Đọc truyện Lam Y Nữ Hiệp – Chương 33: Gặp người bị nạn, trưởng lão tìm ra Tiêu Nhục Diệp Về kinh cấp báo, Mạnh Thường quyết hành động một phen
Thứ bột kỳ khôi này phát xuất do một sự tình cờ và người chế ra bột tất là Huyền Vân trưởng lão, sư phụ của Đức Võ Thượng Nhân.
Trong dãy Cửu Huyền sơn, ngoài cửa quan, trên con đường dẫn vào
địa phận Mông Cổ, rừng rậm núi cao hóc hiểm, ít người lẻ tẻ qua lại, chỉ trừ những đoàn khách thương người Mông chở hàng trên lạc đà vào giao
dịch với người Hán ở Trương Gia Khẩu.
Thuở ấy, Huyền trưởng lão vẫn còn ít tuổi, sư phụ vừa tịch viên xong, một mình tu đạo trên Bạch Sơn am.
Một hôm trong dãy Cửu Huyền, cha con tiều phu người Mông Cổ là
Đắc Lạc và Đắc Thông từ ấp Vàm Linh Công thuộc bộ lạc Chấn Ma vào rừng
kiếm củi.
Trưa hôm ấy, sau khi đã chặt xong mấy bó củi và măng trúc, cha
con Đắc Lạc dỡ lương khô ra ăn rồi vun lá khô nằm dưới gốc cây ngủ say
một mạch, định bụng gần chiều mời về. Trong lúc đang ngủ say, bỗng có
tiếng động mạnh, khiến Đắc Lạc chợt tỉnh dậy. Nhìn quanh, Đắc Lạc giật
mình sợ hãi vì cách đấy không bao xa, một con mãng xà màu xám vừa sà
xuống. Đắc Lạc vội đánh thức Đắc Thông rồi hai cha con cầm dao quắm kéo
nhau vào núp sau bụi rậm.
Định thần nhìn kỹ, Đắc Lạc thấy mãng xà ngóc đầu lên, lưỡi thè
ra lia lịa, mắt sáng quắc nhìn trừng trừng về một phía. Lấy làm lạ, Đắc
Lạc nhìn theo ra phía đó, thì cách đấy đôi mươi sải tay, một con nai lớn đang trơ trơ dại dột nhìn lại mãng xà như bị thôi miên, bởi luồng mắt
sáng như sao của ác thú. Hai con thú nhìn nhau như vậy hồi lâu.
Đắc Lạc nhận thấy con mãng xà vẫn ngóc đầu nhưng thật ra nó đang trườn mình tiến rất thong thả tới phía con nai. Quả nhiên con nai rúm
cả bốn cẳng lại không nổi nữa. Lúc hai con vật còn cách nhau độ năm sải, mãng xà bất chợt quăng khúc đuôi đập trúng đầu con nai quỵ xuống, rồi
há miệng lấy mỏm nai ngập gần tới mắt.
Lúc đó con nai mới giãy nhưng lần lần suốt mình nó bị mãng xà quấn siết chặt, khi mãng xà giãn khúc ra thì nó hết thở.
Ác thú duỗi mình ra, mang bụng lớn từ từ nuốt ngập đầu con nai.
Con nai lúc đó hoàn toàn bị ngộp thở không giãy giụa nữa. Nằm dài trên
mặt cỏ, đuôi ve vẩy, mãng xà vừa nuốt vừa nghỉ.
Đắc Lạc chưa bao giờ được trông thấy cảnh lạ lùng đó nên hầu như quên hết sợ hãi, núp sau bụi rậm xem kỳ cùng.
Con mãng xà tuy lớn nhưng nuốt hết cả một con nai là chuyện bất ngờ.
Khi ác thú nuốt hết cổ con nai, Đắc Lạc yên trí thế nó cũng phải nhả mồi con nai lớn quá. Nhưng không, ác thú nhoài đầu trên cỏ nghỉ rồi tiếp tục nuốt như thường.
Đắc Lạc nhận thấy mang ác thú có bạnh ra khác thường thật, tuy
vậy không thể nào lớn bằng thân con nai, ấy thế mà thân nai cứ bị lấn
lần lần phần bị nuốt co rúm lại, phần còn ở ngoài thì lớn như thường.
Tới xế chiều, mãng xà hoàn toàn nuốt hết con nai, bụng nó phình
lớn như thể bị độn ở khúc giữa. Nuốt xong mồi lớn, mãng xà quẩy khúc bò
thẳng vào đám cỏ cách nơi no chụp được độ một hai chục sải tay. Tại đó,
mãng xà ngẩng đầu lên, vục đầu xuống ngoạm nhiều mớ lá nuốt. Chừng đã
thỏa thuê, ác thú trở lại chỗ cũ quấn mình vào gốc cây lớn rít mạnh như
cuốn ép nát mồi lớn nuốt ra từng mảnh một. Độ một khắc xong, mãng xà
duỗi mình khúc luôn lên cây quấn đuôi vào cành lớn, xà đầu xuống đu đi
đu lại, đoạn há miệng đỏ như máu phun lần lần ra một đống xương nai
trắng hếu.
Đắc Lạc nhận thấy chỗ bụng mãng xà phình ra hồi nãy vì mồi to
quá, lúc ấy đã bình thường, con nai bị tiêu hóa đi rất nhanh chóng.
Phun hết xương nai rồi, mãng xà thè lưỡi thở phì phò, cất đầu vắt lên cây luồn qua cây khác đi thẳng.
Lúc đó, Đắc Lạc mới cùng con là Đắc Thông bỏ chỗ núp, chạy ra nhìn đống xương nai.
Đắc Lạc dùng dao bơi coi thấy đủ các đốt xương khúc, khúc nào
cũng trắng tinh không vấy chút thịt nào cả, sạch sẽ như con nai đã bị
luộc nát rồi mới bỏ hết gân thịt chì còn lại có đống xương.
Đắc Lạc bảo con :
– Ta vào chỗ mãng xà ăn cỏ xem sao.
Hai cha con lần vào đó, quả nhiên có một chỗ lạ bị mãng xà ăn, dấu tích hãy còn rõ ràng.
Đắc Thông nói :
– Phụ thân à, chưa bao giờ nghe nói mãng xà ăn cỏ, mà nó đã ăn rành rành đây này.
Đắc Lạc nhìn kỹ nhận thấy trong đám cỏ có một thứ lá tựa như lá
liễu mọc lần, mà chính thứ đó còn để lại cuống chớ không phải cỏ.
Đắc Lạc lắc đầu bảo con :
– Mãng xà không ăn cỏ, chính nó đã nuốt thứ Tiêu Nhục Diệp này.
Có lẽ tạo vật sanh ra thứ lá “tiêu” này mà riêng chỉ có giống mãng xà
biết dùng.
Bằng chứng rất rõ ràng, ác thú nuốt hết con nai lớn thở không
được bèn tìm cách nuốt thứ Tiêu Nhục Diệp, lát sau mồi đã bị tiêu hết và chỉ còn đống xương nhả ra kia kìa.
Tìm được thứ lá quý này quả là một điều may mắn, không thể ngờ được. Về làng, chớ có nói cho ai biết nhé.
Nghe cha nói vậy Đắc Thông chỉ biết có vâng lời.
Đắc Lạc khoái chí tìm nhổ một đống lá bó lại đem về nhà, phơi khô, bọc lại cẩn thận cất lên gác bếp để dành.
Hơn một năm sau, một ngày kia, Đắc Lạc thấy óc ách không tiêu, bần thần khó chịu.
Đắc Thông nói :
– Để con vào trong làng nói với lang y bốc thuốc phụ thân uống thang tiêu nhé.
Chợt nghe thấy tiếng “tiêu”, Đắc Lạc mới nhớ ra nắm lá tiêu nhục đã phơi khô còn gác để dành trên mái bếp, y liền bảo Đắc Thông :
– Không cần, hốt thuốc thêm tốn tiền. Còn nhớ mớ lá tiêu không?
Con khá lấy một dúm nhỏ sắc lên uống, chỉ chốc lát là khỏe ngay như con
mãng xà hồi năm ngoái.
Đắc Thông vâng lời lấy lá tiêu sắc, gạn một chén đưa cho Đắc Lạc uống.
Uống xong, Đắc Lạc lên giường đi nằm :
– Trong khi ta nghỉ ngơi, con liệu vào rừng kiếm chút ít măng về nấu ăn đi.
Đắc Thông yên trí vác dao quắm đi đến quá trưa mới trở về.
Đặt gánh củi và bó măng lớn xuồng thềm nhà, Đắc Thông vui vẻ vào phòng :
– Phụ thân ơi! Bữa nay có măng trúc tuyệt non, chắc ngon lắm.
Không thấy Đắc Lạc trả lời, tuy vẫn nằm yên đắp mền lên đến cổ, quay mặt vào tường, Đắc Thông liền bước tới cầm vai gọi.
– Phụ thân! Quá trưa rồi, có dễ chịu không.
Nhưng y hoảng quá vội giựt tay lại, lẩm bẩm :
– Kỳ quá! Sao lại nát nhủn thế này? Bầy nhầy, ướt sượt.
Cùng lúc ấy, y nhận ra có nước chảy lủng bủng dưới gầm giường.
Đắc Thông bèn mở cửa ra thêm sáng, nhìn mặt cha, thì thấy không
còn nét rõ ràng như trước nữa. Da thịt đã chảy ra như bùn. Đắc Thông kéo mền xuống chân giường. Áo quần Đắc Lạc thấm ướt hết.
Chỗ thịt vai mà Đắc Thông cầm phải lúc mới về, bẹp hẳn xuống
cánh tay rã sang một bên… Ôi, kinh khủng! Đắc Lạc đang đi tiêu! Tiêu
bởi uống Tiêu Nhục diệp.
Thời gian từ lúc Đắc Lạc vô tình uống thứ thuốc lá “tiêu” ấy cho đến khi Đắc Thông về cũng khá lâu mà thi thể không bị tiêu hẳn thành
nước uống chỉ vì y uống rất ít, vả lại thuốc không hẳn vào máu, phải chờ lâu mới ngấm, cho nên thi thể y tiêu lần lần…
Hoảng quá, Đắc Thông ôm mặt khóc vang, tức bực chạy vùng ra khỏi cổng tre, chẳng ngờ trong lúc vô ý húc ngay phải vai một vị thanh niên
đạo nhân vừa đi tới.
Đạo nhân vươn tay nắm tay vai áo Đắc Thông, giữ lại cứng ngắt, khiến y không nhúc nhích được nữa.
– Này chú, chạy đi đâu vội vàng đến nỗi đâm vào người ta như vậy.
Đắc Thông nhìn vẻ mặt quắc thước, chân phương của thanh niên đạo nhân rồi van nài :
– Xin người sanh phúc buông tôi ra để vào làng nhờ bạn bè phụ thân tôi đang chết chảy nước ra kia kìa.
Thấy lạ, đạo nhân nhìn vẻ mặt thật thà hoảng hốt của Đắc Thông :
– Đi đâu mà vội? Hãy vào trong nhà kể rõ chuyện cho bần đạo nghe, nếu giúp được bần đạo xin hết sức không nề hà chi cả.
Nghe bần đạo nói phải, Đắc Thông liền mời vào nhà quỳ lạy xưng danh, yêu cầu giúp đỡ. Đạo nhân nói :
– Bần đạo là Huyền Vân tu trên Bạch Sơn am trong dãy Cửu Huyền sơn. Hãy dẫn bần đạo vào coi lệnh phụ ra sao đã.
Đắc Thông liền dẫn Huyền Vân vào phòng quan sát thi thể Đắc Lạc.
Huyền Vân nói :
– Nào bây giờ kể cho bần đạo nghe đầu đuôi câu chuyện thế nào.
Đắc Thông kể rành mạch lại chuyện gặp mãng xà và Đắc Lạc uống nước lá tiêu.
Nghe đoạn, Huyền Vân nói :
– Khu rừng ấy thường ngày có người qua lại chớ?
– Thưa không.
– Thế tại sao đại ca lại cùng lệnh phụ vào đó lấy măng củi.
– Khu rừng đó có tiếng là nhiều ác xà lớn, nhỏ nên không ai dám
vào đó. Hôm ấy, cha con đệ tử đi qua cửa rừng ngó vào thấy măng ngon
liền bảo nhau vào lấy, cho rằng không vào sâu thì cũng chẳng sao, ngờ
đâu lại gặp ngay cảnh mãng xà bắt nai nên mới xảy ra cơ sự không may
này.
Huyền Vân ôn tồn bảo Đắc Thông :
– Việc lệnh phụ ngộ nạn, nếu cần phải trình báo với tù trưởng
thì cứ nói là uống nhầm phải lá đốc, còn tuyệt nhiên giấu vụ vào rừng
gặp mãng xà là lấy nhầm phải lá độc, nghe? Như vậy, cốt tránh bọn lưu
manh gian tà dùng lá ấy mưu hại người hiền lương hiểu chưa?
– Dạ, đạo trưởng dạy chí phải.
Huyền Vân lấy ở túi ra mươi lượng bạc đưa cho Đắc Thông mà rằng :
– Cầm lấy tiền này lo việc ma chay cho lệnh phụ và nhớ kín chuyện nhé. Đưa gọi lá độc cho bần đạo bỏ đi.
Đắc Thông nhận bạc cảm tạ đạo nhân và đưa gói lá khô.
Huyền Vân mở ra xem nhận xét kỹ lưỡng rồi mới ra đi. Lúc đó, trời đã xế chiều, Đạo nhân vào trọ trong làng Vàm Linh Công.
Sáng hôm sau, Huyền Vân ra đi nhận rõ vị trí khu rừng độc, vào
tìm hái thêm một bọc lớn lá tiêu đem về Cửu Huyền sơn nghiên cứu.
Sau khi thành công, Huyền Vân ghi thêm các chi tiết vào sau bộ
Thiết Đả pha “Tiêu Nhị Phấn” do Tiêu nhục diệp hay mãng xã diệp chỉ ra
thành bột truyền lại cho môn đồ để thủ tiêu nhân vật nào trong khi hành
hiệp.
Nguyên thứ Tiêu nhục diệp chỉ mọc trong rừng có nhiều mãng xà.
Đó là thứ là mà tạo vật sanh ra chỉ dành riêng cho giống mãng xà sẵn
chất giải độc trong máu nên không bị tiêu nhục. Ngoài ra, bất cứ giống
động vật nào nhiễm phải chất độc của mãng xã diệp thì đều hết phương cứu chữa.
Huyền Vân quen thân với Trí Dũng sư trưởng Thiếu Lâm tự. Hai
nhân vật ấy mỗi khi chế hóa ra được thứ gì lạ thường gặp nhau tham khảo, bởi vậy phái Thiếu Lâm tự biết dùng Tiêu Nhục Phấn là do Huyền Vân
trưởng lão truyền bá lại. Các sư trưởng giao kết với nhau, chỉ truyền
men độc dược ấy cho những môn đồ đáng tin cậy, cho nên sau này cũng
không mấy người dùng.
Anh em Chu gia được Đức Võ Thượng Nhân truyền lại cho cách luyện và dùng Tiêu nhục phấn là việc dĩ nhiên, nhưng Âu Dương Bích Nữ biết
cách sử dụng thứ độc dược ấy cũng không có gì lạ. Anh em họ Âu há không
phải là cao đồ chân truyền phái Thiếu Lâm tự đó sao?
Nói về Tam hiệp sau khi hạ sát xong gian vương liền về thẳng
quán trọ nghỉ ngơi, mãi trưa hôm sau mới trở dậy. Ba người định dùng bữa xong thì vào thành nghe động tĩnh về vụ đêm qua. Nhưng Kỳ Tường Bảo đã
lần đến hỏi thăm. Trông nét mặt phần ngơ ngác, phần hớt hơ hớt lãi của
họ Ky, Tam hiệp nhìn nhau cố nhịn cười.
Lam Y hỏi :
– Chắc Kỳ Đại ca ngọc thể bất an?
Tương Bảo nhìn ba người rồi hỏi nhỏ :
– Có thể lên lầu nói chuyện được không?
Đức Kiệt phì cười :
– Có chớ, sao lại không? Đại ca ở lại đây uống rượu với anh em tôi nhé!
Nói đoạn, chàng dắt tay họ Kỳ lên lầu. Lam Y và Âu Dương Bích Nữ bảo tiểu nhị sửa soạn thồi rượu rồi lên sau.
An tọa xong, Kỳ Tường Bảo trịnh trọng nói đủ nghe :
– Có một chuyện ghê gớm lắm! Ba vị tôn huynh ạ! Ghê gớm lắm! Khắp trong trấn đều đồn đãi xôn xao…
Âu Dương Bích Nữ mỉm cười :
– Có điều gì quan trọng vậy?
– Quan quân chia nhau ra đứng ở khắp mọi ngả đường có ý nhận xét gian ngay chi đó. Ngoài ra người ta đông rằng quan Đề đốc bị ám sát đêm qua bởi một bọn đông người.
– Ồ, ghê qua nhỉ!…
– Dạ, còn một điều nữa ghê gớm là khi quan quân trong dinh Đề
đốc phát giác ra vụ ám sát ấy thì tử thi Đề đốc chỉ còn là một bộ xương
trong y phục thôi, da thịt tiêu tan hết. Hình như bị chém mất đầu vì
chiếc sọ bị tách riêng ra một nơi với mớ tóc.
Lam Y gật gù kinh ngạc :
– Ghê gớm quá nhỉ! Vào nổi trong dinh Đề đốc đâu phải là chuyện
chơi, như hôm nọ chúng ta vào cứu Liễu thị trong tòa lâu đài vắng vẻ!
– Thế ra tại Hàng Châu cũng có lắm nhân tài hiệp khách qua lại nhỉ?
Kỳ Tường Bảo nói nhỏ :
– Ồ, thế mà tiểu đệ cứ tưởng là ba vị tôn huynh đại hiệp đã trừ hại cho dân trấn này đấy!
– Đâu có! Vào dinh Đề đốc canh phòng cẩn mật hạ sát vị đại quan
chắc là việc anh em tôi không làm nổi. Giả thử có hành động đi nữa thì
việc gì giấu giếm đại ca phải không? Như đêm bắt ba tên gian đạo vào nhà họ Trần đó nề hà chi đâu?
Kỳ Tường Bảo gật đầu :
– Dạ nhưng thấy tình hình nghiêm trọng, quan quân có thể đi tới
chỗ khám xét từng nhà một nên tiểu đệ cần phải báo trước cho ba vị tôn
huynh liệu chừng. Nhân viên trong quán này không nói chuyện gì sao?
Lam Y lắc đầu :
– Không. Có lẽ họ không biết tin ấy hoặc giả biết mà không nói cũng vậy.
Nói chuyện đến đây tiểu nhị bê các món ăn lên bày lên thồi rót rượu.
Đức Kiệt nhìn qua thấy mọi thứ đều đã đầy đủ bèn bảo tiểu nhị :
– Cho người xuống nhà cần dùng thứ gì ta sẽ gọi sau.
Chờ tiểu nhị đi khỏi bốn người lại bàn tán như trước. Đức Kiệt nói :
– Dù sao ba anh em tôi cũng không nên vào thành, vậy nếu có việc gì lạ đại ca thông báo cho chúng tôi biết ngay nhé.
– Dạ, đó là bổn phận của tiểu đệ.
