Liêu Uyển Hồng

Chương 16 part 1


Bạn đang đọc Liêu Uyển Hồng – Chương 16 part 1

Chương 16: Lá thư dài kể về những người đàn ông phản bội phụ nữ
1. Chuyện về bà cụ ngoại tôi
Muốn nói về bà cụ ngoại, thì trước hết phải bắt đầu kể từ ông cụ ngoại. Ông cụ ngoại của tôi họ Tô, gọi là Tô Hiền Lễ, là người huyện Giang An, Tứ Xuyên. Do Tô gia là con cháu đời sau của Tô Tuần con trai Tô Đông Pha đời Tống, nên cũng là dòng dõi thư hương, là một gia tộc lớn của vùng đó. Vào năm chuyển giao cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ông cụ ngoại của tôi tham dự kỳ thi khoa cử toàn quốc của triều Thanh lúc bấy giờ đã đỗ thám hoa (học vị dưới trạng nguyên và bảng nhãn thời xưa), lập tức nổi danh trong thiên hạ. Đương nhiên, từ xưa đến giờ văn nhân Trung Quốc đều lấy việc “Học để làm quan” làm mục đích chính để dùi mài kinh sử, cho nên ông cụ ngoại tôi cũng thuận theo lý đó làm quan, bước vào con đường hoạn lộ.
Do tuổi trẻ trí lớn tài cao, tiền đồ thênh thang, nên hoàng thân quốc thích lúc đó thật không ngờ đã xem vị quan trẻ tuổi này như con rể của mình, liền nhân lúc ông cụ ngoại tôi vào triều đã gả bà cụ ngoại cho ông làm “chính phòng”. Có lẽ bạn cũng chưa thật hiểu “chính phòng” trong từ điển tiếng Trung Quốc có nghĩa là gì? Chế độ hôn nhân ở thế kỷ trước của Trung Quốc là chế độ “đa thê”, nói một cách thông tục hơn thì đó chính là kiểu hôn nhân năm thê bảy thiếp. “Chính phòng” chính là người phụ nữ đầu tiên được người đàn ông cưới về nhà làm vợ, chỉ có người này mới có thể được gọi là vợ, hiểu theo nghĩa đầy đủ của người phương Tây, còn những người phụ nữ sau này tuy cũng được cưới về làm vợ, nhưng chỉ có thể gọi họ là thiếp, hoặc là vợ bé. Trong số những người phụ nữ ấy, vợ được xem như là người đứng đầu. Trong gia đình, ngoài chồng và mẹ chồng ra, người phụ nữ này sẽ là người có quyền lực cao nhất.
Bà cụ ngoại tôi là con gái của một vị quan đương triều người dân tộc Mãn. Lúc đó, giới quý tộc Trung Quốc thường bị mọi người gọi là “Con cháu Bát Kỳ” (người Bát Kỳ là người dân tộc Mãn của Trung Quốc). Trong lịch sử Trung Quốc, sự thống trị của dân tộc Hán bị một dân tộc du mục gọi là “Mãn tộc” lật đổ, sau khi lật đổ triều Minh tiến vào chiếm cứ Bắc Kinh, tất cả những vị thủ lĩnh Bát Kỳ có công trong việc mang quân đánh trận của dân tộc Mãn, đều được phong quan tiến chức, trở thành tầng lớp quý tộc thượng đẳng, bà cụ ngoại của tôi là một người xuất thân trong một gia đình quý tộc hiển hách như thế. Theo như lời của mẹ tôi nghe bà ngoại tôi và một số vị trưởng bối khác cùng tộc kể lại, thì bà cụ ngoại là một giai nhân tuyệt sắc, vô cùng xinh tươi duyên dáng, khuôn mặt trái xoan, nước da trắng ngần và dáng vẻ mềm mại tha thướt. Nghe nói ông cụ ngoại của tôi chọn trúng bà cụ ngoại là bởi vì đôi mắt của bà đã lọt vào tầm mắt của ông. Thậm chí có người còn nói, ông đã vì đôi mắt ấy mà viết cả một bài thơ tình lãng mạn. Đôi mắt mà vừa nhìn đã khiến ông cụ ngoại tôi trúng tiếng sét ái tình, hồn siêu phách lạc ấy chính là đôi mắt phượng của bà nói theo cách dân gian Trung Quốc thường nói.
