Đọc truyện Lã Mai Nương – Chương 18: Tìm dấu kẻ thù, Song hiệp một phen ra Quan ngoại Dò đường thảo khấu, Càn Long đại phá núi Hổ Đầu
Nói về Song hiệp Lã Mai Nương, Cam Tử Long khi rời khỏi Tần gia trang ra khỏi đất Lạc Dương, bèn qua Bảo Định, Thiên Tân vào Bắc Kinh du ngoạn
theo lời Thiên Bôi Tử Ngũ Bạch Đường hỏi thăm đến Thủy Tiên lầu, nơi mà
trước đây bằng hữu của họ Ngũ là Lý Phúc Vĩnh gặp Tăng Tòng Hổ qua lại
chè chén.
Thủy Tiên lầu là một trong những đại tửu lầu ở khu doanh thương thành
Bắc Kinh, nên tuy chốn kinh kỳ rộng lớn, người ta chỉ Song hiệp đến Huy
Quang lộ. Tới đây, Thủy Tiên lầu sừng sững đồ sộ với ba tầng lầu, choán
cả một khu rộng lớn ngay đầu lộ.
Lã Mai Nương hỏi Cam Tử Long :
– Vào đây trọ chớ, sư huynh?
– Trọ đây may ra lân la thăm dò được hành tung Tăng tặc đồ thì hay quá.
Từ ngày hạ sơn tới nay thấm thoát đã năm rưỡi trời rồi, mất bao công
trình phiêu bạt mà kẻ thù đã bặt dạng. Nhiều lúc, ngu huynh tưởng như nó đã chết mất xác đâu rồi.
– Trung Quốc đất rộng người nhiều, chúng ta tìm họ Tăng quả là một việc
rất khó khăn, nhất là sau trên mười năm trời đằng đẵng. Hiện thời biết
rằng trước kia y qua lại nơi đây kể cũng là may mắn lắm rồi. Chỉ rối, gỡ lần lần vậy.
Song hiệp xuống ngựa vào tửu lầu, lựa một thồi trong góc kín đáo ngồi.
Lần đầu tiên Mai Nương, Tử Long đặt chân tới một đại đô mà người qua kẻ lại, y phục sang trọng, dáng dấp phong nhã hào hoa.
Mai Nương nói :
– Lạc Dương thành đã đẹp và rộng lớn nhưng so với đất Kinh kỳ quả còn kém xa.
Tử Long gật đầu mỉm cười :
– Chúng ta là dân sơn cước lạc lõng tới Bồng Lai hạ giới, đất gái lịch trai thanh, y phục lụa là sang trọng.
– Không cứ, sư huynh coi kìa, ngoài người Hán, còn có người Mãn, Mông
qua lại, y phục gọn ghẽ, đeo võ khí kè kè bên mình. Hình như họ cùng là
những kẻ từ xa qua đây như chúng ta, vậy anh em ta đây cũng đâu phải là
khách tha phương cô độc?
Tửu bảo đến lãnh món ăn, Tử Long nhường Mai Nương gọi món… thứ ghi
trong thư… kiểu Bắc Kinh và hồ rượu ngon. Thấy tửu bảo diện mạo sáng
sủa hiền lành, Tử Long mỉm cười lấy cảm tình :
– Này, tôi còn trọ đây mấy ngày, đại ca cho biết tên để tiện nói chuyện?
Tửu bảo thấy khách hàng bình dân, dễ dãi khác hẳn với những vị đại quan, đại thương gia thường qua lại Thủy Tiên lầu, bèn lễ phép trả lời.
– Thưa thiếu gia, con là Trương Thành, làm việc nguyên trên lầu này được mười năm rồi. Thiếu gia cần gì cứ gọi A Lục thì ai cũng biết. Con là
thứ sáu trong nhà.
– Được lắm, cần gì tôi sẽ gọi A Lục nhé. Giờ đây, cho ăn đi, đói bụng quá rồi.
Chờ A Lục đi khỏi, Mai Nương nói :
– A Lục ở đây mười năm rồi, tất phải quên nhiều khách hàng. May ra hỏi thăm được.
– Chính vì thấy y đứng tuổi nên ngu huynh mới làm quen, chẳng ngoài mục đích thăm dò.
Lát sau A Lục đem rượu và món ăn lên bày ra thồi, Cam Tử Long cầm hồ rượu mở nắp ngửi. A Lục vội nói :
– Thưa thiếu gia, thứ Hồng đào tửu này nổi tiếng nhất Bắc Kinh và chỉ
riêng bổn lầu mới có thứ thiệt của dòng họ Lý gia cất lâu năm. Bởi lẽ
ấy, khách hàng qua lại nơi bổn lầu, vị nào cũng đòi uống nguyên thứ bảo
tửu này.
Tử Long gật gù đưa hồ rượu cho Mai Nương :
– Phải rồi, đích thứ Hồng đào tửu này, ông bạn đứng tuổi của chúng ta
thường ca tụng được uống luôn tại Thủy Tiên lầu. Hương đượm ngọt giọng
tệ!
A Lục thấy Tử Long nói vậy liền hỏi :
– Thưa thiếu gia, trừ các quý khách thường qua lại lầu Nhĩ hay dưới nhà, còn vị nào đã qua lầu ba thì con nhớ và biết tên hầu hết. Chẳng hay
người quen biết của thiếu gia hình dáng thế nào?
Tử Long nói :
– Lực lưỡng, trạc ngoại tứ tuần, da đen sần sùi, râu quai nón, dáng điệu võ biền.
A Lục rót rượu mời hai người, nét mặt dáng suy nghĩ, đứng hầu kế bên. Tử Long mời Mai Nương nhấp ly rượu, khà một tiếng khen ngon rồi hỏi A Lục :
– Đại ca có nhớ người đó không?
– Thưa, vị quí khách ấy họ gì ạ?
Tử Long không muốn nói hẳn tên :
– Người ấy họ Tăng.
A Lục nghĩ thầm: “Gớm, hai vị quí khách trang nhã thế này mà sao quen với ông bạn diện mạo xấu xí đến như vậy!”
Nghĩ đoạn, A Lục nói :
– Con nhớ một vị khách quan diện mạo đúng như vậy, cách đây năm sáu năm, thường ngày tới lầu này uống rượu với các bạn, nhưng không phải họ
Tăng.
Tử Long mừng thầm hỏi dựa :
– Phải rồi, bằng hữu của tôi trong thời gian đó thường qua lại Bắc Kinh.
A Lục lắc đầu :
– Nếu qua lại thì chắc không phải rồi, người này thường ngày cùng các
bạn đến đây uống rượu suốt trong một năm như vậy tức là phải ở hẳn Bắc
Kinh.
Tử Long nhìn A Lục :
– Có lẽ y ở hẳn Bắc Kinh vì tôi không nhớ rõ năm hay sáu năm.
– Thưa thiếu gia, nếu là người ấy thì đúng sáu năm, con nhớ rõ ràng.
Suốt trên một năm trời, vị ấy đến bổn lầu uống Hồng đào mỹ tửu nhưng
không bao giờ đi một mình.
Tử Long làm ra dáng thạo và tự nhiên đoán già đoán non :
– Ông bạn tôi hay đi với các vị hảo hán võ dũng.
A Lục lắc đầu :
– Thưa không. Chắc lại lầm rồi, vị đại hán ấy trang phục rất sang trọng, cùng đi với các bạn cũng hết sức cao sang, đúng thời trang. Về phương
diện võ dòng thì không biết được vì người nào trông cũng mạnh khỏe.
– Phải người ấy họ Tăng không?
– Con không bao giờ được nghe các vị khách quan ấy nói chuyện. Mỗi khi
gọi thực vật cần dùng xong, các vị ấy bảo con ra khỏi phòng, chừng nào
cần mới gọi vào, khi con vào họ im lặng. Những việc tương tự xảy ra rất
thường nên con không hề để ý.
– Những năm về sau này, người ấy có trở lại Thủy Tiên lầu nữa không?
Suy nghĩ giây lát, A Lục đáp :
– Bẵng hẳn đi một năm không thấy gì, về sau người ấy có trở lại đây với
một vài người bạn luôn trong vài ba ngày rồi lại bẵng đi có khi nửa năm, hơn nửa năm, hoặc mươi tháng mới lại xuất hiện.
– Cho đến bây giờ cũng vẫn vậy ư?
– Dạ. Nhưng hai năm về sau này không hiểu vì lẽ gì vị ấy cạo bộ râu quai nón sùm sòe đi rồi. Để râu mặt đã dữ, bỏ râu còn dữ hơn. Tuy vậy, tâm
tánh hào sảng lắm, không đến nỗi nào.
Muốn tránh cho A Lục khỏi bép xép, Tử Long nói :
– Lầm rồi, không phải người đó. Ông bạn tôi để râu như thường. À, đại ca có biết người nào tên Lý Phúc Vĩnh không?
A Lục không do dự :
– Thưa có, Lý Phúc Vĩnh là một trong những tiêu sư có phiêu cuộc trong thành Bắc Kinh.
– Y ở đâu?
– Phiêu cuộc hình như ở… Bích Cung Cái. Trước kia Lý tiêu sư cũng hay
lại Thủy Tiên lầu uống rượu. Từ ngày mở thêm hai chi nhánh ở đâu đó thì
chỉ khi nào có dịp qua Bắc Kinh mới đến bổn lầu thôi. Cách đây độ chừng
hai tháng, tiêu sư có về Bắc Kinh.
– Bích Cung Cái có gần đây không?
– Thưa ở lối Bình Tây Môn, nhưng đường sá Bắc Kinh như mắc cửi. Nhị vị muốn đến đó nên đi kiệu sẽ khỏi mất công tìm đường.
Ăn xong, Song hiệp ngồi chơi uống trà ngắm cảnh Bắc Kinh chi dạ hồi lâu mới về phòng.
Tử Long hỏi Mai Nương :
– Sư muội suy luận về các tin tức của A Lục vừa nói thế nào?
– Chắc là Tăng Tòng Hổ. Có lẽ y kiếm ăn vùng này nên thỉnh thoảng ghé
Bắc Kinh cùng đồng bọn ăn xài rồi lại đi. Việc chúng trang phục không
đáng kể, vì chúng phải hóa trang để che đậy bộ mặt cường đạo đi chớ. Sư
huynh có nhớ Ngũ Bạch Đường hôm ăn khánh hỉ ở Tần gia trang đã nói về
sào huyệt của Tăng tặc không?
– Có chớ. Theo lời quái khách họ Ngũ thì tám năm về trước y lập căn cứ ở Hổ Đầu sơn thuộc Phong Linh huyện, tỉnh Nhiệt Hà, ngoài cửa Quan.
– Từ Bắc Kinh lên Quan ngoại không bao xa, biết đâu Tăng tặc đạo không
trở lại quán trú tại Hổ Đầu sơn hành động trong hai vùng Quan nội và
Quan ngoại? Có thế y mới qua lại Bắc Kinh dễ dàng. Sư huynh nghĩ phải
không?
Cam Tử Long gật đầu :
– Hỏi sư muội xem có hợp ý không đó thôi, ngu huynh cũng nghĩ như vậy.
Quái khách Ngũ Bạch Đường đã giới thiệu Lý Phúc Vĩnh, chúng ta thử tìm
gặp y xem có biết được tin tức gì mới hơn không, rồi sẽ liệu sau.
Lã Mai Nương khen phải.
Hôm sau, Mai Nương và Tử Long gọi hai cỗ kiệu ngã giá đến Bình Tây Môn
tìm phiêu cuộc Lý Phúc Vĩnh. Đến nơi Tử Long xưng danh hỏi thăm Lý tiêu
sư.
Viên tài phú tưởng khách hạng sang trọng, xoắn suýt mời chào khiến Tử Long phì cười giải thích :
– Tôi là bạn của Thiên Bôi Tử Ngũ Bạc Đường, muốn gặp Lý tiêu sư có chút việc riêng. Chẳng hay tiêu sư có nhà không?
Lúc bấy giờ tài phú mới nghe ra, nhìn lại thấy Tử Long đeo kè kè thanh trường kiếm bên mình, dáng điệu kiêu hùng bèn đáp :
– Xin lỗi thiếu gia, tôi tưởng thiếu gia và nương tử cần tiêu sư hộ vệ.
Mấy năm nay chủ nhân tôi mở thêm chi nhánh ở Trương Gia Khẩu và ở luôn
trên đó điều khiển, một năm về vài ba lần thôi và hiện thời không có ở
nhà.
– Phiêu cuộc trên Trương Gia Khẩu tên gì, ở đường nào?
Viên tài phú chỉ tấm biển treo dọc trên mé tường gần đường :
– Thưa, cùng một tên “Lý Gia Phiêu Cuộc” ở ngay khúc giữa Sơn Thần lộ.
Cam, Lã cám ơn, rồi thuê xe ra ngã Bắc Môn để luôn tiện thăm các ngôi cổ mộ Minh triều. Khu lăng tẩm này là cả một công trình kiến trúc mỹ
thuật. Lã Mai Nương được Tử Long giảng giải sơ lược công nghiệp của hai
mươi mốt đời Minh đế gồm hai trăm chín mươi sáu năm kể từ Thái Tổ Hồng
Võ lập quốc đến Sùng Trinh. Song hiệp la cà xem tỉ mỉ đã mắt hiếu kỳ rồi mới thong thả trở ra, cùng vào Tiêu Tương điếm ăn uống.
Mấy hôm sau, Cam, Lã rời Bắc Kinh, ra lối Trấn Biên môn đi Trương Gia Khẩu.
Trương Gia Khẩu giáp với Vạn Lý Trường Thành là một trong những cửa ải
địa đầu thành cao, hào sâu kiên cố bội phần. Nơi đây, dân chúng trà trộn ba giống người Hán, Mãn, Mông. Những đoàn khách thương Mông Cổ đầu đội
mũ lông, áo da, ủng da, đoản đao gài đai lưng, tải hàng hóa buôn từ
Trương Gia Khẩu ra khỏi cổng thành. Họ không dùng ngựa thồ như người
Hán, Mãn mà dùng toàn giống lạc đà một bướu cao lênh khênh. Lúc đó một
đoàn người ngựa thồ hàng đi tới.
Song hiệp gò ngựa đứng sang bên, nhường lối cho đoàn khách thương đi
qua. Mai Nương đếm đúng bảy mươi hai thồ hàng. Bốn vị tiêu sư, hai Hán,
hai Mông. Họ cưỡi bốn con tuấn mã cực kiêu hùng. Thấy đôi nam nữ thanh
niên gò ngựa đứng nhìn, bốn vị tiêu sư dùng tiếng Mông Cổ xì xồ nói với
nhau những gì không hiểu và đăm đăm ngó hai người.
Mai Nương bảo Tử Long :
– Vào thành đi sư huynh. Bốn tiêu sư có lẽ nghi ngờ chúng ta là bọn Hướng Mã.
Lục lâm cường đạo thường phải đồng bọn cải trang, trà trộn với dân chúng để dò thám ngày giờ, đường lối tải hàng và tên Bảo tiêu cuộc, số tiêu
sư áp tải, để dự bị đón đường chận đánh cướp hàng cho dễ dàng. Bọn dò
đường không cần phải là đồng bọn với lục lâm. Họ có tổ chức riêng, giao
dịch với các sơn trại trong vùng và phi báo cho các Đại vương chặn đường cướp thồ hàng ngoài vùng sơn trại sào huyệt của chúng.
Lối tổ chức này có từ đời Bắc Tông và chỉ riêng trong địa hạt Sơn Đông,
do những tay giang hồ hắc đạo người Sơn Đông đảm nhiệm. Bởi vậy mới
thành tên “SƠN ĐÔNG HƯỚNG MÔ. Sau đó, các Hướng Mã lan tràn ra hai tỉnh Trực Lệ và Hà Bắc. Bọn Hướng Mã lúc đó không hẳn phải là người Sơn
Đông, nhưng thiên hạ quen miệng gọi luôn những tay chỉ điểm cho lục lâm
cường đạo là Sơn Đông Hướng Mã.
Không phải bất cứ người nào cũng hành nổi nghề Hướng Mã. Họ phải giỏi võ nghệ, tinh tường, giao dịch rộng với mọi người và nhất là trong giới
giang hồ hắc đạo, thông thạo đủ các thứ tiếng lóng mà giới này thường
dùng khi “làm việc”.
Nhiều khi họ bày mưu lập kế cho bọn lục lâm hành động nữa. Họ đánh giá
đoàn thồ hàng để ăn bách phần, thường lấy từ mười đến hai chục phần trăm và lấy tiền trước. Họ “hướng” Đại vương sơn trại đến địa điểm tốt, núp
trong rừng hay sau các mô đá trong khe núi, chờ phục kích. Viên chỉ huy
ước lượng các thồ hàng như tay Hướng Mã đã phi báo.
Theo lệ, viên chỉ huy trả tiền ngay tại chỗ cho y. Tới đây, nhiệm vụ
hướng dẫn, chỉ điểm của Hướng Mã đã xong. Y đi thẳng không cần ngó lại
xem trận phục kích có đem lại kết quả hay không. Mặc hai bên giao chiến, mạnh ai nấy được. Nhưng không phải vụ nào cũng xong xuôi dễ như thế
đâu. Bọn lục lâm nghe danh tiêu sư mới dám nhận lời đánh hay không đánh. Nếu gặp phải tay Bảo tiêu kiệt hiệt, danh tiếng lẫy lừng thì dù món
hàng trị giá “ngon” biết mấy, chúng cũng từ chối như thường, mời Hướng
Mã đi “ăn khách” khác.
