Đọc truyện Lan Lăng Vương – Chương 2: Gương Loan soi thấu lòng Thanh Tỏa
“Chàng làm gì thế?” Tôi phẫn nộ nói.
“Câu này phải là ta hỏi
nàng mới đúng. Nói đi, rốt cuộc nàng tới đây có mục đích gì?” Vũ Văn
Dung chắp tay sau lưng, lạnh lùng nói. Ánh mắt sâu thẳm nhìn vào tôi,
trong đó hàm chứa sự căm ghét.
Trước khi chưa gặp mặt, tôi đã
chẳng có thiện cảm gì với Tư Không đại nhân, bây giờ mới biết quả nhiên
con người này thật là vô lí. Tôi nổi giận, trên mặt nở một nụ cười rạng
rỡ, nhướng mày, dịu giọng nói: “Chàng đoán xem mục đích của thiếp là gì? Hay là có thể nói rằng, chàng hi vọng mục đích của thiếp là gì?”
Vũ Văn Dung hơi ngẩn người ra, nhìn tôi trân trân đầy thúc ép, trong ánh mắt thăm dò còn có cả vẻ kinh ngạc.
“Để người khác cảm thấy chàng say mê tửu sắc, hoang dâm vô độ chẳng phải là thứ mà chàng muốn sao? Vở kịch vừa rồi ta đã diễn rất đạt còn gì, chàng phải cảm ơn ta mới đúng chứ nhỉ?” Tôi ôm bờ vai, bĩu môi, chậm rãi nói. Thực ra nếu không phải là đã từng đọc lịch sử thì làm sao tôi có thể
nhìn thấu tâm tư suy nghĩ của chàng?
Mắt Vũ Văn Dung sáng lên,
trong đôi con ngươi đen láy là mưa gió kéo về. Ngay sau đó lại quay về
với vẻ điềm tĩnh, ánh mắt nhìn tôi càng thêm kinh ngạc. Dưới ánh trăng
bàng bạc, chiếc áo gấm của chàng khẽ bay lên trong đêm đen, ánh trăng
sáng như gương chiếu lên gương mặt với những đường nét góc cạnh của
chàng, nhìn từ xa trông thật anh tuấn vô cùng.
“Có điều xin Tư
Không đại nhân cứ an tâm, chàng và ta cùng trên một chiếc thuyền, hại
chàng chẳng có ích gì với ta. Thực ra mục đích của ta rất đơn giản,
chàng có dám làm một vụ giao dịch với ta không?” Tôi lạnh nhạt nói, nhìn gương mặt lạnh lùng của chàng, thầm thở dài một tiếng, một anh chàng
đẹp trai thế này mà sao tính cách lại đáng ghét đến thế, đúng là phá
hỏng cả một gương mặt đẹp.
“Hừ, nàng mà cũng đòi nói điều kiện
với ta sao?” Vũ Văn Dung nghe thấy thế thì ngẩn người ra, đôi lông mày
nhếch lên, khinh bỉ hỏi.
“Chàng…”
Tôi nổi giận, không
còn kiên nhẫn để nói tiếp với chàng nữa, đang định phát tác thì bỗng
dưng nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng từ đằng xa vọng lại, tiếng ngọc bội va vào nhau nghe thật vui tai. Ngước mắt nhìn lên, Nhan Uyển được
một đám tì nữ dẫn đường, đang bước nhanh về chỗ tôi, thấy tôi với Vũ Văn Dung, thoạt đầu nàng ta thoáng khựng lại, ngay sau đó đổi sang một nụ
cười ngọt ngào, lại gần hành lễ với chàng rồi nói: “Uyển nhi tham kiến
Tư Không đại nhân.”
“Ừm!” Vũ Văn Dung ừ khẽ một tiếng, quay lưng lại không nhìn tôi nữa.
“Thanh Tỏa tỷ tỷ, tỷ tới rồi sao, muội ở Tây Uyển chờ tỷ lâu quá.” Nhan Uyển lại gần níu tay tôi, thân mật nói.
“Ha, cũng là nhờ bộ y phục mà muội tặng ta.” Tôi cười khẽ, lạnh nhạt nói.
Nhan Uyển ngơ ngác rồi nói vẻ kinh ngạc: “Câu này của tỷ là có ý gì? Bộ y
phục này là do sứ thần Tây Vực tiến công, chẳng nhẽ tỷ tỷ không thích?”
Vũ Văn Dung quay đầu lại, ánh mắt sáng lướt qua gương mặt của Nhan Uyển, không chút thay đổi.
“Tâm ý của muội muội thì làm sao ta dám không thích. Mà cũng vì tấm lòng của muội nên ta trong họa được phúc.” Tôi và Vũ Văn Dung vô tình chạm mắt
vào nhau, mỉm cười vỗ tay Nhan Uyển mà nói.
Lúc này đã là canh
ba, ánh sáng trắng nhàn nhạt đã xuyên qua bầu trời xanh thẫm, trời về
đêm gần sáng mang theo hơi thở lành lạnh.
Tôi và Nhan Uyển sánh
vai bước đi, nhưng trong lòng đang thầm đoán tung tích của chiếc gương
Thanh Loan. Dọc đường nàng ta cứ líu lo nói gì đó, đại khái là đưa tôi
về phòng nghỉ ngơi trước, chờ sáng sớm ngày mai sẽ đi gặp cô mẫu. Đi qua một dãy hành lang, hai bên đều là những tòa tiểu viện trang nhã, Nhan
Uyển đột ngột dừng chân lại, hào hứng nói: “Thanh Tỏa tỷ tỷ, lần này cha muội phái muội mang rất nhiều lễ vật tới tặng Tể tướng đại nhân, đều ở
trong Tương phòng, tỷ tỷ có muốn ngắm không? Đều là vật báu hiếm thấy
của sử lại các nơi gửi tới.”
Đã là nửa đêm, tôi tuy là rất mệt,
nhưng nghe thấy mấy tiếng vật báu hiếm có thì lập tức lấy lại tinh thần, vội vã nói: “Được thôi, hôm nay để tỷ được mở rộng tầm mắt.”
Nhan Uyển cười cười đắc ý, vừa quay sang bảo a hoàn mở cửa, vừa nói: “Toàn
là báu vật liên thành, đảm bảo tỷ tỷ được ngắm thỏa thuê.”
Trong Tây Tương phòng đặt 4 cái rương lớn bằng gỗ đào, khóa làm bằng vàng,
trong lỗ khóa tỏa ra tia sáng lấp lánh. Nhan Uyển hất cằm lên, bốn tì nữ đồng thời mở bốn chiếc rương, trong phút chốc, cả căn phòng bị bao phủ
bở một lớp sương màu vàng, giống như mặt hồ lăn tăn gợn sóng dưới ánh
mặt trời chính ngọ, ánh sáng chói mắt khiến tôi đau nhói.
“Đây
là Đồng tước của Thương triều, đây là ngọc Như Ý của nước Trần, đây là
san hô đỏ của Nam Hải…” Nhan Uyển giới thiệu cho tôi từng món bảo vật,
tôi thì chỉ chăm chăm tìm kiếm. Nghĩ bụng không biết gương Thanh Loan có ở giữa đám bảo vật này không, nhưng trong quầng ánh sáng vàng rực ấy
không có ánh sáng xanh. Gương Thanh Loan ban ngày nhìn chẳng khác gì
những chiếc gương bình thường, có lẽ không người bình thường nào coi nó
là bảo vật.
