Bạn đang đọc Kiếm Hiệp Kim Dung Full – Chương 4: Bích Huyết Kiếm ( Hết )
Hồi 14
Thấy hòm sắt nặng nề như thế. Mà chàng ném thành đống cao một cách nhẹ nhàng. Chữ Hồng Liễu đã kinh hãi sức mạnh thần thánh nay lại thấy chàng nhảy lên trên nóc nhẹ nhàng như chim bay lại càng sợ hãi thêm.
Thì ra Thừa Chí thấy kẻ địch quá nhiều cho nên phải đem khinh công thượng thặng “Bách Biến Quỷ Ảnh” do Mộc Tang đạo nhân truyền cho để đe dọa bọn giặc. Thấy đống hòm chồng chất cao như vậy và nghiêng ngửa như sắp đổ, y tự biết kinh công thấp kém nên không dám nhảy lên bêu xấu, liền quát lớn:
– Mi có giỏi thì xuống đây?
Đứng trên nóc hòm chót vót Thừa Chí lên tiếng gọi:
– Mi có giỏi thì lên đây.
Chữ Hồng Liễu đến gần ôm mấy cái hòm ở dưới lắc mạnh một hồi, chỉ thấy Thừa Chí ngã lộn ngược xuống. Bọn giặc cỏ vỗ tay hoan hô. Nào ngờ đâu lúc ngã xuống đến đỉnh đầu Chữ Hồng Liễu, Thừa Chí bỗng dùng tả chưởng đánh bổ xuống. Chữ Hồng Liễu sợ quá giơ hữu quyền đánh lại. Thừa thế Thừa Chí nắm luôn tay phải y và điểm luôn yếu huyệt. Chờ khi đến hai chân của mình vừa xuống mặt đất, Thừa Chí quát lớn một tiếng “Lên.”
Cả một thân hình béo mập của Chữ Hồng Liễu bay bổng lên nóc hòm lúc đó còn lắc lư, Chữ Hồng Liễu nằm bò lên đó trông thật tức cười Thanh Thanh lớn tiếng gọi:
– Mi có giỏi xuống đây?
A Chín nghĩ đến lời nói của Chữ Hồng Liễu vừa rồi cũng không sao nhịn được cười.
Chữ Hồng Liễu xưa nay rất kém kinh công lại thêm thân hình mập mạp nay đột nhiên bị nằm bò trên cao dù có tài ba lỗi lạc cũng không làm gì được. Biết khuyết điểm của y Thừa Chí mới đặt cái tròng đó để cho y lọt vào. Bọn giặc không dám đến khuân hòm sắt xuống để cứu Hồng Liễu vì sợ động đến những cái hòm ở dưới, nhỡ những cái trên xụp đổ thì người ở dưới có phải bị đè chết hay không? Nên không ai dám động tới.
Sa Thiên Quảng khẽ nói:
– Đàm hiền đệ ra lịnh bao vây tấn công thằng nhỏ kia, hãy giết nó trước đi đã?
Đàm phó trại chủ liền thổi tù và ra lệnh. Bọn giặc Sơn Đông rút khí giới và xông lại bao vây Thừa Chí, Chàng Câm. Thanh Thanh cầm kiếm, Hồng Thắng Hải dùng đao Thừa Chí và Chàng Câm thì tay không. Cả bốn người quay tròn đối địch với bọn giặc.
Chàng Câm và Thừa Chí túm ngực từng tên giặc một ném ra xa. Từ ra đời tới giờ bọn giặc chưa từng thấy ai đánh lạ lùng như vậy nên chúng sợ hãi vừa đánh vừa rút lùi.
Thừa Chí nhảy tới cạnh Sa Thiên Quảng. Lúc ấy Sa trại chủ đang nằm ngứa dưới đất có hai tên đầu mục trông nom xoa bóp. Thấy Thừa Chí xông tới một tên giơ đao ra cản trở một tên cõng Sa Thiên Quảng chạy. Thừa Chí chui qua lưới dao đuổi theo túm cổ tên đang chạy đá mạnh một cái. Tên nọ đau quá la lớn liền buông Sa Thiên Quảng quăng xuống, Thừa Chí bèn đỡ lấy kẹp chặt vào nách rồi nhảy lên mui hòm kêu gọi:
– Các người có muốn y sống hay là y chết?
Bọn giặc thấy thủ lãnh mình bị bắt ai nấy đều ngẩn người ra không dám ra tay đánh nữa. Thừa Chí giơ tay ra hiệu cho chàng Câm xông vào trong bang Thanh Trúc. Lúc này những người trong bang Thanh Trúc đang khoanh tay đứng xem thấy chàng Câm mạnh như mãnh hổ xông tới vội giơ khí giới ra cản trở.
Nhưng theo hầu Bát Thủ Tiên Viên Mục Nhân Thanh lâu năm chàng Câm võ nghệ vì vậy rất cao những người thường địch sao nổi. Chỉ thấy những kiếm,gươm,giáo, mác bay tứ tung chàng tay không đã xông đến cạnh Trình Thanh Trúc. Đứng trên cao Thừa Chí trông thấy chàng Câm sắp thành công đang mừng thầm. Bỗng thấy A Chín ngồi dưới đất khóc lóc.
Thừa Chí nghĩ: “Nếu Trình Thanh Trúc chết đối phó với lũ rắn không đầu như bang Thanh Trúc không phải là chuyện dễ.”
Nghĩ đoạn chàng liền lớn tiếng gọi:
– Thắng Hải mau gọi chàng Câm trở lại đây.
Dược lệnh Hồng Thắng Hải bỏ kẻ địch xông đến trước mặt chàng Câm ra hiệu bảo chàng trở lại. Chàng Câm quay lại thấy sư huynh gọi lại thật mới chịu quay đầu trở lại. Thừa Chí đưa Sa Thiên Quảng cho chàng Câm rồi nhảy vào trong đám đông Bang Thanh Trúc hỏi:
– Sao thế?
A Chín vừa khóc vừa trả lời:
– Sư phụ tôi chết rồi?
Thừa Chí cúi xuống để tay vào mũi Trình Thanh Trúc thấy đã ngừng thở thật, lại sờ đến ngực thì thấy tim còn đập rất yếu liền nói:
– Đừng sợ tôi cứu cho!
Vừa nói chàng vừa lật Trình Thanh Trúc cho nằm sấp xuống, thấy sau lưng có năm lỗ nhỏ đều ở những chỗ yếu huyệt nên võ công có tinh xảo cũng không chịu nổi.
Biết những vết thương này rất nặng Thừa Chí vội dùng sức điểm Thiên Phu huyệt ở trên lưng và Dũng Tuyền huyệt ở dưới gan bàn chân. Nhờ vậy huyết mạch mới lưu truyền. Trình Thanh Trúc từ từ tỉnh dậy mở mắt ra nhìn. A Chín cả mừng lớn tiếng kêu gọi
– Sư phụ, sư phụ!
Trình Thanh Trúc gật đầu. Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
– Ông ta là sư phụ của cô đấy à? Tôi tưởng là ông nội của cô.
A Chín đáp:
– Dạ! Cám ơn ông nhé?
Lúc ấy Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải, chàng Câm ba người đã vác Sa Thiên Quảng lùi về phía bang Thanh Trúc. Bọn giặc Sơn Đông thấy thủ lãnh bị bắt liền xông lại cứu. Các bang hữu bang Thanh Trúc cản lại. Thế là hai bên hỗn chiến đánh rất kịchliệt. Cả hai bên đều có mười mấy người bị thương và chết. Thanh Thanh nói với Thừa Chí:
– Để cho họ đánh thêm một tiếng nữa hai bên cũng chết khá nhiều rồi đấy?
Thừa Chí mỉm cười, bỗng nghe Chữ Hồng Liễu đứng trên nóc đống hòm cao kêu to:
– Nguy to rồi Quan binh đã tới, tổng số ước lượng có mấy nghìn người chúng ta mau rời khỏi… không… không chúng nó đến tận… mười ngàn người… mau lui, mau lui!
Vì y đứng ở trên nóc nên thấy trước, nghe y kêu gọi như vậy, mọi người đều tự động ngừng tay giao chiến. Ba người cỡi ngựa phóng tới, hai người của bọn giặc Sơn Đông một người của bang Thanh Trúc cả ba đều được lệnh canh gác, thấy quân binh đến liền phi ngựa trở về báo tin, cũng lớn tiếng kêu to:
– Đại đội quan binh đã tới.
Chữ Hồng Liễu không còn sợ nguy hiểm gì nữa, ở trên cao nhảy xuống tới đất đã lộn ba vòng mới ngồi được hai chân sưng lên và đau đớn lạ thường, rồi dẫn bọn giặc rút lui. Thừa Chí tung Sa Thiên Quảng cho bọn giặc đỡ lấy đặt lên lưng ngựa rồi lui vào trong rừng.
Còi lá tre của bang Thanh Trúc cũng dội lên, các bộ hạ vội khuân vác những người bị thương và chết đang nằm dưới đất, rồi chia làm bốn lượt rút lui. Chỉ trong chớp mắt cả chiến trường lớn rộng như vậy mà chỉ còn lại bọn Thừa Chí mà thôi. Nhảy lên trên nóc đống hòm Thừa Chí liệng từng cái một xuống, chàng Câm đỡ lấy để lên xe, Thanh Thanh cười nói:
– Chúng uổng công bị chết bị thương bấy nhiêu người mà không cướp được một đồng xu nhỏ cua chúng ta.
Đằng xa tiếng tù và vọng lại rồi tiếng người tiếng ngựa nhịp đưa tới. Quả nhiên đại đội quân binh đã tới nơi. Thừa Chí nói:
– Có nhiều quân binh như vậy chắc bọn giặc không dám trở lại quấy nhiễu, chúng ta đi thôi!
Nói đoạn xem xét lại bọn phu xe thấy tên nào tên nấy bình yên vô sự, Thừa Chí ra lệnh khởi hành. Hai trăm tên quân Minh chia làm hai đội xông đến trước. Một tên quan hạ cấp tay múa trường đao quát hỏi:
– Các ngươi làm gì đó?
Thừa Chí đáp:
– Chúng tôi làm thường dân qua đường!
Tên quan nọ hỏi tiếp:
– Tại sao ở đây có vết máu có nhiều khí giới thế này?
Thừa Chí đáp:
– Vừa rồi có bọn giặc cướp đón đường định cướp bóc chúng tôi, may chúng hay tin quan quân tới chạy hết rồi.
Lúc ấy đã có mấy đội binh sĩ đi đuổi theo bọn giặc rút lui. Tên quan nọ liếc mắt ngắm những hòm sắt trên xe lạnh lùng hỏi:
– Những hòm đó là hòm gì?
Thừa Chí đáp:
– Đó là hành lý của chúng tôi.
Tên quan lại nói:
– Mở ra xem nào?
– Đó là những quần áo và chăn mùng của chúng tôi chớ không có cái gì đặt biệt cả.
Tên quan nọ lại quát:
– Ta bảo mở thì ngươi phải mở ra ngay, nói lôi thôi làm gì!
Thanh Thanh nói:
– Chúng tôi có đem những cái quốc cấm đâu mà các ông lại đòi khám xét làm gì?
Tên quan nọ chửi liền:
– À, thằng nhỏ láo thật!
Vừa nói y vừa quất một roi tới, Thanh Thanh vội né mình tránh. Tên quan nọ thấy mười cái hòm sắt có vẻ nặng nề và chắc chắn như vậy biết trong đó thế nào cũng có nhiều cái quý giá liền động lòng tham, mượn cớ vu khống quát lớn:
– Thằng nhãi này láo thật, mi dám ra tay kháng cự lại quan quân khám xét, hỡi các anh em mau hãy đem tang vật này xung công.
Hồi đó cướp tài vật của dân chúng là thói quen của quan binh nên vừa nghe đến hai chữ xung công các tên quân lính đã xúm lại kẻ lôi người kéo những cái hòm sắt đó.
Tên quan nọ ác độc vô cùng! Sợ bọn Thừa Chí kiện tới quan trên liền lớn tiếng nói:
Bọn này là thổ phỉ chúng dám kháng cự quan binh, mau giết chết cho ta?
Vừa nói y vừa múa đao chém tới. Thừa Chí cả giận nghĩ thầm: “Nếu chúng ta không biết võ có phải là bị chúng giết sạch rồi hay không, những tên quân này không biết đã giết hại bao nhiêu người lương dân rồi.”
Vừa nghĩ Thừa Chí có vỗ ra mấy chưởng. Một số trúng chưởng lực của chàng bay ra ngoài, số còn lại loạn cả lên vì quá khiếp đảm trước võ công của Thừa Chí. Các quan binh kinh hãi kêu kền:
– Quân giặc cản đường, định ăn cướp quân lương?
Những tên quân ở phía trước bị Thanh Thanh, chàng Câm, Hồng Thắng Hải ba người xông tới, chạy trốn ngay. Nhưng đại đội nhân mã của chúng ở phía sau đã ùa tới. Thừa Chí ra lịnh cho chàng Câm, Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải đánh xe vào trong rừng ẩn trốn, còn chàng thì múa thanh đại đao đoạn hậu. Vừa tới rừng thì nghe tiếng khí giới va chạm giữa quan binh và bọn giặc Sơn Đông và bang Thanh Trúc. Hai bọnnày võ nghệ tuy cao cường nhưng quan quân quá nhiều chẳng bao lâu đã bại dần. Thừa Chí và Thanh Thanh cho đoàn xe đậu ở một góc rừng.
Lúc ấy Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc bị thương nặng sắp chết đến nơi. Không ai chỉ huy vì vậy bọn giặc bị quan binh chia từng mảnh mà vây đánh. Thấy quan binh đuổi theo bọn giặc tàn sát vô cùng, Thanh Thanh hỏi:
– Chúng ta phải làm thế nào?
Thừa Chí đáp:
– Giúp cường đạo, giết quan binh!
Thanh Thanh nói:
– Anh nói phải lắm!
Thừa Chí lại nói:
– Chú ở đây canh giữ những xe này!
Thanh Thanh gật đầu, rồi nàng cùng chàng Câm, Hồng Thắng Hải ba người trấn giữ nơi đó. Hễ thấy quan binh xông tới là ba người chém ngay. Thấy ba người quá hung ác như vậy bọn quan binh không dám tới gần, Thừa Chí lên ngọn cây quan sát tình hình thấy A Chín và mấy tên đầu mục của bang Thanh Trúc bị mấy chục tên quan binh vây đánh, tình thế nguy ngập chàng liền nhảy ngay xuống đánh bay hai cây thương đâm trộm A Chín và lớn tiếng kêu gọi:
– Các người mau lên ngọn đồi phía Tây!
A Chín đang đỡ thương của bọn quan binh chúng đang chém nàng. Thừa Chí vội cướp lấy cán đao, dùng tay chặt mạnh cái cán gẫy làm đôi và đấm luôn một quyền vào ngực tên quân, tên tướng quân nọ mồm hộc máu tươi nằm ngửa ra mặt đất. A Chín liền thổi hồi còi lá tre chỉ huy các bộ hạ lùi cả về phía Tây. Thừa Chí lại chạy sang bên kia cứu bọn giặc Sơn Đông, cũng bảo chúng lui cả về phía Tây. Hễ nhóm nào bị quan binh cản trở là chàng xông vào cứu ngay. Khi người của hai phe đã tụ tập lại một nơi rồi thanh thế lớn mạnh ngay. Dưới sự chỉ huy của Thừa Chí, vừa đánh vừa lui, tất cả mọi người đều lùi cả về trên đồi. Thừa Chí lại dẫn mấy chục tên Bang hữu và đạo tặc võ nghệ khá cao, xông xuống tiếp cứu đoàn xe cùng nhóm Thanh Thanh đưa lên ngọn đồi.
Quân binh vây dưới chân đồi đông như kiến cỏ, lớn tiếng hò reo.
Thừa Chí chỉ huy bọn giặc dùng cung tên để thủ thế không cho quan binh lên. Bọn giặc vốn đã đại bại nay bỗng có người dẫn ra khỏi chỗ hiểm nghèo, tất phải tuân mạng theo lịnh của vị ân nhân đó. Quan binh xông lên tơi lưng chừng đồi gặp phải loạn tên bắn đành phải lùi xuống dưới chân đồi. Đa số quân binh sợ chết không dám xông lên nữa, chỉ đứng dưới hò reo để khỏi bị quan trên trách mắng.
Đã giữ vững được căn cứ rồi Thừa Chí liền phái Đàm phó trại chủ, Chữ Hồng Liễu, Hồng Thắng Hải, A Chín bốn người mỗi người lãnh một đội quân trấn thủ một phương. Còn những người khác băng bó vết thương cho người bị thương và chôn cất những người chết. Thừa Chí xoa bóp cho Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng. Một lát sau cả hai người đều ngủ yên. Bọn lâu la Ác Hổ Câu và bang Thanh Trúc thấy thủ lãnh vô sự đều kính phục Thừa Chí. Thấy quan binh đông đúc quá Thanh Thanh liền hỏi Thừa Chí:
– Anh có cách gì đánh lui được quan binh không?
Nghĩ ngợi giây lát Thừa Chí hỏi một tên giặc thạo đường lối nơi đó rồi lại đứng lên chỗ cao xem tình thế quan binh. Thấy phía sau có nhiều xe vận tải binh lương liền nghĩ ra một kế, chàng nhảy xuống hỏi Thanh Thanh rằng:
– Vừa rồi quan binh vu khống cho chúng ta cướp binh lương phải không?
Lúc ấy Chữ Hồng Liễu vừa giao cho người khác thay phiên gác để xuống nghỉ ngơi nghe vậy liền đáp:
– Đại đội binh này áp tải tiền bạc lên Bắc Kinh. Chúng ta gặp chúng ở đây thật là may mắn quá!
Thừa Chí hỏi:
– Tại sao áp tải tiền bạc lại huy động nhiều quan binh như vậy?
Chữ Hồng Liễu đáp:
– Hiện giờ thiên hạ đại loạn, đâu đâu cũng có anh hùng lục lâm lập sơn trại. Triều đình đang cần số tiền thuê của Giang Nam tiếp viện chở lên để chi phí về binh lương. Số tiền bạc này vua Sùng Chinh dùng để đối phó quân Mãn Thanh và quân khởi nghĩa của Sấm Vương. Có thể nói số bạc này rất quan trọng với triều đình nên cần phải nhiều binh hộ tống như vậy.
Thừa Chí nói:
– Bọn quân binh này nhiễu thật! Chúng đang gánh một trọng trách như vậy mà còn dám gây khó dễ với chúng ta.
Chữ Hồng Liễu cười nói:
– Chúng tưởng chi đánh trong chớp mắt là bắt hết được chúng ta, rồi đặt cho mỗi người một cái tên đại vương nào đó hay là một cái danh hiệu rất lợi hại chẳng hạn, làm báo cáo cấp trên có phải là được một công lớn hay không?
Thừa Chí gật đầu đáp:
– Phía Tây bắc nơi đây có một đường độc đạo hai bên là núi cao chót vót chúng ta nên rút lui về đó.
Lúc này Chữ Hồng Liễu đã kính phục Thừa Chí nên không phản đối gì và chỉ nói:
– Xin Viên tướng công ra lệnh chúng tôi chỉ biết tuân theo.
Thừa Chí ngồi xuống đất vẽ họa đồ trên mặt đất và ngẫm nghĩ trong giây lát đã thảo xong kế hoạch, liền ra lệnh cho tất cả mọi người. Đến đầu canh một, Thừa Chí và chàng Câm đi trước mở đường, mọi người đi theo sau xông xuống chân đồi. Lúc này quan binh đã mỏi mệt thấy bọn giặc đột nhiên xuống thế mạnh vô cùng, ai nấy chỉ giả vờ đánh đỡ qua loa, tránh ra hai bên, để cho bọn giặc xông ra.
Tới đầu đường độc đạo, bọn giặc chạy cả vào, quan binh theo sau đuổi một lúc. Bỗng mấy tên giặc sau cùng quay lại đấu với quan binh một hồi.
Đến khi đạo quan binh đuổi tới nơi tất cả bọn giặc kia đều rút lui vào trong hẻm độc đạo đó.
Đại đội quan binh vừa đuổi tới nơi vào trong hẻm vài trăm thước thấy hai bên vách núi cao chót vót địa thế hiểm ác. Tên tướng quân đi vội hạ lệnh ngừng đuổi đề phòng phục kích. Bỗng những xe chạy phía trước có một hòm sắt rơi ra ngoài nắp hòm mở toang châu báu rải rác cả đường. Tên tướng quân cả mừng, hạ lịnh tiếp tục đuổi theo bọn cướp để chiếm lấy chín cái hòm sắt kia. Đuổi một hồi chỉ thấy bọn giặc vứt áo giáp và khí giới đầy đường, mấy con ngựa mệt nằm cạnh đường lại có mấy thoi vàng, thoi bạc rải trên mặt đường, bọn quan binh, kẻ cướp người nhặt hỗn loạn vô cùng. Tên tướng quân lãnh đội và Thủy tổng binh thấy bọn giặc đại bại đến nỗi bỏ cả khí giới vàng bạc châu báu đầy đường quên cả phòng bị cứ mong đoạt được nốt số hòm châu báu kia liền hạ lệnh cho ba quân nỗ lực đuổi cho kịp.
Lúc ấy Thừa Chí đã trèo lên trên vách núi chạy ngược trở lại đến phía sau của bọn quan binh. Chàng đi được một lát quả nhiên thấy trong bộ quân binh có rất nhiều xe cộ, xe nọ nối xe kia xe nào cũng có vải vàng bao phủ, trên xe cắm cờ “Đại Minh Giang Nam Tào vận” mấy chữ đỏ. Ở trên cao chàng trông thấy những xe đó như một con rồng vàng dài vô tận. Thấy thanh thế của quân binh như vậy, chàng vừa mừng vừa sợ. Chàng sợ quân Minh thế mạnh không địch nổi còn mừng là nếu mưu kế thành tựu cướp được số binh lương này, nghĩa binh Sấm Vương càng nhanh chóng thành công, và kẻ thù chính Sùng Chinh hoàng đế sẽ bị đả kích rất nặng, thật là một kỳ công hiếm có.
Chàng lùi theo bụi rậm đi xuống để xem rõ đoàn xe đó.
Khi xuống tới chỗ nghe thấy tiếng nói của quân binh chàng núp ở một cây cổ thụ, lắng tai nghe những xe đi sau có vẻ nhẹ hơn hình như trong xe không có chở tiền bạc, nhìn kỹ mới hay trăm chiếc xe đi sau cùng là xe tù.
Mỗi xe nhốt một người, người nào cũng xếp bằng tròn. Trên xe có viết: “Nghĩ trảm cư khấu mỗ mỗ” (quyết định chém tên giặc lớn tên mỗ). Để ý xem từng lá cờ một, chàng thấy toàn viết “Giang Dương Đại Đạo”, “Phản bạn nghịch thủ”, “Hoài Nam cự tặc”,… Như vậy đủ thấy những tù phạm này đều là dân đói rét phản kháng triều đình, hoặc tướng giặc các sơn trại…
Thừa Chí nghĩ: “Những người này ta cũng phải cứu cả, nhưng cứu họ bằng cách nào?”
Đang nghĩ ngợi chàng chợt thấy một cái xe trên lá cờ viết: “Nghĩ trảm cự khấu Tổ Trọng Thứ nhứt danh” chín chữ. Chàng giựt mình kinh hãi, đuổi theo vài bước nhìn kỹ, người ngồi trong xe quả thật là bộ hạ của cha mình. Ông ta vẫn ăn mặc thư sinh như xưa, mới ngoài năm mươi tuổi mà đầu tóc bạc phơ, gầy gò ốm yếu hơn hồi ở trên núi rất nhiều, nhưng vẻ mặt vẫn hồng hào, không kém năm xưa chút nào. Chàng lại trông thấy những xe sau có: Ngụy Hạo, người nuôi nấng dạy bảo mình hồi còn bé, Chu An Quốc và La Đại Can bộ hạ cũ của mình, chỉ có ứng Tòng là thiếu mặt thôi.
Không lâu sau các xe tù đi qua hết, Thừa Chí lên trên đỉnh núi. Lúc ấy bọn quan quân mới thấy hình bóng của chàng, liền lớn tiếng hò reo, một số rút tên ra bắn theo nhưng trúng sao được. Chàng vẫn chạy ngược về phía sau đội binh. Chạy độ vài chục trượng nữa thấy người đi sau áp hậu quân đội là một tên quan cỡi trên ngựa tay xách đại đao. Thừa Chí nghĩ thầm: “Ta bắt tên quan quân này quấy nhiễu một hồi trước, rồi thừa cơ cứu Tổ thúc thúc và các người.”
Chàng định phi thân nhảy xuống thì thấy đằng xa cát bụi tung lên, mấy người cưỡi ngựa phóng tới. Thừa Chí nghĩ: “Thế ra đằng sau chúng còn tiếp ứng, chờ mấy tên này tơi nơi ta xem rõ mặt đã hẵng hay.”
Người cỡi ngựa đi trước là đàn bà, nhìn rõ mặt chàng nhận ra ngay nàng là Phi Thiên Ma Nữ Tôn Trọng Quân. Còn bốn người theo sau là vợ chồng Quy Tân Thụ, Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh. Mừng quá, chàng vội kêu gọi:
– Nhị sư huynh!
Vừa gọi chàng vừa phi thân xuống trước ngựa của vợ chồng Quy Tân Thụ. Gò ngay cương ngựa lại, vợ chồng họ Quy nhận ra ngay là Thừa Chí, Quy nhị nương lạnh lẽo trả lời:
– Ồ thì ra là chú bé. Có việc gì thế?
Nghe sư mẫu nói chuyện với người, Tôn Trọng Quân vội ngừng ngựa để đợi chờ.
Thừa Chí vội nói:
– Thưa sư huynh, sư tẩu, em có một việc rất gấp muốn yêu cầu hai vị cùng mấy sư điệt giúp đỡ cho.
Quy nhị nương đáp:
– Chúng tôi đang bận, không có thì giờ?
Nói dứt lời nàng quất ngựa phóng nước đại lướt qua cạnh người Thừa Chí, đi thẳng về phía trước. Mai Kiếm Hòa chắp tay chào:
– Sư thúc!
Rồi y cũng quất ngựa phóng theo sư phụ và sư mẫu. Lưu Bội sinh xuống ngựa nói:
– Sư phụ và sư mẫu cháu đang có việc bận, chẳng hay sư thúc có việc gì? Chờ làm xong việc của sư phụ và sư mẫu cháu quay trở lại cho sư thúc sai bảo.
Thừa Chí nói:
– Cám ơn anh. Tôi chỉ cần cưỡi nhờ con ngựa của anh thôi.
Lưu Bội Sinh đáp:
– Xin sư thúc cứ việc cưỡi.
Nói xong y dắt ngựa đến cạnh. Thừa Chí nói:
– Tôi với anh cưỡi chung. Chỉ cần đuổi theo kịp bọn quân binh là tôi xuống ngay.
Nói xong chàng phi thân lên mình ngựa, Lưu Bội Sinh cũng nhảy lên theo rồi hỏi:
– Sư thúc đuổi theo bọn quan binh làm gì thế?
Thừa Chí đáp:
– Muốn cứu người?
Lưu Bội Sinh mừng rỡ nói:
– Thế thì hay lắm. Chúng cháu và sư phụ, sư mẫu cùng định gây hấn với bọn đó. Thừa Chí hớn hở thúc ngựa tiến lên. Chẳng bao lâu hai người đã qua mặt Tôn Trọng Quân và trông thấy hình bóng của tên quân áp hậu rồi. Thừa Chí thúc ngựa phóng nước đại tiến lên. Nghe phía sau có tiếng vó ngựa phi tới, tên quân áp hậu quay đầu lại nhìn thấy một bóng người từ trên ngựa nhảy lên như con chim đại bàng bay tới.Y sợ hãi múa thanh đại đao định chém người đó làm đôi. Ngờ đâu Thừa Chí vươn tay cướp lấy cán đao, người đã nhảy tới tên quan nọ tay trái điểm luôn yếu huyệt sau lưng y miệng quát lớn:
– Muốn sống hay muốn chết?
Thấy sau lưng tê tái và đau nhức vô cùng tên quan nọ muốn phản kháng. Nhưng tay chân không sao cử động được. Thừa Chí lại hỏi:
– Mi muốn chết hay muốn sống? Nói mau!
Tên quan nọ giọng run sợ nói:
– Xin… xin đại vương xá cho!
Thừa Chí nói:
– Mi phải ra lệnh cho đội xe tù ngừng lại ngay.
Tên quan quân đành phải nghe lời ra lệnh. Lúc ấy, vợ chồng Quy Tân Thụ vừa phóng tới. Năm thầy trò rút khí giới ra xông vào đội quan binh chém giết loạn xạ.
Thoạt tiên Thừa Chí dự định nhân lúc trời tối bắt ép tên quan chỉ huy đội áp hậu coi xe tù của y loạn đả với bọn áp tải phía trước. Ngờ đâu vợ chồng Quy Tân Thụ ra tay đánh trước làm loạn bọn áp hậu. Thế là kế hoạch của Thừa Chí không sao thi hành được.
Lo ngại nhóm Tổ Trọng Thọ bị quan binh chém giết bừa trong lúc hỗn loạn, Thừa Chí vội cướp lấy hai chiếc búa lớn xông tới cạnh xe rồi lớn tiếng gọi:
– Tổ thúc thúc, cháu là Viên Thừa Chí đây?
Tổ Trọng Thọ mơ màng như là nằm mê. Tiếp theo đó, Thừa Chí lại tiến lên cứu Chu An Quốc, Ngụy Hao ra khỏi xe tù. Những người đó đều là võ tướng giàu kinh nghiệm chiến đấu, tuy tuổi đã già, nhưng vẫn còn anh phong hồi xưa, cướp luôn khí giới của bọn quan binh rồi chém giết loạn xạ và phá xe tù để cứu người khác.
Không bao lâu hơn trăm cái xe tù đều bị phá vỡ tan tành, hơn trăm hào kiệt được thoát nạn. Trong đó những tù nhân đó có mấy chục người là bạn cũ “Sơn Tôn” bộ hạ của Viên Sùng Hoán. Họ nghe nói người đến cứu là công tử của Viên đại soái đều phấn khởi vô cùng chém giết bọn quan binh thất linh bát lạc, rồi chạy cả về phía trước.
Lúc ấy tiền đội quan binh cũng phát hiện đường lối phía trước bị bọn Sơn Đông lấy đá lớn chặn ngang, không thể thông hành được. Thế là tiền đội và hậu đội của quân Minh đều đại loạn.
Thừa Chí thấy bộ đội quan binh tuy đã loạn xạ không thành hàng ngũ, nhưng nhân số của chúng nhiều gấp mấy lần bọn cường đạo, nếu đè ép quá, bắt buộc chúng phải thí mạng, lúc bấy giờ ngăn cản sao nổi? Suy tính xong chàng bỏ hai chiếc búa xuống giở kinh công ra, chạy trên các xe chuyển vận một mạch chạy thẳng hơn dặm đường, thấy tên Thủy tổng binh cưỡi ngựa đang múa đao chỉ huy các binh sĩ tác chiến. Thừa Chí vội xông lên vươn vai đẩy ngã liền hai tên lính đứng ra ngăn cản. Rồi chàng nhảy lên lưng ngựa, chỗ phía sau của Thủy tổng binh. Tên tướng lãnh đó quay đao lại chém, chàng giơ tay cướp lấy thanh đao đó. Ngờ đâu tên này võ nghệ khá thuần thục, lộn một vòng xuống đất không để cho Thừa Chí nắm được cổ tay.
Thừa Chí nghĩ: “Không ngờ trong đội quan binh lại có người giỏi như vậy!” Vừa nghĩ chàng vừa móc túi lấy mấy quân cờ ném luôn. Thủy tổng binh dùng đao gạt được hết, Thừa Chí nói:
– Có giỏi ông gạt nữa xem!
Nói xong chàng dùng hai nhón tay ném một lúc 27 quân cờ chia làm 3 tốp trên, dưới và giữa, mỗi tốp chia làm chín quân, đồng thời phi tới. Dù là võ lâm cao thủ cũng khó bề gạt hết bấy nhiêu quân cờ. Thủy tổng binh tuy võ nghệ cao cường nhưng tránh sao nổi thủ pháp “Mãn Thiên Hoa Vũ” (Mưa hoa đầy trời) tuyệt kỹ ám khí của Thừa Chí. Chỉ nghe thấy loảng xoảng một tiếng, trước hết thanh đao rơi xuống, sau đó khuỷu chân, lưng và vai, mắt cá chân đều bị ném trúng nên Thủy tổng binh phải quỳ ngay luôn trước mặt Thừa Chí.
Nứa đùa nửa giễu, Thừa Chí nói:
– Tướng quân đa lễ quá, tôi đâu dám nhận!
Chàng vừa cười vừa nắm tay Thủy tổng binh dậy. Giận quá tên Tổng binh nhằm ngực Thừa Chí đấm luôn một cái, thế mạnh như vũ bão.
Thừa Chí cười nói:
– Thôi tôi để ông đấm một cái cho khỏi tức nhé?
Ngờ đâu quả đấm trúng ngực chàng như là đấm phải bông gòn vậy, không thấy chàng phản ứng gì cả.
Vận nội cộng, Thừa Chí tung mạnh tên Tổng binh lên trời như diều đứt dây bay thẳng đi. Các quan binh đều lớn tiếng kêu la. Bị tung lên cao như vậy chắc thế nào cũng chết. Thủy tổng binh đành nhắm nghiền mắt lại. Ngờ đâu lúc y rơi xuống có người chìa tay đỡ luôn, y mở mắt ra nhìn mới thấy vẫn là chàng thiếu niên thư sinh vừa tung mình lên. Y mới hay người ta võ nghệ giỏi gấp mình trăm lần, nay đã lọt vào tay người thì sống chết cũng tùy người quyết định. Nên y nằm yên không kháng cự chút nào.
Thừa Chí nói:
– Ông hạ lịnh cho toàn thể quan binh phải bỏ khí giới hết thì tôi sẽ tha cho ông khỏi chết.
Thủy tổng binh nghĩ: “Số binh lương này quan trọng lắm nếu bị bọn giặc cướp hết, ta bị tử tội liền. Đằng nào cũng chết hà tất phải chịu lụy y làm chi?”
Nghĩ đoạn, y dõng dạc nói:
– Mi muốn giết thì cứ việc giết hà tất phải nói nhiều làm chi?
Thừa Chí mỉm cười, dùng sức tung mạnh Thủy tổng binh lên trời khi rơi xuống chàng lại ra tay đỡ. Bị tung ba lần liền Thủy tổng binh chịu không nổi, ngớ ngẩn không biết gì cả.
Thừa Chí nói:
– Nếu ông không chịu ra lịnh, ông phải chết liền và bộ hạ của ông cũng không thể sống được, như vậy ông chịu hàng có phải hơn không?
Thủy tổng binh thấy vậy, chỉ có con đường đó là sống thôi! Nghĩ y liền gật đầu.
Thừa Chí cười nói:
– Thế mới phải chớ! Kẻ thức thời mới là hào kiệt!
Định thần xong, Thủy tổng binh gọi ba viên phó tướng lại. Nghe nói đầu hàng quân giặc, cả ba phó tướng đều sợ hãi biến sắc mặt. Một viên phó tướng nói:
– Ông hưởng lộc của vua mà lại bất trung bất…
Chưa nói dứt lời, y đã bị Thừa Chí ném xuống đất, chết giấc tức thì.
Còn hai phó tướng nọ vội đổi giọng ngay nói rằng:
– Hạ tướng xin tuân lịnh của tổng tọa.
Thủy tổng binh nói:
– Hạ lịnh ngừng chiến ngay.
Thừa Chí cũng hạ lịnh cho bọn giặc đừng chém giết nữa. Dưới ánh đuốc lửa chói lọi cả hai bên đều đứng im chờ lệnh.
Bỗng thấy năm người cưỡi ngựa xông vào trong đám quân binh chém giết loạn xạ và mở tung các hòm ra xem, thấy vàng bạc lương thực liền để yên ra một bên không lấy. Các quan binh thấy họ hùng mạnh không ai dám cản trở cả.
Khi họ tới gần Thừa Chí mới nhận ra là vợ chồng Quy Tân Thụ và ba người môn đồ, liền lớn tiếng kêu gọi:
– Nhị sư huynh và sư tẩu đang tìm kiếm gì đó?
Quy Tân Thụ chỉ ba cái nhún nhảy đã đến cạnh Thủy tổng binh túm ngay lấy hắn, Thủy tổng binh sợ hãi toan tránh nhưng thân thủ của Quy Tân Thụ quá nhanh không thể nào cứu vãn được. Hắn hết sức vùng vẫy cũng không sao thoát khỏi. Quy Tân Thụ quát hỏi:
– Phục Linh Thủ Ô Hoàn của Mã đốc phủ tiến cung để ở đâu?
Thủy tổng binh đáp:
– Mã đốc phủ thấy chúng tôi áp tải nhiều xe cộ đi chậm cho nên phái người khác đem vào kinh rồi.
Quy Tân Thụ hỏi:
– Có thật không?
Thủy tổng binh đáp:
– Hiện giờ cả tính mạng tôi ở trong tay ông, tôi nói dối để mang lấy cái chết hay sao?
Biết tên Tổng binh nói thật, Quy Tân Thụ liền quát lớn:
– Nếu ta điều tra mi nói dối ta sẽ quay trở lại giết chết mi ngay.
Quát tháo xong Quy Tân Thụ quay lại nói với vợ rằng:
– Chúng ta đi thôi!
Quy nhị nương tay ẵm con trong lòng buồn bực, thấy chồng bảo đi liền giơ tay ra đánh ngã mấy tên binh cản đường rồi cùng ba môn đồ theo đường chạy thẳng về phía trước.
Biết vợ chồng Quy Tân Thụ không ưa gì mình, Thừa Chí từ đầu chí cuối không nói nửa lời, chờ họ đi mới lên tiếng hỏi Thủy tổng binh rằng:
– Họ kiếm môn thuốc gì đó?
Thủy tổng binh đáp:
– Gần đây, dân tỉnh An Huy vào rừng sâu kiếm được một củ Phục Linh có trên hai ngàn năm. Đồng thời Triết Đông lại có người đào được một củ Hà Thủ Ô hình người. Hai môn thuốc quý giá ấy nghìn năm mới có một. Quan Tổng đốc Phụng Dương Mã Sĩ Anh hay tin, liền sai nha lại nửa mua nửa cướp mang về, giao cho dược sư chế thành hai chục viên Phục Linh Thủ Ô Hoàn và còn phối hợp cả bột trân châu cùng các vị thuốc quý giá khác. Chỉ tiền thuốc phụ thêm vào chế cũng tốn đến hai ba vạn lạng bạc. Chuyện này đã chấn động cả miền Giang Nam ai cũng biết cả.
Thừa Chí nói:
– Chẳng hay hai hoàn đó dùng để làm gì?
Thủy tổng binh đáp:
– Tôi không được rõ lắm chỉ nghe người ta nói hai thứ hoàn ấy có thể cải tử hồi sinh. Người yếu đuối chỉ dùng một hoàn là kiến hiệu ngay.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Thảo nào! Đứa con duy nhất của nhị sư huynh đau ốm mãi không sao chữa khỏi, cho nên anh ta mới cần kiếm hoàn thuốc chữa bệnh cho thằng nhỏ đó.”
Nghĩ xong chàng lại hỏi:
– Mã đốc phủ đem cung tiến cho nhà vua ư?
Thủy tổng binh đáp:
– Vâng, thoạt tiên ông ta nhờ tôi đem cung tiến hộ, nhưng sau thấy tôi phải áp tải nhiều xe đi chậm và hơn nữa chúng tôi có áp giải tù phạm không được hên lắm. Nên ông ta phải mướn Tổng tiêu đầu chủ tiêu cục Vĩnh Thắng ở Kim Linh hộ tống số thuốc đó vào kinh.
Là người tốt bụng, Thừa Chí chỉ mong Nhị sư huynh cướp được số thuốc để chữa khỏi cho thằng nhỏ, nên vội hỏi:
– Tổng tiêu đầu khởi hành được bao lâu rồi?
Thủy tổng binh đáp:
– Họ khởi hành cùng một ngày với chúng tôi nhưng bọn họ ít người, hành lý lại ít nên đi nhanh hơn chúng tôi nhiều. Có lẽ bây giờ họ đi trước chúng tôi chín ngày đường rồi.
Lúc ấy, Tổ Trọng Thọ, Chu An Quốc, Ngụy Hạo, La Đại Can cùng các bộ hạ cũ của Viên đại soái đều đến thăm hỏi và chào Thừa Chí. Ai nấy thấy Thừa Chí đã trưởng thành và anh tuấn như vậy, thêm võ nghệ cao cường, chỉ huy chiến trận không khác Viên đại soái thì đều mừng thầm.
Thừa Chí hỏi mọi người tại sao bị bắt như vậy? Tổ Trọng Thọ kể cho chàng nghe, thì ra năm nọ khi các bạn hữu “Sơn Tôn” tụ họp ở núi Lão Nha, bị quân Minh đột kích, may đa số anh em đã giải tán từ trước nên tổn hại rất ít. Chỉ có ứng Tòng bị tử trận thôi. Tổ Trọng Thọ cùng các anh em thoát hiểm cả. Sau mọi người lại tụ họp một nơi. Thấy thiên hạ đại loạn, chánh trị thối nát, Tổ Trọng Thọ tụ các anh hào ở Hoài Nam và Lỗ Bắc chuẩn bị khởi nghĩa phản lại triều đình. Ngờ đâu, Tổng đốc Phụng Dương Mã Sĩ Anh được tin mật, cử đại binh đến đánh phá. Rút cuộc các nhân vật chủ yếu đều bị bắt và được áp giải lên triều để xử trảm. Thật may mắn cho mọi người, trời xanh dung rủi gặp Thừa Chí nơi đây.
Kể chuyện xong ai nấy đều vừa mừng vừa đi.
Nghe nói Thừa Chí liên lạc với Sấm Vương, Tổ Trọng Thọ liền nói:
– Viên công tử, ở đây có hai nhóm đạo tặc và quan binh quy phục đều kính trọng công tử, công tử hãy tạm hoãn chuyến lên kinh, ở lại đây chỉnh đốn lại nhóm hảo thủ này nhé?
Thừa Chí mừng nói:
– Tổ thúc thúc nói rất phải. Nhân có rất nhiều anh hùng hào kiệt ở đây, chi bằng chúng ta làm lớn một phen, kiếm một điểm thích hợp để quần hào quy tụ.
Tổ Trọng Thọ vỗ đùi nói:
– Hay lắm, chúng ta lấy núi Thái Sơn làm sơ sở nhé?
Thừa Chí đáp:
– Núi Thái Sơn đứng đầu Ngũ nhạc và cũng là nơi lập trại tốt nhứt.
Chàng liền hạ lịnh cho mọi người nhặt nhạnh những châu báu vừa rơi rải rác rồi lấy hai mươi vạn lạng bạc trao cho các trại đạo tặc Sơn Đông và bang Thanh Trúc. Chữ Hồng Liễu cũng được chia năm nghìn lạng.
Chàng lại lấy hai mươi vạn lạng bạc tiền binh lương chia cho các quan đầu hàng.
Lúc ấy, ai cũng hoan hô vui mừng. Thừa Chí lại sai mọi người đi khắp nơi đưa tin, hẹn hò các anh hùng chí sĩ vào ngày tết Trung Thu đến núi Thái Sơn hội họp, rồi chàng ra lệnh cho Tổ Trọng Thọ và mọi người cùng Thủy tổng binh dẫn các quan binh hàng đến những vùng hoang vu hiểm trở xây dựng sơn trại đề ở tạm. Thế là một vạn binh mã của Mã Sĩ Anh mất hết sạch và hơn hai trăm vạn lạng bạc tiền lương không còn nữa. Từ tỉnh Sơn Đông cho chí Kinh Đô đều chấn động. Chờ đến khi Mã Sĩ Anh dẫn đại binh đến truy tiễu thì không còn một hình bóng đạo tặc nào nữa. Như vậy quan binh biết nơi nào mà truy tiễu?
Ngày tết Trung Thu sắp tới, các chùa chiền, miếu lặng trên đỉnh núi Thái Sơn đầu có mấy vị anh hùng hào kiệt tới trú ngụ, để chờ đợi ngày đại hội quần hùng.
Sáng tinh sương ngày Tết Trung Thu, chư anh hùng tụ họp trên thung lũng Thạch Kính trên núi Thái Sơn. Nơi đó là một quảng trường trên nền đá bằng phẳng, rộng mấy mẫu. Người ta đồn ngày xưa có cao tăng giảng kinh, trên núi có khắc kinh kim cương chữ to bằng cái đấu, nét bút rất cổ kính. Những người tới họp hôm đó, ngoài Thừa Chí,Thanh Thanh, chàng Câm và Hồng Thắng Hải ra, còn có bọn cựu bộ hạ của Viên đại soái, nhóm Kim Long bang như Tiêu Công Lễ, Tiêu Uyên Nhi, La Lập Như, nhóm Thanh Trúc bang như: Trình Thanh Trúc, A Chín… nhóm đạo tặc Sơn Đông như: Sa Thiên Quảng, Đàm Văn Lý,… nhóm Long Du bang Vinh Thái và bộ hạ, sau cùng là Thập Lực đại sư, Thất thập nhị Đảo chủ, nhóm anh hùng được Thừa Chí cứu thoát và các quan binh nhà Minh đầu hàng.
Lúc ấy mặt trời mọc đẹp đẽ lạ thường, chư anh hùng đều vỗ tay hoan hô ca ngợi. Xem xong mọi đều quay tròn ngồi xuống. Lúc này vết thương đã lành mạnh, Sa Thiên Quảng là địa chủ (người tỉnh Sơn Đông) đành phải đứng lên nói trước:
– Các vị đại ca hạ cố tệ tỉnh, chúng tôi tiếp đãi không được chu đáo xin thứ lỗi!
Nói xong, y chắp tay chào xung quanh. Quần hùng đều lên tiếng khiêm tạ, Sa Thiên Quảng lại nói:
– Đệ là người thô lỗ, ngu si không biết gì, bây giờ xin mời Trình Thanh Trúc tiền bối ra nói chuyện.
Hai người trước kia là kẻ địch nhưng từ hôm tranh đấu một trận chí tử đến giờ, vì phục tài nhau, bây giờ cả hai trở thành bạn chí thân. Trình Thanh Trúc cả cười đứng dậy nói:
– Chúng ta, các bạn võ lâm đây xưa kia đã tụ họp trên núi Thái Sơn này, nhưng số người ít hơn ngày hôm nay. Nói ra thì thật mỉa mai! Xưa kia chúng ta đến đây làm gì? Lúc bấy giờ mục đích của buổi họp là chúng ta chia ranh giới, tiền bạc tang vật, lấy cướp của người!
Quần hùng đều cười rộ một hồi, Trình Thanh Trúc lại nói tiếp:
– Lần này có rất nhiều bạn anh hùng hào kiệt giá lâm. Chúng ta không được nhắc nhở đến những trò trộm cướp ấy. Bây giờ thiên hạ đại loạn, lúc này là cơ hội tối cho các chí sĩ thành thân lập nghiệp. Hôn quân vô đạo, các quan lại đều tham ô, quân Mãn Thanh lúc nào cũng muốn xâm phạm biên giới, khiến dân chúng chịu khổ sở. Cho nên anh em chúng ta mới bắt buộc phải chạy lên con đường tà này. Bây giờ chúng ta thương nghị thế nào để tạo nên một sự nghiệp lớn mới khỏi hổ thẹn với đời!
Mọi người đều phấn chấn vỗ tay khen ngợi, Trình Thanh Trúc lại nói:
– Các bạn tới dự hội đều là bằng hữu chí thân cả. Bây giờ chúng ta cắt máu ăn thề, để sau này hoạn nạn cứu giúp lẫn nhau mà cùng mưu đồ đại sự. Nếu ai tham mùi phú quý phản anh em hay tham sống sợ chết, tự tư lợi sẽ bị toàn thể anh em cắt đầu ngay.
Mọi người vỗ tay khen, Sa Thiên Quảng đứng dậy nói:
– Chúng ta minh thệ tại đây tất phải có một vị Minh chủ, vậy bây giờ chúng ta phải bầu một vị Minh chủ mà anh cũng kính phục. Bất cứ ai là Minh chủ, đệ cũng theo hầu người ấy tới phút cuối cùng, dù chết đệ cũng không phàn nàn nửa lời!
Thập Lực đại sư đứng dậy nói:
– Sa huynh nói rất phải, rắn không đầu không thể làm nên đại sự được. Bần tăng tán thành ý kiến, nhưng Minh chủ phải trí dũng song toàn, có nhân có nghĩa mới thu phục được toàn thể anh em chúng ta.
Trịnh Khởi Vân nói:
– Điều đó là dĩ nhiên rồi. Theo ý tôi thì Đại sư là người hoàn toàn được mọi người kính nể nhứt!
Thập Lực đại sư cười nói:
– Bần tăng tuổi đã già, sức yếu, sắp chết đến nơi đảm nhiệm sao nổi trọng trách ấy, xin Trịnh đảo chủ đừng đùa như vậy?
Lúc ấy mọi người rỉ tai nhau bàn tán, ồn ào thương nghị. Ai nấy đều nhận thấy cần có một Minh chủ mới có thể hiệu triệu các anh hùng hào kiệt các nơi. Những quần hùng xưa nay độc bá một nơi, không ai phục ai, vì vậy tất cả cùng sợ do vụ giành chức Minh chủ mà tàn sát lẫn nhau thì khốn!
Thấy mọi người bàn tán mãi mà chưa ai giải quyết nổi Trình Thanh Trúc vỗ tay vài cái cho mọi người yên lặng hẳn rồi nói:
– Nếu quý vị không có dị nghị gì, bây giờ chúng ta bắt đầu đề cử nhé?
Bỗng có một người thân cao bảy thước tiếng nói như chuông dõng dạc nói:
– Tôi xin đề cử Mạnh Bá Phi lão gia, ở trong võ lâm không ai không kính phục. Hôm nay ông ta tuy không có mặt nhưng chức Minh chủ này không ai xứng đáng hơn ông ta, khỏi cần bàn tán lôi thôi nữa?
Y vừa nói xong có rất nhiều người tán thành.
Thừa Chí hỏi Hồng Thắng Hải ngồi cạnh:
– Mạnh Bá Phi là ai thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
– Mạnh lão gia được người ta ban cho tên hiệu là Cái Mạnh Thường, là người chính trực, trượng nghĩa sơ tài, rất quý bạn hữu, được võ lâm kính mến. Ông ta sáng chế ra Mạnh gia thần quyền và khoái hoạt tam thập chưởng. Cả hai môn võ đều biến ảo khôn lường. Ông ta có rất nhiều môn đồ, không ai biết là bao nhiêu cả. Các người học võ phương Bắc, hễ nghe nói tới Cái Mạnh Thường là không ai không kính phục. Tên đại hán vừa rồi là đại đệ tử kiêm chưởng môn của ông ta đấy. Tên y là Đinh Giáp Thần Đinh Du.
Thừa Chí nói:
– À thì ra thế đấy? Nếu vậy đề cử Mạnh lão gia tử làm Minh chủ cũng được.
Thất thập nhị Đảo chủ Trịnh Khởi Vân nói:
– Mạnh Bá Phi lão gia tử oai danh lừng lẫy khắp nơi. Đệ tuy vong mạng hải ngoại, nhưng cũng biết tiếng đã lâu. Bầu ông ta làm Minh chủ luận đức vọng, hay võ nghệ ít có người hơn được, nhưng đệ có một điều hơi lo ngại, không biết có nên nói ra hay không?
Đinh Giáp Thần Đinh Du nói:
– Xin Trịnh đảo chủ cứ nói, không sao.
Trịnh Khởi Vân nói:
– Mạnh lão gia tự lập cơ nghiệp ở Bảo Định bấy lâu nay tất có rất nhiều tài sản, ông ta là người lương thiện xưa nay, bây giờ chúng ta bầu ông ta làm Minh chủ để hướng dẫn một nhóm người lục lâm. Nhỡ sau này vì chúng ta mà ông ta bị liên lụy thì chúng ta có được yên tâm không?
Thấy lời nói của Trịnh Khởi Vân rất có lý, quần hùng đều im lặng một hồi. Kim Linh Kim Long bang, Bang chủ Tiêu Công Lễ đứng dậy nói:
– Đệ xin đề cử một vị anh hùng võ công cái thế, nhân nghĩa bao la. Vị anh hùng này tuy ít tuổi, các bạn võ lâm đều biết. Nhưng đệ dám nói một câu chém đinh chặt sắt, nếu anh hùng ấy nhận làm Minh chủ, đệ dám chắc ông ta sẽ làm việc rất công chánh và có thể làm chúng ta oai phong đại trấn. Như vậy quan phủ, quân binh cũng phải kính nể chúng ta.
Sa Thiên Quảng tiếng nói the thé, khi lớn tiếng càng làm điếc tai mọi người đứng dậy nói:
– Trong ý nghĩ của đệ cũng có một vị anh hùng trẻ tuổi, vị này chưa chắc đã kém vị mà Tiêu bang chủ nói.
Tiêu Công Lễ nói:
– Tuổi đệ không dám nói lớn, nhưng đệ cũng ngoài 50 rồi. Kiến thức không dám nói là quảng đại, nhưng đệ cũng gặp qua rất nhiều anh hùng hào kiệt có tên tuổi của thiên hạ. Riêng có một vị anh hùng mà đệ vừa nói khiến đệ phục sát đất và đệ chưa thấy một người nào lại tài đức như thế!
Sa Thiên Quảng mặt đỏ bừng nói:
– Cách bầu Minh chủ như thế nào? Bất cứ là ai, phải có đa số tán thành mới được công nhận. Tuy Bang chúng tôi không ra gì thật nhưng dù sao nhân số cũng nhiều hơn Kim Long bang.
Thấy hai bên có vẻ gay go, Thập Lực đại sư vội nói:
– Xin Tiêu bang chủ hãy nên bình tĩnh một chút. Người bạn huynh định đề cử là ai? Và Sa trại chủ định đề cử ai? Xin hai bạn đề nghị ra để các anh em theo công lý mà bình định. Biết đâu cả hai bạn đề cử đều được anh em kính phục thì sao?
Sa Thiên Quảng đứng dậy chỉ ngay Thừa Chí nói:
– Đây, người mà đệ đề cử là Viên tướng công này đây. Quý vi chớ thấy Viên huynh tuổi nhỏ mà khi thường, Viên huynh võ công và kiến thức đều hơn người. Đồng thời đệ xin thanh minh rằng: đệ với Viên tướng công không phải đồng môn cũng không phải bạn cũ gì cả. Đệ hoàn toàn kính phục tài ba của Viên tướng công mà đề cử đó thôi.
Y dứt lời, tất cả bọn đạo tặc Sơn Đông và bang Thanh Trúc đều hoan hô vang động cả một vùng. Lúc đầu không ngờ người ta đề cử tới mình, Thừa Chí nghe Sa Thiên Quảng nói vội đứng dậy xua tay:
– Không được?
Chờ mọi người yên lặng rồi Tiêu Công Lễ cứ cười không ngớt. Sa Thiên Quảng nổi giận hỏi:
– Xin Tiêu bang chủ cho biết tại sao cười chế nhạo đệ?
Tiêu Công Lễ vội chắp tay chào, cười nói:
– Đệ đâu dám cười và chế nhạo. Sa trại chủ có biết người mà đệ đề cử là ai không?
Sa Thiên Quảng hỏi:
– Đệ làm sao biết được?
Tiêu Công Lễ đáp:
– Là Viên tướng công chứ ai nữa?
Mọi người thấy hai người tranh chấp rút cuộc cả hai đều đề cử một người, cùng cười ồ một hồi.
Thừa Chí lo sợ quá, vội đứng dậy nói:
– Đệ ít tuổi và không biết gì, hôm nay được dự đại hội này đã làm vinh hạnh lắm rồi, chỉ mong được theo các vị tiền bối góp đôi sức mọn, đệ đâu dám đảm đương trách nhiệm nặng nề như vậy? Xin các vị cứ người khác đi.
Tổ Trọng Thọ nói:
– Viên tướng công là công tử của Viên đại soái chúng tôi, nhưng anh em chúng tôi cử hiền không tị thân, đều nhận thấy mời công tử ra làm Minh chủ là đúng nhất, không ai thích hợp bằng.
Trịnh Khởi Vân hỏi:
– Viên đại soái nào thế?
Tổ Trọng Thọ đáp:
– Là Viên Sùng Hoán Đại nguyên soái, người đã có công dẹp quân Thanh ở ngoài Liêu Đông, bị hôn quân vô đạo giết hại oan ức!
Vụ Viên Sùng Hoán bị chết oan, thiên hạ ai chẳng phẫn uất. Nên quần hùng nghe nói tới đều thương tiếc, cũng vì vậy mọi người đều tán thành bầu Thừa Chí. Ngoài ra còn Thủy tổng binh cùng bộ hạ quan binh và những anh hùng vừa thoát khỏi tù lao cũng cực lực tán thành bầu Thừa Chí.
Vinh Thái Bang chủ bang Long Du vốn có chút tỵ hiềm với Thừa Chí nhưng y nghĩ lại: “Thứ nhất: Quần hùng đều tán thành cả rồi. Thứ hai: Tuy đối địch với mình, nhưng tới lúc nguy hiểm người ta đã ném tấm ván cứu, như vậy đã thụ ơn người ta rồi”
Nghĩ đoạn y đứng dậy nói:
– Võ công của Viên tướng công rất cao siêu, các bạn có mặt ở đây chắc đã biết cả, chính đệ đây cũng bị ông ta đánh bại.
Mọi người đều ngạc nhiên. Vinh Thái tiếp:
– Nhưng ông ta vẫn giữ sĩ diện cho đệ. Tuy bại đệ vẫn tâm phục. Bây giờ đệ cũng xin bầu ông ta làm Minh chủ.
Thấy kẻ địch của Thừa Chí mà còn cực lực bầu chàng nên ai nấy đều hoan hô tán thành. Đinh Giáp Thần Đinh Du đi tới cạnh Thừa Chí ngắm nhìn thấy chàng không có vẻ gì khác người cả, sao quần hùng lại ủng hộ chàng đến thế? Y nghĩ: “Trong phút chốc mà thanh danh tên này đã lấp hết sư phụ mình”
Càng nghĩ càng không phục, liền nói:
– Mừng Viên tướng công nhé!
Vừa nói y vừa giơ tay ra kéo Thừa Chí làm ra vẻ thân thiết lắm.
Thừa Chí nói:
– Dù sao trách nhiệm nặng nề này đệ cũng không…
Chàng nói chưa dứt lời đã thấy tay bị nắm chặt, Đinh Du đã dùng thế “Bá Vương Cử Đỉnh” dùng sức kéo một cái định hất Thừa Chí lên không, lúc ngã xuống tất phải nhừ tử, để cho vị Minh chủ bị bêu xấu trước mặt mọi người. Thừa Chí cứ bình tĩnh ngấm ngầm dùng ngay thế “Thiên Cân Đọa.” Đinh Du kéo liền ba cái dùng sức bình sinh, gân mặt, gân cổ nổi cả lên mà đối phương vẫn đứng im, như đinh đóng cột vậy.
Lúc ấy Thừa Chí lại nói tiếp:
– Đệ không thể nào đảm đương được đại sự. Lịnh sư lừng danh thiên hạ mới thích đáng hơn đệ nhiều.
Đinh Du lại cố gắng kéo mạnh một cái nữa bỗng thấy tay phải mình kêu đến “rắc”, biết mình dùng sức quá độ, vội buông tay ra. Tuy thô lỗ, Đinh Du rất cương trực và nhanh nhẩu. Sau cuộc thứ tài, y biết đối phương hơn mình nhiều, nếu Thừa Chí phản kích lại y có thể bị vất xuống hang núi ngay. Trái lại, Thừa Chí giữ thể diện cho y và không để ai biết cả. Thấy thế y sanh lòng cảm kích ngay, lớn tiếng nói:
– Không, Tướng công làm Minh chủ mới thích đáng hơn!
Nói xong y liền quỳ cuống vái lạy ngay, Thừa Chí vội vàng đáp lễ và chàng cũng cảm thấy đại hán lỗ mãng này đáng yêu.
Quần hùng thắp hương nến, quỳ xuống lạy trời đất. Trình Thanh Trúc nói:
– Chúng ta hội minh, tất phải có quy tắc. Bây giờ xin Minh chủ tuyên bố, để tất cả anh em thương nghị.
Thừa Chí còn muốn chối từ, Tổ Trọng Thọ nói:
– Nếu công tử chối từ, nhỡ chức vị này lọt vào tay kẻ gian thì tai họa biết chừng nào. Nếu công tử chịu khó hướng dẫn quần hùng thì mối thù của Đại soái mới mong có ngày trả được.
Thấy Trọng Thọ dùng đại nghĩa khiển trách, Thừa Chí sợ hãi liền đứng dậy cúi chào xung quanh rồi nói:
– Quý vị đã có lòng như vậy, đệ đành phải tuân theo, nhưng đệ kiến thức nông cạn, mong quý vị huynh trưởng chỉ giáo luôn cho.
Ai nấy biết chàng đã nhận lời rồi, đều vỗ tay hoan hô. Thừa Chí nói với Tổ Trọng Thọ rằng:
– Xin Tổ thúc thúc khởi thảo minh ước ngay cho.
Không từ chối, Tổ Trọng Thọ vào ngay trong miếu soạn thảo. Biết anh em kính trọng tình nghĩa hơn là văn chương nên Tổ Trọng Thọ viết vài trăm chữ thôi. Thừa Chí đem bài tuyên ngôn ấy ra đọc trước tất cả anh em. Quần hùng cắt máu ăn thề quyết không bội minh ước.
Thế là đại hội núi Thái Sơn đã chấn động võ lâm của các tỉnh duyên hải, đã kết thúc một cách hòa hảo. Thừa Chí xuất thân chưa đầy nửa năm nhờ có võ công tuyệt đỉnh, trí dũng kiêm toàn, lại thêm cơ hội may mắn trở nên thủ lãnh giới lục lâm 7 tỉnh: Hà Nam, Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Hồ Nam và Hồ Bắc. Mọi người rượu chè thù tạc trên núi Thái Sơn ba ngày liền mới chia tay xuống núi. Trước khi đi, Thừa Chí lấy số tiền cướp binh lương chia cho các anh em có mặt dự đại hội để làm lộ phí tiêu pha dọc đường.
Chờ quần hùng giải tán hết, Thừa Chí, Thanh Thanh, chàng Câm và Hồng Thắng Hải áp tải các hòm châu báu lên Bắc Kinh, Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng hào hứng bột phát, nhứt định đòi theo lên kinh du ngoạn. Thấy hai người võ công cao siêu, có thể là hai tay phụ tá đắc lực, Thừa Chí vui mừng nhận lời ngay. Đồng thời chàng thấy Hồng Thắng Hải rất trung thành nên chữa khỏi bệnh cho y liền, Hồng Thắng Hải trong lòng cảm kích thêm.