Biết vậy, Hướng Mã tính toán hẳn hoi chứ không hướng dẫn liều, mất công. Họ biết tài nghệ, biết lực lượng của từng người, từng toán lục lâm một
mới dẫn hàng. Nhiều khi có những đoàn thồ hàng cực giá trị, có bách phần lên cao, nhưng Hướng Mã đành khoanh tay nhìn với cặp mắt của khách bàng quan, chỉ vì Tiêu sư áp tải chuyến thồ ấy là một tay công phu điêu
luyện, võ công tuyệt vời, danh trấn nội vùng, không một toán lục lâm đại đạo nào dám trêu chọc. Khốn nỗi, không phải Tiêu sư nào cũng vậy. Thực
tài hiếm là hư danh rất nhiều. Đó là thói thường của đời người bất cứ
cổ, kim.
Mai Nương, Tử Long vào thành, trời còn sớm, bèn hỏi thăm đến Sơn Thần lộ tìm “Phúc Vĩnh Phiêu Cục”.
Chủ phiêu cuộc là Lý Phúc Vĩnh đã được Thiên Bôi Tử Bạch Ngũ Đường giới
thiệu Cam, Lã đến đây và cũng đã từng nghe danh đôi danh tài Nam Nữ này
nên tiếp đãi rất niềm nở. Lý Phúc Vĩnh liền giới thiệu hai vị tiêu sư
của mình là Hứa Chuẩn, Tưởng Nguyên Sơn cùng Mai Nương và Tử Long.
Qua câu chuyện hỏi chào, Tử Long thăm dò tin tức của Tăng Tòng Hổ.
Lý Phúc Vĩnh ngạc nhiên, suy nghĩ muốn tìm trong trí nhớ xem gã ấy là ai, rồi hỏi lại :
– Cam hiệp có biết tên y không? Vì nghề nghiệp tôi có biết một số khá đông nhân vật hắc đạo ấy, nhưng không nhớ hẳn tên chung.
– Trước đây năm, sáu năm gì đó, tiên sinh cùng Ngũ anh hùng uống rượu
tại Thủy Tiên lầu ở Bắc Kinh, đã từng gặp gã. Tiên sinh nhớ ra chưa?
Lý Phúc Vĩnh vỗ trán, gật đầu :
– A! Nhớ ra rồi. Hồi đó tôi chưa lập phiêu cuộc ở đây. Phải, Ngũ đại ca
chỉ mặt y cho tôi, trái lại tôi biết tên và hành động của y trong khu
vực bảo phiêu của tôi, Tăng Tòng Hổ, phải không?
– Chính phải.
– Thời gian ấy, họ Tăng có đi lại trong khu vực Bắc Hà, nhưng thật ra y
hoạt động ở ngoài cửa Quan và vùng căn cứ của bọn tặc đạo lục lâm chiếm
cứ Hổ Đầu sơn, một nơi thiên hiểm. Thấy Tòng Hổ qua lại đất Bắc Hà, tôi
đã tưởng y ngấm ngầm nhúng tay vào các vụ cướp hàng hóa có bảo tiêu
trong Quan nội. Thật ra không phải thế. Tôi gặp y tới bốn, năm lần uống
rượu ở Thủy Tiên lầu cùng mấy bằng hữu y phục chỉnh tề, sang trọng. Nếu
không biết rõ như tôi, tất không một ai có thể ngờ được rằng gã là một
tên đại đạo nghiễm nhiên ăn uống tại nơi kinh kỳ, chuyện trò nhàn nhã
như một phú gia hay một quan nhân vậy.
Lã Mai Nương hỏi :
– Trong thời gian ấy, tại Bắc Kinh có xảy ra vụ sát nhân đoạt của nào lớn không?
Lý Phúc Vĩnh suy nghĩ giây lát :
– Không. Chắc chắn không. Tôi cũng đã yên trí thế nào Tăng Tòng Hổ cũng
âm mưu hành động “làm một chuyến” lớn. Nhưng trái lại, tuyệt nhiên không xảy ra vụ án nào cả.
– Thưa tiên sinh, mấy năm sau này thì sao?
– Từ ngày lập chi nhánh phiêu cuộc tại đây, tôi bận điều khiển công việc bảo tiêu tại Trương Gia Khẩu thỉnh thoảng mới về Bắc Kinh và cũng không bao giờ gặp tên tặc đạo ấy nữa. Y đã hoàn lương chăng? Hay đi nơi khác? Tôi không dám nói chắc.
Cam Tử Long hỏi :
– Theo ý tiên sinh, muốn kiếm gã bây giờ cần hành động thế nào?
– Bọn lục lâm Hổ Đầu sơn hãy còn tại chỗ, không gì hơn là nhị vị nên đến đó một phen cho đích xác rồi sẽ hay sau. Hiềm vì Hổ Đầu sơn là nơi
thiên hiểm, bọn đại đạo ở đó khá mạnh mẽ. Quan quân đã kéo tới tiễu trừ
hai ba lần đều bị thất bại. Nhị vị nên chuẩn bị cẩn thận trước khi hành
động.
Cam Tử Long gật đầu, mỉm cười :
– Dạ, dĩ nhiên phải chuẩn bị trước khi vào miệng cọp. Vị trí Hổ Đầu sơn thế nào?
Lý Phúc Vĩnh lấy giấy, bút họa mấy đường chỉ dẫn cho Song hiệp :
– Núi Hổ Đầu thuộc Phong Linh huyện, ở phía Tây bắc hình như cách huyện
đó chừng hai trăm dặm, giáp giới hai tỉnh Nhiệt Hà, Sát Cáp Nhĩ, giữa
quãng rừng núi chập chùng.
– Hiểm tuấn quá như vậy, bọn giặc Hổ Đầu sống bằng cách nào?
– Người ta nói rằng có hai con đường độc đạo chạy vắt qua mặt tiền và
mặt hậu Hổ Đầu sơn. Sự thông thương giữa hai tỉnh Nhiệt Hà, Sát Cáp Nhĩ
đều do hai đại lộ ấy. Như vậy, Hổ Đầu sơn thiên hiểm và lợi thế nên bọn
lục lâm mới lấy đó làm căn cứ địa.
– Từ Vạn Lý Trường Thành ra Phong Linh huyện, lối nào tiện hơn?
– Có hai lối đi bằng nhau. Từ Sơn Hải quan theo ngả tay tả. Từ Trương
Gia Khẩu theo ngả tay hữu. Dĩ nhiên nhị vị hiện thời ở đây, đi lối
Trương Gia gần hơn. Nhị vị có gấp không?
Cam Tử Long nói :
– Sớm ngày nào hay ngày ấy.
Lý Phúc Vĩnh hỏi Hứa Chuẩn :
– Bốc Đề Nhĩ theo đoàn áp tải đi Đại Đồng được mấy bữa rồi nhỉ?
Họ Hứa đáp :
– Năm hôm rồi, có lẽ chỉ một hai ngày nữa sẽ về tới đây.
Lý Phúc Vĩnh nói với Cam, Lã :
– Nếu nhị vị chờ được, tôi sẽ cho Bốc Đề Nhĩ, một thủ hả người Mãn khỏe
mạnh, lanh lẹ. Y rất thuộc vùng Hổ Đầu, nhị vị sẽ đỡ mất công dò hỏi.
Cam Tử Long cả mừng :
– Ơn ấy chúng tôi không bao giờ quên.
– Anh em hồ hải chúng tôi giúp nhau được phần nào hay phần nấy, Cam hiệp cứ tự nhiên. Nhị vị có nói được tiếng Mãn tộc không?
– Tôi bập bẹ được vài tiếng cần thiết, nhưng Lã sư muội nói thạo y hệt người Mãn.
– Thế thì hay lắm, vì Bốc Đề Nhĩ không nói được Bạch thoại.
Song hiệp đứng lên từ tạ, Lý Phúc Vĩnh nói :
– Đáng lẽ tôi lưu khách, hiềm vì nơi Phiêu cuộc kẻ ra người vào, hàng
hóa xô bồ bất tiện. Trương Gia Khẩu có Biên Cương quán ở Bắc Kinh lộ lớn nhất. Thể thức tiện nghi theo lối Kinh sư, nhị vị chờ đây chốc lát, tôi phái người đi lấy phòng. Tối nay chúng ta dùng bữa ở đó.
Cam Tử Long nói :
– Khỏi phiền, chúng tôi tự khắc tìm đến. Cuối giờ Mùi sẽ tái kiến.
Hai người ra khỏi phiêu cuộc, lên ngựa nhằm các nơi đông đúc đi tới. Đến đại lộ Bắc Kinh, Cam, Lã xuống ngựa trước Biên Cương quán, trao cương
cho tửu bảo, vác hành lý vào thẳng quán trọ, lấy phòng trên lầu.
Tửu bảo chưa kịp bước thì từ trên lầu, một hòa thượng lực lưỡng vận áo
đen đai vải vàng, lưng đeo nón lá úp lên thanh giới đao chuôi nhô lên
khỏi vai, theo sau là một người trạc tứ tuần vóc trung bình vận võ phục, bên sườn gài cặp giản, lưng đeo hành lý, cả hai cùng vùn vụt bước hai
bực một xuống lầu.
Họ đi gấp quá, gần như chạy, vô ý đến nỗi Mai Nương, Tử Long không lẹ
chân tránh kịp thì kẻ đi lên, người đi xuồng xô cả vào nhau.
Riêng tên tửu bảo tránh không kịp, bị hòa thượng chạm nhẹ té cồng kềnh xuống mấy bực thang lầu.
Hòa thượng và người kia cũng chẳng buồn ngó lại, rảo bước ra phía quầy hàng.
Mai Nương nổi giận, toan đuổi theo nhưng Tử Long cầm tay giữ lại :
– Thôi, kệ chúng, xô xát nơi tửu lầu ngay vừa lúc tới không tiện.
Nói đoạn, chàng đỡ tửu bảo dậy :
– Có sao không?
Tửu bảo bóp cánh tay tả nhăn nhó :
– Gớm! Tay gì mà cứng như sắt, chạm phải tay còn đau hơn bị té trầy hông. Sư mô gì mà khiếp quá!
Từ đó, Mai Nương và Tử Long có ý dò xem lai lịch và hành động của vị hòa thượng này nên khi Lý Phúc Vĩnh, Tưởng Nguyên Sơn và Hứa Chuẩn đến dự
tiệc.
Tử Long đem việc gặp hòa thượng dữ tướng ở thang lầu thuật lại cho ba vị tiêu sư nghe.
Tưởng Nguyên Sơn nói :
– Nhị vị đừng lấy làm lạ. Đạo giới ở Trương Gia Khẩu cũng có nhiều thứ
người. Hòa thượng Hán, Mãn, Mông nhan nhản, phần đông đều cao lớn, lực
lưỡng, nhất là hai giống người Mãn Châu, Mông Cổ. Thoạt nhìn, ta có cảm
tưởng họ hung hãn như đầu đà Hán tộc, thật ra nét mặt dữ tợn nhưng tâm
địa rất lành.
Mai Nương lắc đầu :
– Nhưng không phải là trường hợp của gã đầu đà gặp ở thang lầu. Chúng
tôi từng thấy hòa thượng Mãn, Mông ở Bắc Kinh, Lư Câu kiều. Diện mạo lầm lì dữ thật, trái lại cặp mắt thật nhân từ, chớ không như cặp kim điểu
nhãn của tên hồi nãy.
Cam Tử Long hỏi :
– Trương Gia Khẩu có ngôi đại tự nào khiến quý vị phải chú ý không?
Lý Phúc Vĩnh nhìn hai bạn đồng nghiệp như muốn hỏi ý kiến.
Tiêu sư Hứa Chuẩn đáp :
– Tại địa điểm biên ải này là bốn ngôi thiền viện. Một của người Mãn ở
trong thành phía Tây Môn. Một ngôi riêng của người Mông Cổ gần Nam Môn.
Ngôi thứ ba của hòa thượng người Hán ở gần chùa Mông, cách nhau bởi một
khu đất lớn. Cả ba thiền viện này đều ở nội thành. Cổ kính nhất là ngôi
chùa Mông Cổ xây dựng từ Nguyên triều. Sau đó là chùa Hán tộc có từ thời Minh Thành Tổ. Chùa của Mãn tộc mới nhất, xây từ hồi Thuận Trị vượt
biên ải vào Trung Quốc lập nghiệp đế. Ngoài ra còn có một ngôi đại tự
nữa ở ngoại thành lối Tây bắc. Tôi chưa tới đó dâng hương bao giờ, nhưng nghe nói chùa ấy cực kỳ rộng lớn oai nghiêm. Các hòa thượng trụ trì bất phân Mãn, Hán, Mông.
Lã Mai Nương vội hỏi :
– Tên thiền viện ấy là gì?
– Thiên Vương tự.
– Cách thành bao xa?
– Hình như năm, bảy dặm, tôi không đủ thì giờ đi chiêm bái nên không rõ
lắm, chỉ nghe nói thôi. Tiện nội lễ quanh nội thành được rồi, đi xa phải đưa đón hộ vệ thêm phiền.
Mai Nương đưa mắt nhìn Tử Long. Chàng hỏi :
– Hứa tiên sinh có biết pháp hiệu vị đại hòa thượng Thiên Vương tự không?
Hứa Chuẩn hỏi Tưởng Nguyên Sơn :
– Đại ca thường đi lễ tại Thiền viện đó ư? Bao lâu nay cộng sự với nhau không nghe nói đại ca đi chùa?
Nhìn Cam, Lã, Tưởng Nguyên Sơn nói tiếp :
– Đại hòa thượng Thiên Vương tự thuộc giống Bạch quỷ thật. Nước da trắng hồng như Lã tiểu thư thật hiếm có cho một nam nhi. Dị kỳ hơn nữa là râu tóc y vàng hoe, tròng con ngươi xanh như mắt mèo, mũi dài dị thường.
Thân hình cao lớn đặc biệt. Như Cam hiệp đầy nở nang lực lưỡng ít người
bì kịp nếu đứng bên cũng chỉ cao đến tai y thôi.
Cam Tử Long hỏi Nguyên Sơn :
– Vị hòa thượng đó đạo hiệu là gì, nói tiếng gì?
– Pháp hiệu là Thiên Cương hòa thượng, nhưng tên ghi sổ danh hạ tại dinh Tổng binh là Lịch Sơn Độ. Vì y dị tướng, dân chúng Trương Gia Khẩu
thường gọi y là Bạch quỷ hòa thượng, Hoàng Mao hay Miêu nhãn, Thiên
Cương thạo Bạch thoại và Mông Cổ, chữ viết cực tốt.
– Hòa thượng ấy trạc bao nhiêu tuổi?
– Thiên Cương hòa thượng mới ba mươi bảy tuổi, để râu quai nón, nét mặt già dặn như kẻ ngót ngũ tuần.
– Thiên Cương đến trụ trì Thiên Vương tự được bao lâu?
– Tôi không rõ. Lúc trước tôi ở Thiên Tân, lên Trương Gia Khẩu được hơn
một năm ở Phiêu cuộc thì gặp Lý đại ca đây. Hai bên hợp tác cho đến nay.
– Một điều đáng chú ý đến Thiên Vương tự là vị đệ nhị hòa thượng phụ trách các Kinh Lễ trong chùa thuộc giống Hắc quỷ.
Cam Tử Long phì cười :
– Nếu thế kể cũng thế gian hãn hữu thật, Bạch, Hắc quỷ trùng phùng trong một đại gia thiền viện, Triệu tổng binh nghi ngờ là phải! Hắc hòa
thượng đạo hiệu là gì?
– Hắc Phong hòa thượng Mông Lộ Di. Không biết gốc tích ở đâu nhưng từ
Tây Tạng vào Trung Quốc. To ngang, thấp hơn Thiên Cương, xem chừng cũng
sức lực lắm. Nực cười một điều là Thiên Cương hòa thượng trắng bao nhiêu thì Hắc Phong đen kịt bấy nhiêu. Từ chân lên tới toàn thân đen như mực, mắt lồi, răng nhe trắng nhởn, nhìn phát khiếp tưởng như quỷ sứ hiện
thân. Thiên Cương đến Trương Gia Khẩu hơn bốn năm, tôi mới trông thấy
Thiên Cương hòa thượng ra phố mỗi một lần, còn Hắc Phong thì thường gặp.
– Lúc nãy, tôi ngờ tên đầu đà ở trên lầu xuống là người tu hành xứ này
nên mới hỏi chuyện về thiền viện, chẳng ngờ được nghe chuyện Thiên Vương tự kể cũng thú.
Tưởng Nguyên Sơn nói :
– Kể đi đã nhiều nơi, tôi nghiệm rằng không xứ nào đạo giới lại nhiều
giống người trà trộn như Trương Gia Khẩu. Diện mạo chư tăng phần đông dữ dội, vóc dáng mập mạp khỏe mạnh khiến người ở xa tới không quen mặt, ai nấy đều có cảm tưởng này là xứ sở của đầu đà. Người Mông thì lầm lì,
mặt lạnh như tiền. Người Mãn thì nham hiểm, ác. Nếu chỉ xét riêng vẻ bề
ngoài tất sai hết. Tiếp xúc với giới tăng đạo trong nội thành, tôi nhận
thấy họ đạo hạnh rất cao, đáng kính lắm.