Bạn nhất định sẽ vô cùng tò mò, thế nào là một đôi mắt phượng? Thực ra bạn chỉ cần nhìn kỹ hơn một chút vào đôi mắt của tôi thì bạn sẽ phần nào hiểu được điều đó. Đó chính là kiểu mắt mà phía trên mí mắt nhìn giống như hai nhưng không phải là hai, còn ở phía bên góc mắt giống như có một chiếc cánh nhỏ đang giương lên. Bắt đầu từ bà cụ ngoại tôi, mắt những người phụ nữ đời sau của gia tộc bao gồm cụ ngoại, bà ngoại và mẹ tôi đều là mắt phượng.

Lại nói về chuyện ông cụ ngoại của tôi, có thể là do yếu tố di truyền mà ông và ông tổ Tô Đông Pha Tô học sĩ có chút tính cách ngang bướng không phục tùng giống nhau, tự cho mình là siêu phàm, có chút hoang tưởng tự đại, rốt cuộc cũng có một ngày, do đắc tội với hoàng đế mà trong một đêm đã bị giáng chức xuống làm quan ở vùng Vân Nam xa xôi hẻo lánh. Do lúc đó, Vân Nam còn đang là một vùng đất hoang sơ, là nơi mà những gia tộc quý tộc không muốn đến đó ở, cho nên ông cụ ngoại tôi đã đưa bà cụ ngoại và những người con của họ từ Bắc Kinh về sống ở quê nhà Tứ Xuyên, rồi sau đó ông một mình đi Vân Nam.
Rời bỏ cuộc sống phồn hoa đô hội Bắc Kinh, chuyển về sống ở vùng quê nghèo Tứ Xuyên hoang vắng, sự tương phản rõ rệt của môi trường sống đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của những người trong gia tộc. Bà cụ ngoại tuy lớn lên vô cùng xinh đẹp, lại là người có văn hóa, nhưng sau khi chuyển đến sống ở quê nghèo hẻo lánh này, thì lại không có cách nào thích nghi được với cuộc sống nơi đây. Đầu tiên là việc bà nói giọng Bắc Kinh, dường như chẳng có người nào xung quanh có thể nghe hiểu được, lại thêm việc những thuộc hạ không còn quan tâm đối đãi tốt, nên cuộc sống bỗng chốc sa vào cảnh cùng quẫn. Nhưng vấn đề lớn nhất là ở chỗ, bà cụ ngoại có một thói quen rất xấu, đó là hút thuốc phiện, mỗi ngày người trong nhà phải cầm rất nhiều tiền đi mua thuốc phiện cho bà, thực sự là vô cùng lãng phí.
Khi mới chuyển về quê sống, ban đầu ông cụ ngoại còn gửi tiền đều đặn về trợ cấp tiêu dùng trong gia đình, cuộc sống vì thế mà cũng tạm ổn. Nhưng rồi khi con trai của bà cụ ngoại dần trưởng thành, lấy vợ, tức là cụ ngoại của tôi, rồi lại sinh ra bà ngoại tôi và hai người em trai của bà. Về sau, ông cụ ngoại từ Vân Nam chuyển đến Sơn Đông, con đường quan lộ lại rộng mở, tha hồ hưởng thụ, ông cưới luôn mấy người thiếp, cả ngày chỉ cùng bọn họ ngắm hoa thưởng rượu, rồi dần chìm sâu vào tửu sắc. Từ đó, cũng vứt bỏ luôn người vợ ở Tứ Xuyên, không gửi tiền về để nuôi gia đình nữa.
Cả nhà bà cụ ngoại rất nhanh chóng sa vào cảnh khốn cùng nghèo khó, con trai của bà, tức ông cụ ngoại của tôi, hàng ngày đến ngồi ở bên ngoài cửa quan huyện giúp người ta viết đơn kiện, nhưng chút tiền công cỏn con ấy không thể nào đủ để nuôi sống cả một gia đình có đầy đủ già trẻ lớn bé. Cảnh nhà đã khó càng thêm khó, tất cả mọi người trong nhà đến cơm cũng ăn chẳng đủ no, lại còn phải gom hết tiền đưa cho lão tổ mẫu đến từ Bắc Kinh mua thuốc phiện về hút.