Có điều những lễ vật Nhan Uyển mang tới quả nhiên là báu vật hiếm có, tôi tò mò nhìn vào những chiếc rương, vừa đưa tay ra
thọc xuống đáy rương thì ngón tay bỗng chạm phải một thứ gì đó mềm mềm
lành lạnh bên dưới, cúi đầu nhìn xuống, thì ra đầu ngón tay đựng phải
một búp bê bằng vải dài khoảng một thước, toàn thân được nhuộm đen, nằm
lẫn trong đám trân châu, đá quý nên trông vô cùng nổi bật, ngũ quan trên mặt được người ta vẽ vào, mắt như quả chuông đồng, đôi môi đỏ tươi, nụ
cười âm thầm khó đoán, tôi bất giác rùng mình. Rồi trước mặt bỗng lướt
qua một tia sáng đen sì, tất cả những ánh sáng rạng rỡ ban nãy bị che
khuất, căn phòng thoáng chốc tràn ngập trong bầu không khí u ám quái dị. Xung quanh trong thoáng chốc tối đen như mực, con búp bê màu đen ấy đột nhiên lao vút lên, treo lơ lửng trong không trung, một đôi mắt đáng sợ
dường như đang nhìn tôi, phát ra tiếng cười ghê rợn. Tôi sợ hãi lùi về
phía sau một bước, cánh tay nó đột nhiên vươn dài ra, túm lấy cổ họng
tôi. Cổ tôi lập tức có cảm giác đau đớn, lạnh lẽo, tiếng cười của nó
càng nanh ác như tiếng chim lợn giữa đêm.
Lúc này mọi người
trong căn phòng đã bỏ chạy toán loạn, Nhan Uyển ở gần tôi nhất, đã sợ
hãi co rúm vào một góc, tôi ra sức giữ chặt bàn tay con búp bê đó, khó
nhọc nói với Nhan Uyển: “Muội…” Vừa nói được một tiếng, cổ họng bị siết
chặt lại, không thể phát ra âm thanh nào khác.
Nhan Uyển như bừng tỉnh khỏi giấc mơ, loạng choạng lao ra ngoài cửa, nói nhanh: “Tỷ tỷ, muội sẽ đi tìm người cứu tỷ.”
Lúc này tôi đã gần như không thể thở nổi. Bản năng khiến tôi quờ quạng lấy
cái ghế đổ đập vào đầu cái thứ như búp bê ấy, cái ghế vỡ vụn, người nó
chao đảo, lắc lư trong không trung, bàn tay siết chặt cổ họng tôi thoáng nới lỏng ra chút. Tôi nhân cơ hội đó lao ra ngoài cửa, nhưng còn chưa
vượt qua được bậu cửa thì hai chân đã bị ôm chặt lấy. Tôi cố gắng vươn
mình bám lấy bậu cửa, cố hết sức lực toàn thân để trèo ra ngoài, trong
đôi mắt đang mờ dần đi chỉ thấy có một bóng người mờ mờ từ chỗ đầu tường lao xuống, trên mặt đeo chiếc mặt nạ quen thuộc, ánh sáng màu bạc tỏa
sáng trong khoảng không gian mờ mờ ảo ảo. Chính lại vị tướng quân đã cứu tôi trên chiến trường!
Tim tôi bỗng thấy nóng bừng lên, cố huơ huơ bàn tay phải trong không trung, giọng nói nghèn nghẹn: “Cứu tôi… cứu tôi…”
Những giọt nước mắt sợ hãi theo đó lăn ra, trong lúc gần như mê man, tôi đối
diện với đôi mắt bình yên sâu thẳm như nước hồ của chàng.
Tôi
chẳng thể chống chọi nổi nữa, bàn tay thõng xuống, cả người tôi đã bị
con búp bê kéo trở về với bóng tối, đúng lúc này, một bóng áo trắng lao
tới, ngẩng đầu nhìn lên, chàng đã tới trước mặt tôi, túm lấy cổ tay tôi, kéo mạnh, lôi tôi ra khỏi căn phòng. Nhưng con búp bê kì quái sau lưng
đâu có chịu buông tha tôi, cánh tay nó càng nắm chặt hơn, tôi nóng lòng, quay đầu lại ra sức đạp vào đầu nó. Tướng quân mặt nạ thấy con búp bê
bằng đồng màu đen đang kẹp chặt tôi thì đôi mắt phẳng lặng như nước hồ
thu bỗng thoáng lay động, rút thanh bội kiếm đeo ở thắt lưng ra, nhanh
nhẹn đâm vào cổ con búp bê.
Lực túm ở chân tôi dần dần biến mất, tướng quân mặt nạ ôm tôi vào lòng, phi thân lao ra giữa sân. Tôi ôm
chặt lấy cánh tay chàng, nhìn chằm chằm vào đám mây đen lan ra dày đặc
trong căn phòng, con búp bê phát ra tiếng kêu thảm thiết, đôi mắt như
chiếc chuông đồng nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt vằn vện tia máu đỏ thật là đáng sợ. Tôi chưa từng gặp cảnh tượng nào khủng khiếp như thế này, hét
lên ôm chặt lấy cổ chàng, vùi đầu thật sâu vào lồng ngực rộng rãi và
thoang thoảng hương thơm.
Âm thầm cảm thấy chàng đang lao vút
lên không, bên tai vang lên tiếng gió rít, sau đó là tiếng kim loại va
vào nhau. Tôi mở mắt ra, thấy trường kiếm của chàng tỏa ra tia sáng lạnh lẽo như sương, phía lưỡi kiếm chỉ vào, con búp bê màu đen đã đầu lìa
khỏi cổ, bị chặt làm đôi. Nụ cười quái dị trên mặt vẫn chưa biến mất,
dường như ánh mắt đang nhìn tôi trân trối. Tôi hốt hoảng, vội vàng nép
vào lòng chàng.
Một hơi thở ấm áp phả tới, mùi hương dễ chịu của cỏ thoang thoảng trên người chàng. Tim tôi càng đập mạnh, bỗng dưng
nhận thấy phản ứng này dường như không hợp lý lắm, ngẩng đầu lên, thấy
tướng quân mặt nạ đang cúi đầu nhìn tôi, trong đôi mắt sáng như gương có một tia sáng như giọt nước mùa xuân. Tôi vội vàng buông chàng ra, căng
thẳng lùi về phía sau hai bước, đầu ngón chân suýt thì chạm vào đầu của
con búp bê, lại hét lên rồi nhảy bật về phía người chàng.
Đôi
mắt trong vắt của chàng lại ánh lên một nụ cười đắc ý, dường như có một
cơn gió mát thổi qua mặt hồ, khiến mặt hồ lăn tăn gợn sóng.
“Nó… nó là cái gì?” Tôi bỗng ý thức được rằng hình như mình thường xuyên mất mặt trước mặt chàng, hai gò má thoáng nóng lên.
Tướng quân mặt nạ không trả lời, cất thanh trường kiếm đi, cúi người xuống
nhặt một nửa thân người của con búp bê lên, ở chỗ cổ bị đứt lìa của nó
có nhét một cuộn giấy màu vàng. Tôi tò mò, cũng quên cả sợ hãi, đưa tay
ra cầm lấy cuộn giấy nhỏ đó, chầm chậm mở ra, trên tờ giấy màu vàng là
một hình vẽ cổ quái được vẽ bằng bút lông, giống như một thứ văn tự đặc
biệt nào đó.
“Đây là gì?” Tôi chớp mắt, kinh ngạc nhìn chàng.
“Có lẽ là một loại bùa hình nộm.” Tướng quân mặt nạ im lặng giây lát rồi trả lời đơn giản.
“Cái gì? Bùa hình nộm?” Tôi ngơ ngác, vô thức lặp lại. Không phải chứ, trên
thế giới thức sự có cái thứ này sao? Nhưng hôm nay tôi đã tận mắt chứng
kiến nên không thể không tin được nữa, tôi phẫn nộ nói tiếp: “Rốt cuộc
là kẻ nào dám vẽ ra thứ này để hại người.”
Đúng lúc này thì tôi
loáng thoáng nghe thấy gần đó vang lên tiếng bước chân, tiếng người hỗn
loạn, dường như rất nhiều người tới.
“Chàng mau đi đi, chàng là
Tướng quân nước Tề, nếu để họ nhìn thấy thì chàng nguy đấy.” Tôi chẳng
kịp nghĩ ngợi nhiều, nhét chiếc bùa đó vào tay áo rồi kéo chàng chạy về
phía bờ tường.
Tướng quân mặt nạ nghe nói vậy, đôi mắt thoáng ngẩn ngơ rồi nghe lời tôi chạy tới bờ tường.