Lã Mai Nương nói :
– Tiêu sư suy luận như vậy cũng phải, nhưng còn có một lý do nữa khiến bọn đầu đà tồn tại hết thế hệ này qua thế hệ kia.
– Sao vậy?
– Dễ hiểu lắm. Trung Quốc rộng mênh mông, thiền viện, am miếu nhan nhản, mạnh ai nấy tu. Đạo giáo được toàn dân tôn trọng, tuy thiền môn có quy
chế hẳn hoi, nhưng các cấp trên dưới không đủ phương tiện kiểm soát khắp mọi nơi, thành thử mỗi thiền viện là một giang sơn riêng biệt mà vị sự
trưởng trụ trì điều khiển theo lề lối riêng mình. Vị sư trưởng nào đạo
hạnh cao siêu, lựa chọn cẩn thận các tăng, tiểu thế phát, ngôi chùa ấy
không hổ danh thiền tự. Trái lại, một tên đạo tặc đội lốt thiền y, thâu
nạp đồ đảng, dùng chốn thiền môn làm căn cứ cho tiện bề hành động, dĩ
nhiên thiền viện dù là cổ tự hữu danh biết mấy cũng thành nguy hiểm cho
dân chúng địa phương.
Nói tới đây, Lã Mai Nương thuật vụ Pháp Quang hạ sát Huệ Tĩnh thiền sư,
chiếm đoạt chùa Thiên Sơn bên Túc Kỳ Châu cho hai vị tiêu sư nghe.
Lý Phúc Vĩnh nói với Song hiệp :
– Nhân dịp qua Trương Gia Khẩu, nhị vị nên dâng hương Thiên Vương tự thăm thử một phen.
Cam Tử Long đáp :
– Chúng tôi ra Quan ngoại trước cần tìm Tăng Tòng Hổ, sau đó mới tính chuyện thăm Thiên Vương tự.
– Cam hiệp có thể cho tôi biết lý do muốn gặp Tăng Tòng Hổ không?
Tử Long đem việc Tăng tặc đạo mượn tiếng thách đầu võ, phục kích hạ sát
lão anh hùng Cam Trường Mâu trong Tần Lĩnh sơn thuật rõ ràng cho hai
tiêu sư nghe.
Lý, Hứa, Tưởng bùi ngùi thương cảm và giận thay tên tặc đồ hèn nhát.
Tới gần trưa hôm sau, Lý Phúc Vĩnh dẫn Bốc Đề Nhĩ đến giới thiệu Tử Long để dẫn đường thám thính Hổ Đầu sơn
* * * * *
Hổ Đầu sơn cây cối um tùm ở giữa dãy núi ngăn đôi hai tỉnh Nhiệt Hà, Sát Cáp Nhĩ ngoài cửa Quan. Ngọn núi ấy không những là nơi thiên hiểm mà
còn là căn cứ địa thuận lợi cho bọn lục lâm cường đạo nhan nhản khắp nơi thời tàn Minh và Thanh triều.
Đại vương chiếm cứ Hổ Đầu sơn họ Sử tên Đại Toàn, đồ đệ của võ sư lợi
hại Mông Cổ, giống người Đạt Đất ở An Đài Sơn, tên là Cát Đạt. Thầy nào
trò nấy, Sử Đại Toàn tánh tình hung dữ, sức khỏe, tài nghệ hay, muốn
giàu có bằng nghề tắt nên trở thành tay độc cước đại đạo chuyên “làm ăn” ở vùng biên giới Mãn, Mông thuộc phần đất Mông Cổ, xuất hiện bất kỳ,
nổi danh trong giới lục lâm là Thần Sơn. Lần lần, y tụ tập được nhiều bè đảng, tính đến việc lập căn cứ, sơn trại. Sau một thời gian thăm dò, Sử Đại Toàn kéo đồng bọn vào Mãn Châu chiếm cứ Hổ Đầu sơn lập doanh trại
kiên cố.
Thần Sơn Sử Đại Toàn quen sử dụng một lá chắn bằng đồng, nơi cầm có một
mũi nhọn, tay hữu cầm cây đồng giản bốn cạnh. Chiếc lá chắn bằng đồng có mũi nhọn mới lợi hại ghê gớm. Thường ra, người ta dùng lá chắn để gạt
đỡ đòn địch và trả đòn bằng khí giới cầm tay hữu. Nhưng với mũi nhọn ở
vành lá chắn đồng, Sử Đại Toàn có thể bất ngờ vừa đỡ, vừa quật trái mũi
nhọn vào địch thủ như thường.
Lập sơn trại trên Hổ Đầu sơn được hai năm, Sử Đại Toàn thâu dụng ba lục
lâm hữu danh. Một người Hán tộc là Đặng Cửu Bá, đại đạo gốc ở Thái
Nguyên phủ, tỉnh Sơn Tây, tước hiệu Thạch Đầu Quỷ. Họ Đặng thấp không
đầy bốn thước, cổ to vai rộng, tay chân ngắn nhưng nở nang dị thường,
toàn thân lông lá xồm xoàm như thủy ngưu, trái lại đầu nhẵn trụi bóng
loáng không có lấy một sợi tóc.
Không hiểu Thạch Đầu Quỷ Đặng Cửu Bá tập luyện “Thủ Công Pháp” từ hồi
nào và ở đâu, nhưng mỗi khi lâm trận, y bất chợt phóng toàn thân đầu đi
trước húc mạnh vào ngực, bụng đối phương. Sức húc của y mạnh như sức
trâu điên, địch thủ trúng đòn thường nghẹt hơi chết ngất. Đặng Cửu Bá
chỉ có việc hạ đồng nhân là môn võ khí y quen dùng kết quả tánh mạng của kẻ địch.
Trông họ Đặng tập luyện “Thủ Công Pháp” trên võ sảnh mới lạ kỳ. Y đứng
vào giữa những túi cát to lớn nặng ít nhất cũng một tạ, quay cuồng húc
lia lịa tứ phía, quật đầu sang tả, sang hữu, húc tiền, húc hậu, hai tay
chắp sau lưng, y hệt một con trâu hung hăng.
Cũng vì Đặng Cửu Bá diện mạo dữ tợn lại có cái đầu đặc biệt ấy nên nổi
danh trong bọn lục lâm với tước hiệu Thạch Đầu Quỷ, kể cũng xứng đáng
vậy.
Hai người nữa gốc Mông Cổ, thuộc dòng Chuẫn Khất Nhĩ. Người thứ nhất tên Thiết Mộc Can, lực lưỡng, quen sử dụng độc chùy dũng mãnh vô cùng.
Thiết Mộc Can mắt một mí, sắc như dao, tròng mắt vàng tựa đồng thau. Y
nhìn được rất xa, đêm cũng như ngày nên thành tước hiệu Kim Điêu Nhãn.
Người thứ hai tên Thành Man Đô, mặt đỏ nhừ, có tài chạy nhanh như ngựa,
bắt đuôi ngựa phóng mình lên lưng ngựa không yên cương, múa thiết xích
xung đột dữ dội. Người đồng chủng gọi Thành Man Đô là Xích Mã.
Đại vương Hổ Đầu sơn Sử Đại Toàn là anh đồng phụ dị mẫu với vợ Bành
Khoát Hải bị Song hiệp Cam Tử Long, Lã Mai Nương giúp hai mẹ con Cầm Đại Nương hỏa thiêu trọn ổ bên Hoa Châu trước.
Hôm đó vợ Bành Khoát Hải là Sử Huyền Cô cùng con gái là Bành Thúy Linh
ra ngoài cửa Quan thăm Sử Đại Toàn. Bởi vậy mới thoát tay mẹ con Cầm Đại Nương và Song hiệp. Ít lâu sau, Sử Huyền Cô và Bành Thúy Linh về Hóa
Châu không ngờ khi tới nơi thì Bành gia ổ chỉ còn là đống tro tàn. Mấy
tên trang đinh chạy thoát còn lẫn quẩn quanh vùng, gặp chủ mẫu bèn thuật lại trận đánh chỉ cho xem lưu bút của Song hiệp và mẹ con họ Cầm ghi
trên vách tường.
Sử Huyền Cô, Bàng Thúy Linh không biết làm thế nào, đành trở ra Quan
ngoại lên Hổ Đầu sơn kêu khóc nương nhờ Sử Đại Toàn. Đại vương núi Hổ
Đầu bảo em và cháu gái :
– Cơ sự đã là như vậy, hiền muội cùng điệt nữ hãy chịu khó ở lại đây,
sau này sẽ có dịp báo thù, thiên hạ mênh mông biết tìm kẻ địch nơi nào
bây giờ?
Trước khi mẹ con Sử Huyền Cô lên Hổ Đầu sơn, Tăng Tòng Hổ bỏ đi nơi khác đã lâu rồi. Sử Đại Toàn quen Tăng tặc đạo không phải không có nguyên
do.
Nguyên lúc họ Sử bỏ biên giới Mông Cổ và Mãn Châu chăm chú lập căn cứ
thì gặp Tăng Tòng Hổ. Nhờ sự chỉ dẫn của tên này, Đại Toàn mới biết Hổ
Đầu sơn lập thành căn cứ theo ý muốn. Trong thời gian ấy, họ Tăng hoành
hành ở khu vực phía Đông nam Nhiệt Hà gần Sơn Hải quan nên Đại Toàn mới
về Hổ Đầu sơn cùng ở.
Tòng Hổ nhận lời, lúc đi lúc ở bất thường. Phần vị y lo dòng dõi Cam
Trường Mâu báo thu, phần vi y ưa lưu động nay tung hoành nơi này. Mai
vùng vẫy nơi khác để “kiếm ăn” đỡ lo hơn lập sơn trại chiêu nạp đồng
đẳng nhiều điều bó buộc. Tăng Tòng Hổ không ở chỗ nào nhất định.
Tuy vậy, sau khi Sử Đại Toàn thiết lập Hổ Đầu sơn trại, Tòng Hổ vẫn
thường qua tại trú ngụ lúc năm bữa, nửa tháng, lúc vài tháng rồi đi biệt lâu lâu mới trở lại không chừng, như thế suốt trong mấy năm trời. Đó là thời gian mà Ngũ Bạch Đường và Lý Phúc Vĩnh gặp Tăng Tòng Hổ tại Thủy
Tiên lầu Bắc Kinh.
Ra khỏi ải Trương Gia Khẩu, Song hiệp và Bóc Đề Nhĩ đi vào địa phận Nhiệt Hà.
Thật ra hai tỉnh Nhiệt Hà, Sát Cáp Nhĩ cũng như Ninh Hạ, Tuy Viễn là
phần đất nội Mông. Nhưng từ khi Thuận Trị giúp Ngô Tam Quế trừ Lý Sấm,
họ Ngô thấy khí thế nhà Minh đã hết không thể cố gắng hồi phục được nữa
bèn mời Sơn Hải quan rước Thuận Trị vào lập nghiệp đế ở Trung Quốc.
Khí thế Mãn tộc lúc đó đang vượng, bộ đội Mãn Châu hùng mạnh tiến vào
Quan nội. Dân Mãn cũng theo đà từ Đông Tam Tỉnh tràn xuống lập nghiệp,
kẻ đi xa thì vào Quan nội, người đi gần ở Quan ngoại. Họ định cư ở phía
Đông Nhiệt Hà rồi lần lần trà trộn tiến sang phía Tây và Tây bắc sanh
cơ, lập nghiệp lan tràn khắp hai tỉnh Nhiệt Hà, Sát Cáp Nhĩ. Qua mấy thế hệ sau, truyền đến thời Càn Long thì người Mãn ở hai tỉnh này đông hơn
người Mông.
Người Hán cũng từ Quan nội vượt ải ra đó định cư buôn bán ngày một đông, canh tân hóa hẳn lối sống man rợ của dân Quan ngoại. Đó là một việc
trái ngược.
Minh triều đổ, dân Hán võ lực và thế lực chánh trị thua kém, bị Mãn tộc
chinh phục, nhưng nhờ dân số đông, trình độ văn hóa cao hơn, thành thử
Mãn tộc vẫn phải coi theo phép cai trị, nên văn mình của Hán tộc và một
thời gian sau kẻ chinh phục bị đồng hóa, đồng chủng với dân bị trị. Với
triều Minh, Trung Quốc thêm phần đất Nội Mông, nay với triều Thanh, bờ
cõi được mở rộng thêm phần Mãn Châu quốc lên đến Hắc Long Giang.
Ba dân tộc Hán, Mãn, Mông từ đó liên kết cho đến thời Dân Quốc không kể Tạng tộc và Hồi tộc.
Song hiệp và Bốc Đề Nhĩ thảnh thơi buông lỏng cương ngựa, ngắm phong cảnh hùng vĩ, núi cao rừng rậm trùng điệp.
Ngày đi đêm nghỉ, ba hôm sau tới Phong Linh huyện. Tại đây dân Hán, Mãn, Mông buôn bán khá sầm uất tuy không bằng ải nội Trương Gia. Nghỉ lại
huyện một ngày, ba người lên đường nhằm nảo Hổ Đầu sơn. Hai bên đường,
cây cối thưa lần, nhường chỗ cho những mõm đá lớn ngổn ngang đây đó.
Trời xế chiều, rừng ô đỏ ối ngả non tây. Những chặng núi đá xa xa nổi
bật ở chân trời tím ngắt, dài dằng dặc, như bức trường thành Vạn Lý, đèo ải muôn trùng. Lưng trời, những khóm mây bạc dồn lại tạo thành nhiều
hình kỳ dị khổng lồ.
Mai Nương lắng tai nghe :
– Gió thổi nhẹ mà sao có tiếng rào rào kỳ lạ.
Bốc Đề Nhĩ chỉ tay sang phía hữu :
– Nghỉ chân ở đây. Tuy còn sớm, nếu đi nữa sẽ phải ngủ ngoài trời.
Lã Mai Nương nói :
– Bốc đại ca dẫn xem dòng Loan Hà nào!
Đề Nhĩ lên ngựa, giục chạy trước, độ hơn hai trăm thước tới bờ sông.
Sông nhỏ nhưng nước chảy xiết, ba đảo cuồng cuộn đẩy vào những mõm đá
giữa dòng bật thành tiếng vang dội ở xa nghe thấy.
Nàng hỏi :
– Loan Hà chảy về đâu? Ta sẽ phải qua sông chăng?
– Loan Hà đổ về vịnh Liêu Đông. Sáng mau lên đường theo ngọn sông này
đến trưa thì rẽ về Tây bắc nhằm nẻo Hổ Đầu. Bây giờ ta trở về hốc đá cơm nước thì vừa, thưa tiểu thư.
Ba người lẳng lặng trở bước hạ trại, đặt hành lý vào một nơi, tháo yên cương cho ba con tuấn mã nghỉ ngơi.
Trong khi Tử Long, Mai Nương tháo cung, kiếm dựng vào thành đá, ra vũng
nước rửa mặt và xách túi nước về dùng, Bốc Đề Nhĩ đi lượm cây khô chất
thành đống, đánh lửa thổi cơm, pha trà.
Mai Nương xắt thịt muối ra xào.
Tử Long đánh hơi :
– Chà! Thơm quá, đói bụng thiệt!
Chàng mở vung nồi cơm xem có nhiều không. Bốc Đề Nhĩ mỉm cười, bập bẹ nói mấy câu tiếng Hán khó hiểu :
– Đầy nồi mà thiếu gia lo gì?
Chàng vỗ vai họ Bốc cười lớn :
– Tối muốn có đại ca cùng đi với tôi mãi mãi.
Bốc Đề Nhĩ không hiểu, nhìn Mai Nương vui vẻ thông ngôn sang tiếng Mãn,
Bốc Đề Nhĩ cười khanh khách, gật đầu lia lịa, líu lo mấy cầu mà Tử Lòng
cũng đành ngẩn người không hiểu nốt :
– Y nói gì vậy, hả sư muội?
Mai Nương đỏ mặt, im lìm, Tử Long thắc mắc hỏi gặng.
Bất đắc dĩ, nàng nói nhỏ :
– Y nói bậy quá! Khó dịch lại lắm. Sư huynh đừng gặng nữa.
Tử Long không chịu, nghiêm nghị :
– Nói bậy đâu có được! Ngu huynh mới khen y xong.
Sắc diện đỏ nhừ, Mai Nương đẹp lộng lẫy giữa khung cảnh hoang vu.
Nàng ngập ngừng hồi lâu :
– Y tưởng rằng chúng ta… đính hôn nhau mới nên… nên nói rằng muốn
theo ta cho đến lúc… lúc con cái đầy đàn… Đấy là lối chúc tụng rất
chân thành của người Mãn tộc, sư huynh đừng để ý.
Nói đoạn, nàng cúi xuống thổi lửa, tránh cặp mắt long lanh điện tử của bạn đồng môn.
Cam Tử Long cười vang :
– Tường gì chớ nói vậy mà muội cho là… bậy ư? Ngập ngừng mãi khiến ngu huynh lên ruột muốn chết đó!
Chàng âu yếm nhìn mái tóc mây huyền đang thổi lửa, tuy ngọn lửa đã bốc bừng bừng.