Có một ngày, đứa cháu gái đích tôn mà cụ ngoại tôi yêu thương nhất do nửa đêm đói quá không ngủ được, bèn chạy vào trong bếp muốn lấy chiếc bát sạch để múc nước uống, không ngờ do đói quá, hoa mắt chóng mặt ngã ở bên cạnh lu nước, suýt chút nữa thì mất mạng. Bà cụ ngoại ôm đứa cháu gái đáng thương vào lòng khóc gào thảm thiết, nói mình là đồ vô tích sự, già rồi mà không chết đi, chỉ biết hút thuốc phiện làm hại gia đình, giờ đây, thiếu chút nữa thì hại chết đứa cháu gái đáng yêu nhất này. Đến đêm ngày hôm sau, bà ở trong phòng ngủ của mình, treo cổ tự vẫn.

2. Chuyện về bà cụ ngoại tôi
Từ chuyện của cụ ngoại tôi xin kể một chút đến thời đại của cụ ngoại, lúc này triều đình nhà Thanh đã hoàn toàn sụp đổ, kế vào đó là thời kỳ dân quốc. Nhà mẹ đẻ của cụ ngoại tôi họ Vương, cũng là một trong những gia tộc lớn của huyện An Giang, Tứ Xuyên lúc bấy giờ. Cụ ngoại tôi là con gái một trong gia đình. Ngay từ nhỏ đã được cha mẹ vô cùng nuông chiều, cụ cũng là một đại mĩ nhân nổi tiếng của vùng, người theo đuổi cụ nhiều vô số. Đương nhiên cụ ngoại khi đó cũng là một nam nhân có phong độ, hào hoa phong nhã, quân tử hảo cầu. Ông cụ ngoại nhanh chóng đến mở lời cầu thân. Phu phụ họ Vương thấy cụ ngoại là con trưởng trong một gia tộc lớn Tô gia, tuy gia đạo có chút sa sút, nhưng con người cũng là một nhân tài, thông thư đạt lễ, cảm thấy hai bên gia đình môn đăng hộ đối, vì thế đã đồng ý gả con gái cho, chấp nhận hôn sự này.
Nhưng bất hạnh của đại tiểu thư nhà họ Vương lại bắt đầu từ khi đặt chân vào gia đình họ Tô. Trong đêm động phòng hoa chúc, đúng thời khắc đáng giá ngàn vàng ấy, khi tân lang tân nương đang xoắn xuýt bên nhau cùng uống rượu ngâm thơ thưởng họa, thì tân lang đột nhiên phát hiện ra đại mĩ nhân ở trước mặt mình là người mù chữ, đến một chữ bẻ đôi cũng không biết. Ở thời đại ấy, kỳ thực đại đa số đàn ông Trung Quốc cũng không có yêu cầu gì đối với trình độ văn hóa của người phụ nữ, bởi vì theo quan niệm của người Trung Quốc lúc bấy giờ “phụ nữ bất tài là người có đức”. Thời ấy, số đàn ông biết chữ cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, nào dám mong chờ đàn bà chân yếu tay mềm có ít nhiều văn hóa. Có một số người phụ nữ thông thư đạt lý, biết đến sách vở thì phần lớn họ đều là nữ sinh sống ở chốn đô thành, còn ở chốn quê mùa hẻo lánh này thực đúng là vô cùng hiếm. Ông cụ ngoại tôi, cũng chỉ học qua trường tư thục, còn chẳng học qua một trường lớp có quy mô lớn nào, nhưng do ông bà truyền lại, nên cũng là người văn hay chữ đẹp, vì thế mà cụ cho mình là người tài giỏi, trong lòng sinh ra kiêu ngạo. Trong đêm động phòng hoa chúc khi phát hiện ra vợ mình là người không biết chữ, liền lập tức đập vỡ chén thề, giũ áo giận dữ bỏ đi. Từ đó về sau luôn luôn ghét bỏ bà.