Lúc này trời đã tờ mờ sáng, những tia nắng vàng ở phương Đông đã hắt lên
bầu trời. Từng đám mây lớn bay lơ lửng trên đầu, mái tóc dài đen tuyền
của chàng tung bay trong gió, chiếc mặt nạ bạc tỏa ánh sáng tinh khiết,
vẫn lạnh lùng đáng sợ, nhưng lúc này đã không còn độc ác như trước. Đôi
mắt tĩnh lặng và sâu thẳm ấy nhìn tôi, dường như đó là một đôi mắt
phượng tuyệt đẹp.
Tôi không biết vì sao chàng cứ đeo mặt nạ suốt như vậy, chẳng nhẽ vì chàng rất xấu, hay là trên mặt có vết sẹo? Phải
chăng bộ mặt thật của chàng trông còn độc ác hơn chiếc mặt nạ này? Tôi
nhìn theo cái bóng nghiêng nghiêng của chàng, cảm thấy chàng đứng trong
gió, bạch y tung bay, thật giống như bậc thần tiên hạ phàm. Một nam nhân có khí chất thoát tục như vậy mà lại có một dung mạo xấu xí tới mức
không dám để người khác nhìn thấy sao? Cho dù thế nào cũng được, chàng
đã từng cứu tôi hai lần, cho dù bộ mặt thật của chàng có xấu đến dâu,
đáng sợ đến đâu cũng chẳng sao, tôi đều sẽ không chê bai chàng.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn chàng, chân thành nói: “Cảm ơn chàng!”
Tướng quân mặt nạ không nói gì, quay người đi, đang định bay lên. Tôi gọi
chàng lại, không biết vì sao mà cảm giác má mình nong nóng, nói khẽ:
“Sau này… còn gặp lại không?”
Chàng thoáng dừng lại, không trả
lời tôi, tà áo trắng thoáng lay động, phút chốc đã lao vút ra ngoài bờ
tường. Tôi đứng ngẩn ngơ giây lát, quay đầu lại, lau giọt nước mắt vừa
rới nơi khóe mắt do quá sợ hãi, đổi lại một vẻ mặt bình tĩnh và lãnh
đạm. Người của phủ Tể tướng từ trên xuống dưới tâm khẩu bất nhất, nguy
cơ trùng trùng, nhưng ai muốn hại Đoạn Mộc Liên tôi cũng không dễ dàng
đạt được mục đích đấy. Nghĩ thầm trong dạ, “rương châu báu này là do
Nhan Uyển mang tới để chúc thọ Tể tướng, hung thủ thực sự sau lưng rất
có thể là nàng ta.” Nhưng Nguyên Thanh Tỏa cho dù là ở phủ Tể tướng hay ở phủ Tư Không đều là người yếu đuối, lời nói không có trọng lượng, vì
sao nàng ta phải hạ thủ tôi? Theo lí mà nói, nếu không phải là tôi tò mò chạy tới xem mấy cái rương châu báu thì người đầu tiên chạm phải con
búp bê này phải là Tể tướng đại nhân Vũ Văn Hộ. Sự việc chiếc áo tím
phượng hoàng nếu là do nàng ta cố ý sắp đặt, vậy thì người mà nàng ta
thực sự nhắm tới chẳng lẽ là ông chồng hữu danh vô thực Vũ Văn Dung của
tôi? Người phụ nữ có bộ mặt thân thiện này rốt cuộc là địch hay bạn,
người mà con búp bê kia thực sự định giết là tôi hay là Vũ Văn Hộ!?
Sau lưng vang lên tiếng bước chân dồn dập, tôi quay đầu lại, thì ra là Nhan Uyển đưa Vũ Văn Dung và một đám thị vệ vội vàng chạy tới, thấy tôi vẫn
bình an vô sự đứng ở đây, nàng ta thoáng giật mình, chạy lại níu cánh
tay tôi, giọng nói nghẹn ngào: “Thanh Tỏa tỷ tỷ, may quá tỷ không sao,
nếu không Uyển nhi chắc tự dằn vặt mình đến chết.” Nói rồi nước mắt lã
chã rơi xuống.
Tôi nhìn nàng ta trong giây lát, mỉm cười nói:
“Ta không sao, chẳng qua chỉ là một hình nộm thôi mà.” Nói rồi nhẹ nhàng đẩy nàng ta ra, lại gần nhặt đầu con búp bê lên, cân nhắc trong tay rồi nói khẽ. “Nguyên Thanh Tỏa ta vốn người không may, đến cả ác linh cũng
không muốn lại gần, bởi vậy mới thoát hiểm. Nhưng đây là quà mừng thọ
tiến cống Tể tướng đại nhân, ngộ nhỡ đụng phải quý thể của lão nhân
gia…” Tôi tung đầu con búp bê lên không trung như tung một quả bóng, rồi lại đón lấy trong tay, quay đầu nhìn vào đôi mắt nàng ta, giọng nói cao hơn rất nhiều, nhấn mạnh từng từ, “Vậy thì chắc sẽ bị khép vào tội chết đấy nhỉ?”
Nhan Uyển ngây người sợ hãi, nước mắt lăn dài: “Muội… muội thực sự không biết trong rương lại có thứ này…. Chắc chắn là có kẻ lòng dạ nham hiểm lén đặt vào. Với lại nếu Uyển nhi thực sự muốn hãm
hại Tể tướng đại nhân thì không kéo tỷ tỷ tới xem.”
Tôi liếc nhanh Vũ Văn Dung một cái, nghe những lời này, có lẽ chàng đã biết vừa nãy xảy ra việc gì.
“Nhưng làm tỷ tỷ sợ hãi, Uyển nhi cũng khó thoát khỏi tội, nguyện xin cùng tỷ tỷ tới chỗ Tể tướng địa nhân chịu phạt!”
Uyển nhi nước mắt như mưa, trông không có vẻ gì là giả tạo. Tôi lại gần vỗ
vai nàng nói: “Uyển nhi, muội nặng lời rồi, sao ta lại nghi ngờ muội
muội cho được? Huống hồ chẳng phải ta vẫn bình an đứng ở đây sao? Tể
tướng đại nhân là người bận rộn, ta thấy việc này không cần phải kinh
động tới người nữa. Đã quá nửa đêm rồi, muội muội quay về nghỉ ngơi đi.”
Nhan Uyển nghe tôi nói vậy thì tủi thân lau nước mắt, “dạ” một tiếng rồi quay người đi về Tây Uyển.
Chỉ dựa vào chuyện này thì tôi vẫn không thể nào khẳng định được nàng ta có mục đích gì. Chuyện lan tới tai Tể tướng Vũ Văn Hộ cũng chưa chắc có
tác dụng gì, bởi vậy tạm thời cứ quan sát nàng ta thêm một thời gian.
Thấy Nhan Uyển đã đi xa, tôi liếc đầu con búp bê trong tay, thấy đôi mắt đỏ
tươi như máu và cái miệng như răng cưa của nó tạo thành một nụ cười quái dị đáng sợ. Tôi rùng mình, ném nó ra thật xa, lùi về sau hai bước, lưng dựa vào thành tường, thở hổn hển.
“Hừ, thì ra chỉ là khoe tài.” Một giọng nói châm biếm vang lên sau lưng, lúc này tôi mới phát hiện ra thì ra Vũ Văn Dung vẫn chưa đi, chắp tay sau lưng đứng trong màn sương
sớm, lạnh lùng nhìn tôi.
Tôi thở dài, khẽ đáp: “Nếu không khoe
tài thì sao lại khiến kẻ địch dè chừng và nhanh chóng tới hạ thủ mình?”
Cảm giác cả cơ thể lẫn tinh thần mình đều vô cùng mệt mỏi, liếc chàng
một cái, nói: “Ta biết sự sống chết của ta đối với chàng chẳng có ý
nghĩa gì, nhưng nơi đây là phủ Tể tướng, chàng giả bộ cũng được, dù sao
cũng nên bảo vệ ta chu toàn. Huống hồ trong mắt người ngoài, ta là người của chàng, đối phó với ta tức là không nể mặt chàng, nói không chừng
còn kéo chàng xuống theo một thể.”