Vụ Đề đốc Hàng Châu bị ám sát chiều hôm ấy mới lọt ra tới ngoại thành, trong tửu quán ai nấy đều bàn tán xôn xao.
Hai hôm sau, Kỳ Tường Bảo trở lại Trần gia tửu quán cho Tam hiệp biết rằng trong thành cuộc khám xét không đến gắt gao lắm và quan quân
đã phát giác ra xác ba tên gian đạo ở Hải Hoa Đài.
Tường Bảo nói tiếp :
– Người đàn bà mập béo đích danh là Chiêu má má đã bị giữ lại để điều tra cùng các nhân viên trong tòa lâu đài ấy. Hình như vị chủ nhân
gian ác Hải Hoa Đài chính là quan Đề đốc.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Kỳ đại ca lượm các tin tức ấy ở đâu vậy?
– Tiểu đệ sở dĩ biết rõ như vậy là vì quen biết với một người làm trong dinh Đề đốc.
– Nhà họ Trần an vui chớ?
– Dạ. Đã có lúc tiểu đệ lo cho Trần gia sau khi vụ Hai Hoa Đài
phát giác. Cũng may là ngoài ba tên gian đạo bị táng mạng, không còn một ai biết việc bắt cóc họ Liễu, nếu không thì thế nào Trần gia cũng bị
dính líu phải ra vào chốn công môn.
Lam Y nói :
– Chúng tôi cũng lo như đại ca nên còn ở lại đây nghe ngóng. Từ
nay Trần gia có thể sống an vui được nồi miễn là mọi người trong nhà đều kín chuyện. Sáng mai, anh em tôi lên đường, nhờ đại ca chuyển lời chào.
– Ba vị tôn huynh là ân nhân, Trần gia không được lưu tiếp cho đàng hoàng, chắc thế nào cũng ân hận lắm.
– Chà! Thiếu chi lúc gặp nhau!
Tam hiệp giữ Kỳ Tường Bảo ở lại thù tạc đến xế chiều mới về.
Sáng hôm sau, ba người dong ruổi lên đường. Về tới Tô Châu thì đã qua rằm tháng chạp. Tam hiệp về thẳng Âu Dương trang.
Lúc qua cổng trang trại, Âu Dương Bích Nữ hỏi mấy tên trang đinh coi cổng :
– Trang chủ có nhà không?
– Dạ, mọi người đều ở nhà. Hiện có đại khách mới tới.
– Ai vậy?
– Thưa, Thượng nhân và Sư trưởng đến được một ngày rồi.
Ba người vui vẻ vào đại sảnh xuống ngựa liệng cương cho trong đinh. Âu Dương Tòng Cát và Tòng Đức cùng ra đón ở thềm nhà.
Trông Lam Y và Âu Dương Bích Nữ còn trong phục giả trai, Tòng Cát mỉm cười vái dài :
– Mừng ba vị hiền đệ đã thành công!
Lam Y ngạc nhiên :
– Ủa! Đại huynh biết việc đó rồi sao?
– Sao lại không? Ba người về trễ, mà ngày nào chẳng có khách thương qua lại giữa hai thị trấn Tô, Hàng?
Tòng Đức nói :
– Nói chuyện sau, Sư trưởng, Thượng nhân và phụ thân đang chờ trong sảnh đường.
Tam hiệp vội vào lạy chảo. Chiêu Đức thiền sư nói :
– Đường xa mới về, các con hãy vào hậu đường thay trang phục, sau sẽ nói chuyện.
Ba người từ tạ vào hậu phòng chào Âu Dương phu nhân và Phương thái thái Tú Kiều rồi mới về tư phòng.
Lần đầu tiên, anh em Chu gia mới được giáp mặt vị Sư trưởng
Thiếu Lâm tự. Tuy vóc người nhỏ bé nhưng đôi mắt sáng như sao mai, nét
mặt thật cương quyết, mỗi khi nhìn tia mắt long lanh như rọi hẳn vào óc
người nhìn, tỏ ra có một sức mạnh tiềm tàng ghê gớm về tinh thần cũng
như thể chất.
Trông Đức Võ Thượng Nhân, cao lớn dáng điệu cực kỳ nhàn nhã thần tiên, ngồi bên Chiêu Đức thiền sư trưởng giới thiền môn, đứng đầu cả
một võ phái lớn nhất thời bấy giờ, quắc thước nhưng từ bi, và Trại Mạnh
Thường Âu Dương Tòng Thiện phì nộn hiên ngang, mỗi người một vẻ phi
thường đáng kính.
Thay thường phục xong, Tam hiệp trở ra đại sảnh kể việc Hàng Châu cho ba vị tiền bối nghe.
Chiêu Đức thiền sư nói :
– Nhạc Lan Anh hay tin này sẽ tiếc không được đích thân báo thù
cho cha nàng. Còn Thuận Vương ở Kim Lăng tất lo sợ phòng bị ráo riết.
Đức Võ Thượng Nhân nói :
– Ngay cả Vĩnh Lạc hoàng đế cũng xao xuyến vì gian vương là biểu đệ của Người.
Trại Mạnh Thường nói :
– Nhân nói tới Hoàng đế, tôi có một điều muốn bàn cùng đạo huynh Đức Võ và lão đệ Sư trưởng.
Đức Võ Thượng Nhân hỏi :
– Điều chỉ cần bàn mà liên can cả tới Hoàng đế?
– Xem tình hình này, Thuận Dương tất thế nào cũng dãy loạn mà
nhà Vua không hề biết việc chi cả. Gian vương thông đồng với Thái sư
Trần Chí Hòa, giấu nhẹm mọi việc đi chăng? Có lẽ!
Động tới can qua, dân chúng Giang Nam tất không tránh được nổi
lầm than. Cho nên tôi tính phải hành động thế nào trình bày cho nhà Vua
rõ tình binh hiện tại của Kim Lăng trấn và dự mưu kiếm ngôi, tranh thiên hạ của Thuận Vương.
Chẳng hay đạo huynh và sư đệ có ý kiến gì dạy bảo không? Hành hiệp cứu dân Giang Nam khỏi phái lầm than cũng là công đức lớn!
Chiêu Đức thiền sư nói :
– Không có gì hơn là lên Yên Kinh, nhập hoàng cung bí mật trình
bày cùng Hoàng đế các hành động phiến loạn của Thuận Vương, Đức Võ đạo
huynh có đồng quan điểm không?
Đức Võ Thượng Nhân gật đầu :
– Hiền đệ dạy chí phải, nhưng ai sẽ đảm nhiệm vụ này?
Trại Mạnh Tường nói :
– Ba chúng ta, Nếu nhị vị chấp thuận, ta sẽ cùng đi Yên Kinh một phen.
– Chừng nào đi?
– Sang Giêng. Chắc Đức Võ đạo huynh không có gì cản trở, nhưng Chiêu Đức sư đệ liệu có rảnh không?
Chiêu Đức thiền sư nói :
– Rảnh lắm chớ! Được tin hồng thiệp hiền điệt Tòng Cát lập gia
đình, Bích Nữ hứa hôn cùng Chu hiệp, nhân gặp lúc tam sư đệ Ngũ Chấn qua Thiếu Lâm tự, tôi giữ y ở lại chùa tạm thay thế để đi Tô Châu ngay,
chẳng dè nửa đường gặp Đức Võ đạo huynh ở Lĩnh Nam trở về nên cùng kéo
thẳng đây. Vậy việc nhà chùa đã có Ngũ Chấn lo liệu giúp rồi.
– Nếu vậy thì hay lắm. Chẳng còn bao ngày nữa tới Nguyên đán rồi, sang thượng tuần tháng Giêng ta sẽ lên đường.
Chiêu Đức hỏi :
– Có ai đi theo nữa không?
– Tùy ý, trong năm anh em ai đi cũng được nhưng phải một người ở nhà điều khiển trang trại.
Nói đoạn, Trại Mạnh Thường quay lại hỏi :
– Các con, ai muốn cùng ta lên Bắc?
Năm người nhìn nhau có ý nhường nhịn. Thấy vậy, Lam Y nói ngay :
– Nhường nhịn nhau mãi, tiểu muội xin bàn thế này…
Tòng Cát hỏi :
– Lam Y muội bàn thế nào?
– Dễ tính lắm! Gia huynh và tiểu muội là người đất Bắc, vậy vấn
đề du hành lên Bắc không qua tâm. Bích Nữ tẩu tẩu đây sẽ có dịp về Bắc.
Ngoại trừ ba người vừa nói ra, chỉ còn có huynh trưởng Tòng Cát và nhị
huynh Tòng Đức đáng theo đại sư lên Yên Kinh chuyến này hơn cả. Tính vậy được không?
Trại Mạnh Thường cười hà hả :
– Lam Y tính gọn lắm rồi. Tòng Cát và Tòng Đức sẽ cùng đi ưng ý không?
Tòng Cát thưa :
– Lam Y đã có ý nhường, lẽ nào chúng con từ chối. Mùa Xuân được
viễn hành thăm đế kinh, thích thú nhất bực rồi. Hẳn là nhị đệ cũng nghĩ
như ngu huynh?
Tòng Đức gật đầu :
– Nhất định rồi.
Âu Dương Bích Nữ hỏi Tòng Đức :
– Thiết Hoàn Tử Hồng Trường Hải đi rồi sao, hả nhị huynh?
– Chưa, Hồng thúc phụ gặp Địch trại chủ ở đây mời vào Tam Môn
cốc chơi mấy ngày, mới đi hôm qua xong. Tiếc rằng không có Thiết Xích Tử tại đây để hai ông ma men ấy túy lúy càn khôn với nhau cho xứng đôi!
Nghe nói Thiết Xích Tử, Chiêu Đức Kiệt và Lam Y ngước nhìn Thượng nhân có ý hỏi thăm tin tức.
Đức Võ biết ý nói ngay :
– Trương Tam Sơn (tục danh của Thiết Xích Tử) hồi ở Kim Lăng
cùng đi với bần đạo xuống Lĩnh Nam. Bần đạo vào La Phù sơn còn y thì
chia tay cả miền duyên hải. Bởi vậy nên không cũng trở về đây. Nữa đường gặp Chiêu Đức hiền hữu mới hay việc các con đính hôn, bần đạo mừng rỡ
tạm gác cuộc du hành vào Côn Luân Sơn, cùng Thiếu Lâm sư trưởng về Âu
Dương trang.
Phần Âu Dương Bích Nữ nàng cũng kể chuyện họ Tề từ Lư Cầu kiều
xuống Nam tặng Trảm Lư hùng kiếm cho Lam Y, nhưng Lam Y nhường lại, cho
Chiêu Đức thiền sư nghe.
Thiền sư nói :
– A! Thảo nào hồi nãy ta thấy con đeo kiếm nên lấy làm lạ, thế ra cây chuyện như vậy đó? Lấy kiếm ta coi.
Âu Dương Bích Nữ vâng lời về phòng lấy trường kiếm đưa cho Sư trưởng xem.
Chiêu Đức thiền sư rút kiếm nhận xét kỹ, khen ngợi vô cùng :
– Ta mới tìm ra mấy đường kiếm rất lạ nhân dịp trước Tết rỗi rãi ta sẽ cùng các con và Chu gia song hiệp tham khảo.
Nghe Sư trưởng nói vậy, Âu Dương Bích Nữ, anh em Chu gia và Tòng Cát, Tòng Đức rất vui mừng.
Ba hôm sau, Thiết Hoàn Tử Hồng Trường Hải từ Tam Môn cốc trở về thấy mọi người đông đủ cả, bèn nói rằng :
– Hôm mỗ này qua lại đây nhiều lần mà chưa lưu chút kỷ niệm nào
cả, nhân đây xin trổ tài mọn hiến Âu Dương lão huynh bức Cổ Tòng Ân Thái Dương treo ở sảnh đường chơi.
Trại Mạnh Thường khen :
– Hảo ý đó! Đã nhiều lần tôi muốn yêu cầu lão đệ cho xin bức họa đặc biệt đó nhưng sợ lão đệ không khởi hứng nên đành bỏ qua. Cần dùng
dụng cụ gì?
Thiết Hoàn Tử nói :
– Một phiến lụa dày thiệt tốt, chiều ngang bằng chiếc chiếu, dài gấp rưỡi, năm chữ trang am ngay từ hôm nay, lọc kỹ. Một chậu mực cũng
màu ngay từ bây giờ mới kịp. Và sau cùng là sáu hồ hảo tửu thứ thượng
hạng.
Ngạc nhiên, Trại Mạnh Thường hỏi :
– Còn thiếu bút vẽ dùng những cỡ nào? Ngu huynh tò mò muốn biết lão đệ dùng rượu làm việc gì cho bức họa ấy?
– Hứ! Không cần bút họa nhưng cần rượu! Tôi cần đó, không có
rượu thì bức họa sẽ chẳng ra gì đâu, lão huynh đừng có trách nhé! Chừng
nào sắp xong mọi thứ, xin cho biết trước một ngày để còn dự bị.
Nghe Thiết Hoàn Tử nói đến rượu một cách thiết tha, mọi người nhìn nhau mỉm cười về cáo tật rượu của ông ma men.
– Lão đệ định vẽ ở đâu?
– Ở võ sảnh sàn gạch bông láng mịn như gương và rộng rãi.
– Mời mọi người đến xem cho vui, chẳng mấy khi ngu đệ cao hứng!
Trước hôm vẽ, Thiết Hoàn Tử nhịn ăn hẳn một ngày, chỉ thỉnh thoảng nhấp chút nước mưa và ngủ suốt ngày.
Hôm sau, ra võ sảnh, Thiết Hoàn Tử kiểm soát lại nào chu sa, nào mực, nào rượu hết thảy đều vừa ý.
Tấm lụa lớn đã được căng ra giữa sảnh.
Thiết Hoàn Tử nói với Trại Mạnh Thường :
– Giờ Tỵ mời mọi người lại xem, bây giờ xin phép cho tiểu đệ được ở một mình trong sảnh.
Biết Thiết Hoàn Tử là một dị nhân nhưng võ nghệ siêu quần, công
phu luyện tập nội công đề khí đã đạt tới mức nhập điệu cao siêu,.
Thiết Hoàn Tử khép các cửa lớn nhỏ lại, lựa lấy ở giá khí giới,
hay cây mộc ôn đều nhau, dễ ở bên tấm lụa, Đoạn ngồi xếp tròn trên mặt
gạch bông. Thiết Hoàn Tử mở hồ rượu ra ngửi, mùi thơm ngào ngạt khiến ai không thích cũng phải thèm nhỏ dãi. Nốc thẳng một hơi, Thiết Hoàn Tử
liệng hồ không đi, mở hồ thứ nhì nốc ừng ực như trâu uống nước.
– Tặc lưỡi khoan khoái, Thiết Hoàn Tử lẩm bẩm :
– Chà! Rượu ngon qua! Một ngày một đêm không uống, khát chết mất!…
Thế rồi cứ tì tì hết hồ nọ đến hồ kia, Thiết Hoàn Tử uống luôn
một chặp hết nhẵn cả sáu hồ rượu tuyệt ngon thơm, đoạn loạng choạng lăn
ngay ra đó ngủ khò khò.
Đúng giờ hẹn, Trại Mạnh Thường, Đức Võ Thượng Nhân, Chiêu Đức
thiền sư, Tam hiệp, anh em Âu Dương cùng các thực khách và nhân viên
trong trang tụ hợp cả ngoài sân trước võ sảnh, chờ xem Thiết Hoàn Tử trổ tài hội họa!
Đến giờ rồi Trại Mạnh Thường nóng ruột bèn tiến lên trước mở cửa ra xem. Mọi người theo sau, kéo cả vào trong sảnh mở các cửa ra cho
sáng.
… Nhưng ai nấy đều ngạc nhiên vì nhà hội họa đang ngáy khò khò trên mặt gạch, hồ rượu không bị liệng lung tung mỗi nơi một cái.
Mọi người phát tức cười nhìn nhau, nghi ngờ.
Trại Mạnh Thường nhìn Thượng nhân và Thiền sư :
– Say khướt thế kia thì Trời Đất cũng không biết chớ đừng nói gì họa nữa.
Âu Dương Tòng Cát nói :
– Con đinh ninh là Hồng thúc thúc lấy rượu để pha chi đó vào chu sa hay mực họa, ngờ đâu là để… uống bí tỉ.
Ai nấy đều ồ lên cười. Vừa khi ấy Thiết Hoàn Tử trở mình nằm ngửa ra vươn vai, duỗi chân chuyển lắc.
Từ nãy giờ, mọi người chú ý đến kẻ say rượu nên không nhận ra chậu chu sa cũng bị vơi hẳn đi hai phần ba.
Lam Y chỉ tay bảo Đức Kiệt :
– Kìa chậu chu sa bị vơi gần hết!
Đức Kiệt gật đầu :
– Ờ, ngu huynh nhận thấy rồi. Dị nhân này có lẽ để hơi dùng thần khí chi đây chớ không họa như người thường đâu.
Âu Dương Bích Nữ đứng kề bên cũng nói :
– Mà đã vị tất là say, vươn vai, cất chân thế kia không có vẻ say li bì!
Lúc đó, Thiết Hoàn Tử mắt nhắm nghiền, hô hấp đều hòa.
Lát sau, bỗng quẩy mình đứng phắt hẳn dậy. Thiết Hoàn Tử xỏ chân vào đôi giày cỏ mới nguyên, vươn tay hô hấp mạnh, mắt đăm đăm nhìn vào
quãng không như không hề để ý đến mọi người xúm quanh dãn rộng ra.
Tiến đến bên phiến lụa dày căng thẳng, Thiết Hoàn Tử dang tay,
hít không khí, nhảy vào giữa phiến lụa, há miệng thổ ra toàn nước đỏ như huyết, khiến các thực khách và nhân viên trong trang đều giật mình.
Ngoài trừ ba vị tiền bối về võ thuật và năm thanh niên nam nữ tuấn kiệt
lúc đó đã nhận định thấy giá trị của Thiết Hoàn Tử.
Dị nhân thổ rất quy củ và có phương pháp. Nước đỏ vọt ra trên
mặt lụa tròn như vừng Thái Dương đỏ ối. Thiết Hoàn Tử cúi xuống dùng tay hữu thoa cho vừng đỏ được tròn hoàn toàn hơn theo ý muốn, đoạn phun phì phì nước đỏ khắp xung quanh, gần thẩm, xa lợt thiệt khéo. Xong xuôi,
Thiết Hoàn Tử nhảy ra ngoài gạch, cởi áo ngoài chùi tay lau miệng.
Chu sa có lẫn rượu, khô rất lẹ. Chờ một lát, Thiết Hoàn Tử nịt
ống quần lên tới đầu gối, cầm hai cây mộc côn đi đến bên chậu mực thiệt
xanh, chống côn xuống đất thành hai cái nạng, nhúng cả hai bàn chân vào
mực ngập đến nửa cặp thảo hài…
Tay sẵn chống mộc côn thăng bằng cứng nhắc, Thiết Hoàn Tử co
chân gợt nhẹ vào miệng chậu cho khỏi rớt mực rồi nhảy thẳng vào phiến
lụa, co chân hoặc tả, hoặc hữu thành Hạc tấn, nhảy đi nhảy lại một hồi.