Ăn cơm xong, Cam Tử Long ra dắt ngựa về cột bên hốc đá. Mai Nương lo
trải chỗ nằm, Bốc Đề Nhĩ dẹp đồ ăn thức đựng, Mọi việc xong xuôi, vừa
vặn trời ngả hoàng hôn. Tử Long ngả mình xuống mền, hai tay khoanh sau
gáy, đầu dựa lên yên ngựa thay gối. Mai Nương ngồi bên tấm mền của nàng
trải gần đó.
Bốc Đề Nhĩ leo lên mỏm đá cao, ngồi khoanh tròn cất tiếng hát líu lo theo Mãn ngữ, thỉnh thoảng đưa tay vỗ Nhĩp.
Tiếng ca man dại chập chùng giọng ấm áp khiến đôi khách giang hồ cảm thấy lạnh lùng tha hương vạn dặm.
Tử Long nói :
– Bốc Đề Nhĩ hát gì vậy? Buồn ghê!
Mai Nương suy nghĩ giây lát :
– Y ca mấy câu ngụ ý tha hương nơi bến sông dặm trường hoang vắng.
Chàng ngoái lại nhìn bạn :
– Sư muội dịch cho ngu huynh nghe nào?
– Trời ơi, lời thơ mà! Tiểu muội dịch sao trôi?
– Trôi hay không cũng là dịch.
Mai Nương mỉm cười tươi như hoa :
– Sư huynh đừng chê nhé?
– Ai dám chê? Hồi ở trên núi, sư muội ham đọc sách hơn ngu huynh.
– Đây nè. Bốc Đề Nhĩ ca đại khái rằng:
Mây làn mây trắng lửng lơ.
Trăng tòng soi nước ngẩn ngơ dặm hàng
Bến chiều lạc cảnh tha hương
Giang hồ lạc bước biết phương trời nài
Không đi cho khắc dặm ngàn
Vùi đây án sách nồng đời làm trai…
Tử Long gật đầu khen :
– Hay! Lời ca mô tả đúng tánh tình khoáng đạt ưa phiêu lưu của Mãn tộc. Sư muội dịch cũng tài tình.
Chàng đăm chiêu nhìn chân trời xa thẳm qua màn sương nhẹ chiều thu.
Mai Nương thắc mắc :
– Sư huynh nghĩ gì vậy?
– Ngu huynh nhớ đến Cam gia trại vì lời ca tha hương của Bốc Đề Nhĩ. Nhớ hồi nào mới ra đi bỏ lại hoa viên đầy cúc, đào chen nở. Nay hạ qua, thu tới, và rồi đây thu tàn lại sang Đông. Chiều nay hoàn toàn hoài cảm về
thu.
Mai Nương ngả đầy xuống yên ngựa :
– Sư huynh có nhớ bài “Thu hứng” của Thiếu Lăng Dã Lão không nhỉ?
– Lời thơ thu dễ cảm hứng bất hỷ của Đỗ Phủ thời Đường Huyền Tông, phải không?
Mai Nương gật đầu :
– Tiểu muội quên bài đó rồi. Thế nào nhỉ?
Cam Tử Long cất giọng trầm trầm, khẽ đọc:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn vu giáp khí tiên sâm
Giang giang ba lãng kiêm thiêm dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tòng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao, xích,
Bạch đế thành cao cấp mộ châm.
Tạm dịch:
Rừng phong lác đác bụi sương sa.
Vu Sơn hiu hắt hơi mây phủ
Cuồn cuộn lưng trời gợn thủy ba
Rợp đất mây bay mờ ngọn ải.
Hai lần cúc nở lệ sầu sa
Tình quê vương vấn nơi vườn cũ,
Áo lạnh quê người tay bước kéo
Đập ải thành hôm rộn tiếng chày.
Nghe bạn đọc xong bài thơ, Mai Nương nói :
– Cô mẫu Lã Mai Nương thường ngâm bài Thu Hoài mỗi chuyến thu về.
Cam Tử Long ngóc đầu lắng nghe, nói khẽ :
– Sư muội có nghe thấy gì không?
Mai Nương lắng tai giây lát :
– Tiếng nước Loan Hà đập vào đá. Y hệt tiếng chày đập vải chiều có thôn. Màn đêm lần lần bao phủ cảnh vật, vầng trăng huyền ảo chiếu sương
khuya.
Cam Tử Long vùng dậy lấy kiếm cung đưa cho Mai Nương gác bên mình. Bốc
Đề Nhĩ lựa mấy cành khô lớn gây thêm lửa trại, đoạn vào chỗ trải sẵn
trong cùng hốc đá, đặt mình nằm là ngáy vo vo.
Mai Nương nói :
– Sung sướng thay con người vô tư lự! Chúc sư huynh ngon giấc nhé.
Tử Long vẫy tay chào bạn, quay mình sang bên ngủ.
Sáng hôm sau, điểm tâm xong, ba người lên đường. Đi ngày rưỡi thì đến sơn thôn. Dân thôn thấy người lạ chạy ra xem.
Họ nhận ra họ Bốc, bèn lên tiếng chào hỏi.
Đề Nhĩ vui vẻ đáp lời. Gã dẫn Song hiệp đến nhà Cửu mẫu giới thiệt chủ
nhân có việc qua đây muốn nán lại vài ngày thăm thú vùng này. Ngay chiều hôm ấy, Bốc Đề Nhĩ đi thăm các người quen cũ, nhân dịp dò tin tức về
bọn tặc đạo Hổ Đầu sơn, tối mịt mới về.
Lã Mai Nương gọi y vào phòng hỏi :
– Thế nào? Có tin tức gì không?
– Chúng vẫn hoành hành như xưa, nhưng theo lời mấy tiều phu thì trên
trại thêm mấy nữ đầu lãnh nữa (tức Sử Huyền Cô, Bành Thúy Linh).
– Làm sao họ biết rõ vậy?
– Gặp chúng vào rừng săn bắn. Như vậy tổng cộng độ sáu người, kể cả Sử
Đại Cương. Núi Hổ Đầu có lối sau lên, phải chui qua hang. Tôi xin dẫn
lộ. Dân thôn vẫn ước ao được về chốn cũ, nếu Nhĩ bị tiểu trừ được bọn
chúng thì hay vô kể.
– Việc này cần lúc đao mới được. Bốc đại ca có hiểu không?
– Tôi hiểu rõ nhị vị định nói gì?
– Thật ra chúng tôi lặn lội tới đây chỉ cốt tìm một người trong bọn đại
đạo ấy thôi, nhưng mấy dân thôn muốn hồi cố quân, chúng tôi sẽ hết sức
giúp đỡ.
Bốc Đề Nhĩ vui vẻ :
– Nhị vị tin tôi là đủ rồi. Cần gì cứ sai bảo.
Cam Lã ngồi bên song cửa trông sương núi.
Hai người tính toàn hồi lâu, Tử Long nói :
– Theo tin Bốc Đề Nhĩ lượm được, bọn Hổ Đầu sơn có độ sáu đầu lãnh. Số
người đó chỉ là ước đoán. Dù sao, số người không đáng quan tâm. Phẩm giá công phu của chúng mới là vấn đề đáng kể. Đã tới hang giặc không lẽ bỏ
đi, chi bằng trừ khử cho rồi.
– Tiểu muội đồng ý, có hai cách đánh. Bọn tiều phu thường gặp chúng săn
bắn, tức là chúng hay săn nhất định tại một khu rừng nào nhiều thú. Có
thể cho Bốc Đề Nhĩ giả làm tiều phu đón đường săn, chúng ta chờ ở đó hạ
được tên nào hay tên này, sau sẽ lên trừ khử toàn thể, sư huynh nghĩ
sao?
Tử Long suy nghĩ giây lát :
– Sư muội định chia mà đánh phải không? E rằng…
Mai Nương ngắt lời :
– E chúng thấy thiếu người sục sạo tìm kiếm động chạm tới thôn này?
Tử Long gật đầu. Mai Nương không do dự :
– Nếu chúng kéo đến sơn thôn này chỉ đánh cho một trận tới bờ rồi kéo róc lên núi Hổ Đầu càn quét chớ sao.
– Kế thứ nhì của sư muội như thế nào?
– Chúng ta lên thẳng Hổ Đầu sơn giả đò đầu bôn đặng dò tìm Tăng Tòng Hổ. Nếu thấy y, sư huynh tức khắc khiêu khích đánh ngay và ta sẽ xử trí sau với bọn Sử tặc. Trong trường hợp Tăng tặc không còn trên núi, ta sẽ tùy cơ ứng biến phá núi Hổ Đầu trừ hại cho dân.
– Theo kế hoạch thứ hai tiện hơn.
Mai Nương hỏi :
– Có nên đem theo Bốc Đề Nhĩ không?
– Không nên. Y không phi hành được đi cũng chỉ thêm vướng. Sáng mai nhờ y dẫn vào núi thám thính xem sao.
Hôm sau, Bốc Đề Nhĩ nai nịt gọn ghé dắt dao, đeo cung tên, cùng Song hiệp đi về nẻo núi Hổ Đầu.
Đường đất lẫn đá gồ ghề, bên hữu là rừng cây, bên tả là dãy núi đá khúc khủyu nhấp nhô.
Vừa đi vừa mải chuyện trò, bắt giác đã được hơn ba dặm đường.
Bốc Đề Nhĩ rẽ vào khe núi bên tả :
– Đây là sau núi Hổ Đầu. Không chắc có lâu la canh phòng vì bọn tặc đạo
không ngờ rằng có lối dẫn tới đây. Mà quả vậy, xưa kia tôi leo đèo băng
suối nên khám phá ra con đường khe núi này dẫn tới Hổ Đầu sơn. Nhị vị
không thấy dấu chân người tức là chưa ai qua đây.
Lã Mai Nương nói :
– Giá nhìn được phía trước núi thì hay quá!
Bốc Đề Nhĩ đáp :
– Có thể được, nếu đường không bị canh phòng. Nhị vị hãy theo tôi. Lúc
này cần phải để ý xem các cành cao, bụi rậm có kẻ canh phòng hay không.
Ba người thoăn thoắt tiến vào chân núi leo lên. Độ hai trượng cao, Bốc
Đè Nhĩ nhận xét qua loa, đoạn tiếng thẳng đến một bụi cây lớn mọc giáp
vách đá.
Y vẫy tay ra hiệu bảo hai người theo rồi rẽ bụi cây len vào.
Sau bụi cây rậm rạp ấy có cửa hang cao hơn đầu người bề ngang vừa một người đi.
Ba người từ từ len vào, đi bộ vài chục bước lên dốc thì hàng đá rộng hẳn đủ cho mọi người đi hàng chữ nhất.
Mai Nương hỏi :
– Hang thông ra phía trước núi?
– Dạ, cứ theo đường dốc này sẽ lên tới của hang trông ngay xuống trại
giặc. Miệng hang sau núi không người canh phòng và không bị lấp, tức là
miệng hang trên cũng không có gì. Cả hai miệng hang đều bị bụi cây rậm
rạp che nên bọn tặc đạo không ngờ. Vả lại chùng khinh thường cho rằng
không ai dám len lỏi vào tới đây.
Trong hang, ánh sáng mờ mờ, dẽ đi. Ba người lẳng lặng đi hồi lâu lên tới cửa hang trên. Như Bốc Để Nhĩ đã nói, bụi cây che kín cửa hang vẫn y
nguyên.
Đề Nhĩ nhón nhén ló đầu ra cửa hang nhìn hai bên không thấy gì lạ bèn lùi bước, nhường chỗ cho Cam, Lã :
– Nhị vị lựa tay rẽ bụi cây đứng hẳn vào giữa sẽ nhìn thấy sơn trại ngay ở phía dưới, bên tay hữu.
Song hiên hành động theo đúng lời họ Bốc, đứng giữa bụi cây nhìn xuống.
Hình thế, mặt tiền Hổ Đầu sơn thật kỳ lạ. Từ miệng hang nơi hai người
đứng, xuống đến khu bán nguyệt mà sơn trại được thiết lập chỉ cách nhau
trên năm trượng. Toàn trại có sáu mái nhà lớn ngang, dọc la liệt và mấy
mái nhỏ ở phía sau vách đá. Trong trại người qua lại lăng xăng trông
thật rõ.
Cam Tử Long nói :
– Sư muội coi, nếp nhà ngang đứng đầy dãy có lẽ là đại sảnh. Lớp thứ nhì nối liền với mái thứ nhất bởi hành lang là hậu sảnh. Bốn nếp nhà dọc
chắc là trại quân, kho lương thực ngăn nắp nhỉ.
Nhận xét hồi lâu, Cam, Lã trở vào trong hang.
Bốc Đề Nhĩ chỉ tay sang phía tả cửa hang :
– Theo lối này xuống được dưới trại, càng về phía dưới càng khó đi, dốc đá cheo leo, trượt chân té bể sọ.
Mai Nương nói :
– Vì khó đi nên bọn tặc đạo mới không lên tới miệng hang này. Đó là một ưu điểm cho ta.
Cam Tử Long nói :
– Trở về đi. Sư muội liệu giải thích cho Bốc Đề Nhĩ biết dự tính hành
động của chúng ta. Sáng mai ta lên thẳng sơn trại và sáng ngày mốt giờ
Mão, y chờ ở miệng hang này.
Ba người len lỏi theo đường cũ ra đến khe núi ngoài đại lộ, đi được một
quãng đường bỗng thấy một kỵ sĩ từ phía trước chạy tới. Thoạt trông kỵ
sĩ trang phục nón da, áo vải thô, tà hai bên tới trên đầu gối, đai lưng
bằng da tết lại, ủng da cao đủ biết y là người Mông. Diện mạo kỵ sĩ lầm
lì, đối mắt sắc như dao, gò má thiệt cao, cằm bạnh ra như mang rắn.
Kỵ sĩ nhìn Lã Mai Nương không chớp mắt. Lúc qua rồi, Cam Tử Long ý tứ
đưa mắt nhìn theo mấy người đó hãy còn ngoái cổ lại cố nhìn Mai Nương
cho kỳ được.
Chằng lắc đầu tặc lưỡi mà rằng :
– Thằng cha kỳ quặc! Không khéo lại là một tên độc cước đại đạo nào đó!
Về tới sơn thôn, Bốc Đề Nhĩ ra ngoài tửu điếm đầu thôn chuyện văn với chủ quán là người quen thuộc khi trước.
Trong khi hai người đang ngồi uống rượu thì có hai tên đầu mục Hổ Đầu
sơn vâng lệnh lão sư của chúng xuống tìm kiếm thiếu nữa gặp bên đường
bắt đem về sơn trại, vì người kỵ sĩ đã trân trân nhìn Mai Nương hồi sáng chính là lão sư, thầy của bọn cầm đầu sơn trại. Dò dẫm không được,
chúng ra về.
Bốc Đề Nhĩ nghe được, vội về báo tin cho Tử Long và Mai Nương hay.
Mai Nương hỏi :
– Chúng đi về hướng nào?
– Thưa hướng Hổ Đầu sơn. Con đường sáng nay ta đã qua.
Cam Tử Long nói :
– Đề Nhĩ coi nhà. Tôi đi một lát về ngay.
Chàng nháy mắt bảo Mai Nương cùng đi. Hai người đi vòng phía sau thôn ra đại lộ chạy vùn vụt đuổi theo bọn đầu mục.
Chúng đang đi lẹ bước ở phía trước.
Song hiệp ngừng chạy, cố ý đi mạnh chân cho hai tên đó nghe tiếng.
Quay lại, chúng chần chờ nhìn hai người đi tới.
Tên nọ bảo tên kia :
– Kìa cặp thanh niên nam nữ mà ta được lệnh bắt đó! Tốt đôi quá! Thiếu nữ đẹp nhường kia thảo nào lão sư chẳng chết mệt!
Chúng im lặng khi Song hiệp đi qua nơi chúng đang đứng.
Tử Long nói nhỏ :
– Ta vào cánh rừng bên tay hữu này cho chúng theo. Không tha thứ được mấy tên khát máu này.
Cam, Lã đi tạt vào cửa rừng, đi rất lẹ.
Cam, Lã qua cửa rừng, mất hút các gốc cây chi chít.
Hai đầu mục vội vàng đi theo. Lát sau vào tới cửa rừng, chúng láo liên nhìn, không thấy cặp nam nữ vừa rồi đâu cả.
Cho tiền cũng không ai dám vào khu rừng già độc địa này! Một tên tuốt
dao đi trước. Tên kia theo sau. Cả hai cùng ngó quanh quẩn, trong bụi,
sau các gốc cây lớn. Tuyệt nhiên không thấy một bóng người. Ngoài tiếng
chim kêu hầu hú xa xa, cảnh rừng hoàn toàn u tịch.
Hai tên tìm kiếm một hồi nữa, bỗng thấy rợn người, không tên nào bảo tên nào, cùng giơ đao quay phắt lại trừng trừng nhìn nhau.
Tên thứ nhất nói :
– Thôi, đi ra, kiếm mãi mất cả thì giờ!… Kỳ lắm!…
– Ừ! Đi ra. Hình như có con thú nào đang rình chúng mình đây đây.