Vũ Văn Dung nghe nói vậy,
thoáng ngẩn ngơ, đôi lông mày kiếm nhếch lên, nhìn tôi chăm chú, dường
như rất kinh ngạc vì tôi nói những điều này.
“Thế nên thay vì
mỉa mai ta thì chi bằng chàng hãy nghĩ xem người này là ai, hắn muốn đối phó với ai.” Tôi lạnh nhạt nói rồi quay người đi về Tây Uyển.
Vừa sợ hãi vừa mệt nhọc cả đêm, tôi cảm thấy đầu mình nặng chình chịch,
bước chân thì nhẹ bẫng, thực sự muốn lao lên giường ngủ một giấc, tới
khi tỉnh dậy sẽ thấy mình đang nằm trên chiếc giường êm ấm ở nhà.
Vũ Văn Dung không nói gì, chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt phức tạp. Tôi đi lướt
qua người chàng, một cơn gió nhẹ phả tới, mang theo hơi lạnh của buổi
sáng sớm, khiến những bông hoa lê màu trắng sau lưng Vũ Văn Dung rụng lả tả, mùi hương thoang thoảng, hoa bay như tuyết. Tôi ngẩng đầu lên nhìn, bước chân bỗng dưng bị vấp phải cái gì đó, cơ thể mất thăng bằng, ngã
nhào xuống đất. Đúng lúc này, một đôi bàn tay to lớn bỗng dưng đỡ lấy
vai tôi, tôi ngẩng đầu lên, thấy Vũ Văn Dung đang lạnh lùng đứng cạnh
tôi, trong ánh mắt là sự coi thường không thèm che giấu, rồi chàng đột
ngột lỏng tay ra, đẩy mạnh tôi vào gốc cây lê gần đó. Tôi loạng choạng,
lưng đập vào gốc cây, đau ứa nước mắt.
“Chàng…”
Tôi nổi
giận, trợn mắt nhìn chàng, chưa kịp nói gì thì Vũ Văn Dung đã đi tới
cạnh tôi, bàn tay trái chống lên thân cây sau lưng tôi, gương mặt anh
tuấn chầm chậm ghé lại gần, bờ môi mỏng hoàn mĩ ghé sát vào mặt tôi,
nhếch lên thành một đường vòng cung lạnh lùng, thong thả nói: “Thế nào,
muốn dùng cách này để thu hút sự chú ý của ta sao?”
Tôi đờ đẫn
cả người, chàng ở rất gần tôi, tôi có thể cảm nhận rõ ràng hơi thở từ
mũi chàng đang phả nhẹ lên mặt tôi. Gò má ửng hồng, trong lòng đã vô
cùng giận dữ, ngừng lại một chút, nở một nụ cười rạng rỡ, nhướng mày lên nói: “Phải thì sao?”
Vũ Văn Dung dường như không ngờ tôi lại
trả lời như vậy, hơi khựng lại. Tôi nhân cơ hội đó đẩy mạnh chàng ra,
lạnh lùng nói: “Lần nào gặp chàng cũng chẳng có việc gì tốt, trốn cũng
không trốn kịp nữa là! Hừ, thu hút sự chú ý của chàng? Chàng thực sự
đánh giá ta quá cao rồi đấy!” Nói rồi tôi lườm chàng một cái, phủi tay
áo bỏ đi.
Vũ Văn Dung ngây người, sau đó đột nhiên giữ lấy cổ
tay tôi từ phía sau, chàng ta có chịu thôi đi không! Quay đầu lại đang
định dạy dỗ chàng ta thì bỗng dưng chàng ôm tôi vào lòng, mùi hương ấm
áp của nam nhân phả tới. Cánh tay mạnh mẽ của chàng vòng trên vòng eo
thon thả của tôi, một bàn tay vén mấy sợi tóc mái lòa xòa của tôi, hôn
nhẹ lên trán tôi, nụ cười vô cùng quyến rũ: “Được rồi, đừng giận nữa,
sao nàng vẫn còn giận ta?”
Hơi ấm từ bờ môi chàng thẩm thấu vào
da tôi, khiến cả người tôi như tê liệt, nhìn ánh mắt say đắm của chàng,
tôi hoảng hốt, thầm nghĩ chẳng nhẽ người này bị tâm thần phân liệt? Tôi
cố giằng ra khỏi vòng tay chàng, nhưng không thể nào cựa quậy được.
Những cánh hoa lê trắng muốt vẫn rơi xuống, tôi hơi nghiêng đầu đi qua
những cành hoa lê, khóe mắt tôi bỗng liếc thấy một bóng người đang đứng ở một chỗ không xa sau cây lê.
Thì ra là thế. Tôi hiểu ý, ngẩng
đầu lên nhìn Vũ Văn Dung một cái, nhẹ nhàng ôm lấy chàng, giả bộ tựa đầu vào ngực chàng, nhưng trên thực tế là dùng vạt áo chàng để lau vầng
trán vừa bị chàng hôn lên. Nói khẽ: “Thanh Tỏa không dám.”
“Tứ
đệ!” Một giọng nói sang sảng vang lên bên cạnh chúng tôi, chỉ hai tiếng
rất đơn giản nhưng dường như chất chứa rất nhiều tình cảm phức tạp.
Người vừa tới mặc một chiếc trường bào màu vàng, gương mặt nho nhã tỏ rõ vẻ mệt mỏi.
Vũ Văn Dung làm ra vẻ như vừa mới phát hiện ra họ,
buông tôi ra, cúi người hành lễ: “Thần đệ tham kiến Hoàng thượng, tham
kiến Tể tướng đại nhân.”
Tôi vội vàng nghiêng người hành lễ,
lặng lẽ nhìn họ, thấy Tể tướng đại nhân đứng song song với Hoàng thượng, tùy tùng sau lưng ông còn nhiều hơn cả Hoàng thượng.
2.
Xung quanh im lặng giây lát, tôi vội vàng cúi đầu xuống nói: “Thanh Tỏa tham kiến Hoàng thượng, tham kiến Tể tướng đại nhân.” Dưới gốc hoa lê chỉ có tôi và Vũ Văn Dung, bị bao nhiêu con mắt nhìn vào, muốn không lên tiếng cũng khó.
“Bình thân!”
Một giọng nói yếu ớt vang lên
bên tai, tôi vô thức ngẩng đầu lên nhìn, chiếc trường bào màu vàng đã
gần ngay trước mắt, ngài không có đôi mày kiếm mắt sáng như Vũ Văn Dung
nhưng cả người lại toát lên một khí chất vô cùng tao nhã, giữa hai hàng
lông mày cau lại có một vẻ u sầu dường như bất lực, lại như bị áp bức,
rồi mọi thứ đó biến thành một vẻ bướng bỉnh hư trương thanh thế. Hoàng
thượng nhìn tôi giây lát rồi cười lạnh nói: “Người cháu gái bên ngoại
của Tể tướng đại nhân quả nhiên mi thanh mục tú, xinh đẹp hơn người, chả trách lại dùng nàng để giữ chân đệ.”
Gò má tôi thoáng ửng hồng, nhất thời không hiểu ngài đang mỉa mai hay khen ngợi tôi. Nguyên Thanh
Tỏa có một dung nhan y hệt như tôi ở hiện đại, nước da trắng ngần, đôi
mắt đen láy, không thể nói là tuyệt sắc, nhưng nếu đặt quan niệm thẩm mỹ thấp hơn một chút thì cũng được tính là một mỹ nhân.
Giọng nói
của Hoàng thượng không lớn, Tể tướng đại nhân và đám người kia cũng
không theo lại gần, bởi vậy câu này chỉ có tôi và Vũ Văn Dung nghe thấy. Hoàng thượng đưa một tay ra đỡ Vũ Văn Dung dậy, giây phút ánh mắt hai
người giao nhau, trong ánh mắt của cả hai đều dấy lên một tình cảm phức
tạp. Xem ra tình cảm của hai huynh đệ này rất tốt, tôi nghĩ thầm trong
bụng rồi thở dài, chỉ tiếc là Hoàng thượng không giỏi che giấu suy nghĩ
thực sự của mình như Vũ Văn Dung, bởi vậy mới bị Vũ Văn Hộ đầu độc chết.