Hai chân đập lẹ làng trên mặt lụa y hệt ngọn bút lông của nhà hội họa
đại tài phóng họa cây tòng, thân và cành lá uốn éo khúc khuỷu, nét đậm,
nét lợt cực kỳ mỹ thuật. Chừng nào hết mực ở thảo hài, Thiết Hoàn Tử lại chống hai cây côn đến nhúng thêm mực và tiếp tục họa xong cây lão tòng.
Xong nét chấm sau cùng, Thiết Hoàn Tử chống côn nhảy phắt ra sàn gạch, tụt bỏ đôi thảo hài thấm mực.
Gia đinh đã lấy sẵn nước rửa chân và giày mới.
Thiết Hoàn Tử sửa soạn xong, lúc trở vào thì đã thấy lão anh
hùng Trại Mạnh Thường cho căng bức họa lên tường để mọi người thưởng
thức.
Tác phẩm ấy cực kỳ linh động. Vừng Thái Dương đỏ lừ tỏa ra muôn
vạn tia sáng lấp lánh hào quang, càng nhìn lâu, người xem có cảm tưởng
như đang đứng trước cảnh thật, ánh thái dương chói lọi linh động dị
thường.
Còn cây lão tùng thì vươn mình uốn éo án hẳn một gốc vừng thái dương, nét họa đơn sơ già dặn.
Nếu là một người lạ không được trông thấy Thiết Hoàn Tử thở chu
sa và dùng chân đi thảo hài tạo ra bức họa hiếm có ấy, thì phải tưởng
rằng đó là nét bút của nhà hội họa trứ danh.
Thiết Hoàn Tử nhúng ngón tay vào mực viết mấy chữ thảo vào góc bức họa Hán Dương, “Thiết Hoàn Tử, Hồng gia thân tặng”.
Nét chữ cự kỳ bay bướm.
Trại Mạnh Thường vái Thiết Hoàn Tử :
– Không ngờ tài hội họa của lão đệ lại phát xuất do công phu
luyện tập, tôi xin đa tạ và thay mặt cử tọa đây chúc mừng tài độc nhất
vô nhị đó.
Thiết Hoàn Tử cười khà :
– Chà! Đi lại Âu Dương trang bao lâu nay, bây giờ mới được tặng
lão huynh một bức họa kỷ niệm nhỏ mọn này có đáng giá gì mà chú trọng?
– Uống sáu hồ rượu lúc nãy ngon quá nhưng trả lại cả trên bức
họa rồi. Nếu lão huynh thương tình, xin cho phép dùng rượu ngay kẻo
trùng rượu đang đục thủng bao tử đây! Chà khát quá.
Mọi người nghe tửu vương nói đều khúc khích cười.
Trại Mạnh Thường vỗ vai Thiết Hoàn Tử :
– Tưởng gì khó chớ rượu thì đã bày sẵn trên sảnh đường rồi. Nào ta về uống thì vừa.
Thiết Hoàn Tử về tư phòng rửa mặt thay áo, trong khi Trại Mạnh Thường cùng Thượng nhân và Sư trưởng kéo cả về đại sảnh.
Lão anh hùng truyền lệnh cho thợ mộc trong trang đo kích thước bức họa làm hai cây trục để treo ngay trên sảnh.
Hôm ấy Đức Võ Thượng Nhân và Chiêu Đức thiền sư ngồi chung một
thồi tiệc chay. Trại Mạnh Thường, Thiết Hoàn Tử cùng năm vị nam nữ anh
kiệt ngồi chung thồi tiệc mặn kế bên.
Cuộc vui kéo dài đến quá giờ Mùi mới tan. Thiết Hoàn Tử say túy lúy càn khôn, Tòng Đức phải bế về phòng an nghỉ.
Mấy hôm sau hai cây trục bằng gỗ trầm hương tuyệt đẹp và nhẹ đã hoàn thành.
Bức họa quý của Thiết Hoàn Tử được treo ngay trên bức tường lớn
trong cùng đại sảnh, dưới bức hoành phi bằng gỗ mun đen láy nạm thạch
ngọc thành bốn chữ Quần Anh Tụ Hội”.
(Bức họa Lão Tòng Án Thái Dương có nguyên chữ đề tặng của Thiết
Hoàn Tử, đến thời Dân Quốc còn được để trong Bảo Tàng Viện Tống, Nguyên, Minh. Khi Nhựt gây hấn ở Lư Cầu kiều và đột nhập Bắc Kinh thì một phần
lớn đồ quý trong Bảo Tàng Viện không kịp được dời về Nam Kinh nên rơi
vào tay Nhựt quân, trong đó có cả bức cổ họa nói trên. Không hiểu bức
họa đó phải là bức do Thiết Hoàn Tử tặng họ Âu Dương hay là bức khác mà
cùng một tác giả).
Trong hạ tuần tháng chạp, thừa dịp nhàn rỗi, Chiêu Đức thiền sư
đem mấy thế kiếm mới ra cùng Tam hiệp và Tòng Cát, Tòng Đức tham khảo
cho thật hoàn bị. Nhờ vậy, năm anh em lại càng như rồng thêm cánh hổ
thêm nanh, lợi hại vô cùng.
Trong trang, việc sửa soạn đón Xuân thiệt là nhộn nhịp. Lập đông từ hôm mười hai, trời lạnh căm căm. Trong huệ viên các thứ cây đều trổ
nụ tươi tắn chờ Xuân tiết khai nhụy. Đó đây, những gốc đào, gốc mai xanh tốt rung rinh trước gió làm rụng mấy cánh bông trổ sớm lác đác trên mặt cỏ mượt tựa thảm nhung êm dịu.
Ngày ngày, ba vị lão bối cùng Thiết Hoàn Tử ngồi uống rượu ngoài Mẫu Đơn Đình đàm luận cổ kim và tính việc ngoài giêng đi Yên Kinh.
Thiết Hoàn Tử nói :
– Chừng nào các vị lên Bắc, tiểu đệ cũng vào Tứ Xuyên chơi, thăm bạn Nếu chuyến vừa rồi không ở Yên Kinh xuống đây thì tiểu đệ sẽ cùng
đi, vui bao nhiêu. Tiếc quá!
Trại Mạnh Thường nói :
– Lão đệ nay đó mai đây, tiêu dao ngày tháng, vấn đề thời gian
không có gì đáng kể, chi bằng cùng bọn tôi đi Yên Kinh, lúc về sẽ hay.
Mấy khi gặp dịp được cùng nhau đồng hành?
Nghe Trại Mạnh Thường nói có lý, Thiết Hoàn Tử ưng thuận cùng lên Bắc ngay :
– Lão huynh đã dạy như vậy, tiểu đệ xin tuân theo, Khi ở Yên Kinh trở về, sẽ vào Tứ Xuyên cũng được.
Trại Mạnh Thường nói :
– Ngu huynh lên Yên Kinh có việc chớ không nhàn hành đâu. Hiền đệ ở kinh đô nhiều hơn may ra giúp ít được phần nào chăng?
– Việc chi vậy.
Trại Mạnh Thường đem ý định của mình nói cho Thiết Hoàn Tử nghe.
Thiết Hoàn Tử gật đầu :
– Lão huynh nghĩ như thế cũng chu đáo lắm, nhưng chốn Hoàng Cung lầu nọ các kia rộng lớn vô cùng, biết nhà Vua ở đâu mà tìm?
Suy nghĩ giây lát, Thiết Hoàn Tử nói :
– Tiểu đệ có quen gia đình một người làm thái giám trong Hoàng cung, chừng nào tới Yên Kinh, ta sẽ thăm dò xem sao.
– Được như vậy hay lắm!
Muôn hoa đua nở đón xuân về trong cảnh sắc tưng bừng náo nhiệt.
Toàn thể Âu Dương trang như cả một bó bông khổng lồ. Trà đỏ, đóa hồng,
mai trắng, cúc vàng lung linh trước gió Xuân, Ngoài Mẫu Đơn Đình, những
chặng mẫu đơn Giang Nam, bách, hồng đua nhau nở bông, hương thơ, ngào
ngạt chen lẫn với những giàn hồng muôn sắc.
Âu Dương phu nhân có tài đặc biệt về môn tỉa thủy tiên, bà dạy
cho mấy tên a hoàn hầu cận, nên năm nào trong nhà cũng đầy thủy tiên nào là màu hồng, lá xanh bông trắng bày trong các bát cổ hoặc chậu xứ. Thứ
hương hồng cao quý ấy tỏa lẫn với khói trầm nhẹ bó trên bàn thờ. Gia
tiên đèn nến sáng rực.
Trước sau pháo màu hồng nổ đầu sân. Người lớn trẻ con xúng sính
trong y phục mới muôn màu muôn sắc, chúc nhau những câu tốt lành.
Từ hôm mồng Một, còn từ mồng Hai trở đi, khách Tô Châu và các nơi lân cận đến thăm hỏi chúc tụng rất đông.
Một mình Trại Mạnh Thường đi đáp lễ không xuể nên Tam hiệp và Tòng Cát, Tòng Đức phải chia nhau đi mọi nơi chúc Tết.
Cúng rằm xong, qua hôm mười tám tốt ngày, Trại Mạnh Thường, Đức
Võ Thượng Nhân, Chiêu Đức thiền sư, Thiết Hoàn Tử và Tòng Cát, Tòng Đức
lên ngựa đi Yên Kinh.
Tam hiệp tiễn ra tới Tô Châu mới chia tay.
Lúc trở về chưa quá Ngọ, ba người rủ nhau vào Tô Châu chơi. Trừ
các tửu lầu, chỉ mới có vài tiệm buôn khai trương, toàn thể thị trấn hãy còn đầy hương vị Tết. Trên khắp mọi nẻo đường, nào khách bộ hành, nào
ngựa xa tải giai nhân dập dìu đi chơi Xuân trong cánh sắc tưng bừng của
thị trấn danh phong nhã hoa hào.
Tuy vậy, cũng không thoát được lệ thường là có những bậc vương
tôn công tử con đại phú gia nhân dịp đầu Xuân nhiều giai nhân ra phố
phường, kiếm đường đón yến tìm oanh.
Từ các tửu lầu, ca viện vọng ra muôn điệu đờn ca khoan nhặt, nhịp nhàng.
Lầu nào cũng đầy thực khách, ai đến trễ khó kiếm được một thồi trống, tửu lầu lớn nhỏ mọc lên như nấm không kể siết.
Chu Đức Kiệt rủ Lam Y và Âu Dương Bích Nữ :
– Anh em ta đến Lăng Vân các uống rượu đi.
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Đông lắm, chắc gì còn chỗ!
– Ta cứ tới xem sao, nếu không sẽ kiếm nơi khác vậy.
Ba người liền rẽ xe ngựa vào Kim Ân lộ tìm nơi đỗ xe.
Người coi xe quen mặt thấy người nhà Âu Dương trang tới vội chậu đến chào :
– Kính chào Thiếu gia và nhị vị tiểu thư du Xuân.
Đức Kiệt phong bao cho người ấy :
– Ta để xe đây nhé, chừng nào về sẽ đến lấy.
Tam hiệp đến thẳng tòa tửu lầu ba từng cao vời vợi choán hai mặt đường.
Viên quản lý đứng ngay ngoài cửa lầu đón khách.
Thấy Tam hiệp tới, y trịnh trọng chức mừng và hỏi :
– Hôm nay đệ nhất và đệ nhị thiếu gia không cùng đi.
Đức Kiệt đáp :
– Hai vị đó du hành lên Bắc rồi. Còn chỗ tốt không, tiên sinh.
– Dạ, trên lầu ba còn đúng một thồi, khách mới đi, xin mời ba vị lên cho.
Tam hiệp qua hai từng đợi, từng nào cũng đầy thực khách sang
trọng cả nam lẫn nữ xiêm y lộng lẫy. Trái lại với Lam Y và Âu Dương Bích Nữ, hại nữ hiệp vận võ phục bằng gấm lam và gấm đỏ sẫm, ngoài mặc đại
bào, chân dận hài thêu kim tuyến vừa gọn ghẽ vừa lộng lẫy mà không bớt
vẻ anh thư hùng dũng. Hai sắc áo tuyệt đẹp ấy, Lam Y, Âu Dương Bích Nữ
vẫn ưa dùng làm tôn nước da trắng hồng như bột gà bóc với khuôn mặt trái xoan của hai người.
Bữa đó Chu Đức Kiệt vận bộ võ phục và đại bào đồng màu lục vân
trắng, tóc búi trần chân vận cặp ủng nhung đen, uy võ như Lử Bố tái
sanh.
Các thực khách ai nấy đều chăm chú nhìn ba người đi vào, sự khen thầm và thèm muốn ước ao hiện trên mắt họ.
Bọn vương tôn công tử đàng điếm không biết Tam hiệp là người họ
Âu Dương, thấy Lam Y Âu Dương Bích Nữ kiều diễm thì thầm nói với nhau
những câu khinh bạc, nhưng lúc bất chợt gặp phải luồng mắt như điện
quang của ba người chúng lại tự thấy yếu đuối, bẽn lẽn cúi đầu chớp mắt
nhìn đi nơi khác để che đậy những ý nghĩ xấu của chúng.
Lên tới lầu ba, viên phụ trách ân cần mời Tam hiệp đến chỗ ngồi. Đức Kiệt gọi rượu thượng hảo và mấy món ăn.
Chờ tửu bảo đi khỏi, chàng nói :
– Cũng may hôm nay nhị vị hiền muội vân vệ phục làm nổi bật vẻ
cân quắc anh thư, chớ nếu vận xiêm y tha thướt, tất thế nào cũng không
tránh khỏi bị bọn công tôn khinh bạc đón đường trêu cợt, và có lẽ đến
xảy ra ẩu đả mất!
Âu Dương Bích Nữ âu yếm nhìn Đức Kiệt :
– Thế còn hiền huynh oai hùng như Triệu Tử Long kế bên hộ tống thế này thì bỏ đi sao?
Lam Y ranh mãnh mỉm cười nhìn hai người :
– Tiểu muội để ý thấy mỗi chuyến có cậu công tử nào nhìn trộm
hiền tẩu thì Chu huynh quắc mắt như thiên lôi nhìn lại khiến người ấy
chi còn thiếu… đui mắt thôi đó!
Âu Dương Bích Nữ cười dòn dã :
– Bởi vậy nên không bao giờ tôi dám đi xa Chu huynh, e bị bắt nạt đó!
Đức Kiệt nhìn Âu Dương Bích Nữ, nửa đùa nửa thật.
– Ai dám trêu vào Thiết Phiến Cô, dữ như sư tử cái vậy! Ngu
huynh còn nhớ hôm mới gặp hiền muội trên Thanh Dương hồ một mình đánh
bọn Mộng Hoa Vương, Điệp Thoại Tân bên Dương Châu, trông thiệt dữ dội
nhưng đáng mến quá. Ngu huynh không ưa thứ phụ nữ yếu đuối trang điểm
kiều diễm thỏa mãn mỹ quan, nhưng chẳng qua chỉ làm bia cho bọn vương
tôn khinh bạc trêu cợt mỗi khi họ ra khỏi nhà.
Lam Y khẽ nguýt Đức Kiệt :
– Hiền huynh hãy đến xem trong thiên hạ được mấy người như cô gái Thiếu Lâm?
Đức Kiệt phản đối :
– Hiền muội chớ cười ngu huynh chủ quan. Nói sơ sơ thôi, hiện
tại bên mình ngu huynh cũng có hai vị nữ trung hào kiệt, khách mày râu
đã mấy người theo kịp? Trong tỉnh Sơn Đông tính trung bình cứ mười phụ
nữ thì có tới chín người biết côn quyền dù không đạt tới mực cao siêu,
nhưng cũng đủ sức tự vệ chống lại bọn côn đồ lưu manh, bảo toàn danh
tiết. Ngoài ra trên bước đường giang hồ, chúng ta đã chẳng từng gặp khoa nhiều bạn quần thoa tinh thông võ nghệ đáng kính phục đó ư? Ngu huynh
không nói rằng bạn thoa quần nào cũng phải tinh thông võ nghệ mới đáng
yêu quý nhưng theo ý thích cá nhân ngu huynh thiên về phía phụ nữ có
công phu luyện tập hơn.
Lam, Y nhìn Âu Dương Bích Nữ :
– Đó tẩu tẩu coi! Thảo nào kén cá chọn canh mãi, ai Chu huynh
cũng chê, đến ngay gặp hiền tẩu là một trong mấy cao đồ của Sư Trưởng và cũng là đệ nhất nữ môn đồ Thiếu Lâm tự, tài sắc vẹn toàn nên Chu huynh
mới thấy con tim rung động cùng tẩu tẩu gá nghĩa trăm năm đó.
Âu Dương Bích Nữ đôi má ửng hồng, kín đáo nhìn vị hôn phu yêu mến đáng kính.
Chu Đức Kiệt cảm thấy nóng lòng dào dạt, hồi hộp, rung động trước cặp mắt long lanh tình tứ của co gái Thiếu Lâm diễm kiều.
Chàng biết Lam Y có công rất nhiều trong việc xây dựng cuộc hôn
nhân của mình. Có tài sắc như Lam Y, không thiếu gì người mê luyến ao
ước được đóng vai khách đông sàng. Đành rằng có nhiều người không lọt
mắt xanh, nhưng, như gần đây, anh em họ Âu Dương há không phải là người
đầy đủ tài ba xứng đáng với nàng sao? Chính vì để xây dựng cuộc hôn nhân giữa mình và Âu Dương Bích Nữ, nên nàng đã cố tâm hờ hững gần như vô
tình với Tòng Cát, Tòng Đức. Vì chàng, Lam Y đã quên hẳn mình. Nàng đã
quên hẳn mình và hầu như muốn gác bỏ hẳn việc lập gia đình để được luôn
luôn ở bên người anh thân yêu độc nhất của nàng.
Mồ côi mẹ từ khi còn tấm bé, lớn lên lúc thành tài trở về thì
cha cũng quy tiên không được gặp mặt. Gia đình chỉ còn vẻn vẹn có hai
anh em chung sống trong trang trại rộng lớn ở Bình Dương huyện. Biết
vậy, chàng hết sức chiều chuộng Lam Y, luôn luôn săn sóc nàng như cha
săn sóc con, những mong bù đắp được phần nào tình phụ mẫu với cô em duy
nhất thân yêu.
Giờ đây, mối lương duyên của chàng đã được định đoạt, nhưng tính sao cho Lam Y khỏi cảnh phòng không chiếc bóng!
Chu Đức Kiệt mãi nghĩ đến nỗi quên cả tửu bảo vừa bày xong tiệc
rượu và đang chờ chàng cho phép rót rượu vào Lam Y lớn hay ly nhỏ.
Âu Dương Bích Nữ nhắc :
– Kìa, Chu huynh, tửu bảo chờ lệnh rót rượu.
Giựt mình, Đức Kiệt bảo tửu bảo :
– Cho ngươi tự tiện, ta rót rượu lấy. Cần gì sẽ gọi thêm, nghe?
Tên tửu bảo sang thồi khác. Đức Kiệt rót rượu vào ba ly nhỏ. Lam Y đăm chiêu nhìn anh :
– Vừa rồi hiền huynh nghĩ gì vậy?