Hai đầu mục vội vàng trở ra, nhưng khi vừa đi qua dưới một cành cây bỗng bị một vậy gì cứng như hai mỏ kềm sắt cặp chặt lấy gáy nhắc bổng lên
khỏi mặt đất, toàn thân đau buốt lạ lùng.
Một tiếng quát nhẹ đủ nghe vọng ngay ở phía trên đầu chúng :
– Muốn sống buông đao ra ngay!
Gọng kềm bóp nơi gáy siết chặt thêm khiến hai tặc đạo muốn nghẹt thở.
Chúng vội vàng buông khí giới rớt xuống mặt cỏ ngay gần gốc cây.
Hai gọng kềm sắt cặp gáy nhấc bổng hai tên đầu mục lên khỏi mặt đất không phải thứ gì xa lạ hơn là hai bàn tay của Song hiệp.
Nguyên khi vào rừng, Cam, Lã, nhìn lại thấy hai đầu mục vào theo liền rảo bước lựa một cành cây có lá um tùm, nhảy lên núp.
Chẳng dè chúng vô tình đi qua ngay dưới cành cây nơi Song hiệp đang núp.
Tính chiều cao, Lã Mai Nương ra hiệu cho Cam Tử Long cùng dùng thế “Hầu
Vương Đảo Quái” móc vào cây thả vụt người xuống với tay tóm trúng gáy,
co chúng lên khỏi mặt đất độ một tấc.
Bàn tay siết chặt trúng hai huyết quản chánh ở hai bên cổ nên bọn tặc
đạo không những bị nghẹt thở mà còn thấy tê nhức toàn thân. Đây là một
lối bóp trúng mạch huyết theo phương pháp điểm huyệt gọi là “Tẩy Tủy
kinh pháp” do Đạt Ma sư tổ truyền lại khởi thủy cho vị sư trưởng Thiếu
Lâm tự với di ngôn rằng chỉ được dạy phép bí truyền ấy cho những môn đồ
nào chắc chắn hoàn toàn đức độ.
Tới đời Minh Tuyên Tông, niên hiệu Tuyên Đức, một vị cao đồ Thiếu Lâm tự họ Âu Dương sanh quán tại Tô Châu, thấy Mã Dương cương hùng vĩ, bèn
xuất tiền ra xây dựng Bạch Vân tự, tu đạo, thọ pháp danh Âu Dương đại
sư, thành lập Bắc Thiếu Lâm.
Âu Dương đại sư là một người được lãnh hội đầy đủ võ thuật Thiếu Lâm tự, chuyên về “Dịch Cân pháp” và “Tẩy Tủy kinh pháp”. Truyền đến đời Chiêu
Dương thiền sư. Ngoài Mạnh Sơn, Võ Sơn theo Thiền sư thế phát từ nhỏ
Chiêu Dương chỉ truyền nghề cho Lã Mai Nương, Cam Tử Long là hai đồ đệ
sau cùng.
Thiền sư không ưa dạy nhiều môn đồ, nhưng đã thâu người nào thì chắc
chắn ở sự thành công về phương diện võ thuật và đạo đức. Với thuật “Tẩy
Tủy kinh pháp”, Cam, Lã có thể tính biết giờ, phút nào Nhâm Thần ở huyệt nào, điểm trúng huyện ấy, tự khắc đối phương toàn thân bị tê liệt, hoặc chết ngay.
Sau khi hai đầu mục buông khí giới rớt xuống đất Song hiệp đảo người
liệng chúng ra xa và đáp hai chân xuống mặt cỏ rừng như hai con mèo.
Cam Tử Long dùng tiếng Hán hỏi :
– Bây là đầu mục Hổ Đầu sơn? Nói cho thật.
Vốn đã biết mùi bàn tay thép bóp gáy vừa rồi, hai tặc đạo không dám chần chừ :
– Dạ. Chúng con ở núi Hổ Đầu.
– Lão sư của bây là ai?
– Thưa, là Cát Đạt võ sư, sư phụ của Sử đại vương.
– Hổ Đầu sơn có mấy tên đầu lãnh?
– Có sáu người ạ. Kể cả Sử đại vương.
– Kể tên ta nghe.
– Đại vương thống lãnh Sử Đại Toàn, em gái và cháu gái của Đại vương là
Sử Huyền Cô, Bành Thúy Linh. Ba nam đầu lãnh là Đặng Cửu Bá, Thiết Mộc
Can và Thành Man Đô. Cát Đạt lão sư mới tới hồi gần trưa không kể.
Tử Long nhìn Mai Nương, ngạc nhiên không thấy nói đến Tăng Tòng Hổ.
Chàng tiếp tục hỏi bọn đầu mục :
– Trong hai đứa bây, tên nào ở Hổ Đầu sơn lâu hơn cả?
– Dạ, cả hai chúng con cùng như nhau, ở từ ngày thành lập.
– Vậy, bây tất biết tên Tăng Tòng Hổ.
– Dạ chúng con biết Tăng đại vương nhưng không thuộc tên là gì.
– Tên họ Tăng bây giờ ở đâu? Có trên núi không?
– Thưa, trước kia Tăng đại vương có ở Hổ Đầu sơn, qua lại chớ không ở hẳn. Nhưng bỏ đi từ ba năm nay không trở lại lần nào nữa.
Tử Long quắc mắt :
– Thật vậy không?
– Đúng thế, chúng con không dám nói sai.
– Hình dáng, diện mạo y thế nào?
– Thưa, cao lớn, lực lưỡng, mặt đen sần sùi, râu quai nón, dữ tợn.
– Các ngươi có biết y đi đâu không?
– Không ạ.
Tử Long đưa mắt nhìn Mai Nương. Hai người tìm cắt mấy sợi dây leo thật chắc trói chặt hai tên giặc vào gốc cây.
Trói xong, Song hiệp quay trở ra lối cửa rừng.
Hai tên đầu mục sợ hãi, thất vọng kêu la ầm ĩ. Cam Tử Long ngoái đầu lại, dằn giọng :
– Từ đây ra mặt đường còn xa, vả lại cũng không ai dám mạo hiểm vào cừu đâu. Bây càng kêu la, lão hổ càng đến sớm.
Dứt lời, Song hiệp đi thẳng về sơn thôn.
Bốc Đề Nhĩ đang nóng ruột chờ, thấy hai người về tới nhà thì mừng rỡ đón hỏi.
Mai Nương thuật lại chuyện bắt hai tên đầu mục cho y nghe, Bốc Đề Nhĩ lấy làm hả hê.
– Tăng tặc đạo không còn ở trên núi nữa, sư huynh có muốn thay đổi chương trình hành động không?
– Không. Trước hết không thể tin được ở lời hai tên đầu mục, sau nữa với kế đầu bôn, chúng ta vào ngay được trung tâm sơn trại hành động tùy
theo tình thế, có lợi và đỡ mất công hơn.
– Dù sao ta cũng theo đúng vết tên Tòng Hổ. Nó bỏ Hổ Đầu sơn đã ba năm nay không lẽ sang Ngoại Mông hay Mãn địa Đông Tam Tỉnh?
Hôm sau Song hiệp quyết tâm tấn công Hổ Đầu sơn, và dặn Bốc Đề Nhĩ các
mưu kế mai phục các tráng đinh để chiếm Hổ Đầu sơn, đoạn cả hai đều nai
nịt gọn ghẽ đi luôn.
Hai người đi tới một nơi toàn tòng, bách, cổ thụ chen lẫn với những hốc
đá cực lớn ngổn ngang. Phía trong sừng sững một trái núi cực kỳ hùng vĩ. Đường đi rộng thêm ra và phía hữu cánh rừng cây bát ngát. Cam Tử Long
chỉ trái núi :
– Hổ Đầu sơn đây rồi, trông hình thế trái núi rì rõ. Giống đầu beo hơn đầu hổ. Vào lối nào đây?
Hai người tiến thêm được mười bước, bỗng từ sau hốc đá lớn vang lên một hồi coi xé tan bầu không khí yên tĩnh của núi rừng…
Hai chục tên lâu la võ trang đầy đủ chạy ồ ra chắn đường. Cam, Lã ngừng
bước, đứng xây lưng về phía rừng cây phòng bị và thấy ngay phía sau một
toán lâu la nữa xông ra chặn lối thoát. Một tên, dáng đại đầu mục, tiến
lên quát :
– Hai đứa này muốn chết sao mà vào đất này? Bây dòm ngó chi đây?
Cam Tử Long điềm tĩnh vái chào :
– May quá, gặp Đại vương biết nói tiếng Hán, phải chăng đây là Hổ Đầu sơn?
Tên đó cau mặt nói xẵng :
– Ta không là đại vương! Bây kiếm ai? Chính đây là Hổ Đầu sơn, tử địa của bọn do thám như chúng bây!…
Nói đoạn y gườm gườm, nghi ngờ nhìn hai người.
– Thưa Đại vương, tôi…
Tên đó trừng mắt ngắt lời quát :
– Ta đã bảo không là… đại vương. Thêm một câu nữa đừng có trách.
Cam Tử Long giả đò ngạc nhiên, rút rè :
– Tôi biết xưng hô thế nào cho phải?
– Đại… đầu mục. Ngươi kiếm ai?
– Tôi xin yết kiến Sử đại vương.
Ngỡ là quyến thuộc của Đại vương của y như Sử Huyền Cô và Bành Thúy Linh đại đầu mục hạ giọng :
– Phải chăng ngươi là quyến thuộc của Sử đại vương? Tên họ gì?
Biết nắm đúng chỗ yếu của tên giặc, Cam Tử Long đổi sắc mặt :
– Anh em tôi họ Lã từ Quan nội tới đầu bôn, do người họ Tăng giới thiệu, đại đầu mục làm ơn thông báo vào trại.
Đại đầu mục chưa hết nghi ngờ :
– Có thật như vậy không?
– Không thật thì ai muốn tới nơi đèo heo hút gió này giỡn làm chi!
Tên giặc quay lại dùng tiếng lóng giang hồ bảo tên bộ hạ đứng sau :
– Phi mã về báo với Đại vương có anh em họ Lã đến xin đầu bôn. Nhớ nói thêm rằng cô em nó xinh đẹp tuyệt trần nghe!
Một lát sau tiếng vó ngựa từ trong phi trở ra.
Mọi người đều quay lại nhìn, thì ra đó là tên lâu la đi báo đã trở lại. Y nhảy xuống đất nói với tên đầu mục :
– Đại vương truyền dẫn hai người này lên trại ngay.
Đầu mục dùng tiếng lóng bảo các bộ hạ :
– Mười đao thủ theo ta. Còn mọi người phải canh phòng chu đáo, ta trở ra ngay.
Tức thì, mười lâu la đao thủ cầm đao tuốt trần chạy tới xếp hàng sang hai bên kèm Song hiệp vào giữa.
Cam, Lã đi theo bọn chúng. Đại đầu mục đi sau cùng. Đoàn người đi vòng
vào sau hốc đá. Đường vòng vèo lượn quanh các hốc đá hơi hai trăm thước
thì bắt đầu lên dốc tới năm trăm thước nữa mới tới cổng trại rộng lớn
xây bằng đá phiến trên có vọng lâu. Bọn lâu la canh phòng nhìn xuống
thấy vậy tức khắc truyền ngay :
– Lệnh Đại vương cho vào.
Đoàn người qua cổng rẽ sang tay tả độ trăm bước nữa tới cổng thứ hai để ngỏ.
Song hiệp nhận ra toàn khu trại đã quan sát thấy sáng qua và bụi cây lớn ở trên cao phía sau trại, nơi cửa hang đá bí mật.
Đại sảnh là gian nhà ngang cực rộng rãi, nền đá tường gạch lớp mái ngói
bằng đất nung màu hoàng thổ mà sáng qua Song hiệp lẫn với mấy mái tranh
khác vì trông xa. Giữa sảnh đường bày năm chiếc án: một bầy chính giữa,
bốn ở hai bên theo hình chữ Môn.
Tại án giữa có hai người ngồi, Cam, Lã nhận ra là Cát Đạt, lão hán Mông
Cổ dữ tợn đã gặp sáng qua trên đường về sơn thôn. Ngồi bên là Đại vương
Sử Đại Toàn, trạc ngoài tứ tuần, mắt lồi chớp luôn, mũi sư tử, râu ria
lởm chởm, hai tay quắt lại như cái nắm khô, võ phục đen tuyền.
Án thứ nhất, hông bên tả có Sử Huyền Cô trạc tứ tuần, gò má cao, đôi môi mỏng dính như sợi chỉ đỏ thắm, cặp mắt long lanh cực kỳ gian ác. Bành
Thúy Linh ngồi bên mẹ, trạc ngoại đôi mươi, khuôn mặt dài, mắt phượng
dâm đãng, môi dầy tô son đỏ chót. Tóc búi trần thả múi hai bên tai dài
tới ngực. Hai mẹ con cùng mặc võ phục đồng màu xám tro lợt, đầu quấn
vành khăn trắng.
Án thư thứ hai cùng dãy có Thạch Đầu Quý Đặng Cửu Bá hung ác, trạc tam
thập, đầu tràn nhìn bóng. Họ Đặng mặc võ phục nâu lợt. Trên án đặt chiếc đồng nhân dài độ thước rưỡi.
Hàng bên hữu có hai đầu lãnh Mông Cổ Thiết Mộc Can tước hiệu Kim Điểu,
mắt vàng khè sáng ngời như có tia lửa lóng lánh, ngồi bên án thứ nhất.
Xích Mã Thành Man Đô mặt đổ nhừ ngồi án kế bên. Cả hai bên thềm gươm đao sáng quắc.
Song hiệp biết Sử Đại Toàn bày ra như vậy thị uy và vắng mặt Tăng Tòng Hổ. Tổng số bên sơn tặc hiện có bảy người.
Tên đầu mục nghiêm chỉnh cúi đầu trình bày sự việc hai người tới đây đầu bôn.
Sử Đại Toàn cho hai người vào và hỏi :
– Hai người tên chi? Từ đâu đến đây?
Cam Tử Long đáp :
– Tôi là Lã Long, em tôi là Lã Nương từ Quan nội đến đây. Trước kia tình cờ gặp Tăng đại vương tại Bắc Kinh nên giới thiệu lên Hổ Đầu sơn.
– Đi đường nào đến khu vực này?
– Chúng tôi qua Phong Linh huyện theo lời chỉ dẫn của Tăng tiền bối.
Sử Đại Toàn cau mặt, đập bàn quát :
– Hay cho hai đứa bây xảo ngôn dám tới đây do thám! Có người bắt gặp bây qua lại khu vực này rồi. Nói thật chớ đừng để ta phải ra tay, nghe? Vào đây thì đến ra mới khó, biết không? Bọn ngươi vất xác hai tên bộ hạ của ta nơi đâu? Nói ngay!
Cam Tử Long thản nhiên :
– Chúng tôi quả không biết những chuyện lạ ấy.
Một lần nữa Cát Đạt nhìn thầm Sử Đại Toàn, rồi mỉm cười nham hiểm, hỏi Cam Tử Long :
– Anh em nhà ngươi nhận ra ta không?
– Thưa có, cuối giờ Tỵ hôm qua, chúng tôi hỏi đường ra Sát Cáp Nhĩ, lúc
trở về thì gặp lão đại vương trên đường. Nếu biết người là Đại vương ở
trên Hổ Đầu sơn thì chúng tôi theo ngay đỡ mất công hỏi thăm mà ai cũng
nghi ngờ không muốn chỉ bảo.
Cát Đạt cười khẩy :
– Ngươi có gặp hai người nào trên đường hoặc lúc trưa, hoặc lúc chiều qua không?
Cam Tử Long lắc đầu :
– Gặp nhiều người trên đường nhưng nói chuyện thì không. Quán nọ chật
chỗ nên chúng tôi nghỉ ngơi trong hốc đá gần đường. Sáng nay đánh liều
đi vào con đường này chẳng dè đến sơn trại thiệt.
Cam Tử Long đối đáp rất tự nhiên, thực thà khiến mọi người tin được phần nào.
Sử Đại Toàn hỏi thêm :
– Giọng nói của Tăng Tòng Hổ thế nào?
Cam Tử Long trấn tĩnh đáp liền :
– Giọng thể nghe ồ ồ dữ dội.
Thấy Sử Đại Toàn không vặn thêm nữa, chàng cười thầm là nói trúng, thật
ra chàng không nhớ được là giọng Tăng Tòng Hổ như thế nào.
Cát Đạt tính tình dâm ác, mê mệt Lã Mai Nương ngay từ buổi gặp hôm qua,
nên sai ngay hai tên lâu la đi do thám để bắt nàng về núi. Nay bỗng dưng mồi ngon đến tận miệng, lẽ nào bỏ lỡ dịp tốt? Y vờ vĩnh hỏi gắt gao qua loa, che mắt mọi người, chớ thật tình y để ý gì đến mạng mấy tên bộ hạ! Bởi vậy Cát Đạt bảo Sử Đại Toàn :
– Chúng nó thật tình đấy. Sơn trại kiên cố, quân tướng đầy đủ mạnh mẽ
nhường này chúng dù ngu ngốc đến đâu cũng không dám cả gan liều lĩnh vào tới đây. Hiền đồ bắt chúng diễn võ nghệ xem tài lực thế nào, sau sẽ
hay.
Sử Đại Toàn vốn rất kính phục, chịu ơn sư phụ và biết tánh ưa gái đẹp
của Cát Đạt, bèn nghĩ thầm chắc sư phụ tính toán điều chi đây.