Lịch sử mà tôi biết đối với họ mà nói chính là một tương lai không thể biết
trước. Cảm giác này thật kì diệu, do đó khi tôi nhìn Hoàng thượng, trong ánh mắt không tránh khỏi một chút tiếc nuối. Ngài nước mắt lên, đối
diện với ánh mắt đồng cảm và thương tiếc của tôi thì thoáng ngây ra. Hai nam nhân trước mặt, tôi biết trước vận mệnh của họ, nhưng lại không tài nào biết được những chi tiết trong đó, bởi vậy khi thấu hiểu mọi thứ,
đồng thời tôi cũng thấy thật hoang mang.
Vũ Văn Dung nhìn tôi
bằng ánh mắt phức tạp vừa như kinh ngạc trước hành động ban nãy của tôi, lại vừa như phòng bị và răn đe. Dường như chàng sợ tôi sẽ nói với Tể
tướng Vũ Văn Hộ những lời mà Hoàng thượng vừa nói. Tôi lườm trả lại
chàng một cái, thực sự không thể chịu nổi sự nghi ngờ của chàng. Tôi
chẳng phải là cháu gái họ xa của người vợ của kẻ đối đầu với chàng sao?
Sợ bị giăng bẫy, sợ bị giám sát thì ban đầu đừng có cưới về, giờ giận
dỗi gì tôi?
Thấy nét mặt không vui và châm biếm của tôi, Vũ Văn
Dung ngơ ngẩn. Tôi quay người nói khẽ với Hoàng thượng: “Lời Hoàng
thượng chí phải. Được gả cho lệnh đệ cũng không phải sở nguyện của Thanh Tỏa. Nếu nước cờ đi có gì không đúng thì có lẽ Người nên trách người
chơi cờ.”
Những lời tôi nói khiến cả hai gã đàn ông có mặt đều
cứng đơ cả người, nhìn tôi đầy kinh ngạc. Cơn gió lạnh thổi tới, những
bông hoa lê trắng như tuyết lại bay lả tả, rơi xuống y phục tôi, đưa tay ra vuốt nhẹ, tôi nói to hơn một chút: “Thanh Tỏa cả đêm nay vẫn chưa
chợp mắt, xin cáo lui trươc, xin Hoàng thượng và Tể tướng đại nhân thứ
tội.”
“Đi đi!” Hoàng thượng còn chưa kịp đáp lời thì Tể tướng đại nhân đã mở miệng.
“Vâng!” Tôi hành lễ với Vũ Văn Hộ, mỉm cười ngoan ngoãn, vừa quay người đi, nụ
cười trên mặt lập tức tắt ngúm. Tôi cảm thấy thật mệt, thật mệt. Làm ơn
cho cái đám hồ ly ấy sau này tự đấu với nhau đi, đừng có kéo tôi vào
nữa.
“Haiz, vị nhân huynh áp tải binh sĩ nước Tề thật là thảm hại, mới chạy được vài hôm đã bị cách chức, nhốt vào đại lao.”
“Hắn ta như thế là may lắm rồi, Hoàng thượng nhân từ, nếu lọt vào tay Tể
tướng đại nhân thì chắc chắn sẽ bị rơi đầu. Nghe nói bọn tù binh đó vừa
không chịu khuất phục, lại vô cùng đoàn kết, một kẻ chạy thoát được là
cũng có thể gây ra đại họa.”
“Đúng thế, thế nên Tể tướng đại
nhân mới hạ lệnh, nhốt hơn 100 gã tù binh đó vào thủy lao. Thủy lao là
một cái lồng được đúc ở một nơi hiểm trở, nghe nói khóa và song ở đó đều được làm từ đồng, cho dù là bảo kiếm chém sắt như chém bùn cũng không
thể nào chém đứt được nó. Chiếc chìa khóa duy nhất lại được bảo quản
trong phủ Tể tướng, tôi thấy đám tù binh đó cả đời cũng đừng mong thoát
được.”
“Haiz, đáng đời bọn chúng, ai bảo nước Tề lúc nào cũng
đối đầu với Đại Chu chúng ta. Đúng rồi, nghe nói nước Tề phái đại tướng
Hộc Luật Quang tới đây nghị hòa, mấy hôm nữa là tới rồi.”
“Hộc
Luật Quang? Là gã Hộc Luật Quang phò tá Lan Lăng Vương (Cao Trường Cung) đánh bại quân nước ta đó sao? Haiz za, tới giờ rồi, chỉ mải nói chuyện, thay đổi vị trí thôi.”
Thì ra sau khi thức đêm thật khó để thay đổi thể lực. Tôi về phòng ngã ra giường là ngủ, khi tỉnh dậy thấy toàn
thân đau nhức, nhìn ra ngoài trời, giờ đã là buổi chiều, vươn vai một
cái, trong đầu thầm tính toán xem bước sau nên đi thế nào. Bước đi vô
định ra khỏi phòng, đang đứng lại dưới bóng râm trong vườn, qua một khu
vườn hoa tươi tốt, tôi nghe tiếng thì thầm bàn tán của hai thị vệ.
Nhìn hai thị vệ kia dần dần đi xa, tôi suy ngẫm kĩ càng lời họ nói, nhai đi nhai lại về cái tên đó.
Lan Lăng Vương, Cao – Trường – Cung. Hình như tôi đã nghe thấy ở đâu đó, nó bị giấu ở một nơi sâu thẳm trong kí ức, nhất thời tôi không tìm ra
được. Hộc Luật Quang, cái tên này hình như cũng từng nghe thấy. Chỉ là
bây giờ đầu óc tôi rối bời, không thể nhớ ra bất cứ điều gì.
Đang đứng lẩm bẩm một mình, bỗng thấy một thị nữ trong phòng tôi sốt sắng
chạy ra, hành lễ với tôi nói: “Tiểu thư, nô tì đi khắp nơi không tìm
thấy người, chỉ sợ phu nhân chờ sốt ruột. Vừa nãy phu nhân phái người
tới tìm tiểu thư đến Đan Tĩnh Hiên, tiểu thư đi mau đi ạ.” Tỳ nữ này còn nhỏ tuổi, dáng vẻ hoảng hốt, sắc mặt kinh sợ. Xem ra Tể tướng phu nhân
Nguyên Thị là một người rất có địa vị trong phủ này.
“Ừm, chúng
ta đi thôi!” Tôi mỉm cười hiền hòa với nàng ta, hít sâu một hơi, quay
người đi về phía Đan Tĩnh Hiên. Trong lòng nghĩ thầm, “Nguyên Thanh Tỏa
là cháu gái họ hàng xa của Nguyên Thị, theo lý mà nói, đã có bà bảo vệ
thì tôi ở Tư Không phủ cũng không đến nỗi bị ức hiếp thê thảm như thế.
Đa phần là vì Thanh Tỏa tính tình nhu nhược, lại một lòng si mê Vũ Văn
Dung, không chịu thay Tể tướng đại nhân giám sát chàng, không còn giá
trị lợi dụng nên Nguyên Thị dần dần cũng chẳng coi nàng vào đâu. Bắc Chu hiện nay, người có quyền lực nhất chính là Tể tướng Vũ Văn Hộ, nếu kéo
được phu nhân của ông ta về phía mình thì cuộc sống của tôi sau này chắc chắn sẽ dễ chịu hơn rất nhiều. Để xem cái gã Vũ Văn Dung và My chủ nhân gì gì đó còn dám bắt nạt tôi?”
Nhưng muốn được bà ta coi trọng
thì trước tiên biến mình thành người có giá trị lợi dụng. Mà giá trị lợi dụng của tôi có lẽ nằm ở chỗ Vũ Văn Dung.
3.
Đầu
tôi xoay chuyển nhanh chóng, vẫn chưa nghĩ ra điều gì thì Đan Tĩnh Hiên
đã gần ngay trước mắt. Đó là một biệt viện vô cùng đường hoàng, hoa lê,
cột sơn son, cửa sổ hoa bằng gỗ đỏ, những chiếc chuông gió bằng đồng
treo dưới mái nhà đang kêu ting tang.