Tất cả sáu người ngựa, hướng thẳng phía Bắc, phi ngựa trên bình nguyên bao la tỉnh Sơn Đông. Nơi đây thuộc phạm vi của Sa Thiên Quảng, khi tới tỉnh Hà Bắc là địa giới bang Thanh Trúc, cả hai nơi đều có người ra nghênh đón và tống tiễn bọn Thừa Chí.
Thấy người yêu được kính trọng, Thanh Thanh rất đắc ý, cũng vì vậy mà nàng không còn tánh nũng nịu và ghen tuông vô lý nữa.
Ngày hôm đó đi tới Hàn Gian Phủ, đầu mục của bang Thanh Trúc nơi ấy, thết tiệc long trọng để chúc mừng Minh chủ. Những người được mời dự tiệc đều là nhân vật có tên tuổi ở Hà Gian Phủ.
Ba tuần rượu vừa qua, mọi người đang trò chuyện võ lâm trường cổ, bỗng có người đứng dậy hỏi rằng:
– Trình bang chủ, còn mười một ngày nữa lả tới ngày mừng thọ 60 của Mạnh Bá Phi, Mạnh lão phu tử, chẳng hay Bang chủ có đi dự tiệc không?
Trình Thanh Trúc đáp:
– Vì phải theo Minh chủ lên Bắc Kinh tôi chỉ nhờ người đem lễ vật đi mừng ông ta thôi, chứ tôi không có thì giờ đi dự tiệc.
Sa Thiên Quảng cũng nói:
– Lễ vật của đệ cũng đem biếu từ lâu rồi. Mạnh Lão phu tứ là người thông hiểu, thấy chúng ta không đến dự tiệc tất là có việc bận, và quyết không trách cứ chúng ta đâu?
Thấy hai người nói chuyện đó, Thừa Chí sực nghĩ: “Cái Mạnh Thường là người có tên tuổi ở 5 tỉnh miền Bắc. Sao ta không kết giao có hơn không?”
Nghĩ đoạn chàng liền nói:
– Đệ hâm mộ Mạnh lão gia từ lâu. Nay sắp tới ngày chúc thọ ông ta, đệ muốn đi chúc mừng một phen, chẳng hay các vị nghĩ sao?
Mọi người đều vỗ tay tán thành và nói:
– Minh chủ chịu hạ cố tới chúc thọ, thật hãnh diện cho Cái Mạnh Thường lắm, Mạnh lão gia tử còn gì sung sướng bằng chứ?
Thừa Chí hỏi thăm tình tiết của Mạnh Bá Phi, mọi người đều bảo ông ta là người rất hào phóng và quý bằng hữu. Thừa Chí nói:
– Chúng ta đi vòng sang phía Tây tới phủ bảo định ở chơi với Mạnh Bá Phi vài ngày, tôi thiết tưởng không đến nổi nhỡ việc lên Bắc Kinh của ta.
Ngày hôm sau mọi người đều sang phía Tây tiến thẳng tới phủ Bảo Định. Hôm đó tới huyện Cao Dương cách Bảo Định độ một ngày đường, mọi người vào khách sạn Duyệt Lai trú ngụ, sắp xếp lại hành lý xong, cùng ra ngoài khách sảnh dùng cơm. Vừa ngồi vào bàn, thấy một đầu đà to béo, ngồi bàn phía Đông, trên đầu có một cái vòng đồng buộc tóc, tướng mạo rất oai vệ. Trên bàn đầu đà có 7,8 ấm rượu rỗng không.
Điếm tiểu nhị mang rượu tới. Y đổ rượu vào bát, uống một hơi cạn luôn, lại lớn tiếng kêu la:
– Lấy thêm rượu thêm thịt ra đây mau lên!
Lúc ấy mấy tên điếm tiểu nhị đang bận tiếp bọn Thừa Chí không kịp trả lời. Tên đầu đà nọ nổi giận đập mạnh xuống bàn một cái, “ầm!” rượu, chén tách đều nhảy tung lên. Các thức ăn và rượ đổ tứ tung ở bàn bên cạnh. Người khách ngồi bàn đó nhảy lên kêu la ầm ỹ. Mọi người thấy người đó gầy gò, mép để hai ria như râu chuột, đôi mắt lóng lánh, người đó quát lớn:
– Đại sư phụ muốn uống rượu, người khác cũng đều muốn uống cả.
Người nọ chưa dứt lời tên đầu đà vẫn giận dữ lại đập mạnh xuống bàn, miệng quát lớn:
– Ta gọi điếm tiểu nhị việc gì đến ngươi nào?
Người gầy gò đáp:
– Xưa nay tôi chưa hề thấy người hung ác như thế bao giờ!
Tên đầu đà đáp:
– Hôm nay mi trông thấy cũng chưa muộn mà!
Thanh Thanh thấy vậy không nhịn được liền nói với Thừa Chí rằng:
– Để em ra cho y bài học nhé?
Thừa Chí nói:
– Hãy khoan đã? Chú đừng có khinh thường người bé nhỏ kia? Y không phải là tay vừa đâu.
Thanh Thanh đang chờ xem hai người đánh nhau. Ngờ đâu người gầy bé nhỏ nọ hình như sợ oai thế tên đầu đà, vội dịu dàng nói:
– Vâng, vâng, lỗi tự tôi cả! Tôi xin lỗi đại sư nhé!
Tên đầu đà thấy người kia nhận lỗi và điếm tiểu nhị lại đưa rượu tới thì không sinh dự nữa, tự rót rượu uống. Người bé nhỏ đi ra ngoài một lát, quay trở lại. Thấy cuộc đánh nhau đó không thành, không được xen trò vui, Thừa Chí liền bảo mọi người ăn uống. Bỗng nhiên một trận gió thoáng qua, một mùi hôi thối xông lên mũi. Thanh Thanh vội lấy khăn tay bịt mũi. Thừa Chí quay lại, trông thấy trên bàn tên đầu đà có một cái bầu nước tiểu, nhịn không nổi phải cười ra tiếng và đưa mắt ra hiệu cho Thanh Thanh hay. Thấy bầu nước tiểu đặt giữa bàn mà tên đầu đà không hay biết gì cả, Thanh Thanh phải cười ồ. Khách ngồi ăn trong đại sảnh không hay biết gì cả chỉ đồng thanh hô lên:
– Sao hôi thối thế?
Tên gầy gò bé nhỏ kia cũng lớn tiếng kêu la:
– Chà thơm quá, thơm quá!
Thanh Thanh khúc khích cười nói:
– Nhứt định là người gầy gò kia chơi xỏ đấy! Nhưng tay chân y nhanh nhẩu thật, y để bầu nước vào hồi nào mà tôi không trông thấy nhỉ?
Đến lúc này tên đầu đà mới ngửi thấy mùi hôi thối, giơ tay cầm ấm rượu để rót uống, thấy khác, y mới hay là bầu nước tiểu nặng chình chịch, hiển nhiên bên trong chứa đầy nước tiểu, liền nổi giận đánh luôn vào tên điếm tiểu nhị một chưởng bắn ra sau hơn một trượng, ngã lộn một vòng.
Người bé nhỏ luôn cứ miệng khen ngợi:
– Rượu ngon quá, thơm quá!
Tới lúc này tên đầu đà mới biết là người bé nhỏ kia chơi khăm mình, liền ném ngay bầu nước tiểu vào mặt người nọ. Đã đề phòng sẵn, thấy tên đầu đà vừa ném một cái người nọ đã chui đầu qua gầm bàn nhanh nhẹn vô cùng, và ẩn núp luôn phía sau lưng tên tu hành nọ. Bầu nước tiểu kia trúng cạnh bàn vỡ tan tành, nước tiểu bắn lên tứ tung, mùi hôi thối xông lên khắp đại sảnh. Tất cả mọi người tại đó đều phải đứng dậy tránh.
Hồi 15
Tên đầu đà cầm bầu nước tiểu ném người bé nhỏ kia không trúng, lại càng tức giận, quay trở lại giơ tay ra bắt. Người bé nhỏ kia lại luồn qua gầm bàn chui sang bên này. Tên đầu đà dùng chân trái đá cái bàn tung lên. Đại sảnh loạn xạ, mọi người đều đứng lui sang hai bên.
Thế rồi hai người xông vào đánh nhau túi bụi, chưởng lực của hòa thượng thì uy mãnh trầm trọng, hán tử nhỏ bé thì nhanh nhẹn hiểm độc, hai người đánh nhau có hơn 200 hiệp thì bắt đầu xuống sức thở ồ ồ.
Thừa Chí đứng ngoài xem thấy hai người lúc này sức cùng lực kiệt mà còn cố gắng đánh ra một đòn cuối cùng thẳng vào nhau rồi cũng thành thế lưỡng bại câu thương, thấy thế chàng bèn phi thân vào giữa hai người, “bùng” một tiếng cả hai đòn đều đánh trúng vào người chàng.
– Nguy to!
Chưa dứt lời, y cùng Sa Thiên Quảng đã tiến lên cứu. Khi hai người đến gần, thấy mặt Thừa Chí như thường, không có gì là bị thương cả.
Thì ra Thừa Chí biết dùng sức đỡ hay đá, họ dùng ra hết sức, để cho họ đánh với nhau, tất hai người cùng bị thương. Cho nên chàng mới vận hơi lên ngực, chịu đánh của hai người kia. Với nội công thần diệu nên chàng bị mười quyền của đầu đà và hai chưởng của người gầy gò đánh phải, có thấm vào đâu. Lúc này, đầu đà nọ với người gầy gò kia đã kiệt sức, đau uể oải ngồi xụp cả xuống đất. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng vội đỡ hai người ngồi dậy, và gọi điếm tiểu nhị vào quét dọn. Thừa Chí lấy 20 lạng bạc rồi đưa cho người trưởng quầy nói:
– Tất cả những cái gì đổ vỡ tại đây, tôi xin đền cả. Còn các vị khách kia, chưa ăn xong hay đang ăn, ông cũng dọn qua thức mới, mời các ông ấy xơi. Bao nhiêu tiền tôi xin trả cả.
Người trưởng quầy mừng quá, cứ cuống quít cảm ơn và nhận lấy số bạc đó, rồi gọi hết phổ ky ra quét dọn, và bày biện bàn ghế lại.
Lúc ấy, đầu đà nọ cùng người gầy gò đã hồi lại sức lực đều tiến đến trước mặt Thừa Chí cảm ơn luôn mồm.
Thừa Chí cười nói:
– Xin hai vị cho biết quý tính danh. Công lực của hai vị như vậy, tất cả đều là anh hùng hảo hán có tên tuổi ở chốn giang hồ.
Đầu đà nọ đáp:
– Tôi tên là Nghĩa Sinh, nhưng ai ai cũng gọi tôi là Thiết La Hán.
Người gầy gò đáp theo:
– Tiểu đệ họ Hồ tên là Quế Nam. Còn ngài xin cho biết quý tánh đại danh, và hai vị kia là ai?
Thừa Chí chưa kịp đáp, Sa Thiên Quảng đã vội tiếp lời:
– Ồ, ra sư huynh là “Thánh Thủ Thần Thâu” đấy (tay trộm thần)
Thấy đối phương đã biết tên tuổi của mình, Hồ Quế Nam lấy làm đắc chí lắm, vội nói:
– Tôi không dám. Xin huynh trưởng cho biết quý tánh danh.
Trình Thanh Trúc liền cầm luôn cái quạt của Sa Thiên Quảng phe phẩy, Hồ Quế Nam thấy trên quạt có vẽ một bộ xương người, trông rất rùng rợn, liền nói:
– Ồ! Không ngờ đệ lại hân hạnh gặp Âm Dương Phiến Sa trại chủ ở đây. Đệ đã nghe danh Sa trại chủ từ lâu.
Vừa nói, y vừa đưa mắt trông thấy chiếc gậy trúc của Trình Thanh Trúc gác cạnh bàn, là người giàu kinh nghiệm và kiến thức biết ngay người cầm chiếc gậy có mười đốt là thủ lãnh của bang Thanh Trúc, liền tiến tới trước mặt Trình Thanh Trúc vái chào và nói:
– Xin thứ lỗi đệ mắt kém, không biết Trình bang chủ có mặt tại đây.
Trình Thanh Trúc cười khà khà nói:
– Đôi mắt của Thánh Thủ Thần Thâu lợi hại thật. Quả thật danh bất hư truyền! Hai vị không đánh thì không quen biết nhau, mời hai vị lại cả đây, chúng ta cùng cạn chén cho vui.
Mọi người đều quây quần ngồi vào bàn. Hồ Quế Nam và Thiết La Hán cùng mời nhau cạn chén để xin lỗi.
Thiết La Hán cười nói:
– Tôi chịu đại huynh thật! Không biết huynh lấy trộm bầu nước tiểu ở đâu ra thế?
Mọi người đều lớn tiếng cười.
Hồ Quế Nam rất khôn ngoan, thấy Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng là thủ lãnh các hào kiệt ở hai tỉnh Sơn Đông, Hà Bắc đều cung kính với Thừa Chí, hơn nữa lại thấy vừa rồi Thừa Chí ra tay tương cứu, đủ thấy nội công của chàng cao siêu như thế nào, tất không phải là con người tầm thường. Nên tánh y xưa nay rất hay bông đùa, lúc này cũng phải giữ lễ độ ngồi yên chớ không dám ba hoa nửa lời.
Trình Thanh Trúc nói:
– Chẳng hay hai vị tới đây có công cán gì thế? Có phải Hồ lão đệ đã để ý tới một nhà phú hộ nào ở đây, định ra tay phải không?
Hồ Quế Nam cười nói:
– Ở địa phương của Trình lão tiền bối, đệ đâu dám làm bậy ạ. Đệ tới đây là định đi chúc thọ Mạnh lão gia tứ đấy ạ.
Thiết La Hán vỗ bàn, quát lớn:
– Sao anh không nói trước? Tôi cũng đến chúc thọ đây! Biết vậy, tôi không đánh với anh làm gì!
Trình Thanh Trúc cười nói:
– Thật là ngẫu nhiên quá. Chúng tôi đây cũng đi chúc thọ Mạnh lão gia tứ. Ngày mai chúng ta đi một thể cho vui. Hai vị là bạn thân của ông ta phải không?
Thiết La Hán nói:
– Tôi làm bạn với Mạnh đại ca đã hơn hai mươi năm rồi. Mấy năm gần đây, vì tôi ở miền Phúc Kiến và Quang Đông nhiều, ít có dịp lên trên miền Bắc này. Tôi không gặp anh ta tám, chín năm rồi.
Hồ Quế Nam cười nói:
– Nếu vậy, đệ phải nhờ La Hán đại ca giới thiệu hộ mới được.
Thiết La Hán ngạc nhiên hỏi:
– Sao vậy? Anh không quen biết Mạnh đại ca ư? Như vậy, sao anh lại tới chúc thọ anh ta?
Hồ Quế Nam đáp:
– Đệ ngưỡng mộ Cái Mạnh Thường Mạnh đại gia từ lâu, nhưng chưa có dịp may để cho đệ được yết kiến. Lần này vô hình chung, đệ kiếm được một vật báu, đệ đem biếu Mạnh đại gia để chúc thọ, mà mong được gặp mặt vị hào kiệt tên tuổi trong chốn giang hồ.
Thiết La Hán nói:
– Tưởng anh định nhờ gì, chớ việc đó thì dễ lắm. Anh nên rõ, dù có lễ vật để chúc thọ hay không, Mạn đại gia cũng tiếp đãi anh một cách nồng nhiệt. Chỉ vì hiếu khách như thế anh ta mới được người ta tặng cho cái tên Cái Mạnh Thường là thế đấy! Hà, hà…
Trình Thanh Trúc hỏi Hồ Quế Nam rằng:
– Hồ lão đệ kiếm được vật báu gì thế? Có thể cho chúng tôi được xem đôi chút không?
Sa Thiên Quảng nói:
– Thánh Thủ Thần Thâu đã ăn trộm không biết bao nhiêu thứ quý báu rồi. Những vật tầm thường tất nhiên Hồ lão đệ không thèm để ý tới, mà nay lão đã khen ngợi thì vật đó ít ra cũng phải “giá trị liên thành.”
Đắc chí vô cùng, Hồ Quế Nam nói:
– Vật đó hiện có trong túi đệ đây.
Vừa nói y vừa móc túi ra một cái hộp bằng vàng, khảm đầy trân châu mã não, nói tiếp:
– Mời quý vị vào trong phòng đệ, vì nơi đây có nhiều người lạ, không tiện đem ra hiến quý vị thưởng thức.
Thấy chiếc hộp đã quý như vậy, vật ở bên trong tất phải giá trị lắm, mọi người hiếu kỳ, đều theo cả vào.
Đóng cửa xong, Hồ Quế Nam mới mở chiếc hộp đó ra. Mọi người thấy bên trong chỉ có hai con Thiềm Thử đã chết khô. Đôi Thiềm Thử đó mình trắng như tuyết, hai mắt đỏ như hai hạt máu tươi, trông rất đáng yêu. Nhưng không thấy có điểm nào đáng quý cả. Tuy giàu kinh nghiệm, Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng đều không biết hai con vật ấy có ích lợi gì?
Hồ Quế Nam nhìn Thiết La Hán nói:
– Vừa rồi đệ đối địch với huynh, nhỡ cả hai ta đều chết ngay tại chỗ, không có phương pháp gì cứu sống được hay là chúng ta cùng bị thương nặng cả, đệ cũng có cách chữa khỏi…
Vừa nói y vừa chỉ hai con Thiềm Thử nói tiếp:
– Hai con Thiềm Thử này xuất xử ở trên núi tuyết miền Tây Vực. Vì mình nói trong suốt và mắt đỏ, người ta mới đặt cho cái tên “Chu tinh băng Thiềm” (con Thiềm Thử mình trong như băng tuyết và mắt đỏ) Bất cứ người nào, bị thương nặng đến đâu, hoặc bị nội thương, hoặc bị đao thương, hoặc trúng độc, vân vân, quý hồ chưa chết hẳn. Chỉ cho người đó uống Băng Thiềm này là khỏi ngay tức thì, thật là linh đơn diệu dược cũng không thần hiệu bằng.
Trình Thanh Trúc hỏi:
– Lão đệ kiếm được hai con Thiềm Thử này ở đâu thế?
Hồ Quế Nam đáp:
– Hồi tháng trước, ở Hà Nam khách điếm, đệ trông thấy một lão đạo sĩ hái thuốc đau nặng sắp chết. Thấy tội nghiệpt quá, đệ liền tặng cho ông ta mấy chục lạng bạc và còn phục dịch thuốc thang nữa. Nhưng vì ông ta tuổi già sức yếu quá, uống bao nhiêu thuốc thang cũng không thấy khỏi. Chẳng bao lâu, ông lìa trần. Trước khi tắt thở, ông ta tặng cho đệ đôi Thiềm Thử này để đền ơn.
Thiết La Hán nói:
– Sao cái hột này lại đẹp đẽ và quý giá thế?
Hồ Quế Nam nói:
– Đệ thấy cái hộp đựng hai con này của lão đạo sĩ tặng bằng sắt xấu xí, đem đi biếu cho người khó coi quá…
Sa Thiên Quảng nói:
– Nên lão đệ mới đến nhà phú ông nào mượn cái hộp vàng này để dùng tạm phải không?
Hồ Quế Nam cười đáp:
– Sa trại chủ đoán giỏi lắm! Đệ chịu phục đấy! Cái hộp này là cái hộp đựng trang sức của một tiểu thư con phú ông họ Lưu ở phủ Khai Phong!
Mọi người đều cả cười, Hồ Quế Nam lại nói tiếp:
– Vừa rồi, nếu không có vị đại gia này ra tay cứu giúp thì đệ và Thiết La Hán đại ca không chết cũng bị thương nặng. Ví dù tôi may mắn tắt thở ngay, sẽ uống luôn một con, và tặng Thiết huynh một con. Chúng tôi không có thù oán gì cả. Tôi đâu dám vô cớ đả thương anh ta.
Thiết La Hán cười nói:
– Tôi đâu dám nhận những vật báu ấy!
Mọi người cười ồ, Hồ Quế Nam lại nói:
– Nói cho cùng, hai con Băng Thiềm này cũng không phải là của riêng của đệ mà!
Nói đoạn, y hai tay bưng hộp Băng Thiềm đưa tới trước mặt Thừa Chí rồi nói:
– Gọi là một chút lễ để tỏ lòng kính mến của đệ, chớ không dám nói là trả ơn Tướng công.
Thừa Chí ngạc nhiên nói:
– Vật báu này Hồ huynh đã định đem biếu Mạnh lão gia để chúc thọ rồi sao lại tặng tôi thế này?
Hồ Quế Nam đáp:
– Bảo vật tầm quý nhân, cái gì cũng có số cả! Mạnh lão gia tử không có số được hưởng hai con Băng Tầm này, tạo hóa mới đặt ra đánh nhau giữa đệ và Thiết huynh để Tướng công phải ra tay cứu, mà nhận lấy hai con vật này. Đó có phải là số trời đã định không? Còn lễ vật biết Mạnh lão gia tử để chúc thọ thì Tướng công khỏi lo. Không phải đệ nói khoác, hễ đệ ra tay, chỉ thoáng một cái là nhặt được ngay.
Tuy vậy, Thừa Chí vẫn cứ từ chối, Hồ Quế Nam có vẻ không vui, liền nói:
– Vị Tướng công này đã không chịu cho biết quý tánh danh, lại không chịu nhận lễ vật của đệ. Có phải Tướng công chê những vật ấy là của ăn trộm bẩn thỉu phải không?
Thừa Chí vội nói:
– Sao Hồ huynh lại hiểu lầm đến thế? Vừa rồi vội vã chưa kịp báo tên họ với huynh, đệ họ Viên tên là Thừa Chí đấy ạ.
Thiết La Hán và Hồ Quế Nam đều la “ủa” một tiếng, rồi cùng nói:
– Té ra là Viên đại gia Minh chủ bảy tỉnh! Thảo nào!
Cả hai đều đổi ngay thái độ, tôn kính Thừa Chí hơn trước nhiều, Thừa Chí nói:
– Hồ đại ca đã nói như vậy, đệ không dám từ chối nữa. Cảm ơn Hồ đại ca nhé!
Thấy Thừa Chí đã bỏ hộp Băng Thiềm vào túi rồi, hớn hở vô cùng.
Vào trong phòng một lát, Thừa Chí lại quay trở ra, tay bưng một cây san hô cao hai thước. Quý báu nhứt là cây san hô đó cao như vậy, từ ngọn xuống tới gốc trong suốt không có một vết sứt nào, không có một hạt cát bụi nào dính vào, để trên bàn sáng loáng cả căn phòng, kỳ lạ và đẹp đẽ vô cùng. Người trông thấy châu báu rất nhiều như Hồ Quế Nam cũng phải ngạc nhiên, liền nói:
– Đệ đã tới rất nhiều nhà hào phú, mà chưa hề trông thấy bảo vật quý báu như thế này! Có lẽ cây san hô là kỳ bảo trong hoàng cung nội điện cũng nên. Quả thật nó làm lóe cả mắt chúng tôi! Có phải là vật gia truyền của Viên đại gia không?
Thừa Chí cười nói:
– Vật này đệ tình cờ bắt được, xin tặng lại Hồ huynh, để làm đồ mừng chúc thọ Mạnh lão gia tử.
Hồ Quế Nam giựt mình, vội nói:
– Vật này quý hóa quá!
Thừa Chí nói:
– Cái này là trò chơi, dù quý hóa thật nhưng vô dụng. Bằng sao được Băng Thiềm, có thể cứu người khỏi chết. Hồ huynh mau nhận lấy đi.
Hồ Quế Nam đành phải cảm ơn nhận lấy. Thấy Thừa Chí hào phóng như vậy, nhóm Trình Thanh Trúc đều lấy làm kỳ lạ.
Chiều ngày hôm sau đã tới phủ Bảo Định, mọi người vào khách sạn nghỉ ngơi. Sáng ngày mọi người đem đồ mừng đến biếu Mạnh Phủ. Thấy danh thiếp của Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, và Sa Thiên Quảng ba người, Mạnh Bá Phi vội ra ngoài cửa nghênh đón. Trông thấy Thừa Chí chỉ là một thanh niên, ngẩn người giây lát, có vẻ không vui. Mạnh Bá Phi nghĩ thầm: “Sao những người đi dự đại hội bảy tỉnh lại hồ đồ đến thế? Họ bầu một tên con nít làm Minh chủ để làm gì?”
Tuy vậy, y vẫn hiếu khách, vì các người này ở xa tới chúc thọ, đã làm cho y vẻ vang thêm, nên y và con trưởng là Mạnh Tranh, con thứ là Mạnh Trú luôn miệng cám ơn, rồi nghênh đón các người vào trong nhà.
Thừa Chí thấy Mạnh Bá Phi thân hình vạm vỡ, tóc trắng như bạc, bước đi rất vững chắc, chắc võ nghệ phải cao siêu, còn hai người con đều tuổi tráng niên, cũng anh dũng vô cùng.
Trong lúc trò chuyện, Mạng Bá Phi có vẻ khinh nhờn đại hộ Thái Sơn, nên khi Trình Thanh Trúc nói tới chuyện đó, ông ta giả vờ không nghe, và cũng không hỏi han tới. Một lát sau, lại có khách tới, ông ta liền cáo lỗi ra ngoài đón tiếp.
Thanh Thanh nghĩ: “Mạnh Bá Phi mệnh danh là Cái Mạnh Thường sao tiếp khách lại thiếu niềm nở đến thế? Hay là y chỉ có hư danh thôi?”
Gia đinh đem điểm tâm ra mời mọi người ăn xong, Mạnh Trú dẫn các người vào hậu đường xem đồ mừng của các nơi đem tới biếu. Lúc ấy, đang cùng nhiều khách quây quanh chiếc bàn, Mạnh Bá Phi thấy Thừa Chí vào, vội chạy lại cảm ơn và nói:
– Viên huynh cùng Hạ huynh cho món đồ quý báu và hậu hĩ quá, đệ đâu dám nhận.
Thừa Chí đáp:
– Ngày chúc thọ của lão tiền bối, chúng tôi nhận thấy hiến vật mọn đó chưa đủ lòng thành thì có.
Mọi người đều tiến tới cạnh bàn trông thấy trên mặt bàn bày la liệt những đồ mừng nhưng duy có hai mươi bốn hạt trân châu và tám con ngựa ngọc thạch trắng của Thừa Chí, trái dưa hấu bằng phỉ thúy của Thanh Thanh, và cây san hô của Hồ Quế Nam biếu là quý giá và lộng lẫy hơn cả. Với vụ Thừa Chí được bầu làm Minh chủ bảy tỉnh, Mạnh Bá Phi trong lòng không vui, nhưng nay thấy chàng ăn nói hòa nhã, câu nói nào cũng tôn mình là lão tiền bối, ông ta mới bắt đầu mến chàng.
Ngày hôm đó, khách tứ phương tới mừng và ở lại ăn cỗ chừng ba nghìn người. Ngày chúc thọ sáu mươi của mình, lại thấy khách tới mừng đông đảo như vậy, Mạnh Bá Phi cả mừng cười luôn miệng. Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, ba người được mời ngồi mâm thứ nhứt, do Mạnh Bá Phi tiếp đãi. Người ngồi chủ tịch mâm thứ nhứt đó là Uyên Ương Đảm Trương Nhược Cốc, một lão anh hùng bảy mươi tám tuổi. Lúc Mạnh Phi giới thiệu các người cùng mâm, Trương Nhược Cốc thấy MinhChủ bảy tỉnh là một thanh niên không có vẻ gì kinh người cả, trong lòng cũng lấy làm ngạc nhiên và buồn cười.
Trong mâm đó có một vị võ quan về hưu là Phùng tổng binh, Tổng tiêu đầu Tiêu cục Vĩnh Thắng Đổng Khai Sơn, ngoài ra đều là nhân vật lãnh tụ trong giới võ lâm cả. Sau khi nâng chén chúc thọ chủ nhân rồi, mọi người đấu rượu đánh toan, rất là vui vẻ. Uống tới lưng chừng, bỗng có một gia đinh hấp tấp vào, tay cầm một hộp thiếp, đi tới cạnh Mạnh Bá Phi rỉ tai khẽ nói vài câu. Mạnh Tranh đang tiếp khách thấy vậy, liền đứng dậy đi tới cạnh cha, nói:
– Thưa cha, hôm nay cha rất hãnh diện được vợ chồng Thần Quyền Vô Địch Quy Tân Thụ cùng mấy người đồ đệ tới mừng đấy!
Mạnh Bá Phi giựt mình, liền nói:
– Xưa nay ta có giao thiệp với Quy lão nhị bao giờ đâu.
Nói xong, ông ta mở hộp đựng thiếp ra, thấy trong đó một cái thiếp đại hồng thật lớn, trên viết: “Quyền đệ Quy Tân Thụ cùng môn nhân kính hạ” mấy chữ lớn, bên cạnh có một hàng chữ nhỏ: “Phi nghi hoàng kim thập lượng” bên cạnh cái thiếp có một thoi vàng nặng mười lượng.
Mạnh Bá Phi nói:
– Mau ra nghênh đón đi.
Nói xong, ông ta quay lại nói với Trương Nhược Cốc và các người rằng:
– Xin thất lễ quý vị giây lát.
Rồi ông ta dẫn hai người con đi thẳng ra ngoài cửa nghênh đón. Không bao lâu, Manh Bá Phi tươi cười, niềm nở tiếp vợ chồng Quy Tân Thụ, Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, và Tôn Trọng Quân, năm người đi vào. Thừa Chí đã đứng sang bên, cúi đầu vái chào và nói:
– Nhị sư huynh, Nhị sư tẩu mạnh giỏi!
Quy Tân Thụ gật đầu đáp lễ nói:
– Ủa, chú cũng ở đây đấy à?
Quy nhị nương chỉ trả lời bằng giọng mũi “hừ” một tiếng chớ không thèm đếm xỉa tới sư đệ.
Thừa Chí nói:
– Mời sư huynh, sư tẩu ngồi thượng tọa, để em ngồi cùng với Mai Kiếm Hòa cũng được.
Nghe Thừa Chí xưng hô như vậy, Mạnh Bá Phi cười nói:
– Có nhị sư huynh này đỡ đầu, đừng nói làm Minh chủ bảy tỉnh. Viên huynh làm Minh chủ mười bốn tỉnh cũng thích đáng lắm!
Ý nghĩa lời nói của Mạnh Bá Phi, Thừa Chí sở dĩ trẻ tuổi đắc trí được bầu làm Minh chủ bảy tỉnh là nhờ có lực lượng của người sư huynh này giúp đỡ cho. Thừa Chí mỉm cười không nói nửa lời. Vợ chồng Quy Tân Thụ ngạc nhiên hỏi:
– Ông nói cái gì Minh chủ thế?
Mạnh Bá Phi cười đáp:
– Đệ nói bông đùa đấy thôi. Xin Quy nhị cao đừng có chấp trách.
Nói xong, ông ta mời vợ chồng Quy Tân Thụ ngồi dưới cánh Trương Nhược Cốc. Những khách đến dự tiệc đều là anh hùng hào kiệt, cho nên nam nữ ngồi chung bàn không có vẻ gì e lệ cả. Thừa Chí sang ngồi cùng bàn với Kiếm Hòa.
Rượu qua ba tuần, Đổng Khai Sơn Tổng tiêu đầu Tiêu cục Vinh Thắng đứng dậy nói:
– Xin lỗi quý vị, đệ tửu lượng kém, phải vào nhà trong nghỉ ngơi, cáo lỗi trước.
Mạnh Bá Phi liền gọi gia đinh đưa Đổng tiêu đầu vào nhà trong. Quy Tân Thụ lạnh lùng nói:
– Chúng tôi đi kiếm khắp nơi không thấy Đổng tiêu đầu đâu cả. Sau tôi đoán chắc ông ta thế nào cũng ở đây, quả nhiên không sai tí nào.
Đổng Khai Sơn mặt tái mét, giọng nói hơi run đáp:
– Đệ với Quy nhị gia xưa nay không có oán thù gì cả, Quy nhị gia tìm kiếm đệ để làm gì thế?
Mọi người nghe lời nói của hai người đều ngừng chén, quay đầu lại nhìn.
Mạnh Bá Phi cười nói:
– Chẳng hay hai vị có điều gì xích mích thế? Xin nể mặt đệ cho phép đệ được hòa giải nhé?
Đổng Khai Sơn nói:
– Đệ xưa nay vẫn ngưỡng mộ đại danh của Quy nhị gia nhưng chưa có dịp nào quen biết. Không hiểu tại sao Quy nhị gia bỗng nhiên cứ theo dõi đệ như thế?
Nghe xong lời của Đổng tiêu đầu, Mạnh Bá Phi hiểu ngay, nghĩ thầm: “À, ra cả hai tới đây không phải thành tâm đến chúc thọ ta! Một tên tới đây tị nạn, một tên thì theo dõi người tới đây. Nhưng dù sao tên họ Đổng đã đến tị nạn dưới mái nhà của ta, thì thể nào ta cũng không để cho y phải thiệt thòi.”
Nghĩ đoạn, ông ta liền nói với Quy Tân Thụ rằng:
– Quy nhị gia có việc gì cần cũng vậy, xin để cho qua khỏi ngày hôm nay đã. Cũng là bạn thân với nhau cả, chúng ta giải quyết bằng lời nói tất phải xong hết.
Quy Tân Thụ kém ăn nói nên Quy nhị nương liền đỡ lời, chỉ tay vào đứa con đang ẵm trong lòng nói:
– Thằng bé này là đứa con độc nhứt của nhị phòng và tam phòng nhà họ Quy, hiện giờ nói đang đau nặng, sắp chết đến nơi. Chúng tôi muốn xin Đổng tiêu đầu mở lòng nhân đức, tặng cho mấy viên thuốc để cứu cho cháu nó thoát chết. Ơn đức này vợ chồng chúng tôi không bao giờ dám quên.
Mạnh Bá Phi nói:
– Tưởng chuyện gì, chớ việc này thiệt chính đáng lắm.
Vừa nói, vừa quay lại nhìn Đổng Khai Sơn và nói tiếp:
– Đổng tiêu đầu cứu người là việc làm phúc lớn nhất. Mà nay người yêu cầu huynh cứu giúp lại là Quy đại anh hùng, đệ thiết tưởng huynh không nên chối từ mới phải.
Đổng Khai Sơn đáp:
– Nếu thuốc Phục Linh Hà Thủ này của đệ thì chả cần Quy nhị gia phải lên tiếng hỏi, đệ cũng hai tay dâng tới ngay. Nhưng quý vị có biết đâu, thứ thuốc này lại là của triều cống, do Tổng đốc Mã đại nhân nhờ bốn Tiêu cục đưa vào kinh sư. Cho nên đệ không dám tự tiện đem ra biếu Quy nhị gia là thế.
Mọi người thấy y nói như vậy, đều cảm thấy vấn đề này khó giải quyết thật. Thấy nói của triều cống, viên quan hồi hưu Phùng tổng binh vội nói:
– Vật triều cống là đồ dùng của Thánh thượng, ai dám táo gan đụng chạm tới nào?
Ông ta vừa nói xong thì bỗng có ba viên thịt từ đâu bắn tới lọt vào miệng ông ta, làm ông ta tí nữa thì giật mình té lăn ra đất. Thì ra Quy nhị nương ghét cái mặt vênh lên của ông ta nên giở chút thủ đoạn.
Mạnh Bá Phi nghĩ: “Hôm nay mình mở tiệc đón khách, Quy Tân Thụ tới, làm cho khách mất vui, bỏ ra về thế này.”
Nghĩ tới đây, ông ta đang định lên tiếng. Lúc ấy, Phùng tổng binh đã móc được hai viên thịt cá ở trong miệng ra rồi, còn một viên nữa đành phải nuốt chửng, rồi y vừa luôn mồm la lớn:
– Phản rồi, phản rồi! Thế này chúng có coi vương pháp vào đâu nữa! Người đâu!
Hai tên tùy tòng của y không biết quan lớn tại sao nổi giận vội chạy lại.
Phùng tổng binh nói:
– Khiêng thanh đại quan đao ra cho ta.
Thì ra võ nghệ của viên Tổng binh này rất kém, chỉ nhờ luồn lót cửa hậu mà được thăng tới chức Tổng binh này nhưng y lại hay vây vo ta đây. Y đặt làm một thanh quan đao thật lớn bằng sắt nhưng rỗng ruột. Đi đâu y cũng cỡi ngựa đi trước, sai hai tên tùy tòng khiêng đại đao theo sau, làm ra vẻ nặng nề lắm để lòe bịp thiên hạ. Người ngoài không biết nội tình cứ tưởng y thần lực kinh người thật. Khi còn làm quan, y cứ hay nói: “Khiêng thanh đại quan đao ra cho ta!” Nói quen mồm rồi, nên lúc này nổi giận, y lại gọi tùy tòng như vậy. Hai tùy tòng ngơ ngác.
Vì tới đây chúc thọ thì ai đem những của nặng nề ấy đi làm gì. Một tên tùy tòng nhanh trí, vội cởi con dao đeo cạnh sườn ra, đưa lên cho Tổng binh. Biết tẩy của tên Tổng binh này lắm rồi, Mạnh Bá Phi thấy y giở trò hề ra, vừa tức vừa buồn cười, vội nói:
– Không ăn thua đâu mà giở trò ấy ra!
Xưa nay coi mạng người như mạng súc vật, Phùng tổng binh cứ cầm lấy con dao, chém luôn vào đầu Quy nhị nương. Đang ẵm con bên tay phải, Quy nhị nương giơ tay trái ra, dùng hai ngón tay kềm chắc sống đao, rồi hỏi:
– Quan lớn muốn làm trò gì thế?
Phùng tổng binh không trả lời, cứ dùng sức kéo thanh đao ra, nhưng hết sức bình sinh mà không sao rút nổi con đao ra khỏi hai ngón tay đối phương. Tổng binh đang phùng mồm trợn mép dùng hai tay nắm chặt cán đao, hết sức lôi kéo. Quy nhị nươngbỗng buông hai ngón tay ra, tên Tổng binh bị ngã lộn nhào về phía sau, sống đao bật ngay vào góc trán sưng lên như quả trứng gà. Hai tên tùy tùng vội chạy lại đỡ y dậy.
Bắt nạt người hiền, sợ kẻ ác quen rồi, Phùng tổng binh không dám hé mồm nói nửa lời, liền gọi hai tên tùy tòng vội vàng đi về ngay. Ra tới cửa ngoài, y lại thét lớn, nhiếc mắng hai tên hầu sao không khiêng theo thanh đại quan đao đi.
Nhân lúc bối rối, Đổng Khai Sơn định thừa cơ tẩu thoát, Quy Tân Thụ liền nói:
– Đổng tiêu đầu, quý hồ bạn để lại thuốc viên cho, đệ cam đoan không làm bạn khó dễ.
Đổng Khai Sơn bị uy hiếp, không biết làm thế nào, đứng ngay ra giữa sảnh, lớn tiếng nói:
– Tôi, Đổng Khai Sơn, tự biết không địch nổi Thần Quyền Vô Địch, tôi chỉ có tánh mạng ở đây thôi, bạn muốn lấy thì cứ việc ra đây!
Quy nhị nương nói:
– Ô hay! Ai lấy tánh mạng của ông đâu? Chúng tôi chỉ cần lấy thuốc viên thôi. Ông cứ chỉ chỗ thuốc đó ra là xong ngay.
Con trai lớn của Mạnh Bá Phi Mạnh Trang không thể nhịn được, xông ngay ra, đứng trước mặt Đổng Khai Sơn che chở, lớn tiếng nói:
– Họ Quy kia, ngày hôm nay là ngày ăn mừng thọ của cha ta, các người có việc gì lôi thôi với nhau, xin mời ra ngoài kia mà giải quyết.
Quy Tân Thụ nói:
– Được, Đổng tiêu đầu, chúng ta ra ngoài kia đi.
Đổng Khai Sơn không chịu đi, Quy Tân Thụ nóng lòng, tiến lên nắm lấy hai tay, võ Đổng Khai Sơn cũng không phải là tầm thường, vội lui về phía sau. Nhưng Thần Quyền Vô Địch đã ra tay khi nào chịu để cho đối phương tránh được. Dù Đổng tiêu đầu lùi nhanh đến đâu, vai áo cũng bị Quy Tân Thụ nắm được, xé rách một miếng lớn.
Mạnh Tranh tiến lên trước mặt Đổng Khai Sơn nói lớn:
– Đổng tiêu đầu là khách tới đây chúc thọ, chúng tôi không khi nào chịp để cho ông ta bị người bắt nạt tại nơi đây!
Quy nhị nương nói:
– Cậu muốn làm gì? Nhà tôi chẳng gọi Đổng tiêu đầu ra ngoài kia rồi là gì?
Mạnh Tranh nói:
– Ông bà muốn kiếm Đổng tiêu đầu sao không đến tận Vinh Thắng tiêu cục mà kiếm? Chớ ở đây phá bĩnh là không được đâu!
Càng nói, y càng tỏ vẻ không khách khứa như trước nữa, Quy nhị nương quát lớn:
– Chúng ta đã phá bĩnh cái gì nào?
Mạnh Bá Phi cũng tức giận, đứng dậy nói:
– Thôi được, nếu Quy nhị nương cho phép, lão phu xin lãnh giáo vài hiệp.
Mạnh Tranh nói:
– Thưa cha, ngày hôm nay là ngày vui mừng của cha, xin cho phép con được đại diện.
Nói xong, y bảo giai đinh xếp dọn bàn ghế ở giữa sảnh, để trống ra một khoảng, rồi gọi Quy nhị nương rằng:
– Nào, muốn phá bĩnh thì mời ra đây!
Quy nhị nương nói:
– Nếu cậu muốn đối địch với nhà tôi thì cậu học thêm hai mươi năm võ nghệ nữa cũng chưa chắc địch nổi.
Mạnh Tranh đã học hết ba môn chưởng Khoái Hoạt của Mạnh Bá Phi chân truyền, chưa gặp địch thủ, lại đang lúc tráng niên. Tuy hắn đã biết tiếng Thần Quyền Vô Địch từ lâu, nhưng khi nào chịu để cho người ta khinh thị đến thế, liền nổi giận thét lớn:
– Quy lão nhị là cái quái gì? Mà lại đòi tới đây phá bĩnh! Mạnh thiếu gia này thua người thì tha hồ ngươi thanh toán với Đổng tiêu đầu, lúc ấy nhà họ Mạnh chúng tôi tự nhận là kém tài không thể bảo vệ được. Nhưng nếu ta thắng thì sao?
Quy Tân Thụ không hay nói, chỉ khẽ đáp:
– Mi đỡ nổi ba hiệp của ta, Quy lão nhị này xin quỳ lạy ngay.
Lời nói đó chỉ riêng mình Mạnh Tranh nghe thôi, các người đứng cạnh đó không nghe gì cả, đều rỉ tai hỏi thăm nhau. Mạnh Tranh ha hả cười nói:
– Quý vị xem y có ngông cuồng hay không? Y bảo nếu tôi đỡ được ba hiệp, y quỳ lạy tôi ngay. Có phải thế không hở Quy nhị gia?
Quy Tân Thụ trả lời:
– Phải! Sửa soạn đỡ đi!
Vừa dứt lời, Quy Tân Thụ đã dùng hữu quyền đánh ngay thế “Thái Sơn Áp Đỉnh” tới. Thanh Thanh đứng cạnh nói với Thừa Chí rằng:
– Sư huynh của anh đã bắt chước phương pháp của anh đấy.
Thừa Chí hỏi:
– Sao chú lại nói thế?
Thanh Thanh đáp:
– Hôm nọ, anh đấu quyền với đồ đệ anh ta, anh chẳng đếm từng thế một bảo đồ đệ anh ta đỡ là gì?
Thừa Chí nói:
– Tên họ Mạnh kia ngu quá, y có biết đâu thần quyền của sư huynh tôi lợi hại như thế nào?
Mạnh Tranh thấy quyền của đối phương đánh tớoi, không thèm tránh, giơ tay ra đỡ, và đồng thời dùng tay trái đánh trả lại một quyền. Hai cánh tay của hai người vừa va chạm nhau, Quy Tân Thụ nghĩ: “Tên này võ nghệ cũng khá, nên y mới ngông cuồng như vậy.”
Thừa lúc tả quyền của đối phương đánh tới, dùng tả chưởng đến “bốp” một cái, Quy Tân Thụ đánh vào khuỷu tay đối phương, và dùng sứ đẩy mạnh ra bên ngoài.
Ngờ đâu, Mạnh Tranh học Khoái Hoạt tam thập chương rất chú trọng đứng tấn, nên cái đẩy của Quy Tân Thụ không làm gì nổi y.
Thừa Chí khẽ nói:
– Nguy rồi! Thế là anh ấy không đánh ngã được đối phương.
Lại thấy Quy Tân Thụ đánh ra một chưởng, Mạnh Tranh vội dùng hai cánh tay giơ lên đỡ. Chỉ thấy một luồng gió mạnh đẩy tới, Mạnh Tranh bỗng mất hết thần trí, mê mẩn tức thì ngã ngửa ra phía sau, chết ngất liền.
Mọi người đều kinh hãi. Mạnh Bá Phi và Mạnh Trú chạy lại đỡ. Mạnh Tranh dần dần hồi tỉnh, khạc một cái, ọc ngay ra mấy cục máu đen, lẽ tất nhiên nội bộ bị thương rất nặng rồi.
Thì ra, vừa rồi Quy Tân Thụ đẩy một cái không thấy Mạnh Tranh ngã, tưởng võ nghệ của y cao siêu thật, chưởng thứ ba mới dùng toàn sức đánh xuống. Đỡ hai miếng, Mạnh Tranh đã kiệt lực rồi, ngờ đâu, miếng thứ ba lại mạnh đến nỗi như di sơn đảo hải đánh tới, thì chịu sao nổi? Quy Tân Thụ không ngờ đối thủ đỡ đến miếng thứ ba đã hết sức rồi. Miếng thứ ba lại mạnh hơn hết, Mạnh Tranh không còn hơi sức để đỡ, tất nhiên phải chết. Vì vậy, Quy Tân Thụ cũng hối hận vô cùng.
Mạnh Trúc tức giận quá, nhảy xổ lên, Mạnh Bá Phi xoa bóp cho con, thấy con thoi thóp sắp chết, nước mắt nhỏ xuống ướt đẫm hai má, đột nhiên đứng dậy, giơ song chưởng đánh vào người Quy Tân Thụ. Thấy Đổng Khai Sơn đang thừa cơ lẩn trốn, Quy Tân Thụ vọt qua dưới quyền của Mạnh Trú, nhảy tới điểm vào yếu huyệt ở bên hông của Đổng Khai Sơn. Tên Tiêu đầu đây cứng đờ ngay, nửa chân ở phía trước, nửa chân ở phía sau, như lúc đang chạy vậy, nhưng không thể nào nhúc nhích được nửa bước.
Lúc này, Quy nhị nương đã tiếp chiến Mạnh Bá Phi. Hai người tài ba tương đương nhưng Nhị Nương thiệt thòi ở chỗ một tay phải ẵm con, nên nhiều lúc gặp phải nguy hiểm bởi những thế công như vũ bão của Mạnh Bá Phi. Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, và Tôn Trọng Quân đang hăng hái đánh với các môn đồ của Mạnh Bá Phi. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng nói với Thừa Chí rằng:
– Viên tướng công, chúng ta mau ra khuyên can đi, đừng để cho gây nên đại sự.
Thừa Chí nói:
– Sư huynh sư tẩu tôi xưa nay vẫn có hiềm khích với tôi, nay tôi ra tay khuyên, sự thể lại càng rắc rối thêm. Chúng ta hãy đứng xem một lúc ra sao đã.
Lúc ấy, Quy Tân Thụ đã trở lại trợ chiến, chỉ mấy hiệp đã điểm trúng yếu huyệt của Mạnh Bá Phi ngay. Rồi chàng như con bươm bướm xuyên hoa, ở giữa đại sảnh xuyên qua xuyên lại, trong giây lát đã điểm huyệt mấy chục đệ tử của nhà họ Mạnh.
Những người bị điểm đó, kẻ thì giơ chân, người thì giương tay, lại có tên cúi xuống, có tên quay đầu, mỗi người một kiểu cách, đứng yên như tượng gỗ, trông thật buồn cười.
Trong các người khách đến dự tiệc, tuy có khá nhiều võ lâm cao thủ, nhưng Thần Quyền Vô Địch lợi hại như vậy, còn ai dám ra can thiệp nữa. Quy nhị nương bảo Mai Kiếm Hòa khám người Đổng Khai Sơn xem có thuốc viên hay không? Kiếm mãi không thấy hình bóng Phục Linh Thủ Ô Hoàn đâu cả, Mai Kiếm Hòa đành phải thưa lại với sư phụ. Quy Tân Thụ liền giải huyệt cho Đổng Khai Sơn, rồi hỏi:
– Thuốc viên giấu ở đâu? Nói mau?
Đổng Khai Sơn nói:
– Hừ, ngươi muốn lấy được thuốc viên, theo ta tới làm cái gì? Thế mà cũng nhận là lão giang hồ! Người ta sử dụng kế “Kim thiềm thoát xác” mà ngươi chả hay tí gì!
Quy nhị nương nổi giận hỏi:
– Ngươi nói gì?
Đổng Khai Sơn đáp:
– Thuốc viên đã đưa tới Bắc Kinh từ lâu rồi.
Quy nhị nương vừa kinh ngạc, vừa tức giận, quát hỏi:
– Có thật không?
Đổng Khai Sơn đáp:
– Ta ngưỡng mộ Mạnh lão gia tử là người bạn tốt mới thành tâm đến đây chúc thọ. Chẳng lẽ các người muốn cướp thuốc viên, mà ta lại còn đem theo để liên lụy đến ông ta hay sao?
Nghe Đổng Khai Sơn nói, Hồ Quế Nam liền tới cạnh Thừa Chí dí tai nói:
– Tên tiêu sư này vô sĩ thật. Y nói láo đấy!
Thừa Chí hỏi:
– Sao ngươi biết?
Hồ Quế Nam đáp:
– Đệ biết thuốc viên y giấu ở chỗ kia.
Nói xong, y chỉ vào những trái đào làm bằng bột gạo bày trong mâm, đặt trên bàn, để dưới bức trướng lớn. Thừa Chí ngạc nhiên, khẽ hỏi:
– Sao huynh lại biết rõ thế?
Hồ Quế Nam cười đáp:
– Những trò lén lút, trộm cắp trên giang hồ, trốn tránh sao khỏi đôi mắt của đệ.
Thanh Thanh đứng cạnh nghe liền cười nói:
– Hồ đại gia vốn dĩ là tay năng thủ trong giới đó mà!
Hồ Quế Nam cười nói:
– Tên họ Đổng kia xảo trá lắm. Y biết Quy nhị gia thể nào cũng theo dõi tới, cho nên y mới giấu thuốc vào trong những trái đào già kia, chờ Quy nhị gia đi rồi, y mới lấy ra.
Thừa Chí gật đầu, rồi rẽ các người đứng che trước mặt ra hai bên, đến tới cạnh Mạnh Bá Phi giơ tay giải huyệt cho, chỉ nắn bóp mấy cái là Mạnh Bá Phi đã hoạt động được rồi.
Thấy vậy, Quy nhị nương quát lớn:
– Làm gì thế? Mi lại định đến đây sanh sự phải không?
Nói xong, nàng đưa thằng bé cho Tôn Trọng Quân ẵm, rồi nhảy tới cạnh Thừa Chí. Nàng biết sư đệ võ nghệ cao cường, sợ con mình bị thương lây, mới trao con cho đồ đệ ẵm hộ. Thừa Chí né sang bên, rồi lớn tiếng nói:
– Sư tẩu hãy nghe đệ nói đã.
Mạnh Bá Phi chân tay hoạt động được rồi, liền đánh luôn hai chưởng vào Quy nhị nương. Thế là hai người lại đối địch, võ nghệ tương đương, trong chớp xuất đã đánh được mười mấy hiệp rồi. Quy Tân Thụ bảo vợ rằng:
– Em hãy tránh ra.
Quy nhị nương tránh sang một bên. Chỉ vài hiệp, Mạnh Bá Phi lại bị Quy Tân Thụ điểm trúng yếu huyệt liền. Vì thương con sắp chết đến nơi, Quy nhị nương mất cả lý trí, lớn tiếng quát hỏi Đổng Khai Sơn:
– Họ Đổng kia, ngươi có đưa thuốc viên ra không? Nếu ngươi cứ làm thinh như vậy, ta bẻ gãy hai tay ngươi ngay.
Vừa nói nàng vừa vặn hai tay tên Tiêu đầu, Đổng Khai Sơn nghiến răng chịu đựng, khẽ nói:
– Thuốc không có ở đây và có bẻ gãy tay tôi cũng vô ích mà!
Thấy nàng ương ngạnh quá, đã có mấy người khác bước ra thách thức, và cũng có vài người đối địch với Mai Kiếm Hòa và Lưu Bội Sinh rồi. Thấy tình hình ngày càng rối ren, Thừa Chí nghĩ phải giở ngay thủ đoạn dứt khoát mới giải quyết được, liền nhảy tới cạnh Tôn Trọng Quân giơ hai ngón tay ra móc mắt nàng. Tôn Trọng Quân sợ hãi vội giơ một tay ra gạt. Ngờ đâu, thế đánh đó là Thừa Chí dương đông kích tây, chớ có phải định đánh nàng thật đâu. Nhân lúc Tôn Trọng Quân giơ tay che chở đôi mắt, Thừa Chí khẽ đẩy vai nàng một cái, Tôn Trọng Quân vừa sợ quá lớn tiếng kêu la:
– Sư phụ, sư nương, mau mau…
Vợ chồng Quy Tân Thụ quay lại, trông thấy Thừa Chí ẵm con mình, nhảy lên trên mặt bàn lớn tiếng gọi:
– Chú Thanh, kiếm!
Thanh Thanh ném bảo kiếm cho chàng, chàng nắm lấy chuôi kiếm, kêu gọi:
– Tất cả hãy ngừng tay lại, nghe tôi nói đã.
Quy nhị nương mắt đỏ bừng, quát đến khan cả tiếng:
– Thằng nhãi con kia, mi làm con ta tổn thương, là ta thí mạng với mi ngay!
Vừa quát nàng vừa định nhảy lên trên bàn, Quy Tân Thụ vội níu nàng lại và khẽ nói:
– Hãy khoan, hiện con ta ở trong tay ty. Xem y giở trò gì đã.
Thừa Chí nói:
– Xin Nhị sư huynh hãy giải huyệt cho Mạnh lão gia tử đã.
Quy Tân Thụ dùng giọng mũi “hừ” một tiếng, nhưng vẫn ra tay giải huyệt cho Mạnh Bá Phi.
Thừa Chí lại lớn tiếng nói:
– Các bực tiền bối, các vị bạn hữu. Vì con đau nặng, sư huynh, sư tỷ tôi định mượn thuốc viên tiến cống của tham quan để dùng tạm nhưng tên Tiêu đầu họ Đổng này chỉ biết bán mạng cho tham quan, nên sư huynh, sư tẩu tôi mới gây hấn với hắn.
Còn Mạnh lão gia tử là người bạn tốt. Chúng tôi không khi nào lại lập tâm đến phá bĩnh ngày chúc thọ của ông ta.
Mọi người nghe chàng nói đều lấy làm ngạc nhiên. Rõ ràng sư huynh đệ vừa ra tay đánh nhau, sao bỗng dưng chàng lại bênh vực vợ chồng sư huynh như vậy. Nhứt là vợ chồng Quy Tân Thụ càng ngạc nhiên hơn hết.
Thừa Chí lại lên tiếng nói tiếp:
– Mạnh lão gia tử, xin ông bổ những trái đào trên mâm kia mà coi thử xem trong ruột nó có những trò lạ gì!
Đổng Khai Sơn nghe, sắc mặt biến ngay. Mạnh Bá Phi ngơ ngác giây lát, nhưng vẫn nghe theo, lấy dao bổ một trái đào giả ra, thấy trong có nhân đậu đen, bổ nhân ra, quả nhiên thấy có một viên thuốc bao sáp.
Thừa Chí liền lớn tiếng nói:
– Tên Tổng tiêu đầu này, nếu chỉ vì bán mạng cho nhà vua thôi, còn có thể tha thứ được. Nhưng lòng y rất độc ác, tới đây mục đích là khiêu khích ly gián, muốn làm cho anh em chúng ta mất hết tình nghĩa và hòa khí với Mạnh lão gia tử, có phải mâm thọ đào này là của Đổng tiêu đầu đem tới mừng đấy không?
Mạnh Bá Phi gật đầu.
Thừa Chí lại nói:
– Y biết không có ai lại đem đào giả này ra ăn cả nên y mới giấu hết thuốc viên vào trong đó. Chờ tới khi Mạnh lão gia tử xích mích với sư huynh tôi, y mới lấy trộm ra, đem vào trong Kinh. Như vậy có phải là y đã lập được một kỳ công cho nhà vua đấy không?
Chàng vừa nói vừa nhảy xuống đi tới cạnh bàn, Thanh Thanh cũng tiến tới giúp.
Hai người bổ hết các trái đào, lấy hết những thuốc viên trong ấy ra, Quy Tân Thụ và Mạnh Bá Phi mới tỉnh ngộ. Thừa Chí móc một viên thuốc ra, mùi thơm ngào ngạt, rồi gọi Thanh Thanh lấy chén nước tới, bỏ thuốc viên vào chén hòa tan, đút cho con trai Quy Tân Thụ uống. Thằng nhỏ thoi thóp sắp chết, chẳng khóc chẳng rằng, cứ hớp một uống hết chén thuốc đó.
Quy nhị nương nước mắt chạy quanh, trong lòng vừa cảm ơn, vừa hổ thẹn nghĩ thầm: “Ngày hôm nay, nếu không được chú em này biết rõ mưu cơ của kẻ gian thì con mình sẽ phải chết, và làm lụy chồng mình mất hết tiếng vì gây thù gây hấn với bao nhiêu anh hùng hào kiệt.”
Chờ đứa nhỏ uống hết chén thuốc, Thừa Chí mới trao trả Quy nhị nương. Hai tay đỡ lấy con, Quy nhị nương khẽ nói:
– Viên sư đệ, vợ chồng tôi không biết lấy gì đền ơn cho chú mới phải.
Quy Tân Thụ kém ăn nói, không biết nói gì cho phải, chỉ nói:
– Sư đệ, chú tốt lắm, tốt lắm!
Thanh Thanh đưa hết số thuốc lấy ở trong trái đào ra cho Quy nhị nương rồi cười nói:
– Cháu nó có đau nặng thêm hai phen nữa, cũng đủ thuốc dùng.
Đang lúc hớn hở vui mừng, Quy nhị nương chỉ cám ơn lia lịa, chớ không để ý tới lời nói của Thanh Thanh bao hàm châm biếm trong đó.
Quy Tân Thụ bận rộn giải huyệt cho mọi người. Mạnh Bá Phi lẳng lặng không nói gì, bụng nghĩ thầm: “Con nhà ngươi thì khỏi rồi, mà con ta thì sắp chết đến nơi. Nhưng ta muốn đánh lại mà không địch nổi. Thù này đành chờ mai kia nhờ người giỏi hơn trả hộ vậy!”
Thừa Chí thấy các môn đồ nhà họ Mạnh đang khiêng Mạnh Tranh sắp chết vào nhà trong, liền gọi:
– Hãy khoan đã!
Mạnh Trú cả giận nói:
– Anh ta sắp chết đến nơi, ngươi còn muốn làm gì nữa?
Thừa Chí nói:
– Xưa nay sư huynh tôi rất ngưỡng mộ oai danh của Mạnh lão gia tử, muốn kết bạn còn chưa được, khi nào lại dang tay đánh chết Mạnh đại ca cơ chớ? Tuy cái đánh của sư huynh tôi hơi mạnh thật, nhưng tánh mạnh của Mạnh đại ca không sao đâu, các hạ khỏi lo.
Mọi người thấy Mạnh Tranh bị thương nặng sắp chết đến nơi, đều cho lời nói của Thừa Chí là giả dối lừa bịp.
Thừa Chí nói tiếp:
– Sư huynh tôi không định tâm đánh Mạnh đại ca, nên chỉ cần cho Mạnh đại ca uống một thang thuốc, điều dưỡng một thời gian là lành mạnh ngay.
Nói xong, chàng móc túi lấy hộp Băng Thiềm ra, lấy một con bóp nát, bỏ vào bát hòa với rượu, rồi cho Mạnh Tranh uống. Một lát sau, quả nhiên mặt Mạnh Tranh đang nhợt nhạt biến thành hồng hào dần, và đã rên rỉ biết kêu đau đớn rồi. Mạnh Bá Phi mừng quá, quỳ xuống vái lạy Thừa Chí và nói:
– Viên tướng công, Viên minh chủ thật là ân nhân cứu mạng con tôi.
Thừa Chí vội đỡ Mạnh Bá Phi dậy và khiêm tốn khước tạ. Mạnh Trú liền sai người đỡ anh mình vào trong phòng nghỉ ngơi, và bày biện lại bàn ghế, dọn qua cỗ khác ra, mời mọi người tiếp tục vào bàn ăn uống. Quy nhị nương nói với Mạnh Bá Phi rằng:
– Chúng tôi thật lỗ mãng quá, xin Mạnh lão gia tử thứ lỗi cho.
Mạnh Bá Phi ha hả cả cười nói:
– Con cái sắp chết đến nơi, ai chẳng sợ hãi cơ chớ? Điều đó không thể trách cứ huynh tẩu được.
Trong lúc mọi người đang chén tạc chén thù, Mạnh Bá Phi vẫn chưa yên trí, vào nhà trong thăm con xem sao? Thấy Mạnh Tranh ngủ yên, hô hấp điều hòa, như người không có bị thương gì cả, mới yên tâm trở ra tiếp khách. Uống tới lúc ngà ngà say, Mạnh Bá Phi gọi người lấy bát to ra, rót đầy hai bát, bưng đến trước mặt Thừa Chí, dõng dạc nói:
– Viên minh chủ, tôi thấy đại hội Thái Sơn các anh hùng hào kiệt bầu Tướng công làm Minh chủ, tôi không phục tí nào. Tới giờ phút này, thấy hành vi của Tướng công vừa rồi, tôi không những cảm kích mà còn phục sát đất là khác. Bây giờ, Minh chủ cho phép tôi được mời một bát rượu này.
Thấy chủ nhân thành kính quá, Thừa Chí đành phải đỡ lấy bát rượu, một hơi uống cạn. Mọi người đều vỗ tay khen ngợi. Mạnh Bá Phi giơ ngón tay cái lên, rồi nói:
– Viên minh chủ sau này có điều gì sai bảo, muốn tiền, nhiều thì không có, nhưng muốn cần vài mươi vạn lạng một lúc, xin có ngay tức thì. Minh chủ muốn cần người giúp, ngoài ba cha con tôi, ra sống vào chết cũng vui lòng, tôi còn có thể mời thêm năm, ba trăm vị anh hùng hảo hán tới giúp sức ngay.