Đức Kiệt cảm thấy như Lam Y đã đoán được chàng nghĩ những gì, toan nói lảng thì nàng đã nói tiếp :
– Tiểu muội biết hiền huynh vừa nghĩ gì rồi. Đành rằng tình anh
em phải lo cho nhau nhưng trông thấy hiền huynh và tẩu tẩu đề huề, tiểu
muội rất lấy làm mãn nguyện. Gia đình của tiểu muội trước có mình hiền
huynh, nay thêm tẩu tẩu và ít nữa sẽ có cháu nhỏ. Song thân mất sớm,
tiểu muội cầu mong được sum họp với nhau mãi mãi… Nào, mời hiền huynh
và tẩu tẩu uống đi chớ?
Nàng nâng ly mời hai người. Đức Kiệt nâng ly âu yếm nhìn em.
Âu Dương Bích Nữ biết ý vui vẻ cụng ly :
– Xin mừng sự sum họp mãi mãi của gia đình chúng ta.
Tam hiệp cùng uống một hơi cạn chén.
Ba người vui vẻ chuyện trò, nhìn xuống đường xem người ta tấp nập đi qua lại nhàn du buổi đầu Xuân.
Âu Dương Bích Nữ hỏi Lam Y :
– Những đại trấn miền Bắc cũng nhộn nhịp lắm phải không?
– Lớn chớ, nhưng trạng thái khác nhau. Chúng ta đều qua chơi Tô
Hàng và Dương Châu là ba thị thành nổi tiếng đất Giang Nam. Người nhiều, đất rộng, thương mại phồn thịnh, lầu các nguy nga, duy dân chúng qua
lại trên đường có vẻ văn hiến nho nhã từ cử chỉ đến y phục. Trái lại,
dân Bắc phần đông vóc người vạm vỡ cao lớn, dù biết võ hay không họ
thường trang phục gọn gàng nên bề ngoài có vẽ hiền hơn.
Nói riêng về Sơn Đông là sanh quán của Chu huynh và tiểu muội,
dân chúng hoàn toàn võ biền hơn các nơi khác từ người lớn đến trẻ nhỏ.
Họ thích võ trang. Ra khỏi nhà là mang đoản khí khiến người xứ khác tới
có thể tưởng tượng được rằng võ khí thuộc phần kiểu cách trang phục của
người ta.
Thiệt ra không phải vậy. Không nhiều thì ít, họ đều biết võ
nghệ. Mỗi khi ra khỏi nhà mà không võ trang thì họ cảm thấy thiếu, một
thứ gì. Bởi vậy giàu cũng như nghèo, người ta chú ý nhiều đến cái đẹp và tốt của võ khí.
– Tỉ dụ như một người ưa dùng kiếm hay đao, họ thận trọng đến cả màu sắc của chiếc bao vải và dây. Đao là chưa nói về hình thức và phần
chạm trổ, dát đồng bạc vàng hay ngọc. Cầu kỳ lắm!
Cứ trông võ khí ta có thể ước đoán chủ nó giàu có, trung lưu hay nghèo nàn. Nhưng cũng nhiều khi lầm vì có những kẻ nghèo mà đeo một
thanh đao hay kiếm tốt và sang trọng.
Ít nữa trở về Sơn Đông, hiền tẩu sẽ mục khích sự kiện này ở bất cứ phủ huyện nào.
Âu Dương Bích Nữ lấy làm thích thú :
– Như vậy cũng đặc biệt đấy chớ. Người xứ lạ không biết võ nghệ tới đó tất phải hết hồn.
Lam Y cười :
– Nhưng người ấy sẽ có tinh thần thượng võ ngay sau một thời gian chung sống.
Chu Đức Kiệt nói :
– Uống đi chớ, hai chị em mãi chuyện trò nguội cả rồi.
Giữa lúc ấy, ở dưới đường có hai người đi xe ngựa tới.
Âu Dương Bích Nữ trông thấy trước vội nói :
– Kìa, Địch trại chủ và Phượng Tiên. Có lẽ hai cha con lên lầu.
Đức Kiệt nói :
– Vào đây chắc hết chỗ rồi, nếu nhị vị hiền muội đồng ý, ngu huynh sẽ mời họ ngồi chung.
Lam Y đáp :
– Càng vui. Để tiểu muội đứng ra lan can cho họ trông thấy.
Âu Dương Bích Nữ cũng đẩy ghế đứng lên cùng Lam Y bước ra khẽ lầu.
Gởi xe xong cha con Địch gia chợt nhìn lên lầu Làng Các thấy Tam hiệp đang vẫy tay gọi.
Phượng Tiên mừng quá, hai cha con lên lầu ba cùng Tam hiệp thi lễ.
Tửu bảo lấy thêm ghế, dẹp các món ăn cũ đi để bày tiệc mới.
Địch Lân hỏi :
– Quý vị ra Tô Châu chưa?
Đức Kiệt đáp :
– Thưa lão bá, hôm nay tiễn nhạc gia lên Yên Kinh nên tôi ra Tô Châu sớm.
– Hôm mồng bốn Tết gặp nhau, lệnh nhạc phụ có nói chuyện với tôi về vụ du hành này, nếu không bận việc nhà thì tôi đã cùng đi rồi. Đáng
tiếc!
Trong khi Địch Lân và Chu Đức Kiệt chuyện trò, Địch Phượng Tiên
cùng Lam Y và Âu Dương Bích Nữ tay bắt mặt mừng hỏi thăm nhau ríu rít.
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Tú Kiều tẩu tẩu nhắc đến hiền tỉ luôn, chừng nào rỗi rãi xin cứ tùy tiện nhé.
Phượng Tiên đáp :
– Dạ, độ này không được rảnh lắm, ít khi ra khỏi trại chớ không
phải vì ngại ngùng mà không đến hỏi thăm quý vị cùng Tú Kiều đâu.
Lam Y bảo Phượng Tiên :
– Tòng Cát đại huynh theo lão anh hùng đi Yên Kinh. Tú Kiều ở
nhà một mình buồn, hiền tỉ nhân dịp này đến thăm chắc chắn chị ấy vui
mừng lắm.
Địch Lân nghe vậy liền nói :
– Sáng mai con sang thăm Tú Kiều sớm, rồi mời quý vị đây cùng đi coi Giang Tả Cầu Hôn ở Tô Châu hí viện cho vui, toàn đào kép trứ danh
thủ vở hay lắm.
Nghe phụ thân dạy như vậy, Phượng Tiên hỏi :
– Quý vị có đồng ý mai mời Tú Kiều đi coi hát không?
Âu Dương Bích Nữ đáp :
– Có chứ, gia mẫu dễ dàng lắm. Hiềm vì nỗi Tú Kiều tẩu tẩu hông võ biền như chúng ta nên chỉ gần nhau tùy từng lúc thôi.
Để ba thiếu nữ chuyện với nhau, Đức Kiệt hỏi Định Lân :
– Lão bá có được tin gì về Dương Hoa Ngọc không?
– Đầu tháng Chạp năm rồi tôi có nhận được thơ y hỏi thăm. Theo
lời lẽ trong chợ, y có lẽ đang cửa võ đường ở Nghĩa Hưng và đi du lịch
mấy nơi, thành thử tôi đánh gác bỏ ý định xuống Nghĩa Hưng để gặp y. Tôi vẫn Tiếc vụ y bất chợt bỏ đi. Sau này lỡ có gặp Hoài Ngọc, tôi cũng nói là lão bá mong chờ y nhé?
Địch Lân gật đầu :
– Tôi cũng đang định yêu cầu đại hiệp việc ấy.
Năm người ăn uống đã qua giờ Mùi, Tam hiệp trả tiền hàng từ giã
cha con Địch gia về Âu Dương trang trước. Âu Dương Bích Nữ đem việc gặp
Địch Phượng Tiên nói lại cho Tú Kiều nghe Nàng mừng rỡ được tin bạn vì
đã hai ba tháng nay, Phượng Tiên không lại thăm.
Âu Dương Bích Nữ rủ Tú Kiều vào nói với Âu Dương phu nhân xin phép đi coi hát.
Phu nhân đang ngồi nói chuyện với Phượng thái thái ưng thuận mà rằng :
– Mẹ không ngăn cấm, nhưng Tú Kiều vốn chân yếu tay mềm, các con phải bảo vệ nó, đừng để xảy ra chuyện gì đáng tiếc, chồng nó về lại
trách cứ mẹ nghe?
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Tẩu tẩu đi với con có cả Lam Y và Chu lang cùng đi, còn xảy ra chuyện gì đáng tiếc được nữa, thưa mẫu thân?
– Ấy là mẹ cẩn thận căn dặn con như vậy, có giữ có lành.
Hôm sau. Địch Phượng Tiên đi ngựa một mình đến sớm vào lạy Âu
Dương phu nhân và Phương thái thái rồi ra đại sảnh họp mặt cùng mọi
người.
Tú Kiều gặp Phượng Tiên như bắt được vàng :
– Từ ngày ở riêng đến nay, tôi mới gặp hiền tỉ được hai chuyến. Quên nhau rồi hả?
Phượng Tiên niềm nở cầm tay bạn thiết :
– Đâu có! Cũng như thường niên, trước Tết súc vật về nhiều, các
lái qua lại mua bán rất đông nên bận rộn không bỏ thì giờ sang đây thăm
hiền muội được. Hôm qua đã gởi lời nhờ Âu Dương muội và Lam Y nữ hiệp
nói lại rồi mà? Ra Giêng rỗi rãi, chị em ta sẽ gặp nhau luôn. Thật nhé!
Phượng Tiên phì cười :
– Không thật thì nói dối ư?…
Mọi người cùng cười vui vẻ.
Âu Dương phu nhân sai a hoàn dọn cơm, rượu cho năm người ăn sớm để ra Tô Châu xem hát.
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Phượng Tiên hiền tỉ ngồi xe với chúng tôi, nhường ngựa cho Chu huynh cỡi. Khi trở về, chúng tôi sẽ qua Tam Môn cốc rồi mới về nhà.
Suốt từ hôm đầu năm đến nay, rạp Tô Châu Hí Viện trình diễn toàn ngừng vở tuồng rất đặc sắc vui hay, mà các vai chánh đảm nhiệm bởi đào
Hoàng Phi Giao và kép Tiểu Mộng Lân là hai tài tử hữu danh Nam Bắc thời
bấy giờ, nên rạp hát lúc nào cũng đông nghẹt.
Giàu có, nghèo có ai ai cũng đi coi hát vui để đón lấy cái hên
cho toàn niên. Các vị thiên kim tiểu thơ thường ngày kín cổng cao tường
biết mấy, cũng nhân dịp này được theo hoặc cha mẹ, hoặc huynh đệ, điểm
trang lộng lẫy, xiêm y là lụa gấm vóc cực kỳ sang trọng đi coi hát.
Bởi vậy các vương tôn công tử thứ chính hiệu cũng có rủ nhau đi
coi hát thì ít, nhưng để ngắm người đẹp cho sướng mắt thì nhiều. Vì thế
nên hay xảy ra những vụ áp bức kéo bè đảng trêu cợt các thiếu nữ không
được bảo vệ chắc chắn. Gia dĩ có cả những trận xung đột ẩu đả do hai phe công tử vương tôn chỉ vì tranh nhau người đẹp…
Trước cửa Tô Châu Hí Viện là một công trường đất nền, trồng cây
cối xanh tươi bóng mát. Các quán giải khát tạm thời nhân dịp tân niên
mọc ra như nấm.
Khán giả trung lưu và hạ lưu trước khi vào rạp hay sau kho ở rạp hát ra đều kéo nhau ngồi ăn uống chuyện trò ba hoa, bình phẩm vở hát và tài năng của các tài tử thủ vở, kẻ khen người chê vô cùng sôi nổi.
Ngoài ra còn những người không đi xem, nhưng cũng kéo nhau ra đấy nhậu
nhẹt tranh luận về đủ mọi vấn đề. Không những vậy, bọn lưu manh vô lại
được dịp trưng bày áo quần ra trước cửa rạp nghênh ngang đón nhìn các
thiếu nữ hoặc thiếu phụ, lấm lét nhìn như quạ vào chuồng heo, tùy theo
trường hợp thả lời bỡn cợt khả ố. Bên tả công trường là nơi các kiệu
phu, xa phu tụ họp khá đông đảo, chờ khách khi tan rạp.
Ngay tại công trường, còn có những cuộc vui khác biểu diễn ngay
ngoài trời. Số người xúm quanh xem cũng không ót. Đó là những trò múa
roi, leo dây và mãi võ. Họ thường từ xa lưu động qua thị trấn, thấy nơi
đông đảo thì ngừng lại trình diễn.
Bởi vậy, ở xóm công trường ấy có một bọn côn đồ cậy có sức khỏe
và biết dăm ba miếng võ hoành hành, ngang nhiên bắt những người làm trò
lưu động diễn ở công trường phải nộp bách phần tùy theo số tiền thưởng
thâu được nhiều hay ít. Nếu không nộp, chúng sẽ áp bức khiến bọn làm trò phải dời đi nơi khác hoặc đánh cho một trận tơi bời rồi mới đuổi đi.
Đầu đảng vốn là tên vô lại họ Phùng tên Mậu Cảnh.
Mậu Cảnh trạc ngoại tam tuần, lực lưỡng diện mạo hung ác, lông
mi chổi xuể, mắt ốc nhồi, mặt lúc nào cũng đỏ gay như người say rượu.
Y vốn là người Quảng Đông lưu lạc lên Tô Châu nhập bọn côn đồ, thấy làm ăn “được nên ở hẳn lại đó.
Trước còn đóng vai côn đồ phụ thuộc theo tên Hắc Lão Chủy, về
sau họ Hắc bị binh thiên thời chết, Mậu Cảnh nhờ có sức khỏe trời cho,
lại học được võ nghệ trong khi lưu lạc nên y quyết định địa vị của Hắc
Lão Chủy.
Phùng Mậu Cảnh vác một hòn đá nặng tới hai trăm cân giơ lên khỏi đầu đi đi, lại lại trước bọn côn đồ rồi đặt nhẹ xuống đất mà rằng :
– Ai nhắc nổi cục đá này hoặc nặng hơn thì sẽ thế Hắc Lão Chủy.
Nếu không thì chức có phải nhường cho ta. Kẻ nào muốn quật cường, ta sẵn lòng đấu chơi.
Trong bọn cũng có mấy tên có sức khỏe, theo Hắc Lão Chủy trước
Phùng Mậu Cảnh nên chúng vẫn đinh ninh sẽ được đồng bọn tôn lên thế họ
Hắc làm đầu đoàn, chẳng dè Phùng Mậu Cảnh cậy sức thách đố, chúng bèn
sắn tay áo nâng thử cục đá nhưng chỉ khỏi mặt đất được hơn một thước là
phải hạ xuống ngay.
Tuy vậy, chúng còn nghi ngờ bản lãnh của Phùng Mậu Cảnh nên
thách họ Phùng đấu võ, nếu chúng bị thua mới hoàn toàn chịu phục và tôn
lên thay Hắc Lão Chủy. Mậu Cảnh nhận lời ngay trước mặt đồng bọn, y đã
lần lượt thắng mấy tên thách đấu.
Từ đó Phùng Mậu Cảnh đứng đầu bọn côn đồ khu công trường muốn kiếm chuyện.
Còn những người xa lạ qua đó làm ăn, cốt kiếm chút ít tiền
thưởng rồi lại ưu động thì đều vui lòng chịu khó nói với chúng chịu thuế “bách phần” để phô diễn tài nghệ vài bữa, chừng nào không ăn khách nữa
lại dời đi nơi khác, thành thử không ai rỗi hơi gây sự vì gây sự cũng
yếu thế hay trình báo quan. Bởi những lẽ đó, Phùng Mậu cảnh kiếm ăn
được, lâu ngày thành một thông lệ. Bất cứ đám làm trò hoặc bọn võ nào
mới tới đều đã có các “tay em” chỉ lối đưa đường đến giao thiệp, trình
diện với Phùng Mậu Cảnh để được phép làm ăn.
Bọn đàn em tôn trọng Mậu Cảnh gọi là Phùng gia gia, lâu dần mọi
người cũng quen miệng gọi y với danh từ ấy, thành thử những ai mới tới
cũng tưởng Phùng gia gia là một nhân vật có uy thế lắm, Công việc làm ăn của đảng côn đồ họ Phùng phát đạt, Mậu Cảnh bỏ tiền mua chuộc giao dịch với mấy nhân viên trong nha nên thế lực của y càng ngày càng vững vàng
hơn cả hồi còn Hắc Lão Chủy.
Những ngày thường, sự kiếm ăn của đồng bọn Phùng Mậu Cảnh theo
mức thương đều đều, nhưng những buổi tết nhất, hội hè thì con số thâu
nhập tăng lên gấp bội.
Năm anh em Chu Đức Kiệt ra tới Tô Châu liền đi thẳng tới nhà họ
Phương để xe và ngựa cho người nhà giữ, rồi mới thủng thẳng đi bộ đến Tô Châu Hí Viện.
Bọn vương tôn công tử giả hiệu là cà ở công trường chuyên môn
trêu gái, hôm ấy thấy bốn chị em Lam Y người nào cũng xinh đẹp lạ
thường, thì dù ngẩn người há hố, miệng ra nhưng lại thấy Chu Đức Kiệt uy dũng đi kế bên, nên không tên nào dám giờ trò bỉ ổi.
Trong bọn có tên nhận ra bèn bảo nhau :
– Họ nhà Trại Mạnh Thường Âu Dương đấy mày ơi, trêu vào thì bể
mặt nát mũi đó! Anh chàng hùng dũng kia là hôn phu của cô gái họ ấy đấy.
Bởi vậy chúng đành đứng xa xì xào bàn tán thẩm mỹ vậy.
Đức Kiệt cũng lẫn vào đám đông lấy vé hát.
Người đi xem đông qua xô đẩy nhau lấy vé. Đức Kiệt không muốn
chen lấn thành thử loay hoay mãi cũng không vào được chỗ bán giấy.
Một nhân viên gánh hát đứng gần đấy thấy chàng sang trọng bèn hỏi!
– Thiếu gia muốn lấy vé hát phải không?
Chàng gật đầu :
– Quả vậy, nhưng người ta chen lấn qua đông.
– Được thiếu gia cứ đứng ngoài để tôi vào trong lấy hộ cho.
– Cảm ơn, lấy giùm tôi năm vé thượng hạng.
Chàng nhìn giá vé chi trên bảng đưa tiền cho người ấy và tặng thêm hai lượng bạc.
Lát sau y ra đưa vé cho Đức Kiệt :
– Cũng may còn năm chỗ tốt thượng hạng đông nghẹt rồi.
Năm anh em qua cửa soát vé, lên thượng lầu. Hí viện rất lớn,
hạng nào hạng ấy đều hết chỗ. Ban âm nhạc hát bộ ngồi ngay phía trước
sân khấu tấu nhạc inh ỏi.
Đức Kiệt báo Lam Y và Âu Dương Bích Nữ :
– Lâu lắm không đi coi hát nên mất thói quen. Nhốn nháo qua.
Âu Dương Bích Nữ mỉm cười:
– Cũng may hí viện này có thượng lầu, ngồi dưới nhà còn nguy hơn nữa.
Lam Y hỏi :
– Lát Yên Kinh hàng năm có lưu diễn ở đây không?
Gánh này phần tử có Hoàng Phi Giao và Tiểu Mộng Lân cũng khá
lắm, nổi tiếng miền Giang Nam năm nào cũng bắc du, không hiểu sao năm
nay lại hát ở thị trấn.