Tiếng cửa mở vang lên, mùi hương rất đậm bay ra. Một nữ nhân mặc áo lụa màu tím đang ngồi giữa
phòng, trần nhà treo một hoành phi rất to, viết rõ ràng bốn chữ “Tử Khí
Đông Lai”. Bà trạc ngoại tứ tuần, cây trâm vàng cài trên đầu tỏa sáng
lấp lánh, khóe mắt đã có vài nếp nhăn vẫn không che giấu được vẻ xinh
đẹp thời trẻ.
“Thanh Tỏa bái kiến cô mẫu.”
Tôi cúi người hành lễ, chầm chậm ngước đầu lên, thầm đánh giá bà, nghĩ bụng, “Không
ngờ Nguyên Thị lại là một nhân vật như thế này, sang trọng tôn quý nhưng vẫn kiến người ta thấy e dè. Chẳng trách có thể ngồi vũng ngôi vị chính thê trong phủ đệ Tể tướng, nơi những cuộc tranh đấu giữa các nữ nhân
luôn diễn ra rất ác liệt. Cho dù không còn vẻ đẹp của năm xưa nhưng bà
vẫn ngồi vững trên chiếc ghế này mấy chục năm không đổ, chắc chắn là vì
bà luôn sắp xếp mọi việc trong phủ Tể tướng một cách hài hòa, hợp lý.”
“Đứng lên đi!” Nguyên Thị lạnh nhạt nói, rồi thong thả nhấc tách trà lên nhấp một ngụm, chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay trỏ tỏa ánh sáng lặng lẽ. Bà
đặt tay xuống rồi nói tiếp, “Ngồi đi!”
Tôi nghe lời ngồi xuống, cúi đầu nhìn tay áo thêu chỉ vàng, không nói năng gì, chờ bà lên tiếng trước.
“Sao đột nhiên lại tới phủ Tể tướng thăm ta? Thực sự là muốn tới thăm ta hay vì không chịu nổi trong phủ Tư Không nữa? Đừng có làm loạn quy củ!”
Nguyên Thị nhướng mày nhìn tôi, không nói vòng vo, âm điệu vẫn như bình
thường, trong giọng nói không có nhiều lời trách cứ, nhưng lại chứa đựng sự coi thường, khinh bỉ.
Tôi không trả lời, vẫn cúi đầu, nói khẽ: “Cô mẫu, Thanh Tỏa có điều muốn nói với người.”
Nguyên Thị thấy tôi có vẻ điềm tĩnh thì hơi sững lại, tôi ngẩng đầu lên nhìn
tì nữ bên cạnh bà, rồi bà lại nhìn tôi bằng ánh mắt đầy phức tạp. Nguyên Thị nhìn tôi giây lát, tôi không hề né tránh, cũng nhìn lại bà. Một lúc lâu sau, cuối cùng bà cũng hơi quay đầu lại một chút, ra lệnh cho các
thị tì lui ra.
“Các ngươi lui ra trước đi!”
Nguyên Thanh Tỏa ngày trước vì say mê Vũ Văn Dung nên không chịu đưa thông tin tới
phủ Tể tướng, kết quả là không lấy lòng được cả đôi bên. Bởi vậy lần này gặp Nguyên Thị, tôi nên thể hiện lòng “trung thành” của mình mới phải.
“Thanh Tỏa bất tài đã uổng công dưỡng dục của cô mẫu. Nhưng tối qua, những lời con nói trước mặt Tể tướng đại nhân hoàn toàn là thật. Trên đời này,
con chỉ còn cô mẫu là người thân, bao nhiêu năm nay nhờ có cô mẫu nuôi
dưỡng mới có ngày hôm nay. Trong những ngày được gả tới Tư Không phủ,
Thanh Tỏa luôn một lòng một dạ nhớ người.” Tôi nói vô cùng chân thành,
hơi ngước mắt lên, thấy Nguyên Thị nghe xong những lời tôi nói, vẻ mặt
uy nghiêm, căng thẳng đã hơi giãn ra một chút.
“Thực ra lần này
Thanh Tỏa tới đây không phải là vì bản thân. Mà vì sợ là uổng công bao
năm dạy bảo của cô mẫu nên tới đây để báo ân.” Tôi ngừng lại một lát,
rồi nói tiếp: “Thanh Tỏa ngu muội, ngày trước ích kỷ cố chấp, không nghĩ tới ân tình của cô mẫu, đó là lỗi của Thanh Tỏa. Cô mẫu là phận nữ, có
lẽ cũng hiểu được tâm trạng của thiếu nữ hoài xuân, trong lòng, chỉ mong chờ phu quân ban cho mình chút tình để được ở bên nhau sống cả đời,
những việc khác thì quên hết sau lưng. Thanh Tỏa cũng chỉ là nhất thời
hồ đồ.”
“Ồ? Mở mắt ra rồi?” Nguyên Thị im lặng giây lát rồi hơi
nghiêng đầu, đưa mắt nhìn tôi, môi khẽ nhếch lên, giọng nói ra vẻ chẳng
quan tâm.
“Người ta vẫn nói “Hoan hành bạch nhật tâm, triều Đông mộ hoàn Tây”[1], nam tử thường tình đều là hạng phụ tâm bạc hạnh, có
mấy người được như cô phụ, thương yêu cô mẫu cả đời, mấy chục năm nay
vẫn không thay đổi.” Tôi giả bộ thở dài, nịnh bà một câu. Trong lòng
thầm nghĩ, “Nếu trên đời này đều là hạng đàn ông như Vũ Văn Dung, đứng
núi này trông núi nọ, không biết đến chân tình thì tôi thà không yêu còn hơn.”
[1] Xuất phát từ “Tử Dạ ca”, là một khúc ca thời cổ đại.
Tương truyền giai điệu của “Tử Dạ ca” là do một cô gái tên Tử Dạ sáng
tác. Hai câu nói này để hình dung về đàn ông vốn là những kẻ phụ tình.
“Hoan hành bạch nhật tâm, triều Đông mộ hoàn Tây” Trái tim của người đàn ông
trên đời này đều dễ thay đổi, chỉ có phụ nữ là luôn bị thiệt thòi. Nghe
đến đây, Nguyên Thị bất giác tỏ ra xúc động.
“Nhưng là con gái
của Nguyên gia, làm sao có thể nghĩ tới chuyện nhi nữ tư tình mà làm mất mặt tổ tông?” Tôi lập tức đổi giọng, âm lượng hơi to hơn. “Họ Nguyên
vốn là Tông thất của Bắc Ngụy, là một họ lớn trong Hoàng tộc, thời cổ là họ Thác Bạt, sau thời Hán hóa mới đổi thành Nguyên[2]. Mấy trăm năm nay vô cùng hiển hách, làm sao có thể đánh mất sự tôn quý chỉ vì con? Thanh Tỏa nguyện từ nay nghe theo lời sai khiến của cô mẫu, giúp Tể tướng đại nhân một tay để giữ vững địa vị tông thất của gia tộc Nguyên Thị chúng
ta.” Những lời này của tôi tràn đầy nghĩa khí, đôi mắt long lanh nước
nhìn Nguyên Thị, ra vẻ chí lớn đã quyết. Nhưng trong lòng tôi thì cười
thầm, “Trình độ nói dối của mình quả là quá siêu đẳng. Bảo vệ địa vị
tông thất của Nguyên Thị chính là giúp đỡ chồng bà (Vũ Văn Hộ) nắm đại
quyền trong tay sao? Tôi cũng là họ Nguyên. Giả dụ ông chồng hữu danh vô thực Vũ Văn Dung của tôi lên làm Hoàng đế chỉ chẳng phải cũng là quang
phục lại Nguyên Thị?”
[2] Lý Văn Đế Nguyên (Thác Bạc) Hồng của
Bắc Ngụy vốn họ Thác Bạt, nhưng 3 năm trước khi chết đổi thành họ
Nguyên. Trong 29 năm thời gian ông tại vị, hành động quan trọng nhất và
cũng gây nhiều tranh cãi nhất của ông là dời đô và Hán hóa.