Thấy Mạnh Bá Phi hào phóng như vậy, Thừa Chí lại nghĩ, một trận phong ba bão táp mà hòa giải một cách thuận lợi trong giây lát thế này, hơn nữa mối hiềm thù giữa mình với sư huynh, sư tẩu cũng tiêu tan hết, nên trong lòng cũng khoan khoái vô cùng.
Bữa tiệc đó, ai nấy đều say mèm mới giải tán.
Đổng tiêu đầu Tiêu cục Vinh Thắng không biết trốn núp vào đâu mất hút.
ở lại Mạnh gia trang chơi vài ngày, mấy lần Thừa Chí xin cáo từ để lên đường đều bị Mạnh Bá Phi giữ lại. Cho tới ngày thứ bảy, Mạnh Bá Phi biết không thể nào giữ bọn Thừa Chí ở lại nữa, mới sửa soạn một mâm cỗ thật thịnh soạn để tiễn hành sư huynh đệ Thừa Chí. Trong lúc đang ăn uống, Trình Thanh Trúc lên tiếng nói:
– Mạnh lão ca, đệ thiết tưởng tên Đổng tiêu đầu không tử tế gì đâu. Lần này y mất số thuốc viên quý báu ấy, đổ lỗi cho Quy nhị ca, nhưng y biết không sao chiếm nỗi. Chỉ sợ lúc ấy y đổ hết tội lỗi vào đầu đại ca. Nên đệ mong đại ca phải đề phòng tên tiểu nhân đó.
Mạnh Bá Phi nói:
– Nếu tên tiểu nhân ấy trêu ngươi tôi, tôi sẽ không nể nang y đâu.
Quy nhị nương nói:
– Việc này do vợ chồng chúng tôi tạo nên cả. Sau này, quả thật y tới làm phiền, xin đại ca thể nào cũng phải cho chúng tôi hay tin.
Mạnh Bá Phi trả lời:
– Vâng, nhưng tôi không sợ hãi tên đó.
Sa Thiên Quảng nói:
– Đệ chỉ ngại tên ấy liên kết với quan phủ thì rầy rà lắm đấy.
Mạnh Bá Phi ha hả cười nói:
– Nếu tới lúc đó, không thể sống được ở đây nữa, thì tôi cũng bắt chước chú em, chiếm lấy một hòn núi lên làm đại vương cũng được chớ sao?
Vợ chồng Quy Tân Thụ ẵm con cùng đồ đệ hớn hở trở về phía Nam. Còn Viên Thừa Chí, Thanh Thanh, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, chàng Câm, Hồng Thắng Hải các người áp tải hòm sắt, tiếp tục đi về phía Bắc.
Hôm đó, đi tới cao bãi điếm, trời sắp tối rồi vì hành lý quá nặng nề, mọi người liền vào trọ khách sạn Yến Triệu Cư. Mọi người đang yên giấc, bỗng nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào, tiếng xe cộ dồn dập, khiến chó sủa gà bay ầm ĩ cả lên. Mọi người lấy làm lạ, lại nghe tiếng nói ồn ào, hình như có một bọn người ùa vào khách sạn, họ nói những tiếng gì không sao nghe hiểu. Thừa Chí chạy ra cửa phòng xem, thấy mấy chục tên lính ngoại quốc, hoặc ngồi, hoặc đứng, tên nào cũng cầm một khẩu súng trường, nói chuyện lúi la lúi lố.
Chưa hề trông thấy thứ người đó mắt xanh mũi lõ bao giờ, Thừa Chí cũng phải kinh dị. Thấy một ngưòi quát tháo, bắt buộc chủ phòng dọn cho chúng mười mấy căn phòng để nghỉ ngơi.
Chủ khách sạn nói:
– Xin lỗi đại nhân, các phòng của khách sạn chúng tôi đã có khách ở cả.
Không nói nếp tẻ gì cả, người nọ đánh luôn chủ khách sạn một cái bạt tai. Chủ khách sạn ôm mặt, vừa đau, vừa nói:
– Sao ông…
Người nọ lại quát lớn:
– Ngươi không xếp dọn cho mười mấy căn phòng, ta sẽ phóng hỏa đốt cháy khách điếm này ngay.
Bất đắc dĩ chủ khách sạn phải van lạy Hồng Thắng Hải xin để lại hai căn phòng cho họ.
Sa Thiên Quảng nói:
– Người đó là ai thế? Sao y lại hống hách như vậy?
Chủ khách sạn vội nói:
– Xin quý ông đừng có trêu những người ăn cơm Tây ấy vào. Miễn lòng y là lụy tới thân ngay đấy.
Sa Thiên Quảng ngạc nhiên hỏi:
– Y ăn cơm Tây gì thế? Tại sao ăn cơm Tây lại oai phong hơn người?
Chủ khách sạn khẽ nói:
– Đó là lính ngoại quốc ở nước ngoài vận tải Hồng y đại pháo đại bác lên Bắc Kinh. Còn người biết nói ngoại ngữ kia là vị thông ngôn.
Lúc này Thừa Chí mới hiểu rõ, người vừa tác oai tác phúc kia là ỷ lại thế lực của lính ngoại quốc. Sa Thiên Quảng giương quạt ra, lớn tiếng nói:
– Để tôi đi cho tên nọ bài học.
Thừa Chí kéo tay y lại, và nói:
– Hãy khoan đã!
Chàng gọi mọi người vào trong phòng rồi nói:
– Năm xưa, tiên phụ trấn thủ Liêu Đăng, đại thắng một trận ở Ninh Viễn, đắc lực ở Hồng y đại pháo này nhiều lắm. Thái Tổ Mãn Thanh cũng bị đại pháo này bắn chết. Hiện giờ giặc Mãn Thanh đang quấy nhiễu biên giới, những lính ngoại quốc này chuyển vận đại pháo đi trợ chiến, chúng ta hãy để yên cho chúng.
Sa Thiên Quảng nói:
– Chẳng lẽ chúng ta chịu để yên tên thông viên nọ tác oai tác phúc như thế hay sao?
Thừa Chí đáp:
– Chấp nhứt những quân đê hèn ấy làm gì?
Thấy chàng nói như vậy, mọi người đều phải tuân theo, thu gọn lại nhường cho chúng hai căn phòng.
Tên thông ngôn nọ họ Tiền, tên là Thông Tử, thấy có hai căn phòng rồi tuy mồm vẫn lẩm bẩm mắng chửi, nhưng y không bắt chủ phòng lấy thêm phòng nữa. Đi ra ngoài một lúc, y dẫn hai quan binh ngoại quốc vào. Hay quan binh đó, một người ngoài bốn mươi tuổi, một người nữa chỉ trên hai mươi thôi, cả hai tướng mạo đều anh tuấn cả. Hai người líu lo líu lố nói chuyện với nhau một lúc, rồi người lớn tuổi ra ngoài đưa một mỹ nhân Tây phương vào. Người đàn bà này trạc độ hai mươi, tóc đen, da trắng như tuyết, trên đầu, trên tai đeo đầy châu báu, dưới ánh đèn lập lòe chóa mắt.
Xưa nay chưa hề trông thấy đàn bà ngoại quốc bao giờ, Thừa Chí ngắm nhìn hơi kỹ một chút. Thanh Thanh có vẻ không vui rỉ tai nói:
– Đại ca, anh xem người đàn bà đó có đẹp không?
Thừa Chí đáp:
– Không ngờ đàn bà ngoại quốc lại khéo biết trang điểm đến thế nhỉ?
Thanh Thanh chỉ trả lời bằng giọng “hừ” một tiếng, rồi không nói nữa.
Sáng sớm ngày hôm sau, mọi người đang ăn mì ở đại sảnh. Hai người quan binh ngoại quốc và người đàn bà kia cũng ngồi ăn ở đó. Tên Thông ngôn Tiền Thông Tử cứ lui tới bàn của mấy người ngoại quốc nọ nịnh hót, chắp tay khom lưng, trông rất khả ố.
Nhưng khi y quay lại nói với phổ ky thì quát tháo luôn mồm, đòi lấy cái này, ăn thứ kia, hơi khác ý một chút là giơ tay bạt nhĩ tên phổ ky ngay. Không chịu được những hành vị khả ố bần tiện ấy, Trình Thanh Trúc quay lại nói với Sa Thiên Quảng rằng:
– Sa huynh, hãy coi vài trò chơi của đệ.
Nói xong, y không cần quay trở lại, chỉ thuận tay ném về phía sau một cái, đôi đũa đang cầm trong tay bay thẳng vào mồm Tiền Thông Tử đến “bốp” một cái. Tên thông ngôn bị gẫy hai cái răng cửa đau đớn vô cùng. Trò chơi của Trình Thanh Trúc là tuyệt kỹ “Thanh Trúc tiêu” của y. Ám khí của y đều là những que tre nhỏ, trong hai mươi bước, ném yếu huyệt đối phương, bách phát bách trúng. Vì nghe lời dặn bảo của Thừa Chí, y chỉ khẽ cảnh cáo thôi. Nếu y định hại tên nọ, chỉ giơ cao tay một chút là đôi mắt kẻ địch đã bị thủng rồi.
Đau quá, Tiền Thông Tử kêu la om sòm. Hai tên quan binh kia gọi y tới hỏi tại sao? Y trả lời là không biết đôi đũa ở đâu bay tới, cắm đúng mồm và gẫy luôn hai cái răng cửa. Người đàn bà ôm bụng cười khúc khích.
Tên quan binh lớn tuổi đưa mắt nhìn các người bên bàn Thừa Chí vài lần, bụng nghĩ: “Có lẽ bọn người này tác quái cũng nên!”
Nghĩ đoạn, y tung hai ly rượu lên, rồi giơ súng lục bắn luôn một phát, hai cái ly vỡ tan tành.
Nghe tiếng nổ, bọn Thừa Chí đều giựt mình và nghĩ: “Khí giới mới này lợi hại thật, và tên nọ bắn cũng giỏi đấy!”
Tên quan binh lớn tuổi tỏ vẻ đắc chí, lấy đạn khác nạp vào cổ súng xong, quay lại nói với người trẻ tuổi kia rằng:
– Bĩ Đắc, anh thử bắn xem!
Bĩ Đắc nói:
– Tôi bắn giỏi sao bằng ngài, đệ nhất thần thương thử nước Bồ Đào Nha cơ chớ?
Người đàn bà tủm tỉm cười nói:
– Sao, Lô Mông là tay bắn súng giỏi nhất nước đấy à?
Bĩ Đắc đáp:
– Ông ta không những giỏi nhất nước Bồ Đào Nha. Nếu ông ta không phải là thiện xạ nhất thế giới thì cũng là Âu Châu chớ không ai có thể bắn giỏi bằng ông ta được.
Lô Mông cười nói:
– Đệ nhất Âu Châu chả là đệ nhất thế giới là gì?
Bĩ Đắc nói:
– Người Đông phương rất thần bí. Họ có rất nhiều bản lãnh lợi hại hơn người Âu Châu, cho nên tôi không dám nói ra. Cô Nhược Khắc Lâm, có phải thế không?
Nhược Khắc Lâm nói:
– Anh nói rất đúng.
Lô Mông thấy Nhược Khắc Lâm có vẻ yêu mến Bĩ Đắc, trong lòng hơi ghen liền nói:
– Người Đông phương có cái gì thần bí nào?
Nói xong, y lại bắn liền hai phát súng. Lần này y lấy chiếc khăn buộc trên đầu Thanh Thanh làm mục tiêu, sau tiếng nổ, khăn của Thanh Thanh rơi xuống đất và lộ ngay ra đầu tóc đàn bà. Các người ngồi bàn trên này đều giật mình hoảng sợ. Lô Mông và các binh lính ngoại quốc ngồi các bàn khác đều cười ồ.
Thanh Thanh tức giận và cùng “soẹt” một tiếng, rút luôn trường kiếm ở trong bao ra. Thừa Chí vội cản lại rằng:
– Chớ có dụng võ.
Chàng vừa nói vừa nghĩ: “Đối phương có hỏa khí lợi hại như vậy, nếu ta dụng võ, hai bên đều tổn hại, chết chóc rất nhiều. Những lính ngoại quốc này lên biên giới dạy lính Minh dùng đại bác đánh quân Mãn Thanh, nay ta giết chúng, gián tiếp có hại cho đất nước, nên nhịn thì hơn.”
– Chú Thanh, hãy tha cho chúng.
Thanh Thanh vẫn trợn mắt nhìn ba người ngoại quốc nọ với vẻ hậm hực bất bình.
Nhược Khắc Lâm cười nói:
– Không ngờ y lại một cô nương, thảo nào mặt y đẹp đẽ đến thế.
Lô Mông cười nói:
– Giỏi thật, ra cô vẫn để ý tới các chàng trai trẻ của họ có đẹp hay không đấy!
Bỉ Đắc nói:
– Nàng còn biết sử dụng kiếm nữa. Hình như nàng còn muốn đến đánh nhau với chúng ta đấy!
Lô Mông nói:
– Nếu nàng tới khiêu chiến thì ai đối địch? Bỉ Đắc, tôi với anh, ai là người giỏi kiếm hơn?
Bỉ Đắc nói:
– Tôi rất mong không bao giờ có ai nói tới chuyện này.
Lô Mông hỏi:
– Tại sao vậy?
Nhược Khắc Lâm nói:
– này, hai anh đừng vì vấn đề nhỏ mọn ấy mà cãi lộn nhau.
Nói tới đây, nàng bưng miệng cười rồi nói tiếp:
– Người phương Đông thần bí lắm. Tôi chỉ sợ cả hai anh không ai có thể địch nổi cô bé đẹp đẽ kia đâu.
Lô Mông liền cất tiếng gọi:
– Tiền Thông Tử, anh lại đây!
Tiền Thông Tử hấp tấp chạy tới, khúm núm hỏi:
– Thưa đại tá, ngài muốn sai bảo việc gì thế ạ?
Lô Mong nói:
– Anh ra hỏi cô kia, xem có phải là cô ta muốn một cái hôn không? Đi hỏi mau lên.
Tiền Thông Tử vâng vâng dạ dạ. Lô Mông lấy mười mấy đồng tiền vàng vứt lên trên bàn Tiền Thông Tử khệnh khạng đi sang bên bàn Thừa Chí, y cứ theo đúng lời nói của Lô Mông nhắc lại cho Thanh Thanh nghe. Vừa nói tới câu cuối cùng “Một cái hôn”, y bị Thanh Thanh tát luôn cho một cái nên thân. Tên nọ bị đánh gẫy bốn cái răng, và một bên má sưng húp lên. Lô Mông kha khà cả cười rồi nói:
– Con bé kia cũng có đôi chút hơi sức đấy!
Nói xong, y rút luôn kiếm ra, quất lên trên không hai cái, tiếng kêu “vù, vù”, rồi y đi ra giữa nhà, cất tiếng gọi:
– Lại đây, lại đây.
Thanh Thanh không hiểu y nói gì, nhưng xem thái độ nàng cũng đoán ra y muốn gọi đấu kiếm. Cũng rút kiếm ra, nàng thong thả tiến tới. Thừa Chí nghĩ thầm: “Tên nọ vô lễ như vậy, để nàng cho y một bài học cũng hay. Nhưng phải dặn nàng đừng đánh y bị thương mới được…”
Nghĩ đoạn, chàng liền lớn tiếng gọi:
– Chú Thanh, chú lại đây!
Thanh Thanh hiểu lầm, tưởng Thừa Chí muốn cản trở, liền nói rằng:
– Em không lại đằng ấy đâu!
Thừa Chí nói:
– Lại đây, anh bảo cách chiến thắng y.
Sự thật, Thanh Thanh không hiểu kiếm pháp của viên sĩ quan ngoại quốc kia ra sao, đang phân vân, thấy Thừa Chí nói như vậy, mừng quá, vội chạy ngay lại, Thừa Chí nói:
– Tôi tuy chưa biết kiếm pháp của y ra sao. Nhưng vừa trông thấy y bổ xuống mấy cái, thủ pháp rất linh mẫn và nội lực khá mạnh, thì tôi nhận ngay ra kiếm pháp rất lợi hại, lại thêm dẻo dai, vậy chú phải đề phòng y, coi chừng đừng để cho y vụt chéo.
Thanh Thanh nói:
– Nếu vậy em có thể nghĩ cách làm cho thanh kiếm của bay đi…
Thừa Chí mừng nói:
– Phải đấy, cứ theo lối ấy mà đánh nhưng chú đừng có đánh y bị thương nhé!
Thấy hai người cứ trò chuyện với nhau mãi, Lô Mông nóng ruột, lên tiếng gọi:
– Lại đây đấu kiếm mau!
Thanh Thanh quay trở lại, đột nhiên nhảy tới đâm luôn một kiếm vào vai đối phương. Lô Mông không ngờ nàng ra tay nhanh chóng đến thế. Cũng may, y là hảo thủ nước Bồ Đào Nha, lại được thêm danh sư Pháp và ý chỉ một thời gian khá lâu nên trong lúc nguy cấp này, y còn nằm lăn xuống để tránh khỏi mũi kiếm của địch được. Đồng thời y còn giơ kiếm ra đỡ kiếm của Thanh Thanh, chỉ nghe “keng” một tiếng, tóe lửa ra. Y đứng ngay dậy, nhưng đã hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh. Nhược Khắc Lâm đứng cạnh vỗ tay khen ngợi. Lúc y với Thanh Thanh mới bắt đầu đấu. Cả hai càng đánh càng hăng hái. Đứng cạnh xem, Thừa Chí để ý kiếm pháp của Lô Mông, thấy kiếm thuật của đối phương quả thật nhanh nhẹn và lợi hại vô cùng.
Trong lúc đang đấu kịch liệt, Thanh Thanh bỗng thay đổi kiếm pháp, toàn sử dụng những miếng hư, cứ mũi kiếm sắp điểm tới là thu ngay lại. Thế kiếm đó là “Lôi Trấn kiếm pháp” của phái Thạch Lương. Tất cả có ba mươi sáu miếng, miếng hư là chớp nhoáng trước khi lôi trấn, khiến cho kẻ địch tối tăm mặt mũi, rồi tiếp theo đó mới tấn công mạnh như sấm sét vậy. Kiếm pháp của Lô Mông tuy cao minh, nhưng y chưa hề thấy ai đánh thế kiếm của Thanh Thanh bao giờ. Y cứ cảm thấy hình như miếng kiếm nào của đối phương cũng đâm thẳng vào những chỗ nguy hiểm của mình, khi y giơ kiếm lên đỡ thì kẻ địch lạ thâu kiếm lại ngay. Trong kiếm thuật của Tây phương cũng có đánh những miếng hư như vậy, nhưng nhiều nhất cũng chỉ đánh đôi ba miếng để nhử thôi, chớ không hề có đánh như liền mấy chục miếng như thế này bao giờ. Y đang định lên tiếng mỉa mai thì Thanh Thanh đột nhiên bổ mạnh xuống một kiếm, Lô Mông vội giơ kiếm lên đỡ, khẩu tay tê tái, nắm không vững để thanh kiếm bay đi.
Thừa thế, Thanh Thanh tiến lên một bước, dí mũi kiếm vào ngực Lô Mông. Sa Thiên Quảng nhảy lên bắt thanh kiếm của Lô Mông rồi bẻ gãy làm đôi, vứt xuống dưới đất.
Ha hả cả cười, Thanh Thanh thâu kiếm trở về chỗ ngồi xuống. Lô Mông xấu hổ vô cùng, bụng nghĩ: “Mình là kiếm thủ nhất nhì Âu Châu, không ngờ tới đất Trung Quốc lại bị một thiếu nữ đánh bại!”
Tủm tỉm cười, Nhược Khắc Lâm cầm số tiền vàng, đem đến trao cho Thanh Thanh. Thấy Thanh Thanh xua tay không nhận, nàng vừa cười vừa nói:
– Cô cứ nhận lấy đi.
Trình Thanh Trúc đành phải giơ tay ra nhận hộ, rồi để số tiền vàng đó thành một cọc, đặt ngang giữa hai bàn tay, dùng sức bóp mạnh một lát lâu, lại trao trả cho nàng Âu Tây nọ. Cầm lấy cọc tiền vàng, Nhược Khắc Lâm định đưa thẳng cho Thanh Thanh nhưng khi nhìn rõ cọc tiền vàng, giựt mình hoảng sợ vì những đồng tiền đó đã dính chặt vói nhau như một thoi vàng vậy. Nàng dùng sức định tách ra từng đồng tiền một nhưng không sao tách ra nổi, hai mắt trợn tròn, mồm lẩm bẩm nói:
– Người Đông phương thần bí thật. Thần bí thật!
Nàng liền đưa thoi vàng cho Lô Mông và Bỉ Đắc xem. Lô Mông nói:
– Những người này có ma thuật chắc.
Bỉ Đắc nói:
– Đừng dây dưa với chúng nữa, chúng ta tránh xa nơi khác đi!
Hai người vội truyền lịnh cho bộ hạ sửa soạn lên đường. Vài phút sau, ngoài cửa tiếng xe di chuyển kêu “ầm ầm” như tiếng sấm, lôi kéo đại bác đi. Lô Mông và Bỉ Đắc đều đứng dậy, đi ra ngoài cửa khách điếm. Đi qua mặt Thanh Thanh, Nhược Khắc Lâm đưa mắt nhìn và tủm tỉm cười. Khi nàng đi khỏi, mùi thơm nước hoa vẫn còn ngạt cả đại sảnh.
Thiết La Hán nói:
– Hình dáng của Hồng y đại bác như thế nào, đệ chưa hề thấy qua.
Hồ Quế Nam nói:
– Đệ cũng vậy, chúng ta ra coi đi!
Sa Thiên Quảng cười nói:
– Hồ huynh, nếu huynh có tài “xoáy” được một khẩu Hồng y đại bác về đây thì đệ chịu phục vô cùng.
Hồ Quế Nam cười đáp:
– Quả thật đệ chưa hề ăn trộm đại bác bao giờ. Vậy chúng ta đánh cuộc một phen chơi nào?
Sa Thiên Quảng cười nói:
– Đại bác đó dùng để đánh quân lính Mãn Châu, không nên lấy trộm. Bằng không, tôi xin đánh cuộc với huynh ngay.
Vừa cười vừa nói, mọi người ra khỏi khách điếm, không bao lâu đã đuổi kịp đội quân áp tải đại bác rồi. Họ thấy tất cả mười khẩu đại bác, khẩu nào cũng to đồ sộ, phải dùng tám con ngựa mới lôi kéo nổi và phía sau lại còn thêm phụ dịch đẩy nữa. Xe chở đại bác đi qua, trên mặt đường lõm móng hai cái rảnh khá sâu, như đường sắt xe lửa vậy.
Thừa Chí cười nói:
– Bây giờ nước ta có mười vị đại tướng quân này trấn thủ ải Sơn Hải, thì quân lính Mãn Châu dù có hung tợn đến đâu cũng không dám tấn công quân ta nữa.
Mọi người đã phóng được hơn hai mươi dặm đường bỗng nghe thấy phía đằng trước có tiếng chuông ngựa kêu “loong coong” rồi có mười mấy người cỡi ngựa phi tới.
Khi tới gần mọi người mới trông thấy những người kia vai đeo cung tên và sau yên ngựa treo lủng lẳng những thỏ, sóc, cầy hương, vân vân, mới hay họ đều là người đi săn. Bọn người đi săn này ăn mặc rất lịch sự. Trong bọn có một thiếu nữ, trông thấy Thừa Chí, các người liền phóng ngựa tới, lên tiếng gọi:
– Sư phụ, sư phụ!
Trình Thanh Trúc cười nói:
– Con cũng theo tới đấy à?
Thì ra thiếu nữ đó là A Chín, đồ đệ của Trình Thanh Trúc. Hôm nay nàng trang điểm rất đẹp, trông lạ hẳn đi, thấy Thừa Chí liền tủm tỉm cười:
– Tướng công cùng đi với sư phục tôi đấy à?
Thừa Chí gật đầu mỉm cười. A Chín lại nói với Sa Thiên Quảng rằng:
– Hà, hà, thật là không đánh nhau không sao trở nên tri kỷ được.
Trình Thanh Trúc giới thiệu Hồ Quế Nam và Thiết La Hán xong, liền hỏi:
– Con định đi đâu thế?
A Chín đáp:
– Chúng con đi săn bắn. Sư phụ xem chúng con đi có xa không?
Trình Thanh Trúc nói:
– Chúng ta đi lên Bắc Kinh, con đi không?
A Chín đáp:
– Có ạ.
Nói xong, nàng thúc ngựa lên, đi ngang với sư phụ. Thừa Chí và Thanh Thanh thấy A Chín tuy ít tuổi nhưng cử chỉ và lời ăn lẽ nói của nàng rất có mực thước. Đi tới giữa trưa, mọi người mới vào nghỉ chân một quán ăn bên đường. Bọn người hầu của A Chín chia ra ngồi hai bàn. Còn nàng thì ngồi cạnh Trình Thanh Trúc, cùng một bàn với Thừa Chí.
Thoạt tiên, Thừa Chí tưởng nàng là cháu ruột của Trình Thanh Trúc, sau mới hay là đồ đệ. Lúc này, chàng mới nhận thấy A Chín là con gái cưng của một phú hộ, đại gia nào đó. Cho nên đi săn nàng mới đem nhiều tùy tòng đi theo như vậy. Nhưng chàng không hiểu tại sao nàng lại làm được đồ đệ của Trình Thanh Trúc, và gia nhập được bang Thanh Trúc như vậy?
Chiều tối hôm đó, mọi người vào một khách điếm ở Âm Mã Tập nghỉ ngơi. Để ý nghe, Thừa Chí và Thanh Thanh nhận thấy lời nói của bọn tùy tòng A Chín có vẻ quan cách lắm chớ không phải là những người tùy tòng tầm thường, lại càng ngạc nhiên thêm.
Hồi 16
Mọi người đang vui vẻ trò chuyện, Thanh Thanh bỗng hỏi A Chín rằng:
– Cô Chín, hôm nọ chúng ta đang chém giết quân binh sướng tay, bỗng nhiên không thấy cô nữa. Chẳng hay cô đi đâu thế?
A Chín mặt đỏ bừng, ấp úng một lát rồi lảng sang chuyện khác, lên tiếng nói:
– Chị Thanh, nếu chị mặc lại phục sức phục nữ, chắc đẹp lắm đấy!
Thấy nàng nói lảng sang chuyện khác, Thanh Thanh định hỏi cho ra lẽ nhưng thấy Trình Thanh Trúc đưa mắt ra hiệu bảo không nên, nàng mỉm cười nói:
– Đi đường cát bụi phủ đây người như thế này nên tôi không muốn mặc nữ trang là tại thế đấy!
Mọi người thấy trời đã khuya nên ai nấy đều về phòng yên nghỉ.
Thừa Chí sắp ngủ bỗng thấy Trình Thanh Trúc bước vào và khẽ nói:
– Viên tướng công, tôi có một việc này muốn nói để Tướng công hay.
Thừa Chí ngồi nhổm dậy mời Trình Thanh Trúc ngồi, rồi hỏi:
– Có chuyện gì xin huynh cứ nói.
Trình Thanh Trúc liền rỉ tai nói:
– Câu chuyện khá dài, chúng ta ra ngoài kia nói thì hơn!
Biết câu chuyện của Trình Thanh Thanh muốn nói rất bí mật, Thừa Chí vội mặc áo ngoài vào. Rồi hai người cùng đi ra khỏi khách điếm, tiến thẳng lên ngọn đồi nhỏ ở ngoài thị trấn kiếm một tảng đá nhỏ ngồi xuống. Nhìn xung quanh không thấy một bóng người nào, Trình Thanh Trúc liền nói:
– Viên tướng công, đồ đệ của tôi là A Chín có một lai lịch rất đặc biệt. Lúc bái sư, tôi đã nhận lời giữ bí mật cho nàng, không cho ai biết thân thế của nàng. Thừa Chí nói:
– Tôi cũng nhận thấy cô ta không phải là một thiếu nữ tầm thường. Nếu lão huynh đã nhận lời giữ chuyện bí mật của cô ta thì không cần phải nói cho tôi biết nữa.
Trình Thanh Trúc nói:
– Những tùy tòng theo hầu nàng đều là nhân viên trong phủ cho nên tất cả cơ mưu của chúng ta phải giữ kín, đừng để cho bọn họ biết thì hơn.
Thừa Chí kinh hãi nói:
– Những người đó đều là nhân viên trong phủ nha đấy à?
Trình Thanh Trúc gật đầu nói:
– Tôi chắc đồ đệ của tôi không dám phản bội chúng ta đâu. Nhưng y trẻ người non dạ, nhỡ bị bọn kia dò hỏi, buột miệng nói rõ mưu cơ của chúng ta ra thì sao?
Thừa Chí nói:
– Nếu vậy, chúng ta phải đề phòng việc bí mật của chúng ta.
Hai người quyết định xong xuôi, thủng thẳng đi xuống chân đồi trở về khách điếm.
Sắp đi tới khách điếm, Thừa Chí trông thấy một đại hán tay cầm đèn lồng ở phía Đông đi tới, nhanh nhẹn lẻn luôn vào trong khách điếm. Thấy mặt người đó rất quen thuộc, Thừa Chí nghĩ mãi không sao nhớ ra đã gặp y ở đâu. Cho tới khi về phòng ngủ, chàng vẫn cố nghĩ xem người đó là ai? Chàng nghĩ lại đại hội Thái Sơn ở Nam Kinh, ở Từ Châu, Thạch Lương, ở trong quân đội Sấm Vương, vân vân, đều không thấy mặt người đó. Đang lúc nghĩ ngợi, chàng bỗng nghe cửa phòng có tiếng gõ rất khẽ, vội khoác áo xuống giường, ra cạnh cửa hỏi:
– Ai đó?
Thanh Thanh đứng bên ngoài hỏi:
– Anh có ăn gì không?
Thừa Chí thắp đèn lên, Thanh Thanh tay bưng một mâm gỗ trên có hai bát, mỗi bát đựng ba cái trứng gà, chắc nàng vừa ở dưới bếp đi lên.
Thừa Chí cười nói:
– Cảm ơn chú nhé! Sao tới giờ này còn chưa đi ngủ?
Thanh Thanh khẽ nói:
– Em thấy cô A Chín kỳ lạ lắm nên không sao ngủ được. Chắc anh cũng đang nghĩ tới nàng nên không ngủ được phải không?
Nói xong, nàng tủm tỉm cười, Thừa Chí cười nói:
– Tôi nghĩ đến cô ta làm gì?
Thanh Thanh cười nói:
– Nghĩ về cái vẻ đẹp của nàng ấy! Anh bảo nàng có đẹp không?
Biết tánh Thanh Thanh hay ghen, Thừa Chí sợ nói A Chín đẹp thì nàng không vui, mà bảo A Chín không đẹp thì không đúng sự thật, nên không dám trả lời, cầm cái thìa múc trứng lên ăn, đột nhiên, chàng ném luôn cái thìa ra bên ngoài, và la lớn:
– Chính y, đúng rồi!
Thanh Thanh giựt mình, ngơ ngác hỏi:
– Anh nói gì thế? Có phải quả trứng bị hư hỏng không?
Thừa Chí cười nói:
– Không phải, đó là anh chợt nhớ ra cái người vừa rồi là ai, mau đi theo anh đi Thanh thanh ngạc nhiên hỏi:
– Đi đâu thế?
Thừa Chí lấy thanh kiếm của Hồng Thắng Hải đưa cho nàng. Lúc này nàng mới hiểu Thừa Chí gọi mình đi ra ngoài đánh giặc.
Thì ra trong khi Thừa Chí đang cắn quả trứng, liền nghĩ tới hồi nhỏ ở trọ nhà An đại nương, có người tới bắt cóc Tiểu Tuệ, chàng đã hăng hái phản kháng, đánh đến khi bị thương. May An đại nương vừa về kịp, dùng ba quả trứng gà ném vào mặt Hồ Lão Tam, mới đuổi được tên giặc ấy đi. Tới đây chàng mới hay người đó lẻn vào khách điếm hồi nãy là Hồ Lão Tam. Nhưng không hiểu y tới khách điếm lén lút như thế làm gì? Muốn biết rõ sự thể, Thừa Chí mới rủ Thanh Thanh đi tìm tên gian tặc nọ. Hai người rón rén đến từng căn phòng một lắng tai nghe trộm. Tới một căn phòng lớn, hai người nghe thấy trong phòng có tiếng nói của bảy, tám người. Họ đều dùng tiếng lóng giang hồ trò chuyện với nhau.
Một người nói:
– Chúng ta đi khỏi đây sao được? Nếu có việc gì xảy ra thì sao? Liệu chúng ta còn tánh mạnh hay không?
Một người khác nói:
– Việc đằng An đại nhân cũng quan trọng lắm. Bây giờ sai người lên Bắc Kinh điều động được người xuống đây, thì chúng đã lẻn trốn mất rồi, kịp sao được chớ? Như vậy, bỏ lỡ kỳ công này có đáng tiếc không?
Mọi người trầm ngâm giây lát, một người nói giọng khàn khàn lên tiếng:
– Hay là thế này vậy? Bây giờ chúng ta chia ra làm hai bọn, một bọn đến đằng kia để An đại nhân điều phái, một bọn thì ở lại đây, bất cứ bên nào lập được công, chúng ta cũng chia đều ra cùng hưởng.
Người lên tiếng trước tiên vỗ bàn lớn tiếng nói:
– Phải đấy, chúng ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Nếu có chuyện gì không may xảy ra thì chúng ta cũng phải cán đáng cả.
Lại một người nữa nói:
– Bây giờ chúng ta rút thăm xem ai phải đi hay ở. Như vậy mới công bằng và không ai dám oán than nữa.
Mọi người vỗ tay phụ họa. Thừa Chí nghĩ thầm: “Ở đây có việc gì quan trọng đến nỗi mà chúng phải chia một nửa người ở lại thế này? Và còn An đại nhân nào với kỳ công gì thế nhỉ?”
Một lát sau, Thừa Chí và Thanh Thanh lại nghe thấy khí giới va chạm rất khẽ, chắc là chúng đã rút thăm xong rồi. Thừa Chí rỉ tai Thanh Thanh khẽ nói:
– Chú ra bảo Sa Thiên Quảng và mọi người chuẩn bị sẵn sàng. Để tôi theo dõi chúng xem sao.
Thanh Thanh gật đầu, rồi khẽ nói:
– Anh phải cẩn thận một tí nhé!
Lúc ấy cửa phòng vừa mở, nhờ có ánh sáng đèn, Thừa Chí trông thấy người đi đầu bước ra là Hồ Lão Tam, tám người theo sau tay đều cầm khí giới, nhìn kỹ lưỡng mới hay chúng toàn là tùy tòng của A Chín. Chúng hết thảy đều vượt ra đi, sau đó cửa phòng lại khép lại như trước.
Thanh Thanh khẽ nói:
– Ồ, ra là bọn chúng. Em biết trước con nhỏ không phải là người tử tế mà?
Thừa Chí cũng lấy làm kỳ lạ, nghĩ thầm: “Vấn đề này sẽ kết luận sau, ta hãy đi theo chúng xem rõ sự thể ra sao đã.”
Nghĩ đoạn, chàng giở khinh công ra vượt tường, lẳng lặng đuổi theo chín người kia.
Nhờ bản lãnh khinh thân đã tới chỗ tột mức, Thừa Chí đi theo bọn chín người không ai hay biết tí nào. Ra khỏi thị trấn, chín người kia đi hơn dặm đường nữa. Tới một căn nhà thật lớn, Hồ Lão Tam gọi cửa, rồi dẫn tám người nọ vào bên trong. Vòng ra phía sau nhà, Thừa Chí vượt tường vào trong, lần mò tới một căn phòng có ánh sáng đèn lóe ra ngoài cửa sổ, liền nhảy lên trên nóc nhà, khẽ lật một viên ngói ra xa, thấy dưới phòng có một đại hán ngót năm mươi tuổi ngồi chính giữa, thân hình vạm vỡ. Hồ Lão Tam và tám người tùy tòng của A Chín lần lượt bước vào, vái chào đại hán nọ. Hình như người nọ là quan trên của chúng vậy.
Hồ Lão Tam nói:
– Tiểu nhân gặp Vương chỉ huy phó ở trong thị trấn, mới hay các người vừa mới tới nơi, cho nên tiểu nhân mời mấy vị tới đây trợ giúp.
Người đó nói:
– Hay lắm, hay lắm! Vương chỉ huy phó nói sao?
Một người đáp:
– Vương chỉ huy phó nói, An đại nhân có việc cần sai muốn bảo tôi, thì anh em phải đi ngay lập tức!
Nghe thấy Hồ Lão Tam gọi người nọ là An đại nhân. Thừa Chí rùng mình liền nghĩ: “Thế ra là một viên võ quan khá cao cấp đấy! Không biết đêm khuya thế này, y còn có mưu đồ gì đây?”
Sau đó, chàng lại nghe An đại nhân nọ nói:
– Nếu lần này thành công, công lao này của chúng ta lớn lắm. Hà, hà…!
Lại một người nói:
– Chúng con đều đội ơn An đại nhân nâng đỡ cho.
An đại nhân nói:
– Anh em ta đừng có phân biệt Nội đình thị vệ và Cẩm y vệ gì cả, chúng ta đều phải tận lực và trung thành với Hoàng thượng!
Mọi người đồng thanh nói:
– An đại nhân dạy rất phải. Chúng con lúc nào cũng chờ đợi Đại nhân sai bảo. An đại nhân nói:
– Tốt lắm. Nào đi thôi!
Càng ngạc nhiên thêm, Thừa Chí nghĩ thầm: “Thì ra hai bọn này lại là Nội đình Thị vệ và Cẩm y vệ đây. Nghe nói, Cẩm y vệ hãm hại dân chúng luôn luôn, hễ ai bịbắt, là bị chúng chặt chân lột da ngay, tàn nhẫn vô cùng. Hôm nay không biết chúng lại đi đâu hãm hại ai đây. Nay ta đã gặp, không khi nào ta lại chịu để yên cho chúng hoành hành!”
Một lát sau, An đại nhân dẫn bọn chúng đi ra. Phục trên nóc nhà nhìn xuống, Thừa Chí điểm thấy tất cả mười sáu tên như vậy bộ hạ An đại nhân có sáu người thôi. Chờ chúng đi khá xa, Thừa Chí mới nhảy xuống đuổi theo sau.
Càng đi càng tới những nơi hoang vu, bọn An đại nhân đi được bảy, tám dặm đường, có người khẽ nói vài lời, cả bọn liền tản mác ra bốn bên, rồi lẳng lặng tới bao vây một căn nhà nhỏ chơ vơ ở chốn hoang vu này. Thừa Chí cũng bắt chước chúng cúi khom lưng từ từ đi tới gần căn nhà đó. Vì trời tối, bọn họ có người trông thấy hình bóng của chàng nhưng cứ tưởng là người trong bọn, chớ không ai nghi ngờ và để ý tới chàng cả. An đại nhân thấy đã bao vây chặt chẽ rồi, liền ra hiệu cho mọi người nằm phục xuống đất, rồi một mình đến gõ cửa.
Một lát sau, trong nhà có tiếng đàn bà hỏi vọng ra:
– Ai đó?
An đại nhân ngẩn người ra giây lát mới hỏi:
– Bà là ai thế?
Tiếng người đàn bà trả lời:
– Ồ, ra là ông! Đêm khuya thế này, ông tới đây làm gì?
An đại nhân ha hả cười nói:
– Thật là cố nhân dạy không sai, “Bất thị oan gia, bất tụ đầu.” Không ngờ bà lại ở đây, mau mở cửa đi!
Người đàn bà đáp:
– Tôi đã nói không gặp ông nữa, ông còn tới đây kiếm ta làm gì?
An đại nhân vẫn vừa cười vừa nói:
– Bà không muốn gặp tôi cũng không sao nhưng còn tôi rất thương nhớ người vợ của tôi!
Người đàn bà nổi giận nói:
– Ai là vợ của ông? Giữa hai ta tình duyên đã được cắt đứt bằng lưỡi dao sắc rồi. Nếu ông không chịu buông tha cho thì ông cứ việc phóng hỏa đốt cháy căn nhà này và tôi đi. Đành chết chớ tôi không muốn gặp lại con người vô lương tâm, chỉ tham phú quý như ông nữa!
Càng nghe, càng thấy tiếng nói của đàn bà nọ quen thuộc lắm, Thừa Chí lại nhớ và nghĩ ngay ra: “Ồ, phải rồi, bà ta là An đại nương! Nếu vậy, An đại nhân là chồng của bà ta, và là cha của cô An Tiểu Tuệ rồi!”
An đại nhân vẫn cười nói:
– Tôi kiếm bà khắp nơi không thấy, đau khổ biết bao, khi nào tôi lại nỡ thiêu đốt bà chớ? Thôi, mở cửa đi, để chúng ta tụ họp, nối lại tình cũ nghĩa xưa.
Nói xong, An đại nhân dùng chân đá cánh cửa đã mở toang. Nghe tiếng phá cửa, Thừa Chí biết võ công của y rất lợi hại. Trong bóng tối, ánh sáng chớp lên một cái, An đại nương đã múa đao xông thẳng ra.
An đại nhân cười nói:
– Giỏi lắm! Bà có muốn mưu sát thân phu phải không?
Y sợ trong nhà còn có người khác nên không dám xông thẳng vào, cứ tay không đứng bên ngoài chiến đấu với An đại nương. Từ từ bò tới gần, Thừa Chí dương đôi mắt quan sát cuộc đấu tranh.
An đại nhân võ nghệ quả nhiên phi phàm, vừa đánh vừa cười đùa. Thấy vậy, An đại nương càng tức giận, vừa đánh vừa lớn tiếng mắng chửi. Đấu được một hồi lâu, An đại nhân đột nhiên giơ tay xông vào vuốt má An đại nương một cái. Càng tức giận thêm, An đại nương đánh luôn thanh đao vào đầu đối phương. Cốt dụ nàng đánh miếng đó, An đại nhân né mình tiến lên một bước, nắm lấy tay kẻ địch, dùng sức vặn mạnh một cái, thanh đao rơi xuống đất tức thì. Rồi An đại nhân nắm chặt hai tay vợ đưa chân vào kê ngang đầu gối, thế là An đại nương không sao kháng cự được nữa.
Thừa Chí nghĩ: “Nghe giọng nói của tên họ An này, y chưa dám hãm hại Đại nương ngay đâu. Ta hãy dò thám thêm một lát nữa, rồi ra tay cứu giúp cũng chưa muộn.”
Thừa cơ An đại nhân đang đắc chí cả cười, An đại nương đang tức giận chửi mắng tơi bời, chàng len qua góc cửa, vào thẳng bên trong, lần mò tới chân tường, giở khinh công “Bích Hổ Du Tường” leo lên trên trần nhà.
Lúc ấy An đại nhân lớn tiếng gọi:
– Hồ Lão Tam, vào nhà thắp đèn đi.
Hồ Lão Tam móc túi lấy đá lửa ra và cầm đao hộ thân trước khi vào trong nhà, y ném một viên đá vào dò thử trước, thấy không có động tịnh gì mới từ từ bước vào, đi tới cạnh bàn chầm lửa vào ngọn nến để ở đó. An đại nhân đưa mắt ra hiệu, Hồ Lão Tam cởi cuộn dây thừng đeo bên hông ra, đoạn lại trói chặt chân An đại nương. An đại nhân cười nói:
– Em bảo không muốn gặp mặt anh nữa. Vậy bây giờ thì sao? Thử nhìn anh xem, đầu tóc anh đã bạc nhiều lắm rồi phải không?
An đại nương nhắm mắt không trả lời. Nằm trên trần nhà nhìn xuống, Thừa Chí trông thấy mặt An đại nhân rất rõ. Tuy đã qua tuổi trung niên, mặt mũi của y rất còn anh tuấn. Chắc hồi thiếu niên y rất đẹp trai, thật đáng đôi với An đại nương.
Vuốt mặt An đại nương, An đại nhân vừa cười vừa nói:
– Xinh thật! Mười mấy năm không gặp, bộ mặt trái xoan này vẫn trắng trẻo đẹp đẽ như xưa!
Nói tới đây, y quay lại nói với Hồ Lão Tam rằng:
– Đi ra ngoài kia!
Hồ Lão Tam vừa cười vừa lè lưỡi ra. Lúc đi ra còn thuận tay khép cánh cửa lại.
Yên lặng giây phút, An đại nhân thở dài một tiếng rồi nói:
– Con Tiểu Tuệ đâu? Bấy lâu nay, ngày nào anh cũng tưởng nhớ tới nó.
An đại nương vẫn làm thinh như trước. An đại nhân lại nói:
– Vợ chồng ta, hồi xưa trẻ tuổi nóng tánh mới cãi nhau bỏ nhau. Nhưng chúng ta cách biệt nhau mười mấy năm rồi, bây giờ nên hòa hảo thì hay hơn.
Không thấy An đại nương trả lời, y lại nói tiếp:
– Đấy em xem, bấy lâu nay, anh có lấy ai đâu? Và có bao giờ không nhớ em đâu? Chẳng lẽ em không còn một chút tình nghĩa nào nữa hay sao?
An đại nương lớn tiếng quát tháo:
– Ông có biết cha và anh tôi tại sao chết không?
An đại nhân thở dài một tiếng rồi đáp:
– Cha và anh của em bị Cẩm y vệ giết hại thật nhưng em không thể vơ đũa cả nắm mà oán trách tất cả anh em Cẩm y vệ. Bất cứ hạng người nào có xấu nhưng cũng có tốt. Anh làm việc cho nhà vua, tất nhiên phải trung thành với triều đình. Cái đó cũng là việc làm vẻ vang cho tổ tiên…
Y chưa dứt lời, An đại nương đã nhổ ngay nước miếng xuống đất liên tiếp. Một lát sau, An đại nhân lảng sang chuyện khác nói:
– Anh nhớ con Tiểu Tuệ quá, cho người về đón nó. Tại sao em cứ đem nó trốn tránh, nhứt định không cho nói gặp anh?
An đại nương đáp:
– Tôi có nói cho nó hay, người cha tốt của nó đã chết từ lâu rồi! Cha nó rất tài ba, rất có chí khí nhưng chỉ đáng tiếc là chết yểu.
Lời nói của nàng chứa đấy phẫn uất. An đại nhân nói:
– Em hà tất phải lừa dối nó như vậy? Và em hà tất rủa tôi như thế?
An đại nương nói:
– Cha nói xưa kia là một người rất có chí khí. Mặc dầu gia đình phản đối, tôi vẫn lén lút đi theo anh ta. Ngờ đâu…
Tới đây nàng nghẹn ngào không thể nói tiếp được. An đại nhân móc túi lấy khăn tay ra lau nước mắt cho nàng, nhứt thời xúc động, ôm lấy nàng hôn hít. Y bỗng thét lớn một tiếng, nhảy lùi về phía sau, môi rơi giọt máu tươi. Thì ra y đã bị An đại nương cắn cho một cái nên thân.
Núp trên trần nhà trông thấy rõ lắm, Thừa Chí không thể nhịn được phải bịt miệng cười ngầm.
An đại nhân nổi giận hỏi:
– Tại sao em lại cắn anh như thế?
An đại nương trả lời:
– Ông đi giết chết người chồng yêu quý của tôi, sao tôi lại không cắn ông? Tôi còn muốn hạ sát ông mới nguôi cơn giận!
An đại nhân nói:
– Ủa, sao em lại nói thế? Anh không phải là chồng của em hay sao? Tại sao em lại bảo tôi giết hại chồng em?
An đại nương nói:
– Chồng tôi vốn dĩ là một trượng phu khí khái, không hiểu vì sao bỗng dưng bị lợi lộc mê hoặc, bỏ cả vợ con chỉ thích làm quan, muốn phát tài lớn. Người chồng khí khái mà tôi vẫn tin tưởng đã chết rồi, tôi không sao gặp được anh ta nữa.
Thấy nàng nói như vậy, Thừa Chí khen ngợi thầm và chắc An đại nhân thế nào cũng cảm động.
An đại nương lại nói:
– Chồng tôi tên họ là An Kiếm Thanh đã bị An đại nhân giết chết rồi. Quyền sư Sở Đại Đạo là vị sư phụ đã ban ơn rất nặng cho chúng tôi cũng bị An đại nhân tham mê lợi lộc mà hãm hại chết rồi. Cả Sở phu nhân và con gái cũng bị An đại nhân này áp bức đến chết…
Giận quá, An đại nhân quát lớn:
– Im ngay, không được nói nữa!
An đại nương nói:
– Con người lòng lang dạ thú kia, thử tự nghĩ xem nói có đúng không?
An đại nhân nói:
– Phủ nha chỉ đòi Sở Đại Đạo lên hỏi qua loa thôi, ngờ đâu ở công đường ông ta lại múa đao định chém tôi? Còn vợ con ông ta tự tử chết thì việc gì đến tôi?
An đại nương nói:
– Đúng lắm. Ai bảo Sở Đại Đạo mù quáng, lại bảo thu nhận một môn đồ có lương tâm như thế. Trong khi tên môn đồ sắp chết vì đói rét, Sở Đại Đạo lại đem về dạy võ nghệ, nuôi cho thành người, rồi lại lấy vợ cho.
Đại nương càng nói càng hăng. An đại nhân đập mạnh xuống bàn một cái, quát lớn:
– Hôm nay, vợ chồng gặp nhau tại đây, sao em cứ nhắc nhở tới những người đã khuất làm gì?
An đại nương cũng la lớn:
– Tôi cứ thích nhắc đấy, ông muốn giết tôi cứ việc ra tay đi!
Căn cứ lời đàm thoại của hai người, Thừa Chí nhận xét thấy câu chuyện như sau đây: An Kiếm Thành nhờ được Sở Đại Đạo nuôi nấng dạy bảo từ hồi còn thơ ấu. Tới trưởng thành vì tham mê phú quý, An Kiếm Thành đã giết chết cả nhà sư phụ. Thấy hành vi khốn nạn quá, An đại nương liền quyết liệt với chồng. Trước kia, Hồ Lão Tam đến cướp Tiểu Tuệ, sở dĩ An đại nương cứ phải tránh Đông trốn Tây là cố ý lánh xa An Kiếm Thanh, người chồng lòng lang dạ thú. Thừa Chí nghĩ: “Tên này chết cũng đáng lắm rồi. Ta phải cho y một chưởng chết ngay tức thì nhưng không biết An đại nương có còn tình nghĩa vợ chồng với y nữa không?”
Nghĩ đoạn, chàng lại lắng tai nghe xem hai người còn nói chuyện gì nữa. Ngờ đâu, cả hai đều im lặng.
Một lát sau, đằng xa có tiếng vó ngựa đưa tới. An Kiếm Thanh đem cây nến ra đặt ở cạnh cửa sổ, rồi rút thanh đao ra, quát khẽ rằng:
– Nếu có ai tới, hễ em kêu la báo tin, đừng có trách anh độc ác đấy nhé?
An đại nương vẫn làm thinh. An Kiếm Thanh biết tánh nết của vợ không bao giờ chịu khuất phục cả, nên cắt luôn một mảnh màn, nhét vào mồm nàng. Lúc ấy tiếng vó ngựa càng ngày càng tới gần, An Kiếm Thanh đặt An đại nương nằm lên trên giường, buông màn xuống, rồi cầm đao đứng núp sau cánh cửa. Thừa Chí biết y định đánh trộm, mặc dầu chàng không biết người sắp tới kia là ai, nhưng chắc cũng là người tử tế thuộc phe An đại nương. Nghĩ vậy, chàng liền lấy chút cát bụi bám trên trần, hòa với tí nước miếng, vò thành một viên đất nho nhỏ, nhắm trúng ngọn nến ném xuống. Ngọn lửa tắt liền. An Kiếm Thanh lẩm bẩm chửi rủa. Nhân lúc y móc túi lấy đá lửa ra đánh, Thừa Chí nhanh nhẹn nhảy luôn ra ngoài cửa, vòng ra phía đằng trưóc, thấy một tên Cẩm y vệ tay cầm đao, đang nằm phục dưới đất chăm chú nhìn vào bên trong. Từ từ lại gần tên Thị vệ đó, Thừa Chí khẽ nói:
– Có người đã tới đây.
Tên Cẩm y vệ trả lời:
– Phải đấy, anh mau nằm phục xuống đi!
Y vừa nói dứt lời đã bị Thừa Chí điểm vào ngay huyệt câm. Lấy quần áo của y mặc vào, Thừa Chí còn xé một mảnh áo trong bịt mặt, để bọn Cẩm y vệ khỏi biết mình là ai. Xong đâu đấy, chàng ôm tên đó phục xuống đất, rồi từ từ bò tới cạnh cánh cửa.
Trong bóng tối, tiếng vó ngựa càng cần, giây phút sau, năm con ngựa đã phóng tói trước cửa, nhưng có bảy cái bóng người nhảy xuống. Một người tới gần cửa trước, khẽ vỗ tay ba cái, An Kiếm Thanh ở trong nhà cũng vỗ tay ba cái trả lời. Bật lửa châm sáng ngọn nến xong, y lại núp vào phía sau cánh cửa như trước. Vừa nghe tiếng cửa mở thật mạnh, một người vừa ló đầu ra. Y liền giơ đao chém liền, đầu lâu người nọ rớt sang một bên, máu cổ phun ra như vòi nước. Dưới ánh sáng ngọn nến, y nhìn kỹ cái đầu lâu, giựt mình thất kinh. Không ngờ cái đầu lâu đó lại là đầu của mình Cẩm y vệ bộ hạ của mình. Y đang định há mồm kêu la, thì có một bàn tay điểm luôn yếu huyệt của y, thế là y không sao cử động được nữa.
Nhanh tay, Thừa Chí đỡ luôn con dao của y, để khỏi rơi xuống làm náo động những người đứng bên ngoài. An Kiếm Thanh võ nghệ rất cao cường, sở dĩ Thừa Chí điểm được yếu huyệt của y dễ dàng như vậy vì y đang hãi sợ chém nhầm phải người cùng phe, không để ý đề phòng mà nên. Nhảy tới trước giường, Thừa Chí đỡ An đại nương ngồi dậy, giựt đứt dây thừng trói tay chân, rồi khẽ nói:
– Thím An, cháu tới cứu thím đấy!
Vừa mừng vừa sợ, An đại nương thấy chàng ăn mặc quần áo Cẩm y vệ nhưng lại bịt mặt, bán tín bán nghi, thím khẽ hỏi:
– Ngài là ai thế?
Đột nhiên bên ngoài có hai con lông lá xồm xoàm nhảy vào, mồm kêu “khạc khạc”, xông tới cạnh Thừa Chí định vồ. Giựt mình kinh hãi, chàng đang định giơ tay ra đánh bỗng nhận ra hai con đó là đười ươi,bèn nhún vai nhảy ngay lên trần nhà.
Năm người theo sau con thú vừa vào tới bên trong, người đi trước cúi chào An đại nương rồi ngẩn người ra ngạc nhiên vô cùng. Lúc này Thừa Chí đã nhận ra hai con thú nọ là con đười ươi của mình thu phục ở trên đỉnh núi Hoa Sơn, cả mừng kêu gọi:
– Đại Oai! Tiểu Oai!
Hai con thú ở bên ngoài đã ngửi thấy hơi của chủ nó rồi, nên vừa nghe thấy chủ gọi, chúng đều nhảy cả lên trên trần nhà, ôm chặt lấy Thừa Chí, hớn hở vô cùng.
Những người vừa vào trong nhà thấy dưới đất có một vũng máu, một cái xác chết, hai con thú lại tự dưng nhảy ngay lên trên trần nhà, đều ngạc nhiên kinh dị vô cùng.
Những Cẩm y vệ canh gác bên ngoài tưởng kẻ địch nhiều quá, sợ An Kiếm Thanh địch không nổi, đã có hai tên nhảy vào giơ đao định chém năm người vừa mới vào.
Thấy vậy, Thừa Chí liền gọi:
– Đánh!
Đây là khẩu lịnh của chàng thường hay dùng ở trên đỉnh núi Hoa Sơn. Hai con đười ươi đã lâu không được nghe thấy, nay bỗng thấy chủ ra lện, đều kêu la nhảy xuống đầu hai tên Cẩm y vệ. Chúng chỉ bẻ mạnh một cái, “cách, cách” hai tiếng, xương cổ của hai tên nọ đã gãy gục rồi. Kẻ địch ở bên ngoài liên tục tiến vào, Thừa Chí nhảy ngay xuống đất, nắm cổ từng tên địch một vứt ra bên ngoài. Cũng có tên nhảy vào đánh được mấy hiệp mới bị chàng đã đánh mười hai tên Cẩm y vệ và Thị vệ tối tăm mặt mũi, bỏ chạy tán loạn hết.
Thừa Chí lột áo tử thi năm đó ra úp vào đầu An Kiếm Thanh và trói tréo khuỷu tay lại để y khỏi trông thấy một tí gì. Sau đó chàng mới cởi miếng giẻ bịt mặt ra, nhìn người đứng phía trước của bọn năm người kia, cười nói:
– Lý tướng quân vẫn mạnh giỏi đấy chớ? Sấm Vương có tráng kiện không?
Người nọ ngẩn người ra giây phút, rồi cả cười nắm tay Thừa Chí cứ rung động lia lịa.
Thì ra người này là Chế Tướng quân Lý Nham đại tướng thủ hạ của Sấm Vương.
Không ngờ Thừa Chí lại cứu được cố nhân thoát nạn, vui mừng vô cùng, rồi quay lại nói với An đại nương rằng:
– Thím An, thím còn nhận ra cháu không?
Lúc ấy là tháng chín năm Sùng Chính thứ mười sáu, cách hồi Thừa Chí ở nhà An đại nương tỵ nạn đã mười một năm. Từ một thằng bé con, Thừa Chí nay đã trở thành một thiếu niên anh tuấn, thì An đại nương nhận sao được. Thấy nàng ngơ ngác, Thừa Chí vội móc túi lấy ra chiếc vòng vàng nhỏ nàng tặng cho hồi xưa, vừa cười vừa nói:
– Ngày nào cháu cũng mang theo trong người, không bao giờ dám quên ơn thím! An đại nương sực nhớ ra, liền kéo chàng đến ngọn nến, quả nhiên thấy lông mày bên trái của chàng có vết sẹo dao chém, nàng vừa mừng vừa kinh ngạc nói:
– Ồ, cháu đấy à? Cháu chóng lớn thật, và lại học được võ nghệ cao siêu đến thế rồi!
Thừa Chí nói:
– Cháu gặp em Tiểu Tuệ ở Triết Giang. Em ấy cũng lớn lắm rồi.
An đại nương nói:
– Thời gian đi chóng thực! Trẻ con đã trưởng thành cả rồi!
Nói xong, nàng đưa mắt nhìn chồng đang bị trói nằm ở dưới đất, thở dài một cái rồi nói:
– Không ngờ cháu lại tới cứu thím.
Lý Nham không biết hai người có chuyện ơn nghĩa xưa đó, cứ nghe An đại nương gọi Thừa Chí là cháu, còn tưởng hai người là họ hàng bà con với nhau, liền cười nói:
– Câu chuyện vừa xảy ra nguy hiểm thật. Tôi thừa lịnh Sấm Vương tới Hà Bắc để gặp mấy người. Không hiểu tại sao bọn Cẩm y vệ lại biết tin nhanh đến thế, và chúng đã cho người mai phục ở đây ngay rồi.
Thừa Chí nói:
– Bạn của Lý tướng quân sắp tới đây ư?
Chưa kịp trả lời, đằng xa đã có tiếng vó ngựa phi tới. Lý Nham cười nói:
– Họ chẳng tới là gì kia?
Tùy tòng mở cửa đi ra ngoài, không bao lâu đó ba người vào. Vừa thấy mặt, Thừa Chí nhận ngay ra ba người đó là những bạn đã gặp mặt ở nhà Mạnh Bá Phi, một người họ Lê, một người họ Phạm, và một người nữa họ Hầu. Bọn họ chào hỏi Lý Nham, liền quay lại cung kính vái chào Thừa Chí, và đồng thanh chào rằng:
– Minh chủ mạnh giỏi!
Lý Nham và An đại nương đều ngạc nhiên hỏi:
– Các người quen biết nhau đấy à?
Người họ Hầu đáp:
– Viên minh chủ là Tổng thủ lãnh bảy tỉnh, chúng tôi phải tuân theo hiệu lịnh của ông ta.
Lý Nham nói:
– Ồ, tôi bận công cán ở Sơn Tây không biết gì về tin tức ở Đông lộ, nên không được hay tin này, thật đáng vui đáng mừng!
Thừa Chí nói:
– Đó là hồi tháng trước, được mấy bạn hữu nể nang, ban cho cái danh hiệu đó, chớ sự thật hậu bối không đáng đảm đang chức vị ấy.
Người họ Phạm nói:
– Viên minh chủ võ công giỏi, nhiều mưu kế, lại thêm nhân nghĩa hơn người, trong võ lâm ai mà chẳng cảm phục được chớ!
Lý Nham vui vẻ nói:
– Thế thì hay lắm!
Nói xong y liền truyền hiệu lịnh của Sấm Vương cho mọi người hay. Thì ra quan sát đại thế của thiên hạ, Sấm Vương biết thời cơ tiến vào kinh đô đã đến, nên đã định trong nột nhật là đánh vào Đồng Quan, mới sai Lý Nham bí mật lên Hà Bắc liên lạc các anh hùng hào kiệt để hưởng ứng.
Người họ Lê hỏi:
– Thưa Minh chủ, Minh chủ định sao?
Thừa Chí đáp:
– Việc làm của Sấm Vương là một nghĩa cử, tự nhiên anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ phải theo ngay. Và lúc này cũng là thời cơ của anh hùng hào kiệt bảy tỉnh ra lập công, tất nhiên tiểu đệ phải báo tin này cho tất cả anh hay biết tức thì.
Sáu người trò chuyện với nhau, càng nói càng phấn khởi. Lý Nham nói:
– Quân Minh hủ bại quá nổi, bên nghĩa quân ta tới là chúng tan rã ngay. Nhưng hiện giờ có một vấn đề khó giải quyết.
Thừa Chí hỏi:
– Vấn đề gì thế, Lý Tướng quân?
Lý Nham đáp:
– Vừa rồi tôi nhận được cấp báo cho hay, có mười khẩu đại bác của Tây phương đang chuyển vận lên Đồng Quan giao cho Tôn Truyền Đình. Tên già họ Tôn kia tuy biết dụng binh nhưng anh dũng sao bằng Sấm Vương được. Duy có oai lực của Hồng Y đại bác là khủng khiếp thôi. Nên tôi rất lo ngại về vấn đề hỏa khí của người Tây phương…
Thừa Chí kinh ngạc nói:
– Ở dọc đường, đệ đã trông thấy mười khẩu đại bác đó, quả thật đáng lo ngại.
Nhưng đệ nghe họ nói, mười khẩu đại bác ấy định đem ra ngoài Sơn Hải Quan để trấn thủ bọn Mãn Thanh ở thành Kiến Châu cơ mà?
Lý Nham đáp:
– Đúng thế, những khẩu đại bác chuyển từ ngoài nghìn dặm tới là định đem ra ngoài Sơn Hải Quan để đánh quân Mãn Châu thật. Nhưng vua Sùng Chính hay tin Sấm Vương đã tụ họp đại binh mã, nên y đã hạ chỉ chuyển vận những khẩu đại bác ấy quay xuống Đồng Quan. Nghe nói, hiện giờ đội quan binh chuyển vận những võ khí ấy đã bắt đầu lên đường rồi.