Trước sắc đẹp bình thường của Bành Thúy Linh, Cát Đạt còn mê mẩn tâm
thần gạ gẫm ngay từ đêm qua, đưa nàng về tư phòng truyền bí thuật Công
phu thế nào không hiểu mà mãi sáng nay mới thấy nàng lò dò từ phòng Cát
Đạt ra về, khiến Sử Huyền Cô lên ruột trình bày vụ “truyền bí thuật” ấy
với anh.
Nay gặp Mai Nương diễm lệ nhường kia, đến Hằng Nga, Tây tử cũng phải
nhường phần thinh sắc, thì lão sư cầm lòng sao đặng? Âu cũng là một dịp
hay để Cát Đạt khỏi tiếp tục ve vãn Bành Thúy Linh, phật lòng Sử Huyền
Cô.
Sử Đại Toàn nghĩ vậy, biết đâu cô cháu gái lại nghĩ khác.
Bành Thúy Linh vốn tánh tình dâm đãng nhất mực. Trước kia ở Bành gia ổ
bên Hoa Châu, nàng thường đầu mày cuối mắt, tư thông cùng các bằng hữu
của anh nàng. Từ ngày lên Hổ Đầu sơn, Thúy Linh phần buồn phiền vì gia
đình tan nát, phần nể cửu bá Sử Đại Toàn nên nàng không dám ngựa theo
đường cũ thông gian cùng bọn đầu lãnh.
Bỗng dưng Cát Đạt từ đâu tới, ngỏ lời muốn truyền các bí thuật và võ
nghệ cho nàng. Thoạt đầu, Thúy Linh ngỡ thật mừng rỡ ưng chịu. Xưa nay,
Sử cửu bá vẫn chẳng ca ngợi tài võ nghệ cao siêu, lực năng cử đảnh của
Cát Đạt lão sư đó ư? Cầu còn chẳng được, nay tự dưng lão sư tự ngỏ lời
truyền dạy, lẽ nào bỏ qua?
Bởi vậy nàng y hẹn đến tư phòng Cát Đạt. Lão sư giảng dạy truyền phép
qua loa rồi bảo nàng uống một viên linh đan “Dưỡng Thần” trước khi thọ
thuật. Nuốt “Dưỡng Thần đan” được chừng nửa nén nhang thì Bành Thúy Linh bỗng cảm thấy toàn thân xao xuyến. Nàng có cảm tưởng như vừa mới uống
nhiều ly rượu nồng say ngây ngất. Bành Thúy Linh bã lã, tứ chi mềm nhũn
như bông, không đứng dậy nổi nữa.
Cát Đạt biết thuốc đã ngấm, bèn cầm tay thiếu nữ trổ mòi thú tánh. Phần
cô gái họ Bành như đại hạn gặp mưa rào, nay được thỏa mãn nên từ giây
phút ấy đem lòng say mê Cát Đạt.
Từ lúc hai kẻ mới tới đầu bôn, Bành Thúy Linh thầm phục vẻ cân quắc anh
thư của cô gái họ Lã, song nàng cũng để ý ngay thái độ thèm muốn, hổ gặp mồi ngon của Cát Đạt.
Nàng đâm ghen tức lão sư. Ghen tức bao nhiêu nàng càng thù ghét thiếu nữ mới đến bây nhiêu, gườm gườm nhìn Mai Nương không chớp.
Ngồi bên, Sử Huyền Cô nghĩ lầm cô con gái đang liên tưởng đến đôi nam nữ đi cùng mẹ con lão bà vào đã phá Bành gia ổ khu trước. Ờ! Biết đâu
không phải hai người này là thủ phạm? Sử Huyền Cô nhớ lại lời bọn trang
đinh tả hình dáng đôi nam nữ thì thấy hao hao giống cặp anh em họ Lã
đang đứng trên thềm đại sảnh.
Huyền Cô hỏi nhỏ Thúy Linh :
– Phỉa chăng con đang liên tưởng tới đôi nam nữ đã hỏa thiêu Bành gia ổ?
Thúy Linh giựt mình. Nàng đang mải nghĩ tới chuyện ghen tuông :
– Dạ, nhưng phải xem tài võ nghệ của chúng thế nào mới dám nói chắc. Nếu dở quá, đánh sao nổi Bành gia ổ?
Sử Huyền Cô gật đầu :
– Con nói chí phải, dù sao cũng cần nhắc lại cho đại huynh ta nghe.
Dứt lời Huyền Cô đẩy kỷ đứng dậy, đi đến bên Sử Đại Toàn nói nhỏ mấy điều.
Đại Toàn gật đầu :
– Được, hiền muội để ta coi. Chúng có ba đầu sáu tay cũng không ra khỏi Hổ Đầu sơn. Đâu có dễ dàng bất ngờ như vụ Bành gia ổ!
Sử Huyền Cô an tâm, về chỗ ngồi.
Phần Cát Đạt thì mê mẩn sắc đẹp thiếu nữ mới tới, quên hẳn Bành Thúy
Linh ngồi bên là người đã cùng y chạ gối chung chăn đêm qua.
Về phần Song hiệp, hai người đã thấy rõ thực lực của bọn sơn tặc Hổ Đầu. Căn cứ vào bề ngoài, sáu đầu lãnh nam, nữ đều có dũng lực đáng kể.
Ngoài ra có Cát Đạt, sư phụ của Sử Đại Toàn, bản lãnh rất chẳng tầm
thường.
Sử Đại Toàn bảo Cam, Lã :
– Ta chấp thuận cho hai người đầu bôn, tùy tài sử dụng. Về võ thuật, sở trường gì thử biểu diễn ta coi?
Sợ dùng trường kiếm, bọn sơn tặc nhận ra là bảo khí, Lã Mai Nương đáo :
– Chúng tôi quen sử dụng hoa thương.
Tức thì, Sử Đại Toàn truyền lệnh lâu la lấy hai cây thương cho hai người mà rằng :
– Lùi xuống sân hãy khởi diễn.
Cam, Lã biết ý Sở tặc sợ hai người nhân lúc biểu diễn phóng thương ám hại, bèn lùi xuống nhận hai cây thương, song đấu.
Hai ngọn thương qua lại Nhĩp nhàng, Song hiệp giả đò cố sức thật ra chỉ
đấu lấy lệ cho xong chuyện, đoạn thâu thương trao trả cho bọn lâu la.
Các đầu lãnh mỉm cười thì thào với nhau.
Cam, Lã nhìn nhau nghĩ thầm bọn bây cười chúng ta không phải hảo thủ chớ gì? Càng hay! Sử Đại Toàn với hai người lên thềm :
– Sao không biểu diễn kiếm?
Cam Tử Long chống chế :
– Chúng tôi không thạo kiếm pháp. Cầm thương đi đường bất tiện nên dùng kiếm pháp phòng thân.
Nói tới đây, Cam, Lã lo bọn tặc đạo nhận ra báu kiếm, đòi xem thì tất phải ra tay hành động ngay. Nhưng Cát Đạt nói :
– Thương pháp của hai người trên cấp bực đầu mục thiệt đấy nhưng chưa đủ để trở thành đầu lãnh sơn trại. Cần phải luyện tập nhiều, nếu muốn liệt vào cấp trên. Ta thấy hai người còn ít tuổi, thương tình nhận làm đồ đệ truyền thập bát môn võ nghệ cho, sau này mới đủ sức thành đầu lãnh có
tài.
Mai Nương kín đáo nhì Tử Long, đoạn đáp :
– Được lão sư thương tình thâu nhận truyền dạy võ nghệ, lẽ nào chúng đệ tử chối từ. Ơn ấy xin ghi lòng tạc dạ.
Nghe giọng ấm áp truyền cảm của người đẹp, Cát Đạt hả hê sung sướng cười tít mắt.
– Được lắm. Ta sẽ truyền lại cho thật mau lẹ, miễn là đồ đệ biết… nghe lời. Trưa nay, hai người khá tới phòng ta tính chương tình tập luyện,
nghe. Giờ đây, ta nói với đại đầu lãnh Sử đại vương chấp nhận cho cả tạm lĩnh hai chức tiểu đầu lãnh, chừng nào võ nghệ khá hơn sẽ khảo thí lên
cấp bậc.
Sử Đại Toàn vốn biết “tật” của Các Đạt lão sư nên chấp nhận cho hai người làm tiểu đầu lãnh ngồi hàng dưới.
– Hai người cần phải thuộc mọi việc trong sơn trại và chịu quyền điều
khiển của đầu lãnh Đặng Cửu Bá đây. Không được trái lệnh. Từ nay trở đi, người nào vào việc ấy như thường.
Thạch Đầu quỷ họ Đặng mỉm cười nham hiểm, đứng lên vẫy Cam, Lã bảo đi theo.
Hai người chú ý nhận xét đường lối.
Đặng Cửu Bá chỉ căn phòng ở đầu dãy nhà song song với đại sảnh.
– Kia là phòng của Cát Đạt lão sư. Nhớ kỹ kẻo lầm với phòng đầu bên kia
của Sử đại vương. Nay được chấp thuận nhập học, hai người dù có tình ý
gì tôi khuyên cũng nên bỏ hết, đừng để phiền cho các đầu lãnh phải nổi
giận, nghi ngờ mà mang họa vào thân.
Lã Nương là gái ở giữa khu vực hầu hết là đàn ông, khó lòng tránh được
điều kẻ nọ người kia dòm ngó. Vậy, đừng lấy thế làm khó chịu, lâu dần sẽ quen.
Dẫn hai người tới dãy nhà dọc, Đặng Cửu Bá đẩy cửa chỉ một căn phòng đủ giường đệm bàn ghế sạch sẽ :
– Hai người ở đây. Dùng bữa lãnh thực phòng đầu lãnh đầu dãy bên kia.
Không được đi lang bang trong trại và chờ tôi chỉ dẫn. Đúng Ngọ khá tới
phòng lão sư, đừng để người chờ.
Nói đoạn Thạch Đầu Quỷ nhìn Mai Nương rồi đi thẳng.
Cam, Lã vào ngồi phòng nghỉ.
Mai Nương nói nhỏ :
– Giờ này chắc Bốc Đề Nhĩ và Trưởng thôn phục binh cả rồi. Lát nữa hạ lão sư trước nhất rồi đánh luôn.
Tử Long nói :
– Không đánh cũng chẳng xong! Nó cốt lừa sư muội đến tư phòng mà không
lẽ trước mặt mọi người nó không bảo ngu huynh đến tập luyện, chớ truyền
dậy võ nghệ chi tên dã man khốn khiếp ấy!
Mai Nương gật đầu :
– Lát nữa, nếu y gạt sư huynh ra thì cứ về thẳng phòng này. Tiểu muội
xem nó dở thủ đoạn gì, sẽ bất chợt hạ ngay và trở lại đây rồi mới hành
động.
– Nên lẹ tay, đừng để ngu huynh chờ lâu, nóng ruột lắm! Nếu không tính
tới việc để lại các vật liệu trong sơn trại cho dân sơn thôn dùng, thì
lúc này phóng hỏa đốt trại, ào ạt đánh cho rồi.
Hai người đang bàn tán bỗng có tiếng kiểng vang lên đoán chừng là tiếng
hiệu gọi cơn trưa. Quả nhiên, đặng Cửu Bá gọi hai người theo xuống thực
phòng. Tới nơi, trong phòng chỉ có hai đầu lãnh Mông Cổ Thiết Mộc Can,
Thành Man Đô, Đặng Cửu Bá. Nay thêm Cam, Lã nữa là vừa năm xuất. Võ khí
của chúng dựng cả trên giá. Hai người cũng dựng kiếm, ăn uống qua loa
rồi cáo từ về phòng nghỉ vì đi đường xa mệt.
Chờ hai người đi khỏi, Thiết Mộc Can nói :
– Trông anh em họ Lã thế nào ấy! Khó tin quá.
Thành Man Đô gật đầu :
– Chúng không có tướng khí lục lâm đồng đạo với bọn ta. Hồi nãy khi
chúng biểu diễn thương pháp, tôi thấy chúng như không hết sức. Nếu thực
tâm sao phải giả dối như thế?
Thiết Mộc Can hưởng ứng :
– Đồng ý với Man Đô hiền đệ ở điểm ấy. Trông tên thanh niên lực lưỡng,
hai cánh tay y ít nhất cũng có bảy, tám trăm cân nếu tôi không nói cả
ngàn! Không hiểu sao đại đầu lãnh Sử huynh lại dùng người hồ đồ thế?
Thành Man Đô nói :
– Chúng sở trường thương pháp mà lúc nào cũng khư khư giữ hai thanh
trường kiếm như sợ người ta xem mất. Sở trường đánh thương mà đem kiếm
đi đường phòng thân, có ai nghe được không? Sử địa ca đã không cẩn thận
giữ gìn. Ta có bổn phận phải trình bầy cho đại ca biết mới được.
Thiết Mộc Can ngăn :
– Không, thong thả sẽ nói chuyện với đại ca đại đầu lãnh. Chiều nay, ta
thử khiêu khích cho chúng đấu võ rồi sẽ hay. Báo cáo sai, Sử đại ca sẽ
khiển trách là chúng ta ưa bới bèo ra bọ.
Nghe hai đồng nghiệp Mông Cổ bàn tán, Đặng Cửu Bá chỉ mỉm cười.
Thành Man Đô khó chịu, hỏi :
– Đặng đại ca không ý với anh em tôi sao?
Cửu Bá gật đầu.
– Có chứ, sao lại không? Đại đầu lãnh không hồ đồ như nhị vị hiền đệ
tưởng đâu. Nhưng hai người có để ý đến thái độ của lão sư không?
Thiết Mộc Can cười ha hả :
– Cát lão sư gặp gái nào chẳng mê. Cứ gì cô ả xinh đẹp như bông này!
Nhưng đại đầu lãnh phải đặt vấn đề an ninh cho sơn trại lên trước việc
chớ?
Đặng Cửu Bá xua tay :
– Khuyên hiền đệ nói nhỏ và bỏ qua việc đó kẻo mang vạ. Sử đại ca tôn
trọng lão sư thế nào, ta phải theo đúng như thế. Nói riêng về tài lực,
tháng tám năm kia diễn ra võ thưởng trăng, bọn ta tuy còn trẻ nhưng có
ai vượt bực được Cát Đạt không? Phiến đá mà lão sư bê đặt bên thềm đại
sảnh đã ai di chuyển được chưa?
Đặng Cửu Bá khuyên Thành Man Đô không phải không có lý do.
Phàm trong nghề võ, ít có võ sư chịu truyền hết công phu cho đồ đệ. Đến
khi võ sư liệu thấy mình cao niên, dũng lực sút kém mới truyền riêng cho môn đồ nào thân tín nhất. Nhiều khi, võ sư chỉ dạy các thế bí truyền
cho con cháu. Sở dĩ võ sư hành động như vậy vì sợ môn đồ phản lại đánh
sư phụ. Như Pháp Quang đầu đà làm phản đả tử Huệ Tĩnh thiền sư, sư
trưởng Thiên Sơn tự bên Túc Kỳ Châu vậy. Cho nên võ sư chân chánh cần
tuyển lựa môn đồ rất thận trọng. Trái lại võ sư kém đọa đức, chỉ căn cứ
vào dũng lực tự nhiên của kẻ xin học, rồi giấu bớt thế hay phương pháp
bí truyền.
Đó là trường hợp Cát Đạt lão sư và Sử Đại Toàn. Đại Toàn sợ Cát Đạt chỉ
vì họ Cát dũng mãnh hơn y, bởi lẽ không truyền đúng phương pháp “Thần
Công Đề Khí”.
Chẳng như Lã Mai Nương, Cam Tử Long tự tin tài nghệ mình hơn.
Chiêu Dương thiền sư và Lã Tứ Nương biết chắc chắn hai người có đức độ
vững chãi, truyền hết bản lãnh công phu luyện tập bình sinh, mong sau
này có người nối chí.
Bởi vậy, thời ấy, nói về nhân vật của Thiếu Lâm bắc phái, Bạch Vân tự có Mạnh Sơn, Vô Sơn là hai môn đồ nối chí sư phục thí phát và trong giới
giang hồ hiệp sĩ có Mai Nương, Tử Long. Bốn người này tuy còn trẻ nhưng
tài nghệ, công phu đã đạt tới cấp cao tuyệt đối cao siêu trong nền
“Trung Hoa Kỹ Thuật” dưới thời Càn Long.
* * * * *
Vừng thái dương chói lọi giữa không trung.
Mai Nương đang ngả lưng trên giường bỗng vùng dậy :
– Chính Ngọ rồi. Ta sang phòng Cát Đạt sư huynh?
– Sư muội tự kỷ tới đó. Ngu huynh đi theo chẳng qua mất thêm thì giờ.
Tên dâm tặc sẽ lựa lời dẫn ngu huynh về trước. Chi bằng sư muội liệu
cách hạ sát nó đi, ngu huynh sẽ tới tiếp tay, khởi hành luôn cho rồi.
Đừng đeo kiếm nó nghi ngờ.
– Khoảnh khắc sư huynh tới ngay nhé? Dồn hành lý lại thành một bọc.
Cam Tử Long gật đầu.