Giờ mở màn đã tới. Toàn thể các vai trò sắp hàng trên sân khấu
trình diện với khán giả và sau đó vở Giang Tả Cầu Hôn được trình diễn
ngay.
Diễn viên xuất sắc, khán giả vỗ tay khen vở rạp!…
Lúc tan mọi người kéo nhau chờ ra về cuồn cuộn như nước chảy.
Anh em Chu Đức Kiệt bảo nhau chờ ra sau cùng, khỏi chen lấn.
Khi ra khỏi cửa rạp thì chợt thấy hai người một già, một trẻ múa côn và vừa lùi trước một toán đông đến vài chục người, kẻ nào cũng khí
giới trường đoản đủ thứ.
Cuộc loạn đấu rất dữ dội, người xem đứng vòng trong vòng ngoài vây khắp nơi.
Hai người bị đánh có phần yếu thế lùi mãi đến bậc gạch lên rạp hát.
Lam Y thấy vậy vội nói :
– Hai người kia nguy mất! Họ tính lầm, không chạy ra lối đông người!
Nàng vừa nói vừa cởi khuy áo bào, nhưng Chu Đức Kiệt gạt đi.
– Hiền muội can thiệp không tiện, để mặc ngu huynh…
Nguyên hai người già, trẻ bị đánh kia là hai chú cháu người Hồ
Nam chuyên giang hồ mãi võ. Người chú là Viên Thức tuổi ngũ tuần, tầm
thước khỏe mạnh, cầm côn. Người cháu là Viên Mãng trạc hai mươi sáu, hai mươi bảy dáng dấp cũng như người chú, đánh giản.
Nhân buổi tân xuân, hai chú cháu từ Tân Giang huyện lên tới Tô
Châu định nán lại mãi võ kiếm tiền, vì xưa nay có tiếng đồn là dân trấn
này rất hào phóng ăn chơi không biết tiếc tiền. Lang thang khắp phố này
đường kia, chú cháu họ Viên định kiếm nơi đất rộng biểu diễn thì chợt đi tới cổng trường hí viện.
Lúc ấy cũng có đám làm trò leo dây đang trình diễn, người bâu lại xem đông.
Viên Thức liền bảo cháu :
– Ta biểu diễn ở đây thôi, nơi này người đông, đất lại rộng.
– Thúc thúc dạy phải, trông tình hình này ta có thể mãi võ được nhiều ngày.
Thế là hai người kiếm chỗ có bón cây đặt bao hành lý và mấy thứ
võ khí xuống. Viên Mãng lấy phèng la ra chưa kịp gỡ chiêu hàng thì có
một gã vóc người ốm nhom, mặt tái mét, môi mỏng như sợ chỉ, mắt ti hí đi tới.
Gã đó cầm tay Viên Mãng :
– Đại ca tính chuyện mãi võ phải không? Từ đâu tới đây?
Nhìn thằng vào mặt gã ấy thấy đáng ghét quá, Viên Mãng gạt nhẹ tay y ra.
– Phải, tôi mãi võ. Đại ca hỏi làm chi?
Gã đó nheo mắt ti hí, nhếch cặp môi mỏng dính cười nham hiểm :
– Tôi là người của Phùng gia gia đây mà!
– Phùng gia gia nào tôi không hề quen biết y.
– Hì… hì… Ai mà quen được Phùng gia gia? Nhưng phải quen chớ!
– Thế là nghĩa lý gì? Tại sao lại phải quen? Y làm quan ư?
Gã đó lắc đầu, chép miệng :
– Phùng gia không làm quan nhưng chẳng khác chi quan của công trường này.
– Chịu, tôi không hiểu giọng bí mật của đại ca.
Nói đoạn Viên Mãng giơ phèng la toan gõ.
Gã kia vội chặng lấy phèng la mà rằng :
– Mang tiếng là kẻ giang hồ mãi võ mà đại ca chậm hiểu qua!
Lúc đó, Viên Thức bày mấy thứ đồ nghề đã xong bèn bước tới hỏi :
– Có chuyện chi vậy?
Ngửng đầu nhìn Viên Thức, gã kia nói :
– Có chuyện chớ, nếu không ai mất thì giờ làm gì?
Viên Mãng thuật lại chuyện Phùng gia gia cho chú nghe.
Ôn tồn, Viên Thức bảo gã ấy rằng :
– Đại ca chẳng nên đùa cợt nữa, chúng tôi nghèo phải mãi võ kiếm ăn, xin nghĩ lại.
– Chính vì muốn cho lão huynh được yên ổn làm ăn, tôi mới mách
cho việc phải gặp Phùng gia gia đặng trình diện và ưng thuận nạp số tiền bách phần, nghe tôi mới ổn.
– Đó là thông lệ ở đây sao? Đại ca là ai?
– Chính thế. Tôi là Thử Diện Tử Man Quý, tại công trường này ai cũng biết.
Viên Thức phì cười, vỗ vai Thử Diện Tử :
– Bao nhiêu năm mãi võ, triều đình cũng không có lệ bắt chúng tôi nạp thuế nữa là Phùng gia gia nào tại nơi công trường này?
– Ấy thế mà trong nhiều năm nay, toán nào qua đây biểu diễn cũng vẫn phải chịu điều kiện ấy như thường, không tin hỏi mấy người làm trò
leo dây kia mà coi.
– Phải có phép vua luật nước chớ! Đâu lại bắt buộc người ta được?
Viên Mãng đứng bên nóng ruột nói xen vào :
– Lên quan là cùng, mặc Phùng gia gia với thông lệ của y, mất thì giờ nhiều quá rồi.
Thử Diện Tử nhe cặp môi mỏng dính cười khẩy :
– Tôi đã tận tâm mách bảo, các người không tin thì tùy ý, nhưng đừng có phàn nàn nhé!
Viên Mãng bất bình nói với Viên Thức :
– Ta cứ biểu diễn đi, tên gia gia nào đó tới đây sẽ nói chuyện sau. Lo gì!
Thử Diên Tử nói :
– Bướng bỉnh thế có chết cũng đáng đời!
Nói đoạn y bỏ đi, nhưng bực mình, Viên Mãng bước tới túm lấy ngực áo y mắng :
– Bộ ngươi muốn hăm dọa ta đó sao? Chắc thằng gia gia ấy sai ngươi đến đây làm tiền hả!
Lúc đó, mọi người thấy lạ cũng đã bâu lại đông xem chuyện gì.
Xưa nay dựa vào thế của Phùng Mậu Cảnh, Thử Diện Tử chưa bao giờ bị mất thể diện. Nay bị tóm ngực áo trước công chúng, y đỏ mặt tía tai
xoay mãi cũng không gỡ được nắm tay cứng nhắc của Viên Mãng khiến mọi
người cười ồ, y bèn nạt lớn :
– Biết điều buông ra ngay! Võ lực của ngươi được bao nhiêu mà cậy tài?
– Ta không buông ngươi làm chi nổi?
Viên Thức tiến tới bảo Viên Mãng :
– Thôi, buông y ra, chấp y làm gì, hả hiền điệt?
Đẩy nhẹ một cái khiến Thử Diện Tử lăn ra đất, Viên Mãng xoay tay nói :
– Nể lời thúc thúc ta tha cho ngươi, nếu không thì cũng lãnh cái bạt tay cho chừa tánh hỗn xược theo đám ăn tàn ấy đi nghe! Coi bộ mặt
chuột của ngươi ta phát tởm! Nhớp cả tay!
Mọi người đứng xem cười ồ lên khiến Mao Quý mắc cỡ vô cùng. Y
lồm cồm ngồi dậy phủi bụi xốc áo, cố ra vẻ đạo mạo, giơ tay đe dọa :
– Đừng có chạy nghe! Ngươi sẽ biết tay ta, đồ khốn!
Viên Mãng xô lên như muốn túm đánh, Mao Quý vội vàng chạy mất.
Trở lại chỗ cũ, Viên Mãng lấy phèng la ra gõ chiêu khách.
Thiệt ra, chàng không cần phải chiêu bàng nữa vì mọi người bu lại xem chuyện xích mích vừa rồi cũng đã quá đông.
Ngưng gõ thanh la, Viên Mãng chấp tay chào tứ phía :
– Kính thưa chư vị quân tử, chúng tôi là kẻ lưu lạc giang hồ,
biết chút ít võ nghệ, nhân buổi tân Xuân qua đây, xin hiến chư vị chút
nghề mọn kiếm tiền độ nhựt, dám mong chư vị dong túng, thể tin cho.
Nói đoạn, chàng liệng phèng la cho Viên Thức, hoa quyền dạo mấy
đường bái tổ, bộ pháp nhẹ nhàng tuyệt đẹp. Nhưng, kỳ thay mọi người kéo
nhau tản mát, bỏ không xem.
Ngơ ngác và ức quá, Viên Mãng đứng thẳng lại nói lớn :
– Kính thưa quý vị…
Mọi người lẳng lặng đi hết chỉ trừ một vị lão trượng chống gậy đứng lại nhìn họ Viên.
Viên Mãng không biết xử trí thế nào, không ngờ dân Tô Châu nổi
danh hào hoa phong nhã ưa văn, chuộng võ mà lại bỏ đi chỉ vì tiếc mấy
quan tiền thưởng cho hai người mãi võ nghèo nàn.
Thấy lão trượng hiền lành đứng lại nhìn mình, chàng bèn chạy tới vòng tay cung kính :
– Thưa lão trượng, vừa rồi mọi người bỏ đi là vì không ưa chuộng võ nghệ hay là tại tiểu tử mới dạo quyền mà họ đã thấy dở kém, nên
khinh miệt tan rã như vậy?
Lão trượng hiền từ hỏi :
– Xem như việc vừa xảy ra, lão đoán rằng đây là lần thứ nhất, hảo hán tới Tô Châu mãi võ tại công trường này phải không?
– Dạ, có thế.
– Hảo hán chưa tiếp xúc với Phùng Mậu Cảnh, và lẽ cố nhiên chưa ưng thuận nạp bách phần?
– Thưa cha Mậu Cảnh tức là Phùng gia gia chi đó, thưa lão trượng?
Lão trượng gật đầu :
– Chính y đó, Mậu Cảnh đứng đầu bọn côn đồ khá đông thao túng
nơi công trường này. Ai muốn tới đây biểu diễn phải nói riêng với y hay
bộ hạ của y và ưng chịu nạp bách phần về số tiền thâu được mới có thể
ngang nhiên công diễn. Trái lại, chúng sẽ kiếm chuyện kéo cách gây gổ
phá hoại, không biểu diễn nổi đâu.
Viên Mãng đem việc gặp Thử Diện Tử thuật lại cho lão trượng nghe.
Lão trượng nói :
– A, ra thế đó. Tên Thử Diện Tử là tai mắt của Phùng Mậu Cảnh ở
thường trực tại đây. Bởi thế y mới tiếp xúc với hảo hán ngay từ lúc đầu. Nay có sự xảy ra như thế, tất bọn Mậu Cảnh đến đây tới nơi rồi. Vì vậy
mọi người e có sự xung đột nên lảng tránh, chớ không phải chê hảo hán vô tài hay là tiếc tiền đâu. Lão khuyên hảo hán nên thu xếp đi khỏi nơi
này kẻo chúng đông lắm. Lão cũng không dám nán lại nữa.
Nói đoạn, lão trượng chông gậy đi thẳng.
Tức giận, Viên Mãng quay lại nói với Viên Thức :
– Tiếp xúc với tên họ Phùng ấy còn có thể được, chớ nạp bách
phần cho họ thì thiệt quá đáng. Thế ra nó sống trên lưng mình một cách
vô lý như vậy sao?
Viên Thức cũng bực tức :
– Đánh thì đánh chớ sợ gì! Nhân dịp này ta cho chúng biết rằng không phải quỳ lụy tiền mồ hôi nước mắt cho chúng tọa hưởng đâu.
Hai chú cháu họ Viên bàn định xong liền rút sẵn cây côn và cặp
giản ra còn thì bó các dụng cụ và hành lý lại bỏ vào bên gốc cây lớn.
Vừa xong thì từ phía đông, một toán chừng bảy, tám người đai nịt gọn gàng kéo tới. Đồng thời từ mấy góc công trường cũng có vài toán áp
tới họp lại với nhau thành một bọn khá đông chừng vài chục tên võ trang
đầy đủ, diện mạo hung hãn, ngạo mạn, mục hạ vô nhân.
Tên đi đầu lực lưỡng võ phục sang trọng tay cầm thiết tiên. Bộ
võ phục đẹp đẽ đắt tiền y đang mặc đó cũng không làm giảm được nét côn
đồ của y.
Hai chú cháu họ Viên chọn lựa địa thế, chống khí giới ngang nhiên chờ.
Bọn côn đồ kéo tới nơi, Thử Diện Tử Mao Quý lăng xăng đi đầu,
tay cũng cầm thanh đao, chỉ mặt hai hảo hán mãi võ, vênh vang thét :
– Bớ hai tên xuẩn kia! Ta đã dạy mà các ngươi không biết nghe,
nay gia gia hỏi tội đó. Biết điều quỳ lạy đi kẻo nhừ đòn bây giờ!
Viên Mãng nổi giận đùng đùng :
– Tên nào là Phùng Mậu Cảnh, hãy lên tiếng coi!
Mậu Cảnh tiến lên vỗ ngực :
– Mi đui hay sao mà không nhận ra lão gia?
Viên Mãng cười ha hả :
– Diện mạo ngươi cũng lưu manh chẳng kém bộ hạ của ngươi, thì ta nhận ra sao nổi? Muốn gì thì cứ việc. Ta sẵn lòng nghinh tiếp.
Mậu Cảnh chỉ mặt Viên Mãng mắng :
– Mang tiếng là giang hồ mãi võ mà không biết luật lệ thiên hạ, giang sơn nào anh hùng nấy.
– Các ngươi tới đất này không trình diện với lão gia thì kiếm tiền sao nổi? Không thức thời sao gọi là hảo hán được?
Viên Mãng cười gằn :
– Thức thời với người lương thiện chớ bất hảo như các ngươi, nói chuyện đó làm chi cho nhọc công!
Phùng Mậu Cảnh nổi giận thét :
– Anh em! Bắt sống hai tên này cho ta!
Vừa cậy thế đông người và cũng vừa muốn tưng công với gia gia.
Thử Diện Tử Mao Quý múa đao nhảy vào chém Viên Mãng, chẳng ngờ thanh đao bị ngọn giản lợi hại của họ Viên gạt bay đi nơi khác, đồng thời giản
thứ hai hạ xuống trúng sườn, khiến tên mặt chuột lăn ra đất đau quá, ôm
sườn kêu inh ỏi. Sợ Mao Quý bị sát hại, Phùng Mậu Cảnh liền hoa đao xông vào chặn Viên Mãng. Đồng bọn côn quang, kẻ đao, người côn cùng áp tới
cả một loạt vây đánh. Viên Thức múa tít cây côn nhào tới tiếp tay Viên
Mãng, đánh bừa. Bọn côn đồ tuy không là tay hảo võ nghệ nhưng tên nào
cũng có sức, hơn nữa chúng đông người, ồ ạt ẩu đả, không chịu nhường
bước.
Nhất là Phùng Mậu Cảnh tay đao cũng không đến nỗi dở, lại ó sức khỏe trời cho, nên bám đánh Viên Mãng thiệt ráo riết.
Chú cháu họ Viên trổ hết tài nghề, dương đông, kích tây, đem sức học bình sanh ra quyết thắng, xung đột như hai con cọp dữ.
Thắm thoát đã có mấy tên côn đồ trúng thương lăn ra đất. Nhưng
tên này quỵ, tên khác đã nhảy tới thế liền. Chúng liều mạng ẩu đả quyết
giữ lấy uy thế và miếng cơm của chúng ở khu công trường hí viện. Người
kéo ra xem đông như kiến. Khí giới va chạm nhau chí chát, tiếng hò hét
vang dậy cả một khu. Đánh lâu thấm mệt, chú cháu họ Viên mồ hôi toát ra
như tắm bảo nhau lùi dần. Bọn côn đồ hô lớn :
– Anh em ơi, hai thằng này mệt rồi, đánh quỵ mau!
Vừa hay lúc đó tan hát người trong hí viện ùa ra thấy đám đánh
nhau lớn bèn dạt cả sang một bên công trường. Người nhát gan sợ chẳng
phải đầu, phải tai kéo lẹ bước ra về, người tò mò hiếu sự bảo nhau đứng
xa xa theo dõi trận chiến. Mệt lắm Viên Thức và Viên Mãng liệu bề không
chống trả được nữa vừa đỡ vừa lùi, định bụng chạy vào trong rạp hát trốn tránh thì may thay, giữa lúc đang thập phần nguy hiểm, tánh mạng mong
manh treo sợi tóc thì cứu tinh vừa tới.
Phùng Mậu Cảnh cùng đồng đảng theo sát đối thủ đang lâm nguy
quyết bắt cho kỳ được hai người mãi võ. Trận đánh ồ ạt tràn tới gần bực
gạch ở cửa hí viện.
Chú cháu họ Viên thở hồng hộc xem chừng không lên nổi mấy bực đá nữa…
Bỗng một người từ phía sau nhảy vụt qua đầu Viên Thức quơ tay
giựt phắt lấy cây côn của họ Viên, nhập trận chặn hẳn đường tiến của bọn côn đồ. Đó là Chu Đức Kiệt vừa liệng áo bào cho Âu Dương Bích Nữ, xông
tới cứu hai người bị đánh hoàn toàn kiệt sức.
Theo thế Tản Vân, Đức Kiệt chân vừa tới đất hoa côn lên hai vòng gạt băng khí giới của đợt người hùng hổ gần nhất. Bị cái gạt mạnh mẽ
bất ngờ ấy, một loạt võ khí rời hẳn tay chúng, cánh tay chúng tê buốt,
toàn thân rung động không dám tiến nữa. Đức Kiệt hoa côn lên một vòng
nữa ép chúng phải lùi hẳn mấy bước. Đang thắng thế bỗng dưng bị kẻ lạ
mặt ngăn cản. Phùng Mậu Cảnh tức giận lượm được thanh đao khác liều mạng nhảy bừa vào chém bổ một lát vào đầu Đức Kiệt.
Liệng cây côn lại phía sau trả Viên Thức, Chu Đức Kiệt tiến lên
một bước đưa tay hữu chặn bắt trúng cổ tay địch năm ngón tay thép khép
lại khiến Mậu Cảnh đau quá, kêu rống lên rời thanh đao ra. Đồng thời,
Đức Kiệt đưa tay tả túm chặt lấy ngực áo địch trong khi tay hữu buông cổ tay địch và nắm lấy đai lưng nhắc bỗng hẳn Mậu Cảnh lên cao, quát :
– Mi muốn sống hay muốn chết?
Tên trùm côn đồ sợ quá e bị quật xuống đất thì nhừ tử nên vội kêu :
– Tôi biết sức tráng sĩ rồi, sanh phúc tha cho tôi.
Đức Kiệt nạt :
– Lúc mi cậy đông đuổi đánh hai người kia thì có nghĩ tới phúc đức không?
Nói đoạn, chàng quay đi hai vòng như chiếc chong chóng.