“Thanh Tỏa, nghe những lời nói tự đáy lòng của con, cô mẫu thực sự đã có cái
nhìn khác về con. Nhưng tình hình trong Tư Không phủ ta cũng biết đôi
chút, Vũ Văn Dung chỉ giả bộ chấp nhận con vì nể tình cô phụ con, chỉ sợ rằng hắn không được tốt như những gì thể hiện.” Nguyên Thị tỏ vẻ hiền
hòa, vỗ tay tôi, nhẹ nhàng. Nhưng trong lòng tôi lại thoáng run rẩy, xem ra ngoài tôi ra, trong Tư Không phủ, bà ta còn có tai mắt khác. Hơn nữa ý tứ của bà trong lời nói rõ ràng là muốn nói, Vũ Văn Dung chẳng buồn
nhìn ngươi lấy một cái thì ngươi giúp ta được gì?
“Kì thực việc
lấy lòng tranh sủng, Thanh Tỏa không phải là không biết, chỉ là một nam
nhân như chàng, cho dù hôm nay chàng để mắt tới con thì ngày mai cũng sẽ bỏ con lại sau lưng? Con là người của phủ Tể tướng, thực ra từ thái độ
của chàng đối với con là có thể biết chàng có thật lòng trung thành với
cô phụ hay không. Chỉ cần con còn ở bên chàng một ngày thì cô phụ vẫn
còn có thể nắm rõ trong tay hành tung của chàng.” Tôi nói khẽ, lời vừa
thốt ra, cảm giác thanh âm mềm mại mà rõ ràng, như tiếng trân châu rơi
xuống đĩa ngọc.
Tôi còn nhớ mang máng ngày trước khi ở thế giới
hiện đại, lúc đọc thơ từ, tuy rằng tôi rất lười biếng nhưng thi thoảng
cũng cảm thấy mình có thể nói ra hoa ra ngọc. Còn giờ đây, tôi lại dùng
âm thanh này để nói ra âm mưu trong lòng, nói những lời đi ngược với
trái tim.
“Hảo hài tử, lần này tới đây, quả nhiên con đã thoát
thai hoán cốt, không ngờ có tâm tư cẩn mật như thế, quả không uổng công
cô mẫu thương yêu con.” Nguyên Thị nở nụ cười hài lòng, tháo chiếc nhẫn
đeo ở ngón trỏ ra đặt vào lòng bàn tay tôi, nói: “Không hổ danh là con
gái của Nguyên gia, không có cái nhìn tầm thường, hạn hẹp như hạng phu
nhân thông thường, chỉ biết giao cuộc đời của mình vào tay lũ nam nhân.
Nữ nhân là phải biết tự tính toán cho mình.”
Suy nghĩ của Nguyên Thị quả là tiến bộ, rất hợp với ý tôi, bất giác tôi đánh giá bà cao hơn mọt chút, sắc mặt tỏ vẻ kinh ngạc, nói khẽ: “Ân tình của cô mẫu Thanh
Tỏa xin nhận, nhưng vô công bất thọ lộc, chiếc nhẫn này quá quý giá,
Thanh Tỏa không dám nhận.”
“Cho con thì con cứ cầm lấy.” Nguyên
Thị lồng chiếc nhẫn vào ngón tay tôi, mỉm cười, đôi lông mày ngọc nhướng lên, thong thả nói: “Vô công bất thọ lộc, nhưng ta biết con sẽ lập
công.”
“Tạ ơn cô mẫu!” Tôi cúi người xuống hành lễ, trong lòng
thầm thở phào. Xem ra hiện nay tôi đã qua được cửa ải của Nguyên Thị, có sự giúp đỡ của bà, cho dù là ở phủ Tể tướng hay Tư Không phủ, tôi cũng
sẽ có địa vị hơn. Chỉ có như vậy thì tôi mới có tư cách bàn điều kiện
với Vũ Văn Dung.
Cáo từ Nguyên Thị, từ Đan Tĩnh Hiên đi ra, trời đã ngả hoàng hôn. Những bông hoa mẫu đơn rực rỡ đầy trong đình viện soi bóng dưới ánh chiều tà đỏ rực như lửa. Bởi vì cô mẫu đã cho kẻ hầu lui
ra từ trước nên lúc này trong sân không một bóng người, tôi men theo con đường nhỏ khúc khuỷu đi qua một cánh cổng nguyệt nha[3]. Trước mắt bỗng nhiên mở ra một khoảng không rộng lớn, đó là một mặt hồ trong vắt, soi
bóng xuân sắc cả khu vườn, ánh chiều tà chiếu xuống những gợn sóng lăn
tan, khiến mặt nước như được dát vàng.
[3] Cổng nguyệt nha là cánh cổng hình trăng khuyết.
Một phong cảnh đẹp khiến tôi bất giác thấy thư thái cả người, thở dài một
tiếng, giang hai cánh tay ra, vươn vai thật dài mà quên mất trong tay
mình vẫn còn cầm chiếc nhẫn, nó bay lên cao rồi tôi mới ý thức ra mình
vừa làm rơi đồ, quay đầu lại đã thấy chiếc nhẫn ngọc lăn tròn đi mấy
trượng. Cúi người định nhặt nó lên thì thấy một bàn tay với những ngón
tay trắng trẻo thuôn dài nhẹ nhàng giữ nó lại, giọng nam nhân lạnh lùng
vang lên trên đầu, lạnh nhạt nhưng đầy châm biếm: “Đây là món đồ mà nàng phải cúi lưng quỳ gối mới lấy được, sao lại nỡ vứt lung tung thế này?”
Tôi sững lại, men theo gấu áo gấm màu trắng xanh nhìn lên trên, đối diện
với một gương mặt thanh tú đến mức yếu ớt. Đó chính là đương kim Hoàng
thượng Vũ Văn Dục, ngài mặc bộ quần áo bình thường, đứng trước mặt tôi,
đôi mắt màu nâu nhạt tràn đầy vẻ thất vọng và khinh bỉ.
“Đúng là chẳng dễ dàng gì.”
Trong mắt ngài thoáng qua một tia phẫn nộ, nhưng tôi vờ như không thấy, bật
cười rạng rỡ, nói với vẻ tự trào, rồi đưa tay ra: “Vậy xin Hoàng thượng
hãy để vật về chủ cũ.”
Vũ Văn Dục thấy tôi có phản ứng như vậy
thì hơi ngỡ ngàng. Lúc này tôi mới nhớ ra đây là thời cổ đại, gặp Hoàng
thượng là một việc vô cùng trọng đại, lẽ ra phải tam bái cửu khấu. Nhưng tôi lúc này thực sự chẳng còn tâm trạng để mà thỉnh an ngài.
“Hôm qua sơ kiến[4], còn tưởng Nguyên cô nương là người khéo ăn khéo nói,
tất sẽ coi thường danh lợi. Ban nãy đi qua, vô tình nghe thấy tiếng nữ
nhi trong trẻo như tiếng trân châu rơi đĩa ngọc. Lời nói vẫn có đầu có
cuối động lòng người nghe, nhưng giờ từng câu từng chữ lại khiến người
ta vô cùng thất vọng.” Bàn tay Hoàng thượng dừng trong không trung, đặt
chiếc nhẫn trả lại vào lòng bàn tay tôi, tiếng thở dài rất nhẹ, trong
mắt liếc qua một vẻ nuối tiếc rất chân thành.
[4] Sơ kiến: Lần đầu gặp mặt.
Tôi bỗng dưng thấy tim mình ấm áp một cách kỳ lạ, sự thất vọng của ngài
ngày hôm nay cũng là vì ngài đã từng thực sự quý mến tôi. Tôi vô thức
ngước mắt lên nhìn Vũ Văn Dục, cảm thấy trên gương mặt anh tuấn trẻ
trung của ngài hiển hiện một sự phẫn nộ và bất lực, dường như vô cùng
thống hận cái thời buổi loạn thế này, nhưng lại không thể lún sâu vào
trong đó, có một cảm giác cao thượng và cô đơn dù rằng đứng giữa muôn
người.