Mai Nương đẩy cửa bước ra ngoài thềm. Trong sơn trại, lác đác ít người
qua lại. Phần đông đã kéo về trai nghỉ. Nàng đi thẳng tới tư phòng Cát
Đạt. Cửa phòng hé mở.
Mai Nương định gõ cửa thì nghe tiếng lão tặc vọng ra :
– Ai đó?
Nàng khen thầm y thính tai nghe rõ tiếng chân bước nhẹ.
– Thưa lão sư, đệ tử đây.
– Cứ vào.
Mai Nương đẩy nhẹ cửa bước vào, khép trái cửa lại như cũ.
Cát Đạt ngồi bên án, đang lau thanh đao to bản tuốt trần. Lưỡi đao bóng
loáng, sắc bén. Nàng vái chào. Để thanh đao lên mặt án, Cát Đạt nhìn
thẳng vào mặt Mai Nương :
– Lệnh huynh đâu sao không cùng đi.
– Thưa gia huynh khiếm an, sợ lỡ hẹn đệ tử đành tự kỷ sang hầu.
Chỉ chiếc kỷ nhỏ bên tường, Cát Đạt bảo :
– Cho phép ngồi xuống đây. Thực tình con muốn theo ta học võ chớ?
– Dạ đệ tử mong được học Nội công.
Cát Đạt đứng lên cười khà :
– Phải có bản lãnh khá mới học được Nội công chớ!
Dứt lời y xoa tay vào nhau đi đến cửa khép chặt cái then lại.
Cát Đạt quay trở lại nói tiếp :
– Con đã biết sẵn võ thuật, tài sức non nớt ấy chưa đủ làm nổi việc gì.
Cần phải theo ta uốn nắn lại cho, hơn một năm sau mới luyện nội công
được. Nhất định phải theo ta!
Mai Nương cười thầm: “Tên lão tặc này giở trò bịp bợm khó nghe quá!”
Nàng cúi gằm im lặng, ra bộ thất vọng.
Cát Đạt mê mẩn tâm thần, mải miết nhìn thiếu nữ lúc ấy thật đẹp mơ màng :
– Học võ phải theo đúng mực độ mới mong thành ta, ta nói thiệt tình, cớ sao con buồn.
Mai Nương chợt nghĩ ra một kế, giả đò thở dài đứng lên :
– Lão sư cho phép đệ tử trở về.
– Khoang! Vì lẽ gì con bỏ ý định theo ta luyện tập?
– Đệ tử chỉ muốn học Nội công, lão sư không chịu truyền dạy thì ở lại làm chi? Cho phép đệ tử ra về.
Dứt lời, nàng làm bộ tịch muốn ra cửa.
Cát Đạt chắn lối, vội vàng ôn tồn :
– Ta thử con đó thôi! Muốn luyện Nội công ta cũng có phép dạy trước thời kỳ. Nhưng phải uống một hườn thuốc trước khi học mới khỏi phí công và
chắc chắn thành đạt.
– Đệ tử thấy lão sư dùng dằng đâm ra mất hết tin tưởng. Trước kia cũng có một lão sư…
Cát Đạt vội ngắt lời :
– Võ sư nào? Y làm gì?
Mai Nương ngước cặp mắt huyền nhìn Cát Đạt, ra vẻ nghi ngờ :
– Vị võ sư người Hán, vóc dáng dũng mãnh như lão sư, tự nhận biết nội công nên anh em đệ tử xin theo học…
Cát Đạt nóng ruột :
– Thế sao?
Đoán biết cá đã cắn mồi, Mai Nương nói tiếp :
– Võ sư đó lần lữa hứa hẹn sẽ dạy, viện cớ vì lẽ nọ lẽ kia. Rút cuộc
người ấy chỉ là tay bịp bợm. Thấy đệ tử đòi hỏi biểu diễn nhiều quá,
chối từ không được nên cuốn gói lên đi thẳng. Bây giờ nghĩ còn tức cười.
Cát Đạt cười khẩy :
– A! Ta hiểu rồi! Thế ra con không tin ta đủ tài lực. Tưởng ta cũng bịp
bợm như tên khốn kiếp nào đó đã làm ô danh giới võ sư. Nếu muốn ta sẽ
thử cho mà coi?
Mai Nương khôn khéo :
– Đệ tử không dám hỗn xược đâu, nếu lão sư biểu diễn Nội công đệ tử càng tin tưởng hơn, yên trí theo… tất cả mọi điều lão sư dạy bảo.
Cát Đạt hớn hở :
– Được lắm! Ta biểu diễn cho mà coi, và có thể truyền tức thì mấy pháp
khởi đấu thuật. Nội công cho con, nếu con chịu nuốt hườn thuốc linh dược điều hòa tình trạng tinh thần trước khi khởi học.
Mai Nương tỏ vẻ kính cẩn thực thà :
– Một khi đệ tử đã tinh tường thì lão sư dạy bảo điều chi con cũng cố gắng học theo.
Cát Đạt cởi áo liệng lên kỷ, để lộ thân hình nở nang cổ ta vai rộng, ngực xệ hẳn xuống, hai cánh tay bắp thịt rắn chắc gân guốc.
– Sau khi ta gồng lên và ra hiệu, cho phép con dùng quyền hay cước tùy
ý, đánh vào bụng, ngực, lưng, tứ chi. Đánh chán thì thôi. Phải dùng tận
lực. Bất quá như phủi bụi thôi, đừng lo ta bị đòn đau nghe.
Dứt lời Cát Đạt đứng ra giữa căn phòng rộng rãi, thở điều hòa, khởi mấy
thế nội công. Đoạn trở về Đinh tấn, co hai tay bên sườn, hai bàn tay nắm chắc lại, bắp thịt nổi lên cuồn cuộn như thừng chão.
Mai Nương khen thầm Cát Đạt quả đáng được liệt vào hạng võ thuật cao
siêu. Căn cứ vào môn nội công y đang biểu diễn, bản lãnh họ Cát thật
không vừa.
Có định ý sẵn, Mai Nương chăm chú nhận xét tỉ mỉ phương pháp biểu diễn Nội công của Cát Đạt, gân xương chuyển răng rắc.
Thật ra bài biểu diễn nội công gồm có sáu mươi tư thế, sáu mươi tư lần
hô hấp, chuyển từ thế nọ sang thế kia cực kỳ chậm chạp, đi hết toàn bài
mất nhiều thì giờ.
Bởi vậy, Cát Đạt cốt vận động nội công cho Mai Nương tòng phục, sợ hãi,
tin tưởng để dễ lừa nàng vào con đường bất chánh. Biết đâu thiếu nữ đang đứng kia lại là một nhân vật hữu danh, tài nghệ siêu phàm được khổ
luyện từ nhỏ, tuy tuổi đang thiếu thời mà công phu đã liệt ngang hàng
đại sư. Sợ mất thì giờ, Cát Đạt biểu diễn đến thế thứ hai mươi thì dừng
lại, đứng nguyên thế cũ, hất hàm ra hiệu bảo Mai Nương nhập đả.
Nàng biết Cát Đạt vội vàng, cười thầm tên lão dâm tặc táng mạng đến nơi
mà không hiểu. Vận dụng công phu, Mai Nương thoăn thoắt tiến tới, so tay hữu lên ngang vai tả, tay tả nắm lối “Thôi Sơn Thủ” dang chếch ra phía
sau, mắt đăm đăm nhìn vào bụng lão sư như kẻ nhắm bụng đánh tới. Cát Đạt cũng đinh ninh như vậy, yên trí người đẹp sẽ phục tòng mình và lát nữa
tha hồ làm mưa làm gió.
Chẳng dè khi vừa tới sát mình lão sư, Mai Nương vận dụng thần lực, lẹ
như chớp mở bàn tay hữu thành “Cương Đao Thủ” chém chéo vào ngang cổ tên dâm tặc…
Trong cái chớp mắt nguy hiểm ấy, Cát Đạt bỗng nhận ra thiếu nữ là một vị cân quắc anh thư lợi hại chớ không phải cô gái diễm kiều ủy mị mới đây
nữa. Nhận ra nhưng đã trễ…
Hự… ự… ự! Tiếng hự vang lên khắp phòng. Trúng đòn phá nội công, yết
hầu dập nát, Cát Đạt bật ngửa người ra phía sau, lảo đảo quật đầu vào
tường “huỵnh” một tiếng, gục xuống, rũ ra như cái bao rách, hết thở.
Muốn chắc chắn, Mai Nương nhảy tới dùng chân hất ngửa tử thi ra coi. Cát Đạt quả chỉ còn là cái xác vô hồn.
Nàng trở lại án thơ cầm thanh đao to bản của Cát Đạt chùi dở hồi nãy,
đoạn xăm xăm đi ra cửa toan mở thì bỗng có tiếng chân ở ngoài và tiếng
gõ cửa dồn dập…
Tại sao Cát Đạt có tài nội công lại bị Mai Nương đả tử như vậy?
Nguyên phép nội công kỵ năm huyệt: Hạ bộ, hậu môn, thái dương, gáy và
yết hầu. Gặp một đối thủ không tinh thông võ thuật, đòn đánh còn đỡ nguy hiểm, nhưng trong trường hợp này, Cát Đạt gặp phải Lã Mai Nương rành
phép nội công, chặt bàn tay Cương đao rắn như thép trúng yết hầu giữa
lúc y đang hít không khí nên bị táng mạng ngay.
Tiếng gõ cửa dồn dập hơn. Mai Nương biết không phải là Tử Long, không khi nào chàng hành động hấp tấp như vậy.
– Mở cửa mau!…
Tiếng nói lanh lảnh dội vào phòng, Mai Nương mỉm cười đoán là Bành Thúy Linh.
Nàng định nhảy lên cửa sổ cuốn, ra ngoài, nhưng cánh cửa đó đã bị đá bật tung ra…
Bành Thúy Linh cầm đoản đao nhảy vào phòng, mặt đỏ gay gắt :
– Ta biết ngay là con tiện tì mà! Mi dám sát hại lão sư, chạy đàng trời cũng không thoát…
Nguyên Thúy Linh vẫn căm tức, ghen giận Cát Đạt và thiếu nữ mới đến từ
sáng. Nàng thừa hiểu lối “truyền võ nghệ” của lão sư tại tư phòng vì
chính nàng đã qua bước đó rồi. Bởi vậy, nàng định bụng rình mò đột nhập
tư phòng lão sư phá chơi cho bõ lòng ghen tức. Không do dự nữa, nàng co
chân đạp tung cánh cửa, xông vào phòng.
Một cảnh tượng không ngờ diễn ra trước mặt nàng. Tử thi Cát Đạt nằm
ngửa, mắt trợn trừng gớm khiếp, miệng há hốc, máu còn từ từ trào ra hai
bên mép và lỗ mũi, tứ chi co quắp. Trong cuối phòng, Lã Mai Nương kiêu
dũng, tay cầm thanh đao lớn và Thúy Linh nhận ra là của lão sư.
Thúy Linh tự trách đã quá ghen tuông vô lối, phá cửa phòng trễ quá nên
Cát Đạt mới đến nỗi táng mạng. Nàng nổi giận đùng đùng la hét ấm ĩ hua
đao nhảy xổ vào chém kẻ thù một lát ngang cổ. Mai Nương gạt mạnh. Hai
thanh đao chạm nhau tóe lửa.
Đao của Thúy Linh bật văng lại, cánh tay đau nhức ê ẩm. Nàng không ngờ đối phương mạnh đến như vậy.
Mai Nương cười gằn :
– Bành Thúy Linh! Phải chăng mi là con lão tặc Bành Khoát Hải ở Hoa Châu?
Thúy Linh gầm lên :
– A! Ra mi là kẻ thù sát hại cha, anh ta!
Dứt lời, Thúy Linh lướt tới múa đao chém bừa. Lã Mai Nương đưa dọng đao
hất mạnh khiến đao địch văng vào phòng xoảng một tiếng. Bành Thúy Linh
tay toạc hổ khẩu, xoay lưng toan chạy thì bị Mai Nương co chân đạp nhẹ
vào mông lộn ba vòng nhào ra khỏi cửa phòng…
Giữa lúc ấy, Cam Tử Long từ ngoài nhảy lên cửa sổ cuốn, liệng thanh trường kiếm Yểm Nhật cho Mai Nương :
– Ngu huynh nằm trên mái từ nãy. Chúng đang từ tứ phía kéo đến, đông lắm, ra lối này mau!
Mai Nương bắt lấy kiếm đeo chằng ra sau lưng, tay tả cầm thanh đao to
bản, tay hữu cầm đai lưng nhấc xác Cát Đạt lên. Bên ngoài tiếng chân tặc đạo chạy sầm sập, tiếng kẻng báo động inh ỏi. Mai Nương đứng nép bên
cửa nhìn né ra thấy Sử Đại Toàn cầm khiên đồng và thiết giản lướt tới.
Tức thì nàng đảo tử thi Cát Đạt lấy trớn, đoạn nhằm sư tặc liệng mạnh
tới.
Tử thi bay vụt từ trong phòng ra. Đại Toàn tưởng là địch thủ liền hùa
thiết giản bốn cạnh vụt mạnh trúng đầu bể toang, óc phọt tung tóe, bắn
cả vào mặt y. Đồng thời Đại Toàn nhận ra là mình đã đánh nhầm phải xác
lão sư. Y gầm hét lên như sư tử, đưa khiên đồng đi trước, nhảy ùa vào
phòng, trống rỗng.
Lã Mai Nương đã cùng Cam Tử Long ra lối cửa sổ đầu nhà, phi thân đứng
sừng sững trên mái. Bọn đầu lãnh Đặng Cửu Bá, Thiết Mộc Can, Thành Ma Hộ và Sử Huyền Cô trông thấy la hét ầm ầm nhảy cả lên mái. Nhưng bốn cặp
chân vừa đặt xuống mái thì đã bị hai lằn đao kiếm của Cam, Lã lia sát
mái bắt buộc chúng phải nhào đại xuống sân tránh đòn.
Lúc đó Sử Đại Toàn từ phòng Cát Đạt chạy ra thấy vậy, bèn hô :
– Anh em theo tôi!
Dứt lời y vác khiên che người nhảy vút lên nóc nhà. Cam Tử Long hạ một
nhát kiếm xuống ngang cổ họ Sử. Đại Toàn đưa khiên lên đỡ gặp phải báu
kiếm chém vạt mất góc đồng khiên thẳng như tiện văng xuống đất. Y giựt
mình, nhưng trấn tĩnh lại ngay quật thiết giản vào vai địch thủ trả đòn. Sử Huyền Cô và Thành Man Đô nhảy ùa lên theo sau Sử Đại Toàn. Đặng Cửu
Bá, Thiết Mộc Can lên sau cùng. Họ Đặng dùng đồng nhân, họ Thiết dùng
độc chùy. Hai món võ khí cùng nặng nề.
Lã Mai Nương rút Yểm Nhật kiếm, tay đao tay kiếm đón đánh cả bốn người.
Bọn lâu la kéo ra đầy sân vây quanh nóc nhà, reo hò inh ỏi. Cam Tử Long
biết ý Mai Nương muốn để chàng rảnh rang hạ địch thủ, bèn dùng thế “Cao
Tổ Trảm Bạch Xà” hạ chéo một lát kiếm xuống vai họ Sử.
Trông thế kiếm thập phần mạnh mẽ, lưỡi kiếm loang loáng linh khí rợn
người, Đại Toàn biết đối phương thực sự lợi hại, thêm có báu kiếm, nên
không dám khinh thường, dùng đồng khiên đỡ liều. Y dang tay khiên, đưa
thiết giản gạt kiếm, nhưng hụt.
Tử Long đã thâu kiếm, đoạn xỉa luôn một mũi nhằm ngực đối phương. Đại
Toàn không dám dùng khiên, đưa giản đỡ nữa. Lẹ như cắt, Tử Long xuống
tấn nghịch mã thật thấp quật luôn lưỡi kiếm nhằm hai cổ chân địch. Đó là thế “Cuồng Phong Tảo Lạc Diệp”.
Thét lên một tiếng lớn, Sử Đại Toàn nhảy lên cao nhường lưỡi kiếm vun
vút qua chân, đoạn hạ luôn một thiết giản nhằm đầu đối phương mạnh mẽ vô cùng theo ngọn “Thái Sơn Áp Đỉnh” lợi hại.
Ngọn giản vụt hụt vào khoảng trống. Tử Long khẽ nhảy né qua bên, thuận
tay tả chặn bắt trúng cổ tay hữu cầm giản của đối thủ bóp mạnh như mũi
kềm sắt. Đau quá, Sử Đại Toàn tê buốt cả cánh tay, rời ngọn thiết giản
lăn lông lốc trên mái, rơi thẳng xuống sân. Y cố sức dồn toàn lực vào
tay tả thọc thẳng mũi nhọn ở đồng khiên vào mặt địch thủ để gỡ cho tay
hữu. Lẹ hơn, Tử Long dáng thẳng một đốc kiếm vào gáy Đại Toàn.
Một tiếng “rắc” khô khan dội lên lẫn với tiếng thét đau đớn khủng khiếp. Đại Toàn gãy xương gáy, lộn nhào xuống đất, hết thở.
Rảnh tay Tử Long rút tù và dắt ở đai lưng thổi mấy tiếng dài.