Mậu Cảnh hoa cả mắt thấy trời đất nhà cửa đảo lộn, phát hoảng :
– Xin tráng sĩ tha cho mạng tiểu nhân này. Xin tha.
Đức Kiệt biết tên đó đủ sợ rồi, liền liệng nhẹ y xuống đất lăn đi một vòng.
Phùng Mậu Cảnh mặt cắt không còn hột máu run rẩy như gà phải
nước, trái hẳn với ngày thường vênh váo, hoa tay ưỡn ngực, la hét cậy
sức khỏe vô địch.
Bọn côn đồ thấy ngay nhỡn tiền họ Phùng bị áp đảo như một trẻ
nít vậy, tấm thân lực lưỡng lúc bấy giờ y hệt tàu lá héo, vẻ oai hùng
thường ngày biến đâu mất hết, bèn đứng dạt cả sang một bên.
Mọi người hiếu kỳ thấy bọn côn đồ bị người lạ đàn áp rồi, thì an tâm kéo gần lại xem. Có người nhận ra năm người bèn thì thào bảo nhau :
– Kìa, họ nhà Trại Mạnh Thường Âu Dương và thiếu nữ kia ở Địch
gia trại trong Tam Môn cốc đó mà. Thảo nào! Nhưng có vậy mới đáng cho
bọn côn quang lưu manh. Như thế từ nay chúng mới hết thói nạt nộ mọi
người!
Viên Thức, Viên Mãng thoát nguy, bước tới trước mặt Chu Đức Kiệt vái dài :
– Chú cháu tôi đội ơn cứu mạng, xin cho biết đại danh để chúng tôi ghi lòng tạc dạ.
Đức Kiệt đáp lễ :
– Bốn bể anh em cùng nhà, giúp nhau được là may sá chi việc nhỏ
mọn ấy mà nhị vị phải quan tâm! Chẳng hay đầu đuôi câu chuyện thế nào?
Sao lại ẩu đả như vậy? Những kẻ kia là ai?
Viên Thức xưng danh và kể lại mọi việc đã xảy ra.
Đức Kiệt gật đầu hiểu chuyện, quay lại nhìn toàn bọn côn đồ, thấy Mậu Cảnh trang phục sang trọng hơn cả bèn chỉ tay hỏi :
– Ngươi là đầu đảng lưu manh, xưa nay vẫn hoành hành chuyên áp chế người lạ đến kiếm ăn nơi công trường này phải không?
Len lét như rắn mồng năm, Phùng Mậu Cảnh nói nhu nhú trong miệng :
– Dạ, có như vậy ạ.
– Từ nay ngươi có biết tâm tu tỉnh ăn năn hối tội, kiếm cách
sanh nhai lương thiện không? Vai to bắp lớn như ngươi, kiếm đâu không ra việc làm, cớ sao lại sống nghề mạt hạng này, muốn vào ngục phải không?
Mậu Cảnh im lặng nhìn mặt đất, Đức Kiệt hỏi :
– Bộ ngươi còn tiếc rẻ đời sống ăn không của tên trùm côn quang
phải không? Như vậy ta giúp nhà ngươi vào ngục thất ăn năn hối tội,
nghe?
Mậu Cảnh hoảng hồn vội thưa :
– Thưa tráng sĩ, từ nay tôi hứa xin giải nghệ, làm ăn lương thiện.
– Ta ở gần đây, sẽ cho người dò hỏi, nếu ngươi còn chứng nào tật ấy, quyết không tha thứ, nghe?
– Dạ xin hứa cải thiện và giải tán đồng bọn.
Chu Đức Kiệt hướng vào bọn côn đồ mà rằng :
– Đó, các ngươi nghe thấy chưa? Từ nay phải giải tán. Tên nào còn tiếc rẻ lưu luyến nghề cũ thì đừng có trách, biết không?
Bọn côn đồ len lét im lặng, cúi đầu. Phùng Mậu Cảnh cất tiếng bảo đồng bọn :
– Các anh em nghe đây, trước kia tôi tưởng có sức vô địch coi
trời bằng vung, đã trót làm nên một nghề không xứng đáng với người con
trai mang tiếng đầu đội trời chân đạp đất, lưng dài vai rộng. Từ nay,
tôi kiếm việc khác sanh sống và tuyên bố giải tán anh em. Mong ai nấy
đều cố gắng làm lại cuộc đời, chẳng nên lưu luyến nghề xưa mà có ngày
mất mạng hoặc ngục tù.
Bọn côn đồ nghe vậy, tức khắc giải tán. Chúng lượm khí giới rải
rác trên mặt đất rồi kéo nhau đi mỗi tên một ngả. Nhìn đồng bọn đi hết
Mậu Cảnh quay lại vái Đức Kiệt :
– Nhờ tráng sĩ, tôi mới biết hối cải mọi sự lỗi lầm. Tráng sĩ là người đã tái tạo cuộc đời của tôi, xin người hãy tin rằng Phùng Mậu
Cảnh này không phải là kẻ nuốt lời hứa đâu.
Dứt lời họ Phùng quày quả đi thẳng.
Chu Đức Kiệt hỏi Viên Thức :
– Hảo hán có bị mất mát hành lý không?
Vừa hay lúc đó Viên Mãng đã chạy ra gốc cây lớn nơi định diễn võ vác bọc hành trang và mấy thứ dụng cụ trở lại.
– Thưa, còn y nguyên, may quá!
Đức Kiệt mỉm cười :
– Từ nay, nhị vị tha hồ nán lại biểu diễn cho công chúng xem trong dịp Tân Xuân, không còn e ngại gì nữa, nhé!
Chàng móc túi lấy đĩnh bạc đưa cho Viên Thức :
– Gọi có chút quà mọn lưu tình, mong hảo hán đừng chối từ.
Trước cử chỉ rất tự nhiên và thân thiện của ân nhân, Viên Thức
đành vui lòng nhận bạc, nói mấy lời cám ơn rồi cùng Viên Mãng thu xếp về quán trọ.
Đức Kiệt trở lại chỗ mấy chị em Lam Y mặc áo bảo, kéo về nhà họ
Phương lên xe, ngựa ra khỏi Tô Châu đưa Địch Phượng Tiên về Tam Môn cốc.
Phượng Tiên định giữ mọi người lại Địch gia trại mời tiệc, nhưng Tú Kiều từ chối :
– Chỗ người nhà cả, xin để khi khác. Về trễ quá e nhị vị mẫu
thân mong đợi. Thỉnh thoảng thơ thơ sang chơi nhé, đừng có biệt dạng như hồi cuối năm đấy!
Phượng Tiên cười phân bua :
– Các vị xem đó. Có chồng rồi có khác? Đứng đắn quá!
Ai nấy đều cười vang rồi bái biệt Phượng Tiên về Âu Dương trang.
Nội cỏ ngàn cây đó đây xanh ngắt, hoa muôn màu hương sắc lung
linh, bầy chim non ríu rít trên cành, mây vàng ải Bắc tím chiều sơn
thôn. Tuy Xuân đã về nhưng đường lên Bắc gió còn lạnh buốt, sáu người
vận áo ấm vó câu dong ruổi tung lớp bụi đường ẩn cánh đào hồng, mai
trắng. Người nào cũng có cảm giác dễ chịu của khách viễn du trên các nẻo đường đầy Xuân sắc, gió lộng ngàn hoa.
Trong đoàn sáu người chỉ có Đức Võ Thượng Nhân là người Bắc và
Thiết Hoàn Tử tuy sanh quán ở Hán Dương nhưng lại thường qua đất Bắc nên đã quen thuộc với cảnh sơn thôn ẩn hiện giữa những đồi núi chập chùng.
Trái lại, lão anh hùng Trại Mạnh Thường, Chiêu Đức thiền sư và anh em
Tòng Cát, Tòng Đức đều là những người Giang Nam nên rất lấy làm khoan
khoái ngắm cảnh bao la hùng vĩ.
Một hôm tới Yên Kinh thì trời đã về chiều và bắt đầu sang Hạ.
Xa xa, thành Yên Kinh lại cao lớn cực kỳ rộng rãi, hùng vĩ nổi
bật ở chân trời tím ngắt. Trên vọng lâu, hai lá đại kỳ đuôi nheo bay
phần phật trước gió. Tại bốn cửa thành và trên mặt thành, quân lính canh phòng nghiêm cẩn. Tường cao dày dặn, hào sâu rộng rãi bao bọc khắp
chung quanh. Thành Yên Kinh chia ra làm bốn lớp riêng biệt rộng rãi.
Qua cổng thành tức là vào tới lớp ngoài, nơi của dân chúng ở và
buôn bán. Đường sá chi chít rộng rãi, người qua kẻ lại đông đúc, phố
phường buôn bán sầm uất, ca lâu tửu quán nơi nào cũng có, nhà cửa khang
trang cao ráo ba bốn từng lầu.
Lớp thứ nhì là nơi dinh thự, công quán chỗ ở và văn phòng của các quan, lầu các điện đài nguy nga giữa những hoa viên đẹp đẽ.
Lớp thứ ba là Hoàng thành nơi Vua ngự và lâm triều. Sáng sáng,
các quan phải qua lớp Ngọ môn vào chầu cùng nhà Vua bàn việc nước.
Lớp này thuộc phần ngự lâm quân canh phòng khắp bốn phía. Bên
trong, đền đài, lầu vàng các ngọc chi chít. Thượng uyển mênh mông.
Lớp thứ tư ở ngay trung tâm Hoàng thành và là nội cung gồm các
tam cung lục viện, cấm ngặt không một ai được tự do ra vào nếu không có
lệnh của Hoàng đế triệu vời.
Cũng vì sự nghiêm ngặt ấy nên các quan thường gọi lớp thâm cung ấy là Thanh cung, ngụ ý là nơi Tử cấm âm u.
Bọn sáu người kéo nhau vào thành.
Thiết Hoàn Tử hỏi Trại Mạnh Thường :
– Lão huynh định trọ ở nơi phố phường đông đảo nhộn nhịp hay là muốn kiếm chỗ an tĩnh?
– Nơi nào có đủ hai phương tiện ấy? Ở phòng trong có vườn tược hẳn hoi thì được an tĩnh mà khi ra tới phố thì nhộn nhịp ngay.
Thiết Hoàn Tử gật đầu :
– Được lắm! Quý vị hãy theo tôi.
Đức Võ mỉm cười mà rằng :
– Bần đạo qua Yên Kinh luôn nhưng lần nào cũng ở nhờ nơi miếu mạo nên chịu không biết rõ như Thiết Hoàn Tử.
Đi vòng hết đường nọ tới phố kia hồi lâu Thiết Hoàn Tử dẫn năm
người đến Trường Uyển lộ vào Phong Hạc lầu sang trọng cự kỳ diễm lệ.
Mặt tiền Phong Hạc lầu ở ngay phố buôn bán sầm uất, nhưng khi
qua căn nhà lầu ba từng vời vợi là nơi tiếp khách ăn, phía trong còn có
mấy lớp đình hoa nữa ở giữa khu hoa viên rộng rãi an tĩnh lạ thường.
Sáu người xuống ngựa ném cương cho bọn mã phu thường trực của Phong Hạc lầu.
Thiết Hoàn Tử bảo chúng :
– Dắt ngựa vào tầu săn sóc tử tế, chúng ta còn ở đây ít ngày.
Bọn mã phu ghi số đưa lại cho khách hàng :
– Quý vị giữ lấy số này để tránh sự lầm ngựa bữa nào ra đi.
Nói đoạn, chúng dắt sáu con tuấn mã vào cổng bên. Mấy tên tửu
bảo thấy khách đến trọ vội chạy ra đỡ hành lý đi trước tới quầy viên
quản lý lấy ba căn phòng lớn ăn thông nhau ở đình các ngoài hoa viên.
Viên quản lý chào hỏi niềm nở, hai người dẫn khách vào nhận phòng.
Trại Mạnh Thường, Thiết Hoàn Tử chung một phòng. Chiêu Đức và
Đức Võ một phòng, còn phòng thứ ba thì anh em Tòng Cát, Tòng Đức ở. Ba
phòng thông nhau chung một khách phòng chiếm hẳn một trái lầu có hành
lang rộng rãi trông thẳng ra hoa viên mát mẻ trang nhã. Sáu người thay y phục sạch sẽ rồi kéo nhau ra nhà ngoài lên lầu thượng. Lúc đó trời đã
tối. Trong lầu đèn lưu ly thắp sáng trưng. Vì Phong Hạc là nơi sang
trọng nên khách hàng toàn giới thượng lưu lịch sự. Tầng lầu nào cũng có
nữ công tấu nhạc êm dịu vui tai. Sáu người kéo nhau ra khê lầu cao ngất
nhìn khắp mọi nơi trong thành Yên Kinh, lầu mái cong cong nhấp nhô, đèn
nến lấp lánh tựa sao sa.
Trại Mạnh Thường gật gù :
– Cảnh đế đô huy hoàng lộng lẫy thiệt, so với các tỉnh lớn miền
Giang Nam mỗi nơi có một sắc thái khác nhau. Dù sao, Yên Kinh cũng phải
trên nhiều bực vì phần có Hoàng cung, phần diện tích nội thành lớn hơn
nhiều.
Chiêu Đức thiền sư nói :
– Còn một điểm nữa cũng khác hẳn Giang Nam. Toàn thể dân cư đều ở cả trong thành. Trái lại các thị trấn miền Nam nơi nào cũng có phần
ngoại thành buôn bán sầm uất không thua gì phần nội thành.
Đức Võ Thượng Nhân gật đầu mà rằng :
– Sở dĩ thành quách đất Bắc dày dặn hơn và không có phần ngoại
thành là vì giáp với biên quan. Nếu xảy ra chinh chiến dân gian ở cả nội thành, phòng vệ dễ dàng hơn. Từ Yên Kinh tới Vạn Lý Trường Thành không
còn bao xa nữa. Tiếc thay đạo hữu và quý vị huynh đệ ít thì giờ, nếu
không thì cùng qua Sơn Hải quan lên thăm Cửu Huyền sơn, dọc đường phong
cảnh hùng vĩ nên thơ lắm.
Trại Mạnh Thường hỏi :
– Khi xong việc ở Yên Kinh, lão huynh không trở lại bản trại sao?
Đức Võ Thượng Nhân đáp :
– Chắc cũng không còn việc gì cần tới sự hiện diện của bần đạo
nữa. Còn việc hôn nhân của Đức Kiệt tất phải để cuối năm hoặc Xuân sang
năm. Bây giờ có về, thời tiết cũng không hạp nữa. Tính kỹ tháng hai sang năm hạp với tuổi cả hai người đó hơn. Thời gian ấy, bần đạo sẽ trở lại
Âu Dương trang.
Sáu người trở vào chọn chỗ ngồi, gọi tửu bảo lấy hai tiệc chay.
Trại Mạnh Thường hỏi Thiết Hoàn Tử :
– Ngày mai lão đệ thử hỏi xem có kết quả gì về thì giờ của nhà
Vua và nơi thường ngự ban đêm không. Cả khu điện đài trong Hoàng thành
nhấp nhô cả trăm ngàn lớp thế kia, kiếm một người quả rất khó khăn nếu
không chịu bạo động, mà việc này không thể áp dụng lối đó được.
Thiết Hoàn Tử nói :
– Tiểu đệ sẽ cố gắng. Trong thời gian dò hỏi, lão huynh cứ việc
thăm thú Đế kinh chừng nào có tin tức rõ ràng mới có thể hành động được.
Hôm sau, mọi người sửa soạn ra phố xem cảnh thành Yên Kinh thì
Thiết Hoàn Tử đi trước đến Thái hòa lộ thuộc lớp thứ hai đô thị tìm nhà
Lý Tuyên người cùng làng ở Hán Dương.
Họ Lý năm ấy trạc ngũ tuần làm Tổng giám thì trong Hoàng cung.
Lý Tuyên ăn ở ngay trong cung cấm nhưng vì còn cha già là Lý Tiến ở
ngoài nên y cứ vài ngày về thăm y một lần, Thiết Hoàn Tử gõ cổng người
nhà mở cổng nhận ra người quen bèn mời vào.
– Lý thái giám có nhà không? Lão gia gia mạnh giỏi chớ?
Người nhà đáp :
– Lão gia gia ở nhà trong đang sửa cây cảnh, còn Tổng thái giám không có nhà ạ.
Thiết Hoàn Tử theo gia nhân vào hậu đường nhìn ra khu vườn sau
xinh đẹp. Râu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào khỏe mạnh, Lý Tiến vận thường
phục đang loay hoay cắt sửa mấy cây cổ thụ.
Gia nhân chạy ra báo :
– Thưa gia gia, có Hồng tiên sinh tới thăm, hiện đang ngồi trong hậu đường.
Lý Tiến bỏ kéo xuống bên chậu cảnh, xốc áo lững thững vào nhà. Thiết Hoàn Tử bước tới sụp lạy, Lý lão đỡ dậy :
– Sao lâu nay không thấy qua chơi, chuyến này hiền khế từ đâu về đây?
– Ngu điệt từ Giang Nam lên hôm qua. Hồi tháng tám năm ngoái,
lúc ở đây ra đi là Ngu điệt xuống thẳng miền Nam đó Chẳng hay lão bá có
được an khang không?
– Ơn trời ban sức khỏe, lúc nào lão phu cũng được như thế này. À, sao hiền khế không về ở đây như mọi lần?
– Thưa, ngu điệt còn có mấy người bạn nên về đây không tiện. Lý đại ca không về thăm nhà sao?
– Đáng lẽ nó về từ hôm qua, nhưng bận việc nên sai người ra báo là sáng mai mới về.
– Ngu điệt muốn gặp Lý đại ca có chút việc rất gấp, nhờ lão bá dặn hộ là sáng mai ngu điệt sẽ tới thăm.
Lý lão gật đầu :
– Được. Lão sẽ bảo nó chờ, nhưng hiền khế ở đây dùng bữa với lão cho vui, còn định đi đâu bây giờ? Trong nhà lúc nào cũng có rượu ngon,
uống cho vui!
Nghĩ bụng có về nhà trọ cũng không được việc gì. Thiết Hoàn Tử liền đáp :
– Lão bá đã cho ăn, ngu điệt đâu dám chối từ, xin chờ Lý đại ca vậy. Nếu say, lão bá đừng quở nhé.
Lý lão cười ha hả :
– Có phải bây giờ lão mới biết hiền khế đâu! Trông thấy hiền
khế, lão lại nhớ tới cố hương, hiềm vì nổi sức yếu không viễn hành được
nữa.
Hai người chuyện giải khuây bất ngờ đã sang Ngọ, gia nhân bày
thổi ăn ngay ơ hậu đường. Lý lão gọi lấy sẵn lên mấy bầu rượu lớn mặc
sức Thiết Hoàn Tử uống kỳ say mới thôi.
Hôm sau, vào khoảng giờ Thìn, Tổng thái giám Lý Tuyên đi kiệu về tới nhà. Lạy cha xong, họ Lý cùng Thiết Hoàn Tử tay bắt mặt mừng.
Lý lão nói :
– Hồng hiền khế muốn hỏi con việc chi đó, liệu nói chuyện ngay
đi kẻo mất thì giờ. Ta ra vườn sửa cây cho hai người tự do chuyện trò.