Thừa Chí cau mày nói:
– Chỉ vì vua Minh xưa nay chú trọng phòng vệ nhân dân khởi loạn hơn là chế ngự ngoại xâm, nên cha tôi mới bị chết oan chết uổng như vậy. Lý tướng quân đã nghĩ ra kế gì để đối phó chưa?
Lý Nham đáp:
– Chưa, nhưng tôi định chờ tới lúc chúng vận chuyển những khẩu đại bác đó tới Đồng Quan là chúng ta bắt đầu tấn công dùng xác thịt cản trở lợi khí đó. Tuy chúng ta chưa chắc đã phải thua, nhưng vấn đề tổn hại rất nhiều không thể nào tránh khỏi…
Thừa Chí nói:
– Theo ý đệ, chúng ta nên đón đường đánh cướp những lợi khí thì hơn.
Lý Nham vỗ tay khen ngợi, rồi nói:
– Công lao to tát này nhờ tới chú Viên phụ trách mới xong.
Ngẫm nghĩ giây lát, Thừa Chí nói:
– Những võ khí của người Tây phương lợi hại lắm. Vậy muốn cướp được những khẩu súng đại bác đó, chúng ta phải đặt một mưu kế hoàn hảo trước. Còn thành công hay không, chưa dám quyết đoán ngay bây giờ được. Nhưng việc này có liên can đến vận mệnh của thiên hạ, dù sao tiểu đệ cũng phải tận lực ra làm và cũng phải nhờ vả hồng phúc của Sấm Vương nữa mới xong. Nếu nhứt cử mà thành công ngay, cái đó là phúc đức của dân chớ không phải là công lao của đệ.
Sau đó, Lý Nham bảo tùy tòng mở hành lý ra lấy thanh kiếm Kim Xà giao trả cho Thừa Chí, rồi nói:
– Chú Viên, từ khi gặp chú ở Thiểm Tây, tuy chưa có cơ hội được trò chuyện lâu với chú, nhưng tôi đã biết chú là một thiếu niên hào kiệt rồi. Thanh bảo kiếm chú nhờ tôi giữ, không giờ phút nào tôi không đem theo cạnh mình. Lúc đó, tôi quá lo xa, sợ chú trẻ người non dạ, võ nghệ chưa thành, kinh nghiệm còn thiếu, mà mang theo thanh bảo kiếm này với hai con đười ươi, chướng mắt người đời, có khi gieo họa đến mình, nhưng nay chú đã tạo nên bấy nhiêu đại sự rồi. Bây giờ tôi mới yên trí giao lại đười ươi và bảo kiếm cho cố chủ của nói. Hà, hà…
Thừa Chí cảm ơn xong liền đeo bảo kiếm vào bên hông. Lý Nam lại nói:
– Nhà tôi thấy tôi nói tới chú, chỉ muốn được gặp mặt chú ngay.
Thừa Chí nói:
– Thế nào tiểu đệ cũng thành tâm đến bái kiến.
An đại nương bỗng xen vào nói:
– Lý phu nhân là anh hào trong giới phụ nữ, được mọi người trên giang hồ tặng cho bà ta danh hiệu là Hồng Nương Tử. Không những người đẹp, phu nhân lại võ nghệ xuất chúng. À, cháu Thừa Chí, cháu đã có người yêu chưa?
Thừa Chí nghĩ tới Thanh Thanh, mặt đỏ bừng, mỉm cười không trả lời.
An đại nương thở dài nói:
– Nhân tài xuất chúng như cháu, không biết có tiểu thư nào có phúc được làm vợ cháu!
Nàng nghĩ tới Tiểu Tuệ liền thở dài một tiếng, rồi nghĩ thầm: “Con Tiểu Tuệ với y là bạn hoạn nạn từ hồi nhỏ. Nếu y làm rể của ta, con Tuệ có phải được nhờ vả suốt đời không? Nhưng con bé lại cứ thích cái thằng ngốc Thôi Hy Mẫn. Thật là duyên ai phận nấy không sai chút nào.”
Thấy Lý Nham, An đại nương và Thừa Chí nói chuyện tư, ba người họ Phạm, Lê, và Hầu liền cáo lui.
Người họ Phạm nói:
– Viên minh chủ, sáng sớm mai ba anh em chúng tôi sẽ đem thủ hạ tới đây để Minh chủ sai bảo.
Thừa Chí nói:
– Được.
Ba người xin cáo lui. Lý Nham và Thừa Chí thắp nên trò chuyện thiên hạ đại thế. Thật là anh hùng tương ngộ, càng nói càng ý hợp tâm đầu, chỉ hận biết nhau hơi muộn.
Cho tới khi gà gáy, mặt trời đã rạng đông, cả hai còn chưa muốn đi nghỉ. Lý Nham quay lại thấy An đại nương ngồi ngẩn người ra nhìn người chồng đang bị trói nằm dưới đất liền khẽ gọi:
– An đại nương!
An đại nương ngửng đầu lên nhìn. Lý Nham hỏi:
– Đại nương định xử trí người này như thế nào?
Trong lòng bối rối như mớ bòng bong, An đại nương chỉ lắc đầu không biết trả lời ra sao.
Lý Nham biết nàng không thể quyết định được nên quay lại hỏi Thừa Chí rằng:
– Tôi với chú chia tay ở đây phải không?
Thừa Chí đáp:
– Không, đệ còn muốn tiễn Lý tướng quân đi một quãng đường.
Hai người dắt tay nhau ra khỏi căn nhà đó, thủng thẳng ra đi vừa trò chuyện, các người tùy tòng và hai con đười ươi cũng đi theo độ bảy tám dặm, Lý Nham nói: “Tốn quân thiên lý, chung cư nhứt biệt!” (Tiễn chàng đi ngàn dặm, rốt cuộc cũng phải chia tay). Chú nên trở lại đi.
Hai người ý hợp tâm đầu, Thừa Chí vẫn muốn đi theo chuyện trò nữa.
Lý Nham lại nói:
– Tôi với chú mới gặp nhau đã trở nên tri kỷ. Nếu chú vui lòng, chúng ta cùng nhau kết nghĩa làm anh em nhé?
Thừa Chí cả mừng, hai người liền ngừng chân ở bên vệ đường, nặn đất làm hương nến, quỳ lạy trước trời đất, kết nghĩa kim lan. Lý Nham lớn hơn làm anh, hai người lại nói thêm một lát, rồi mới gạt lệ chia tay.
Dắt hai con đười ươi, Thừa Chí quay trở về khách điếm đã thấy ba người họ Phạm, Lê, và Hầu cùng mấy chục tên tráng hán túc trực tại đó rồi. Những người đó kẻ ngồi người đứng, chật ních cả nhà ngoài nhà trong khách điếm.
Thanh Thanh, chàng Câm, và Hồng Thắng Hải không biết đi đâu. Còn những tùy tòng của A Chín đều là thị vệ cả, thấy nhiều người lạ mặt ở cả trong phòng, không dám lộ diện. Thừa Chí liền nói với Phạm Phi Vân rằng:
– Phạm đại ca, anh dẫn mấy anh em đi về phía Nam điều tra hộ xem bọn quan binh Tây phương vận tải Hồng Y đại bác đi thẳng lên phía bắc, hay là chúng đã quay trở lại phía Nam rồi? Và hỏa tốc trở về cho tôi hay tin ngay.
Được lệnh, Phạm Phi Vân liền đem theo ba đại hán ra khỏi khách điếm phóng ngựa đi ngay.
Phạm Phi Vân vừa đi khỏi, Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc đã về tới khách điếm, trông thấy Thừa Chí đều cả mừng. Sa Thiên Quảng nói:
– Ồ, Viên tướng công đã về đấy à?
Thừa Chí chưa kịp trả lời, đã thấy Thanh Thanh, chàng Câm chạy xổ vào trong khách sảnh. Đầu tóc của Thanh Thanh bị gió thổi bù rối, hai má đỏ hồng lên. Nàng trông thấy Thừa Chí mừng quá, với giọng oán hờn nói:
– Tại sao đến giờ mới về thế?
Tới lúc này, Thừa Chí mới hay vì mình đi không dặn bảo trước, ai nấy thấy lâu không về, đều bủa đi các nơi tìm kiếm. Thấy mặt Thanh Thanh vẫn còn vẻ lo âu, chàng cảm động vô cùng, vào trong phòng liền kể hết sự thể cho nàng nghe. Thanh Thanh cúi đầu, không nói năng gì cả. Thấy sắc mặt nàng khác thường, Thừa Chí vội hỏi:
– Tại anh cả, làm em phải lo lắng thế này!
Thanh Thanh vẫn còn hờn giận, làm thinh như cũ. Không hiểu nàng giận mình vì lẽ gì, Thừa Chí nói lảng ra chuyện khác:
– Vừa rồi anh kết nghĩa với một vị đại anh hùng, chú lại có thêm một người anh rồi đấy.
Tuy là con gái, Thanh Thanh mặc giả trai luôn luôn, nên Thừa Chí cứ quen miệng gọi là chú.
Thanh Thanh nói:
– Anh mà vô lương tâm, thì lấy người anh ấy làm gì?
Thừa Chí nói:
– Thôi, anh xin lỗi chú, lần sau anh không làm cho chú phải lo lắng như thế này nữa.
Thanh Thanh nói:
– Lần sau đã có người khác lo lắng hộ cho rồi. Anh cần gì phải lo lắng hộ nữa.
Nói xong, Thanh Thanh luôn không thèm quay lại, hình như nàng đang giận dỗi một chuyện gì.
Thừa Chí đưa mắt nhìn theo Thanh Thanh khe khẽ lắc đầu, rồi trở về phòng mình nghỉ ngơi…
Chàng thức giấc, Thừa Chí sang phòng không thấy Thanh Thanh, chẳng hiểu nàng đã đi đâu rồi.
Thừa Chí lo sợ bước ra ngoài đi tìm Thanh Thanh. Đi được một quãng Thừa Chí nghe có tiếng la hét ở phía trước.
Thừa Chí chạy nhanh tới trước, trông thấy Thanh Thanh, Hồ Quế Nam, và Thiết La Hán đang đánh nhau với một người đàn ông và ả đàn bà phương Tây.
Thiết La Hán bị tên đàn ông phương Tây to lớn bắn trúng một phát đạn, vừa ôm tay vừa chạy, kêu la ầm ĩ.
Tên đàn ông phương Tây lại chĩa mũi súng ngay Thanh Thanh làm nàng cuống cuồng cả lên.
Thừa Chí kinh hãi phóng mìnnh tới, ném một quân cờ ngay khẩu súng ngắn trong tay gã đàn ông to lớn.
Rảng!
Khẩu súng ngắn rời khỏi bàn tay gã đàn ông phương Tây bay bổng ra ngoài xa, rơi trở xuống đất.
Thừa Chí bước tới, cản trước mặt Thanh Thanh, đưa mắt nhìn gã đàn ông phương Tây.
Hắn trợn mắt trỏ tay vào Thanh Thanh tuôn ra một loạt tiếng gì Thừa Chí không rõ.
Tên thông ngôn người Hán nói với Thừa Chí:
– Ông ta hỏi tại sao đương nhiên cô kia lại chận đường phá rối vợ chồng ông.
Biết Thanh Thanh tìm người chọc phá, Thừa Chí nhìn mọi người:
– Bọn chúng ta trở về thôi, ở đây sẽ có chuyện xảy ra lớn lao.
Bốn người trở lại, lui bỏ mặt vợ chồng người phương Tây và tên thông ngôn đứng đó.
Trở về dọc đường…
Vừa chạy, Thừa Chí vừa hỏi:
– Tại sao chú lại bị bọn chúng hành hung như thế?
Thanh Thanh đáp:
– Biết đâu đấy!
Thấy mặt nàng vẫn còn hậm hực, Thừa Chí mỉm cười không hỏi nữa.
Chạy được hơn hai mươi dặm, mọi người ngừng lại, xuống ngựa nghỉ ngơi. Hồ Quế Nam dùng dao lấy viên chì nằm trong thịt ra cho Thiết La Hán. Đau quá, Thiết La Hán kêu la và chửi mắng om sòm. Thấy vậy, Thanh Thanh bứt rứt trong lòng, kéo Thừa Chí sang một bên, khẽ nói:
– Ai bảo con ấy ăn mặc lố lăng, để hở hang hai cánh tay, không biết xấu hổ!
Không hiểu nàng nói gì, Thừa Chí ngơ ngác hỏi:
– Ai cơ chớ?
Thanh Thanh đáp:
– Con đàn bà Tây phương ấy!
Thừa Chí nói:
– Nó ăn mặc như thế thì việc gì đến chú nào?
Thanh Thanh cười nói:
– Trông chướng mắt quá, em bực mình dùng hai đồng tiền đồng ném gẫy đôi hoa tai của nói.
Thừa Chí không nhịn được cười, cười ồ rồi hỏi:
– Hà! Chú quấy nhiễu thật. Sao, rồi thế nào nữa?
Thanh Thanh cười đáp:
– Tên sĩ quan Tây phương thủa ngày nọ, nhận ra em, liền gọi bọn lính chĩa súng vào em. Không hiểu tiếng, em cứ tưởng chúng muốn thách em đấu kiếm. Sợ gì chúng mà em không dám đấu. Đang lúc ấy thì anh với các anh em vừa tới.
Thừa Chí hỏi:
– Tại sao chú bỏ ra đi một mình như thế?
Thanh Thanh đang hớn hở, thấy Thừa Chí hỏi như vậy, đổi ngay sắc mặt, vênh váo nói:
– Hừ, anh còn nói gì nữa? Anh đã làm gì, anh không biết hay sao?
Thừa Chí nói:
– Quả thật anh không biết anh đã làm việc gì mích lòng chú?
Thanh Thanh quay đầu đi không trả lời. Biết tánh của nàng, cứ giả vờ coi thường chuyện đó, không thèm hỏi, là nàng không nhịn được phải nói ra ngay. Thừa Chí liền nói sang chuyện khác:
– Chú Thanh, hỏa khí của lính Tây phương lợi hại lắm. Chú xem có cách gì đánh cướp được những khẩu đại bác của chúng không?
Thanh Thanh nổi giận nói:
– Ai nói chuyện ấy với anh?
Thừa Chí nói:
– Thôi được, để anh đi thương lượng với anh Sa Thiên Quảng vậy.
Nói xong, chàng đứng dậy định đi. Thanh Thanh vội kéo ngay vạt áo của chàng lại, và nói:
– Em chưa nói xong, cấm không cho anh đi.
Thừa Chí vừa cười vừa ngồi xuống. Một lát sau, Thanh Thanh mới nói:
– Cô em gái Tiểu Tuệ của anh đâu?
Thừa Chí đáp:
– Từ hôm chia tay đến giờ anh chưa gặp cô ta bao giờ. Và ai biết cô ta đâu cơ chứ?
Thanh thanh hậm hực nói:
– Thế còn người khác đâu?
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
– Ủa, chú nói người khác nào? Người khác là ai thế?
Thanh Thanh dậm chân một cái, quay luôn vào trong phòng cho tới bữa cơm trưa cũng không ra ăn. Thừa Chí gọi phổ ky bưng cơm nước vào trong phòng cho nàng dùng. Rồi chàng nghĩ thầm: “Không hiểu nàng giận ta việc gì? Chờ lát nữa cơm xong, ta vào trong phòng xin lỗi nàng vậy. Vì ta mà nàng phải lo sợ nửa ngày…”
Vừa nghĩ tới đó, chàng đã thấy phổ ky bưng cơm nước quay trở lại, liền hỏi:
– Cô nương không dùng ư?
Phổ ky đáp:
– Thưa Tướng công, đại cô nương không có ở trong phòng.
Giật mình kinh hãi, bỏ bát đũa xuống, Thừa Chí chạy xổ vào trong phòng, không thấy hình bóng Thanh Thanh đâu, mà cả khí giới lẫn túi dết cũng không thấy nốt.
Biết nàng đã bỏ đi, trong lòng lo lắng vô cùng, bề ngoài Thừa Chí vẫn bình tĩnh, nghĩ thầm: “Nàng giận dỗi bỏ đi. Đi đâu nàng không cho hay? Nàng tuy có võ nghệ thật, nhưng dễ gây nên tai họa lắm. Như thế này rắc rối cho ta không? Đang có công việc lớn phải thi hành, ta thân hành đi kiếm sao?”
Nghĩ đoạn, chàng sai Hồng Thắng Hải đi kiếm, hễ thấy tung tích nàng ở đâu, trở về cho hay tin ngay.
Chờ tới chiều tối, Phạm Phi Vân phi ngựa trở về, vừa vào tới cửa liền nói:
– Thưa Tướng công, quan binh Tây phương quả nhiên quay trở lại phía Nam thật. Chúng ta phải đuổi theo ngay mới kịp.
Thừa Chí nhảy phắt lên, dặn chàng Câm giữ hai con đười ươi ở lại khách sạn canh giữ những hòm sắt bảo vật. Rồi chàng dẫn Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, bọn anh em Phạm Phi Vân, và các đại hán Hà Bắc phóng ngựa tiến thẳng về phía Nam. Đến sáng sớm ngày thứ ba, xuyên qua một thị trấn nhỏ, bọn Thừa Chí quả nhiên trông thấy mười khẩu đại bác xếp hàng một đều ở trước cửa một tửu quán nọ. Mỗi khẩu đại bác có sáu tên lính Tây phương bồng súng canh gác.
Thiết La Hán nói:
– Đói lắm rồi! Đói lắm rồi!
Thừa Chí nói:
– Chúng ta lên tửu quán này để tái ngộ hai viên sĩ quan ngoại quốc cũng hay.
Tám người cùng lên thẳng tửu lầu. Thiết La Hán đi trước, vừa lên tới trên lầu đã thất kinh là lớn. Thì ra lúc ấy mấy tên lính Tây phương cầm súng đang nhắm Thanh Thanh bắn. Tay chúng đã sửa soạn bóp cò, tình thế rất nguy hiểm. Còn phía bên kia, Bỉ Đắc, Lô Mông và cô gái Tây phương Nhược Khắc Lâm đang ngồi cạnh cái bàn. Thấy các vị anh hùng lên lầu, Lô Mông liền chỉ nói mấy câu tiếng Tây, lại có mấy tên lính ngoại quốc chĩa súng vào các người, quát lớn bắt giơ hai tay lên.
Nhanh trí không, Thừa Chí cầm luôn hai cái bàn bày ở đó ném luôn vào người bọn lính Tây, đồng thời phi thân tới cạnh Thanh Thanh, vít vai nàng cùng ngồi xổm xuống.
“Đoành, đoành…” mấy tiếng, khói bốc lên trần nhà, mấy khẩu súng đều nổ một lúc, những đạn chì bắn ngập cả vào mặt bàn.
Sợ hỏa khí lợi hại, Thừa Chí vội kêu gọi:
– Tất cả xuống hết nhà dưới.
Nắm tay Thanh Thanh, chàng cùng mọi người xuyên qua cửa sổ nhảy xuống dưới lầu. Lô Mông cả giận, rút luôn súng ngắn ra bắn xuống phía dưới.
Thiết La Hán kêu “ối chà!” một tiếng, mông đít đã bị bắn trúng một phát, đứng không vững sắp ngã. Sa Thiên Quảng vội chạy lại đỡ luôn. Các người nhảy lên mình ngưạ phóng về phía Nam. Hồi đó hỏa khí của ngoại quốc bắn xong một phát, phải nhồi thuốc và đạn vào mới bắn tiếp được. Nên tới khi bọn quan binh Tây phương sửa soạn bắn tiếp thì mọi người đã chạy mất dạng rồi. Thừa Chí và Thanh Thanh cùng cỡi chung một con ngựa.
Thừa Chí kề ngựa lại gần Thiết La Hán:
– Chuyện xảy ra như thế nào?
Thiết La Hán đáp:
– Lúc nãy chúng tôi theo bọn người Tây phương, tới chỗ trú ngụ của chúng để dò la tin tức.
– Rồi sao nữa?
– Tôi và anh Sa Thiên Quảng lẻn vô phòng nghe bọn chúng nói chuyện, nhưng toàn là tiếng lạ nghe không rõ, kế đó mấy tên này bỏ ra ngoài, tôi lẻn vào đánh cắp được mấy khẩu súng.
– Ồ! Mấy khẩu súng ở đâu rồi?
– Tôi cất một khẩu, còn một khẩu cô Thanh Thanh đòi lấy nên tôi đã trao cho cô ấy.
Thừa Chí day lại:
– Chú Thanh, khẩu súng đâu rồi?
Thanh Thanh cười cười:
– Khẩu súng tôi cất trong mình đây.
– Chú đưa tôi xem.
– Lát nữa rồi sẽ xem.
Thiết La Hán hỏi:
– Viên tướng quân, giờ chúng ta trở về khách sạn phải không?
– Phải! Chúng ta trở về khách sạn rồi mọi chuyện sẽ tính sau.
Thanh Thanh ngồi chung ngựa với Thừa Chí ra đường, nhắm khách sạn đi lại. Thanh Thanh bỗng bật cười như có điều gì thích thú lắm.
Thừa Chí quay lại:
– Chú Thanh cười gì đấy?
Thanh Thanh đáp:
– Lát nữa anh sẽ rõ.
Thừa Chí hoài nghi trong lòng nhưg không hỏi nữa vì biết Thanh Thanh tánh hay giận hờn, có thể phóng xuống ngựa bất ngờ và chạy đi.
Chàng cũng không hiểu tại sao mình lại chìu chuộng cô gái đến thế, nhưng vì còn nhiều chuyện bận rộn, chàng không có thời gian nhàn rỗi để suy tư.
Chợt nghe phía sau bọn người Tây phương đuổi theo rất gấp, Thừa Chí nói:
– Chúng ta hãy chạy mau, bọn chúng có hỏa lực nguy hiểm lắm!
Bọn người chạy nhanh hơn trước, dần dần tiếng người đuổi theo ở phía sau xa ra rồi mất dạng.
Lúc bấy giờ bọn Thừa Chí, Thanh Thanh mới cho ngựa đi chậm lại.
Tới khách sạn, mọi người ngồi quanh một cái bàn trò chuyện về hỏa lực của bọn người Tây phương.
Thanh Thanh cầm một khẩu súng lên chơi, sơ ý bấm phải cò, đoành một tiếng, khói tỏa ra khắp căn phòng. Sa Thiên Quảng, ngồi ở phía trước nàng, may nhanh nhẹn chui ngay xuống gầm bàn mới tránh khỏi tay bay vạ gió đó. Thanh Thanh sợ hãi, mặt tái xanh, vội xin lỗi luôn mồm. Sa Thiên Quảng lè lưỡi và nói:
– Lợi hại thật!
Mọi người đem hai khẩu súng kia ra xem xét, thấy trong nòng có nhồi thuốc súng và đạn chì.
Thừa Chí nói:
– Thứ thuốc nhồi trong nòng súng vốn của người Trung Quốc mình phát minh. Chúng ta chỉ dùng nó làm pháo đốt chơi, còn người Tây phương lại dùng thứ thuốc này làm võ khí giết người. Đội hình Tây Âu này có hơn trăm người, hơn một trăm khẩu súng cùng bắn ra một lúc, hỏa lực mạnh vô cùng chớ không phải chuyện chơi đâu!
Mọi người đều nghĩ cách để đối phó. Hồ Quế Nam nói:
– Viên tướng công, đệ có một quỷ kế nho nhỏ này, không biết có thể dùng được không?
Thừa Chí hỏi:
– Kế gì thế? Anh cứ việc nói ra.
Hồ Quế Nam vừa cười vừa nói kế đó ra. Thanh Thanh vỗ tay khen ngợi. Sa Thiên Quảng công nhận kế đó rất thần diệu. Ngẫm nghĩ một lúc, Thừa Chí cũng nhận thấy cần phải mạo hiểm như vậy mới có kế quả, liền hạ lịnh bố trí.
Hãy nói, Lô Mông và Bĩ Đắc vì tranh dành nàng mỹ nhân Nhược Khắc Lâm mà đêm khuya đấu kiếm. Sự thật thì Nhược Khắc Lâm với Bĩ Đắc yêu nhau từ lâu rồi. Lô Mông tuy tự phụ là người phong lưu mã thượng, nhưng không có dịp may để xen chân vào, sau mới nghĩ ra cách đấu kiếm. Rốt cuộc đấu kiếm y cũng thua tình địch, liền sử dụng gian tế, lại bị Thừa Chí bỗng ở đâu tới phá bĩnh. Vì y là quan trên, Bĩ Đắc đành phải nghiến răng cam chịu, chỉ cẩn thận đề phòng, chớ không dám báo thù.
Ngày hôm đó, bọn quan binh Tây phương đi tới một làng nọ. Làng này tên Vạn Công thôn, chỉ có ba trăm nóc nhà thôi. Lúc ấy trời đã tối, bọn chúng đành phải vào nhà thờ của họ Vạn để nghỉ ngơi. Nửa đêm, bỗng nghe tiếng người ồn ào, lính canh gác vội vào báo cáo, trong làng có nhà cháy. Lô Mông và Bĩ Đắc dậy ngay tức thì, thấyngọn lửa rất gần nơi đó liền ra lịnh cho binh lính khuân hết các thùng thuốc súng ra để ngoài bãi cỏ.
Trong lúc bối rối, những người trong làng xách thùng nước cứu hỏa đến quây quần nhà thờ nọ và hắt nước khắp mọi nơi. Lô Mông quát hỏi nguyên nhân tại sao lại tạt nước tứ tung như vậy? Mấy chục người làng nói với Thông dịch viên Tiền Thông Tứ rằng:
– Nhà này là nhà thờ duy nhất của chúng tôi. Trong lúc cháy nhà chúng tôi phải đem nước tới tạt cho thật ước trước, để khỏi bị thần hỏa cháy lan tới.
Thấy lời nói rất có lý, Lô Mông đành phải để yên cho họ tạt nước. Ngờ đâu người làng tạt vào cả những thùng thuốc súng. Bọn binh lính thấy vậy vội dùng cán súng đánh đuổi. Nhưng đuổi sao cho xuể? Có người còn tạt cả vào người các binh lính Tây phương nữa. Không đầy chốc lát, xung quanh nhà thờ bịt tạt nước đẫm như hồ ao. Tất cả đại bác, thùng thuốc súng, và những khẩu súng của binh cũng bị ướt đẫm cả. Còn căn nhà bị cháy đã tắt dần.
Cho tới sáng ngày hôm sau, Lô Mông và Bĩ Đức ra xem xét, thấy thuốc súng bị ướt sũng hết thảy, liền nghi ngờ có người âm mưu, vội ra lện cho lên đường ngay. Đang sửa soạn khởi hành, bỗng có một tên tiểu quan quân tới báo cáo rằng:
Không hiểu tại sao đêm hôm qua, những lừa ngựa kéo đại bác đã chạy mất dạng hết cả. Giận quá, Lô Mông liền đánh cho tên tiểu quan quân một trận nên thân, rồi sai Tiền Thông Tứ dẫn các binh lính Tây phương vào trong làng trưng tập. Ngờ đâu, cả một cái làng to lớn như thế mà không co một con lừa con ngựa nào cả.
Sự thật thì người làng hay tin trước đã đem lừa ngựa dấu đi nơi khác rồi. Lô Mông đành phải sai Bĩ Đắc đi cùng Tiền Thông Tứ tới thành thị phía đằng trước mộ tập vậy.
Bĩ Đắc liền đem theo bốn tên lính và dắt Nhược Khắc Lâm đi theo. Lô Mông tức giận vô cùng, liền đốc thúc binh lính mở thùng lấy hết thuốc súng ra, đổ lên trên chiếu phơi. Cho tới chiều tối hôm đó, thuốc đã sắp khô hẳn, Lô Mông đang sai binh lính đổ vào thùng thì bỗng có mấy chục mũi tên lửa ở trên nóc nhà đầu làng bắn tới. Thuốc súng gặp lửa bùng cháy rất chóng. Bọn binh lính thấy vậy, mất cả hồn vía, bỏ chạy tán loạn.
Hò hét mãi, Lô Mông mới đốc thúc nổi binh lính xếp hàng thành đội ngũ và bắn một loạt súng vào các nhà của dân làng. Trong đám khói lan man, có mấy chục đại hán chạy trốn vào trong rừng. Kiểm điểm thuốc súng, Lô Mông thấy bị đốt cháy mất 80, 90 phần trăm, buồn bực vô cùng, chỉ có cách canh phòng cẩn thận thêm để khỏi bị cháy nốt chỗ còn lại thôi. Chờ tới ngày thứ ba, Bĩ Đắc mới trưng tập được mấy chục con lừa ngựa về để kéo đại bác.
Hôm sau, bọn quan binh Tây phương lại tiếp tục lên đường. Đi được bốn năm ngày, hôm đó đi tới khe núi, một con đường hiểm đạo, vừa dốc vừa chật hẹp. Lô Mông và Bĩ Đắc chỉ huy binh sĩ, mỗi chiếc đại bác dùng mười người ở phía sau lôi kéo, để khỏi bị bắn trượt xuống chân núi.
Đường núi càng đi càng nguy hiểm, trong lúc mọi người đang chăm chú vào lối đi, bỗng trong khe núi có mấy chục mũi tên bắn ra. Mười mấy mũi bắn trúng binh lính Tây phương và mười mấy mũi bắn trúng lừa ngựa. Đau quá, mười mấy con lừa ngựa cứ cắm đầu mà chạy thẳng, bọn lính Tây phương kềm giữ sao nổi. Khẩu đại bác nào cũng nặng mấy ngàn cân bị lừa ngựa lôi kéo xuống dốc, thế mạnh vô song. Chạy được vàitrăm thước, lừa ngựa bị sa xuống hố đào sẵn ở giữa lối đi, thế là hai khẩu đại bác lôi theo bị lật nhào, chỉ nghe thấy “ùm ùm” mấy tiếng, mấy tên lính bị đại bác đè bẹp như tương. Tiếp theo đó tám khẩu đại bác đi sau cũng bị sa hố lật đổ rồi lăn xuống hang núi hết cả.
Lô Mông và Bĩ Đắc sợ hãi mất hết hồn vía còn Nhược Khắc Lâm thì kinh hãi đến chết giấc. Chưa kịp ra tay cứu tỉnh nàng nọ, Bĩ Đắc đã phải ra lịnh cho binh lính phục xuống, để chống cự lại kẻ địch.
Đối phương núp trong hố đào sẵn ở bên sườn núi, nên súng đạn không sao trúng được. Mà những mũi tên của địch bắn xuống binh lính Tây phương không có chỗ tránh núp, nên chết khá nhiều.
Chiến đấu hơn hai tiếng đồng hồ, binh lính Tây phương không sao thoát khỏi vòng vây.
Lô Mông nói:
– Đạn dược của chúng ta còn rất ít, bây giờ có cách xông bừa đi mới được mong thoát chết.
Bĩ Đắc nói:
– Gọi Tiền Thông Tứ tiến lên hỏi xem, bọn thổ phỉ muốn đòi hỏi cái gì?
Lô Mông nổi giận nói:
– Với bọn thổ phỉ chỉ có cách xông pha thôi, chớ nói với chúng sao được? Nếu anh không dám xông thì để tôi xông trước vậy.
Bĩ Đắc nói:
– Cung tên của thổ phỉ lợi hại lắm. Hy sinh và mạo hiểm như vậy vô ích.
Lô Mông đưa mắt nhìn Nhược Khắc Lâm, rồi nhổ nước mắt xuống đất chửi đổng rằng:
– Hèn nhát!
Tức giận xanh cả mặt, Bĩ Đắc hạ thấp giọng nói:
– Bây giờ ta không thèm cãi vã với mi vội, chờ đánh lui được bọn thổ phỉ ta sẽ cho mi biết vô lễ như thế này sẽ phải trả giá đắt như thế nào?
Lô Mông nhảy lên lớn tiếng kêu gọi:
– Ai là anh hùng hảo hán thì theo ta!
Bĩ Đắc cũng lớn tiếng gọi:
– Đại tá Lô Mông muốn chết đấy à?
Bọn binh lính Tây phương cũng biết xông ra khỏi cái hố ấy là bị tên bắn chết ngay, nên không ai chịu theo Lô Mông cả. Quả nhiên, Lô Mông múa kiếm lên khỏi mặt hố, đi được vài bước, đã bị một mũi tên xuyên qua ngực nằm lăn ra chết liền.
Nhờ có súng ống lợi hại, kẻ địch không dám tới gần, Bĩ Đắc với bọn binh lính mới cầm cự được một ngày một đêm, chỉ mong có quan binh Triều đình tới cứu viện.
Ngờ đâu quan trường thời cuối Minh hủ bại vô cùng, muốn điều binh khiển tướng phải làm công văn thỉnh thị và thương nghị xuất binh, vân vân, ít ra năm bữa nửa tháng mới xuất binh được.
Đến chiều tối ngày thứ hai, bọn binh lính Tây phương đói và khát đến nỗi tối sầm mặt mày, đành phải giơ cờ trắng xin hàng. Tiền Thông Tứ lớn tiếng nói:
– Chúng tôi xin đầu hàng!
Trên sườn núi có một người lớn tiếng trả lời:
– Muốn hàng thì vứt hết súng ống ra ngoài hố trước!
Bĩ Đắc nói:
– Chúng ta không thể nào nộp hết súng ống cho chúng được.
Thấy bọn Tây phương không nộp súng, bên kia cũng không tấn công. Một lát sau, bỗng có mùi thịt rất thơm đưa tới. Những binh lính Tây phương đã nhịn đói hai ngày rồi, làm sao chịu được nữa. Ai nấy đều vứt cả súng ống lên trên mặt hố, rồi nhảy lên giơ tay đầu hàng. Thấy đại thế không còn, Bĩ Đắc đành phải hạ lịnh nộp súng đầu hàng. Bọn binh lính xếp súng thành một đống rồi kêu la đòi ăn uống.
Tiếng tù và ở sườn núi nổi lên, trong hàng có mấy trăm tên đại hán nhô ra, tay cầm cung tên chĩa vào bọn binh lính Tây phương. Tám, chín người thủ lãnh đi trước từ từ tiến tới. Nhìn rõ mặt, Bĩ Đắc mới hay người thủ lãnh của địch là thiếu niên đã cứu mình thoát nạn ở trong khách sạn bữa nọ. Bên cạnh y là người đàn bà mặt nam phục, mà bữa trước bị Lô Mông bắn rớt cái mũ xuống đất. Nhược Khắc Lâm lên tiếng nói trước:
– Ồ, ra là bọn người có phép thuật ma quỷ đấy!
Bĩ Đắc rút thanh kiếm ở bên hông ra, hai tay bưng ngang nộp Thừa Chí, tỏ vẻ đầu hàng thật sự. Y nghĩ thầm, thua người thanh niên tài ba này, cũng không đến nỗi nhục nhã lắm.
Thoạt tiên, ngẩn người giây phút, không hiểu đối phương làm như thế để làm gì? Sau Thừa Chí mới hay, đó là lễ nghi đầu hàng của người Tây phương, liền xua tay, rồi nói với Tiền Thông Tứ rằng:
– Thầy thông nói cho y hay. Binh lính Tây phương đem đại bác tới giúp chúng tôi bảo vệ đất nước, chống ngoại xâm, chúng tôi rất cảm tạ và coi y là người bạn tốt.
Tiền Thông Tứ thông ngôn lại cho Bĩ Đắc hay. Gật đầu tán thành, Bĩ Đắc giơ tay bắt lấy Thừa Chí. Giây phút sau, Thừa Chí lại nói tiếp:
– Nếu các người tới Đồng Quan, giúp nhà vua giết hại nhân dân, chúng tôi tất nhiên không để cho yên đâu!
Bĩ Đắc nói:
– Thế ra là nhà vua bảo chúng tôi đi giết hại nhân dân đấy à? Điều này tôi không hay biết gì cả.
Thấy vẻ mặt y thành thật, Thừa Chí biết y không nói ngoa, liền nói:
– Hiện giờ nhân dân Trung Quốc khổ sở, thiếu ăn thiếu mặc, nên ai nấy đều mong mỏi co người đứng ra lãnh đạo, đánh đổ nhà vua để thoát khỏi bể khổ. Nhà vua hay tinLý tướng quân quật khởi, hướng dẫn cách mạng, liền ra lệnh cho các người đem đại bác đi giết hại nhân dân.
Bĩ Đắc cảm động, liền nói:
– Tôi xuất thân cũng là người nghèo, rất hiểu đau khổ của giới đó như thế nào! Thôi tôi trở về nước tức thì.
Thừa Chí nói:
– Thế thì hay lắm! Ông nên cho binh lính đi theo một thể.
Bĩ Đắc liền tập họp bộ đội, xếp hàng chuẩn bị lên đường. Thừa Chí bảo bộ hạ đem rượu và thị ra thế đãi binh lính Tây phương ăn một bữa no say. Bĩ Đắc giơ tay lên kính chào Thừa Chí, rồi ra lịnh cho binh sĩ lên đường.
Thừa Chí lớn tiếng gọi:
– Tại sao ông không đem những súng ống này đi?
Tiền Thông Tứ thông ngôn lại, Bĩ Đắc ngạc nhiên nói:
– Những súng đó là chiến lợi phẩm của các ông. Chúng tôi được các ông buông tha mà không bắt nộp tiền chuộc mạng, đã cám ơn quý ông khoan hồng đại lượng lắm rồi!
Thừa Chí cười nói:
– Ông đã mất số đại bác mà không đem súng ống này đi, tôi chỉ sợ về tới nơi đại bản doanh, ông bị khiển trách nặng nề hơn. Thôi, đem đi cả đi!
Bĩ Đắc nói:
– Thế quý ông không sợ chúng tôi dùng những súng này bắn lại quý ông hay sao?
Thừa Chí cả cười:
– Đại trượng phu, nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Nam nhi hảo hán Trung Quốc chúng tôi rất trọng nghĩa khí, đã coi ông là hảo hán thì không bao giờ còn nghi ngờ ông nữa!
Bĩ Đắc thấy chàng trai như vậy, càng cảm động thêm, liền ra lịnh cho binh lính bồng hết súng ống, rồi xếp hàng ra đi.
Đi được một quãng đường, càng nghĩ càng kính phục Thừa Chí, Bĩ Đắc ra lịnh cho binh lính ngồi nghỉ ngơi, rồi cùng Tiền Thông Tứ quay trở lại móc túi lấy một gói đồ ra đưa cho Thừa Chí và nói:
– Thấy ngài hào hiệp như vậy, tôi xin tặng một vật này.
Mở gói đồ ra xem, Thừa Chí mới hay đó là bản đồ một hòn đảo. Trên đó có chú thích rất nhiều chữ Tây phương, không hiểu gì cao, ngửng đầu nhìn Bĩ Đắc với vẻ mặt nghi ngờ chất vấn.
Bĩ Đắc nói:
– Đây là một hòn đảo lớn ở về phía Nam, cách bờ biển độ hơn một nghìn dặm. Khí hậu trên đảo rất ôn hòa, các sản vật rất phong phú. Thật không khác gì một nơi thiên đường, khi đi qua đó, tôi đã lên quan sát rồi.
Thừa Chí hỏi:
– Chẳng hay ông tặng cho tôi bức địa đồ này để làm gì?
Bĩ Đắc trả lời:
– Quý ông ở đây chiến đấu vất vả như thế này, thà đem những người thiếu ăn thiếu mặc ra đó khai khẩn, còn sung sướng hơn nhiều.
Thừa Chí cười thầm và nghĩ rằng: “Tâm địa của người ngoại quốc này cũng tốt đấy. Nhưng y có biết đất nước Trung Quốc chúng ta lớn rộng biết bao? Dân chúng có hàng ức, thì cái đảo nho nhỏ này làm sao đủ ở được?”
Nghĩ đoạn, chàng liền nói:
– Cái đảo này không có người ở hay sao?
Bĩ Đắc đáp:
– Đảo đó có khi giặc bể Tây Ban Nha tới ở ít lâu lại đi. Có khi không có một bóng người nào. Các vị anh hùng hảo hán như thế này thì sợ gì bọn giặc bể ấy?
Thấy y có lòng thành thật như vậy, Thừa Chí cảm tạ và nhận lấy. Bĩ Đắc vừa đi khỏi, Tiền Thông Tứ cũng đi theo. Thanh Thanh bỗng kéo tay tên thông ngôn đó lại và quát lớn:
– Lần sau, ta còn gặp ngươi tác oai tác quái, bắt nạt đồng bào thì liệu hồn nhé?
Bị kéo tai đau quá, Tiền Thông Tứ không dám kêu la chỉ năn nỉ nói:
– Tiểu nhân không dám ạ! Xin hảo hán tha cho…
Thừa Chí chỉ huy các người xem xét lại mười khẩu đại bác, thấy hư hỏng hết cả, liền ra lệnh cho lấp đất lên. Thế là những hỏa khí giới lợi hại ấy đều bị vùi chôn dưới hố, không còn tang tích gì nữa.
Thấy đại công đã hoàn tất, Thừa Chí cùng các hào kiệt và bọn Phạm Phi Vân liên hoan nửa ngày. Sáng sớm ngày hôm sau, chàng chờ chàng Câm và Hồng Thắng Hải tới mới khởi hành đi lên Bắc Kinh.
Lần này công của Hồ Quế Nam lớn nhất, tất cả kế hoạch làm ướt thuốc súng, đào hố đánh bẫy, vân vân, đều do y nghĩ ra. Từ đó mọi người đều kính trọng chớ không coi thường y như trước nữa.
Hồi 17
Không bao lâu, Thừa Chí và các hảo hán đã tới thành phố Bắc Kinh. Lúc ấy mùa thu vừa qua, tiết đông mới tới, Thừa Chí đưa tiền cho Hồng Thắng Hải mua một căn nhà ở phố lớn. Vì định làm thân với một vài vương tôn công tử để làm nội ứng cho Sấm Vương, nên phải trang hoàng cho lịch sự.
Ngày hôm đó, Thanh Thanh đang chỉ huy bọn người nhà quét dọn bố trí bận rộn khôn tả. Thừa Chí một mình đi dạo chơi các phố lớn trong nội thành. Đi tới một nơi, chàng thấy có rất nhiều lính coi kho bạc của Bộ Hộ tay cầm khí giới canh gác cẩn mật.
Nghe những người đứng xem nói, chàng mới hay tiền thuế má ở miền Nam vừa vận tải đến, đang gởi vào trong kho ngân khố. Chàng nghĩ, số vàng bạc này là huyết mạch căn bản của vua Sùng Chính đây. Vừa nghĩ, chàng lảng ra đằng xa để quan sát đường lối vào ngân khố, thì bỗng trông thấy hai cái bóng đen ở trên mái nhà ngân khố nhảy lên, thân pháp nhanh nhẹn vô cùng, chỉ trong chớp mắt đã lẩn khuất về phía Đông bắc rồi.
Ngạc nhiên vô cùng, Thừa Chí nghĩ: “Ban ngày ban mặt thế này, chẳng lẽ có người dám trộm cắp tiền bạc của ngân khố hay sao? Ta phải đuổi theo xem hai người đó là anh hùng hảo hán của bang phái nào mới được!”
Nghĩ đoạn, chàng liền chạy theo về phía Đông bắc, thấy bóng người đã mất hút nhưng phía đó chỉ có một con đường thôi, chàng vội giở khinh công do Mộc Tang đạo trưởng truyền dạy cho, chạy nhanh như ngựa phi, chỉ đuổi theo giây phút đã trông thấy hai người đang chạy ở phía đằng trước. Sợ chúng hay biết, chàng chạy rất nhẹ chân, nhưng vẫn nhanh như cũ.
Một lát sau, chàng chỉ còn cách hai người kia độ một trượng thôi. Nhìn kỹ, chàng mới hay hai người nọ rất bé nhỏ, mặc áo đỏ, trên đầu có hai cái đuôi sam nho nhỏ. Chúng là hai thằng nhỏ trạc độ mười ba, mười bốn thôi. Mỗi tên khuân vác hai túi đồ trên vai, có vẻ khá nặng nề, chắc là tiền bạc của ngân khố cũng nên? Tuy chúng ít tuổi như thế, khuân vác hai túi đồ khá nặng, mà vẫn còn chạy nhanh như bay, thật là hiếm có.
Không bao lâu, hai thằng bé áo đỏ đã chạy tới chân thành, Thừa Chí nghĩ: “Xem chúng bay ra ngoài thành bằng cách nào?”
Ngờ đâu, chúng không ngừng bước, cứ thế xông thẳng ra ngoài cửa thành. Bọn lính canh gác cổng thành chỉ thấy thoáng một cái, hai cái gì đo đỏ đã ở bên cạnh lướt qua, đang kinh ngạc thì lại thấy một cái bóng xám lướt qua, ra khỏi cổng thành còn nhanh hơn hai cái bóng đỏ kia. Chờ tới bọn lính định thần trông thấy rõ hai cái bóng đỏ là hai đứa bé và một người đàn ông mặc áo màu xám thì ba người đã chạy thật xa rồi.
Nhờ khinh công lợi hại, Thừa Chí theo dõi bấy nhiêu lâu mà hai thằng bé không hay biết gì cả. Ra khỏi thành chạy thêm bảy, tám dặm đường, hai thằng nhỏ tới một căn nhà lớn, liền nhảy ngay vào.
Tới gần, Thừa Chí thấy căn nhà đó xung quanh xây một bờ tường đen cao chừng hai trượng, nhưng không có cửa ngõ. Bờ tường đó sơn đen, trông rất ghê rợn và kỳ lạ. Nhứt là nhà không cửa ngõ, thật thiên hạ hiếm có. Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, nhảy luôn vào bên trong, không ngờ chân tường bên trong lại sâu hơn bên ngoài ba thước. Nghĩa là bên ngoài từ chân lên tới bờ tường cao hai trượng nhưng bên trong thì cao những hai trượng ba. Nếu không có võ công tuyệt đỉnh thì chàng đã bị ngã lăn đùng ra rồi. Bên trong lại có một bờ tường màu trắng xây xung quanh nhà như bên ngoài, nhưng cao hơn tường ngoài ba thước.
Khi chàng nhảy qua bờ tường trắng đó lại phác giác chân tường ở trong cũng sâu xuống ba thước, nhưng lần này chàng đã đề phòng không bị giựt mình như lần nhảy đầu. Trước mặt bờ tường thứ hai là bờ tường sơn màu xanh, bờ tường này cao hơn bờ tường thứ nhứt ba thước, và chân tường ở trong cũng sâu xuống ba thước như hai bờ tường trước.
Hết bờ tường thứ ba sơn màu xanh lại tới bờ tường thứ tư sơn màu vàng và bờ tường thứ năm sơn màu đỏ. Bờ tường sau càng cao những ba trượng rưỡi, khinh công giỏi đến thế nào cũng không thể nhảy qua được. Thừa Chí liền dùng “Bích Hổ Du Tường công” leo lên trên bờ tường chót. Chàng nghĩ: “Hai thằng nhỏ quyết không thể nào vác tiền bạc nặng như thế mà nhảy qua được bờ tường cao như thế này. Tất có cửa bí mật để cho chúng vào. Ta không quen biết chủ nhân, nay đột nhiên dò thám bí mật, tìm tòi cửa ngõ như thế này không tiện.”
Chàng leo lên tới trên bờ tường đỏ, nhìn vào bên trong thấy có một tòa nhà ba lớp, năm căn, nhưng yên lặng như tờ không thấy có một hình bóng người nào cả.
Chàng liền lớn tiếng kêu gọi:
– Hậu sinh đường đột, tự tiện nhảy vào quý trang, nhứt tâm muốn được bái kiến quý chủ nhân. Chẳng hay có cho hậu sinh được yết kiến hay không?
Chàng vừa nói dứt lời, đã nghe tiếng ở trong năm bờ tường dội ra. Nhưng trong nhà vẫn không thấy có tiếng người trả lời. Chờ giây lát, chàng lại kêu gọi một lần như trước nữa, bỗng trong lớp nhà thứ ba có mười mấy con chó lớn, dữ tợn như sài lang nhảy xổ ra, nhe răng múa nanh, lớn tiếng sủa, trông ghê sợ. Thấy hai thằng nhỏ võ công cao cường, Thừa Chí chắc chủ nhân phải là anh hùng hiệp sĩ, nên muốn kết làm bạn hữu. Bấy giờ thấy trong nhà thả chó ra sủa như vậy, chàng biết chủ nhân không muốn tiếp, liền nhảy ra ngoài, trở về nhà luôn.
Chàng bước chân vào tới nhà trong thấy Thanh Thanh bận rộn tíu tít, nào mướn người trồng hoa, nào mua hoa tươi, nào xây sàn gạch hoa, nào quét vôi sơn cửa, trang hoàng căn nhà trở nên một biệt trang rất hào hoa. Thừa Chí mừng thầm nghĩ rằng: “Không ngờ nàng lại là nội trợ tài ba lỗi lạc đến thế? ở Triết Giang lúc mới gặp nàng trên chiếc thuyền trông thật là hung tợn. Không đầy nửa năm, nàng đã thay đổi tính nết hiền hậu đến thế này rồi.”
Căn nhà đó rất rộng, mỗi người được dùng bốn, năm căn phòng, cả hai con Đại Oai và Tiểu Oai cũng được ở trong vườn hoa một cách thư thái dễ chịu. Cơm chiều xong, Thừa Chí kể lại cái nhà kỳ lạ cho mọi người nghe. Ai nấy cũng phải ngạc nhiên vô cùng, và không thể đoán ra được chủ nhân căn nhà đó là người như thế nào?
Trở về phòng nghỉ ngơi, Thừa Chí vẫn phải xếp đặt kế hoạch cần làm ở trên Bắc Kinh này. Chàng nghĩ: “Việc cần giải quyết mọi nỗi đau khổ cho nhân dân. Việc thứ hai là hành thích vua Sùng Chính để trả thù cho cha mình. Nhưng biết tên bạo chúa đó không khó, chỉ vì sư phụ đã nói: Hiện giờ bọn gian thần đang đắc thế, nếu nhà vua chết, quân dân Thanh thế nào cũng thừa cơ đánh vào Quan ải. Cho nên việc trả thù này phải chờ Sấm Vương khởi sự, đánh tới Kinh Đô đã. Vậy những việc cần phải tiến hành trước tiên là làm hư hại gốc rễ của triều đình, thám thính sự thật hư của nhà vua, để cung cấp Sấm Vương.”
Nghĩ đoạn, chàng ghi ngay vào giấy tờ rồi mới lên giường đi ngủ.
Sáng sớm ngày hôm sau, trời mưa tuyết, trong lúc mọi người đang ăn cơm sáng, bỗng có gia đinh hấp tấp vào thưa với Thanh Thanh rằng:
– Tiểu thư, có người đem một bức họa và một lọ hoa đến biếu.
Thừa Chí hỏi:
– Hai món đồ này khá cổ nhá đấy! Ai biếu cho thế?
Không thấy danh thiếp của người biếu. Thanh Thanh phong ba lạng bạc lì xì, sai tên gia đinh đem ra tặng cho người đem lễ vật tới, và hỏi rõ xem người hiểu tên họ là gì? Một lát sau gia đinh vào bẩm rằng:
– Người đem lễ vật tới biếu đã đi mất dạng rồi.
Ai nấy đều cho người đó đem biếu nhầm nhà cũng nên. Hồng Thắng Hải nói:
– Hiện giờ, Viên tướng công tiếng tăm lừng lẫy khắp thiên hạ, lần này tới Bắc Kinh, tin đồn đã loan truyền khắp giang hồ rồi Tiểu nhân chắc lễ vật này là của những người một đem biếu cũng nên đấy.
Tới giữa ngọ, lại có một người gánh một mâm rượu thịnh soạn tới. Mọi người đều nghi ngờ các món ăn có chất độc, liền cho chó ăn thử, thấy không việc gì mới yên tâm. Buổi chiều lại tiếp tục có người đem đồ đạc đến biếu, toàn là dụng cụ gia dùng cả.
Thanh Thanh nói:
– Nếu nhà ta có thêm cái đèn bát giác treo ở giữa cửa thì hay quá.
Nửa tiếng đồng hồ sau, đã có người đem một cái đèn bát giác thật đẹp đến biếu liền. Lại có người đem tới rất nhiều vóc lụa, nhiễu, gấm nhiễu, gấm, để may quần áo cho mọi người, và có đủ cả giầy, mũ, khăn, vân vân. Còn phấn sáp thượng hạng để cho Thanh Thanh dùng cũng có người đem tới biếu. Thiết La Hán túm lấy ngực tên phổ ky đem áo, mũ tới quát hỏi:
– Tại sao nhà người lại biết ở đây có một vị đầu đà, mà đem cả áo cà sa đến cho người ta dùng thế này.
Tên phổ ky bị túm ngực, hoảng sợ vô cùng, giọng run run cầm cập, trả lời rằng:
– Tiểu nhân không biết tí gì. Sáng ngày hôm nay, bỗng có người tới tiểu điếm mua và đặt làm các thứ này, và dặn làm xong thì đem tới đây. Ông ta lịch sự lắm, không mặc cả nửa lời, trả tiền rồi đi liền.
Mọi người đang bàn tán thì Thanh Thanh bỗng cố ý lên tiếng nói:
– Người biết lễ vật đó có lẽ hiểu biết hết ý muốn của chúng ta. Nếu bây giờ họ biếu tôi một chuỗi hạt trai thì tốt quá.
Một lát sau, người đầy tớ đi khỏi khách sảnh, Thanh Thanh liền bảo với Hồng Thắng Hải rằng:
– Anh thử theo dõi xem y đi đâu.
Không bao lâu, người đầy tớ nọ quay trở lại hầu hạ. Còn Hồng Thắng Hải hơn một tiếng đồng hồ sau mới quay trở về. Vừa bước chân vào tới cửa đã thấy người làm tiệm bán châu báu đem hai chuỗi hạt trai lớn tới biếu rồi. Cầm hai chuỗi hạt, Thanh Thanh vào thẳng trong nhà. Thừa Chí và Hồng Thắng Hải cũng vào theo.
Hồng Thắng Hải nói:
– Người đầy tới đó ra ngoài cửa nói với ông già ăn xin vài lời rồi trở vào ngay. Tiểu nhân liền đi theo người ăn xin đó.
Thanh Thanh nổi giận nói:
– Người đầy tớ nhà ta và tên ăn xin lén lút như vậy đều không phải là người tử tế gì. Lát nữa, tôi sẽ cho chúng nếm thử một chút lợi hại thì chúng mới chừa cái thói ấy đi.
Hồng Thắng Hải nói:
– Cô nương đoán không sai, tên ăn xin đi qua mấy con đường thì gặp một tên chó săn công sai đi tới. Hai người trò chuyện với nhau vài câu, tên ăn xin quay trở lại ngồi ở trước cửa nhà ta.
Thanh Thanh hỏi:
– Thế rồi anh theo dõi luôn tên chó săn nọ phải không?
Hồng Thắng Hải đáp:
– Vâng, tên chó săn ấy không trở về nha môn, lại đi tới một căn nhà lớn ở đường hẻm nọ. Tiểu nhân nhìn xung quanh không thấy bóng người, liền nhảy lên trên nóc nhà ngó xuống. Thì ra trong căn nhà đó có mười mấy tên công sai đang tụ họp, trong đó có một ông già chột một mắt. Thấy mọi người gọi y là Đơn lão sư, hình như y là thủ lãnh của bọn chúng thì phải. Tiểu nhân sợ chúng phát giác, liền trở về ngay.
Thanh Thanh nói:
– Giỏi thật, tin tức của chúng kể cũng tinh thông đấy! Chúng ta vừa tới Bắc Kinh bọn chó săn đã hay tin ngay. Nhưng nếu chúng muốn sanh sự với chúng ta thì thật không may cho chúng.
Thừa Chí nói:
– Có một điều lạ lùng là, tại sao chúng cứ biếu xén chúng ta như thế này để làm gì? Như vậy có khác gì nói trắng ra cho chúng ta biết là bọn chúng không những công sai ở kinh đô này xưa nay vẫn tài ba lỗi lạc hơn công sai ở các tỉnh, không khi nào chúng lại chịu làm một việc ngu dại như thế này? Vậy, chúng làm như thế này để làm gì?
Nói đoạn, chàng sai Hồng Thắng Hải ra mời Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, và Thiết La Hán vào bàn chuyện. Bàn tán một lát lâu, không ai đoán ra nổi bọn công sai biếu xén như vậy có dụng ý gì?
Thanh Thanh nói:
– Những đồ đạc do tiền bạc bất nghĩa của chúng mua, chúng ta không nên lấy thì hơn.
Đêm hôm đó, Thanh Thanh họp cùng chàng Câm, Thiết La Hán, Hồ Quế Nam, và Hồng Thắng Hải đem những đồ đạc của bọn công sai biếu xén tới căn nhà lớn mà Hồng Thắng Hải phát giác hồi sáng để trả lại. Bọn công sai ở trong nhà nghe tiếng động hẳn hòi nhưng không thấy tên nào ló mặt ra cả.
Sáng ngày hôm sau, Thanh Thanh cho tên đầy tới vẫn thường liên lạc với tên ăn xin già nghỉ việc liền nhưng nàng trả đủ tiền lương hẳn hòi. Tên đầy tớ đó quỳ xuống vái lạy mấy cái, rồi đi thẳng, chớ y không tỏ vẻ bất mãn gì cả. Thừa Chí ra lệnh cho tất cả mọi người cẩn mật, để chờ xem có biến động gì không? Quả nhiên hôm đó không thấy có người đem đồ đến biếu xén nữa. Tối hôm đó, trời lại mưa tuyết. Sáng sớm ngày hôm sau, Hồng Thắng Hải vẻ mặt kinh hãi, chạy vào bẩm báo:
– Lạ thật, không biết ai đã quét sạch tất cả tuyết phủ ở trước nhà ta rồi.
Thừa Chí nói:
– Hình như bọn chó săn vẫn cứ muốn lấy lòng chúng mình thì phải.
Thanh Thanh cười nói:
– À, em biết rồi.
Mọi người vội hỏi tại sao? Thanh Thanh nói tiếp:
– Chắc bọn chúng sợ chúng ta ở trên Bắc Kinh này quấy nhiễu thì chúng chịu không nỗi, mới đến đây lấy lòng và làm quen với chúng ta chớ gì?
Sa Thiên Quảng nói:
– Cô nói cũng hơi đúng đấy nhưng tôi làm cường đạo đã bao năm mà chưa hề nghe câu chuyện lạ như thế này bao giờ.
Trình Thanh Trúc bỗng lên tiếng nói rằng:
– À, tôi nhớ ra rồi. Tên công sai một mắt biệt hiệu là Độc Nhãn Thần Long Đơn Thiết Sinh. Y về hưu đã lâu nên tôi không đoán ra.
Mấy ngày sau, mọi người thấy không có chuyện lạ xảy ra nữa, dần dần cũng quên bẵng câu chuyện ấy đi. Ngày hôm đó là Tết Đông Chí, mọi người đang ở khách sảnh nhậu nhẹt chuyện trò, bỗng gia đinh bưng vào một cái khay trong đó có một tấm danh thiếp đại hồng thật lớn. Trên thiếp đề: Văn sinh Đơn Thiết Sinh thỉnh an, bảy chữ và kèm thêm tám thứ lễ vật tám màu sắc.
Hồng Thắng Hải liền lấy danh thiếp của Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, và Sa Thiên Quảng hồi bái, còn lễ vật thì trả lại không nhận. Sáng sớm ngày hôm sau, gia đinh lại đem danh thiếp của Đơn Thiết Sinh vào.
Thừa Chí nói:
– Mời ông ta vào chơi mau!
Gia đinh nói:
– Cái ông họ Đơn ấy kỳ lạ quá. Mới sáng tinh sương đã cầm danh thiếp tới, chỉ nói “Thỉnh anh Viên tướng công” rồi đi ngay. Cháu đã mời ông ta vào ngồi chơi xơi nước, nhưng ông ta không vào và đi liền.
Liên tiếp ba ngày liền, cứ trời mới sáng tỏ, là Đơn Thiết Sinh cầm danh thiếp đến thỉnh an.
Trình Thanh Trúc nói:
– Trong võ lâm phía Bắc này, Độc Nhãn Long Đơn Thiết Sinh cũng có đôi chút địa vị và tên tuổi. Không hiểu tại sao y lại giở trò lén lút như thế? Để sáng mai, để đi kiếm y hỏi xem.
Hồ Quế Nam nói:
– Hành động của y không có chút ác ý gì cả. Thế mới khó hiểu chớ?
Thiết La Hán bỗng lớn tiếng nói:
– Tôi biết y định làm gì rồi.
Ngày thường y rất ngô nghê ngốc nghếch, nay bỗng có sáng kiến hơn người, ai nấy đều ngạc nhiên vô cùng hỏi:
– Y định làm gì thế?
Thiết La Hán đáp:
– Y thấy Viên tướng công anh tuấn, võ công lại cao siêu, tên tuổi lại lừng lẫy, cho nên y muốn đem con gả cho cũng nên đấy.
Thấy tên ngốc phát biểu ý kiến ngộ nghĩnh quá, không ai có thể nhịn được, đều cười ồ cả lên. Thiên Quảng đang uống nước, buồn cười đến nỗi phun cả nước vào người Hồ Quế Nam. Vừa lau áo, vừa cười, Hồ Quế Nam nói:
– Con gái Độc Nhãn Long chắc cũng độc nhỡn như y. Có khi nào Viên tướng công lại chịu lấy tiểu thơ chột mắt như thế?
Thiết La Hán trợn trừng mắt lên hỏi:
– Sao anh lại biết rõ đến thế?
Hồ Quế Nam cười đáp:
– Tại sao anh biết rõ y có con gái?
Mọi người đùa diễu một hồi, Thanh Thanh không nói năng gì cả, nhưng trong lòng có vẻ không vui. Nàng nghĩ thầm: “Tên Độc Nhãn Long bậy thật, nhỡ y muốn gả con gái cho Thừa Chí thật thì sao?”
Đêm hôm ấy, nàng lấy bảy tám tờ giấy trắng vẽ hình Độc Nhãn Long Đơn Thiết Sinh đạo chích. Chờ tới đêm khuya, nàng phi thân tới bảy tám nhà giàu có, ăn trộm vàng bạc, châu báu, rồi mỗi nhà nàng dán một tờ giấy có vẽ hình và chữ nói trên.
Sáng sớm ngày hôm sau, Hồng Thắng Hải tới gõ cửa phòng của Thanh Thanh và nói:
– Tiểu thơ! Độc Nhãn Long đã tới đấy ạ. Hiện giờ Viên tướng công đang tiếp y ở khách sảnh.
Thanh Thanh liền cải nam trang đi ra ngoài khách sảnh, quả nhiên thấy Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, và Sa Thiên Quảng đang tiếp một ông già gầy gò, bé nhỏ, uống trà. Thừa Chí liền giới thiệu nàng với người nọ. Thanh Thanh thấy Đơn Thiết Sinh đã ngótsáu mươi tuổi, râu tóc bạc phơ, một con mắt bên trái lóng lánh sáng quắc, trông rất thông minh mẫn tiệp.
