dứt, hắn lắc tay, xõa khúc lụa trắng ấy ra:
– Các ngươi xem đây là gì?

Ba người tập trung nhìn kỹ, khúc lụa ấy hóa ra chẳng phải là bí đồ chứa bảo vật gì mà chỉ là một tấm khăn bình thường, mặt trên có thêu tranh thủy mặc non nước. Minh Đấu biết đã trúng kế, hét tướng lên:
– Lão chó thiến vô liêm sỉ!

Đoạn hắn nhảy chồm đến bên song cửa nhìn xuống, dưới lầu lớp ngớp đầu người nào có thấy bóng dáng của Lãnh Huyền nơi mô?


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.