Bốc Đề Nhỉ chờ sẵn trên miệng hang phát lên mấy mũi tên lửa lên không
trung, ra hiệu cho tráng đinh phục ở phía rừng trước mặt Hổ Hầu Sơn, rồi cùng đồng bọn rùng rùng kéo xuống sơn trại…
Nói về Lã Mai Nương một mình chiến đấu với bốn tên đầu lãnh Đặng, Thiết, Thành, Sử Huyền Cô và Bành Thúy Linh lúc đó cũng đã hoàn hồn lượm đao
lên trợ chiến. Năm tặc đạo nam, nữ vây tròn nàng vào giữa đánh tới tấp,
tưởng nhờ đông người và dùng sức mạnh sẽ áp hạ ngay địch thủ. Chẳng ngờ
Mai Nương tay đao tay kiếm hoa lên vùn vụt như gió giựt mưa rào, xung
đông kích tây, dũng mãnh bội phần. Thanh đao to bản chạm vào các võ khí
nặng của Đặng Cửu Bá, Thiết Mộc Can và Thành Man Đô chan chát, nảy lửa.
Nàng nhắm thế trận yếu nhất là mẹ con Sử Huyền Cô, lia luôn mấy phát
kiếm Yểm Nhật, tiện đứt đôi lưỡng đao của Huyền Cô.
Sợ hãi, Huyền Cô chùn bước. Thừa thế, Mai Nương nhảy tới phóng chân tả
đá trúng ngọn “Bàn Long cước” vào giữa mặt Huyền Cô lộn xuống sân. Bành
Thúy Linh vội nhảy theo xem xuống xem Huyền Cô trúng đòn thế nào. Huyền
Cô bể mặt ngất lịm. Thúy Linh tính bề khó thắng, trong bảy người thì hai tên kiệt biệt nhất là Cát Đạt và Sử Đại Toàn đã tử trận. Tam thập lục
kế, tẩu vi thượng sách, nàng không do dự, cõng Huyền Cô về tư phòng lấy
gấp mấy món tiền bạc, rồi liều mạng chạy ra sườn núi lẩn vào rừng cây đi mất.
Từ lúc khởi chiến, bọn lâu la đành bó tay đứng dưới sân reo hò trợ
chiến, không dám sử dụng cung tên sợ bắn trúng người nhà. Nay thấy Cam
Tử Long rảnh tay thổi tù và ra hiệu, bèn nhắm chàng bắn tên như mưa rào. Tử Long vội dùng lối “Cản tiễn kiếm pháp” múa lên vù vù, làm kiếm chập
chờn bao phủ khắp người, tên bị gạt văng đi tứ phía, hoặc bị lưỡi kiếm
tiện làm đôi rớt xuống mái nhà.
Bọn lâu la cùng hè nhau bắn dữ. Đang muốn giúp Mai Nương hạ nốt ba tên
đầu lĩnh còn lại thì bị làn tên cản trở, Tử Long thét lớn, vừa múa kiếm
đỡ tên vừa nhảy ào xuống sân, chém dọc, ngang luôn mấy phát. Chỉ trong
chớp mắt là năm sáu lâu la trúng kiếm, thủ cấp lăn lông lốc trên sân,
máu phun lênh láng.
Chúng chạy dạt ra tránh ngọn kiếm lợi hại của thanh niên tráng sĩ. Cam Tử Long cũng chỉ mong có vậy để được tiếp tay Mai Nương.
Đặng Cửu Bá, Thiết Mộc Can, Thành Man Đô vây đánh thiếu nữ dồn dập.
Không kém, Lã Mai Nương chống trả kịch liệt. Trên mái vừa dốc vừa chật
hẹp không bên vây trở, nàng thấy Tử Long đã càn quét dãn hết bọn lâu la
dưới sân bèn nhằm Thành Man Đô thúc mạnh một kiếm, đồng thời chém một
đao vào mặt Thiết Mộc Can.
Hai đầu lãnh thoái bộ tránh đòn. Thừa dịp Mai Nương nhảy vút xuống sân, Đặng Cửu Bá thét lớn nhảy đuổi theo.
Cam Tử Long nhào tới sả một kiếm vào sườn họ Đặng.
Cửu Bá đưa đồng nhân gạt kiếm quát :
– Không ngờ bọn bây vào đây làm nội ứng. Đấu trăm hiệp chơi, sợ chi!
Tử Long sả luôn lát kiếm nữa vào bụng đối phương :
– Bây làm giặc mà không biết nhìn người, chết là đáng rồi.
Hai người quây lại giáp chiến kịch liệt. Lã Mai Nương dư thì giờ tra
trường kiếm vào vỏ. Thấy cây đao to bản khá tốt, nàng muốn sử dụng đến
cùng. Hai đầu lãnh Mông Cổ nhảy theo Đặng Cửu Bá hùng hổ ào tới tái
chiến với Mai Nương.
Thiết Mộc Can, Thành Man Đô hầm hè như hai mãnh hổ liều mạng tái chiến. Chúng không ngờ thiếu nữ dũng mãnh lợi hại nhường ấy.
Thiết Mộc Can quật chéo độc chùy xuống vai đối thủ, Mai Nương không thèm né, đưa dọng đao ngáng lấy cán chùy, dùng toàn lực hất mạnh. Không ngờ
thiếu nữ đón ngọn chùy liều lĩnh liều lĩnh đến vậy và bị sức hất thiệt
mạnh, ngọn chùy bị bật ngược về phía sau kéo luôn chủ nhân nó nhào đi
một vòng.
Vừa lúc ấy, Thành Man Đô văng thiết xích quật vòng vào cổ chân tả Mai
Nương giựt mạnh. Muốn hành động cho tên tặc tướng ghê sợ. Mai Nương thừa biết Man Đô địch dùng thiết xích một là đánh bật chợ mình, hai là giựt
cho té, bèn tạo tấn vững như Thái Sơn. Thành Man Đô nghiến răng, mím môi dùng toàn lực kéo mạnh.
Nực cười thay y lực lưỡng nhường ấy mà chẳng khác chi chuồn chuồn lay
thạch trụ. Châm thiếu nữ vững tựa cây cột sắt chôn sâu xuống đất. Mai
Nương cười khanh khách nghe ghê rợn, ngồi thụp xuống thiệt lẹ, chụp xích luôn xích sắt kéo mạnh.
Thành Man Đô bổ nhào đến trước mặt nàng. Tiện tay, Mai Nương đưa thốc
một mũi đao trúng ngực đối thủ xiên suốt ra sau lưng Man Đô rộ lên một
tiếng chết ngay.
Mai Nương gạt xác tên sơn tặc, rút vội thanh đao, nhảy phắt sang bên tả
vừa kịp tránh ngọn chùy mạnh mẽ của Thiết Mộc Can quật tới sau lưng.
Thấy bạn bị chết, họ Thiết gầm lên dữ dội, liều mạng đánh chí tử.
Nổi giận, Mai Nương không tránh nữa. Nàng theo trớn ngọn chùy, đưa dọng
đao chặn vào cán, gạt cán sang bên rồi đè chặt xuống. Thiết Mộc Can dùng tận lực bình sanh cố nhấc chùy lên, những tưởng lật toàn thân thiếu nữ
lên khỏi mặt đất. Nhưng Mai Nương đứng vững tưởng như bàn thạch. Trái
lại Mộc Can đỏ mặt tía tai, mồ hôi nhễ nhại xoay mãi không nhấc nổi ngọn chùy. Mai Nương trừng mắt phượng xếch ngược.
– Tặc đạo biết sợ chưa? Biết điều lại hàng thì bản cô nương tha cho.
Thiết Mộc Can buông một tay chùy, đấm mạnh tả hữu vào mặt đối thủ.
– Sợ tiện tì ư? Chết này!…
Mai Nương ung dung đưa tay gạt nhẹ trái đấm ấy, đồng thời rút phắt lưỡi
đao khiến Thiết Mộc Can bất ngờ mất trớn chúi hẳn người sang bên. Mai
Nương tiện dịp co chân đạp mạnh vào mông đối phương khiến tên này nhào
bắn hẳn vào thềm nhà đầu va phải đá, bể sọ chết tốt.
Rảnh tay, Mai Nương nhìn thế trận. Đặng Cửu Bá bản lãnh rất khá đang đấu với Tử Long, thấy hai đồng nghiệp Mông Cổ tử trận theo nhau thì tinh
thần nao núng, định mở đường chạy. Nhưng chạy sao được với Tử Long? Lưỡi trường kiếm linh động cuốn chặt lấy tên sơn tặc.
Tiếp tục đánh thì thua, mở đường chạy không nổi, Đặng Cửu bá định liều
mạng dùng ngón sở trường: cái đầu rắn như đá của y đã nổi danh trong đám giang hồ hắc đạo. Trong lối đánh của đối phương, Tử Long đoán y đang
tính toán việc gì. Bỗng nhiên Cửu Bá bất thần gạt kiếm, liệng đồng nhân
vào mặt đối phương. Tử Long né tránh thì cùng lúc ấy, Thạch Đầu Quỷ họ
Đăng nhào tới húc mạnh đỉnh đầu nhẵn bóng vào ngực đối thủ.
Cam Tử Long biết tên sơn tặc có chiếc sọ nổi danh sau đây mới dám liều chết húc vào ngực đối thủ.
Chàng nhẹ nhàng né sang bên, gài kiếm vào bao :
– Aha! Đặng Cửu Bá! Thủ cấp của ngươi liệu rắn chắc được bao nhiêu? Ta sẵn sàng thử đây.
Húc hụt, Đặng Cửu Bá tưởng thế nào đối phương cũng nhào tới chém nên né
chân toan chạy thì vừa lúc Tử Long gài kiếm muốn thử thách “Thạch Đầu”
của y.
Họ Đặng nghĩ thầm: “Xưa nay mình đã từng hạ biết bao nhiêu anh hùng hảo hán, nổi danh cũng vì cái đầu rắn chắc này?”
Đặng Cửu Bá xoa tay lên đỉnh đầu bóng loáng :
– Được lắm! Có thế mới là anh hùng vậy hãy gồng ngực, thót bụng lại cho cẩn thận nhé!
Tử Long phì cười, liên tưởng đến đầu con hắc hổ to lớn mà chàng đã đấm bể khi trước trong dãy Tần Lĩnh sơn :
– Ta báo trước, đầu người có rắn được bằng đầu lão hổ không?
Đặng Cửu Bá tự tin, cứng cổ :
– Rắn như đá. Ngươi không biết Thạch Đầu Quỷ đây sao?
Tử Long cười gằn :
– Biết thì ngươi cũng chỉ là tên lục lâm tặc đạo chuyên cướp của giết
người chớ làm được gì cho nhân quần, xã hội? Thử đi ta coi?
Dứt lời, chàng dang hai tay sang bên, xuống trung bình tấn, hất hàm ra hiệu cho Cửu Bá húc.
Tức thì, họ Đặng vận toàn lực toan húc thì chợt nghĩ đến thanh trường
kiếm của đối phương đeo trên lưng, nghĩ thầm “Lỡ trong lúc mình lao
người húc, y lẹ tay tuốt kiếm chém xuống thì sao?”
Bèn nói :
– Ta không tin ngươi với thanh kiếm kia.
Tử Long khinh bỉ :
– Ngươi hèn hạ quá! Nếu ta định lừa ngươi dùng kiếm chém hạ ngươi từ hồi nãy rồi, hơi đâu phải bịa chuyện thử “Thạch đầu” của ngươi.
Tuy nói vậy nhưng chàng cũng đứng dậy tuốt kiếm liệng cho Lã Mai Nương đứng gần đó bắt.
Mai Nương hiểu Tử Long định ý gì rồi, bắt lấy thanh kiếm đứng nguyên xem.
Tử Long lại tọa tấn trung bình, dang hai tay ra như cũ.
Đặng Cửu Bá thích chí bụng bảo dạ :
– Thế này thì mi chết đến nơi rồi!
Y xoa đầu theo thói quen, vận dụng toàn lực nhào người như tên bắn húc
thẳng vào nơi dưới ngực đối thủ. Giữa lúc ấy, Tử Long thâu hai tay lại
hai bên sườn, chờ đúng đỉnh đầu Thạch Đầu Quỷ tống mạnh một “Tả Thôi Sơn Thủ”. Bốp!… Nếu họ Đăng nổi danh “Thạch Đầu” thì Tử Long cũng lừng
danh “Thôi Sơn Thái Bảo” có trái đấm nặng như nói vậy. Đặng Cửu Bá kêu
dội lên một tiếng bể sọ, gục xuống hết thở. Thế là hết đời Thạch Đầu
Quỷ.
Tiếc thay cho kẻ hữu tài vô hạnh, dùng tài trí thông minh không đúng chỗ đến nỗi phải bỏ mạng.
Mai Nương đến trả Huyền Tiễn kiếm cho chàng. Lúc đó, bọn lâu la phần lủi ra trốn phía cổng trại, phần nhát hơn liệng khí giới xin hàng. Bốc Đề
Nhĩ cũng đã điều khiển đoàn tránh đinh xuống tới sân trại. Y vui mừng
vái Song hiệp :
– Bốc mỗ có lời mừng cho nhị vị thành công. Lúc mới khởi sự tôi thấy chúng nhao nhao đông quá nên thấy lo.
Lã Mai Nương hỏi :
– Đoàn tiền trại sao không thấy tới?
Giữa lúc ấy, bỗng có tiếng chân sầm sập chạy ùa từ ngoài cửa trại vào.
Song hiệp toan chạy ra xem việc gì thì ra đó là đoàn lâu la từ trong
trại trốn ra và đồng bọn chậm chân, dưới chân núi, bị các tráng đinh
thấy hiệu hỏa tiến liền hăng hái đánh thốc bừa lên núi.
Đại đầu mục Vệ Lương Ngũ được tin lâu la báo Cát Đạt lão sư và Sử đại
vương táng mạng, còn các đầu lãnh khác không chắc có chống nổi hai thanh niên nam nữ anh kiệt, nên hoang mang sợ hãi vừa đánh vừa lùi vào đại
trại.
Lùi được nửa đường, mấy tên lâu la khác lại chạy nhớn nhác ra cho biết
đồng bọn trong sơn trại bị tàn sát nhiều, đánh không lại. Vệ Lương Ngũ
bủn rủn cả tay chân bất đồ trúng tên té xuống khe núi theo một số lâu la chạy trốn trúng tên có tới hơn trăm người. Bọn lâu la chạy dồn cả vào
trong sân, theo sau là các tráng đinh sơn thôn. Cam Tử Long chỉ các tử
thi ngổn ngang trên sân hướng vào bọn lâu la nói lớn.
– Các ngươi hãy trông các đầu lãnh và đồng nghiệp sơn tặc táng mạng đây
làm gương. Hạ võ khí quy hàng, giải tán. Tên nào mưu mô trí trá chớ
trách ta bạo tàn!
Bọn lâu la như rắn mất đầu, liệng tất cả võ khí còn lại ra sân, đoạn
đứng tụ tập vào một góc. Cam Tử Long bảo Bốc Đề Nhĩ điều khiển tráng
đinh thâu thập khí giới đó lại, đoạn họp toàn thể lâu la còn lại nơi
trước sảnh dẫn dụ :
– Các ngươi thân nam nhi sức dài vai rộng có thể làm những việc khác hữu ích cho nhà, cho nước hơn, lẽ nào phí sức cương cường theo bọn vô đạo
vô nơi thâm sơn hành nghề lục lâm thảo khấu, chẳng trước thì sau, thế
nào cũng bị chinh phạt. Nay ta giải tán sơn trại, phát lộ phí cho các
ngươi hồi hương. Vậy ta khuyên bọn ngươi nên cải tỉnh sống cuộc đời
lương thiện. Hãy trông bọn đầu lãnh đây mà làm gương soi chung!
Nói đoạn, Tử Long gọi một một tên đầu mục người Mông Cổ thạo tiếng Hán, bảo nhắc lại rõ ràng cho chúng lâu la nghe.
Thoát chết bọn chúng vui mừng, cảm tạ lòng nhân của Cam, Lã. Hứa xin về quê làm ăn tu tỉnh.
Giải quyết xong vấn đề lâu la đông đảo, Cam, Lã, cùng Bốc Đề Nhĩ và viên trưởng sơn thôn kiểm soát kho lương tiền bạc, phát cho những lâu la và
bắt tức khắc giải tán.
Nửa tháng sau, ngay chân núi Hổ Đầu, một thôn trang rộng rãi, ngăn nắp
nhà cao cửa rộng, gia đình nào cũng đủ phần đất trồng trọt, chăn nuôi
sinh sống. Theo ý kiến của Song hiệp mọi người còn dựng quanh thôn một
bức thành bằng cây súc thật kiên cố, lập vọng lâu, điếm canh. Trưởng
thôn lập các đoàn tráng đinh, sẵn khí giới thâu được của tặc khấu, hàng
ngày luyện tập cho thành hàng ngũ nghiêm chỉnh, phòng khi hữu sự thì còn tự vệ được. Công việc hoàn thành, Song hiệp từ giã mọi người lên đường.
Toàn thôn lưu luyến hai người, yêu cầu nán lại một ngày, làm tiệc linh
đình tiễn hành. Cùng ngày hôm đó, dân thôn dựng lên một tấm biển ngang
cổng trại đề ba chữ “Song Hiệp Thôn” để kỷ niệm công đức Cam, Lã.