Đơn Thiết Sinh nói:
– Tiểu nhân làm như vậy tự biết đường đột vô cùng, nhưng sự thật đang có việc lớn định nhờ vả Viên tướng công cùng quý vị giúp đỡ cho. Vì không được hân hạnh quen biết quý vị, tiểu nhân mới phải dùng hạ sách như vậy. Xin quý vị thứ lỗi cho.
Nói xong, y quỳ xuống vái lạy. Vội đỡ y dậy, đang định hỏi y nhờ vả việc gì, thì Thanh Thanh đã hỏi trước:
– Tiểu thơ đằng nhà vẫn mạnh giỏi đấy chớ? Sao ông không đưa cô ta đến đây chơi một thể?
Đơn Thiết Sinh ngạc nhiên một lát rồi mới trả lời:
– Tiểu nhân chỉ có một mình thôi ạ. Vợ không có thì lấy đâu ra con với cái?
Thanh Thanh tủm tỉm cười, trở về phòng lấy những vàng bạc, châu báu vừa ăn trộm được, đem trả lại Thiết Sinh và cười nói:
– Muốn đùa giỡn ông, tôi đã lấy trộm những thứ này về. Bây giờ lại phải nhờ ông đem trả lại cho những thất chủ. Xin ông đừng có trách cứ nhé? Nhưng tôi không làm thế thì không sao mời được ông tới đây chơi.
Đơn Thiết Sinh nghĩ thầm: “Cậu đùa giỡn như thế suýt giết hại cái thân già này!”
Mọi người không hiểu, đều ngạc nhiên định hỏi nguyên nhân tại sao, thì bỗng có một tên công sai hấp tấp chạy vào, vái chào mọi người xong liền nói với Đơn Thiết Sinh rằng:
– Đơn lão sư, hôm nay lại mất hai nghìn lạng tiền ngân khố nữa.
Đổi ngay sắc mặt, Đơn Thiết Sinh vội đứng dậy, vừa chào vừa nói:
– Hiện giờ tiểu nhân đang có việc rất cần phải đi điều tra ngay. Lát nữa tiểu nhân trở lại thỉnh an quý vị.
Nói xong, y nhận lấy những tiền bạc, châu báu của Thanh Thanh trao trả, rồi theo tên công sai đi liền.
Chiều hôm ấy, trời lại mưa tuyết thật lớn, Thanh Thanh rủ Thừa Chí cỡi ngựa ra ngoài thành uống rượu thưởng tuyết cảnh ở trên hồ. Hai người không đi chơi chung thế này đã lâu, nhân ngày hôm đó được nhàn rỗi mới cùng đi chơi cho thỏa thích một hôm.
Xung quanh hồ cỏ lau mọc um tùm. Thanh Thanh bày thức ăn ra khay, rót hai chén rượu, rồi cùng Thừa Chí vừa nhậu nhẹt vừa ngắm phong cảnh. Nơi đây xưa nay đã vắng bóng du khách lui tới, bây giờ trời lại mưa tuyết lớn như vậy, thì còn ai đến ngoạn cảnh nữa. Thừa Chí hỏi Thanh Thanh vừa rồi trao trả cái gì cho Đơn Thiết Sinh?
Thanh Thanh vừa cười vừa kể lại câu chuyện đi ăn trộm đêm qua cho Thừa Chí nghe.
Thừa Chí nói:
– Hà! Anh vừa khen ngợi chú hồi này đã ngoan ngoãn nhiều. Ngờ đâu chú vẫn còn tinh nghịch như thế?
Thanh Thanh hỏi:
– Em có thấy khen ngợi bao giờ đâu?
Thừa Chí nói:
– Anh khen chú ở trong đáy lòng, thì chú biết sao được?
Thanh Thanh khoái chí, tươi cười nói:
– Ai bảo tên họ Đơn ấy không lộ diện cứ ngấm ngầm quấy nhiễu chúng ta như thế?
Thừa Chí nói:
– Không biết y nhờ vả chúng ta việc gì?
– Những hạng người như thế thì ta giúp đỡ làm gì cho hoài hơi mất công?
Uống rượu một hồi lâu, hai người nhắc lại chuyện uống rượu thưởng hoa ở nhà họ Ôn, phái Thạch Lương hồi nọ, Thanh Thanh nhớ đến mẹ và cố hương bỗng rầu rĩ muốn khóc. Thừa Chí phải kể chuyện vui cho nàng nghe, nàng mới khuây khỏa phần nào.
Thấy trời sắp tối đến nơi, hai người liền thu xếp chén dĩa, quay vào bờ định trở về nhà, vừa đi tới cái đình ở ven hồ, thấy một tên ăn xin mình trần nằm trên mảnh chiếu rách, Thanh Thanh thương hại liền nói:
– Tội nghiệp thật!
Rồi nàng móc túi lấy một nén bạc ra, để trên mặt chiếu và khẽ nói tiếp:
– Mau đi mua quần áo mặc cho khỏi rét đi. Chớ không trời giá lạnh thế này, lão cảm hàn khốn đấy!
Hai người vừa đi khỏi, bỗng nghe tên ăn xin lẩm bẩm nói:
– Cho lão tiền bạc thật vô ích! Trời có lạnh thêm chút nữa cũng không thể nào rét chết lão già này! Có còn rượu mời lão uống mới phải là người biết điều chớ!
Thanh Thanh cả giận, quay lại định mắng chửi vài câu, Thừa Chí liền cản luôn, vì thấy tên ăn mày cởi trần như vậy mà không thấy giá lạnh tất không phải là người thường, khẽ nói với Thanh Thanh rằng:
– Người này kỳ lạ lắm, chúng ta nên để yên cho y, xem y giở trò gì đã.
Nói với Thanh Thanh xong, chàng liền quay lại nói với tên ăn xin rằng:
– Tôi chỉ có chút rượu nhạt và thức ăn thừa thôi. Nhưng rượu đã nguội, thức ăn lại thức ăn thừa không dám mời lão xơi.
Tên ăn xin liền ngồi dậy, giơ tay ra nói:
– Lão là kẻ ăn mày ăn xin, có quản ngại gì rượu nguội, thức ăn thừa đâu?
Thừa Chí liền đưa ngay ấm rượu uống thừa cho lão ăn xin. Cầm lấy rượu, lão già nọ tu luôn. Thừa Chí và Thanh Thanh thấy lão ăn xin trạc độ bốn mươi tuổi, râu ria xồm xoàm, hai cánh tay đầy những vết xẹo, trông rất dị thường. Uống hết ấm rượu đó, y khen ngợi rằng:
– Rượu Nữ Nhi Hồng Trần Thiệu này khá lâu rồi, hai mươi năm là ít, ngon và thơm lắm!
Thanh Thanh giựt mình kinh hãi nghĩ thầm: “Tên ăn xin này sành rượu thật.”
Nghĩ đoạn, nàng vừa cười vừa nói:
– Lão sành rượu thật, vừa uống đã biết ngay là thứ rượu gì và ra lò bao nhiêu năm rồi.
Tên ăn xin nói:
– Tiếc thay ít quá, uống không đã ghiền!
Thừa Chí nói:
– Nếu lão thích uống ngày mai tôi sẽ đem thật nhiều tới mời lão xơi một bữa thật no say.
Tên ăn xin nói:
– Thế thì còn gì bằng nữa! Vị Tướng công này sảng khoái quá. Con người có học mà có độ lượng như thế, cũng hiếm lắm!
Thấy y ăn nói khác người, Thừa Chí biết y không phải là kẻ ăn xin thường, định hỏi han thêm vài câu, nhưng trời đã tối, chàng liền dắt tay Thanh Thanh ra khỏi cái đình. Lòng hiếu kỳ thôi thúc, Thanh Thanh ngó đầu lại nhìn thấy tên ăn xin ấy đang khòm lưng chăm chú nhìn vật gì ở phía bên trái. Nàng liền tay Thừa Chí nói:
– Y đang nhìn cái gì kia kìa.
Thừa Chí quay lại đưa mắt nhìn và nói:
– Hình như y đang rình bắt một con dím thì phải?
Hai người liền tiến lại gần xem, tên ăn xin vội xua tay bảo hai người đứng ra xa, vẻ mặt trông rất nghiêm trọng. Hai người đưa mắt nhìn theo tầm mắt của tên ăn xin thì thấy một con rắn con, dài chừng nửa thước, từ đầu tới đuôi đều màu vàng ối, nằm trên mặt tuyết lại sáng lóng lánh ánh sáng rọi thêm. Con rắn đó từ từ bò trên mặt tuyết, tên ăn xin cứ theo dõi từng bước một.
Thanh Thanh bỗng chỉ một nơi cách đó độ một trượng, khẽ hỏi:
– Anh xem cái kia có gì kỳ lạ không?
Đưa mắt nhìn theo chỗ tay chỉ của Thanh Thanh, Thừa Chí trông thấy một cái vòng tròn hơi lõm xuống, tuyết chỉ xuống được xung quanh cái vòng ấy thôi, chớ rơi xuống đó là tan ngay, và biến thành một làn hơi khói bốc lên. Chỗ đó hình như bên dươói có để một cái hỏa lò lửa đang cháy vậy. Con rắn nhỏ bò tới cạnh cái vòng đó, không dám vào, cứ bò quanh thêm mấy vòng. Tên ăn xin xua tay bảo hai người không nên tới gần. Hai người đành phải đứng xa chờ đợi xem.
Lúc ấy con rắn nhỏ không bò quanh nữa, cứ hà hơi vào trong một cái lỗ ở giữa cái vòng. Giây phút sau, bỗng nghe “sịt” một tiếng, con vật vội vàng lùi ngay về phía sau. Tiếp theo đó, một con rắn lớn ở trong lỗ bò ra. Thanh Thanh giựt mình, thất thanh kêu la. Tên ăn xin trợn mắt giận dữ nhìn nàng, nếu y không bận tâm về việc rình hai con rắn thì y đã lên tiếng mắng chửi rồi.
Con rắn lớn mình dài hơn trượng, to bằng cánh tay người, toàn thân loang lỗ mấy màu sắc, đầu hình ba góc to hơn nắm tay người, Thừa Chí đã nghe Mộc Tang đạo nhân nói, các loại rắn đầu hình ba góc là độc nhất. Rắn độc phần nhiều bé nhỏ thôi nhưng con rắn độc này lại to lớn như vậy mới hiếm. Vả lại rắn rít tới mùa đông là nằm phục trong hang, ít khi ra ngoài kiếm ăn. Hình như con rắn lớn này bị con rắn nhỏ chọc tức mà nhả xô ra vậy.
Vừa ra khỏi cái hố, con rắn lớn lè lưỡi đỏ dài chừng nửa thước ra, trông thật là ghê sợ. Lúc này, con rắn nhỏ cứ chạy vòng, nhanh nhẹn vô cùng. Có một điều rất lạ là con rắn lớn to gấp con nhỏ hai ba chục lần, nhưng không hiểu tại sao nó lại có vẻ e sợ con nhỏ, không dám đuổi theo, chỉ quấn lại thành một cuộn tròn, ngẩng đầu trợn mắt nhìn kẻ địch. Con rắn nhỏ bò nhanh bao nhiêu, đầu con to ngó theo bấy nhiêu. Lúc này, Thanh Thanh không còn sợ hãi nữa, trái lại nàng còn thích thú là khác. Tên ăn xin tay múa chân nhảy, đang bận lấy những miếng màu vàng trong túi vải rách ra, bỏ vào mồm nhai một lúc rồi lấy ra nặn thành sợi dây để quây xung quanh cái vòng kia.
Thanh Thanh khẽ hỏi:
– Y làm gì thế?
Thừa Chí đáp:
– Có lẽ y đang bố trí để bắt hai con rắn này cũng nên.
Chàng vừa dứt lời, con rắn nhỏ đột nhiên nhảy xổ vào đầu con rắn to. Vì chịu không nổi hơi khói màu đỏ ở mồm con rắn to phun ra, con rắn nhỏ lộn một vòng, lại xuống đất chạy vòng quanh. Có lẽ hơi khói màu đỏ độc lắm, con rắn nhỏ mới không dám tới gần.
Sực nghĩ tới một pho quyền pháp ghi trong “Kim Xà bí kíp.” Pho quyền ấy hơi giống “Bát Quái Du Thân chưởng” nhưng biến hóa phức tạp hơn nhiều. Lúc ấy Thừa Chí tuy đã học biết những thế võ trong pho quyền ấy rồi nhưng chàng không coi trọng lắm.
Lúc này, chàng thấy hai con rắn chiến đấu bỗng nhận xét thấy thế đánh và thế đỡ của hai con rắn kia giống hệt pho võ nói trên. Có lẽ xưa kia, Kim Xà Lang Quân xem rắn chiến đấu mà sáng tác nên pho quyền này chắc? Chăm chú nhận xét từng ly từng tí thân pháp của con rắn nhỏ, chàng dần dần lãnh ý hội thần ngay. Chàng nhận thấy thân pháp con rắn nhỏ còn linh động hơn pho quyền nọ nhiều. Tại thấy con rắn to giữ thế thủ rất nghiêm mật, chàng ngẫm nghĩ không biết con rắn nhỏ dùng thế công nào mà thắng nổi địch thủ?
Thấy Thừa Chí chăm chú ngẩn cả người ra, Thanh Thanh nghĩ thầm: “Không ngời anh ta lại có tánh trẻ con như vậy.”
Lúc ấy, tên ăn xin vẫn tiếp tục nhai thứ thuốc vàng, nặn thành sợi dây thứ hai, rồi quanh hai vòng dây nữa là ngoài cái vòng dây thứ nhất. Mỗi cái vòng dây cách nhau độ một thước.
Bố trí xong, y lộ vẻ hớn hở, rồi cúi xuống xem hai con rắn đánh nhau. Con rắn nhỏ nhảy xổ vào mấy lần, đều bị khói đỏ đẩy lui. Thừa Chí nghĩ thầm: “Mỗi lần tấn công là con rắn nhỏ dùng một thế công mới. Khói đỏ của con rắn lớn phun ra ngày càng nhạt. Cứ thế này mãi, con to tất phải thua mất!”
Ngờ đâu con rắn to đột nhiên phản công, há mồm nhe răng định đớp con rắn nhỏ. Nhưng con nhỏ lanh lẹ và luồn tránh khôn khéo lắm, nhiều khi nó sắp bị con to cắn được, nhưng con rắn nhỏ tránh sang phải một cái rất lẹ và thoát khỏi nanh vuốt của địch thủ ngay. Thoắt lúc con nhỏ vươn mình lên trên không, con rắn to nhô theo định cắn đuổi con kia nhưng con nhỏ ở trên không mà biết lộn vòng quay đầu lại đâm luôn vào mắt địch thủ. Thế là con rắn to bị mù ngay một mắt.
Thấy con vật đánh nhau hay quá, Thừa Chí không nhịn được bỗng la lớn: “Hay quá” Lúc ấy con rắn to bị thương một mắt chui ngay vào trong động. Lúc ra đã nhanh mà lúc rút lui cũng vậy, chỉ trong nháy mắt, cả một thân hình dài hơn trượng của nó mà đã biệt vô tăm tích rồi. Con rắn nhỏ đuổi tới cửa động, phun hơi vào bên trong.
Thanh Thanh bỗng cảm thấy đầu óc choáng váng, liền kêu lên một tiếng:
– Trời ơi!
Nàng vội năm lấy cánh tay Thừa Chí. Biết nàng vì ham xem hai con vật đánh nhau, đến gần quá, liền nghĩ tới con Băng Thiềm của Hồ Quế Nam tặng cho giải độc rất linh nghiệm cũng may có đem theo trong người, vội lấy ra để vào mồm nàng.
Thanh Thanh hít liền mấy hơi, cảm thấy một hơi lạnh thấu suốt tâm can, bịnh nhức đầu khỏi ngay tức thì.
Trông thấy con Băng Thiềm của Thừa Chí, tên ăn xin trố mắt lên nhìn tỏ vẻ thèm muốn. Bỏ con Băng Thiềm vào túi, Thừa Chí kéo Thanh Thanh lùi lại vài bước, nghĩ thầm: “Tên ăn xin bắt rắn này cũng tinh đời đấy, thoáng trông đã biết con Băng Thiềm của ta là vật quý rồi. Hằng ngày y gần gũi các loại rắn độc mà có con Băng Thiềm phòng thân thì còn gì bằng nữa.”
Lúc ấy trong động lại có khói đỏ phun ra, nhưng con rắn to chịu không nổi hơi xì của con nọ, lại muốn xông ra tái chiến. Quả nhiên, khói đỏ nhạt dần, con rắn to lại chui ra, vì thiếu một mắt, linh động kém lúc trước nhiều. Đánh được một lát, con rắn to lại bị địch thủ đâm mù nốt con nữa. Thế là con rắn phải vội quay trở về động để trốn tránh. Ngờ đâu con rắn nhỏ đã nhẹ nhàng chạy tới cửa động đợi chờ rồi. Hết lối đi con rắn to liền nhanh mồm đớp luôn con nọ vào bụng và nuốt luôn và trong bụng.
Thừa Chí, Thanh Thanh ngạc nhiên quá, vì rõ ràng con rắn nhỏ đã toàn thắng rồi tại sao bỗng dưng lại bị kẻ địch nuốt một cách dễ dàng như thế được? Nhưng sau đó, con rắn to lăn đi lộn lại, có vẻ đau đớn vô cùng. Rồi tới khi con rắn to nằm ngửa ra thì con nhỏ đã cắn thủng bụng địch thủ mà chui ra rồi.
Thanh Thanh thở dài nói:
– Thật không ngờ con rắn nhỏ này lại giảo hoạt và độc ác đến thế.
Tiếp theo đó, con rắn nhỏ đứng thẳng mình lên, chỉ có một khoảng đuôi chấm mặt đất mà thôi. Rồi nói dần dần hít hết những khói đỏ còn lại đang lơ lửng trên mặt đất vào cả trong bụng. Nó đi vòng quanh con rắn to một vòng, rồi cắn lưỡi con nọ lùi kéo vào trong động. Thân hình nó bé nhỏ hơn con kia nhiều nhưng nó lôi kéo con kia nhẹ nhàng lắm. Không biết sức lực của nó ở đâu tới mà mạnh kinh khủng như vậy. Thừa Chí và Thanh Thanh đều ngạc nhiên vô cùng. Không bao lâu, con rắn lại bò ra, thần sắc của tên ăn xin nghiêm trọng tức thì.
Bò tới cạnh vòng thuốc vàng, con rắn lộn một vòng lùi vào giữa. Thanh Thanh hỏi:
– Sợi màu vàng quanh kia là cái gì thế?
Thừa Chí đáp:
– Chắc là thứ thuốc khắc chế rắn, tỷ như thuốc hồng hoàng chẳng hạn.
Chỉ thấy con nọ chạy vòng quanh mấy vòng, bỗng đứng thẳng dậy, dùng đuôi quẫy mạnh một cái, nhảy qua khỏi cái vòng bên trong. Tên ăn xin có vẻ hoảng hốt.
Con rắn lại chạy quanh như trước, và cũng dùng đuôi quảy nhảy ra khỏi cái vòng thứ hai. Chỉ còn một cái vòng thuốc nữa là hết, nên tên ăn xin vội lẩm bẩm niệm thần chú, rồi bỗng lộn ngược, hai tay chống xuống đất, hai chân chổng lên trời, đi bằng hai tay.
Con rắn chạy tới đâu, người theo dõi tới đó. Không thể nhịn được, Thanh Thanh phải cười nhưng thấy tên ăn xin mồ hôi nhễ nhại, nhỏ giọt xuống mặt tuyết, nàng không dám cười nữa, rồi cứ lẳng lặng đứng yên. Nàng nghĩ: “Con rắn bé như thế này, việc gì phải tốn công đến thế?”
Thừa Chí rỉ tai nàng nói:
– Võ công của tên ăn mày này cao cường lắm, ít nhứt y cũng giỏi ngang Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc.
Thanh Thanh nói:
– Em thấy thân pháp và tay chân của y không có gì đặc biệt hơn người.
Thừa Chí nói:
– Chú xem bụng và ngực không động đậy, đủ thấy y không hô hấp như vậy mà chịu đựng được một thời gian khá lâu như thế không phải là dễ đâu.
Thanh Thanh hỏi:
– Có phải y sợ hơi độc của rắn mới nhịn hơi như vậy không?
Lúc ấy cả người lẫn rắn chạy rất nhanh. Rồi con rắn bỗng nhiên nhảy lên, định nhảy ra ngoài vòng vây. Nhưng tên ăn xin vừa đuổi tới, thổi mạnh một cái. Con rắn rớt ngay xuống đất, tiếp tục chạy quanh như trước. Hễ có cơ hội là nó lại nhảy ra ngoài vòng ngay, nhưng nhảy ba lần đều bị tên ăn xin thổi hơi cản lại. Tuy vậy, con rắn cũng khôn ngoan giảo hoạt lắm, thỉnh thoảng nó đổi phương hướng, đang chạy phía trái bỗng quay trở lại chạy về phía phải. Như vậy tên ăn xin theo mệt mà không kịp. Thấy phía Tây có chỗ hổng con rắn liền nhảy ra khỏi cái vòng chết. Thừa Chí và Thanh Thanh cũng phải thất thanh kêu la.
Thấy con vật đã thoát khỏi ba vòng vây của mình, tên ăn xin vội đứng thẳng dậy. Có một điều lạ nhứt là, con rắn nhỏ không thừa cơ bôn tẩu, trái lại nó còn ngẩng đầu lên nhìn kẻ địch, giữ thế sửa soạn tấn công. Lúc này hai bên thay đổi hẳn địa thế công và thủ. Tên ăn xin tỏ vẻ hoảng sợ, muốn chạy không được mà muốn công cũng bất thành.
Thừa Chí móc túi lấy ra ba quân cờ, chỉ chờ tên ăn xin gặp nguy hiểm là giết rắn cứu người. Con rắn xổ tới mấy lần, tên ăn xin đều tránh được cả. Chỉ trong giây lát, tên ăn xin đã nghĩ ra một kế, cho rắn xông tới liền giơ tay nhử. Nhanh như chớp, con rắn cắn luôn ngón tay giữa của bàn tay mặt, tên ăn xin liền dùng tay kia kẹp luôn hai mang con vật, rồi ra sức bóp mạnh một cái. Đau quá, con rắn đành phải há mồm nhả ngón tay của địch ra, hắn vội lấy ra một cái ống sẳt bỏ luôn con rắn vào, đút nút lại, rồi vứt xuống đất, quay đầu lại nói với Thừa Chí rằng:
– Mau lấy Băng Thiềm ra cứu mạng lão.
Thấy y vô lễ như vậy, Thanh Thanh nổi giận quát mắng:
– Tại sao phải đưa Băng Thiềm cho nhà ngươi?
Thấy tên ăn xin giỏi võ, Thừa Chí thương tiếc, lại thấy tay y đã đen và sưng gấp mấy lần rồi, nọc độc của con rắn kinh khủng biết bao, vội móc túi lấy con Băng Thiềm ra đưa liền.
Tên ăn xin mừng quá, vội để ngón tay bị thương dí vào mồm con Băng Thiềm. Chỉ trong chốc lát, vết thương máu đen nỏ giọt xuống dưới mặt tuyết, không khác gì mực đen vậy. Bàn tay của tên ăn xin khỏi sưng và hắc khí cũng tan hết. Lại trải qua một lát nữa, những giọt máu ở vết thương nhỏ ra đã biến thành màu hồng, y cả cười một hồi, xé một mảnh quần ra buộc vết thương, và bỏ con Băng Thiềm vào trong túi vải.
Thanh Thanh giơ tay ra hỏi:
– Trả Băng Thiềm cho chúng tôi chớ?
Tên ăn xin trợn ngược lông mày, mắt to trợn, quát lớn:
– Băng Thiềm nào?
Thanh Thanh chỉ về phía y, kinh hãi kêu lên:
– Ô kìa, đằng kia lại có một con rắn nhỏ nữa!
Giựt mình tên ăn xin quay đầu lại nhìn. Thanh Thanh liền nhặt cái ống sắt ở dưới đất lên, chĩa luôn vào lưng tên ăn xin quát lớn:
– Ta mở nút ra tức thì.
Biết là trúng kế rồi, tên ăn xin nghĩ: “Nếu đối phương mở cái nút ống ra, con rắn nọ sẽ chui ra cắn lưng mình ngay, nếu bị cắn trúng nơi cốt yếu thì dù có Băng Thiềm cũng chưa chắc đã chữa khỏi đưọc.”
Nghĩ đoạn, y đành phải móc túi vải lấy con Băng Thiềm ra đưa trả Thừa Chí rồi cười nói:
– Lão đùa hai người chơi đấy, chớ có phải lão lấy thật đâu?
Chờ Thừa Chí bỏ Băng Thiềm vào túi rồi, Thanh Thanh mới rút cái ống sắt ra và trao trả cho tên nọ. Thoạt tiên, Thừa Chí muốn kết bạn với tên ăn xin đó, nhưng thấy y ty tiện quá, không cảm ơn người ta cứu mạng cho thì chớ, lại cưới của báu ân nhân như vậy, liền chắp tay chào nói:
– Chào lão, sau này sẽ có dịp tái ngộ!
Chàng khoác tay Thanh Thanh đi liền. Tên ăn xin giận dữ quát lớn:
– này hai người hãy khoan đã!
Thanh Thanh cũng giận dữ hỏi:
– Ngươi muốn gì?
Tên ăn xin nói:
– Các người khôn hồn để con Băng Thiềm xuống, ta sẽ để cho đi. Các người có biết lão già này hung ác như thế nào không?
Chưa hề thấy người nào lại ương ngạnh đến thế, Thanh Thanh đang định trả lời, Thừa Chí đã cướp lời nói trước:
– Ngài là ai thế?
Chỉ thấy tên ăn xin trợn đôi mắt lóng lánh, hai tay giơ cả ra, và đang định nhảy xổ tới. Thừa Chí nghĩ thầm: “Tên ăn xin vô lễ này muốn chịu khổ chắc?”
Lúc ấy, đằng xa bỗng có tiếng khí giới va chạm, mấy người hò hét chạy đuổi tới. Phía đằng trước, có hai thằng bé áo đỏ, đều vai mang một gói đồ lớn, vừa chạy vừa đánh đỡ. Phía sau có bốn năm người công sai đuổi theo. Người đi đầu là Độc Nhãn Thần Long Đơn Thiết Sinh. Tay y cầm một thước sắt, cứ nhằm yếu huyệt của hai thằng bé mà điểm. Hai thằng bé chống đỡ không nổi, chạy thẳng tới cạnh tên ăn xin, lớn tiếng kêu gọi:
– Tề sư thúc, Tề sư thúc.
Vừa nói, hai thằng bé vừa vứt hai gói đồ tới. Tên ăn xin giơ tay ra đón lấy hai gói đồ đó, để xuống đất. Hai thằng nhỏ vứt xong gói đồ nặng, chân tay lanh lẹ hơn trước, liền xông vào đánh Đơn Thiết Sinh hăng hái hơn trước nhiều.
Tên ăn xin thấy mấy tên công sai kia võ nghệ tầm thường không đếm xỉa tới, chỉ nghĩ tới con Băng Thiềm, liền nhảy xổ vào, hai tay nắm luôn đầu vai Thừa Chí. Không muốn vô duyên vô cớ lộ võ công cho người hay biết, Thừa Chí quay đầu ù té chạy, trốn núp phía sau Đơn Thiết Sinh. Thoạt tiên cạnh tên ăn xin có vẻ ngơ ngác, nay mới hay hai tên là thù địch, tinh thần phấn khởi, múa cây thước sắt tấn công lia lịa, thì nghe “ối chà!” một tiếng, một tên nhỏ áo đỏ đã bị gậy sắt điểm trúng yếu huyệt ở trên vai. Còn một tên hoảng, Đơn Thiết Sinh thừa cơ đá luôn một cái trúng luôn thằng thứ hai. Tên ăn xin ung dung đứng yên, dõng dạc nói:
– Ta tưởng là ai không ngờ là Đơn lão sư.
Đơn Thiết Sinh nói:
– Ngài quý tánh danh là gì? Tôi táo gan yêu cầu ngài cho anh em chúng tôi được ăn miếng cơm yên lành.
Tên ăn xin nói:
– Tôi là kẻ ăn mày thì làm gì có tên họ chớ?
Nói xong, y cúi xuống giải huyệt cho hai thằng bé. Lúc ấy, có hai tên công sai nhặt hai gói đồ lên. Tên ăn xin bỗng hú một tiếng còi, hai thằng nhỏ xông tới, mỗi đứa dùng một chưởng đánh ngã một người công sai, rồi cướp luôn gói đồ mà chạy.
Đơn Thiết Sinh đuổi theo quát lớn:
– Tiểu tặc táo gan thật, có mau để xuống trả ta không?
Hai thằng bé áo đỏ cứ lẳng lặng chạy thật nhanh. Thấy Đơn Thiết Sinh đuổi theo giơ thước sắt ra, sắp điểm trúng thằng bé chạy sau. Đột nhiên tên ăn xin nhảy ngang tới định cướp cây thước sắt. Tuy chỉ có một mắt, Đơn Thiết Sinh võ công cao cường, giơ ngược cây thước sắt, định đánh trở lại điểm vào yếu huyệt ở cổ tay của kẻ đánh trộm.
Tên ăn xin vội trầm cánh tay xuống, và dùng bàn tay trái phản kích lưng địch. Muốn thử sức lực của đối phương, Đơn Thiết Sinh liền giơ một cánh tay trái ra đỡ. Ngờ đâu tên ăn xin rụt luôn tay lại, lộn một vòng nhảy ra ngoài hơn trượng rồi theo sau hai thằng nhỏ chạy luôn.
Thấy thân thủ của y nhanh nhẹn như vậy, Đơn Thiết Sinh cũng phải kinh hãi nghĩ thầm: “Bên ta tuy nhiều người thật, nhưng ngoài ta ra, mấy người kia võ nghệ tầm thường quá. Viên tướng công và cô nương nọ không muốn giúp ta, một mình địch saonổi bọn đạo tặc kia?”
Nghĩ vậy, Đơn Thiết Sinh ngừng chân không đuổi nữa, tới gần Thừa Chí cúi chào và nói:
– Tiểu nhân đáng chết thật!
Thừa Chí và Thanh Thanh thấy y nói như vậy, đều ngạc nhiên không hiểu liền hỏi:
– Đơn đầu lãnh chớ có khách khứa như vậy. Chẳng hay tên ăn xin kia là hạng người thế nào thế?
Đơn Thiết Sinh nói:
– Mời hai vị hãy vào trong đình này nghỉ chân đã. Tiểu nhân sẽ bẩm báo sau.
Ba người vào trong đình ngồi yên rồi, Đơn Thiết Sinh mới đem hết tiền nhân hậu quả kể cho Thừa Chí và Thanh Thanh nghe.
Thì ra bắt đầu từ tháng trước, ngân khố của Bộ Hộ liên tiếp bị mất trộm ba lần, tổng cộng mấy nghìn lạng bạc. Số tiền bạc đó tuy không nhiều, nhưng nó là tiền bạc của nhà vua, mà ở ngay kinh thành trong ngân khố của Bộ Hộ mà trộm mới là một việc quan trọng.
Không hiểu tại sao hai ngày sau, nhà vua hay tin đó liền cho triệu Bộ Hộ Sát thượng thơ và Cửu môn đề đốc Chu đại tướng quân lên điện khiển trách một hồi. Nhà vua truyền phán, trong một tháng phải bắt được tên trộm ấy. Bằng không hoàng thượng sẽ cách chức tất cả các quan lớn nhỏ của hai cơ quan đó. Thế là bọn công sai bị thượng cấp truy cứu và đè nén, đều kêu khổ kêu oan, cả gia quyến của họ cũng bị câu thúc.
Ngờ đâu, quan sai càng truy nã điều tra riết, ngân khố lại càng bị mất trộm liên tiếp. Bọn công sai lo sợ quá, đành phải đi kiếm Độc Nhãn Long Đơn Thiết Sinh về hưu đã lâu, van lơn cầu khẩn mời ra giúp cho được. Sau một cuộc điều tra kỹ càng, Đơn Thiết Sinh biết không phải là đạo tặc tầm thường mà là cao thủ võ lâm hành động. Tuy quy ẩn đã lâu, Đơn Thiết Sinh vẫn được mọi từng lớp nhân sĩ võ lâm quen biết mến chuộng. Y cho điều tra, biết ngay gần đây chỉ có nhóm Thừa Chí là võ lâm cao thủ mới tới Bắc Kinh thôi.
Nghe tới đây, Thanh Thanh cả giận nói:
– Thế ra ông nghi ngờ chúng tôi trộm cắp phải không?
Đơn Thiết Sinh đáp:
– Tiểu nhân đáng chết lắm! Thoạt thiên tiểu nhân có nghĩ như thế thật, liền hỏi dò bạn hữu mới hay Viên tướng công ở Bắc Kinh lầm nghĩ, cứu Tiêu Công Lễ ở Sơn Đông kết giao Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc, hơn nữa lại được đề cử làm Minh chủ bảy tỉnh, thật là vị đại anh hùng hào kiệt!
Trong lòng khoan khoái vô cùng Thanh Thanh nghe thấy Đơn Thiết Sinh khen ngợ Thừa Chí như vậy, sắc mặt đấu dịu tức thì, Đơn Thiết Sinh lại nói:
– Tiểu nhân còn hiểu lầm, có lẽ vì giới công sai của tiểu nhân không hay tin ra nghênh đón vị đại anh hùng giáng lâm kinh thành mà bị quý vị khiển trách ban cho một bài học để bọn tiểu nhân khốn khổ cũng nên? Cho nên tiểu nhân cùng các anh em muốn chuộc lỗi đó, mới ngày ngày đến quý phủ thỉnh an tạ tội là thế.
Thanh Thanh cười nói:
– Ông không nói rõ, thì ai hiểu biết được ý muốn của các ông ra sao?
Đơn Thiết Sinh nói:
– Nhưng việc này không thể nói rõ ra được. Chúng cháu chỉ mong Viên tướng công lại bớt giận, trả lại số bạc của ngân khố cho chúng cháu, để cứu mấy trăm gia đình công sai ở trong thành Bắc Kinh này khỏi chịu tội vạ. Ngờ đâu Viên tướng công lại hoàn lại tất cả lễ vật của chúng cháu dâng biếu, còn điều tra biết rõ tên họ và biệt hiệu của tiểu nhân, rồi rải các danh thiếp tiểu nhân vào các nhà thất để cảnh cáo.
Nghe Đơn Thiết Sinh nói tới vụ này, Thanh Thanh giả bộ không nghe, và vẻ mặt cứ thản nhiên như không biết gì.
Đơn Thiết Sinh lại nói tiếp:
– Chúng cháu thấy dùng cách mềm dẻo không xong, đành phải giở thủ đoạn cứng rắn vậy. Ngày hôm nay, chúng cháu mai phục quanh ngân khố, chờ người của Viên tướng công tới là xông ra vây bắt. Ngờ đâu hai thằng bé áo đỏ lẻn vào ngân khố trộm cắp, chúng cháu theo đuổi và đánh chúng tới đây. Nếu không có tên ăn xin cứu giúp thì chúng đã bị bắt rồi. Nay Viên tướng công đã hiểu cả, xin chỉ một con đường sáng sủa cho chúng cháu đi. Chúng cháu thật cảm ơn Tướng công vô cùng.
Nói xong y quỳ ngay xuống, vái lạy lia lịa.
Thừa Chí vội đỡ dậy, trong lòng nghĩ thầm: “Tuy tên ăn xin và hai đứa bé áo đỏ không phải là hạng người “thiện nam tín nữ” gì. Nhưng chúng làm khó dễ tới nhà chức trách, ta hà tất phải ra giúp những quan công sai nhơ bẩn này làm gì?”
Nghĩ đoạn, chàng liền đem chuyện tình cờ gặp tên ăn xin ở đây, tên ấy bắt rắn ra sao và định cướp con Băng Thiềm của mình như thế nào, kể hết cả cho bọn công sai nghe. Đơn Thiết Sinh lại yêu cần chàng trợ giúp nã tróc bọn gian.
Thừa Chí cười nói:
– Bất giặc là việc làm của các công sai. Tuy đệ chẳng ra cũng không đến nỗi phải làm những việc đó.
Thấy chàng nói vậy, Đơn Thiết Sinh không dám nói nữa, cúi chào từ biệt, rồi cùng bọn công sai hậm hực đi liền.
Trong khi trở về, suốt dọc đường, Thanh Thanh cứ luôn mồm chửi tên ăn xin vô lễ, và cả quyết lần sau còn bắt gặp lẽ nào cũng tặng cho tên đó một trận đòn nên thân.
Đang đi hai người gặp bọn binh lính của Nha Cẩm y vệ áp giải một nhóm phạm nhân đi tới. Những phạm nhân đó đa số là ông già, đàn bà, trẻ con và con nít cả. Nhưng bọn binh lính cứ hùng hổ, hò hét mắng chửi. Một người đàn bà van lơn rằng:
– Xin ông đội làm ơn làm phúc để cho chúng tôi được thong thả một chút. Chồng tôi cũng làm việc cho nhà ở như các quý ông, và chúng tôi đây lại không phạm tội gì cả. Chẳng qua vì hồi này kinh thành bỗng có phi tặc vây nhiễu, chúng tôi mới bị liên lụy, chịu khó chịu sợ thế này.
Một binh sĩ giơ tay sờ ngực người đàn bà đó, cười nói:
– Phải đấy, không có bọn phi tặc ấy, thì chúng ta làm gì có duyên phận gặp gỡ nhau đây, phải không chị?
Nghe thấy tên binh sĩ ấy nói xong, Thừa Chí và Thanh Thanh tức giận vô cùng, đều nghĩ: “Bọn phạm nhân này gia quyến của bọn công sai, ngày thường bọn công sai cậy thần cậy thế hà hiếp lương dân. Dù bây giờ có bị cấp trên hành phạt tuy chẳng oan uổng gì, nhưng những đàn bà trẻ con vô tội này vô cớ bị lụy mới tội nghiệp!”
Đi độ một vài phố nữa, hai người lại gặp bọn công sai lôi kéo mười mấy người, tay chân bị còng xích đi qua, miệng la lớn rằng:
– Bắt được phỉ tặc rồi, bắt được phỉ tặc rồi!
Những dân chúng đứng hai bên hè xem, đều lắc đầu thở than. Thừa Chí và Thanh Thanh tiến đến gần nhìn xem, mới hay những phỉ tặc đó đều là người nghèo đầu bù tóc rối cả. Vì sợ quan trên khiển trách, bọn công sai mới bắt bừa lương dân để thay thế phỉ tặc. Thừa Chí và Thanh Thanh thấy vậy, trong lòng tức giận vô cùng.
Hồng Thắng Hải đang ngóng trông thấy hai người vừa về tới hớn hở vô cùng, la lớn:
– May quá, đã về rồi!
Thừa Chí vội hỏi:
– Việc gì thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
– Trình lão phu tử bị người ta đánh, thương tích khá nặng, đang mong chờ Tướng công về cứu chữa cho.
Thừa Chí kinh ngạc, nghĩ thầm: “Trình Thanh Trúc võ nghệ cao cường như thế? Tại sao y lại còn bị người ta đả thương?”
Nghĩ đoạn, chàng liền theo Hồng Thắng Hải vào trong phòng thấy Trình Thanh Trúc nằm yên trên giường, mặt phủ một vùng hắc khí. Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, và Thiết La Hán đều đứng cạnh đó, ai nấy vẻ mặt đều lo âu.
Thấy Thừa Chí đã về, mọi người đều tỏ vẻ hớn hở liền. Thừa Chí thấy Trình Thanh Trúc thở rất yếu, trong lòng cũng hơi hoảng sợ, vội hỏi:
– Trình lão phu tử bị thương ở đâu?
Sa Thiên Quảng khẽ đỡ Trình Thanh Trúc ngồi dậy, rồi cởi áo ra. Thừa Chí giật mình kinh hãi, vì thấy cả một bả vai bên phải của Trình Thanh Trúc thâm lại như bôi mực nhạt vậy. Hắc khí đó còn lan tràn trên mặt, trên đầu, rồi chạy suốt xuống tới lưng.
Vết thương có năm dấu ngón tay rất sâu.
Chàng liền nói:
– Vết thương này bị con gì cắn thế?
Sa Thiên Quảng đáp:
– Tiểu đệ thấy Trình phu lão tử loạng choạng bước vào trong nhà, không nói được nửa lời, rồi cứ thế nằm lịm đi nên tiểu đệ cũng không biết ông ta bị trúng phải độc khí gì?
Thừa Chí nói:
– Cũng may con Băng Thiềm vẫn còn đây.
Nói xong, chàng lấy con Băng Thiềm ra, để mồm nó vào chỗ bị thương, nó tuy khô héo rồi, nhưng vẫn còn biết hút hơi độc. Chỉ trong giây phút, tất cả thân hình con Băng Thiềm xám dần, rồi thì đen hẳn. Hồ Quế Nam nói:
– Bỏ nó vào trong rượu ngâm một lúc, độc khí sẽ tan ra hết.
Thanh Thanh vội rót một bát rượu bỏ luôn con Băng Thiềm vào quả nhiên chất độc đen như mực ở trong mồm con Băng Thiềm nọ phun dần ra, một lát rượu đen xì như bát mực và con Băng Thiềm đã trong trắng như tuyết như ngọc rồi. Thừa Chí lại để con Băng Thiềm vào hút chất độc ở chỗ vết thương, cho tới khi mình con vật đen hẳn, lại bỏ vào rượu ngâm. Trải qua mười mấy lần để cho Băng Thiềm hút độc như vậy, hắc khí ở trên vai, trên mặt và trên đầu Trình Thanh Trúc đã nhạt hẳn. Thừa Chí lại xoa bóp cho một hồi, sắc mặt của Trình Thanh Trúc hồng hào dần. Lúc này mọi người mới yên tâm.
Chờ cho Trình Thanh Trúc đã tỉnh táo trở lại, Thừa Chí hỏi:
– Trình tiền bối, câu chuyện xảy ra như thế nào?
Trình Thanh Trúc đáp:
– Tôi định ra thị trấn có một chuyện cần thiết, dọc đường gặp một mụ già ăn xin mặt mày xấu xí chận lại rồi gây chuyện với tôi. Mụ ta dùng những lời bỉ ổi thóa mạt tôi, nên mới đấu nhau với bà ta, nào ngờ bà ta võ công cao cường nên tôi bị bà đánh trúng một gậy, khí huyết trong người nghe sôi trào, tôi biết mình đã bị trúng nhằm kịch độc trong cây gậy đó nên bỏ chạy về, cũng may còn sống lại đây.
Nghe đến đây Thừa Chí chợt nhớ lại lúc trước có gặp một mụ già ăn xin, mặt mày xấu xí tay cầm cây gậy, Thanh Thanh suýt cũng bị trúng độc rồi, chắc chắn là mụ này chứ chẳng còn ai nữa nhưng chàng không nói ra, chỉ hỏi Trình Thanh Trúc:
– Hiện giờ tiền bối thấy trong mình đã bình phục chưa?
Trình Thanh Trúc gật đầu:
– Tôi đã bình phục hẳn rồi, cám ơn Viên tướng quân đã hết lòng chiếu cố đến tôi. Thừa Chí nói:
– Tiền bối hãy yên lòng. Tiền bối được khỏe mạnh như thế là tôi đã mừng rồi. Anh em ai nấy đều lo lắng cho tiền bối.
Mọi người đều bàn tán về chuyện mụ già ăn xin, xấu xí đã gây thương tích cho Trình Thanh Trúc.
Mụ ta là ai sao lại có hành động hiểm độc như thế?
Tất cả đều đặt câu hỏi về lai lịch của mụ ta.
Mọi người đều phân vân, không sao đoán ra mụ ăn xin ấy ở đâu tới, thuộc bang phái nào? Trình Thanh Trúc càng tức giận thêm, cứ luôn mồm chửi rủa mụ nọ.
Sa Thiên Quảng nói:
– Trình huynh hãy ở nhà nghỉ ngơi điều dưỡng, để anh em chúng tôi đi dò thám. Nếu có tin gì sẽ cho huynh biết ngay, và chúng tôi sẽ trả thù cho.
Nói đoạn, Sa Thiên Quảng cùng chúng bạn chia nhau mỗi người đi một ngã tìm kiếm tung tích mụ ăn xin nọ. Đi liền ba ngày, mọi người đều thất vọng, không sao kiếm thấy hình bóng và tung tích của kẻ thù.
Một buổi sáng nọ, Đơn Thiết Sinh lại đến thăm. Thừa Chí không muốn tiếp liền sai Sa Thiên Quảng thay mặt ra tiếp. Đơn Thiết Sinh, vẻ mặt rầu rĩ, vừa thấy Sa Thiên Quảng, vội vã báo tin là ngân khố lại mất trộm ba nghìn lạng bạc nữa, và mong Viên tướng công chỉ bảo cho phương pháp ngăn ngừa. Sa Thien Quảng chỉ ầm ừ suông, chớ không nghĩ cách giải quyết hộ. Sau nói tới chuyện mụ ăn xin, Đơn Thiết Sinh liền để ý tới ngay. Sáng sớm ngay hôm sau, Đơn Thiết Sinh vội vàng đến nói với Sa Thiên Quảng rằng:
– Sa gia, hành tung của mụ ăn xin đệ đã dò ra rồi. Nên mời Viên tướng công ra bàn định thì hơn.
Sa Thiên Quảng vào mời, Thanh Thanh nói:
– Hừ, không biết y định lấy lòng hay là muốn uy hiếp chúng ta thế?
– Cả hai vấn đề cũng phải. Thôi được, để tôi ra gặp y thì hơn.
Mọi người đều theo Thừa Chí ra ngoài khách sảnh. Đơn Thiết Sinh nói:
– Tiểu đệ đoán mụ ăn xin bị thanh trúc tiêu của Trình gia ném trúng, tất phải cho người đi mua thuốc về giải thương, liền sai các đàn em đến canh gác các tiệm thuốc lớn ở trong kinh thành, hễ thấy ai tới mua các vị thuốc giải thương là theo dõi ngay.
Chuyện thật kỳ lạ quá.
Trình Thanh Trúc hỏi:
– Sao lại kỳ quá?
Đơn Thiết Sinh đáp:
– Quý vị thử nghĩ xem mụ ấy nấp ở đâu? Có ai ngờ nơi đó lại là biệt thự của Thành Vương. Ai cũng biết Thành Vương là em của Hoàng thượng. Vậy tại sao một vị quý phái như thế lại đi kết giao với bọn người giang hồ như vậy? Cho nên tiểu đệ cũng không dám xác định ra sao?
Ai nấy đều lộ ra vẻ kinh ngạc, Thừa Chí nói:
– Ông hãy đưa chúng tôi tới cạnh biệt thự xem xét qua loa đã, rồi chúng ta nghĩ cách đối phó sau.
Đơn Thiết Sinh liền dẫn các người đi thẳng ra ngoại ô.
Đi được bảy, tám dặm đường, thấy đằng xa có một hàng rào tường màu đen. Đơn Thiết Sinh liền nói:
– Dãy nhà kia tức là biệt thự của Thành Vương đấy.
Thừa Chí nghi ngờ nghĩ thầm: “Nhà đó chính là nơi nương náu của hai thằng bé áo đỏ trộm tiền bạc của ngân khố. Hay là Đơn Thiết Sinh đã điều tra ra chỗ trú chân của bọn cường đạo, cố ý dẫn chúng ta tới đây giúp y cũng nên? Nếu là biệt thự của Vương phủ thật sao lại kiến trúc kỳ lạ như thế?”
Nghĩ đoạn, chàng kéo tay Trình Thanh Trúc lùi lại mấy bước, khẽ nói:
– Chờ lát nữa trông thấy mụ ăn xin, huynh chớ có nổi giận vội. Tất cả mọi người đều phải nhìn theo con mắt tôi ra hiệu mà thi hành.
Biến hẳn thần sắc, Trình Thanh Trúc không trả lời bỗng nói:
– Viên tướng công, đệ… đệ… bỗng thấy khó chịu, muốn đi về nghỉ ngơi trước.
Thừa Chí ngạc nhiên nghĩ thầm: “Ông ta là Bang chủ bang Thanh Trúc là một nhân vật có tên tuổi trong giới võ lâm, lâm trận lại sợ sệt mà rút lui trước như thế này?”
Nghĩ đoạn, chàng liền sai Hồng Thắng Hải đưa Trình Thanh Trúc về trước. Lúc ấy Sa Thiên Quảng nghĩ tới hôm nọ Thừa Chí nói căn nhà lớn không có cửa, liền hỏi Đơn Thiết Sinh rằng:
– Ngôi biệt thự kia không có cửa ngõ thì người ta ra bằng cách nào?
Đơn Thiết Sinh nói:
– Thế nào cũng có cửa bí mật. Vì nhà đó của một vị quan quyền Hoàng gia, nên người ngoài không ai dám hỏi tới.
Thừa Chí đã quyết định dùng chính sách “Dĩ tĩnh đợi biến” bình tĩnh chờ đợi sự thể biến chuyển ra sao, rồi sẽ đối phó cho nên không phát biểu ý kiến gì, để mặc Đơn Thiết Sinh làm gì thì làm. Chàng ngẩng đầu lên nhìn trời, giả bộ ngắm cảnh chim bay trên không. Bỗng nghe thấy mấy tiếng “cục, cục…” đi tới, rồi hai con gà trống rất lớn, đang vỗ cánh ở bên trong bờ tường bay ra, theo sau có hai thằng bé áo lam nhảy theo, chân tay rất lanh lẹn. Chúng chỉ nhún nhảy mấy cái là bắt được hai con gà kia ngay.
Chúng đưa mắt lườm mọi người, lại nhảy vào bên trong bờ tường.
Thanh Thanh nói:
– Hai con gà trống lớn như vậy thật hiếm có. Mỗi con cân ra cũng nặng tới tám, chín cân?
Sa Thiên Quảng nói:
– Vâng, còn hai thằng nhỏ võ công cũng có chút căn bản, người này thật là kỳ lạ!
Chưa nói dứt lời, Sa Thiên Quảng lại nghe thấy tiếng “cọt kẹt” bờ tường bỗng có một cửa hông mở ra, một người ăn mặc rất kỳ lạ bước ra.
Quần áo của y vá víu những mảnh vải ngũ sắc, không khác gì quần áo của kẻ ăn xin trên sân khấu vậy. Đến khi y tới gần, Thừa Chí, Thanh Thanh, và Đơn Thiết Sinh đều giựt mình, vì ba người đã nhận ra y là tên ăn xin bắt rắn bữa nọ.
Tên ăn xin trợn mắt nhìn rồi nói với Thừa Chí rằng:
– Bữa nọ được Tướng công tặng cho tôi uống rượu ngon. Ngày hôm nay may mắn làm sao lại được đại giá giáng lâm, xin mời vào trong nhà để tôi được thết lại một bữa.
Thừa Chí đáp:
– Hay lắm, hay lắm, nhưng tôi thấy như thế quả không tiện!
Người đó không đáp lời, chỉ giơ tay trái lên mời khách vào nhà. Thừa Chí đi trước, mọi người theo sao, thấy bờ tường xây bằng gạch xanh rất to, rất dầy, cánh cửa bằng sắt dầy mấy tấc, màu sơn y hệt bờ tường nên khi cánh cửa khép lại, không ai biết là có cửa ngõ. Hễ tới một bờ tường là tự nhiên cánh cửa ở bờ tường đó từ từ mở ra ngay và không có một tiếng động nào.
Qua khỏi bờ tường màu đỏ là màu tường cuối cùng, người nọ mời mọi người vào trong khách sảnh. An tọa xong, người nọ vỗ tay mấy cái, gia đinh liền dọn thức ăn và rượu ra. Món ăn rất nhiều, rất thịnh soạn, nhưng mọi người không hiểu các món ăn đó là những thức ăn gì? Đĩa bát nào cũng đầy những hột trứng giun, rắn, gà, vân vân, màu xanh màu đỏ trông rất ghê tởm. Vì vậy không ai dám cầm đũa gắp ăn. Người nọ cả cười một hồi rồi nói:
– Mời quý vị xơi thử.
Nói đoạn, y gắp một con rít đầu đỏ mình đen lên ăn.
Hồi 18
Thấy người nọ gắp con rít lên ăn, ai nấy đều thất kinh. Ghê tởm quá, Thanh Thanh suýt nôn mửa tại chỗ, vội quay đầu ra phía sau, không dám nhìn nữa.
Còn Thừa Chí và mọi người cũng không ai dám gắp những món ăn đó cả. Thấy ai nấy đều hoảng sợ ghê tởm, người nọ lại càng đắc chí, liền nói với Đơn Thiết Sinh rằng:
– Ngươi là chó săn của phủ nha theo tới đây chắc vì tiền bạc của ngân khố phải không? Hừ, ngươi biết ta là ai không?
Đơn Thiết Sinh đáp:
– Xin thứ lỗi tiểu nhân mắt kém. Chẳng hay các hạ quý tánh danh là gì?
Người nọ cả cười, uống một hớp rượu, lại gắp một con giun nữa lên ăn rồi cười nói:
– Tôi họ Tề, tên Vân Ngao, chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt thì lão huynh biết sao được?
Giật mình, đứng ngay dậy, Đơn Thiết Sinh nói:
– Ủa, thế ra các hạ là Cẩm Y Độc Cái, tiểu nhân nghe đại danh đã lâu rồi.
Thừa Chí xưa nay chưa hề nghe thấy cái tên Cẩm Y Độc Cái ấy bao giờ, nhưng thấy Đơn Thiết Sinh hoảng sợ như vậy, chắc người đó phải là một nhân vật cừ khôi trong giới võ lâm cũng nên. Chàng lại sực nghĩ tới bữa nọ, tên ăn xin này bắt rắn thì võ nghệ của y không có gì đặc biệt lắm, như vậy hà tất phải sợ y một cách quá đáng như thế? Lại thấy Đơn Thiết Sinh nói:
– Quý giáo xưa nay thường hàn đạo ở bốn tỉnh: Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, và Quý Châu, cho nên tiểu nhân không được hân hạnh bái kiến.
Tề Vân Ngao nói:
– Vâng, chúng tôi lên trên Bắc Kinh này mới có mấy tháng nay thôi.
Đơn Thiết Sinh lại nói:
– Tiểu nhân hồi hưu đã lâu. Lần này Tề anh hùng cùng chư vị huynh đệ tới Bắc Kinh, anh em chúng tôi tự biết tiếp đãi thiếu chu đáo, đã làm mích lòng chư vị anh hùng, cho nên mới phái tiểu nhân tới đây xin lỗi.
Nói xong, y vái chào lia lịa. Tề Vân Ngao cứ việc ăn uống, không thèm đáp lễ lại.
Thanh Thanh nghĩ thầm: “Xưa nay bọn công sai vẫn cậy thần cậy thế hà hiếp lương dân, lúc ấy sao bọn chúng hung ác như lang như hổ? Nay gặp phải tay cứng cỏi, y đã chịu quy lụy hèn hạ đến thế rồi! Ta hãy xem kết cuộc ra sao.”
Đơn Thiết Sinh lại nói:
– Anh em chúng tôi thật hồ đồ quá, thất lễ với Tề anh hùng bao lâu nay mà vẫn không hay biết chi cả. Bây giờ Tề anh hùng muốn sai điều gì, nếu anh em chúng tôi có thể làm được, sẽ tuân theo tôn lệnh ngay.
Tề Vân Ngao nói:
– Cho tới ngày hôm nay, chúng tôi lấy của ngân khố tất cả là chín nghìn năm trăm lạng. Con số ấy nhỏ quá, vẫn còn ít quá. Chúng tôi định khi nào lấy đủ mười vạn lạng mới thôi!
Đơn Thiết Sinh nói:
– Hộ Bộ Sát đại nhân của Cửu môn đề đốc Chu đại tướng quân hễ biết tới chuyện này thể nào cũng đến đây xin lỗi và thỉnh an Thành Vương gia ngay. Chúng tôi là kẻ bề dưới, chỉ có việc xin đại ca thương cho bát cơm để cho đệ và các cháu nó được nhờ.
Tền Vân Ngao trợn mắt lên rồi nói:
– Ngươi đã biết số bạc đó ở trong biệt thự của Thành Vương rồi chẳng lẽ ngươi còn muốn thoát chết ra khỏi nơi đây hay sao?
Lời nói đó vừa dứt, không khí trong khách sảnh căng thẳng tức thì. Thanh Thanh đang định nói vài câu bỗng nghe một tiếng còi rất lớn ở bên trong vọng ra. Tiếng còi đó rùng rợn vô cùng, ai nấy đều sờn lòng, dựng tóc gáy. Thanh Thanh cũng kinh hãi, nắm tay Thừa Chí hỏi:
– Cái gì thế?
Tề Vân Ngao vội đứng dậy, lớn tiếng nói:
– Giáo chủ thăng tọa. Mọi người hãy chờ đợi chỉ thị phát lạc, xem ai hên thì được sống mà ai xui thì bị hành hình tức thì.
Đơn Thiết Sinh giựt mình, kinh ngạc nói:
– Ủa, Giáo chủ của quý phái cũng tới Bắc Kinh rồi ư?
Tề Vân Ngao cười nhạt một tiếng không thèm trả lời, đi thẳng vào bên trong, Đơn Thiết Sinh nói:
– Tình thế này nguy cấp lắm, chúng ta phải chạy cho mau! Nếu Ngũ Độc giáo đã tới thật thì chúng ta chết không còn mảnh xương.
Thừa Chí định ở lại xem sao nhưng chàng thấy Thanh Thanh tay run bây bẩy và không khí xung quanh đó âm thầm đáng sợ, liền nói:
– Cũng được, chúng ta hãy rút lui trước, rồi sẽ nói sau.
Mọi người vừa quay mình định đi, trong sảnh bỗng tối đen như mực. “Đoành” một tiếng, phía sau không biết là tấm gang hay tảng đá lớn hạ xuống. Mọi người đều kinh hãi, lại nghe tiếng kêu rất thảm thiết, hình như tiếng kêu của các loài ác điểu hòa hợp với tiếng rắn rít độc vang dội lên. Mọi người tuy võ nghệ cao cường nhưng bỗng lâm vào cảnh rùng rợn này, ai nấy đều lo âu cả. Bỗng nhiên một ánh sáng chói lọi chiếu tới, làm nơi đó sáng tỏ như ban ngày. Hai thằng bé áo đen đi tới cúi mình khẽ chào rồi nói:
– Giáo chủ tuyên triệu các người lên trên điện.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Không biết quái vật gì lại hách đến thế? Ta cứ lên trên điện xem sao đã, rồi hãy tính toán sau.”
Chàng liền dắt tay Thanh Thanh, theo hai tên nhỏ áo đen đi trước, các người đành phải theo sau cùng đi lên trên điện.
Đi qua một con đường hẹp khá dài và quanh co, rồi lên tới một điện trường. Chỉ thấy trên điện trường có bày một ghế bành ở giữa, trên ghế phủ gấm vóc màu đỏ, tám thằng bé chia đôi đứng hầu, Đám người lên tới điện cũng đứng sang hai bên. Như vậy, mỗi bên có năm thằng, mỗi đứa mặc áo một màu sắc khác nhau. Đứa đứng trên nhứt mặc áo đỏ, rồi tới áo vàng, áo lam, áo trắng, và áo đen. Quần áo của chúng đều bằng gấm cả. Nhìn kỹ, Thừa Chí nhận ngay ra hai tên áo đỏ đúng là tên trộm bạc bữa nọ nhưng lúc này mấy đứa trẻ đều cúi đầu mắt nhìn xuống đất, không thèm để ý tới bọn Thừa Chí.
Bỗng có tiếng chuông ở phía sau điện đưa ra, tiếp theo đó một số nguời khá đông đảo bước ra, có cả đàn bà, rồi chúng đứng sang hai bên.
Thừa Chí đếm thầm, thấy mỗi bên có tám người tất cả là mười sáu người. Tên Cẩm Y Độc Cái đứng vào hàng thứ năm bên trái. Còn người đàn bà mắt sâu mũi lõ mặt tái mét, đứng hàng thứ hai bên phải là một mụ ăn xin, Thừa Chí nghĩ: “Người này chắc là mụ ăn xin đã hại ngầm Trình Thanh Trúc cũng nên?”
Nghĩ đoạn, chàng liền khẽ hỏi Đơn Thiết Sinh rằng:
– Chúng đang làm cái trò quỷ gì thế?
Đơn Thiết Sinh mặt nhợt nhạt, tiếng nói run run, khẽ đáp:
– Chúng là Ngũ Độc giáo ở tỉnh Vân Nam. Lần này, chúng ta thế nào cũng bị chết mất thôi.
Thừa Chí nói:
– Ngũ Độc giáo là cái gì?
Đơn Thiết Sinh vội nói:
– Trời ơi, Viên tướng công có biết Ngũ Độc giáo là một tà giáo giết người không chớp mắt không? Giáo chủ là Hà Thiết Thủ Tướng công có biết người đó không?
Thừa Chí lắc đầu, Đơn Thiết Sinh lại nói tiếp:
– Nhân lúc Giáo chủ của chúng chưa ra đây, chúng ta phải mau nghĩ cách mà bôn tẩu đi!
Thừa Chí nói:
– Hãy chờ một lát nữa!
Hình như quá sợ hãi, Đơn Thiết Sinh định đào tẩu một mình, bỗng nhiên chắp tay chào, rồi nói:
– Tiểu nhân xin phép rút lui trước.
Vừa nói dứt lời, y đã nhảy lên trên bờ tường. Người to lớn đứng hàng thứ hai phía bên trái, đột nhiên nhún mình một cái, đã nhảy theo và đã nắm được chân trái của Đơn Thiết Sinh rồi. Nhờ võ công khá cao, Đơn Thiết Sinh an nguy vẫn bình tĩnh, khòm lưng dùng chưởng phải bổ thẳng xuống đầu kẻ địch. Người cao lớn nọ giơ tay lên đỡ liền.
Chỉ nghe bộp một tiếng, cả hai người cùng rơi xuống mặt đất. Sau một tiếng cười khinh, người cao lớn đó lại quay trở về chỗ cũ đứng yên như trước.
Đơn Thiết Sinh thấy cổ tay phải và chân trái như bị khí giới chém vậy, đau buốt tận xương. Vội cúi đầu nhìn hai vết thương, y thấy cả hai nơi đều có năm lỗ nhỏ rỉ máu đen ra, hoảng sợ quá mức nằm lăn ra đất. Thì ra mười ngón tay của người cao lớn kia đều đeo nhẫn có gai nhọn và tẩm thuốc rất độc. Thừa Chí tiến lên đỡ Đơn Thiết Sinh dậy. Tiếp theo đó mười thằng bé móc túi lấy còi kỳ lạ ra thổi mấy tiếng. Bọn chúng bèn phủ phục xuống đất. Phía hậu điện có hai mỹ nữ từ từ bước ra. Nhóm Thừa Chí ai ai cũng tưởng rằng những thủ hạ của Giáo chủ kỳ hình quái trạng và hung ác như thế, chắc Giáo chủ còn kỳ dị hung ác hơn thế nữa. Nay bỗng nhiên trông thấy hai người con gái đẹp đẽ đến thế, ai nấy đều ngạc nhiên. Hai thiếu nữ đứng sang hai bên, rồi hô to:
– Giáo chủ thăng điện!