Cũng từ đêm đó trở đi, như số trời đã định, số phận bi thảm của cụ ngoại tôi ở Tô gia bắt đầu. Lúc bà được gả vào Tô gia, nhà họ Tô cũng đã bắt đầu sa sút, chồng bà kỳ thực cũng chỉ là một người văn thư nhỏ bé trong phủ huyện mà thôi, với số tiền công ít ỏi, cộng thêm việc lần lượt ra đời ba đứa con, cuộc sống của Tô gia ngày càng thêm khốn khó. Đặc biệt là khi bố chồng ở chốn Vân Nam xa xôi không đoái hoài hỏi han gì đến gia đình nữa, cũng không gửi tiền về, Tô gia lúc này đã bị dồn đến bước đường cùng, cơm không có mà ăn. Để nuôi sống gia đình, cụ ngoại tôi bắt đầu phải lao ra ngoài tìm những việc lặt vặt để làm thêm. Ban đầu là giúp người ta thêu thùa may vá, rồi nhặt rau nấu cơm, nhưng những việc vặt ấy trong thực tế cũng chẳng kiếm được bao nhiêu tiền, không đủ chi tiêu cho gia đình. Về sau, bà dứt khoát đòi đi giặt quần áo thuê cho người ta, bất luận là vào đông hay tháng chạp, mỗi ngày từ sáng sớm đến tối mịt, cụ ngoại tôi đều cúi gập lưng ngồi trước chậu quần áo lớn, hai tay chà xát trên tấm ván giặt đồ. Chưa đến 30 tuổi, cụ đã bị bệnh đau lưng.
Thực ra, nếu như cứ dựa vào sự lao động vất vả của ông cụ ngoại và bà cụ ngoại tôi, thì cái gia đình ấy cũng có thể tiếp tục gắng gượng duy trì được cuộc sống. Nhưng ông cụ ngoại tôi với bản tính ngang ngược kiêu ngạo, lại nghĩ rằng chính ở cái nơi xa xôi hẻo lánh này đã chôn vùi tài năng và văn chương của ông, cho nên vào một ngày mùa thu, ông đã xuống thuyền đi đến một thành phố lớn hơn tên là Du Châu (Trùng Khánh hiện nay). Không ngờ vừa đi được nửa đường, ông cụ ngoại đột nhiên mắc chứng thổ tả, miệng nôn trôn tháo, cả người xanh xao vàng vọt, cuối cùng ông không thể tiếp tục đi được nữa, đành xuống thuyền vào một huyện nhỏ gần đó, tìm một nhà nghỉ và ở lại đó. Nhưng chính trong thời gian ở đây, đã phát sinh ra một câu chuyện phong lưu bạc tình sau đó.

Ông cụ ngoại không chỉ kế thừa gien di truyền văn hay chữ tốt, mà còn đồng thời thừa hưởng luôn cả đức tính phong lưu đa tình của cha mình. Ban đầu ở nhà trọ vốn là để dưỡng bệnh, nhưng điều không thể ngờ được là cụ lại đầu mày cuối mắt với bà chủ nhà trọ, cuối cùng hai người cũng qua lại với nhau. Bà chủ kia vốn dĩ là người phụ nữ đã có chồng, là mẹ của hai đứa con trai, nhưng thật không ngờ khi gặp cụ ngoại tôi lại giống như củi khô gặp lửa lớn, bùng cháy dữ dội, chỉ trong vòng một tuần, người đàn bà ấy đã vứt bỏ tất cả, cùng cụ ngoại tôi lén lút chạy trốn, chẳng để lại chút tông tích gì.
Nhưng điều không thể tưởng tượng được là chồng của người đàn bà họ Trương đó lại dẫn theo một đám người, tìm đến tận nhà cụ ngoại tôi ở An Giang, đòi cụ ngoại tôi trả lại vợ cho hắn, nếu không sẽ đến nha môn tố cáo Tô gia. Cụ ngoại tôi, một người đàn bà chân yếu tay mềm, tính cách nhu nhược, lại còn mù chữ, giờ không chỉ mất đi người chồng, mà còn bị chồng của người đàn bà đã cướp chồng mình đe dọa, bà chỉ biết nhỏ những giọt nước mắt khóc thương cho thân phận mình. Cuối cùng ở trong gia tộc vẫn còn một vị trưởng bối làm quan trong nha môn đã giúp bà đuổi đám vô lại ấy đi.