Nguyên Lý Tuyên và Thiết Hoàn Tử chơi thân với nhau từ khi lúc
còn để trái đào. Về sau Thiết Hoàn Tử theo thầy học võ, còn Lý Tuyên vì
trong người có tật nên được tuyển vào làm Thái giám.
Lúc đó, Lý Tiến còn ở lại Hán Dương.
Phần Thiết Hoàn Tử Hồng Trường Hải sau khi đã luyện tập được bản lãnh cao siêu, bèn bỏ làng lê gót giang hồ khắp đó đây. Một hôm qua Yên Kinh, bất chợt gặp Lý Tuyên.
Toan ngỏ ý muốn nhờ họ Hồng trở về Hán Dương hộ tống cho già lên cùng ở trên Đế Kinh. Không do dự, Trường Hải nhận lời ngay.
Lý Tuyên bỏ tiền dành dụm ra mua đất dựng nên khu nhà hiện đang ở, chờ bạn đưa cha già lên.
Quả nhiên nửa năm sau, Hồng Trường Hải hộ tống Lý Tiến lên Yên Kinh mướn phòng trọ, rồi nhắn Lý Tuyên ra đón về nhà riêng.
Từ đó hai họ Lý, Hồng còn thân nhau hơn trước nữa.
Ngoài tình bằng hữu ra, Tuyên còn rất kính họ Hồng vì biết y là
hiệp khách giang hồ lỗi lạc. Mỗi khi du hành qua Yên Kinh, Hồng Trường
Hải đều nán lại nhà họ Lý chơi nhiều ngày mới đi nơi khác.
Về phần Lý Tuyên vốn tánh cương trực, nên nhà vua quý mến tin
cẩn cất nhắc cho lên chức Tổng thái giám trong nội cung cho tới ngày
nay. Biết Hồng Trường Hải thích rượu hơn uống trà, Lam Y gọi gia nhân
lấy rượu lên tự rót uống, rồi hỏi :
– Hiền đệ có điều chi muốn hỏi ngu huynh vậy?
Nhìn quanh không thấy gia nhân đứng hầu, Hồng Trường Hải nói :
– Việc này khó lắm tiểu đệ không dám chắc đại ca có giúp nổi không, nhưng không nhờ đại ca thì còn nhờ ai vào đây nữa?
– Việc gì thế? Cứ nói thẳng đi. Anh em ta còn thân mến nhau hơn ruột thịt. Hiền đệ ướm mãi khiến ngu huynh nóng cả ruột!
Uống một hơi hết ly rượu, Hồng Trường Hải chậm rãi :
– Việc này có tánh cách tối ư hệ trọng nguy hiểm, liên can tới
cả sự an ninh quốc gia, cho nên nói lẹ không được. Yêu cầu đại ca kiên
tâm, chú ý nhận xét cho kỹ lưỡng để… hiểu! Vì nếu không “hiểu” tất đại ca không dám giúp, dù là giúp tiểu đệ.
Lý Tuyên gật gù, im lặng nhận xét nét mặt nghiêm trọng của bạn.
Hồng Trường Hải hỏi :
– Lý đại ca, Hoàng đế có mấy người biểu đệ, đại ca có biết không?
– Sao lại không? Đó là ba người con của Tỉnh Vương: Vĩnh Thái
tức Thuận Vương ở Kim Lăng, Vĩnh Bình Đề đốc Trường Sa, Vĩnh An Đề đốc
Hàng Châu nhưng…
Hồng Trường Hải vội hỏi :
– Nhưng sao, hả đại ca?
– Nhưng Vĩnh An bị ám sát hồi tháng mười năm ngoái rồi. Hình như mất cả xác! Kẻ sát nhân hành động bí mật lắm, võ nghệ tuyệt luân không
để chút dấu vết nào lại cả.
Vụ ấy gây ra luồng dư luận náo động cả triều đình.
Hồng Trường Hải làm ra vẻ ngạc nhiên :
– Ghê gớm quá nhỉ! Có phản ứng gì không?
– Lẽ cố nhiên Thuận Vương ở Kim Lăng không bao giờ chịu bỏ qua
vụ này, tất đã dâng sớ xin triều đình triệt để điều tra. Trong triều,
người quan tâm nhất đến vụ này là quan Thái sư Trần Chí Hoa, bạn thân
của Thuận Vương. Hiền đệ du hiệp qua đất Giang Nam mà không biết vụ đó
ư?
Hồng Trường Hải tự nhiên :
– Có nghe nói nhưng chỉ biết là vụ ám sát thôi, chớ làm thế nào
nghe được đủ chi tiết như hiền huynh? Nhưng câu chuyện hệ trọng hôm nay
cũng liên can tới các vị Vương gia đó.
Lý Tuyên tươi hẳn nét mặt :
– A! Hiền đệ cứ nói, ngu huynh chú ý nghe.
– Quan Thái sư họ Trần là hạng bày tôi thế nào trong triều đình?
– Gian hay trung, nhiều người đã biết, bất tất phải hỏi!
Hồng Trường Hải nghiêm nét mặt :
– Cần phải hỏi chứ! Vì có một điểm tâm lý. Từ cổ chí kim, thời
đại nào cũng vậy, có hai phe trung thần và gian thần. Người tôi trung
thì giao dịch mật thiết với nhau. Bọn gian nịnh đi với gian nịnh. Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã mà! Phải không đại ca.
Lý Tuyên gật đầu :
– Chính vậy! Đó là một sự hiện rõ rệt không ai chối cãi được.
– Vậy thì, như vừa rồi, theo lời đại ca, quan Thái Sư chú ý nhất triều đình về vụ án Vĩnh An, và cũng là người liên lạc mật thiết với
Thuận Vương ở Kim Lăng. Do các lý lẽ đó, tiểu đệ kết luận rằng Thuận
Vương tuy là biểu đệ của Hoàng đế, nhưng lại thuộc bè đảng gian thần, có vậy không?
– Tuy không biết đích xác nhưng ngu huynh quả có đồng ý với hiền đệ về điểm ấy. Trái lại Hoàng đế không biết gì cả. Được luôn luôn hầu
hạ bên người, ngu huynh hiểu rõ tâm trạng của người nhiều lắm.
– Có lẽ vì nhà vua mê luyến Trần quý phi nên cố tâm làm ngơ cho kẻ gian thần đứng đầu văn quan, phải không?
– Hoàng đế yêu thương Trần quý phi vì nàng ta sắc nước hương trời thiệt, nhưng gọi là mê thì chưa chắc đã đúng.
– Tại sao vậy?
Lý Tuyên chậm rãi :
– Tại không phải đêm nào Hoàng đế cũng ngự trong cung của quý phi. Người thường nằm riêng một mình trong điện Khánh Hòa.
Mừng thầm, Hồng Trường Hải ghi nhớ hai chữ Khánh Hòa, hỏi tiếp :
– Đại ca có nghe nói gì về Thuận Vương không?
– Không. Vì nếu có điều gì tất phải có báo cáo, mà các báo cáo
đều qua tay Trần thái sư hoặc do tay Thái Sư xuất trình hay tường trình
với Hoàng đế. Nếu Thái Sư giấu giếm, che đậy cho Thuận Vương thì Hoàng
đế và các bậy tôi trung biết sao nổi.
Hồng Trường Hải tự rót rượu uống rồi ra vẻ suy nghĩ lung lắm.
Lý Tuyên chờ không được, hỏi gặng :
– Hiền đệ vốn là khách giang hồ giao thiệp rộng, biết nhiều, vậy có nghe tin gì hệ trọng không? Ngu huynh còn nhớ hồi nãy hiền đệ đề cập vấn đề an ninh quốc gia?
– Quả vậy, giới giang hồ hiệp khách biết nhiều điều tối ư hệ
trọng thuộc phạm vi Thuận Vương. Trong triều, có lẽ chỉ quan Thái Sư là
người duy nhất biết những điều ấy mà thôi!…
Im lặng giây lát, Hồng Trường Hải nhìn thẳng vào mắt Lý Tuyên :
– Đại ca có thể tưởng tượng được Thuận Vương đã chiêu nạp được
Ngũ Hổ tướng hùng mạnh, chấp ấn Tiên Phong tướng quân, Tôn quân sư, chứa chấp bọn lục lâm đại đạo, thông đồng với cường sơn, thảo khấu phong
chúng làm tướng, dùng các nơi đó chứa thảo đồn lương, chiêu binh mãi
mã… để làm gì không?
Lý Tuyên giật mình :
– A! Thiệt vậy không?
– Đại ca đã thấy tiểu đệ nói sai bao giờ chưa?
– Trời ơi! Ghê gớm quá! Ngu huynh chỉ đoán là y thông đồng với
gian thần, hành động tầm thường thôi, ngờ đâu y lại mưu đại sự, vậy mà
Hoàng đế không biết tin tức gì cả!
– Vì trong triều, Thuận Vương nhờ có quan Thái sư che đậy nên ở ngoài, y lộng hành bất chấp cả quân vương.
Lý Tuyên tặc lưỡi :
– Thì ra giống gian thần này lòng tham không đáy! Thân phụ là
Nhất phẩm triều đình, quan cao chức trọng được Hoàng đế lưu dùng, mà còn thông đồng phản bội được! Hừ, Thuận Vương tạo phản có thành công, bất
quá cũng đến phong cho y đứng đầu bách quan như bây giờ thôi, chớ chẳng
lẽ chia đôi san hà với y sao? Thiệt là không thể ngờ! Nhưng có chứng cớ
gì xác thực nữa không?
Thiết Hoàn Tử gật đầu :
– Nơi Vương phủ Kim Lăng của Thuận Vương nay là cả một tòa thành ải do Ngũ Hổ tướng, Tiên Phong và các con y trấn đóng, xây dựng các cơ
quan, hầu như là bất khả xâm phạm. Ngoài ra y còn dùng các nghi trượng
của Hoàng đế, không còn giữ cấp bực Thân Vương nữa. Bây giờ Hoàng đế dù
có muốn kiểm soát y cũng không phải dễ dàng.
Lý Tuyên thất sắc, rót rượu uống cạn luôn hai ly :
– Làm thế nào bây giờ? Hiền đệ muốn gặp ngu huynh bữa nay chỉ để nói cho biết vụ này thôi, phải không?
Hồng Trường Hải lắc đầu :
– Không đúng hẳn thế, vì đây chỉ là mở đầu câu chuyện cho một việc khác.
– Hiền đệ nói cả cho nghe đi, nóng ruột lắm!
– Thấy rõ tình hình nguy ngập của toàn dân Giang Nam khi Thuận
Vương tạo phản, mà triều đình hiện thời không có một biện pháp nào chống đối, nên mấy nhân vật đức độ hữu danh trong giới giang hồ lên Yên Kinh
với mục đích tìm phương cách đích thân bí mật yết kiến nhà Vua để trình
bày tự sự, cốt ý không cho bọn gian thần biết e chúng báo tin cho nhau,
thì nhà Vua khó bề hành động, trái lại Thuận Vương bị lộ chân tướng sẽ
dấy binh tạo phản tức thì. Đại ca hiểu chưa?
Lý Tuyên gật đầu hỏi :
– Những nhân vật đó là ai vậy?
– Có ba người thuộc hạng công phu võ nghệ siêu đẳng vào bực nhất thời nay: Đức Võ Thượng Nhân tu ở Cửu Huyền sơn ngoài cửa Quan. Chiêu
Đức thiền sư đầu phái Thiếu Lâm tự ở Tuyền Châu. Trại Mạnh Thường Âu
Dương Tòng Thiện sư huynh của Chiêu Đức, và là một nhân vật mà khắp miền Giang Nam ai ai cũng biết tiếng.
– Ba nhân vật ấy hiện tới Yên Kinh?
– Dạ, và muốn nhập Hoàng cung tìm gặp nhà Vua để trình bày tự sự.
Lý Tuyên cười gằn :
– Làm sao cho Hoàng đế tin được và không khỏi tội khi quân đột
nhập cấm thành? Trình bày một việc hệ trọng như vậy với Hoàng đế không
phải dễ dàng như ta nói với nhau!
– Đành là như vậy. Nhưng với một chút tinh thần hiểu biết, nhà
Vua sẽ thấy ngay lẽ phải. Trước hết những nhân vật ấy biết trọng đạo
quân thần, không lẽ họ vô cớ đột nhập Hoàng thành để mắc tội khi quân
sao? Có ích lợi chi cho họ?
– Tin ở lời hiền đệ nói thật, dĩ nhiên rồi, nhưng ngu huynh ăn thua gì trong câu chuyện các kiếm khách nhập Hoàng thành này?
– Sao lại không? Họ cần đến sự giúp đỡ của đại ca mới thành công được!
– Hiền đệ nói chi vậy? Thiệt thà ngu huynh không hiểu.
Hồng Trường Hải ôn tồn :
– Dễ lắm, có gì khó đâu mà không hiểu. Trong Hoàng cung điện
điện tài như bát úp, các kiếm khách ấy, dù tài giỏi, làm thế nào biết
được nơi Vua ngự và giờ giấc Vua ngự như thế nào? Vậy biết rõ hơn cả thì ai hơn đại ca?
Lý Tuyên nghiêm nét mặt :
– Nghĩa là hiền đệ muốn ngu huynh giúp họ bằng cách mách bảo
những điểm bí mật ấy để những nhân vật kia vào thẳng nơi Hoàng đế ngự?
– Chính vậy!
– Hừ! Hiền đệ có biết rằng muốn bắt ngu huynh làm một việc quá
sức mình không? Hoàng đế mà biết rõ thì họ Lý này sẽ lãnh tội tru di tam tộc!
Hồng Trường Hải phân giải :
– Nhà vua biết thế nào được! Lẽ nào những đại kiếm gia anh hùng
ấy lại để lụy cho đại ca? Như vậy có khác gì chính tiểu đệ hại đại ca
không?
Lý Tuyên lẳng lặng suy nghĩ. Biết họ Lý còn do dự tính toán, Hồng Trường Hải tấn công :
– Giúp họ, đại ca tỏ ra là một bầy tôi trung nghĩa ưu thời mẫn
thế, ích quốc lợi dân. Đại ca cản được một vụ tạo phản có thể làm
nghiêng ngửa san hà nguy hại tới ngai vàng. Đại ca sẽ tránh cho toàn dân Giang Nam khỏi bị đổ máu vì cuộc nội chiến tàn sát sanh linh bá tánh.
Như vậy đại ca còn do dự nỗi gì? Ngoài sự cho biết nhà vua ngự ở đâu,
giờ giấc nào, đại ca không còn tốn công nào khác hết.
Trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, Lý Tuyên nói :
– Ngu huynh hiểu hết lý lẽ của hiền đệ, tánh mạng toàn gia của ngu huynh ở cả trong tay hiền đệ đó!
Thiết Hoàn Tử mừng rỡ chờ nghe. Lý Tuyên nói tiếp :
– Như đã nói hồi nãy, Hoàng đế thường ngự một mình ở Khánh Hòa điện vào nhưng đêm ngày chẵn. Cứ tới đó sẽ gặp người.
– Nhưng điện Khánh Hòa ở đâu mới được chớ? Hoàng cung bao la…
– Đứng bất cứ trên một nơi cao nào trong Yên Kinh cũng trông
thấy ngay nóc điện Khánh Hòa. Mái điện cao nhất ở ngay trung tâm Hoàng
thành. Hoàng đế ngự trên lầu ba và tầng lầu này chỉ có hai phòng. Long
sàng ở phòng hướng Bắc. Phòng bên là tiểu thư viện.
– Có quân ngự lâm canh phòng nghiêm nhặt không?
– Không. Ngự lâm quân canh phòng ở quanh Hoàng thành, vào sao được nơi đó. Hai từng dưới có Thái giám nội thị.
Hồng Trường Hải hỏi gặng :
– Giờ nào nhà Vua ngủ?
– Thường thường đọc sách khá khuya và lẽ dĩ nhiên để đèn sáng.
Hồng Trường Hải đứng dậy vái họ Lý mà rằng :
– Đại ca đã làm xong nhiệm vụ. Hãy tin ở lời tiểu đệ.
– Nhưng ngu huynh chỉ xin có một điều.
Hồng Trường Hải ngạc nhiên :
– Đại ca thắc mắc điều gì xin cứ dạy?
– Hành động cho khéo chớ để Hoàng đế bị kinh động, người đau tim.
– Tiểu đệ xin hứa. Đại ca không dạy thì các nhân vật kia cũng có bổn phận hành động cực kỳ khéo léo kín đáo.
Dùng bữa xong, Hồng Trường Hải vội vàng cáo từ cha con Lý gia.
Lý lão hỏi :
– Hiền tế ở chơi đã đi đâu vội vàng vậy?
– Thưa lão bá, tiểu điệt phải về quán trọ, vì muốn gặp Lý đại
gia đây nên bỏ các bằng hữu ở quán hơn một ngày rồi. Ít bữa nữa sẽ trở
lại.
Lý Tuyên đưa Hồng Trường Hải ra tận cổng, dặn dò. Họ Hồng nhất nhất tuân theo :
– Đại ca chú ý nghe ngóng vụ này nhé. Ta sẽ gặp nhau sau.
Về tới lầu trọ thấy mọi người không có ở nhà. Hồng Trường Hải
bèn leo lên giường ngủ một mạch đến tận chiều, khi năm người trở về mới
tỉnh dậy.
Trại Mạnh Thường cười :
– Hồng lão đệ lạc vào kho rượu nào bây giờ mới về? Được việc chi không?
Hồng Trường Hải khà một tiếng :
– Chà! Khát quá, uống đã mới nói chuyện được. Hay lắm!
Âu Dương, Tòng Đức hối tửu bảo bày rượu ngay trong phòng trọ cho dễ nói chuyện.
Hồng Trường Hải nốt một hơi hết mấy ly lớn, đoạn kể lại việc đã gặp viên Tổng thái giám họ Lý, cho năm người nghe.
Trại Mạnh Thường nhắc lại :
– Ngày chẵn, lầu ba điện Khánh Hòa, nơi cao nhất trong Hoàng thành?
Hồng Trường Hải gật đầu :
– Lão huynh liệu sửa soạn phân phát, mưu tính hành động thôi.
Trại Mạnh Thường quay sang bàn với Đức Võ Thượng Nhân và Chiêu Đức thiền sư hồi lâu mới nói rằng :
– Hôm nay ngày chẵn, nhưng trễ rồi không hành động được. Đến
ngày mốt sẽ khởi sự. Tất cả sáu người chúng ta cùng đi. Nếu giáp được
mặt Hoàng đế, Tòng Cát và Tòng Đức phải hết sức thận trọng nghe con?
Anh em Âu Dương vâng lời. Trại Mạnh Thường nói tiếp :
– Sự canh phòng chắc hẳn là nghiêm mật rồi, vậy chúng ta nên
triệt để áp dụng thuật phi hành. Ngày mốt cuối tháng sẽ không có trăng,
tiện bề hành động.
Đến hôm chỉ e định, sáu người dùng bữa chiều sớm, chờ tối hẳn mới đóng cửa phòng ngồi dưỡng thần.
Giữa một đô thị lớn như Yên Kinh, thiệt không ai ngờ trong mấy
căn phòng trọ lại có bọn người đang sửa soạn nhập Hoàng cung! Đêm cuối
tháng tối như mực. Như chiều người, mây mờ bao phủ khắp trời khiến đêm
không trăng lại càng tối thêm. Quá canh hai, sáu người nhẹ nhàng mở cửa
sổ nhảy xuống hoa viên chạy ra tường hoa, băng mình lên các nóc nhà nhắm phía Hoàng thành tiến tới.