Bỗng nhiên gió đưa mùi thơm tới, phía sau điện một thiếu nữ mặc áo sa màu hồng bước ra. Thiếu nữ nọ mày rồng mắt phượng, miệng cười tủm tỉm, tuổi trạc độ hai mươi ba, hai mươi bốn, trông thấy đẹp đẽ, đi chân không, hai tay và chân đều đeo vòng vàng, da trắng như ngà, tóc xõa xuống tận vai và cột bằng một cái vòng vàng. Nàng đi tới ghế bành để ở giữa ngồi xuống. Sau lưng nàng lại có hai thiếu nữ tay bưng khăn và quạt theo ra.
Thiếu nữ nọ tươi cười nói:
– Ủa, không ngờ lại có nhiều khách tới thăm thế này, mau lấy ghế ra mời các quý khách ngồi!
Mấy thằng nhỏ vào bên trong dọn mấy cái ghế ra mời bọn Thừa Chí ngồi. Lúc này đầu óc Thừa Chí mơ hồ quá, chàng nghĩ: “Chẳng lẽ Ngũ Độc giáo chủ Hà Thiết Thủ mà Đơn Thiết Sinh hãi sợ hơn sài lang hổ báo là người con gái trẻ tuổi này ư?”
Thiếu nữ nọ thỏ thẻ nói:
– Xin các quý khách cho biết tánh danh?
Thừa Chí đáp:
– Tôi họ Viên, còn mấy người đây là bạn của tôi. Dám hỏi cô nương quý tánh danh là gì?
Người con gái trả lời:
– Tôi họ Hà.
Thừa Chí giật mình, nghĩ thầm: “Nếu vậy nàng quả thật là Giáo chủ của Ngũ Độc giáo rồi.”
Nguời con gái lại hỏi:
– Có phải ngài đến đây muốn đòi số bạc của ngân khố không?
Thừa Chí đáp:
– Không phải ạ. Người bạn họ Đơn đây mới là người ăn lương của cửa công còn chúng tôi chỉ là bình dân bá tánh thôi, và chúng tôi mới quen bạn họ Đơn đây không bao lâu. Việc của nhà cầm quyền, chúng tôi không dám dây dưa tới.
Người con gái lại nói:
– Hay lắm, vậy quý vị tới đây có việc gì thế?
Thừa Chí đáp:
– Tôi có người bạn họ Trình không biết y làm gì mích lòng các bạn trong quý giáo mà bị ám hại đến nỗi trọng thương, nên tôi mới đến đây hỏi xem. Nếu có sự gì hiểu lầm chúng ta cứ nói trắng ra là vô sự ngay.
Người con gái ấy cười vài tiếng rồi nói:
– Ồ, thế ra quý khách là bạn của Trình lão phu tử đấy. Nếu vậy thì khác hẳn. Thoạt tiên tôi cứ tưởng Viên tướng công là đồng bọn với lũ chó săn. Bây đâu, mau rót nước trà ra.
Mấy thằng nhỏ dọn kỷ trà ra, rồi rót nước đem mời mọi người. Thấy nước trà xanh rì, mọi người không biết là nước gì, tuy mùi thơm nồng lên mũi nhưng không ai dám uống cả.
Người con gái đó nói:
– Nghe Tề sư huynh nói, Viên tướng công là người khẳng khái hiếu khách lắm, lại có con Băng Thiềm chỉ bảo, nên tôi đã đoán Tướng công quyết không phải là bè lũ chó săn đâu.
Thừa Chí nghĩ: “Nếu nàng là Giáo chủ thật, tại sao gọi người bộ hạ là sư huynh như vậy?”
Nghĩ vậy, chàng hoang mang vô cùng, nên chỉ hàm hồ ứng đáp.
Người con gái ấy lại nói:
– Con Băng Thiềm của Viên tướng công quý báu lắm, chẳng hay có thể cho tôi được qua mắt để rộng trí tuệ không?
Thừa Chí nghĩ: “Nếu đưa con Băng Thiềm cho nàng, nhỡ nàng không trả thì sao?”
Vừa nghĩ chàng vừa lấy con Băng Thiềm ra hút độc cho Đơn Thiết Sinh. Bọn giáo dân của Giáo Ngũ Độc trông thấy vết thương hết màu đen tức thì đều tỏ vẻ hớn hở. Lòng hiếu thắng thúc đẩy, người con gái ấy nói:
– Tôi chỉ sợ chất độc thật độc hơn nữa, con Băng Thiềm này chưa chắc chữa khỏi được.
Thừa Chí nghĩ: “Giáo phái của nàng tên là Ngũ Độc, mà con Băng Thiềm của ta lại khắc chết các thứ độc, thật là tối kỵ với họ. Ta nên khiêm tốn một tí thì hơn.”
Nghĩ đoạn, chàng liền nói:
– Lẽ dĩ nhiên rồi. Nhưng chất độc rất lợi hại ở trên thế gian này còn nhiều lắm. Chớ con Băng Thiềm nho nhở này thì ăn thua quái gì!
Thanh Thanh không phục, đỡ lời ngay:
– Chưa chắc!
Người con gái nọ thấy Thừa Chí nói như vậy, tỏ vẻ đắc chí, bỗng nghe thấy Thanh Thanh nói cưỡng lại, liền “hừ” một tiếng rồi nói:
– Lấy Ngũ Thánh ra đây!
Năm thằng bé vào bên trong bưng năm cái hộp sắt ra, còn năm đứa bé kia bưng một cái chậu to bằng mặt bàn ra, để ở giữa điện.
Mười thằng bé đứng xung quanh chậu cát, thằng bé áo đỏ bưong hộp đỏ, thằng bé áo vàng bưng hộp vàng, nghĩa là năm thằng bé mặc áo gấm năm màu bưng năm cái hộp cũng năm màu cùng với màu áo của chúng.
Thừa Chí nghĩ: “Hành động của những người này có vẻ yêu quái thật nhưng cứ xem chúng sắp chỗ đứng theo đúng ngũ hành, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ thế kia thì chúng có tài thật sự chớ không phải làm bộ để dọa nạt mọi người đâu!”
Tiếp theo đó, người đứng hàng thứ nhì ở bên tay phải, ăn mặc quần áo Mường đi tới cạnh chậu cát, móc túi lấy một cái cờ xanh khẽ phẩy một cái, năm thằng nhỏ liền mở nắp hộp ra. Thanh Thanh kinh hãi kêu rú lên. Thì ra những cái hộp ấy mỗi hộp có một con vật hình thù kỳ dị nhảy ra.
Năm con vật ấy gồm một con rít, một con rắn, bò cạp, nhện tía, và một con cóc. Con nào con nấy lông lá, to lớn trông thực gớm ghiếc.
Thừa Chí nghĩ: “Nếu phải dụng võ chưa chắc bên chúng ta đã phải thua họ. Nhưng họ giở những yêu phép quỷ quái này, ta không hiểu chúng làm gì, chớ có lại mắc mưu của chúng thì dại.”
Nghĩ xong, chàng nhìn vào trong chậu, thấy con thanh xà dài độ ba tấc, không có điểm gì lạ hơn rắn thường cả. Còn bốn con kia thì to lớn hơn những con thường thấy.
Năm con độc vật chạy quanh trong cát, rồi con nào con nấy dương nanh múa vuốt, hình như đang sửa soạn tranh đấu lẫn nhau. Con nhện cứ nhả sợi luôn luôn, rồi kết lưới ở một góc chậu. Con bò cạp nhảy xổ vào cắt lưới làm đứt nhiều sợi, thì lùi ra, trợn mắt nhìn kẻ địch rồi lại tiếp nhả sợi kết lưới, chưa xong lại bị con bò cạp xông vào phá rách. Mấy lần như vậy, thân con bò cạp đã dính khá nhiều sợi không lanh lẹ như trước nữa, có mấy cái chân còn bị sợi tơ quấn chặt lấy không sao vứt ra được. Lúc này con nhện mới thừa cơ phản công, cứ nhả sợi ra ở cạnh con bò cạp, kết mấy lớp lưới thật dầy rồi lăng xăng chạy tới cạnh con kia giơ chân ra khiêu khích. Đột nhiên con bò cạp quay cái đuôi độc trở lại, đánh đến “bộp” một cái. Nhanh như chớp, con nhện đã lùi ngay ra. Lại mấy lần khiêu khích và rút lui như vậy, con nhện làm cho con bò cạp tức giận quá. Sau cái quật đuôi không trúng, con bò cạp liền đuổi theo, không đề phòng bị ngã ngay vào cạm bẫy của địch. Thấy bò cạp xông pha cựa quậy mãi, sắp phá thủng được một chỗ lưới rồi, con nhện lại nhả luôn mười mấy sợ, quấn chặt lấy mình con kia.
Cựa quậy mãi không thoát thân nổi, con bò cạp đuối sức dần. Mừng quá, con nhện xông lên cắn luôn. Đau quá, con bò cạp cứ kêu la “chít chít” luôn mồm. Thế là con nhện ung dung xé con bò cạp ra ăn thịt, đang ăn thịt kẻ địch ngon miệng, con nhện bỗng thấy thiên sa phun tới. Con Thiềm thừ phá trận xông thẳng vào, thè cái lưỡi dài cuộn luôn con bò cạp ở trong lưới nhện ra, nuốt chửng tức thì. Con nhện cả giận, xông lại đánh Thiềm thừ. Chờ kẻ địch xông tới gần, con Thiềm thừ thè lười ra định cuốn. Con nhện nhanh nhẹn cắn luôn lưỡi địch. Biết nhện lợi hại, Thiềm thừ mau rụt lưỡi lại. Còn nhện từ từ bò tới phía trái con kia, nhả một sợi lớn cho dính vào cạnh chậu, rồi bỗng nhảy lên, đem cả dây sợi bay sang phía bên kia, khi qua đầu con Thiềm thừ thừa cơ cắn luôn lưng con nọ một cái.
Thanh Thanh thở dài một tiếng và nói:
– Không ngờ con vật nhỏ thế này mà cũng biết dùng mưu trí!
Thiềm thừ vội quay mình lại phản công thì con nhện đã bay qua mất rồi. Một lát sau, chất độc con nhện lan ra, con Thiềm thừ đau quá, lăn lộn mấy vòng, rồi nằm ngửa ra chết.
Con nhện nhảy lên mình con Thiềm thừ, há mồm ra cắn. Bên kia, con Thanh xà đang bị con rít đuổi chạy vòng quanh cái chậu, vừa sợ hãi, vừa tức giận. Lúc chạy qua cạnh con Thiềm thừ, con Thanh xà há mồm đớp luôn con nhện và nút chửng luôn, rồi lại ngoạm con Thiềm thừ. Con rít biết rằng, nếu để con Thanh xà nuốt luôn con bò cạp, như vậy kẻ địch đã ăn luôn tam độc, và thêm nọc độc của bản thân, nó có tất cả bốn thứ độc thì địch sao nổi, nên con rít xông ngay lại dùng hai cái kềm độc ở gần mồm kềm chặt lấy con Thiềm thừ. Hai con đều dùng sức kéo co. Một hồi lâu, Thanh xà đuối sức dần bị con rít lôi đi một quãng.
Thấy con rít sắp nuốt hết nửa con Thiềm thừ rồi, con Thanh xà định bỏ mồi bôn tẩu. Ngờ đâu, răng của nó mọc ngược, mắc chặt lấy thân con Thiềm thừ, không sao nhả ra được để tẩu thoát thân, nên con Thanh xà cuống lên, trông thật buồn cười.
Lúc ấy, năm đệ tử đứng xung quanh cái chậu, thấy mấy con vật đã phân thắng bại rồi, đều ngừng tay chân không hành pháp nữa, và ai nấy trở về nguyên vị. Một lát sau, con rít đã nuốt cả con Thiềm thừ lẫn con rắn vào bụng rồi, chạy quanh chậu một vòng, ngẩng đầu tỏ vẻ tự đắc. Bọn Thừa Chí thấy con rít dài chừng 2 thước, nó đã ăn bấy nhiêu con độc vật mà bụng chỉ hơi phùng lên thôi. Hành động vẫn linh động như thường, ai nấy đều làm lạ. Thừa Chí nói với Thanh Thanh rằng:
– Con rít này ăn nhiều thế mà không thấy nó bội thực nhỉ?
Ngũ Độc giáo chủ Hà Thiết Thủ nói xen vào rằng:
– Nó nuốt tứ độc đã hóa thành đại thanh, pháp lực bỗng tăng thêm, cho nó nuốt thêm mấy con rắn nữa cũng được.
Thấy Thừa Chí có vẻ không tin, nàng liền bảo tên nhỏ áo lam rằng:
– Lấy vài con thanh xà ra đây.
Tên nhỏ ấy vào lấy bảy con thanh xà ra, bỏ vào trong chậu. Bảy con Thanh xà quấn lấy nhau thành một vòng tròn, bảy cái đầu hướng ra ngoài để chống cự với kẻ địch, nhờ vậy con rít không sao tấn công nổi. Mấy lần tấn công không thành, con rít vẫn không nản chí, cứ tiếp tục xông lên, rốt cuộc cắn được đầu một con Thanh xà, lôi kéo ra ngoài. Sáu con Thanh xà kia đều rên rỉ kêu la. Con rít cắn chết con Thanh xà đầu nhưng không ăn ngay, để sang một bên lại xông vào tấn công đàn rắn nọ.
Cẩm y Độc Cái Tề Vân Ngao bỗng ở trong bàn bước ra, quỳ xuống trước mặt Hà Thiết Thủ, nhưng chỉ quỳ có một chân rồi tâu:
– Thưa Giáo chủ, con kim xà cứ cử động luôn luông không cho nó ra sợ nó điên khùng mất.
Hà Thiết Thủ cau mày nói:
– Nó hay đa sự lắm. Thôi được!
Tề Vân Ngao liền móc túi lấy cái ống sắt, mở nút thả con rắn vàng bữa nọ bắt được ở trên tuyết ra khỏi ống sắt, con kim xà đại trấn oai phong, bỗng nhảy phắt lên,rồi xổ xuống trước mặt sáu con Thanh xà. Con rít vội lùi lại. Thấy có cứu tinh, sáu con rắn liền cuộn tròn lại thành một đống.
Con kim xà tuy thân hình bé nhỏ nhưng nó lanh lẹn vô cùng. Đã thấy tài ba của nó rồi, Thừa Chí và Thanh Thanh biết truớc con rít không phải là địch thủ. Quả nhiên, tranh đấu không bao lâu, con rít bị con kim xà cắn một cái chết liền. Mấy con rắn kia đều bò lại quây quần và cọ sát vào mình con kim xà, hình như chúng cảm ơn con kim xà đã cứu cho khỏi chết vậy.
Thừa Chí cười nói:
– Không ngờ trong giống loài rắn rít này mà cũng có hiệp sĩ!
Thanh Thanh sực nghĩ tới một việc liền rỉ tai Thừa Chí khẽ nói:
– Em muốn lấy được con Kim Xà này!
Thừa Chí đáp:
– Chú trẻ con thật, khi nào người ta chịu cho cơ chứ?
Thanh Thanh khẽ nói:
– Anh có nhớ biệt hiệu của cha em là gì không?
Thừa Chí rùng mình, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ Kim Xà Lang Quân có liên quan với con kim xà này thật chăng?”
Mụ già ăn xin từ lúc đầu tới giờ vẫn không chớp mắt nhìn thẳng vào mặt Thanh Thanh. Lúc này mụ bỗng ở trong bàn nhảy ra, giơ tay định cào vai Thanh Thanh và quát lớn rằng:
– Kim Xà Lang Quân là người thế nào với ngươi?
Có một điều lạ nhứt là mặt mụ ăn xin xấu xí như thế, mà lời nói lại thỏ thẻ như tiếng chim oanh ca hót êm dịu vô cùng.
Thanh Thanh giật mình, nhảy ra xa một bước để tránh, rồi quát hỏi:
– Mụ định làm trò gì thế?
Bỗng có tiếng gió phất phới bởi tà vải áo tung ra, thì ra hai người đứng cạnh Giáo chủ Hà Thiết Thủ đã nhảy tới đứng hai bên cạnh mụ ăn xin, đồng thanh lớn tiếng hỏi:
– Thằng nhãi họ Hạ ở đâu?
Chỉ thoáng một cái, Thừa Chí đã thấy hai người nọ tiến lên nửa trượng rồi, đủ rõ họ đều là người võ công bực cao chớ không phải là tay thường. Chàng càng lo ngại, để ý nhận xét kỹ hai người nọ, thấy một người vừa cao vừa gầy, và một người thân hình tầm thước, mặt đen xì, hình như cả hai đều là dân quê thường, tuổi trạc năm mươi.
Xưa kia vì chưa rõ thân thế của mình, Thanh Thanh cứ tự cho mình là con nhà hèn mọn, nhưng từ khi mẹ nàng kể chuyện cho hay, trong lòng nàng rất thán phục sự tài ba lỗi lạc của người cha. Nên lúc này vừa nghe có người hỏi tới mình, nàng liền ngẩng mặt vênh váo nói:
– Kim Xà Lang Quân là cha tôi, các ngươi hỏi để làm gì?
Mụ ăn xin cả cười một hồi thật dài khiến ai nghe cũng phải rùng mình ghê sợ, rồi lớn tiếng nói:
– Thế ra y vẫn chưa chết và còn lưu lại một nghiệp chướng là ngươi!
Tên gầy và cao nói:
– Y ở đâu?
Thanh Thanh hất hàm lên rồi nói:
– Tại sao ta lại phải nói cho các ngươi biết?
Mụ ăn xin trợn ngược đôi lông mày, hai tay bỗng cào vào mặt Thanh Thanh. Mụ nọ tấn công một cách đột nhiên quá, Thanh Thanh không kịp trốn tránh. Ai ai cũng yên trí bộ mặt trắng nỏn như tuyết của nàng sắp bị mười ngón tay đeo móng gang cào nát đến nơi. Thừa Chí vội giơ tay áo phẩy lên một cái, chỉ nghe “bốp” một tiếng, đã đánh trúng hai cánh tay của mụ. Thừa thế, chàng dùng tay áo quấn hai cánh tay mụ nọ, rồi kéo lại và đẩy đi ột cái, thế là mụ ăn xin mất thăng bằng, bật lộn về phía sau một vòng, và ngã ngồi phịch xuống đất, đến “đẹt” một cái.
Lúc bấy giờ, các giáo chúng của Ngũ Độc giáo đều nhìn nhau kinh ngạc. Mụ ăn xin Hà Hồng Dược là cao thủ trong giáo phái, vai vế con trên Giáo chủ đương kim một bực, mà không hiểu tại sao mụ lại bị một tên thanh niên không gì hơn người, quật ngã một cách dễ dàng như vậy được? Người gầy cao là Phan Tú Đạt và người tầm thước là Trình Kỳ Tư, cả hai đều la tả hữu hộ pháp của Ngũ Độc giáo. Họ nhìn nhau, gật đầu một cái.
Phan Tú Đạt nói:
– Để tôi lãnh giáo trước.
Thấy thế Sa Thiên Quảng liền nói:
– Viên tướng công, cho phép tiểu đệ tiếp người này?
Biết Sa Thiên Quảng không phải là địch thủ, Thừa Chí không tiện ngăn cả, chỉ nói rằng:
– Sa huynh nên dùng quạt, vì các ngón tay của họ đều đeo móng nhọn, cũng là một thứ khí giới đấy!
Sa Thiên Quảng liền giở quạt âm dương ra đấu với Phan Tú Đạt. Còn bên này chàng Câm đã lẳng lặng đấu với Trình Kỳ Tư rồi. Cả hai cặp cùng nhau tranh đấu rất kịch liệt. Một lát sau, mọi người bên Ngũ Độc giáo đều xông cả lên. Hồ Quế Nam, Thiết La Han, và Thanh Thanh cũng rút khí giới ra tiếp chiêu. Mụ ăn xin Hà Hồng Dược hung hăng như lang hổ nhảy xổ đến đánh Thanh Thanh.
Chắc thế nào mụ kia cũng có sự oán thù rất lớn, Thừa Chí tuy không biết rõ, nhưng chàng đoán chắc thế nào cũng có việc liên can với Kim Xà Lang Quân, vì khi mụ vừa biết Thanh Thanh là giòng dõi của Kim Xà Lang Quân, liền bất chấp hết thảy, xông lên cảnh cáo liền.
Thừa Chí nghĩ: “Mụ nọ ra tay độc ác lắm, ta không thể nào để cho mụ gần gũi Thanh Thanh được.”
Nghĩ đoạn, vừa thấy Hà Hồng Dược sắp tiến sát tới mình người yêu, chàng nhảy phắt lại, nắm lấy lưng kẻ địch, nhấc bổng lên, rồi vứt ra phía xa. HàThiết Thủ sầm nét mặt lại, giơ ngón tay trỏ bên phải để lên mồm thổi lên một cái. Giáo chúng lúc nhảy vào thì rất hăng hái và khi lùi về cũng rất nhanh nhẹn. Thoáng một cái, bọn giáo chúng đã trở lại đứng cạnh Giáo chủ xếp hàng như cũ. Hà Thiết Thủ mỉm cười nói với Thừa Chí rằng:
– Viên tướng công nho nhã văn vẻ như thế, không ngờ lại có võ công tuyệt diệu như vậy, cho tôi lãnh giáo vài hiệp có được không?
Thừa Chí đáp:
– Chúng tôi xưa nay không quen biết các bạn của quý giáo bao giờ, và không biết chúng tôi mang lỗi với các bạn ấy ở đâu, mong cho hay rõ, để tôi biết mà xin lỗi.
Mặt đỏ bừng, Hà Thiết Thủ thỏ thẻ nói:
– Sự thật, việc của chúng tôi chỉ có liên quan với nhà cầm quyền thôi. Viên tướng công không hiểu rõ nguyên nhân bên trong thì coi như không có việc gì nữa. Nhưng lúc này bỗng có Kim Xà Lang Quân dây dưa vào nên tiểu muội mới xin hỏi một câu, chẳng hay Kim Xà Lang Quân hiện giờ ở đâu?
Thanh Thanh kéo tay áo Thừa Chí rồi khẽ nói:
– Anh đừng nói cho họ biết nhé!
Thừa Chí hỏi Hà Thiết Thủ rằng:
– Xưa nay Giáo chủ vẫn quen biết Kim Xà Lang Quân phải không?
Hà Thiết Thủ đáp:
– Y với tệ giáo liên can rất mật thiết. Cha tôi cũng vì y mà phải về chầu Trời. Hai vạn giáo hữu của tệ giáo đều muốn kiếm y.
Thừa Chí và Thanh Thanh đều giật mình kinh hãi, tuy chưa được gặp, cả hai người cũng biết Kim Xà Lang Quân thần xuất quỷ mật, đi đâu cũng gây thù địch, Ngũ Độc giáo cám ơn ông ta, không phải là chuyện kỳ lạ gì cả.
Thừa Chí nói:
– Kim Xà Lang Quân ở cách nơi đây hàng vạn dặm, có lẽ quý vị không bao giờ có thể gặp mặt ông ta được.
Hà Thiết Thủ nói:
– Nếu vậy, chúng tôi phải giữ con trai của y để tế lễ cha tôi đã.
Vừa nói vừa tủm tỉm cười, mặt nàng lúc nào cũng bẽn lẽn xấu hổ, không khác nào một thiếu nữ trong khuê các vậy, nhưng có ngờ đâu lời nói của nàng lại lợi hại đến thế?
Thừa Chí nói:
– Từ xưa tới giờ, người nào gây nên tội lỗi thì người ấy phải chịu. Quý vị có thù hằn với ông ta thì cứ việc đi kiếm thẳng ông ta mới phải.
Hà Thiết Thủ nói:
– Hồi cha tôi sắp tắt thở, tiểu muội mới lên ba. Hai mươi năm nay, tiểu muội đã kiếm khắp mọi nơi, đều không thấy tung tích của Hạ tiền bối. Bây giờ chúng tôi giữcông tử này ở lại, lẽ dĩ nhiên ông ta phải lại đây tìm kiếm, như vậy chúng tôi có thể thanh toán những dĩ vãng ngay.
Không thể nhịn được nữa, Thanh Thanh nổi giận quát lớn:
– Hừ, đừng có mơ mộng hão huyền làm gì? Ta đi báo cho cha ta hay, các người sẽ bị chém giết chết hết.
Hà Thiết Thủ quay đầu hỏi Hà Hồng Dược rằng:
– Nó có giống cha nó không?
Hà Hồng Dược đáp:
– Hình dáng, mặt mũi nói giống cha nói như đúc, và cả tánh nết cũng vậy, không khác một tí nào.
Hà Thiết Thủ thỏ thẻ nói với Thừa Chí rằng:
– Viên tướng công, xin mời quý vị lại nhà, tiểu muội chỉ giữ một mình Hạ công tử ở lại đây thôi!
Nói xong, nàng xua tay, hình như tiễn khách ra về vậy.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Họ chỉ căm hờn một mình chú Thanh thôi, hiện giờ tình thế ở đây hiểm nghèo lắm, ta hãy đưa nàng ra khỏi đây trước. Còn những người khác, dù không tẩu thoát được cũng không đến nỗi nguy hiểm cho lắm.”
Nghĩ đoạn, chàng cúi chào một cái, miệng nói:
– Nếu vậy, chúng ta sẽ tái kiến!
Chưa dứt lời, chàng bỗng ôm ngang lưng Thanh Thanh lên, cặp vào cạnh nách, rồi chạy về phía chân tường. Nhưng bờ tường quá cao, lại thêm cắp Thanh Thanh bên hông, chàng không thể nhảy lên được, liền dùng hai tay bưng ngang người yêu ném thẳng lên trên bờ tường và la lớn:
– Chú Thanh, cẩn thận!
Mọi người bên Ngũ Độc giáo đều nổi giận kêu la, ám khí tung lên như mưa, chàng bèn múa hai tay áo lên chống đỡ, tất cả ám khí đều rơi xuống đất hết, Thanh Thanh bám được bờ tường, đang định nhảy ra bên ngoài, thì Hà Thiết Thủ đã rời khỏi chỗ ngồi, tả chưởng nhắm thẳng mặt Thừa Chí đánh mạnh mẽ tới. Thấy hình bóng nàng vừa mới nhúc nhích, Thừa Chí đã thấy quyền phong của nàng đánh tới đầu mũi mình rồi. Từ khi hạ sơn tới giờ, chàng chưa hề gặp địch thủ nào võ nghệ cao cường đến thế bao giờ. Chàng nhận thấy chỉ có nhị sư ca Quy Tân Thụ mới ngang tài với nàng thôi. Nàng là phận gái mà tài ba luyện tới mức ấy thật hiếm có, vì vậy chàng vừa kinh hãi, vừa cảm phục, liền quát lớn:
– Giỏi lắm!
Chàng vội ưỡn mình về phía sau để tránh, liếc mắt nhìn, thấy quyền của đối phương lại là một cái móc sắt đen xì, càng kinh hãi thêm. Tay phải nàng phẩy một cái, một chiếc vòng vàng bay ngay lên trên bờ tường, Hà Thiết Thủ quát lớn:
– Xuống đi!
Bỗng thấy chân trái đau buốt xương, Thanh Thanh đứng không vững ngã lộn rơi xuống dưới chân tường. Hà Hồng Dược cả cười một hồi, nghe rất kinh hãi, mười ngón tay gang của mụ bỗng rời khỏi các ngón tay, đều nhắm mình Thanh Thanh bắn tới.
Lúc ấy, Thừa Chí với Hà Thiết Thủ đã đánh được năm hiệp rồi, thế công lẫn thế thủ của hai người đều như vũ bão nhanh nhẹn vô cùng.
Chàng liếc mắt thấy Thanh Thanh sắp bị lâm nguy, vội móc túi lấy một nắm quân cờ ném ra, chỉ nghe “loong coong” mấy tiếng mười cái móng gang của Hà Hồng Dược đều rơi cả xuống đất, Hà Thiết Thủ la lớn:
– Tài nghệ lỗi lạc lắm!
Vừa khen ngợi, nàng vừa tấn công hai móc liền. Trông thấy rõ tay phải nàng trắng nõn nà như ngọc ngà, năm ngón tay xinh xinh có bôi nước màu hồng của hoa Phụng Tiên, nên bàn tay phải nàng vừa đánh tới, Thừa Chí ngửi thấy mùi thơm khá nồng ngát. Còn tay trái của nàng không hiểu tại sao lại chặt cụt mất bàn tay đi, cổ tay lắp một cái móc sắt, để thay thế mấy ngón tay đã mất. Móc sắt ấy cũng khóa, đánh, kéo, bổ, vân vân, linh động không kém gì bàn tay thật.
Thừa Chí la lớn:
– Sa huynh, các ngươi mau cướp đường đào tẩu đi!
Lúc ấy, giáo chúng Ngũ Độc đã vây đánh bọn Sa Thiên Quảng từ lâu rồi, vì địch nhiều, Sa Thiên Quảng cùng mọi người muốn tháo thân nhưng không sao thoát khỏi vòng vây. Bỗng gặp phải kình địch, Thừa Chí phấn khởi vô cùng, liền giở những thế võ tuyệt chiêu của Phục Hổ chưởng ra oai dũng vô cùng. Thấy Hà Thiết Thủ đánh nhiều miếng hư chiêu, nghĩa là sắp đánh tới người địch, nàng lại thâu thế lại, Thừa Chí tưởng lầm đối phương nể mình, nên chàng cũng không ra hết sức đối địch. Trong khi đang đánh kịch liệt, Thừa Chí đưa mắt trông thấy Thanh Thanh vẫn ngồi dưới đất, không thấy đứng dậy trợ chiến, liền công vài thế thật lợi hại, đẩy Hà Thiết Thủ lùi vài bước, chàng nhảy lại đỡ Thanh Thanh đứng dậy.
Bỗng nghe một tiếng kêu đến “bộp” thật lớn, thì ra Thiết Hán và Trình Kỳ Tư bốn chưởng đập vào nhau, cả hai cùng sức mạnh đẩy lùi về phía sau mấy bước. Thiết La Hán thét lên một tiếng, lại tiến lên tấn công, đánh được mấy hiệp, bàn tay đã sưng dần. Y vừa lo vừa tức, vội lớn tiếng kêu bảo mọi người rằng:
– Tay của chúng có chất độc đấy, các anh em phải nên cẩn thận!
Lúc này, Thừa Chí mới hay, tên giáo dân nào cũng luyện Độc Sa chưởng cả, trong khi đối địch, hễ ai đụng phải độc chưởng của chúng là bị trúng độc ngay. Thấy tình thế càng ngày càng nguy cấp, Thừa Chí nghĩ: “Nếu không xông ra lúc này, tuy mình ta không sao, nhưng những anh em kia chỉ sợ bị chôn vùi ở trong cái ổ độc này mất.”
Thấy Thừa Chí đã đỡ Thanh Thanh đứng dậy, Hà Thiết Thủ không để cho chàng cứu giúp Thiết La Hán nữa, liền lanh lẹ tới cạnh chàng.
Thừa Chí lớn tiếng nói:
– Xưa nay chúng tôi không có thù hằn gì với Hà giáo chủ, tại sao không để cho chúng tôi rút lui, cứ dồn vào đường cùng như vậy? Quá lắm, tất nhiên chúng tôi phải ra tay thật sự, thì lúc ấy đừng có trách chúng tôi là người không biết điều nhé?
Hà Thiết Thủ tủm tỉm cười, hai má hiện lên hai đồng tiền, thỏ thẻ nói:
– Chúng tôi chỉ cần lưu lại Hạ công tử thôi, còn Tướng công và các người cứ tự tiện ra về.
Giơ chân trái quét ngang, Thừa Chí dùng bàn tay phải bổ vào mặt đối phương, Hà giáo chủ giơ tay ngọc thon thon lên đỡ, thấy sức mạnh tả chưởng của Thừa Chí quá khủng khiếp, liền nghĩ: “Nếu ta để bàn tay đụng vào bàn tay của y, giả sử y có trúng độc nhưng bàn tay ta cũng phải gãy ngay tức thì.”
Nàng liền sử dụng luôn ngón tay, định điểm vào Khúc Trì huyệt của đối phương. Thế ấy thay đổi vừa nhanh vừa đúng, nàng yên trí thế nào cũng đắc thắng.
Thừa Chí cũng phải khen ngợi rằng:
– Chỉ pháp hay lắm!
Chàng vội dùng tả chưởng quét ngang, định chém vào cổ địch thủ. Biết tay địch có chất độc, chàng liền thay đổi chưởng pháp ra quyền pháp, giở miếng “Phá Ngọc quyền”, môn võ tuyệt kỹ của sư môn ra. Thế quyền này miếng nào cũng thế hùng sức mạnh. Ngay như Lưu Bội Sinh đã được người ta tặng cho danh hiệu là Thần Quyền Thái Bảo mà cũng không chịu nổi năm miếng của chàng. Võ công của Hà Thiết Thủ tuy cao cường thật, nhưng dù sao, nàng cũng là phái yếu, thấy những miếng quyền nặng như búa bổ thì đâu dám chống đỡ cơ chớ?
Mặt của Hà Thiết Thủ đang tươi cười, thấy Thừa Chí quyền thế oai dũng như vậy, nàng tỏ vẻ sợ hãi, liền giở luôn tài nghệ tiểu xảo nhảy nhót ra để trốn tránh. Ngờ đâu, nàng nhanh Thừa Chí lại càng nhanh hơn. Thừa lúc nàng vừa lùi lại nửa bước, chàng giơ tả chưởng lên cao, hữu quyền bỗng dùng thế Thạch Phá Thiên Kinh (đá vỡ trời hãi) ra, đánh luôn vào mình Tề Vân Ngao đang đứng ở cạnh đó. Tề Vân Ngao la lớn:
– Thế này khéo đánh lắm!
Y liền giơ tay trái ra bắt quyền của đối phương. Thừa Chí bỗng ngồi sụp xuống, tay trái nắm luôn tay áo của địch, đồng thời chân phải móc luôn một cái, và dùng đùi chân trái đè lên đầu gối chỗ bánh chè của đối phương. Chỉ nghe “lách cách” một tiếng, bánh chè của Tề Vân Ngao bị chặt liền, đau đớn lạ thường, uể oải ngồi xụp suống. Lúc ấy, người đang đấu với Tề Vân Ngao là Hồ Quế Nam được rỗi tay, chạy sang cứu giúp Sa Thiên Quảng đang bị ba tên hảo thủ vây đánh.
Thừa Chí lớn tiếng dặn bảo:
– Lui tới chỗ chân tường, để tôi đi cứu người cho.
Hồ Quế Nam nghe lời liền quay lại đỡ ba người bị thương là Thanh Thanh, Thiết La Hán, và Đơn Thiết Sinh tới chỗ chân tường đứng chờ. Thừa Chí đưa mắt nhìn xung quanh, thấy Sa Thiên Quảng và chàng Câm đều một đấu với ba. Tình thế của Sa Thiên Quảng nguy cấp hơn, chàng vội giơ chân đá hai tên giáo dân vừa xông tới tấn công mình rồi chàng nhảy tới cạnh ba tên đang bao vây Sa Thiên Quảng, chỉ mấy miếng võ, đã đánh cho ba tên nọ sái cổ, trặc bả vai, và què tay rồi.
Một là Thừa Chí không muốn đánh nhiều kẻ địch bị thương, hai là chàng không dám tiếp tục chọi thẳng những bàn tay độc, cho nên chàng chỉ dùng lối bẻ tay hay vặn tay địch, để chúng sái chân què tay, nằm hay ngồi yên chỗ không chiến đấu được nữa thôi.
Cứu Sa Thiên Quảng thoát nạn, chàng lại nhảy tới cạnh chàng Câm. Đã học được tinh yếu quyền pháp của phái Hoa Sơn, chàng Câm chống chọi với ba tay cao thủ, tuy không thắng được, nhưng cũng không đến nỗi bị bại.
Hà Thiết Thủ huýt một tiếng còi, tất cả giáo dân đều xông lại vây đánh Thừa Chí và chàng Câm.
Chỉ thấy Thừa Chí nhảy sang Đông, xông Tây, đã đánh hai tên quây quần chàng Câm bị long quai hàm và cánh tay rời khỏi khớp rồi.
Còn một tên thấy thế sợ quá ngẩn người ra bị chàng Câm thoi một quyền vào sống mũi, máu tươi lai láng đầy mặt. Hăng máu, chàng Câm định đuổi theo đánh nữa. Thừa Chí túm luôn cổ áo chàng, lôi tới chân tường. Lúc ấy, mọi người đều tụ tập ở đó để chờ lệnh của Thừa Chí.
ở Vân Nam, Ngũ Độc giáo độc bá một phương, lừng tiếng khắp thiên hạ, các giới giang hồ hễ nghe tiếng của giáo phái này là đã chau mày lắc đầu, sợ hãi rồi. Vì các giáo dân của Ngũ Độc giáo không những võ công cao cường mà còn thiện dụng chất độc. Kẻ địch nào chỉ dính phải một giọt chất độc của họ là bị chết một cách thê thảm ngay. Có ngờ đâu, họ tới miền Bắc này lại gặp phải cường địch, nên các giáo dân đều vừa kinh hãi vưà tức giận. Hà Thiết Thủ huýt còi miệng lia lịa, các đệ tử vội xếp thành hàng ngũ, xông tới tấn công Thừa Chí.
Thừa Chí nói:
– Các người mau mau chạy đi, để mình tôi đối phó họ cho.
Khinh công khá nhất, Hồ Quế Nam lại khôn ngoan nữa, liền giở khinh công “Bích Hổ Du Tường” (thạch sùng bò trên tường) leo lên trên bờ tường trước, rồi tiếp tay đưa mọi người lên sau. Thừa Chí lại đánh ngã thêm mười mấy tên giáo dân, rồi chắp tay chào Hà Thiết Thủ và nói:
– Xin tái kiến, cô Giáo chủ!
Nói xong, cười ha hả, rồi dí lưng sát bờ tường, cứ thế leo lên trên đỉnh tường. Lão khất bà Hà Hồng Dược quát lớn một tiếng, liền nhắm thượng, trung, hạ bộ của Thừa Chí mà ném luôn năm móng tay gang. Mụ tưởng Thừa Chí đang leo tường như vậy tất khó tránh nổi. Thừa Chí phẩy tay áo một cái, năm móng tay gang đều quay trở lại, bắn vào phía giáo dân.
Hà Hồng Dược la lớn:
– Ngươi có phải là đệ tử của Kim Xà Lang Quân không?
Thừa Chí ngạc nhiên giây lát, rồi nghĩ thầm: “Thể nào mụ ta cũng có liên can rất lớn với Kim Xà Lang Quân.”
Chàng vừa nghĩ vừa leo lên rất nhanh, chưa kịp trả lời đã nhảy ra ngoài bờ tường rồi.
Lúc ấy, chàng Câm và Hồ Quế Nam đã bảo vệ Thanh Thanh và mọi người chạy tới chân bờ tường thứ tư tức tường màu vàng rồi. Bỗng thấy bức tường đó có tiếng kêu “kẹt kẹt”, và lộ ra một lỗ hổng rộng mấy thước. Thừa Chí biết ngay đó là cánh cửa máy, liền nhanh như mũi tên nhảy tới giữa cửa, đánh luôn một thế “Bài Sơn Đảo Hải”, lưỡng quyền đấm luôn hai tên giáo dân vừa mới xông ra, một cái thật mạnh. Thế là cả hai tên giáo dân ấy lộn ngược một vòng, bắn thẳng ra ngoài. Nhờ vậy, các tên khác không dám xông vào nữa.
Phan Tú Đại lên tiếng ra lệnh, bốn tên giáo dân giơ ống đồng lên thổi bốn khóm chất độc bắn thẳng vào mặt Thừa Chí. Chất độc chưa tới nơi, Thừa Chí đã ngửi thấy mùi hôi tanh lạ lùng, liền nhịn hơi nhảy lui về phía sau hơn trượng. Thế là chất độc vừa tới chỗ đứng cũ của chàng rơi cả xuống đất, một làn khí tanh hôi bốc lên liền. Bờ tường vàng thấp hơn bờ tường đỏ năm thước (thước ta hồi xua, chỉ bằng hai tấc rưỡi Tây thôi). Thừa Chí khẽ nhún mình một cái, hai tay đã víu được mép tường ở trên đỉnh rồi. Co mạnh người một cái, người chàng ở trên không đu một vòng, chàng đã nhảy ra khỏi bờ tường thứ tư rồi.
Trông thấy dáng điệu của chàng đẹp quá, Hà Thiết Thủ cũng phải vỗ tay khen ngợi. Ba bức tường bên ngoài, lớp sau thấp hơn lớp trước, chàng chỉ nhún một cái là nhảy qua rồi. Không bao lâu, mọi người đã ra tới bờ tường đen rồi. Tuy không thấy có người đuổi theo, Thừa Chí không dám trì hoãn, cõng luôn Thanh Thanh lên vai, cùng mọi người chạy thẳng về phía thành.
Sắp về tới nhà, Thừa Chí bỗng thấy phía sau gáy buồn buồn và có một hơi nóng thổi tới, liền quay đầu lại nhìn. Thanh Thanh phì cười, vẻ mặt tươi tỉnh như thường.
Lúc này Thừa Chí mới hay nàng chỉ bị thương nhẹ thôi, nên trong lòng yên vui vô cùng. Vào tới nhà trong, chàng vội lấy Băng Thiềm ra chữa cho Thiết La Hán và Đơn Thiết Sinh. Chân của Thanh Thanh bị vòng vàng của Hà Thiết Thủ đánh trúng, vết thương thâm tím và sưng to. Như vậy đủ rõ võ công của Hà Thiết Thủ khá lợi hại. Chữa vết thương và nghỉ ngơi xong, Thừa Chí liền hỏi Đơn Thiết Sinh về lai lịch của phái Ngũ Độc giáo đó.
Đơn Thiết Sinh nói:
– Hành tung của giáo đồ Ngũ Độc giáo không ra khỏi bốn tỉnh: Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông, và Quảng Tây. Xưa nay chúng không tới miền Bắc bao giờ nhưng giới võ lâm hễ nghe ai nhắc tới Ngũ Độc giáo là khiếp sợ liền. Nên không ai dám va chạm với bọn chúng cả.
Trình Thanh Trúc từ nãy giờ vẫn đứng cạnh lắng tai nghe, chau mày không nói nửa lời, lúc này bỗng lên tiếng nói:
– Viên tướng công ạ, nghe nói Hoàng Mộc đạo nhân của phái Võ Đang chết trong tay bọn chúng đấy.
Thừa Chí hỏi:
– Ông ta chết như thế nào? Có ai trông thấy không?
Trình Thanh Trúc đáp:
– Nếu lúc bấy giờ có người nào ở đó mục kích thì người đó chưa chắc đã có sống tới bây giờ. Nhưng trên giang hồ, người ta đồn đại rằng Hoàng Mộc đạo nhân chết rất thảm thương. Sau đó, phái Võ Đang cử đại đội tới Vân Nam để trả thù, nhưng không có kết quả gì cả, như vây mới thật huyền bí, ly kỳ chứ?
Sa Thiên Quảng hỏi:
– Có thật Trình huynh không biết mụ ăn xin nọ không?
Trình Thanh Trúc đáp:
– Ngày hôm nay đệ đi gần tới biệt thự của Thành vương, bỗng quay ngang trở về, chắc quý vị phải lấy làm ngạc nhiên lắm phải không? Nhưng sự thật, tôi có một sự bí ẩn không thể cho phép phơi trần cho quý vị biết được.
Sa Thiên Quảng cười nói:
– Đệ đã thử tài với lão huynh rồi, biết lão huynh là người cao niên nhưng sức vẫn còn mạnh. Và không ai dám nói lão huynh là người tham sống sợ chết cả.
Trình Thanh Trúc nói:
– Đệ đã nhận sự ký thác của một người đã thề độc không nói lộ ra cho ai hay. Sở dĩ đệ không muốn vào Thành vương phủ cũng vì có liên can với việc ấy đấy.
Biết y là thủ lãnh của một bang phái lớn, mọi người đều tin lời y là thật, nên không ai nhắc nhở đến câu chuyện ấy nữa.
Trong khi mọi người đang ngẫm nghĩ thì bỗng có một gia nhân vào báo cáo:
– Có một cô họ Tiêu xin vào ra mắt Viên tướng công.
Thanh Thanh cau may, giận giữ hỏi:
– Con nhỏ ấy tới đây làm gì thế?
Thừa Chí vội nói:
– Mời cô ấy vào.
Gia đinh vâng lời đi ra liền. Một lát sau, tên gia đinh đó dẫn Tiêu Uyển Nhi vào. Vừa vào tới khách sảnh, Uyển Nhi vội tiến tới trước mặt Thừa Chí, quỳ xuống vái mấy cái, rồi phục xuống khóc lóc. Thấy nàng mặc áo sô, Thừa Chí biết chuyện không lành, cũng vội quỳ xuống đáp lễ, nói:
– Mời Tiêu cô nương đứng dậy. Chẳng hay lệnh tôn đạo nhân có được mạnh giỏi không?
Tiêu Uyển Nhi vừa khóc vừa đáp:
– Cha, cha… cha tôi bị tên gian tặc họ Mẫn giết chết rồi!
Thừa Chí giật mình, đứng dậy hỏi:
– Tại sao thế?
Tiêu Uyển Nhi vội lấy một gói vải ra, để trên bàn mở ra, thấy bên trong có một con dao găm dính đầy máu đen. Cầm con dao lên xem, Thừa Chí thấy chuôi dao có khắc mấy chữ: Võ Đang môn hạ, tử tự bối đệ tử Mẫn Tử Hoa thâu chấp (nghĩa môn đồ phái Võ Đang vai vế thuộc hạng chữ tử, Mẫn Tử Hoa nhận lấy). Lợi khí này của phái Võ Đang tặng cho những đệ tử thành nghề dùng để phòng thân.
Tiêu Uyển Nhi vừa khóc vừa nói:
– Sau buổi họp đại hội Thái Sơn, cha tôi và tôi trở về nhà, khi đi qua phủ Từ Châu, vào ngủ trọ khách sạn nọ. Ngày hôm sau, tới giờ thìn vẫn chưa thấy cha tôi vậy, tôi vào phòng gọi, ngờ đâu… Ngờ đâu… trên ngực cha tôi có con dao này… cắm lút tới cán… Viên tướng công… xin Tướng công giải quyết cho…
Chưa dứt lời, nàng đã khóc đến nỗi không thể nói nên lời nữa. Máu ghen đang sôi nổi, Thanh Thanh thấy nàng khóc thảm thương như vậy cũng động lòng thương xót, liền kéo nàng lại gần, lấy khăn tay ra lau chùi nước mắt hộ, và nói với Thừa Chí rằng:
– Đại ca, tên họ Mẫn đã nhận lời không nghĩ tới mối thù ấy nữa, tại sao y lại còn hành vi ti tiện thế này? Việc này đại ca thể nào cũng ra tay giải quyết mới được.
Ngẫm nghĩ một lúc, Thừa Chí mới hỏi:
– Tiêu cô nương, từ khi lệnh tôn bị hành thích tới giờ, cô có gặp tên họ Mẫn lần nào không?
Tiêu Uyển Nhi vẫn khóc lóc, nghẹn ngào trả lời:
– Tôi… tôi… có gặp y hai lần. Chúng tôi đuổi theo y ngày hôm qua vừa tới nơi đây.
Thanh Thanh nói:
– Nếu vậy hay lắm, y có mặt ở trên Bắc Kinh này chúng tôi thể nào cũng kiếm ra.
Cô em cứ yên tâm, thể nào chúng tôi cũng trả thù cho.
Thấy Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng ngơ ngác nhìn mọi người, Thanh Thanh biết hai người không rõ chuyện này, liền đêm chuyện Thừa Chí ở Kim Linh phá tan Lưỡng Nghi kiếm pháp, giải mối thù cho hai nhà họ Tiêu và họ Mẫn, nói cả ra. Thấy Mẫn Tử Hoa không giữ đạo nghĩa giang hồ như vậy, ai nấy đều công phẫn. Sa Thiên Quảng nói:
– Mẫn Tử Hoa là cái thứ gì, tôi lão Sa đây thể nào cũng phải đấu với y một trận.
Tiêu Uyển Nhi quay lại vái chào mọi người với giọng nghẹn ngào nói:
– Xin quý vị bá bá thúc thúc chủ trì công lý và đạo nghĩa cho.
Trình Thanh Trúc đập mạnh xuống bàn một cái quát lớn:
– Hiện giờ tên Mẫn Tử Hoa ở đâu? Phái Võ Đang tuy người nhiều thế mạnh thật, nhưng lão Trình này không sợ hãi gì cả.
Uyển Nhi nói:
– Sau khi chúng tôi khâm liệm cha tôi xong, linh cữu gởi ở nhà Vân Tiêu đầu tiêu cục Quảng Võ ở ngay Từ Châu, và chúng tôi gởi cho các võ lâm đồng đạo nhờ tìm kiếm hung thủ hộ. Chắc hồn cha tôi linh thiêng phù hộ cũng nên, mấy ngày hôm sau, các bạn ở tỉnh Hà Nam cho hay tin, tên gian tặc họ Mẫn vừa ở Hà Nam, thẳng đường đi lên Bắc Kinh. Tất cả hương chủ nội ngoại hương đường của Kim Long bang chúng tôi họp cùng với các đà chủ ở các bến tàu, chia nhau ra đón đường tróc nã tên gian tặc ấy. Chúng tôi đã đấu với y hai lần, nhưng lần nào y cũng trốn thoát cả. Tiểu muội vô dụng quá, còn bị y đâm một kiếm nữa.
Thấy vai nàng u lên, Thừa Chí biết nàng bị thương ở bả vai. Tội nghiệp cho nàng, vì trả thù cha, không quản ngại nguy hiểm, nàng mới bị thương như vậy.
Uyển Nhi lại nói tiếp:
– Ngày hôm qua, chúng tôi đuổi theo y tới Bắc Kinh, và hiện giờ đã biết chỗ trú chân của y rồi.
Thanh Thanh vội nói:
– Nó ở đây? Chúng ta phải đi ngay, bằng không để cho nó tẩu thoát thì uổng công lắm đấy.
Uyển Nhi nói:
– Hiện giờ nó ở một căn nhà ở phố Truyền Gia khu Tây Thành, chúng tôi đã có hơn trăm người canh gác ở xung quanh đó rồi.
Thừa Chí gật đầu khen ngợi, nghĩ thầm: “Nàng tuy ít tuổi, nhưng khôn ngoan thạo đời lắm. Lần này, bang Kim Long động viên tất cả lực lượng, đuổi theo hung thủ lên trên này, quyết phải giết kỳ được tên Mẫn Tử Hoa mới thôi.”
Uyển Nhi lại nói:
– Vừa rồi, tiểu muội gặp một người bạn đã có mặt ở đại hội Thái Sơn cho hay, mới biết Viên tướng công ở đây mà tới thăm đấy ạ.
Sa Thiên Quảng giơ ngón tay cái lên khen ngợi và nói:
– Tiêu cô nương làm việc chu đáo thật, tên Mẫn Tử Hoa đã ở trong tay cô rồi mà còn tới đây mời Viên minh chủ chủ trì công lý và đạo nghĩa để cho giang hồ võ lâm đều phải công nhận Mẫn Tử Hoa đáng giết lắm. Tài thật, giỏi thật!
Thừa Chí nói:
– Các người bên cô bao giờ mới ra tay vây bắt hung thủ?
Uyển Nhi nói:
– Chúng tôi định canh hai đêm nay.
Nàng gói con dao vào trong khăn gói.
Thanh Thanh nói:
– Lát nữa, cô em định dùng con dao này đâm chết kẻ thù phải không?
Uyển Nhi gật đầu.
Nghĩ tới Tiêu Công Lễ suốt đời trọng nghĩa khinh tài, mà rốt cuộc cũng chết một cách bất đắc dĩ như vậy, Thừa Chí thở dài xong lại nghĩ rằng: “Chỉ sợ phái Võ Đang với bang Kim Long từ nay oan oan tương báo, dây dưa cho tới bao giờ mới liễu kết? Mẫn Tử Hoa ám hại người ta như vậy thể nào cũng phải đền mạng nhưng việc này ta phải làm thế nào để cho tất cả đệ tử của phái Võ Đang chịu là phải mới khỏi hậu họa.”
Cơm nước xong, mọi người nghỉ ngơi một lát, Thanh Thanh và Thiết La Hán hai người bị thương phải ở nhà. Đơn Thiết Sinh đã được đưa về nhà riêng rồi. Thừa Chí dẫn Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, chàng Câm, Hồ Quế Nam, và Hồng Thắng Hải năm người, theo Uyển Nhi đi tới phố Truyền Gia.
Không được đi theo, Thanh Thanh bực mình than thở, và cứ chửi rủa Hà Thiết Thủ, con yêu nữ đã hại nàng phải nằm yên một chỗ như vậy.
Mọi người sắp đi tới phố Truyền Gia đã thấy đệ tử Tiêu Công Lễ lẳng lặng ra nghênh đón, và cho hay Mẫn Tử Hoa đang chuyện trò với sư huynh của y là Đồng Huyền đạo nhân. Bọn đệ tử đó thấy Thừa Chí chịu ra tay trợ giúp, ai nấy đều hân hoan vô cùng. Lần trước, ở nhà Tiêu Công Lễ, Thừa Chí vừa uống rượu vừa ăn thịt gà mànhất cử đã phá tan kiếm pháp Lưỡng Nghi của phái Võ Đang, tất cả đệ tử của Tiêu Công Lễ đều được mục kích. Cho nên lần này họ thấy Thừa Chí tới báo thù cho lão Bang chủ, tên Mẫn Tử Hoa tất không thể nào tẩu thoát được.
Uyển Nhi hỏi Thừa Chí rằng:
– Bây giờ chúng ta đã ra tay vây bắt được chưa?
Thừa Chí nói:
– Bảo tất cả anh em đứng canh gác bên ngoài, chỉ mấy người chúng ta vào thôi.
Uyển Nhi vâng lời, liền khẽ dặn các Bang hữu vài câu, rồi cùng Thừa Chí với mấy người nhảy qua bờ tưòng, vào nhà lớn nọ. Hồng Thắng Hải khinh công hơi kém, lúc xuống đất hơi có tiếng động. Đèn đuốc trong nhà đó tắt liền.
Uyển Nhi biết kẻ thù đã phát giác bọn mình tới rồi, không thể nào dọ thám được nữa, liền khẽ huýt một tiếng còi miệng, bỗng nhiên trên nóc nhà, góc tường, xung quanh nhà đều có người lộ diện. Uyển Nhi lớn tiếng gọi:
– Tên họ Mẫn kia, thử ra ngoài này xem ai đã tới!
Người trong nhà vẫn lặng yên, không trả lời. Uyển Nhi liền ra hiệu bảo anh em trong bang đốt đuốc xông thẳng vào trong nhà. Bốn tên thanh niên của bang Kim Long cầm đuốc đi trước, hai bên có bốn tên khác cầm khí giới đi hộ vệ. Đột nhiên có mấy tiếng “bộp, bộp…” bốn bó đuốc bị người trong nhà ném tắt mất ba, rồi có hai cái bóng người nhảy qua đầu bọn thanh niên kia, phi thẳng ra bên ngoài. Bang chúng của bang Kim Long bốn mặt xông tới bao vây, các bó đuốc đều thắp tỏ sáng như ban ngày.
Đồng Huyền đạo nhân và Mẫn Tử Hoa biết đã bị bao vây, đành chỉ nhờ vả môn kiếm thuật tinh kỳ mà hết sức tử chiến. Hai sư huynh đệ sát lưng nhau đối địch với các bang hữu bang Kim Long, chớp mắt họ đã đâm bảy tên thanh niên bị thương. Nhưng hễ có kẻ nào bị thương lui về phía sau thì lập tức có người tiến lên thay thế vào chỗ trống đó ngay.
Càng đánh, bang hữu bang Kim Long càng đông, anh em Mẫn Tử Hoa yên trí sắp bị loạn đao phân thây tới nơi.
Đấu thêm một lát, hai người lại trảm thương thêm ba bốn đệ tử của Tiêu Công Lễ nhưng cánh tay trái của Đồng Huyền đạo nhân cũng bị thương rồi, y liền đổi tay phải cầm kiếm, tiếp tục tranh đấu, cả hai anh em như con hổ điên cuồng, dũng mãnh vô cùng. Chính vì Lưỡng Nghi kiếm pháp của họ, Đồng Huyền tay trái cầm kiếm và Tử Hoa thì dùng kiếm bằng tay phải, hai người tả hữu hộ ứng, sức lực mới mạnh. Bây giờ hai thanh kiếm đều dùng tay phải sử dụng, oai lực tất phải giảm bớt nhiều. Nên không bao lâu mình mẩy của Đồng Huyền và Tử Hoa bị thương thêm vài chỗ.
Thừa Chí đứng cạnh xem, nghĩ thầm: “Một mạng đền một mạng, Mẫn Tử Hoa chết đủ rồi, hà tất còn bắt Đồng Huyền đền mạng nữa?”
Thấy hai người sắp bị nguy hiểm đến nơi, chàng bỗng nhảy vào giữa vòng vây, chỉ múa mấy thế kiếm Kim Xà kiếm của chàng đã chém gãy hai thanh trường kiếm của Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa, đồng thời binh khí của các người bên bang Kim Long cũng bị chém gẫy nốt. Xuất kỳ bất ý, mọi người giật mình kinh hãi. Từ khi kiếm được Kim Xà bảo kiếm tới giờ, Thừa Chí chưa hề sử dụng để giao chiến với ai bao giờ, không ngờ nó lại có oai lực kinh người đến thế. Nên cả chàng cũng ngẩn người giây phút, thấy chém gẫy hết khí giới của mọingười, trong lòng áy náy vô cùng, nghĩ thầm: “Thoạt tiên ta chỉ muốn gạt khí giới của mọi người sang một bên, có ngờ đâu lại phá hủy hết binh khí của họ như vậy?”
Lúc ấy, mình mẩy của Đồng Huyền và Tử Hoa đều nhơm nhớp những vết máu tươi. Hai người trông thấy Thừa Chí biết là hết hy vọng tẩu thoát. Đồng Huyền vứt khúc kiếm gẫy xuống đất, cười gượng nói:
– Không biết sư huynh đệ chúng tôi điều gì mang lỗi với các hạ, mà ngài cứ theo dõi chúng tôi ráo riết đến thế này?
Nói xong, đạo nhân móc túi lấy con dao găm ra, nhắm giữa ngực đâm mạnh xuống. Tả chưởng như gió, Thừa Chí khẽ đẩy một cái, con dao chệch ra ngoài đồng thời chàng dùng tay phải nắm lâý cổ tay đạo nhân và cướp luôn cao dao găm đó.
Dưới ánh sáng các bó đuốc, ai nấy trông thấy con dao ấy giống hệt con dao của Tử Hoa hành thích Tiêu Công Lễ, trên cán cũng khắc mười ba chữ như sau: “Võ Đang môn hạ, tử tự bối đệ tử Đồng Huyền thâu chấp.”
Đồng Huyền xạm mặt lại, quát lớn:
– Hảo hán chịu chết chớ không chịu nhục. Tôi học nghề chưa thành, không phải địch thủ của ngài, đành cam chết cho ngài trông thấy. Mau trả dao lại cho tôi!
Sợ đạo nhân lại tự sát lần nữa, Thừa Chí liền giắt con dao đó vào lưng, nghiêm nét mặt nói:
– Chờ tôi giải quyết xong công việc này, sẽ hoàn lại ngay.
Đồng Huyền nổi giận lớn tiếng nói:
– Ngài muốn giết cứ việc giết tôi chứ tôi không chịu nhục đâu.
Nói xong, đạo nhân nhắm mắt Thừa Chí đấm luôn một quyền, Thừa Chí lùi về phía sau một bước để tránh, ngạc nhiên hỏi:
– Tôi có điều gì khi thị đạo trưởng đâu?
Đồng Huyền nghiêm nghị nói:
– Con dao găm này của sư tôn phái Võ Đang chúng tôi tặng cho. Tôi đành chịu mất mạng, chớ không được để nó lọt vào tay người khác.
Thừa Chí ngạc nhiên, nghi ngờ vô cùng, nghĩ thầm: “Con dao này, một tang vật quan trọng đến thế, tại sao sau khi hành thích Tiêu Công Lễ rồi, Mẫn Tử Hoa không rút con dao ra đem đi lại để nguyên ở đó làm gì?”
Nghĩ đoạn, chàng móc đao ra, dùng hai tay nâng cao trao cho Đồng Huyền và nói:
– Tôi có một việc muốn thỉnh giáo đạo trưởng.
Đỡ lấy con dao, Đồng Huyền thấy chàng ăn nói lễ phép như vậy, liền đáp:
– Xin ngài cứ nói.
Thừa Chí quay lại nói với Uyển Nhi rằng:
– Tiêu cô nương làm ơn đưa cái bọc vải cho tôi.
Uyển Nhi liền đưa gói vải cho chàng, tay cầm song đao, mắt nhìn Mẫn Tử Hoa để đề phòng y cướp giựt. Thừa Chí mở gói vải ra, trong có một con dao găm. Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa đều giựt mình, kêu rú lên. Trông thấy hung khí, các bang hữu bang Kim Long nghĩ lại về cái chết thê thảm của lão Bang chủ, ai nấy đều tức giận, tiến lên mấy bước, chỉ chực nhảy xổ ra chém giết Mẫn Tử Hoa cho nguôi cơn oán hờn.
Mẫn Tử Hoa hỏi:
– Con… con đao này là dao của tôi! Ngài kiếm ở đâu ra thế?
Nói xong, y giơ tay định cầm lấy con dao đó. Thừa Chí vội rụt tay lại, giấu luôn đoản đao đó vào lòng. Uyển Nhi giơ thanh đao bên trái lên, nhắm cánh tay Tử Hoa chém xuống, Tử Hoa vội nhảy sang bên để tránh. Thấy chém hụt, Uyển Nhi đang định đuổi theo, Thừa Chí vội cản lại và nói:
– Hãy hỏi cho biết rõ ràng câu chuyện đã!
Uyển Nhi ngưng tay lại, không đuổi theo nữa, nhưng nước mắt đã nhỏ ròng xuống đôi má.
Mẫn Tử Hoa nổi giận nói:
– Ngày nọ ở thành Nam Kinh chúng ta đã nói rồi, hai bên giải cừu oán. Tại sao bang Kim Long lại không coi tín nghĩa là gì cả, mấy lần định hãm hại tôi? Ngài gọi Bang chủ Tiêu Công Lễ ra đây hỏi thử xem nếu tôi có điều gì không phải, tôi xin tự vận ngay tại đây, chớ tôi không hàm hồ…
Y chưa nói dứt lời, đã có mấy người trong bang Kim Long nhảy ra, ồn ào quát tháo:
– Bang chủ của chúng ta đã bị nhà ngươi giết chết, nhà ngươi lại giả vờ định chối cãi phải không?