Có lẽ Hòang đế cũng không phải là người vô năng, chỉ là
ngài đã quá chân thành, không biết cách che giấu nên mới không thể che
giấu được ánh sáng của mình, cuối cùng bị Vũ Văn Hộ đầu độc chết.
Nghĩ tới đây, trong lòng tôi bất giác thấy xúc động, cất đi vẻ mặt phớt đời
của mình, nhẹ giọng nói: “Hoàng thượng đã bao giờ từng nghĩ tới những
thứ người muốn đạt nhất là gì chưa?” Chủ đề thay đổi quá nhanh khiến Vũ
Văn Dục sững lại, nhất thời không trả lời được.
“Để có được thứ
mình muốn nhất, luôn phải hi sinh một cái gì đó. Có những lúc, vì mục
đích đó mà làm những việc mình không muốn làm, đó cũng là điều khó
tránh.” Tôi thở dài, u buồn nói.
Trong lòng tôi nào phải không
oán hận cái hoàn cảnh này, để bảo toàn bản thân mà phải luồn cúi người
khác, nói những lời không muốn nói, làm những việc không muốn làm. Tôi
thực sự hận mình không thể về thế giới hiện đại. Nếu cho tôi một cơ hội
mới, tôi chắc chắn sẽ trân trọng cuộc sống trên ghế nhà trường mà mình
đã từng căm ghét.
Thấy tôi nói rất chân thành, Vũ Văn Dục thoáng tỏ vẻ kinh ngạc, đôi mắt nâu nhạt ngỡ ngàng nhìn tôi.
“Thanh Tỏa ngu muội, chỉ là cảm thấy có những lúc mềm thì nắn, rắn thì buông,
thuận theo thời thế cũng không phải là việc xấu. Muốn đạt được mục đích
thì trước tiên phải bảo toàn cho mình, chẳng phải sao?” Những lời này
không hiểu tôi nói với ngài hay nói với chính mình, tôi bỗng thất thần,
nắm chặt chiếc nhẫn trong lòng bàn tay, hành lễ một cách cung kính và xa cách, lên tiếng: “Trời không còn sớm nữa, Thanh Tỏa xin cáo lui.”
Vũ Văn Dục có vẻ trầm tư suy nghĩ, gợn sóng trong đáy mắt chuyển động,
dường như đang nghiền ngẫm những lời tôi vừa nói. Sau khi đã đi rất xa
rồi, tôi không kìm được liền quay đầu lại nhìn, thấy ngài vẫn đứng bất
động ở nơi cũ, hoang mang nhìn về phía tôi vừa rời đi. Dưới gốc cây hoa
quế, những cánh hoa trắng như tuyết đậu lên vạt áo trắng xanh của ngài,
nghĩ tới vị Hoàng đế tao nhã này cuối cùng bị người ta đầu độc chết,
trong lòng bất giác thấy nỗi buồn khôn tả.
Quay đầu lại, nỗi
thương xót trong mắt vẫn chưa kịp tan đi thì vừa đi qua những thân cây
xanh mướt, tôi thoáng thấy một bóng người cao lớn, một bộ y phục màu
xanh khổng tước, nơi thắt lưng đeo một viên ngọc bội cùng màu với cái
đai lưng có cúc bằng bạch ngọc. Bóng người đó chắp tay sau lưng, đứng
sau gốc hoa lê ở cách đó không xa, đang nhìn tôi chăm chú, đôi mắt đen
láy sâu thẳm thật khó dò. Nhìn kỹ lại, hóa ra là Vũ Văn Dung. Giây phút
ánh mắt chạm vào nhau, chàng vội vã quay người đi, cứ như thể không nhìn thấy tôi, rồi nhanh nhẹn đi về phía trước.
Tôi hơi sững người
lại, vô thức đi sau lưng chàng, từng bước từng bước đi theo. Những lời
tôi vừa nói với Vũ Văn Dục, chàng nghe được bao nhiêu? Những lời tôi nói với Nguyên Thị trong Đan Tĩnh Hiên, chàng biết được bao nhiêu? Nếu đã
nghe thấy hết rồi thì vì sao chàng không tới chất vấn tôi như thường lệ? Tôi còn nhớ mang máng, trong sách sử đã hình dung Vũ Văn Dung như một
minh quân của Bắc Chu, anh minh thần võ. Giờ xem ra quả nhiên tôi không
nhớ lầm, tuy rằng chàng còn trẻ tuổi, nhưng đã có tâm tư thâm sâu khó
lường.
Trong Ngọc Lâm Uyển rộng lớn lúc này chỉ còn lại hai
chúng tôi, mặt trời đã ngả về Tây, sắc trời tối lại, xung quanh bốn bề
yên tĩnh đến độ có thể nghe thấy tiếng chân chàng đạp lên những chiếc lá khô. Tôi nhẹ nhàng dừng bước, nghĩ bụng cách chàng xa một chút thì tốt
hơn. Nhưng đằng trước lại vang lên một gọng nói thánh thót như chuông
bạc: “Tiểu nữ Nhan Uyển tham kiến Tư Không đại nhân.”
Là nàng
ta! Tôi giật mình, nép mình ra sau gốc hoa lê theo phản xạ, lưng dựa vào thân cây, từng cánh hoa lê rơi xuống như một chiếc rèm châu đung đưa
trước mặt tôi.
“Giữa vườn tình cờ gặp giai nhân, đúng là may mắn của bổn nhân.” Lén đưa mắt nhìn ra Vũ Văn Dung thoáng dừng lại, hình
như hơi quay đầu về phía tôi nép, chắp tay sau lưng, mắt nhìn Nhan Uyển, giọng nói thì vô cùng phong lưu. Tôi quay đầu lại, thầm chửi một tiếng, “Đúng là đồ dê xồm!”
“Không biết Tư Không đại nhân còn nhớ Uyển nhi không? Hồi nhỏ chúng ta từng gặp nhau trong phủ Tể tướng.” Giọng
nói của Nhan Uyển chứa đầy sự e thẹn. Tôi hơi ngỡ ngàng, lẽ nào nàng ta
thích Vũ Văn Dung?
“Ồ, đương nhiên còn nhớ. Nhan cô nương là tứ
tiểu thư của nhà Kinh lược, rất biết làm canh hạt sen.” Vũ Văn Dung cười nói, giọng nói cao quý mà xa cách, lại còn một vẻ trầm ấm rất quyến rũ. Tôi bất giác lườm hắn một cái, trong lòng cười thầm, thiên hạ này hóa
ra vẫn còn chuyện như thế, chồng mình trêu ghẹo người con gái khác, vợ
thì đứng trốn sau gốc cây, không dám lộ mặt.
“Không ngờ Tư Không đại nhân còn nhớ Uyển nhi.” Trong giọng nói của Nhan Uyển chất chứa
niềm hân hoan và xúc động, nũng nịu nói, “Đây là canh hạt sen mà thần
thiếp đích thân nấu, mời đại nhân nếm thử để xem tay nghề của Uyển nhi
có tiến bộ hay không?”
“Đa tạ thành ý của tiểu thư.” Vũ Văn Dung nhận cái lồng ngọc trong tay nàng ta, dịu dàng nói tiếp: “Không còn sớm nữa, hay là ta đưa tiểu thư về phòng nghỉ ngơi, tối nay còn có yến tiệc nữa đấy.”
“Vậy phiền Tư Không đại nhân.” Trong giọng nói của Nhan Uyển dường như không muốn nhưng lại vô cùng e thẹn.
Hừ, hắn đúng là dịu dàng chu đáo! Tôi liếc hai người sánh vai nhau bỏ đi,
hoàng hôn đẫm sắc đỏ, nhìn từ đằng xa, đúng là tài tử giai nhân. Tôi lắc đầu, thở dài trong lòng, nếu cô gái đó thực sự yêu Vũ Văn Dung thì chắc chắn hắn cũng chỉ trêu hoa ghẹo nguyệt vài ngày, rồi thì nàng ta sẽ lại chìm đắm trong đau khổ mà thôi.