Giờ đây chồng đã trốn đi cùng người đàn bà khác, bỏ lại cho bà cả một gia đình nghèo rớt mồng tơi, nghèo xơ nghèo xác, đến ba bữa cơm cũng không đủ no. Ở đoạn trên khi tôi kể về việc cụ ngoại treo cổ tự vẫn trong phòng ngủ chính là ở giai đoạn này. Ba đứa con nhỏ, người con lớn nhất là bà ngoại tôi, lúc này mới chín tuổi, đã phải vừa đi ra ngoài phụ giúp mẹ giặt quần áo cho người ta, vừa phải thay mẹ chăm sóc hai em, một trai một gái. Cụ ngoại tôi đã phải ngậm đắng nuốt cay như vậy để cáng đáng gia đình sống qua ngày. Cứ tưởng rằng như vậy đã được yên, nào ngờ một ngày cụ bất ngờ nhận được một bức thư, trong đó là tờ “giấy từ hôn” của ông cụ ngoại gửi về.
Cái gọi là “giấy từ hôn” ấy thực ra là gì? Đó chính là một trong những luật hôn nhân cổ hủ và hoang đường nhất của đất nước Trung Quốc ngày xưa: Trong một cặp vợ chồng, chỉ cần người chồng bằng lòng và có kinh tế, thì người đó có thể cưới năm thê bảy thiếp là chuyện hoàn toàn hợp pháp; và cũng chỉ cần người chồng này đưa ra bất kể một nguyên nhân hay lí do gì, hoặc chẳng cần có lí do gì cả, anh ta không muốn tiếp tục sống với người vợ hoặc người thiếp nào đó của mình thì có thể tùy ý viết trên giấy trắng mực đen rằng mình quyết định cắt đứt mọi quan hệ với người đó, tờ giấy này gọi là “Giấy từ hôn”. Anh ta chỉ việc gửi tờ giấy này cho người phụ nữ đó, thì lập tức lại được trở lại là người tự do không có ràng buộc gì, cũng không cần phải đến tòa án, không cần mời luật sư, không cần phải đóng góp tiền phụ cấp, không cần phải gánh vác bất kỳ một trách nhiệm gì; Còn người phụ nữ đáng thương, khi nhận được tờ “giấy từ hôn” đó, lập tức trở thành người vợ “hạ đường”[1], đại đa số đều bị đuổi quay trở về nhà mẹ đẻ, từ đó trở đi, không còn dám ngẩng mặt lên nhìn hàng xóm nữa, sống một cuộc đời thừa vô cùng thê lương buồn bã.
[1] Người vợ không còn ở trong chính phòng nữa.
Cụ ngoại tôi đã nhận được tờ “giấy từ hôn” như vậy. Nhưng nếu như chỉ là cụ một mình dẫn theo ba người con ra đi vùng vẫy khốn khổ kiếm sống qua ngày thì cũng còn là tốt, thế mà về sau còn phát sinh ra một việc mà việc ấy mới gọi là không thể chấp nhận được.

Sau vài năm, ông cụ ngoại và người đàn bà họ Trương đã cùng ông chạy trốn sinh được hai người con một trai một gái, có thể là do gặp phải sự quả báo của trời đất, mà vào một buổi chiều hoàng hôn, khi cả bốn người trong gia đình đang ở bên sông Trường Giang chuẩn bị xuống thuyền qua sông, có lẽ do sắc trời đã tối, lại thêm gió ở bên sông nổi lên rất lớn, người đàn bà đó không biết vì sao lại trượt chân rơi xuống dòng sông nước xiết, bị sóng nước cuồn cuộn nhấn chìm, vĩnh viễn không thấy nhân ảnh.
Bà ấy đã ra đi như vậy, để lại trên đời hai đứa con thơ dại. Ông cụ ngoại tôi lúc đó vẫn còn can đảm nhờ một người quen đưa hai đứa trẻ quay về quê nhà ở Giang An, bảo người vợ đã bị ông ta chối bỏ giữ lại và chăm sóc chúng. Nhưng hoang đường hơn cả là bà cụ ngoại tôi chẳng nói nửa lời, chỉ lặng lẽ gật đầu đón nhận hai đứa trẻ thơ. Tất cả mọi người trong họ hàng làng xóm đều cho rằng cụ ngoại tôi nhất định đã bị điên, bởi chỉ có điên mới làm như vậy. Bọn họ cho rằng bà làm như vậy là bởi muốn người đàn ông trước đây đã từ bỏ mình nhìn thấy tấm lòng nhân ái của bà mà hồi tâm chuyển ý.