Tử Hoa và Đồng Huyền đều giựt mình kinh hãi hỏi:
– Các ông nói gì thế? Bang chủ Tiêu Công Lễ đã chết rồi ư?
Thấy hai người đều lộ vẻ kinh ngạc, Thừa Chí không cho là họ giả bộ, nghĩ thầm: “Coi thái độ của họ thì không có vẻ gì là giả dối”
Nghĩ đoạn, chàng hỏi:
– Quả thật hai vị không hay biết tin này ư?
Mẫn Tử Hoa đáp:
– Sau khi thua cuộc mất căn nhà đó cho ngài rồi, tôi xấu hổ quá, liền tới phủ Khai Phong kiếm sư huynh trưởng môn của chúng tôi là Thúy Vân đạo trưởng thương lượng. Ngờ đâu, tôi chưa gặp được sư huynh tôi, ở dọc đường không hiểu tại sao anh em bang Kim Long đón đánh tôi, trước sau tôi với anh em bang Kim Long đã đánh nhau hai lần rồi. Còn Bang trưởng Tiêu Công Lễ bỗng tự dưng tại sao bị giết thì quả thật tôi không hay biết gì cả. Vậy ai là hung thủ đã giết ông ta?
Là người thông minh lanh lợi, Uyển Nhi nghe xong câu nói của Tử Hoa, nàng biết tình hình khác hẳn sự tưởng tượng bấy lâu nay, liền nghẹn ngào nói:
– Cha tôi… đã bị… bị người ta dùng con dao găm này giết chết… Như vậy… dù không phải là tự tay ông giết… ít ra người đó cũng là bạn của ông.
Mẫn Tử Hoa tới lúc này mới tỉnh ngộ liền nói:
– Ồ, thế thì phải rồi.
Uyển Nhi quát hỏi:
– Phải rồi cái gì?
Tử Hoa hình như định biện bạch nhưng vì kém ăn nói, cứ ấp úng mãi không nói nên lời. Mọi người bên bang Kim Long tưởng y đang ăn năn nối lỗi nên ai nấy đều cầm dáo mác xông vào định đánh. Đồng Huyền tiếp lấy cái thanh kiếm gãy của Tử Hoa, và cùng thanh kiếm gãy của mình, vứt cả xuống đất nghiêm nghị nói:
– Nếu quý vị vui lòng để mối thù của Tiêu lão bang chủ mãi mãi không sao trả được và muốn để cho kẻ gian núp một bên cười thầm thì cứ việc tiến lên giết chết hai anh em chúng tôi đi! Chúng tôi không sợ hãi gì cả! Nào, mời quý vị lại đây chém giết đi!
Nói đoạn, đạo nhân trở ngực, thúc thủ để cho mọi người xử quyết. Mọi người thấy vậy đều ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám ra tay cả.
Thừa Chí nói:
– Nếu vậy, không phải là Mẫn huynh đã hãm hại Tiêu lão bang chủ?
Mẫn Tử Hoa đáp:
– Bản lãnh của họ Mẫn này tuy không ra gì thật, nhưng tôi còn biết người ta sống ở trên đời, cần phải để hai chữ “Tín, Nghĩa” lên trên hết. Tôi đã thua bởi tay ngài, vả lại biết có kẻ gian ở giữa tác quái thì khi nào tôi còn trở lại đất Nam Kinh gây thù gây oán nữa?
Thừa Chí nói:
– Tiêu lão bang chủ bị hại ở nơi khác chớ không phải là Nam Kinh.
Mẫn Tử Hoa hỏi:
– Ông ta bị hại ở đâu thế?
Thừa Chí đáp:
– Tại phủ Từ Châu.
Đồng Huyền nói:
– Hơn mười năm rồi, anh em chúng tôi chưa hề tới phủ Từ Châu bao giờ. Trừ phi, chúng tôi biết phi kiếm, mới lấy được thủ cấp ở ngoài nghìn dặm xa xôi như thế?
Thừa Chí hỏi:
– Lời nói ấy thật không?
Đồng Huyền đáp:
– Đầu tôi vẫn còn đây.
Đạo nhân vừa nói vừa giơ tay vỗ đầu một cái. Uyển Nhi hỏi:
– Còn con dao găm thì sao?
Đồng Huyền đáp:
– Bây giờ tôi có nói rõ chân tướng chắc quý vị vẫn không tin. Tôi phải dẫn cô đi tới một nơi này, lúc ấy cô sẽ rõ ngay.
Mẫn Tử Hoa vội nói:
– Sư huynh, không thể đưa cô ta đi được.
Đồng Huyền nói:
– Không sao đâu. Viên tướng công và Tiêu cô nương đây là người đứng đắn tử tế cả.
Mẫn Tử Hoa không ngăn cản nữa. Uyển Nhi lại hỏi:
– Đi đâu thế?
Đồng Huyền nói:
– Tôi chỉ nhận lời của chú và Viên tướng công hai người đi thôi. Còn những người khác phải ở lại đây.
Hồi 19
Trong bang Kim Long bỗng có người đứng lên lớn tiếng nói:
– Y mưu mô định tẩu thoát thì có. Xin Tiêu cô nương chớ có nghe lời y.
Uyển Nhi hỏi Thừa Chí rằng:
– Viên tướng công nghĩ sao?
Thừa Chí trầm ngâm giây phút, nghĩ thầm: “Nhận xét kỹ thì hai vị sư huynh đệ thế nào cũng có ẩn tình gì đây. Ta cứ đi theo họ xem sao thì hơn. Nếu họ có giở gian kế gì, chắc cũng không thể nào thoát khỏi tay ta.”
Nghĩ đoạn, chàng liền nói:
– Nếu vậy, chúng ta cứ thử cùng đi với họ xem sao?
Uyển Nhi liền quay lại nói với anh em bang Kim Long rằng:
– Có Viên tướng công đi với, chắc họ không dám giở trò gì đâu.
Từ khi Tiêu Công Lễ bị ám hại tới giờ, Tiêu Uyển Nhi đã đương nhiên là Bang chủ mới rồi. Nàng dẫn mọi người đi kiếm hung thủ báo thù, ai nấy đều phục tòng và nghe lời nàng răm rắp. Và mọi người cùng biết Thừa Chí là người nhân nghĩa, võ công lại cao cường. Có người tài ba như thế đứng ra chủ trì công đạo mọi người còn mong gì hơn nữa, nên không ai phản đối cả.
Đồng Huyền nói:
– Mời hai vị đi theo chúng tôi.
Mẫn Tử Hoa vượt tường đi trước. Thừa Chí, Uyển Nhi, và Đồng Huyền theo sau.
Trước khi đi, Thừa Chí đã dặn Sa Thiên Quảng các người đi về nhà trước. Các anh em bang Kim Long do đại đệ tử của Tiên Công Lễ là Ngô Bình hướng dẫn trở về khách sạn chờ đợi.
Thừa Chí và Uyển Nhi theo anh em Đồng Huyền đi về phía Bắc, khi tới chân tường thành, Đồng Huyền lấy dây thừng có móc sắt ra, tung lên trên bờ thành, chờ cho cái móc móc chặt vào bờ tường rồi, mới mời Uyển Nhi leo lên trước, thứ đến là Mẫn Tử Hoa, thứ ba là Thừa Chí, còn Đồng Huyền lên sau cùng. Ra khỏi thành, bốn vị lại tiếp tục đi về hướng Bắc. Lúc ấy đang lúc giữa đêm, trăng sáng như bạc, lối đi càng lúc càng khập khềnh khó đi. Đi được bốn năm dặm đường, Đồng Huyền cùng Tử Hoa đưa hai người đến nơi hoang vu này thì có gì đáng lạ để xem xét.
Lên trên núi, lại đi được hai ba dặm nữa, lối đi đều là những hộc đá gồ ghề cản trở khó đi. Nhưng nhờ có khinh công khá cao, bốn người vẫn tiếp tục tiến lên, từ hòn đá này nhảy sang hòn đá nọ. Lúc sắp tới đỉnh núi, Uyển Nhi đã thở hổn hển, Thừa Chí liền nắm tay nàng và nói:
– Để tôi giúp đỡ cô nương một tay.
Không thấy chàng tốn sức gì cả, Uyển Nhi đã thấy người nhẹ nhõm nhiều. Một lát sau, hai người đã đi nhanh hơn anh em Tử Hoa và lên tới đỉnh núi trước. Trên đỉnh núi càng nhiều hộc đá gồ ghề hơn, có tảng đá trông như con mãnh thú, âm thầm như ở trong địa ngục, khiến Uyển Nhi cũng phải sờn lòng.
Không bao lâu, Đồng Huyền và Tử Hoa cũng lên tới đỉnh núi. Đi tới sau một tảng đá lớn, Đồng Huyền cầm một hòn đá lên gõ ba cái, ngừng một lát, lại gõ hai, sau cùng gõ ba cái, rồi dọn tảng đá lớn và mấy tảng đá khác sang bên, bỗng lộ ra một cái quan tài. Đang sờn lòng, Uyển Nhi lại trông thấy cái quan tài đó càng sợ hãi thêm.
Đồng Huyền mở nắp quan tài ra, cái xác chết đột nhiên ngồi dậy, Uyển Nhi sợ quá, rú lên một tiếng rồi đứng đờ người ra. Cái xác ấy bỗng nhiên lên tiếng hỏi:
– Sao hai người lại đưa người lạ tới đây thế?
Đồng Huyền đáp:
– Hai vị này là bạn tốt cả. Viên tướng công đây là đệ tử của Kim Xà Lang Quân, còn Tiêu cô nương là tiểu thơ của Tiêu Công Lễ võ sư.
Cái xác chết liền nói với Thừa Chí và Uyển Nhi rằng:
– Xin hai vị thứ lỗi cho, bần đạo bị thương không thể ngồi dậy chào được.
Đồng Huyền nói với Thừa Chí rằng:
– Đạo nhân đây là sư huynh Chưởng môn phái Võ Đang chúng tôi tên là Thủy Vân đạo nhân. Vì tránh kẻ thù và dưỡng thương, nên phải lên ở trên này.
Tới lúc này, Thừa Chí và Uyển Nhi mới hay người đó không phải là xác chết. Hai người liền cúi chào. Thủy Vân đạo nhân vội đáp lễ.
Thừa chí thấy mặt Thủy Vân nhợt nhạt không có máu, giữa trán từ trên sọ xuống tới sống mũi có một cái sẹo đỏ hỏn, vết thương vẫn còn mới, với bộ mặt trắng bạch ấy, thêm vết sẹo đỏ trông Thủy Vân càng kinh khủng hơn nữa. Thủy Vân đạo nhân bỗng hớn hở nói:
– Lúc sư phụ tôi Hoàng Mộc đạo nhân còn sống, người vẫn hay lai vãng với tôn sư Kim Xà Lang Quân Hạ lão sư. Mỗi khi Hạ lão sư tới núi Võ Đang luyện tập hoặc luận kiếm thuật với thầy tôi, đều có bần đạo đứng hầu tại đó. Hạ lão tiền bối vẫn mạnh giỏi đấy chớ?
Không muốn giấu diếm Thủy Vân đạo nhân, Thừa Chí liền đáp:
– Cụ ấy đã khuất núi từ lâu năm rồi.
Thủy Vân đạo nhân thở dài một cái rồi lịm đi lát lâu, mới khẽ nói:
– Vừa rồi bần đạo thấy Đồng Huyền sư đệ nói tới các hạ là đệ tử của Kim Xà tiền bối, bần đạo vui mừng biết bao trong bụng nghĩ chỉ có cụ ta ra tay, mối thù lớn của sư phụ chúng tôi mới mong trả nổi. Hà! Có ngờ đâu cụ ta lại quy sơn đạo rồi. Như vậy chúng tôi đành phải để cho kẻ gian hoành hành, chớ còn biết làm sao nữa!
Uyển Nhi nghĩ: “Vì báo thù cho cha mà ta phải tới đây. Ngờ đâu, lại thêm ra một vụ báo thù cho thầy nữa.”
Thừa Chí lại nghĩ rằng: “Không biết kẻ thù của họ lợi hại như thế nào mà trong thiên hạ này, ngoài Kim Xà Lang Quân ra, không ai có thể chế phục được kẻ gian đó?”
Lúc ấy Đồng Huyền khẽ kể chuyện bang Kim Long tìm sự tới đây cho Thủy Vân nghe, và yêu cầu vị đại sư huynh giải thích cho Uyển Nhi hay. Thủy Vân đạo nhân bỗng kêu “hừ” một tiếng, rồi càng nghe càng tức giận, đột nhiên giơ bàn tay đập mạnh xuống nắp quan tài đánh “cách” một cái, nắp quan tài sứt ngay một mảnh. Giựt mình, Thừa Chí nghĩ thầm: “Võ công của người này còn cao cường hơn hai sư đệ của y rất nhiều. Tài ba như thế, tại sao y còn sợ hãi đến nổi phải giả vờ chết, nằm trốn trong quan tài như vậy nhỉ?”
Thủy Vân đạo nhân nói:
– Tiêu cô nương! Đệ tử của phái Võ Đang chúng tôi khi thành nghề, thể nào cũng được sư phụ tặng cho một con dao găm. Bần đạo may mắn được nhận chức Chưởng môn, tuy bản lãnh không ra gì, nhẫn nhục nằm ở đây dưỡng thương, nhưng dù sao cũng không dám nói dối bạn nửa câu. Tiêu cô nương có biết con dao đó dùng làm gì không?
Uyển Nhi đáp:
– Tôi không biết nó dùng để làm gì.
Thủy Vân đạo nhân ngẩng đầu lên nhìn mặt trăng thở dài một tiếng rồi nói:
– Thời Chưởng môn Tổ sư của phái chúng tôi là Huyền Hư đạo trưởng, kiếm thuật thiên hạ vô song. Chỉ tiếc rằng tánh nết của Tổ sư chúng tôi hơi nóng nẩy một chút, giết người không ít, kết thù khá nhiều nên kiếm khách của các môn phái khác đại hội ở núi Hằng Sơn dùng chiến thuật luân xa, nghĩa là lần lượt vào đánh một mình ông ta. Huyền Hư đánh nhiều trận làm không ít đối thủ bị thương, nhưng sau cùng, vì mệt mỏi quá, ông ta cũng bị thương mấy chỗ liền rút dao găm ra tự tử. Bởi đấy, về sau các chưởng môn nhân của võ đang mỗi khi thâu nhận đồ đệ đều tặng cho 1 con dao găm. Đồng Huyền sư đệ! Chú đi sang bên kia!
Đồng Huyền không hiểu dụng ý của sư huynh nhưng vẫn cứ tuân lời đi thẳng ra chỗ Thủy Vân chỉ định. Chờ cho Đồng Huyền đi ra khỏi đấy mấy trăm bước, Thủy Vân kêu gọi:
– Thôi đứng yên ở đấy!
Đồng Huyền ngừng bước lại. Thủy Vân khẽ hỏi Mẫn Tử Hoa rằng:
– Mẫn sư đệ, lúc sư phục tặng dao cho chú, có bốn câu huấn thị, chú còn nhớ không?
Mẫn Tử Hoa nghiêm chỉnh nói:
– Thưa sư huynh, bốn câu đó là: Nghiêm Giới Tư Sát (nghiêm cấm tàn sát những người có tư thù với mình hoặc giết chóc ngấm ngầm), Thiệu Thị Trân Tạng (giấu kín và quý con dao này như vật báu), Nghĩa Sở Bất Địch (vì nghĩa mà chiến đấu với địch, nếu thua thì…), Cử Dĩ Tự Tường (Lấy ra mà tự tử.)
Thủy Vân gật đầu, lại chỉ một nơi khác và nói:
– Chú đi sang bên kia.
Chờ Tử Hoa đi xa rồi, Thủy Vân liền gọi Đồng Huyền quay trở lại, hỏi:
– Đồng Huyền sư đệ, lúc sư phụ tặng con dao gươm cho chú, còn nói bốn câu huấn thị gì thế?
Đồng Huyền cũng nghiêm chỉnh đáp:
– Nghiêm Giới Tư Sát, Thiện Thị Trân Tạng, Nghĩa Sở Bất Địch, Cử Dĩ Tự Tường.
Thủy Vân gọi Mẫn Tử Hoa quay trở lại, rồi nói với Thừa Chí và Uyển Nhi rằng:
– Bây giờ hai vị có thể tin rồi chớ? Tệ phái quả thật có câu huấn thị như vậy. Tệ phái đệ tử dù tồi bại đến đâu cũng không dám dùng con dao này mà đi giết kẻ tư thù của mình.
Thừa Chí nói:
– Nếu vậy, con dao này có thể gọi là giới sát đao phải không?
Thủy Vân đáp:
– Vâng, dao găm vốn là lợi khí để giết người nhưng tệ phái lấy Hư Huyền tổ sư làm gương, từ đời thứ mười lăm liền định ra một nội quy rất nghiêm nhặt, từ đó các sư đệ có muốn sát gian diệt ác thì phải được lệnh của Chưởng môn mới dám thi hành. Ngoài ra, trong lúc bị kẻ địch vây đánh, bắt buộc phải tự vệ mới được sử dụng tới con dao này. Nếu ai trảm sát lầm một người lương thiện hay một kẻ tội ác tày trời mà trước khi ấy chưa được Chưởng môn cho phép, thì tới khi đại hội của bổn phái hai năm họp một lần, là phải lấy hung khí này ra tự bái trước mặt các anh em trong phái để tạ lỗi. Ví dụ như Mẫn sư đệ chẳng hạn, muốn giết Tiêu lão bang chủ để báo thù cho anh, thoạt tiên có được bần đạo cho phép thật, nhưng sau đó Mẫn sư đệ đã biết vụ oán thù ấy do kẻ gian mưu mô, mà chú ấy còn đi giết Tiêu lão võ sư thì chú ấy đã phạm nội quy của môn phái rồi đó.
Nói tới đây, đạo nhân thở dài một cái, rồi lại nói tiếp:
– Con dao giới sát này dùng để tự sát nếu đệ tử của phái Võ Đang khi giao chiến với địch, đánh không lại người mà đối phương cứ đánh đuổi mãi, không sao thoát thân được, thì dùng con dao này để tự sát, cho khỏi tổn hại đến thanh danh của phái Võ Đang. Nếu Mẫn sư đệ cứ khăng khăng đòi giết kẻ thù thì thiếu gì khí giới khác để hành thích Tiêu bang chủ ấy cứ phải sử dụng tới con dao sát giới này làm gì? Hành thích như thế là phạm quy luật của môn phái rồi, như vậy chú ấy dại gì còn để nguyên con dao này ở đấy cho người ta biết mình là hung thủ?
Nói tới đây, Thừa Chí và Uyển Nhi cứ gật đầu lia lịa. Thủy Vân lại nói tiếp:
– Tiêu cô nương, mời cô hãy đọc lá thơ này.
Nói xong, đạo nhân lấy một gói vải ở trong góc quan tài ra, mở gói lựa chọn lấy lá thơ đưa cho Uyển Nhi.
Uyển Nhi đưa mắt nhìn Thừa Chí thấy chàng gật đầu liền đỡ lấy lá thơ, và dưới ánh trăng, nàng thấy phong bì đề: “Kính gởi Thủy Vân sư huynh”
Nàng thấy cạnh đó còn hai chữ “thượng khẩn”, và nhận ngay ra bút tích của Tử Hoa, rút trong phong bì ra, thấy giấy viết có in bảy chữ như sau: An Huy Thông Thương đại khách sạn, nàng mới hay cái thơ này viết ở An Huy. Trong thơ viết lệch lạc, văn phạm khiếm thông, nàng liền cất tiếng đọc: “Thưa đại sư huynh, việc Tiêu Công Lễ tiểu đệ đã biết rõ do kẻ gian mưu đã lừa dối tiểu đệ, vì thế mối thù ấy coi như hủy bỏ. Nhưng đêm hôm qua, con dao giới sát của đệ vô ý đã bị tên đầu tặc gian ác lấy trộm. Thật hổ thẹn với đại sư huynh quá. Nếuđệ không kiếm được và lấy lại con dao đó, đệ không còn mặt mũi nào ngó sư huynh nữa. Chúc đại sư huynh mạnh giỏi. Tiểu đệ Mẫn Tử Hoa kính thư.”
Đọc tới đây, Uyển Nhi tay run cầm cập, rồi từ từ quỳ xuống vái lạy Mẫn Tử Hoa và nói tiếp:
– Mẫn thúc thúc, cháu đã trách lầm chú, thật thất lễ với chú quá.
Nói xong, nàng quay lại vái lạy Đồng Huyền. Mẫn Tử Hoa và Đồng Huyền cũng vội đáp lễ.
Mẫn Tử Hoa nói:
– Không biết tên cẩu tặc nào đã hãm hại Tiêu sư phụ, lại còn để con dao ấy cắm nguyên ở chỗ vết thương, với thâm ý để cô nương nghi ngờ tôi là thủ phạm.
Uyển Nhi nói:
– Cháu lỗ mãng quá, không nghĩ tới điều đó, cứ tưởng Mẫn thúc thúc đi giết hại cha cháu, và còn lưu dao lại để thị oai, tỏ ra ta đây là anh hùng hảo hán.
Tử Hoa nói:
– Tôi với Đồng Huyền sư huynh đi tìm kiếm khắp nơi mà không thấy con dao của tôi và tên cẩu tặc ấy đâu cả. Sau nhận được thiếp mời của đại sư huynh, gọi tôi tới kinh sư, nên chúng tôi mới lên đường. Giữa đường, bỗng nhiên thấy cô và các anh em trong quý bang cứ nhắm chúng tôi mà đánh, chém loạn xạ. Cũng may nhờ có Viên tướng công tới, việc này mới vỡ lẽ.
Thừa Chí cứ luôn miệng khiêm nhượng, không nhận có công trong vụ này.
Thủy Vân nói:
– Chờ việc của chúng tôi kết thúc xong, nếu bần đạo may mắn được sống sót, thể nào cũng giúp cho Tiêu cô nương tìm kiếm tên gian tặc ăn trộm dao giết người gây oán gieo họa ấy.
Uyển Nhi lại vái chào tạ ơn, rồi trao con dao trả Mẫn Tử Hoa. Chắc anh em họ còn có chuyện bí mật bàn tán với nhau. Thừa Chí tự nghĩ mình là người ngoài không tiện tham dự vào đó liền chắp tay vái chào và nói:
– Đệ xin bái biệt.
Hai người đi được vài trăm bước, đang sắp sửa xuống núi bỗng nghe thấy Đồng Huyền kêu gọi:
– Mời hai vị hãy lưu lại.
Thừa Chí và Uyển Nhi đều ngừng bước. Đồng Huyền đạo nhân chạy tới nói:
– Viên tướng công, Tiêu cô nương, bần đạo có một việc muốn nói, xin hai vị chớ có trách cứ nhé?
Thừa Chí đáp:
– Mời đạo trưởng cứ nói.
Đồng Huyền nói:
– Xin hai vị chớ có tiết lộ những việc đã trông thấy ở đây. Chính ra bần đạo không được phép nhắc nhở mấy lời này nhưng vì nó liên can tới mạng của sư huynh chúng tôi, nên bần đạo bắt buộc phải có mấy lời yêu cầu hai vị như vậy.
Theo quy luật giang hồ, bất cứ người nào, khi đã mắt thấy tai nghe những chuyện bí ẩn của đảng phái khác, mà không giữ kín miệng là mang tai họa vào thân liền. Thừa Chí và Uyển Nhi tất nhiên biết rõ quy luật ấy lắm, nhưng Đồng Huyền vẫn chưa yên tâm, mà dám nói trắng ra như vậy, không sợ chạm lòng tự ái của hai người, thì đủ thấy việc này quan trọng như thế nào? Thừa Chí là người giàu lòng nghĩa hiệp, tuy việc đó không liên can gì tới mình, nhưng vừa rồi chàng trông thấy Thủy Vân đạo trưởng vô ý đập sứt một mảnh quan tài, đã biểu lộ võ công cao cường, vì vậy chàng mới có ý ra tay giúp đỡ, liền hỏi Đồng Huyền:
– Không hiểu lệnh sư huynh có việc gì nguy nan đến thế? Đệ tuy bất tài họa chăng có thể giúp được một tay cũng nên.
Đồng Huyền đã giao chiến với Thừa Chí rồi biết võ công của chàng tuyệt luân không những hơn mình gấp mười lần và còn giỏi hơn cả Thủy Vân sư huynh Chưởng môn của mình nhiều. Nghe chàng ngỏ ý muốn ra tay giúp, đạo nhân mừng quá, vội nói:
– Được Viên tướng công trượng nghĩa tương giúp, anh em chúng tôi còn gì được hân hạnh bằng. Bần đạo xin thưa trình với sư huynh ngay.
Nói xong, Đồng Huyền hấp tấp quay trở lại, khẽ thưa cùng Thủy Vân và Tử Hoa hay. Ba anh em bàn tán với nhau hồi lâu, hình như có vẻ khó bề quyết định. Thừa Chí nghĩ: “Nếu anh em họ không muốn người ngoài dự vào, thì chúng ta cũng chả can thiệp tới nữa.”
Nghĩ đoạn, chàng lớn tiếng nói:
– Hai vị đạo trưởng và Mẫn huynh, đệ xin phép đi trước, chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.
Thủy Vân vội kêu gọi:
– Viên tướng công, mời Tướng công quá bộ lại đây, chúng tôi có mấy lời thưa cùng.
Thừa Chí đi tới gần ba anh em đạo sĩ, Thủy Vân nói:
– Viên tướng công vui lòng giúp đỡ chúng tôi, cả ba anh em chúng tôi đều cảm ơn vô cùng. Nhưng việc này là việc tư của bổn phái, hơn nữa lại hung hiểm vô cùng, nên không dám vô duyên vô cớ cuốn Tướng công sa vào chỗ nguy nan. Xin Tướng công nên rõ nguyên ủy chớ hiểu lầm mà trách cứ chúng tôi.
Nói xong đạo nhân chắp tay vái chào. Biết đó là lòng tốt của họ nên mới nói thẳng ra như vậy, Thừa Chí nghĩ: “Đạo sĩ này cũng khẳng khái đấy.”
Chàng liền đáp lời:
– Đạo trưởng khiêm tốn quá. Nếu việc đó nan giải như vậy, đệ xin cáo từ thôi. Đạo trưởng khi nào muốn cần dùng tới tiểu đệ, xin cứ cho hay. Cả tiền bạc, đệ cũng sẵn sàng có, nội trong chốc lát, đệ có thể trừ bị mấy chục lạng bạc ngay. Hoặc giả đạo trưởng cần nhiều người giúp sức thì anh hùng hào kiệt bảy tỉnh đệ có thể điều khiển được cả. Tóm lại, bất cứ lúc nào, đạo trưởng muốn cần đệ, cứ việc gởi thơ đến đội phó Chính Điều Tử là đệ sức nhận được ngay.
Cúi đầu không nói gì, bỗng thở dài một cái, rồi Thủy Vân nói:
– Viên tướng công đã nghĩa khí như vậy tuy việc của chúng tôi nói ra rất mất thể diện, nhưng nếu chúng tôi còn giấu diếm Tướng công nữa thì chúng tôi không biết điều tí nào cả. Mời hai vị ngồi chơi, Đồng Huyền sư đệ kể rõ cho hai vị nghe đi.
Sau khi mời hai người ngồi yên trên một tảng đá lớn rồi. Đồng Huyền cũng chọn một tảng đá khác ngồi, rồi nói:
– Ân sư chúng tôi là Hoàng Mộc đạo nhân, tánh ưa hoạt động, thích ngao du khắp mọi nơi, trừ hai lần đại hội của phái Võ Đang hằng năm, sư phụ chúng tôi ít có mặt ở trên núi, Tết Trung Thu năm trước đây, nhân ngày đại hội của tệ phái, chúng tôi không thấy sư phụ về núi chủ trì, và không gởi thư về cho hay. Chưa bao giờ có như thế nên tất cả đệ tử đều lo âu và ngạc nhiên. Chúng tôi biết ông ta đi về phương Nam kiếm thuốc, liền chia nhau đi Vân Nam và hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây tìm kiếm. Ngờ đâu tìm mãi không thấy tăm hơi gì cả. Tôi và Mẫn sư đệ ở khách sạn nọ được Truy Phong Kiếm Vạn Phương của phái Điểm Thương tỉnh Vân Nam đưa tin báo có việc khẩn cấp, mời anh em chúng tôi cùng đi ngay đến phủ Đại Lý nhà Vạn đại ca. Tới nơi, chúng tôi thấy anh ta bị thương nặng, nằm liệt giường liệt chiếu, hỏi ra mới hay vì ân sư chúng tôi mà anh ta vị lụy như vậy.
Thừa Chí bỗng nhớ tới lời Trình Thanh Trúc nó, Hoàng Mộc đạo nhân bị Ngũ Độc giáo giết chết, liền gật đầu mấy cái, lại để ý nghe Đồng Huyền nói tiếp:
– Truy Phong Kiếm đại ca nói: hôm đó anh ta ra ngoài thành Đại Lý thăm bạn. Khi tới ngoại ô, trông thấy ân sư chúng tôi đang bị người ta vây đánh, anh ta định rút kiếm ra đánh giúp. Ngờ đâu, đối phương tay nào cũng là cao thủ cả. Ân sư chúng tôi và anh ta quá bất địch chúng, anh ta bị thương trước, chết giấc tại chỗ. Sau nhờ có người cứu, cõng luôn về nhà. Còn ân sư chúng tôi thì không biết sống chết ra sao. Đầu vai và dưới sườn của Vạn đại ca bị móng tay gang cào sướt, những móng tay đó có chất độc rất mạnh. Xét tình hình, chúng tôi đoán chắc đối phương là Ngũ Độc giáo. Sau đó, Vạn đại ca phải đi xa nghìn vạn dặm, trải qua bao gian truân khổ sở, mới kiếm được danh y chữa cho khỏi chết. Tất cả đệ tử đời thứ ba mươi hai của phái Võ Đang lên đường đi Vân Nam tìm kiếm ân sư, và tìm Ngũ Độc giáo để báo thù. Bốn năm nay tuyệt vô tăm tích, ân sư chúng tôi sống chết ra sao cũng không biết, Ngũ Độc giáo lại bí ẩn vô cùng, không sao gặp được một tên giáo dân nghèo nào của giáo phái ấy cả. Lại tìm kiếm thêm ba năm, chúng tôi vẫn không có manh mối gì hết, mọi người mới rời Vân Nam. Sau ở phía Bắc có tin đồn tới, nói Giáo chủ Ngũ Độc giáo Hà Thiếu Thủ đã tới đô thành Bắc Kinh rồi…
Thừa Chí bỗng “ủa!” một tiếng. Đồng Huyền hỏi:
– Viên tướng công có quen biết nàng ta không?
Thừa Chí đáp:
– Hôm qua tôi có mấy người bạn vừa bị bàn tay độc ác của nàng ta đánh trọng thương.
Đồng Huyền nói:
– Nếu vậy thật may mắn quá. Chúng tôi vừa được tin đó, đại sư huynh tôi vội truyền ngay lệnh khẩn xuống, các đệ tử Võ Đang liền về tụ tậo ở Bắc Kinh ngay. Trong khi chúng tôi đi lên đây, dọc đường gặp Tiêu cô nương và các anh em trong bang Kim Long. Những chuyện hiểu lầm đó, ta không cần nhắc tới nữa. Đại sư huynh tới Bắc Kinh trước chúng tôi và đã gặp được Hà Thiết Thủ. Đại sư huynh tôi chất vấn nói tại sao lại giở thủ đoạn độc ác hãm hại sư phụ chúng tôi? Con Tiện tỳ Hà Thiết Thủ cứ chối cãi là chưa hề gặp sư phụ chúng tôi bao giờ. Đại sư huynh tôi nổi giận liền đánh nhau với nó một trận. Nó tài ba và khôn lắm, đại sư huynh tôi sơ ý một chút là bị móc bên tay trái của nó móc phải một cái đồng thời lại bị trúng năm mũi ám khí. Nó yên trí ám khí có chất độc, thể nào sư huynh tôi cũng phải chết, nó cười khinh vài tiếng, rồi cùng thủ hạ đi liền. Ngờ đâu đại sư huynh tôi nội công rất tinh thâm, và lại biết trên người của đối phương cái gì cũng có dính chất độc cả, cho nên trước khi đấu võ đã uống rất nhiều thuốc giải, mới không nguy hiểm tới tánh mạng là thế.
Thủy Vân thở dài một cái rồi nói:
– Sợ nàng ta biết bần đạo chưa chết, lại tới đây chém giết kỳ tuyệt, cho nên bần đạo không dám dưỡng thương ở nhà trọ mà phải kiếm tới chốn kỳ quái này để tịnh dưỡng. Chỉ mong qua độ ba tháng nữa là khí độc dần dần tan hết. Có lẽ sư phụ tôi đã tuyệt mạng bởi con tiện tỳ ấy rồi. Mối thù này bần đạo phải báo cho kỳ được. Nhưng kẻ thù bản lãnh cao cường quá, nên sư huynh tôi không muốn liên lụy đến các vị
Mẫn Tử Hoa nói:
– Tại sao Viên tướng công lại kết thù oán với Ngũ Độc giáo?
Thừa Chí liền kể lại chuyện Thanh Thanh ở bờ hồ thưởng tuyết, tình cờ gặp Độc Cái Tề Vân Ngao, và Trình Thanh Trúc bị mụ ăn xin dùng móng tay độc đánh cho mà bị thương.
Thủy Vân nói:
– Viên tướng công với chúng đâu có thâm thù gì, chỉ bị thiệt thòi qua loa thôi, thì theo ngụ ý, mình vàng lá ngọc như Tướng công không nên dây dưa với lũ người độc như rắn rít ấy làm gì.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Ta còn mang thù cha trên thân, lại phải giúp Sấm Vương và nghĩa huynh Lý Nham khơi đại sự thì ta không nên coi trọng những việc tư thù này. Bằng không ta cứ dây dưa vào thì không biết đến bao giờ mới kết liễu được!”
Nghĩ đoạn, chàng gật đầu vài cái, rồi nói:
– Đạo trưởng nói rất phải. À, tôi có một con Băng Thiềm có thể giải hết chất độc cho đạo trưởng.
Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa vội đỡ Thủy Vân ra khỏi quan tài. Thừa Chí lấy con Băng Thiền ra hút độc cho đạo sĩ, quả nhiên thấy nhẹ và dễ chịu ngay. Thấy trên núi không có sẵn rượu để rửa những chất độc đã hút vào mình con Băng Thiền, Thừa Chí liền đưa con nọ cho Đồng Huyền mượn và còn dặn cách sử dụng nữa. Đồng Huyền vái chào lia lịa cám ơn và hứa chữa khỏi Thủy Vân là hoàn lại bảo vật ngay.
Thừa Chí và Uyển Nhi thủng thẳng xuống núi, đi tới nửa đường, Uyển Nhi bỗng ngồi sụp xuống một tảng đá, ôm mặt khóc lóc. Thừa Chí bỗng hỏi:
– Sao thế? Tiên cô nương thấy sao? Trong người thấy khó chịu phải không?
Uyển Nhi lắc đầu, lau chùi nước mắt xong, lại như thường, đứng dậy đi luôn.
Thừa Chí nghĩ: “Bây giờ, chúng ta với phái Võ Đang đã hóa địch thành bạn rồi, nhưng việc trả thù cha của nàng lại hóa viển vông. Thời buổi này thật hiếm có người đảm đang như cô bé này.”
Khi hai người về tới thành, trời đã tảng sáng rồi. Thừa Chí đưa nàng về tới nhà trọ của bang Kim Long trú ngụ, rồi mớ trở về nhà riêng.
Nhưng chàng lại giở khinh công “Bách Biến Quỷ Ảnh” (bóng ma biến trăm lần) của Mộc Tang đạo nhân truyền cho đi trên các nóc nhà, hết mái này sang mái khác, qua được mấy con đường, đang cao hứng thì bên tai có tiếng quát khẽ: “Tài ba lắm.”
Thừa Chí ngừng chân lại, thấy một cái bóng trắng ở bên cạnh lướt qua và cười với chàng rằng:
– Anh có đuổi được tôi không?
Người đó vừa nói dứt lời đã tiến lên trước chàng bảy tám trượng rồi. Thấy người đó nhanh nhẹn hơn các người thường nhiều, Thừa Chí giựt mình nghĩ thầm: “Người ấy là ai thế? Khinh công của y sao lợi hại như vậy?”
Tánh thanh niên háo thắng, chàng nhún mình đuổi theo liền. Người nọ cứ cắm đầu chạy như bay. Tuy nhiên khinh công của Thừa Chí vẫn cao thâm hơn, chỉ trong chốc lát, chàng đã vượt qua mặt người nọ vài trượng, mới quay đầu lại nhìn.
Người nọ ỏn ẻn vừa cười vừa nói:
– Đến ngày hôm nay, tôi mới phục tài Tướng công.
Nàng nói xong, lấy tay áo che mồm, thân hình ẻo lả như cành hoa uốn éo trước gió, nàng là Giáo chủ Ngũ Độc giáo Hà Thiết Thủ, mặc quần áo trắng, đứng trên mái ngói đen, càng trắng bệch thêm. Quần áo dạ hành của người trong võ lâm, không màu đen thì màu xám, để tiện đi trong bóng tối, khỏi bị người ngoài trông thấy và gặp lúc giao chiến, kẻ địch không biết mình ở đâu, mà lao phóng ám khí. Nhưng nàng lại mặc quần áo trắng, trái hẳn thường lệ, nếu không tự ỷ võ nghệ cao cường nàng đâu dám táo bạo như vậy.
Ngắm trông nàng giây lát, Thừa Chí chắp tay chào và nói:
– Hà giáo chủ định chỉ giáo gì thế?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Hôm nọ, Viên tướng công giá lâm, bên cạnh chúng ta có nhiều người vướng chân vướng cẳng, không thể tập trung tinh thần mà phân cao thấp được cho nên, hôm nay tiểu muội định tâm đến đây để lãnh giáo Viên tướng công vài thế võ.
Nàng vừa nói vừa cười, giọng nói ẻo lả, thân hình rung động.
Thừa Chí nói:
– Võ nghệ của Giáo chủ cao cường hơn người, so với phái nam nhi chúng tôi, tệ nhứt cũng ngang hàng với nhân vật số một số hai trong giới võ lâm, nên để chịu phục.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Ngày hôm nọ thấy quyền, chưởng phong của Tướng công lợi hại lắm. Tiểu muội kém hơi sức nên không dám so tài. Hôm nay chúng ta thử đấu khí giới xem sao?
Không chờ Thừa Chí trả lời, nàng rút cây roi quấn ở lưng ra vụt liền. Cây Nhuyễn tiên đó, từ đầu roi chí cuối, đều có gai ngược, hễ đánh trúng người là móc cả da thịt của người ta ra ngay.
Hà Thiết Thủ thỏ thẻ nói:
– Viên tướng công, cây Nhuyễn tiên này của tiểu muội gọi là Hiết Vỹ tên (roi đuôi bò cạp). Những gai ở xung quanh roi đều có chất độc, Tướng công nên cẩn thận thì hơn.
Thấy nàng nói như vậy, Thừa Chí cũng phải rùng mình. Giọng nàng rất nhu mì và âu yếm vô cùng, nhưng lời nói lại lợi hại khủng khiếp quá nỗi, thật không tương xứng chút nào. Không muốn vô duyên vô cớ chiến đấu với nàng, Thừa Chí chắp tay nói:
– Xin khất để khi khác!
Chàng chưa lùi ra, Hà Thiết Thủ đã quất cây roi tới trước ngực rồi.
Thừa Chí mỉm cười, ngửa người về phía sau, tránh khỏi mấy roi đó, và không để Hiết Vỹ tên đánh tới lần thứ hai, đã nhảy ra xa ngoài nơi đó mấy trượng rồi. Biết không sao đuổi kịp, Hà Thiết Thủ bèn lên tiếng chọc tức:
– Không ngờ đệ tử của Kim Xà Lang Quân lại hèn kém đến thế! Làm bại hoại cả oai danh của sư tôn, hà, hà…!
Ngẩn người ra giây phút, Thừa Chí nghĩ: “Mấy lần ta đã nhường nhịn mà nàng cứ tưởng ta sợ hãi thật. Có lẽ Ngũ Độc giáo đã nuông chiều và dung túng nàng quen rồi.”
Vừa nghĩ tới đây, chàng đã thấy bóng trắng thoáng qua, Hiết Vỹ tên đem mùi tanh hôi đánh tới mặt rồi. Chàng nghĩ: “Người quang minh chánh đại, có bao giờ dùng khí giới hèn hạ này đâu? Nàng là một thiếu nữ xinh đẹp như thế mà lại chịu đi vào con đường tà ma như vậy? Thật đáng tiếc quá?”
Biết cây roi của đối phương có chất độc rất lợi hại, không tiện ra tay cướp giựt, chàng liền thọc hai tay vào trong áo, rồi cứ xoay chong chóng tránh Đông né Tây. Mặc dầu thân pháp của Hà Thiết Thủ rất nhanh, nhưng không sao đụng chạm nổi vạt áo của chàng. Chỉ trong chớp mắt, chàng đã tránh được hơn hai mươi hiệp rồi.
Hà Thiết Thủ bực mình quát lớn:
– Tướng công cứ tránh né như thế không phải là anh hùng hảo hán.
Thừa Chí cười nói:
– Cô nương muốn thách tôi đoạt cây Độc tiên phải không? Có khó gì đâu?
Nói đoạn, chàng cúi mình xuống, hai tay nhặt luôn hai viên ngói, hai mắt nhìn đăm đăm bóng của cây roi, khi đã nhận thấy rõ đường lối rồi, hét lớn:
– Buông cây Tiên ra!
Chàng kẹp luôn cây roi vào giữa hai viên ngói, thuận tay giựt mạnh một cái, và đồng thời chân phải đá lên luôn ba cái. Không ngờ chân của đối phương lợi hại đến thế, nàng đang định dùng sức cướp lại roi, thì mũi chân của Thừa Chí đã đá tới đùi mình rồi, đành phải buông roi ra lùi về phía sau. Ngờ đâu, nàng dẫm hụt ra ngoài mái ngói, liền ngã lộn xuống dưới nhà.
Nắm lấy cán tiêu, Thừa Chí cười nói:
– Đệ tử của Kim Xà Lang Quân thế nào?
Bỗng nghe tiếng rất nhu mì của Hà Thiết Thủ nói:
– Khá lắm!
Thân pháp của nàng nhanh nhẹn vô cùng, vừa xuống tới mặt đất, nàng lại nhảy trở lên tức thì. Tài khinh công tuyệt đỉnh như Thừa Chí cũng phải cảm phục khinh công của nàng.
Hà Thiết Thủ nói:
– Tiểu muội còn muốn lãnh giáo vài ba ám khí của Tướng công nữa. Ngũ Độc giáo chúng tôi có một thứ cát gọi là: Độc Thiềm sa.
Chỉ thấy nàng ỏn ẻn nó chớ không thấy nàng quay mình giơ tay.
Thừa Chí đột nhiên thấy trước mắt có ánh sáng lấp lóe, giựt mình kinh hãi, biết là nguy tai tới nơi, vội vàng nhảy lên thật cao, nghe dưới chân có tiếng leng keng rất nhỏ, thì ra mấy chục hạt ám khí đều đánh rơi xuống mặt mái nhà cả. Lúc ấy chàng mới hay ám khí Độc Thiềm sa của Hà Thiết Thủ là một thứ đinh bằng gang rất bé nhỏ. Và máy phát những ám khí đó đặt ngay ở trước ngực, khi nào định phát ra chỉ cần bóp mạng mỡ bên phải là một loạt đinh gang bắn thẳng ra như mưa vậy. Nàng muốn phát xạ ám khí đó, không cần phải ngắm đích, chỉ hướng thẳng vào đối phương là bấm cò luôn. Dù là thần tiên cũng khó lòng tránh khỏi.
Những đinh gang ấy được tẩm độc dược rất lợi hại. Các thứ ám khí khác khi phát xạ phải vươn vai giơ tay trước, nên đối thủ phòng bị rất dễ. Còn thứ ám khí Độc Thiềm lần này độc nhứt thiên hạ, người ngoài không ai biết cách phát xạ của nó ra sao, tới khi phát giác thì đã muộn rồi, nên rất nhiều cao thủ bị thiệt mạng bởi ám khí này. Các người trong Ngũ Độc giáo tự cho ám khí “Hàn Sa Xạ Ảnh” (ngậm cát bắn hình bóng) này là độc bộ võ lâm, thiên gian vô song.
Người chưa trở xuống, Thừa Chí đã ném luôn ba con cờ vào yếu huyệt của nàng, giận dữ quát mắng:
– Tôi với cô không thù không oán, sao cô hạ độc thủ như thế?
Hà Thiết Thủ vung móc vàng gạt bắn hai quân cờ, và giơ bàn tay ngọc ra bắt luôn quân cờ thứ ba, miệng khẽ kêu một tiếng:
– Ối chà, sức lực mạnh quá, làm đau cả tay người ta thế này!
Vừa nói nàng vừa ném trả lại quân cờ vừa bắt được đó.
Nghe tiếng biết hình, sức ném lại quân cờ cũng khá mạnh, Thừa Chí định giơ tay ra bắt sực nghĩ: “Tay y có chất độc chớ có dại dột mà mắc hỡm.”
Chàng dùng tay áo phẩy quân cờ bắn ngược trở lại, tuy sức trả lại bằng tay áo, nhưng mạnh như ném bằng tay.
Hà Thiết Thủ giơ tay ra khẽ bắt lấy quân cờ ấy, bỏ vào trong túi, rồi giơ tay ra đến gió phẩy mạnh một cái, mười mấy sợi dây, không phải là sợi vàng và cũng không phải là sợi tơ, úp vào đầu Thừa Chí. Vì thấy nàng phát xạ ngầm Độc Sa, giở thủ đoạn hèn hạ, Thừa Chí không nể nang nữa, giơ luôn Hiết Vỹ tên quất thẳng vào mấy sợi dây của đối phương.
Hà Thiết Thủ đột nhiên thâu dây lại, cười nói:
– Cây Hiết Vỹ tên của tiểu muội đấy chớ? Dùng khí giới của người ta có biết xấu hổ không?
Nàng nói giọng Vân Nam, vừa dòn vừa chậm, nhưng tay nàng vẫn không chịu ngừng, Thừa Chí vứt Hiết Vỹ tên xuống nóc nhà, la lớn:
– Nếu tôi cướp được mấy sợi dây này, từ nay Ngũ Độc giáo chủ không được quấy nhiễu tôi nữa, chẳng hay cô nương có bằng lòng không?
Hà Thiết Thủ đáp:
– Đây không phải là sợi dây, mà là Nhuyễn Hồng Thù Tách Sách. Nếu Tướng công muốn đoạt thì cứ việc thử xem. (Nhuyễn Hồng Thù Tác là sợi tơ nhện màu hồng và mềm).
Nói xong, nàng tung cái thù tác quét ngang định quấn lưng Thừa Chí. Thù tác đó vừa nhỏ vừa dài, khi tung ra bốn mặt tám phương đều bao trùm được cả. Thừa Chí né mình tránh định nhằm chỗ hở của đối phương là xông cướp luôn. Ngờ đâu có Thù tác có thể tấn công và cũng có thể phòng thân được. Khi tung ra là tấn công, lúc thâu hồi là phòng vệ, công thủ liên hoàn, không có sơ hở gì hết.
Đấu được hơn mười hiệp, Thừa Chí đã nhận xét ra tinh diệu của dây tơ nhện như thế nào rồi nghĩ thầm: “Ngũ Độc giáo ưa nuôi các loài độc vật, cái Thù Tác này họ đã vận dụng theo con nhện kết lưới mà biến hóa thành.”
Nghĩ tới đây, chàng thừa lúc đối phương vừa tung Thủ Tác ra chưa kịp thâu hồi, liền tiến tới cạnh lưng Hà Thiết Thủ và giơ tay ra nhắm yếu huyệt ở dưới xương sườn mà điểm luôn. Thế này vừa nhanh vừa hiểm. Hà Thiết Thủ biết không sao tránh nổi liền nghĩ ra một kế, hơi quay mình trở lại. Nếu Thừa Chí cứ thẳng tay mà điểm, tất phải đụng tới ngực nàng, chàng phải rút tay lại, hai má đỏ bừng lên. Thừa dịp may ấy, Hà Thiết Thủ quay trái tay trái móc luôn.
Thừa Chí vội co tay lại, nhưng tay áo đã móc rách một đường rồi.
Hà Thiết Thủ nói:
– Ối chà, nguy tai, tiểu muội đã trót móc rách tay áo của Tướng công rồi. Mau cởi áo ra để tiểu muội về nhà khâu hộ cho.
Thấy nàng giở lắm quỷ kế như thế, Thừa Chí càng tức giận thêm, liền xé rách tung chỗ tay áo đã bị móc rách ra, sử dụng như một miếng vải, múa động tiếng kêu “vù, vù”, không đầy năm hiệp tay áo đã quấn chặt cái Thù Tác quái của đối phương, rồi dùng sức kéo mạnh một cái thế là cả tay áo lẫn cái Thù Tác cùng rơi cả xuống đất.
Chỉ hai thứ vừa rơi xuống, Thừa Chí nói:
– Thế nào?
Hà Thiết Thủ khe khẽ cười, rồi đáp:
– Chả sao cả.
Nàng lại đưa tay lên vai, rút ở tên lưng ra một cái móc vàng sáng chói lọi. Thấy nàng hết võ khí này lại giở võ khí khác, càng ra càng kỳ lạ. Thừa Chí không biết nàng định dụng ý gì, liền nói:
– Tôi đã nói đoạt được chiếc Thù Tác của cô nương rồi, quý giáo không được quấy nhiễu tôi nữa mà?
Hà Thiết Thủ đáp:
– Đó là lời nói của Tướng công, chớ tiểu muột có chịu nhận bao giờ đâu?
Thừa Chí nghĩ: “Nàng nói cũng phải, nàng đã nhận lời không quấy nhiễu ta đâu? Nhưng cứ đấu từng môn võ khí một thế này mãi thì biết đến bao giờ mới xong.”
Nghĩ đoạn, chàng dùng giọng mũi nói “hừ” một tiếng, rồi lên tiếng:
– Cứ việc giở ra đi, xem cô có bao nhiêu võ khí nào.
Chàng vừa nói vừa nghĩ: “Ta cứ đoạt hết võ khí của nàng thì nàng phải chịu phục mà rút lui.”
Hà Thiết Thủ nói:
– Cái võ khí này tên là “Kim Ngô Câu” (Cái móc con rít vàng).
Nàng lại giơ tay trái lên, để lộ cái móc ở tay trái nói:
– Còn cái này là Thiết Ngô Câu. Vì luyện cái trò quỷ này mà cha tôi đã chặt đứt bàn tay trái của tôi đấy. Cha tôi nói cầm khí giớ ở tay không tiện lợi và linh động bằng lắp luôn vào tay. Tiểu muội đã luyện nó mười ba năm rồi, mà vẫn chưa tới mức đạt thành. Viên tướng công, cái móc này có chất độc, xin đừng dùng tay cướp đoạt nhé?
Thấy nàng vừa nói vừa cười, từ từ tới gần, bề ngoài chàng vẫn ra vẻ thản nhiên nhưng trong nội tâm vẫn lo ngại thầm.
Chàng đang đề phòng cẩn mật bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng kêu la cầu cứu, sực nghĩ ra một việc, kêu thầm rằng: “Nguy to, không biết chừng người này giữ ta ở đây, và sai bộ hạ của nàng hãm hại Thanh Thanh và các người cũng nên?”
Không chờ đợi nàng nói hết lời, Thừa Chí quay mình chạy luôn. Hà Thiết Thủ ha hả cười lớn rồi nói:
– Lúc này Tướng công mới đi đã muộn lắm rồi!
Nàng liền dùng cả Kim câu lẫn Thiết câu tấn công vào sau lưng Thừa Chí tức thì.
Thừa Chí vội tránh sang một bên. Hà Thiết Thủ nhún mình nhảy lên, dùng song móc phản công. Lúc ấy mặt trời mới mọc, chỉ thấy một đạo hắc khí, một đạo hoàng khí quây xung quanh Thừa Chí. Quả thật song câu của nàng lợi hại vô cùng, không những hơn Đồng Huyền, Mẫn Tử Hoa và còn trên cả năm anh em họ Ôn nữa.
Thừa Chí lo ngại Thanh Thanh và các người lâm nguy, không muốn luyến chiến, mấy lần phi thân tới gần, định dùng thủ pháp cầm nả để đoạt kim câu của nàng nọ, nhưng mấy lần nàng đều tránh khỏi kịp thời. Đấu hơn ba mươi hiệp, Thừa Chí vẫn không sao đánh lại được nàng, nóng lòng sốt ruột, thò tay rút luôn Kim Xà bảo kiếm ra, một luồng ánh sáng lấp lóe làm choáng cả mắt đối phương.
Từ khi xuống núi Hoa Sơn tới giờ Chàng hầu như chưa bao giờ phải sử dụng tới kiếm pháp, nhưng hôm nay vì sốt ruột cứu nguy và gặp phải đối thủ lợi hại quá nên chàng phải sử dụng cả tới Kim Xà kiếm và kiếm pháp Hoa Sơn, chỉ thấy một luồng kiếm khí cuồn cuộn lạnh lẽo cuốn chặt lấy hai cái móc câu của Hà Thiết Thủ, nàng ta sợ hãi quá vội nhảy lui ra xa hơn trượng. Thừa chí cũng không ham chiến, liền nhắm hướng khách sạn lao đi như một làn khói mỏng.
Nhảy vào trong phòng thừa chí thấy đồ đạc ngổn ngang dao kiếm vứt bừa bãi liền sợ tái mặt Thấy Hồ Quế Nam đang nằm lăn trên sàn, thừa chí vội đỡ dậy giải huyệt rồi hỏi:
– Mọi người đâu cả rồi?
– Thanh Thanh cô nương bị Ngũ Độc giáo bắt cóc… đi…
Thừa Chí kinh hãi, vội hỏi:
– Còn Sa Thiên Quảng, các người đâu?
Hồ Quế Nam chỉ tay lên trên nóc nhà. Không kịp hỏi han thêm nữa, Thừa Chí nhảy ngay lên mái nhà, trước hết trông thấy Đại Oai và Tiểu Oai hai con đười ươi đang ôm chặt lấy chàng Câm, mồm kêu chít chít, hình như chúng không biết làm cách gì để cứu chữa. Vừa thấy Thừa Chí chúng liền nhảy xổ lại, giơ tay giơ cẳng, hình như muốn kể lể sự thể cho chủ nghe, nhưng không sao nói ra lời được. Thừa Chí lại thấy Sa Thiên Quảng mặt xạm đen xì biết y bị trúng độc rất nặng. Cũng may không một ai chết, nhưng tất cả các cao thủ trong nhà đều bị thương hết, thật là đại bại chưa từng thấy bao giờ. Còn Thanh Thanh không biết bị bắt đưa đi về phương hướng nào? Thừa Chí nghiến răng giận dữ, tự khi trách rằng:
– Sao ta lại có thể hồ đồ đến như thế được? Để cho con tiện tỳ nó giữ chân mà không hay biết gì cả!
Trong lúc ác chiến, tất cả kẻ hầu người hạ đều bỏ chạy hết cả. Mặt trời đã sáng tỏ, thấy kẻ địch đã đi rồi, bọn người nhà mới trở về lần. Thừa Chí ẵm chàng Câm xuống dưới nhà, đặt nằm lên trên giường, rồi viết mấy chữ cho người đem tới khách sạn, nhờ Uyển Nhi đi lấy hộ con Băng Thiều về chữa cho mọi người.
Một mặt băng bó cho Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam mấy người, một mặt Thừa Chí hỏi tình hình kẻ địch đến đây tập kích như thế nào? Vì lần trước bị thương, Thiết La Hán vẫn phải nằm dưỡng thương ở trên giường nên không việc gì. Thấy Thừa Chí hỏi tới, Thiết La Hán liền nói:
– Lúc canh ba, Đại Oai và Tiểu Oai phát giác tung tích của địch trước, liền kêu gào “chít chít” loạn xạ và kéo chàng Câm lên trên nhà, mười mấy tên địch xông lại bao vây chàng Câm và hai con đười ươi. Thấy hai con vật giậm chân trên mái ngói động, mọi người đều lên cả trên nóc nhà ứng chiến. Tôi nằm cạnh cửa sổ trông thấy rất rõ chỉ vì đuối sức quá không sao lên giúp được, nóng lòng vô cùng, lại thấy Câm huynh, Sa huynh, và Trình lão phu tử đánh mấy kẻ địch bị thương. Sau kẻ địch càng ngày càng tới nhiều quá, mọi người vừa đánh vừa lui. Ở trong nhà này, bất cứ một nơi nào đều là chiến trường cả. Rốt cuộc ai nấy đều bị thương hết, còn cô Thanh Thanh thì bị chúng bắt đi mất. Viên tướng công… chúng tôi có lỗi với Tướng công lắm.
Thừa Chí nói:
– Lần này tôi bị trúng kế Điệu Hổ Ly Sơn của địch. Bây giờ sự thể đã lỡ rồi, chỉ có cách cứu chữa các người bị thương là cần hơn cả.
Chàng vào chuồng ngựa, lấy ngựa ra cỡi phóng vào thành, sắp tới căn nhà kỳ quái, chàng liền ngừng lại, buộc ngựa vào cây, rồi đi tới trước nhà đó, vượt tường nhảy vào. Vừa lo vừa giận, chàng liền lớn tiếng kêu gọi:
– Hà giáo chủ, xin mời ra đây tôi có lời muốn thưa cùng.
Một loạt tiếng vang dội lên rồi giữa bức tường màu vàng có cánh cửa sắt mở ra, và tiếp theo tiếng chó sủa vừa nổi lên, mười mấy con ác khuyển ra, theo sau có mấy chục người.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Lúc này ta không thể nào nể nang chúng được, phải ra oai cho chúng khiếp đảm đã!”
Nghĩ đoạn, chàng liền phi luôn mười mấy cái Kim Xà chủy vào lũ chó. Con nào con nấy đều bị thủng óc nằm lăn ra chết. Chàng đi vòng quanh các con ác khuyển, hai tay khảy hết mười mấy cái Kim Xà chủy rồi bỏ luôn vào túi.
Giáo chúng Ngũ Độc giáo định bụng lúc chàng bị lúc chó bao vây là phun luôn chất độc để hãm hại. Ngờ đâu chàng lại giết lũ chó một cách chóng vánh đến thế làm cho mấy chục tên giáo chúng đều kinh ngạc ngẩn người ra. Chờ tới khi chàng thâu hết ám khí lại, tên giáo dân đi đầu hô lên một tiếng quay đầu ngay. Những tên kia cùng ù té chạy vào bên trong nốt. Thừa Chí theo sau xông vào. Ngũ Độc giáo giáo chúng định đóng cửa lại nhưng không sao kịp.
Tấm cửa sắt ở bức tường màu đỏ vừa mở rộng để chờ bọn giáo dân rút lui, thì Thừa Chí đã nhảy qua đầu chúng mà xông vào trong cửa trước rồi. Vào tới phúc địa của địch, Thừa Chí lại bình tĩnh, lớn tiếng nói:
– Nếu Hà giáo chủ vẫn không chịu ra đây tiếp chuyện thì đừng có trách tôi vô lễ nhé?
Bỗng nghe một tiếng còi thật lớn, bọn giáo dân đứng sang hai bên chầu chực. Trong nhà có mười mấy người bước ra, mụ ăn xin đi đầu, theo sau là tả hữu hộ pháp Phan Tú Đạt, Trình Kỳ Tư, Cầm Y Độc Cái Tề Vân Ngao, các tay hảo thủ của giáo phái đó.
Thừa Chí nói:
– Xưa nay tôi với quý vị không quen biết nhau, không có thù cũ và cũng không có oán mới. Tại sao quý vị lại tới tệ xá đánh các bạn hữu tôi bị thương nặng, và còn bắt cóc chú em tôi như vậy, thế là nghĩa lý gì? Hà giáo chủ cho tôi được hay?
Hà Hồng Dược đáp:
– Người nhà của Tướng công không có thù oán gì với chúng tôi cả, vì thế chúng tôi có đánh thiệt mạng ngay tại chỗ đâu? Tướng công đã có bảo vật là con Băng Thiền thì việc chữa cho họ khỏi có gì đâu? Còn tên tiểu tử họ Hạ kia! Chúng tôi phải thong thả dầy vò nó khi chết mới nguôi cơn giận.
Thừa Chí hỏi:
– Y tuổi trẻ như thế thì đâu có điều gì mang lỗi với quý vị nào?
Hà Hồng Dược cười nhạt nói:
– Ai bảo y là con của Kim Xà Lang Quân? Hừ, đã thế thì chớ, lại còn là con điếm khốn nạn họ Ôn làm gì?
Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Sao mụ này lại biết rõ cả mẹ của chú Thanh là họ Ôn nữa?”
Thấy Thừa Chí trầm ngâm không nói gì, Hà Hồng Dược lầm lì nói:
– Người tới đây giở trò gì?
Thừa Chí đáp:
– Quý vị có thù hằn gì với Kim Xà Lang Quân tại sao không đi kiếm thẳng ông ta mà báo thù?
Hà Hồng Dược nói:
– Giết cả cha lẫn con! Và ngươi là họ hàng bà con của y, ta cũng giết nốt!
Không muốn cãi vã lôi thôi với mụ ăn xin đó, Thừa Chí lớn tiếng gọi:
– Hà giáo chủ có chịu ra đây gặp tôi không? Có chịu thả người nhà chúng tôi ra không?
Trong nhà vẫn im lặng. Một lát sau, tiếng vang ở năm bờ tường dội lại.
Thừa Chí lại nhớ Thanh Thanh, né mình lách qua bên cạnh Hà Hồng Dược, xông thẳng vào bên trong. Hai tên giáo dân vội chạy lại cản. Thừa Chí giơ hai tay lên, hất hai tên nọ bắn vọt ra ngoài. Vào tới trong khách sảnh, Thừa Chí chẳng thấy bóng một người nào cả. Chạy thẳng tới phòng phía Đông, chàng đạp tung cửa, thấy trong phòng có hai tên giáo dân đang nằm trên giường dưỡng thương. Nhìn kỹ chàng mới hay tên đó hôm nọ đã bị chàng bẻ quập cánh tay. Hai tên ấy vừa thấy Thừa Chí sợ quá nhảy cả lên.
Chạy tới phía Đông, xông vào phương Tây, Thừa Chí tìm kiếm khắp nơi khắp chốn, Ngũ Độc giáo chúng ùa ra ngăn cản loạn xạ cả lên. Tìm kiếm khắp các phòng, Thừa Chí vẫn không thấy hình bóng của Thanh Thanh đâu cả, và Hà Thiết Thủ cũng vắng mặt nốt. Chàng sốt ruột quá, lật tung hết mọi hòm, siểng, chum, vại, những rắn rít độc nuôi trong đó đều bị đá vung ra, bò lõm ngõm khắp nhà. Ngũ Độc giáo chúng cả kinh, một mặt giao chiến với Thừa Chí, một mặt phái người bắt nhốt những con độc vật lại.