Trong khu buôn bán, đó đây thỉnh thoảng còn có ánh đèn le lói
lọt qua khe cửa, nhưng khi sáu dạ hành khách vào tới khu dinh thự thì
cảnh đêm còn lặng lẽ hơn nhiều. Chuyền xuống đất, sáu người chạy hàng
một lần theo bóng tối vào tới Hoàng thành. Ngự lâm quân đi đi lại lại,
canh phòng nghiêm cẩn.
Trại Mạnh Thường dẫn đầu tìm một nơi tối nhất, dừng bước nhận
xét. Lão anh hùng lượm một viên đá liệng chéo sang bên tả, đập đánh bộp
vào tường thành rồi rớt xuống hào sâu. Thấy động, quân canh trên mặt
thành vội kéo đến chỗ có tiếng động nhìn xuống, chẳng dè nhân dịp ấy,
sáu dạ hành khách đã vùn vụt như tên bắn vượt tường vào Hoàng cung nằm
lẩn xuống mái nghe ngóng, chờ lúc mấy tên quân canh trên mặt tường thành hết nhốn nháo mới bắt đầu nhằm nơi trung tâm thẳng tiến.
Sáu người thấp thoáng như sáu bóng ma chuyền trên các mái cong
chi chít tựa bát úp, chỗ thấp nơi cao bất thường. Mỗi chuyến gặp đoàn
thái giám canh phòng đi phía dưới, dạ hành khách lại ép mình xuống mái,
thận trọng chờ họ đi khuất mới tiếp tục tiến. Tới một nếp đinh ba từng
mái cong, mọi người ngừng cả lại, nhìn quanh nhận ra đã vào gần tới khu
trung tâm. Không xa mấy, nóc điện Khánh Hòa trồi lên cao nhất, ánh đèn
còn thấp thoáng trên lầu ba.
Trại Mạnh Thường nói nhỏ :
– Theo như lời Lý Tuyên, có lẽ Hoàng đế còn thức. Nào tiến!
Chuyến này đã nhận thấy mục tiêu, mọi người nhằm nơi có ánh đèn
đó, lần lượt nhịp nhàng vượt qua các mái điện vào tới nơi chuyền thẳng
lên nóc trên cùng, nằm áp xuống mái nghe ngóng. Trại Mạnh Thường nói nhỏ với Chiêu Đức và Đức Võ :
– Căn phòng phía Bắc.
Sáu người cùng lần sang hướng Bắc, Chiêu Đức rút ngói nhìn xuống, nhưng lắp trả ngay viên ngói về chỗ cũ :
– Vướng trần, không trông thấy gì cả. Xuống hành lang đi.
Lần lượt, mọi người chuyền xuống mái thứ hai, vượt lan can vào
hành lang từng lầu nhất. Các cửa chánh đều đóng chặt. Trại Mạnh Thường
thử cửa sổ thứ nhất: Gài bên trong, cửa sổ thứ hai cũng vậy. Sau người
đành khom mình xuống tránh luồng ánh sáng từ trong phòng chiếu ra, lẻn
sang cửa sổ hướng Tây. Ai nấy đều mừng rỡ vì cánh cửa mở toang nhưng rèm buông che kín khuôn cửa hình lục lăng. Trại Mạnh Thường khẽ vén rèm ghé mắt nhìn.
Trong căn điện rộng rãi đèn lưu ly sáng choáng, trang hoàng theo kiểu phòng ngủ, không một bóng người. Chiếc long sàn đồ sộ kê giáp
tường mùng còn vén chưa có người nằm. Đích thị đây là Khánh Hòa điện,
nơi ngự của Hoàng đế rồi. Phòng trống không người, tức là Người ngự ở
bên thơ viện. Không do dự, Trại Mạnh Thường vén màn gấm nhảy vào phòng.
Năm người lần lượt theo sau.
Phiến tường ngăn đôi hai căn phòng toàn bằng gỗ trầm hương chạm
trổ tinh vi ngay chính giữa, chiếc cửa võng trúc mở thông hai bên với
nhau. Trại Mạnh Thường rón rén dẫn đầu tới chỗ cửa võng ngó vào.
Hoàng đế vận thường phục màu xanh, ngồi trong chiếc kỷ đệm gấm lớn, đang đọc sách dưới ánh sáng cây đèn kế bên.
Hình như linh tính báo có kẻ lạ gần mình, Hoàng đế Vĩnh Lạc bỗng nhiên buông cuốn sách xuống kỷ, quay phắt lại nhìn ra phía cửa võng
trúc.
Người giật mình, bỏ kỷ, chạy vội ra phía án thơ với tay lên
tường lấy thanh trường kiếm tuốt phắt ra, trừng trừng nhìn sáu kẻ lạ vừa tăng vừa tục, đứng lố nhố ngay giữa cửa :
– Các ngươi là ai? Định hành thích…
Hoàng đế Vĩnh Lạc chưa nói hết câu thì Trại Mạnh Thường, Đức Võ, Chiêu Đức, Hồng Trường Hải đã tiến lẹ tới trước mặt quỳ lạy.
Chưa nhận thức được hành động của bốn người, Vĩnh Lạc tưởng họ
xô đến hãm hại mình nên giơ kiếm thẳng tay chém xuống. Nhưng, kỳ thay
tay kiếm mới hạ lưng chừng thì bỗng lưỡi kiếm bị cứng nhắc chặn đứng hẳn lại. Thì ra, Đức Võ Thượng Nhân đã lẹ làng đưa tay hữu xòe hai ngón cặp chặt lấy lưỡi kiếm như gọng kềm sắt :
– Muôn tâu Thánh thượng hãy an tâm, chúng ngu thần mạo muội nhập Hoàng cung không hề ác ý…
Nhà Vua cố sức rút kiếm ra mà không lung lay, lưỡi kiếm như bị
một sức nặng ghê gớm đè chặt. Không làm thế nào được hơn nữa, Người vội
lùi vào giáp chiếc án thư.
Chiêu Đức thiền sư cất giọng ấm áp :
– Muôn tâu xin Thánh thượng suy xét kỹ. Nếu chúng ngu thần có ác ý thì cuộc tàn sát đã hoàn thành từ lâu rồi.
Vĩnh Lạc nhận xét quả nhiên mấy kẻ lạ mặt nọ không có bộ tịch
hành thích thiệt. Hơn nữa, hai ngón tay sắt của lão đạo sĩ nọ là một
chứng cớ hùng hồn, tỏ rằng bọn người này bản lãnh không vừa, nếu họ có
dã tâm định sát hại thì cuộc âm mưu đã hoàn tất rồi.
Nghĩ vậy, nhà Vua thấy thơ thái an tâm hơn :
– Không có ý hại Trẫm, các người đột nhập nơi cung cấm làm chi? Có biết như vậy là phạm tội khi quân không?
Trại Mạnh Thường dõng dạc :
– Tâu bệ hạ, chúng ngu thần đã không ngại phạm tội tầy đình ấy
nhập nơi cấm thành giữa lúc đêm hôm khuya khoắt, tất phải có lý do gì hệ trọng thúc đẩy dám mong bệ hạ minh xét cho.
Nhà vua chăm chú nhìn từ người nọ đến người kia hồi lâu mới phán :
– Cho các ngươi bình thân và hãy xưng danh cho Trẫm nghe!
Bốn người lạy tạ xốc áo đứng dậy. Trại Mạnh Thường chỉ từng người một giới thiệu :
– Tâu bệ hạ, đây là Đức Võ Thượng Nhân, tu đạo tại Quan ngoại
trong dãy Cửu Huyền sơn, một kiếm khách hữu danh. Vị này là Chiêu Đức
thiền sư, trưởng phái Thiếu Lâm tự. Đây là hiệp khách giang hồ Hồng
Trường Hải, tước hiệu Thiết Hoàn Tử. Còn ngu thần là một kẻ nông dân cư
ngụ tại Tô Châu.
Vĩnh Lạc hoàng đế nhìn từng người một, thấy người nào cũng khí
phách anh hùng thì có ý thầm phục. Cứ suy nguyên một việc họ đột nhập
Hoàng thành vào tận điện Khánh Hòa lẹ làng không một tiếng động, đủ hiểu nếu không phải bực công phu võ thuật cự phách tất không thể hành động
nổi. Nhà vua hất hàm hỏi :
– Còn hai thanh niên tráng sĩ đứng chắn cửa kia là ai?
Trại Mạnh Thường đáp :
– Muôn tâu, chúng là con của ngu thần.
Nói đoạn, Trại Mạnh Thường vẫy tay ra hiệu gọi anh em Tòng Cát vào quỳ lạy :
– Đây là Âu Dương Tòng Cát và Tòng Đức, trưởng và thứ nam của ngu thần.
Hai người lạy yết kiến xong, nhà vua truyền cho phép bình thân.
Đức Võ Thượng Nhân đặt thanh kiếm lên mặt án thư bên vua.
Lúc đó, đã hoàn toàn hết sợ. Vĩnh Lạc hoàng đế ngồi xuống kỷ phán rằng :
– Trẫm cho phép các hiệp khách và đại sư tùy ý ngồi xuống kỷ. Vào đây gặp Trẫm có mục đích gì?
Bốn người tạ Vua rồi ngồi xuống, riêng có anh em Tòng Cát đứng hầu phía sau.
Trại Mạnh Thường nói :
– Tâu bệ hạ, việc mà chúng ngu thần sắp trình bày ra đây tối ư
cơ mật. Liên can tới sự hòa bình của quốc gia. Bệ hạ cho phép ngu thần
được đặt câu hỏi.
Vĩnh Lạc hoàng đế gật đầu, chăm chú nghe.
Trại Mạnh Thường hỏi :
– Thưa Thánh thượng có biết tình hình toàn thể đất Kim Lăng ra thế nào không?
Nhà vua yên lặng nhìn Trại Mạnh Thường như đo dò ý kiến. Hồi lâu, Vĩnh Lạc đáp :
– Thuận Vương, biểu đệ Trẫm đóng ở Kim Lăng, nếu thấy điều chi lạ tất lập báo cáo về triều rồi.
Sau câu dò hỏi đầu tiên. Trại Mạnh Thường biết nhà Vua không
hiểu gì về tình hình miền Giang Nam và thế lực của Thuận Vương, bèn nói
thẳng :
– Muôn tâu, ngu thần muốn trình bày rằng một cuộc âm mưu tạo
phản sắp đặt từ lâu nay đã hoàn thành, chỉ còn chờ dịp khởi sự chống lại chánh quyền, cùng triều đình giành thiên hạ. Người muốn cùng bệ hạ chia đôi sơn hà đó không phải ai xa lạ mà chính là Thuận Vương!
Vĩnh Lạc hoàng đế giật mình, cau mày :
– Các ngươi có hiểu đột nhập Hoàng thành là phạm tội khi quân
tru di tam tộc, nay lại vu khống người của triều đình và Hoàng tộc thì
thêm tội gì nữa không?
Trại Mạnh Thường cứng cổ :
– Kẻ ngu thần, vô thưởng hữu phạt, cất công vào tới đây yết kiến Bệ hạ để trình bày một vấn đề nguy hại cho quốc gia mà thần có đủ lý do biết rằng Bệ hạ không được tường. Vậy tội khi quân đối với chúng ngu
thần bất thành vấn đề vì hai lẽ: Thứ nhất: Ngu thần đã làm một việc theo lẽ phải, song tránh cho dân chúng đất Giang Nam khỏi bị khói lửa can
qua, tránh cho triều đình một cuộc phải đi chinh phạt chưa chắc thắng
bại sẽ về ai, vì lực lượng địch khá lớn lao.
Thứ hai: Bọn ngu thần đã nhập được Hoàng cung thì việc đi ra
chắc không khó, biến hiện bất thường, khinh thường cuộc truy cản của
quan quân nên ngay lúc đầu chúng thần không hề ngần ngại xưng danh tánh
cùng Bệ hạ.
Bệ hạ ở ngôi cao cả học rộng biết nhiều, lại có trăm quan phò
tá, thừa hiểu rằng từ ngàn xưa tới nay kiếm khách giang hồ thế thiên
hành đạo trừ gian khứ hại, hành động theo lẽ phải phục vụ chánh quyền
không cần công thưởng và cũng không hề… biết sợ là gì!
Về việc Thuận Vương muốn bưng binh tạo phản giành thiên hạ với
Thánh thượng, những kẻ thức thời miền Nam đều biết duy chỉ có bệ hạ vì
không được báo cáo nên không hay gì cả. Ngu thần chỉ biết nói rằng Thuận Vương hiện nay có đủ mưu thần, võ tướng, binh lực, quân nhu lương thực
đầy đủ, nghi trượng lên ngôi Cửu Ngũ đã sẵn sàng. Mọi việc chỉ còn chờ
ngày là bùng khởi.
Nay Bệ hạ có muốn kiểm soát cũng không thể được và không kịp. Sở dĩ bệ hạ không được báo cáo tường trình là vì ngay trong triều, người
đứng đầu bách quan liên kết với Thuận Vương nên bịt kín âm mưu tạo phản
không tường trình cùng Bệ hạ. Biết sao nói vậy, kẻ ngu thần đã không lo
cho bổn mạng nhập Hoàng cung phạm tội khi quân, để làm một việc hợp với
lương tâm của kẻ công dân lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ triều đình. Bệ
hạ không tin, chúng thần nay ra về, và tùy ở nơi Người bắt tội.
Nói đoạn, Trại Mạnh Thường đưa mắt cho mọi người cùng rũ áo đứng lên vái nhà vua cáo biệt.
Nghe lời phân trần phải trái của lão anh hùng. Vĩnh Lạc hoàng đế nhận thấy lý lẽ rất cứng rắn nên để tâm suy nghĩ.
Thấy sáu người đứng lên muốn đi, nhà vua bèn xua tay :
– Khoan! Hãy ngồi đó để Trẫm suy tính. Nên hiểu Trẫm không là người hay cố chấp. Lực lượng của Thuận Vương hiện giờ thế nào?
Trại Mạnh Thường đáp :
– Vị Vương gia đó thâu nạp anh hùng võ tướng từ lâu rồi. Dưới
trướng hiện có đủ hạng người, đứng đầu có Ngũ Hổ Tướng, Tiên Phong. Quân sư các vị Thế tử. Đó là chưa kể lục lâm đại đạo có tài phi thiềm tẩu
bách được, kết nạp có cả hàng trăm người võ dũng. Lực lượng thảo mã đặt
rải rác khắp nơi. Nay chỉ chờ dịp thuận tiện là khởi binh và có thừa sức chiếm miền Giang Nam trong nháy mắt.
Vĩnh Lạc tái mặt, đứng phắt dậy khoanh hai tay sau lưng đi đi
lại lại trong thơ viện rộng lớn. Hồi lâu trở về lại như vũ, Vĩnh Lạc hỏi :
– Khanh nói người đứng đầu bách quan liên kết với Thuận Vương phải chăng đó là quan Trần thái sư?
Trại Mạnh Thường không do dự :
– Muôn tâu, chính người đó. Vì thế nên ngu thần lo lắng nếu
Thánh thượng sơ hở, để quan Thái sư nghi ngờ rằng Người đã hiểu biết vụ
âm mưu tạo phản này thì tức khắc Thái sư sẽ thông báo cho Thuận Vương
biết. Như vậy cuộc hưng binh phản loạn sẽ được thực hiện ngay. Bên nào
đánh trước sẽ thủ lợi thế không nhỏ.
– Các khanh tính thế nào giúp Trẫm!
Trại Mạnh Thường chậm rãi :
– Công việc là cả một sự bàn tình vô cùng lớn lao, sắp đặt hoàn
bị mới mong thành công được. Nếu vội vàng, đại sự sẽ hỏng và còn thêm
nguy hiểm vì cuộc khởi loạn sẽ cháy bùng lên ngay. Giờ đây, chúng ngu
thần chỉ còn đủ thời gian ra khỏi Hoàng thành về quán trọ, không thể
trình bày tường tận được.
Vĩnh Ngọc Hoàng đế suy tính hồi lâu :
– Âu là thế này, Trẫm có một người thân tín là viên Tổng thái
giám họ Lý tên Tuyên, có nhà tư ở khu dinh thự. Ngày mai Trẫm sẽ cho y
bí mật đón các khanh vào đây cùng Trẫm bàn định, có tiện không?
Trại Mạnh Thường đáp :
– Đối với chúng thần thì thế nào cũng xong, chỉ e lúc vào Hoàng cung tránh sao được sự kẻ nọ người kia trông thấy?
– Không sao, Trẫm sẽ truyền lệnh Lý Tuyên lấy y phục thái giám
cho các khanh tiện bề trá hình, che mắt mọi người. Còn lúc vào Hoàng
cung thì đã có lối đi riêng, không sợ mọi người dòm ngó.
– Muôn tâu, ngày mai vào giờ nào?
– Chính Ngọ, các khanh tụ họp ở nhà Lý Tuyên ở Thái Hòa lộ, khu
dinh thự. Trẫm sẽ cho lệnh Lý Tuyên chờ đón ngay ở ngoài cổng nhà. Y sẽ
cầm ống hút thuốc lào làm hiệu cho các khanh biết.
Nhà vua tả hình dạng Lý Tuyên và nói tiếp :
– Khi gặp người nào như vậy, các khanh nói câu mật hiệu Khánh Hòa, tức khắc họ Lý sẽ nhận ra ngay. Chớ để Trẫm mong chờ nghe!
Mọi người lạy tạ nhà vua, toan đi ra phòng ngoài. Vĩnh Lạc vẫy tay.
– Theo Trẫm ra cửa này cũng được.
Nói đoạn, nhà vua dẫn sáu người ra lối cửa chánh thư viện.
Ra tới hành lang sáu dạ hành khách lần lượt chuyền lên nóc điện lặng lẽ như bóng ma biến vào trong đêm tối.
Vĩnh Lạc hoàng đế nhìn theo lấy làm phục và mừng thầm rằng quốc
gia hãy còn có những con dân trung thành đáng mặt của triều đình. Nhà
vua đi đi lại lại trong phòng chiêu đăm suy nghĩ buồn bực phiền tức,
không ngờ là một dòng máu rất gần của Hoàng gia mà Thuận Vương nở manh
tâm bội phản định làm nghiêng ngửa ngôi Trời. Còn tên tặc thần Trần Chí
Hòa, thân giữ chức cao cả đứng đầu bách quan, lương cao bổng hậu, giàu
sang vào bực nhất, hơn nữa, có con gái tiến cung, được đặc ân đeo kiếm
vào triều và không phải dùng đại lễ hầu vua mà còn liên lạc với phản
tướng không nghĩ đến nghĩa quân thần. Nhưng, suy đi xét lại, Vĩnh Lạc
nhận thấy mình quá ư nhu nhược nên mầm họa bắt dòng từ hoàng tộc mà ra.
Trước khi trách người, hãy tự trách mình, nhà Vua quyết nhân dịp này
hành động loại hết phần tử thúi nát, dẹp mầm phản loạn, đem lại an ninh
cho thần dân và củng cố ngai vàng. Có được như vậy, sau này thác đi mới
khỏi hổ thẹn cùng Tiên đế chốn cửu tuyền.