Ba đứa con của mình, cộng thêm hai đứa con của người khác, một người phụ nữ nhỏ bé yếu đuối chỉ dựa vào việc giặt quần áo cho người khác kiếm sống, cùng lúc phải nuôi đến sáu miệng ăn, mà lúc này đang là ở giữa thời kỳ tám năm kháng chiến chống Nhật, máy bay của người Nhật đã oanh tạc đến tận thị trấn nhỏ bé của vùng đất Giang An, Tứ Xuyên này, người dân nơi đây cả ngày phải luôn trong tư thế sẵn sàng để trốn tránh sự tập kích của máy bay, người người không thể sống được, trăm họ lầm than, cuộc sống cơ cực bần hàn, thử hỏi trong hoàn cảnh như vậy thì có thể tìm được ở đâu ra nhiều quần áo mà giặt?
Còn ông cụ ngoại, sau khi bỏ lại hai đứa con vốn là thứ gây phiền toái rườm rà cho mình cho vợ cũ, liền một mình vượt biển đến Thượng Hải, muốn nhân cơ hội đất nước đang loạn lạc tìm một sự đổi thay nào đó. Dựa vào gia thế và tài văn chương của mình, cụ đã bằng mọi cách tìm được một chức vị không đến nỗi nào ở trong Bộ Tư lệnh cảnh bị của Quốc dân đảng ở Thượng Hải. Sau này còn liên tiếp được đề bạt thăng quan tiến chức, con người trở nên hớn hở đắc ý. Khi mới bắt đầu đến Thượng Hải, cụ còn thỉnh thoảng gửi tiền tiêu vặt về cho cụ bà ở quê nhà. Về sau, cụ lại yêu một người phụ nữ ở Giang Nam, rồi rất nhanh chóng cưới người ấy làm vợ. Từ đó đoạn tuyệt luôn tất cả liên hệ với gia đình ở quê. Bà cụ ngoại sau khi nhận trọng trách nặng nề nuôi hai đứa con riêng của chồng, đổi lại không phải là việc hồi tâm chuyển ý của ông cụ ngoại, mà là giúp ông giảm bớt những khó khăn phiền toái, để ông rảnh rang sống cuộc sống phong lưu ung dung tự tại ở nơi khác.
Cuối cùng vào năm 1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, mở ra một đất nước Trung Quốc mới, Cộng sản đảng thay thế cho Quốc dân đảng, một chính quyền mới thay thế cho một chính quyền cũ. Những người làm quan lớn trong Quốc dân đảng trước đây, kẻ thì bị xử bắn, kẻ thì bị bắt làm tù binh. Ông cụ ngoại của tôi may cũng chỉ là một viên quan nhỏ của Quốc dân đảng nên không bị quy vào hai hình phạt trên, nhưng cụ vẫn bị xem là một phần tử phản động nên đã bị đuổi về quê nhà theo nguyên quán là ở Giang An, Tứ Xuyên, trở thành một kẻ sa cơ thất thế. Đương nhiên lúc này, người vợ người Giang Nam mà cụ đã cưới ở Thượng Hải không chút do dự đã dứt tình đoạn tuyệt với cụ, lập tức bỏ đi. Sau khi cụ về đến quê, liền quay về nhà đau khổ cầu xin bà cụ ngoại tha thứ, thật là thảm thương. Lúc này mấy người con của họ đã lớn, tất cả đều thống nhất ngăn cản không cho bà cụ ngoại tha thứ cho cụ, không cho bà mở cửa đón người đàn ông vong ân bội nghĩa ấy vào nhà. Nhưng bà cụ ngoại đã nói với các con của mình rằng: “Tuy ông ta không ra gì, nhưng ông ấy vẫn là cha của các con!” Ai dà, cuối cùng người đàn ông mà họ gọi là cha kia, do trải qua những biến động chính trị lịch sử, bị đày về nơi xa xôi hẻo lánh, đất đai khô cằn sinh sống. Trong một buổi chiều tà, người đàn ông ấy đột nhiên rơi xuống một cái hố bên bờ ruộng, làm cách nào cũng không thể bò lên được, cũng coi như là kết thúc một đời hoang đường phiêu bạt của ông ấy.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.