Phan Tú Đạt lớn tiếng gọi:
– Nếu người có phải là anh hùng hảo hán thì hãy ra bên ngoài chiến đấu để phân ai thắng, ai bại!
Biết y là người có địa vị trong giáo phái đó, Thừa Chí quyết bắt cho kỳ được tên nọ để tra hỏi nơi chúng nhốt Thanh Thanh, liền trả lời rằng:
– Hay lắm, tôi rất muốn được lãnh giáo Độc Sa chưởng của ngài!
Nói đoạn, chàng giở luôn khinh công Bách Biến Quỷ Ảnh ra, hai chân nhún một cái, đã nhảy tới trước mặt đối phương rồi. Phan Tú Đạt giựt mình kinh hãi, “vù, vù” đánh luôn hai chưởng tới.
Thừa Chí nói:
– Người khác thì sợ bàn tay độc của quý vị, chớ tôi đây thì không sợ hãi chút nào cả.
Phan Tú Đạt nói:
– Hay lắm, không sợ cứ việc thử xem!
Thừa Chí giơ bàn tay phải lên, đánh luôn vào độc chưởng của địch. Phan Tú Đạt mừng quá, nghĩ thầm: “Nếu đánh miếng gỡ miếng, có lẽ ta không địch nổi nhà ngươi. Bây giờ ngươi lại đụng chạm tới bàn tay độc của ta, có khác gì đâm đầu vào con đường tử, không thể oán trách ta đấy nhé?”
Nghĩ đoạn, y vận sức vào hai bàn tay, đẩy mạnh về phía đằng trước, chỉ còn một tấc là bàn tay của hai bên chạm nhau. Bỗng thấy đối phương rụt tay lại, và sau gáy có gió lạnh, Tú Đạt biết nguy hiểm đến nơi, vội thâu chưởng và co mình lại, nhưng đã muộn rồi, y bị Thừa Chí túm cổ nhấc bổng lên. Ngũ Độc giáo chúng kêu la ầm ĩ vội xông vào để cứu. Thừa Chí nắm cổ Tú Đạt quay một vòng. Sợ vì Hộ pháp bị thưong, không ai dám đến gần nữa. Thừa Chí quát lớn:
– Nói mau! Người bị các ngươi bắt đi, hiện giờ ở đâu?
Thấy Phan Tú Đạt cứ nhắm mắt làm thinh, Thừa Chí giơ tay điểm vào yếu huyệt ở cạnh xương sống một cái. Đau quá, Phan Tú Đạt cảm thấy như bị một sợi dây thép thắt chặt các thớ thịt trong người. Sau đó Thừa Chí vứt luôn kẻ địch xuống đất. Đau đến chết đi sống lại, Phan Tú Đạt vẫn nghiến răng chịu đựng, lăn đi lăn lại mà không chịu nói nửa lời.
Thừa Chí nói:
– Giỏi lắm, bạn không nói thì đã có người khác phải nói.
Nói đoạn, chàng sực nghĩ rằng: “Môn điểm huyệt của ta chỉ có người trong bổn môn mới có thể giải được. Bây giờ ta cứ điểm huyệt hết bọn gian có mặt ở đây, xem Hà Thiết Thủ có dám hãm hại Thanh Thanh không?”
Bọn Ngũ Độc giáo chúng, sau khi Phan Tú Đạt bị hạ, liền tuân theo lệnh của Trình Kỳ Tư xông vào bao vây. Thừa Chí nghĩ: “Thể nào chúng cũng có quy luật của giáo phái rất nghiêm khắc, mới chịu chết mà không dám thổ lộ cơ mật như vậy. Chi bằng ta cứ điểm huyệt hết bọn này trước đã rồi sau hãy hay.”
Thế rồi chàng cứ xen qua xuyên lại bên cạnh giáo chúng. Mấy tên hảo thủ còn chống đỡ được một vài miếng, còn những tên tầm thường thì không hiểu tại sao đã bị chàng điểm trúng yếu huyệt mà nằm kềnh ra đất cả rồi. Chỉ trong chốc lát, trong sân đã có tới hai chục tên giáo dân nằm la liệt dưới đất.
Thấy tình thế nguy cấp, Hà Hồng Dược liền thét lên một tiếng, rồi quay đầu bỏ chạy. Các giáo chúng xô đẩy nhau chạy theo. Trong giây lát, cả một căn nhà lớn rộng như thế mà không còn một bóng nào. Chỉ còn lại mấy chục tên giáo chúng không cử động được, đang nằm rên rỉ dưới đất và trợn mắt giận dữ nhìn Thừa Chí.
Thừa Chí lớn tiếng kêu gọi:
– Chú Thanh, chú Thanh, chú ở đâu thế?
Ngoài tiếng vang dội lại, tuyệt nhiên không có một tiếng động gì cả. Vẫn chưa tuyệt vọng, Thừa Chí lại đi tìm kiếm các căn phòng một lần nữa, mới nản chí rút lui, bắt mấy tên Ngũ Độc giáo lên tra hỏi. Chúng chỉ nhắm mắt không trả lời. Vô kế khả thi, chàng đành phải quay về nhà, thấy Uyển Nhi và mấy tên đệ tử lớn tuổi của bang Kim Long đã hút chất độc cho bọn Sa Thiên Quảng và băng bó xong rồi. Đi thăm nom mọi người, chàng thấy không ai bị nguy hiểm tới tánh mạng cả, duy có người yêu bị địch bắt mang đi, không rõ tính mạng ra sao, lòng chàng buồn rầu vô hạn. Uyển Nhi đứng cạnh nói mấy lời an ủi, đồng thời lại phái rất nhiều bang hữu đi thám thính khắp mọi nơi.
Nửa giờ sau, bỗng nghe “thinh” một tiếng, từ trên mái nhà có một gói đồ lớn ném xuống, mọi người đều giựt mình sợ hãi. Nóng lòng quá, Thừa Chí không chờ coi theo thường lệ, lấy tay giựt luôn dây thừng buộc bên ngoài. Chàng chưa mở hết gói đó ra, đã ngửi thấy mùi tanh hôi xông lên tận mũi rồi. Bị xúc động mạnh quá, trống ngực chàng đập thình thình, mồ hôi tay chảy ra rất nhiều. Khi mở xong gói đó ra mới hay bên trong là một xác chết đen thâm, xé thành tám mảnh, râu tóc trắng xóa, Độc Nhãn Thần Long, Đơn Thiết Sinh. Chàng nhảy lên mái nhà, nhìn xung quanh, thấy về phía Tây Nam có một cái bóng đen chạy đã khá xa rồi.
Chàng biết ngay người là giáo dân của giáo Ngũ Độc đem xác chết, liền giở khinh công đuổi theo, rồi thấy tên nọ chạy vào trong rừng rậm.
Cũng vì nóng lòng cứu người yêu, và hơn nữa chàng cậy tài cao, can đảm hơn người, không cần để ý câu phương ngôn cổ nhân dạy: “Gặp rừng chớ vào”, rồi cứ theo hút bóng tên nọ xông luôn vào trong rừng sâu tới chỗ mấy chục người đang vây xung quanh đống lửa trò chuyện. Một người trong bọn bỗng quay đầu lại trông thấy Thừa Chí tới, kinh hãi la lớn:
– Khắc tinh đã tới đấy!
Tất cả mọi người đều bỏ chạy tán loạn, Thừa Chí đuổi theo những tên giáo chúng chạy xa nhứt và chạy trước nhứt mà chân đá tay đấm, điểm huyệt cho bọn đó đứng yên cả, rồi chàng quay lại dùng khuỷu tay thích, giơ ngón tay điểm, hay là lấy quân cờ ném vào yếu huyệt những tên chạy sau, và gần mình hơn hết. Lúc ấy tiếng kêu la, rên rỉ inh ỏi trong rừng sâu. Chỉ qua một thời gian rất ngắn, bốn bề đã yên lặng như tờ. Thừa Chí vừa phủi bụi, vừa thủng thẳng bước ra.
Còn mặt trận đằng Ngũ Độc giáo, chàng đã điểm huyệt hết tất cả cao thủ của giáo đó, từ Trình Kỳ Tư, và Tề Vân Ngao trở xuống, duy có Hà Thiết Thủ và Hà Hồng Dược là chạy thoát thôi. Vì vậy, chàng cũng hơi yên trí và nghĩ thầm: “Quý hồ em Thanh chưa bị chúng hạ sát, thì dù có thù oán lớn tới đây, chúng cũng không dám hại nàng nữa.”
Chàng về tới nhà lúc trời sắp tối, các người đi dò thám đều trở về cả, nhưng không ai kiếm ra manh mối gì. Đến canh hai, Thừa Chí sai Ngô Bình, La Lập Như đem xác của Đơn Thiết Sinh đi trả cho Nha môn Kinh Thiên doanh. Các nha lại, ai trông thấy cái chết thảm thương của Đơn Thiết Sinh đều biết ngay Ngũ Độc giáo hạ độc thủ mà nên.
Còn Uyển Nhi và mấy anh em khác trong Kim Long bang thì ở lại băng bó cho các người bị thương, và canh gác đề phòng bị kẻ địch.
Vì lo lắng cho Thanh Thanh, Thừa Chí không sao ngủ được, ngồi xếp bằng tròn trên phảng, ngẫm nghĩ kế hoạch để ngày mai đi cứu người yêu. Qua được hơn một canh, bốn bề yên lặng như tờ, chàng bỗng nghe thấy đầu hẻm phía đằng xa có hai tiếng chó sủa, phu canh điểm canh từ xa tới gần, rồi lại từ gần đi xa. Thừa Chí tự trách lần này thất sách trúng kế Điệu Hổ Ly Sơn của họ. Có lẽ lần này là lần thất bại nặng nề nhứt từ khi xuống núi tới giờ.
Bỗng nghe một tiếng động rất nhẹ, chàng nghĩ thầm: “Nếu là bọn Ngô Bình trở về thì làm gì có khinh công tuyệt kỹ như thế. Tất là kẻ địch tới đây cũng nên!”
Chàng vẫn ngồi yên trên giường chờ đợi địch tới để đối phó. Bên ngoài cửa sổ có tiếng động nhẹ như lá cây rơi xuống, tiếp theo là tiếng cười lanh lảnh, rồi giọng nhu mì cất tiếng:
– Viên tướng công, khách đã tới đấy.
Thừa Chí nói:
– Cảm phiền Hà giáo chủ giá lâm, xin mời vào trong này.
Nói đoạn, lấy đá lửa ra đánh lửa thắp nến, mở cửa nghênh đón khách.
Vẫn y phục màu trắng, Hà Thiết Thủ thướt tha bước vào, thấy phòng của Thừa Chí bày biện giản dị mộc mạc, ngoài một giường, một bàn ra thì bốn vách không trang hoàng, trần thiết gì cả, liền cười nói:
– Viên tướng công sống thanh đạm quá.
Thừa Chí chỉ mỉm cười, không đáp lời. Hà Thiết Thủ cười nói tiếp:
– Lần này tiểu muội tới đây có ý muốn yêu cầu Tướng công
Thừa Chí nói:
– Phiền Hà giáo chủ cho hay.
Hà Thiết Thủ nói:
– Tướng công có việc phải yêu cầu muội giúp, và muội cũng có việc cần yêu cầu Tướng công giúp cho. Như vậy, cuộc chiến đấu này không ai được và cũng không ai thua cả.
Thừa Chí cười nói:
– Tôi thiết tưởng chúng ta không cần tái chiến làm gì nữa. Hà giáo chủ có trí có dũng, tôi chịu phục lắm.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Đây mới là hiệp đầu. Trừ phi Tướng công tiêu diệt hết Ngũ Độc giáo chúng tôi, chớ không chúng tôi còn làm cho Tướng công đau đầu nhức óc.
Thừa Chí rùng mình nghĩ thầm: “Bọn chúng cứ quấy nhiễu ta luôn luôn, quả thật có chống trả cũng khá mệt.”
Nghĩ đoạn, liền nói:
– Hà giáo chủ đã thù hận với cha chú em tôi xin cứ đi kiếm ngay đích thân ông ta mà trả thù thì hơn, hà tất phải gây chuyện khó dễ với người trẻ tuổi vô tri làm gì? Cổ nhân có dạy: Oán cừu nên giải không nên kết…
Hà Thiết Thủ mỉm cười rồi nói:
– Việc đó để lúc khác nói sau, bây giờ hãy cho tôi uống rượu đã.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Người này lạ lùng lắm.”
Liền gọi tiểu đồng bưng thức ăn và rượu ra. Uyển Nhi không yên lòng liền cải trang tiểu đồng bưng món ăn và rượu vào phòng Thừa Chí.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Thật là hổ tướng không bao giờ có lính yêu cả có khác! Tiểu thư đồng của Viên tướng công mặt mũi cũng khác người nhiều.
Thừa Chí rót hai chén rượu. Hà Thiết Thủ một lúc uống cạn cả hai, tiếp theo đó lại uống thêm hai chén nữa, rồi cười nói:
– Viên tướng công tới tệ xá chắc chê rượu nhạt nên không uống một chén nào. Trái lại tiểu muội bình sinh lỗ mãng táo gan cứ thấy rượu là uống luôn.
Uyển Nhi liền tiếp lời:
– Rượu nhà chúng tôi không có thuốc độc đâu.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Giỏi, giỏi thật là tiểu quân gia nhanh mồm nhanh miệng có khác. Cạn chén!
Uống mấy chén rượu. Dưới ánh sáng nến lung linh, đôi mắt nàng lóng lánh, hai má đỏ bừng, chàng nghĩ thầm: “Những người đàn bà ta quen biết từ trước tới nay, kể sắc đẹp thì cô A Chín đẹp nhứt. Tiểu Tuệ thì thực thà đứng đắn, Uyển Nhi hào phóng khoáng đạt, mấy người đó đều là phái tu mi trong giới phụ nữ cả. Còn chú Thanh hay ghen bóng ghen gió thật, nhưng nàng nhứt tâm nhứt chí yêu ta, những thủ đoạn ôn hòa nhu mì, nhiều khi khiến ta không giữ vững được tinh thần. Ngờ đâu lại còn có nàng này, sắc đẹp như hoa đào hoa lý, nhưng lại là nhân vật độc như rắn rít. Thật là, thiên hạ lớn lao biết bao, đâu đâu cũng có kỳ nhân dị sĩ có khác?”
Hà Thiết Thủ thấy chàng tần ngần không nói gì, chỉ tủm tỉm cười thôi, một lát sau, khẽ nói:
– Võ công của Tướng công thật là tuyệt thế, tiểu muội bái phục lắm. Nghe nói năm xưa tôn sư Kim Xà Lang Quân cũng không biết môn điểm huyệt lạ lùng đó. Vậy môn võ này, chắc Tướng công lại có thêm một vị sư phụ khác phải không?
Thừa Chí nói:
– Đúng, tôi còn có hai vị ân sư nữa.
Hà Thiết Thủ nói:
– Viên tướng công tập hợp sở trường võ công của ba nhà như thế nên tài nghệ mới thần diệu như vậy, chả trách được. Tối hôm nay tiểu muội tới đây mục đích là đến cầu sư đấy.
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
– Tôi không hiểu Hà giáo chủ vừa nói gì?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– tiểu muội ngu si đần độn, thì xin cho phép tiểu muội được làm quý môn đồ.
Thừa Chí cả cười một hồi, rồi nói:
– Hà giáo chủ là nhứt giáo chi trưởng, võ công xuất thần nhập hóa đến thế, mà lại xin làm môn đồ của tôi? Có phải Giáo chủ diễu cợt tôi đấy không?
Hà Thiết Thủ nói:
– Nếu Tướng công không dạy tiểu muội môn giải huyệt, mấy chục giáo hữu của tệ giáo chẳng lẽ cứ nằm yên đó mà chờ chết hay sao?
Thừa Chí đáp:
– Quý hồ Giáo chủ trả lại người bạn của tôi và cam đoan từ giờ trở đi không tới đây quấy nhiễu nữa thì tôi xin đi giải huyệt cho mấy chục vị giáo hữu kia ngay.
Hà Thiết Thủ nói:
– Nếu vậy, Tướng công không chịu nhận đứa đồ đệ không nên thân này phải không?
Thừa Chí đáp:
– Tôi học nghề chưa được tinh vi, cầu sư còn chưa kịp đâu dám thụ nghiệp cho người? Bây giờ chúng ta bắt tay giải hòa, không nhắc nhở chuyện cũ nữa. Chẳng hay Giáo chủ nghĩ sao?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Muội xin trả lời quý bạn. Tướng công chữa khỏi cho các giáo hữu của tệ giáo. Còn việc sau này, nó sẽ ra sao, muội không dám bảo đảm trước.
Thấy nàng vẫn không chịu giải hòa, Thừa Chí nổi giận, nghĩ thầm: “Ngũ Độc giáo các ngươi tuy hoành hành ở miền Nam thật, nhưng chúng ta anh hùng hào kiệt bảy tỉnh đâu đến nỗi hèn kém mà phải sợ hãi các ngươi?”
Nghĩ đoạn, chàng chỉ gật đầu không nói năng gì cả.
Hà Thiết Thủ đứng dậy cười nói:
– Ối chà! Viên đại minh chủ chúng tôi đã nổi giận rồi đấy.
Nàng cúi chào một vái, lại nói tiếp:
– Thôi, tiểu muội xin lỗi, Tướng công hãy bớt giận làm lành nhé?
Thừa Chí đáp lễ lại, nhưng trong lòng vẫn chưa hết cơn giận, vì chàng vẫn không ưa hành vi của nàng.
Hà Thiết Thủ nói:
– Ngày mai muội xin đưa chú em họ Hạ về đây trước, rồi mới thỉnh Tướng công đại giá giáng lâm cứu chữa cho các bạn tôi.
Thừa Chí đáp:
– Cũng được, chúng ta quyết định như vậy.
Hà Thiết Thủ khẽ cúi mình chào quay mình đi ra. Nàng không lên mái nhà, lại đi thẳng ra ngoài cửa lớn, bắt buộc Thừa Chí phải tiễn chân theo sau. Các gia nhân vội thắp nến mở cửa.
Theo sau Thừa Chí, Uyển Nhi nghĩ thầm: “Hành động của người đàn bà này quỷ quái lắm, chưa biết chừng nàng cho đồ đảng mai phục sẵn ngoài cửa dụ Viên tướng công ra rồi đột kích ngầm cũng nên? Chi bằng ta ra ngoài trước xem thật hư ra sao có hơn không?”
Nhân lúc mọi người quay ra phía cửa giữa, nàng liền vượt qua bờ tường ra bên ngoài, núp sau góc tường đưa mắt nhìn về phía cửa giữa, thấy có một cái kiệu và bốn người phu thôi.
Nàng lần dò tới đằng sau cái kiệu, hai tay khẽ nâng kiệu đó lên, thấy nhẹ bổng biết trong đó không có người, tới lúc ấy mới yên tâm. Nàng đang định quay trở lại, nhảy qua bờ tường vào như trước, đã thấy cửa giữa do gia nhân mở rộng, mấy tiểu đồng cầm nến chiếu rọi. Thừa Chí tiễn Hà Thiết Thủ ra tận bên ngoài.
Nàng sực nghĩ ra một kế: “Mụ này không chịu ngừng tay, sau này còn nhiều chuyện phiền phức xảy ra, chi bằng bây giờ ta đi theo dõi, xem mụ ấy ẩn núp ở đâu, rồi ta cho Viên tướng công hay lúc ấy sẽ tấn công nó một cách xuất kỳ bất ý, có phải hơn không?”
Nàng định tâm báo ơn, nên không quản ngại mọi sự nguy hiểm, chui ngay xuống dưới đáy kiệu, tay chân ôm chặt lấy hai cái xà ngang bên dưới. Cái kiệu này xung quanh bao bọc bằng gấm lúc đêm khuya nên không ai phát giác cả.
Chỉ thấy Hà Thiết Thủ cười lanh lảnh rồi bước vào trong kiệu ngồi. Bốn tên phu kiệu khênh kiệu lên đi như bay.
Thế là Uyển Nhi cũng ở trên kiệu theo về sào huyệt riêng của Ngũ Độc giáo.
Hồi 20
Tiêu Uyển Nhi trốn dưới đáy kiệu, chỉ cảm thấy bốn tên phu kiệu khênh chạy như bay, mới hay những người phu đó đều là võ sĩ cải trang cả.
Thấy vậy nàng hơi hoảng sợ. Lúc ấy là mùa Đông gió lạnh buốt xương, dưới đáy kiệu cũng kết băng, bị hơi thở của nàng ra hơi nóng, băng đó hóa thành một giọt nước chảy xuống. Uyển Nhi đành phải để cho nước băng nhỏ giọt đầy hai má, không lấy tay gạt đi sợ hơi động đậy một tí là Hà Thiết Thủ biết liền.
Đi được một lúc lâu, bỗng nghe một tiếng thét lớn, kiệu ngừng ngay lại. Rồi nghe tiếng nói của một người đàn ông quát lớn:
– Con tiện tỳ họ Hà kia, mau ra đây lãnh chết.
Uyển Nhi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Tiếng nói quen thuộc lắm, không biết là ai thế?”
Lại nghe một tiếng khác la lớn:
– Ngũ Độc giáo các ngươi hoành hành như thế, không ngờ cũng có ngày hôm nay.
Uyển Nhi giựt mình nghĩ: “Ồ, người này là Mẫn Tử Hoa rồi, còn người nói thứ nhất là sư huynh của ông ta Đồng Huyền đạo nhân.”
Rồi nàng nghe xung quanh có tiếng chân người đi tới, chắc là có rất nhiều người đã bao vây chiếc kiệu này rồi. Bọn phu kiệu để xuống rút khí giới ra chống cự, Uyển Nhi kéo một góc vải che kiệu lên, nhìn trộm ra ngoài, thấy góc phía Đông có bốn năm người đều mặc áo đại sĩ, tay cầm kiếm, người đứng trước hình như là Đồng Huyền đạo nhân.
Nàng nghĩ: “Chắc ba mặt Tây, Nam, Bắc kia đều có người bao vây cả. Đây là phái Võ Đang đại cử tới trả thù cũng nên?”
Chỉ thấy thân kiệu hơi động một cái, Hà Thiết Thủ đã nhảy ra ngoài kiệu và quát lớn:
– Thủy Vân đạo tặc đã chết chưa? Các người táo gan thật, muốn làm gì ta nào?
Đồng Huyền đáp:
– Sư huynh chúng ta, Hoàng Mộc đạo trưởng bây giờ ở đâu, nói mau ra thì khỏi bị dầy vò.
Hà Thiết Thủ cả cười một hồi rồi với giọng nhu mì nói:
– Sư phụ của các người có phải là đứa trẻ lên ba đâu mà các ngươi hỏi tôi lấy người và các người có giao sư phụ của các ngươi cho tôi trông nom đâu, phải thế không? Thôi được, chúng ta cùng là người trong võ lâm cả, tôi giúp các ngươi tìm kiếm cho, miễn ông ta một thân một mình lưu lạc bên ngoài không ai trông nom đến thì tội nghiệp thật!
Uyển Nhi nghĩ thầm: “Thì ra mụ này xưa vẫn nói cái giọng ỏn à ỏn ẻn này, trước kia mình cứ tưởng trước mặt Viên tướng công mụ ấy cứ làm trò như vậy, bây giờ ta mới biết đó là một thói quen của nàng.”
– Ngũ Độc giáo các ngươi đi đến đâu hoành hành đến đấy, ngày hôm nay sẽ cho ngươi biết sự ác giả ác báo như thế nào?
Nói đoạn đạo sĩ cầm kiếm tiến lên trước.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Phái Võ Đang được xưng là kiếm thuật chánh tông, bình thường không dám quang minh chánh đại đến kiếm tìm ta bây giờ biết giáo chúng ta có nhiều người bị thương lại quỷ quyệt lén lút trốn lại đây đón đường ta, hà hà, hì hì, ha ha…
Chỉ trong giây lát nàng đổi mất giọng cười, tiếng cười chưa dứt đã nghe một người ở góc Tây bắc thét lên một tiếng rất thê thảm, chắc người đó đã bị nàng hạ độc thủ rồi, tiếp theo đó tiếng la hét chửi rủa, tiếng khí giới va chạm nhau.
Lần này phái Võ Đang xuất động trọn ổ, người có mặt ở đây đều là những cao thủ, dù võ công của Hà Thiết Thủ cao cường đến đâu cũng không sao xông ra khỏi vòng vây. Đánh được một lúc, bốn tên phu kiệu trước sau trúng kiếm hoặc bị thương nặng, bị chết. Uyển Nhi nằm yên dưới đáy kiệu không dám cựa quậy. Nàng thấy kiếm pháp của phái Võ Đang nhanh nhẹn và hiểm độc quả có bí quyết độc đáo của môn phái họ, nàng nghĩ thầm: “Năm nọ Viên tướng công nhứt cư mà phá tan Lưỡng Nghi kiếm pháp là vì bọn họ gặp tay cao thủ, đặc biệt cao cường họ mới chịu bị khắc chế như vậy, còn những kiếm khách thường quyết không phải là địch thủ của môn hạ phái Võ Đang.”
Nàng định ló đầu ra nhưng sợ đêm khuya phái Võ Đang hiểu nhầm nàng là giáo hữu Ngũ Độc giáo xông lại tấn công nhỡ địch không nổi có phải nguy đến thân không.
Nên nàng đành phải nằm yên mà xem hai bên chiến đấu.
Lúc ấy, hơn hai mươi thanh trường kiếm bao vây Hà Thiết Thủ quả nhiên lợi hại vô cùng, mấy chục người bao vây nàng vẫn trầm tĩnh ứng chiến. Một đạo nhân trẻ tuổi nóng lòng tấn công mạnh vào bị ngay Thiết câu của nàng móc ngang một cái vào bả vai chết giấc tức thời tại chỗ, nhờ có người bạn cứu ngay ra khỏi chỗ đó mới thoát chết.
Lại đánh thêm mấy chục hiệp nữa, Hà Thiết Thủ hơi sức kém dần. Mẫn Tử Hoa một kiếm đâm tới, nhắm cổ nàng mà chém…
Nàng né đầu tránh thế kiếm đó, bên cạnh lại có hai mũi kiếm tấn công tới, chỉ nghe “keng” một tiếng, một vật gì lăn tới đáy kiệu. Uyển Nhi nhặt lên xem thì ra đó là nửa cái khuyên tai của Hà Thiết Thủ. Nàng vừa mừng vừa lo, mừng là phen này Hà Thiết Thủ khó thoát khỏi tánh mạng, trừ được một đại đối thủ cho Viên tướng công, còn lo là nhỡ Hà Thiết Thủ chết, Thanh Thanh hiện giờ không biết bị giam cầm ở đâu, bộ hạ và giáo chúng của Hà Thiết Thủ không biết có chịu giao trả nàng Thanh Thanh cho Viên tướng công không…
Lại đấu thêm hai mươi mấy hiệp nữa. Hà Thiết Thủ đã đầu bù tóc rối, chân tay tán loạn không còn hơi sức đâu mà phản ứng nữa. Đồng Huyền đạo nhân ra lệnh một tiếng, mấy chục thanh kiếm bỗng nhiên thâu lại, tổ chức thành một cái lưới kiếm trắng xóa như bạc vây chặt Hà Thiết Thủ.
Đồng Huyền quát hỏi:
– Hiện giờ sư phụ chúng ta ở đâu? Ông ta còn sống hay là khuất rồi, nói mau.
Hà Thiết Thủ kẹp kim câu lại dưới nách, từ từ chải chuốt lại đầu tóc. Bỗng một tiếng cười nhẹ, móc sắt của nàng nhanh như chớp, lại một đạo nhân của phái Võ Đang bị thương rồi. Mọi người cả giận, trường kiếm đều tấn công như vũ bão. Thấy nàng thâm độc quá, không ai còn nể nang gì nữa. Uyển Nhi trông thấy Hà Thiết Thủ sắp nguy hiểm tới nơi đột nhiên nghe thấy đằng xa có tiếng còi vọng tới.
Hà Thiết Thủ liền cười nói:
– Thủ hạ của ta đã tới kia rồi, các ngươi khôn hồn thì chạy ngay đi, bằng không hối bất cập đấy!
Uyển Nhi nghĩ: “Nếu không trông thấy họ đang chém giết nhau chí tử mà chỉ nghe mấy lời dặn bảo vừa nhu mì vừa mật thiết thì ai cũng hiểu lầm nàng đang đùa với người yêu, chớ không phải đang một mất một còn với kẻ địch.”
Đồng Huyền kêu gọi các sư đệ:
– Chúng ta hãy mau giải quyết ngay con tiện tỳ này đã!
Mọi người tấn công ngày càng mạnh. Chỉ trong chớp mắt, Hà Thiết Thủ đã bị thương liền hai vết tại nơi đùi rồi nhưng nàng vẫn tươi cười như thường. Một đạo nhân trẻ tuổi nóng lòng sốt ruột, không nhẫn tâm trông thấy người đẹp thế này mà bị loạn kiếm phân thân thì có phải tội nghiệp không?
Nghĩ đoạn chàng liền quát mắng:
– Cô đừng cười nữa, có được không?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Vị đạo trưởng này nói gì thế?
Đạo nhân nọ ngẩn người ra đang định trả lời, bỗng thấy ánh sáng lóe mắt một cái, Mẫn Tử Hoa vội gọi:
– Cẩn thận!
Nhưng đã muộn rồi, đạo sĩ đã bị Hà Thiết Thủ móc một cái Kim câu vào giữa lưng rồi.
Tiếng còi vọng tới càng ngày càng nhộn nhịp, Đồng Huyền phải chia ra tám tay cao thủ tiến lên nghênh chiến và cản trở, chỉ trong chốc lát, tám người đó đã thảm bại lùi xuống. Đồng Huyền lại phải phái tám sư đệ khác lên tiếp viện. Nhờ vậy, Hà Thiết Thủ được nhẹ tay hẳn. Tuy Đồng Huyền với mấy tay cao thủ vẫn nỗ lực tấn công, nàng không bị nguy hiểm như trước nữa. Nhưng nàng muốn phá vòng vây để tiến lên phối hợp với bọn tới cứu viện cũng không được.
Lúc này hai bên đã tới chỗ ngang sức nhau, không bên nào hơn và cũng không bên nào kém cả. Đánh được một lúc, một đạo sĩ kêu la:
– Giỏi lắm! Giỏi lắm! Trường Bạch tam anh ba thằng gian tặc bán nước kia, chúng mày cũng đến đấy à?
Một người tiếng khàn khàn nói:
– Chúng tao đến thì đã sao? Đã biết chúng tao lợi hại, mau bước đi!
Uyển Nhi kinh ngạc nghĩ thầm: “Ba tên Trường Bạch tam anh này chuyên môn khiêu khích, ly gián muốn hãm hại cha ta, rõ ràng chúng đã bị Viên tướng công bắt trói, nhờ cha ta giao cho quan tri phủ Nam Kinh rồi, tại sao chúng lại ra đây được nhỉ? Chẳng lẽ chúng đã vượt ngục hay là bọn tham quan đã ăn tiền của chúng mà thả chúng ra?”
Lúc ấy bên Ngũ Độc giáo viện trợ càng tới càng đông, thấy vậy, Đồng Huyền ra lệnh cho anh em phái Võ Đang rút lui. Nhờ ở xưa nay vẫn luyện tập quen tiến thoái đều có mực thước, Hà Thiết Thủ thấy bên Võ Đang tuy bại mà không có vẻ gì hoang mang và loạn xạ cả nên cũng không dám ra lệnh cho đuổi theo, chỉ cười nói:
– Được rồi, các bạn lại đùa giỡn tôi nhé? Tiểu muội xin thất lễ không tiễn nữa.
Người của phái Võ Đang lúc tới rất đột nhiên, lúc đi cũng nhanh, chỉ trong chớp mắt không còn một tiếng dao kiếm gì nữa, chỉ còn lại tiếng gió vù vù và những tuyết lạnh buốt xương.
Uyển Nhi ló mắt nhìn, thấy trên quãng đường phía Đông một bọn mấy chục người, phía Tây cũng có mấy chục người đứng tụ lại. Một người đàn bà ăn mặc lối hành khất nói:
– Tin tức chúng nó cũng tinh thông đấy nhỉ? Biết rõ ngay hôm nay bên chúng ta có mấy chục người bị thương mà chúng đã đến đánh tập kích ngay được rồi!
Hà Thiết Thủ nói:
– Cũng may, cô đem viện binh tới cứu nhanh lại thêm bốn bác họ Ôn và ba bạn Trường Bạch tam anh cũng có mặt cả đây mới đánh đuổi được bọn đạo sĩ ấy đi, chớ không bây giờ đã chắc gì đuổi được bọn họ khỏi nơi đây?
Một ông cụ râu bạc nói:
– Phái Võ Đang có liên kết với phái Hoa Sơn không?
Lại một người giọng khàn khàn nói:
– Bang Kim Long với thằng nhãi con họ Viên đã liên kết với nhau vào một bọn. Anh em chúng tôi đã sử dụng mượn dao giết người, cái kế ly gián đó thì thằng họ Viên kia tất phải gây hấn với phái Võ Đang.
Ông cụ đầu tóc bạc phơ nói:
– Hay lắm! Để chúng nó tàn sát lẫn nhau tốt hơn hết.
Mấy lời của mấy người này khiến Uyển Nhi toát mồ hôi lạnh, trong lòng nghĩ thầm: “Phải rồi, phải rồi, giết chết cha ta ra là ba tên gian tặc này!”
Nàng định nghe thêm nữa, ngờ đâu Hà Thiết Thủ đã lên tiếng nói:
– Tất cả vào trong cung đi! Kiệu này cũng không ngồi nữa.
Mọi người ùa cả đi. Hà Thiết Thủ, Trường Bạch tam anh và bốn ông lão đi trước, còn các người khác đi sau. Chờ họ đi khá xa rồi, Uyển Nhi mới ở trong đáy kiệu chui ra, nhìn xung quanh, nàng thất kinh, thì ra nơi đó là trước cửa cấm thành và trông thấy bọn Hà Thiết Thủ đi thẳng vào trong cung.
Uyển Nhi không dám ngừng lại ở nơi đó, vội quay ngay trở về, kể hết sự thể đầu đuôi cho Thừa Chí nghe. Nhìn nàng một lúc, Thừa Chí giơ ngón tay cái lên khen ngợi nói:
– Tiêu cô nương thật là can trường!
Uyển Nhi mặc hơi đỏ, liền quỳ xuống vái. Thừa Chí không tiện giơ tay ra đỡ nàng dậy, chỉ né mình ra tránh và khảng khái trả lời rằng:
– Mối thù của lệnh tôn đại nhân, tôi xin gánh vác cho, nếu Tiêu cô nương còn cứ hành đại lễ như thế này là khinh tôi đấy.
Chàng lẩm bẩm giây lát lại nói tiếp:
– Việc này không thể chậm trễ được, tôi phải vào trong cung đi kiếm bọn chúng ngay.
Uyển Nhi nói:
– Những gian tặc này không hiểu tại sao chúng lại vào được trong hoàng cung nội viện như thế? Trong cung cấm vệ thâm nghiêm, Viên tướng công một mình ra vào trong đó e không tiện lắm đâu.
Thừa Chí đáp:
– Không sao, tôi có một vật này, chính ra đã sớm phải dùng đến nó, có ngờ đâu từ khi tới kinh sư đến giờ, xảy ra nhiều chuyện lạ quá, tôi không có thì giờ đi, bây giờ thì nhân tiện việc của cô, tôi đi cả một thể.
Nói xong móc túi lấy một phong thư ra, thì ra lá thư này của Mãn Châu Cửu vương Đa Nhĩ Cổn viết cho Thái giám Tào Hóa Thuần và do Hồng Thắng Hải đưa đi.
Biết cái thư này có ngày sử dụng tới, cho nên chàng mới giữ lại để đến bây giờ đem ra sử dụng. Uyển Nhi cả mừng nói:
– Thế thì hay lắm! Tiểu muội xin theo Viên tướng công đi, giả trang làm thư đồng của Tướng công.
Biết nàng muốn chính tay mình giết chết kẻ thù, đó cũng là lòng hiếu, không thể khuyên can được, chàng đành phải gật đầu nhận lời.
Nằm trốn dưới đáy kiệu nửa đêm, mặt mũi và người đầy những bụi bặm, Uyển Nhi phải vội vào nhà trong rửa mặt và thay áo. Một lát sau, nàng quay trở ra, lại thành một thư đồng đẹp đẽ rồi.
Thừa Chí cười nói:
– Tôi không thể gọi cô là Tiêu cô nương được đâu nhé.
Uyển Nhi vừa cười vừa đáp:
– Tướng công cứ việc gọi tôi là thằng Uyên cũng được, người khác còn tưởng là thằng Chén và thằng Dĩa gì đó, chứ có ai biết đâu chỗ thật hư này.
Hai người đang định đi ra, Ngô Bình và La Lập Như hấp tấp bước vào cho hay Nha phủ Doãn kinh sư giới vị rất nghiêm, nên hai người đành phải chờ thêm hai tiếng đồng hồ nữa, chờ cho bọn công sai đến phiên đổi gác xong mới vứt xác của Đơn Thiết Sinh xuống. Thừa Chí gật đầu nói:
– Được lắm!
La Lập Như bỗng nói:
– Chẳng hay Viên tướng công có cho phép tôi được theo Tướng công và sư muội đi không?
Uyển Nhi đưa mắt nhìn Thừa Chí xem chàng quyết định ra sao. Thừa Chí nghĩ thầm: “Lần này mình đi sâu vào cấm cung, bốn mặt nguy cơ tiềm phục lại thêm trong đó rất nhiều cao thủ, ta phải bảo vệ thêm một người nữa có phải vướng chân vướng cẳng.”
Chàng đang định lên tiếng từ chối bỗng thấy Ngô Bình lén kéo vạt áo La Lập Như và đưa mắt ra hiệu, rồi nói:
– La sư đệ, từ khi chú bị thương đến giờ, chưa lành mạnh hẳn, chú nên ở nhà nghỉ ngơi thì hơn, để Viên tướng công đưa sư muội đi được việc hơn nhiều.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Nghe giọng nói của y, hình như có ý muốn ta gần gũi Uyển Nhi, như hôm qua ta với nàng đi gặp Thủy Vân đạo nhân, hai người đều là thanh niên nam nữ, đêm khuya xuất ngoại như vậy, có lẽ đã khiến nhiều người nghi ngờ, tuy nhiên ta đại trượng phu, quanh minh lỗi lạc thật, nhưng sự hiềm nghi dưới vườn dưa, cây mận ta cũng nên tránh một tí thì hơn.”
Nghĩ đoạn liền nói:
– Có La đại ca cùng đi tôi thêm một người trợ giúp còn gì hay bằng nữa, mau thay quần áo đi.
La Lập Như cả mừng, vào thay đổi quần áo tiểu đồng, Ngô Bình theo vào và cười nói:
– La sư đệ, lần này chú đã làm một việc rất ngốc!
La Lập Như ngạc nhiên hỏi:
– Sao vậy?
Ngô Bình nói:
– Viên tướng công là đại ân nhân bang Kim Long chúng ta, mà sư muội lại rất mến ông ta…
La Lập Như nói:
– Theo anh nói, là gã sư muội cho Viên tướng công ư?
Ngô Bình đáp:
– Tôi thiết tưởng, nếu hai người đó lấy nhau, thì ân sư chúng ta cũng ngậm cười dưới chín suối, vậy chú theo đi làm gì?
La Lập Như nói:
– Đại sư huynh nói rất phải, như vậy không đi nữa.
Ngô Bình nói:
– Bây giờ chừ không đi thì lộ hình tích quá, đành tùy cơ mà ứng biến xem thế nào mà tác thành được cuộc nhân duyên này, thì không còn gì tốt đẹp bằng.
La Lập Như gật đầu nhận lời nhưng sự thật thì trong lòng chua xót vô cùng, đành ngậm miệng không dám than thở gì, thì ra La Lập Như mơ tưởng sư muột đã mấy năm nay, ôm ấp mối tình si trong mấy năm trời, không dám thố lộ tâm tình bởi vì thấy nàng đứng đắn quá, cô còn giúp đỡ Tiêu Công Lễ cắt đặt xử sự trong Bang lại rất oai nghiêm, La Lập Như không dám ngỏ lời là vì thế, từ khi bị cụt mất cánh tay đến giờ, chàng lại càng tự tủi, có nhiều lúc không đứng đối diện nói chuyện với Uyển Nhi, chỉ vì quá tủi thân mà nên, lúc này chàng nghe Ngô Bình nói tới, trong lòng bỗng cảm thấy như mất một cái gì quý báu, nhưng sực nghĩ lại: “Phải có người anh hùnh như Viên tướng công mới xứng đôi vừa lứa với sư muội mình, nàng được người chồng như vậy đáng lẽ ta phải mừng cho nàng mới phải chứ.”
Thừa Chí lấy trong hòm sắt ra rất nhiều châu báu, gói thành một gói lớn sai La Lập Như ôm theo đi tới cửa cung. Thừa Chí đem ám ngữ ra nói, cấm quân đứng gác trước cửa cung, nhận là khách của Tào thái giám nên tỏ ra cung kính lạ thường, bèn dẫn đường cho ba người vào, đến trước một cung điện, cấm quân đó liền lui ra, lại có tiểu Thái giám khác ra dẫn ba người vào trong. Suốt dọc đường đổi ba tên Thái giám.
Thừa Chí ghi nhớ kỹ đường lối, trong lòng nghĩ thầm: “Tên Tào thái giám này cũng đa mưu lắm kế thật, y sợ mật mưu bại lộ cho nên cả người dẫn đường cũng thay đổi luôn luôn.”
Cuối cùng đi đến cạnh vườn hoa, trên một con đường nhỏ quanh co, rồi mới tới một căn nhà nhỏ rất xinh đẹp. Tên tiểu Thái giám mời ba người vào bên trong, bưng nước trà và đem điểm tâm mời ba người ăn uống. Chờ thêm hai tiếng đồng hồ cũng chưa thấy Tào thái giám ra, ba người cũng không trò chuyện gì cả, cứ yên lặng ngồi chờ. Qua một lát sau, một tên Thái giám khác trạc ba mươi tuổi bước vào hỏi Thừa Chí mấy câu ám ngữ, chàng đáp theo lời dặn trước của Hồng Thắng Hải, tên Thái giám nọ gật đầu bước ra, lại qua một lát nữa tên Thái giám đó mới đưa một Thái giám già, vừa béo vừa trắng bước vào.
Thừa Chí thấy người Thái giám già này, ăn mặc rất hoa lệ, khí phái rất lớn, nghĩ thầm: “Tên này có lẽ là ngoài vua Minh ra, hẳn y có quyền thế nhứt, Tư Lễ Thái giám Tào Hóa Thuần đây!”
Chàng vừa nghĩ tới đó, tên Thái giám trẻ đã giới thiệu:
– Đây là Tào công công chúng tôi.
Thừa Chí, Uyển Nhi, La Lập Như đều quỳ xuống lạy.
Tào Hóa Thuần cười nói:
– Miễn lễ, miễn lễ, mời ngồi chơi, Cửu vương gia mạnh khỏe đấy chớ?
Thừa Chí đáp:
– Vương gia chúng tôi vẫn mạnh. Vương gia sai tiểu nhân tới hỏi thăm sức khỏe Công công.
Tào Hóa Thuần kha khả cười nói:
– Cái thân già này mà được Vương gia nhớ nhung tới, thật là vạn hạnh quá. Hồng lão ca ở đường xa tới đây, không biết Vương gia có dặn bảo gì không?
Thừa Chí đáp:
– Vương gia muốn thỉnh vấn công công đại sự trù hoạch như thế nào rồi?
Tào Hóa Thuần nói:
– Tánh nết Hoàng thượng chúng tôi thật là vừa bướng bỉnh vừa cố chấp, tôi đã vào thưa mấy lần rồi Hoàng thượng đều nói việc mượn binh dẹp giặc sau này nhiều hậu quả lắm, chỉ cần hai nước bãi binh chờ lúc Đại Minh chúng tôi diệt hết bọn lưu khấu rồi sẽ hậu tạ Cửu vương gia.
Sự thật thì Thừa Chí không biết Cửu vương gia Đa Nhĩ Cổn của Mãn Châu có mật mưu gì với Tào Hóa Thuần vì Hồng Thắng Hải ở dưới trướng Cửu vương địa vị rất kém không được tham dự những việc tối cơ mật chỉ là một kẻ sứ giả truyền đạt tin tức mà thôi, nên không biết đến những nội dung của sự âm mưu đó. Hồng Thắng Hải không biết, lẽ dĩ nhiên Thừa Chí cũng không biết, nay Thừa Chí nghe lời nói của Tào thái giám, trong tai bỗng như một tiếng nổ thật lớn, trống ngực đập thật mạnh, bốn chữ mượn binh dẹp giặc, quay cuồng trong đầu chàng, chàng nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ muốn bắt chước Sà Đà mượn binh diệt Hoàng Sào, người Mãn Châu nóng lòng như vậy, hiển nhiên là có âm mưu gì không tốt đấy!”
Chàng tuy trấn tĩnh nhưng vì tin đó lớn lao quá, vẻ mặt có hơi biến sắc. Tào Hóa Thuần lại hiểu lầm, tưởng chàng không vui, là vì y không làm tròn nhiệm vụ, vội nói:
– Chú em chớ vội giận, một kế không thành ta lại có mưu khác.
Thừa Chí đáp:
– Dạ, dạ. Tào công công túc trí đa mưu, Vương gia chúng tôi cảm phục vô cùng.
Tào Hóa Thuần cười mà không nói.
Thừa Chí lại nói tiếp:
– Có mấy món lễ vật mọn này, Vương gia sai tiểu nhân mang tới đây, xin công công nhận cho.
Nói xong, chàng chỉ tay vào La Lập Như, Uyển Nhi vội cởi cái gói ở trên vai sư huynh xuống để trên bàn mở ra, một làn sáng lóe mắt, cả căn phòng chứa đầy ánh châu ngọc, tuy tên Thái giám này sống trong đại nội đã lâu, các thứ châu báu kỳ lạ trông thấy rất nhiều, những châu báu tầm thường y có coi vào đâu, nhưng thoạt thấy món châu báu kỳ lạ này, cũng phải động lòng, đứng dậy tới gần xem sao. Y kinh ngạc đến ngẩn người ra, thì ra trong gói đồ đó, mỹ ngọc, bảo thạch, không sao mà tính toán được, chỉ riêng một chuỗi hạt châu một trăm hạt dùng để đeo khi lên Triều đã giá trị liên thành rồi, vì hạt trân châu nào cũng to đều nhau, và to đến nỗi Tào thái giám chưa hề thấy hạt châu nào to bằng thế cả, ngoài ra còn một đôi Phỉ Thúy Sư Tử, hai chân trước con Sư Tử vờn một trái cầu bằng mã não đỏ như lửa không nói đôi Phỉ Thúy lớn như thế chưa bao giờ thấy rõ, mà đến sự điêu khắc tinh xảo cũng khó mà làm được như thế, còn Sư Tử trông linh động như thật. Tào Hóa Thuần cầm lên xem từng cái một, cái nào cũng không muốn rời tay ra, y muốn chọn lấy một cái hơi kém nhứt để tặng lại Thừa Chí nhưng cầm lên cái này lại để cái kia xuống rốt cuộc vẫn không sao quyết định được, sau cùng y phải nghĩ thầm: “Ta đành phải thưởng tiền cho chúng vậy.”
Nghĩ đoạn, y quay sang nói với Thừa Chí rằng:
– Sao Vương gia thưởng cho tôi nhiều như thế này?
Thừa Chí muốn nhân cơ hội dò xét mưu đồ của y, nói tiếp:
– Vương gia cũng biết Hoàng thượng rất anh minh, việc mượn binh diệt giặc rất khó, nhưng dù sao có Tào công công giúp cho thì việc khó đến đâu rồi cũng xong cả.
Thấy Thừa Chí khen ngợi, Tào Hóa Thuần tỏ vẻ đắc ý, tủm tỉm cười, xua tay bảo Uyển Nhi và La Lập Như rằng:
– Hai em hãy tạm lui ra ngoài kia nghỉ ngơi trước.
Thừa Chí gật đầu, đã có tiểu Thái giám vào đưa hai người ra. Tào thái giám tự mình ra khóa trái cửa, dắt tay Thừa Chí khẽ nói:
– Chú có biết Cửu vương xuất binh có điều khoản gì không?
Thừa Chí nghĩ thầm: “Muốn lừa được cơ mật của y trước hết phải cho y biết một chút cơ mật trước. Ta cứ bịa đặt ra nói cũng chả sao.”
Nghĩ đoạn, chàng liền nói:
– Công công là người nhà, cháu nói ra cũng không sao, nhưng tin này bí mật lắm, theo chỗ tiểu nhân biết chỉ có Cửu vương với một người nữa và tiểu nhân vậy là chỉ có ba người biết mà thôi.
Tào Hóa Thuần trợn tròn đôi mắt, Thừa Chí liền đứng sát người y khẽ nói:
– Tiểu nhân thiết nghĩ tuy Cửu vương gia có quý mến tiểu nhân mà được Tào công công giúp đỡ cho, chắc khiến tiểu nhân được rạng tổ vinh tôn…
Tào Hóa Thuần nghĩ thầm: “Chắc hẳn chàng muốn được phong chút quan tước gì đây.”
Tào Hóa Thuần khà khà cười nói:
– Cổ nhân có nói: đại trượng phu đắc chí mà không về cố hương cũng như mặt áo gấm đi đêm. Lão phu cam đoan giúp cho việc của chú em được thành đạt vinh hiển.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Đã giả vờ thì giả cho tới cùng.”
Chàng vội quỳ xuống vái lạy cảm tạ.
Tào Hóa Thuần nghĩ thầm: “Người này khôn ngoan lắm, lại là kẻ tâm phúc của Cửu vương, thâu nạp y làm tay chân mình thì còn gì tốt hơn nữa.”
Y liền hỏi rằng:
– Hồng lão đệ là người tỉnh nào thế?
Thừa Chí đáp:
– Tiểu nhân là người Quảng Đông.
Tào Hóa Thuần cười:
– Việc thành công rồi, tôi sẽ ủy chú làm Tổng binh trấn thủ tỉnh Quảng Đông nhé!
Thừa Chí vội cảm tạ nói:
– Đại ơn, đại đức của Công công giúp cho, tiểu nhân đâu dám quên, còn một việc này nữa, tiểu nhân cũng không dám giấu diếm Công công, ý của Cửu vương gia là…
Nói tới đây chàng ngó xung quanh rồi khẽ tiếp:
– Việc này Công công chớ có tiết lộ, bằng không tánh mạng của tiểu nhân không sao bảo toàn nổi.
Tào Hóa Thuần nói:
– Chú cứ yên tâm, khi nào tôi lại nói cho ai hay.
Thừa Chí khẽ nói:
– Khi quân Mãn Châu đã lọt vào trong quan, Sấm tặc nhứt định quét sạch. Cửu vương gia muốn Vua Minh cắt Hà Bắc và Sơn Đông để thượng tạ, hai nước sẽ lấy sông Hoàng Hà làm biên giới, kết làm huynh đệ chi bang mãi mãi.
Thừa Chí bịa đặt một hồi, Tào Hóa Thuần không hoài nghi gì cả. Sở dĩ chàng khiến tên Thái giám già và giảo hoạt phải tin tưởng, sự thật do: Thứ nhất: Có một lá thư bút tích của Cửu vương Đa Nhĩ Cổn, Thứ hai: Những lễ vật chàng đem tới quý giá quá, Thứ ba: Dã tâm xâm lấn của người Mãn Châu, Tào Hóa Thuần còn lạ gì mà không biết rõ. Y một mặt gật đầu nói:
– Bây giờ thiên hạ đang đại loạn, sáng nay ở ngoài mặt trận có tin đồn Đồng Quan đã bị Sấm tặc phá hủy rồi. Binh bộ Thượng thư Tôn Trường Đinh bị tử nạn, như nước Đại Minh chúng ta còn đâu Đại tướng ra chống giặc? Nếu Cửu vương gia không xuất binh tới giúp, tôi e chỉ nay mai Lý tặc Tự Thành sẽ kéo quân đến bao vây Kinh Đô này.
Hay tin Sấm Vương đã phá nổi Đồng Quan và giết Đại tướng số một nhà Minh Tôn Trường Đinh, Thừa Chí mừng rỡ vô cùng nhưng chàng sợ lộ ra ngoài mặt nhỡ tên cáo già trông thấy thì nguy, nên cúi ngay đầu xuống, mắt nhìn mặt đất.
Tào Hứa Thuần nói:
– Tối hôm nay tôi lại khuyên Hoàng thượng một lần nữa xem. Nếu nhà vua còn cố chấp như cũ, thì chúng ta phải để quốc gia xã tắc lên trên hết, đành chỉ có…
Trống ngực đánh mạnh vô cùng, Thừa Chí vẫn cố trấn tĩnh nói khích thêm một câu:
– Chúa thượng anh minh cương nghị, công công hà tất phải mưu định trước rồi mới hành động?
Tào Hứa Thuần nói:
– Hừ, nhà vua mà không có phương sách bình định phản tặc, chúng ta đành phải lập minh quân thay thế vậy. Giang sơn đất nước nhà Đại Minh do y làm mất cũng không việc gì đến chúng ta, nhưng chẳng lẽ chúng ta lại chịu theo y cùng nhảy vào chỗ chết hay sao?
Thừa Chí nói:
– Không biết công công có phương sách nào hay hơn, để cho tiểu nhân được yên tâm phần nào không?
Tào Hóa Thuần nói:
– Phải đấy, thà lấy sông Hoàng Hà là biên giới còn hơn là bị lọt vào tay đạo tặc nhiều. Y không chịu, chẳng lẽ…
Y nói tới đây đột nhiên ngừng lại và nghĩ thầm: “Người này tuy là tâm phúc của Cửu vương thật, nhưng dù sao mình với y cũng mới gặp nhau lần đầu tiên, việc cơ mật này không thể lộ cho y biết hết được.”
Nghĩ đoạn, y cười ha hả rồi nói:
– Hồng lão đệ, chỉ trong ba ngày là cùng, thể nào tôi cũng có tin mừng báo cáo Cửu vương hay, chú cứ yên trí ở lại đây chờ đợi.
Nói đoạn, Tào Hóa Thuần vỗ tay một cái, có bốn tên tiểu Thái giám bước vào bưng tất cả châu báu của Thừa Chí vừa tặng cho, theo Tào Hóa Thuần đi ra khỏi căn phòng đó.
Ngoài ra lại có bốn tên tiểu Thái giám khác vào dẫn Thừa Chí, Uyển Nhi, và La Lập Như ba người tới một căn nhà gần đó nghỉ ngơi. Cơm nước xong, bốn tên tiểu Thái giám mới cáo lui ra khỏi phòng.
Thừa Chí khẽ nói:
– Tên Tào thái giám đang trù tính một đại âm mưu, việc này quan trọng lắm, rất nguy cấp cho quốc gia đất nước. Bây giờ tôi phải đi dò xem Hạ cô nương có phải bị chúng nhốt ở trong cung cấm này không.
Uyển Nhi nói:
– Viên tướng công cho em đi với.
Thừa Chí đáp:
– Không thể được, cô nên ở lại đây cả với La đại ca, chưa biết chừng tên Tào thái giám không yên tâm, sai người đến xem xét thì phiền lắm đấy.
La Lập Như nói:
– Một mình tôi ở lại đây cũng được. Viên tướng công lấy thêm một người phụ giúp có hơn không?
Thấy nét mặt Uyển Nhi hăng hái và có vẻ muốn được thử thách tài năng lắm, Thừa Chí không tiện ngăn cản ý hứng của nàng liền gật đầu luôn.
Sang phòng bên, chàng chỉ giơ tay ra một cái là điểm ngay huyệt câm của hai tên Thái giám rồi. Còn hai tên nữa ở trên giường nhảy xuống, trợn tròn xoe đôi mắt, ngơ ngác không hiểu tại sao Thừa Chí lại điểm huyệt hai Thái giám kia như thế?
Uyển Nhi lấy Nga Mi Trích ra dí vào ngực hai tiểu Thái giám đó và khẽ quát rằng:
– Nếu hai người hé miệng nói nữa, ta cho đi gặp lão Thái giám Ngụy Tôn Hiền ở dưới Âm ty ngay.
Nói đoạn, nàng ấn mạnh Nga Mi Trích (cái dùi đục hình cong cong) vào người hai tên nọ, thủng qua hai lớp áo và dính vào tới da thịt rồi.
Thừa Chí cười thầm, nghĩ: “Giờ phút này nàng còn nói bông đùa.”
Thì ra Ngụy Tôn Hiền là Thái giám gian ác thờ vua Hy Tôn nhưng đã bị đem xử trảm rồi. Thừa Chí cởi y phục mặc một tên mặc vào người.
Uyển Nhi thổi tắc ngọn nến trong phòng rồi lần mò lấy bộ y phục tên Thái giám mà Thừa Chí vừa lột ra mặc vào người. Thuận tay Thừa Chí điểm huyệt luôn một tên Thái giám nữa và tay trái nắm chặt lấy mạch môn của tên thứ tư, kéo ra ngoài cửa quát bảo:
– Ngươi dẫn ta tới chỗ ở của Tào công công nghe không?
Tên Thái giám đó bán thân đã tê liệt, không dám nói nhiều, liền dẫn hai người đi về phía trước. Đi được một lát quanh ngả này, vòng sang lối nọ, đi được hơn dặm đường, tới trước một căn lầu lớn.
Thái giám đó nói:
– Tào công công ở trong lầu này đấy.
Không để cho y nói tới lời thứ hai, Thừa Chí đã dùng khuỷu tay thúc mạnh vào ngực y một cái, đã điểm bế ngay huyệt đạo của y rồi. Chàng ôm tên Thái giám ấy vứt vào trong bụi cây.
Hai người lò dò đi tới cạnh lầu, thấy trên từng thứ hai có ánh sáng đèn ló ra. Thừa Chí đang định kéo tay Uyển Nhi cùng nhảy lên trên đó bỗng nghe phía sau có tiếng chân người đi tới, và một người ở đàng xa đã lên tiếng hỏi:
– Tào công công có trên lầu không?
Thừa Chí vội đáp:
– Chúng cháu vừa tới đây, không được rõ lắm. Chắc Tào công công có trên đó thì phải?
Vừa nói, chàng vừa quay đầu lại trông thấy năm người đang đi tới. Người đi trước cầm chiếc đèn lồng lụa đỏ. Dưới ánh sáng trăng đến lờ mờ ấy, Thừa Chí thấy cả năm người đều mặc sắc phục Thái giám cả.
Người nọ vừa cười vừa chửi đổng:
– Thằng khỉ con này, ăn nói không ngoan lắm, nói như thế để khỏi chịu trách nhiệm.
Vừa nói y vừa tới gần, Thừa Chí và Uyển Nhi cùng cúi đầu xuống không để cho bọn này trông thấy rõ mặt. Khi năm người đó vào tới cửa, nhờ ánh sáng đèn chiếu rọi, Thừa Chí trông thấy rõ mặt cả bọn, giựt mình kéo Uyển Nhi sang một bên, chờ bọn kia lên lầu, mới khẽ nói:
– Bọn người ấy là Trường Bạch tam anh đấy!
Uyển Nhi kinh hãi hỏi:
– Chính là bọn gian tặc giết hại cha tôi đấy ư? Sao chúng cũng làm cả Thái giám thế kia?
Thừa Chí nói:
– Họ cũng như chúng mình, cải trang giả dạng đấy thôi. Chúng ta lên trên đi!
Hai người theo sau bọn Trường Bạch tam anh cùng ung dung lên trên lầu, bọn Thái giám gác lầu không ngăn cản gì cả. Lên tới lầu hai, hai tên Thái giám đi trước dẫn ba anh em Trường Bạch tam anh vào trong căn phòng. Thừa Chí và Uyển Nhi không tiện vào theo, đứng chờ đợi bên ngoài, và nghe hai tên Thái giám dẫn đường nói:
– Mời ba vị ngồi chờ đợi đây… Tào công công sắp sửa…
Chữ cuối không nghe rõ, thấy hai tên Thái giám đó quay trở ra và xuống dưới lầu rồi.
Thừa Chí kéo tay Uyển Nhi cùng bước chân vào trong phòng, thấy bốn bên đều là tủ sách, mới hay phòng đó là phòng sách. Trường Bạch tam anh đang ngồi nhìn quanh thấy hai tên Thái giám vào nhưng không để ý tới. Thừa Chí và Uyển Nhi đi thẳng tới trước mặt ba người, rồi ngửng đầu lên.
Uyển Nhi bỗng cười nhạt nói:
– Sử thúc thúc, Lý thúc thúc, cha cháu mời ba chú đi ăn cơm đấy?
Đột nhiên trông thấy Uyển Nhi, Trường Bạch tam anh đều kinh ngạc vô cùng.
Lý Cương người thứ nhất nhảy lên trước, lớn tiếng hỏi:
– Cháu… cha cháu đã chết rồi cơ mà?
Uyển Nhi đáp:
– Vâng, cho nên cha cháu mới mời ba chú đi ăn cơm là thế đấy!
Sử Bính Văn cau mày, bỗng rút trường đao ở trong bao da ra. Thừa Chí nhảy tới, hai tay vội giơ ra, một tay một người tóm lấy cổ anh em họ Sử, nhấc bổng lên đồng thời đá luôn vào Phùng Vy huyệt phía sau lưng của Lý Cương một cái.
Sử Bính Văn đấm trái tay một quyền. Thừa Chí tha hồ để cho anh em họ đấm vào ngực mình, chàng chỉ khẽ hợp hai tay lại, hai anh em họ đầu va chạm vào nhau chết giấc liền. Uyển Nhi chưa trông thấy rõ tại sao, Trường Bạch tam anh đã bị đánh tới bất tỉnh nhân sự rồi. Tức giận quá, Uyển Nhi rút luôn Nga Mi Trích ra, nhắm ngực anh em họ Sử đâm liền. Thừa Chí vội giơ tay ra, và khẽ nói:
– Mau ẩn núp vào một chỗ đi, có người đang đi lên đấy.
Quả nhiên bên ngoài cầu thang có tiếng chân người đang bước lên, Thừa Chí xách anh em họ Sử giấu vào phía sau kệ sách. Hai người vừa trốn xong đã có mấy người bước vào trong phòng sách rồi. Một người nói:
– Xin mời quý vị ngồi chơi đây. Tào công công sắp ra ngay.
Một giọng ỏn ẻn của người đàn bà nói:
– Cảm ơn bạn nhé!
Thừa Chí và Uyển Nhi nhận ngay ra tiếng nói của Hà Thiết Thủ Giáo chủ Ngũ Độc giáo, liền bóp tay nhau báo hiệu cho nhau biết. Một lát sau, lại có mấy người nữa bước vào, hàn huyên với bọn Hà Thiết Thủ, hình như chúng quen biết nhau đã lâu. Thừa Chí nghĩ thầm: “Không ngờ bốn anh em họ Ôn phái Thạch Lương cũng tới đây! Thì ra tối hôm trước Uyển Nhi trông thấy bốn lão lại là anh em họ Ôn, nên sư huynh đệ Đồng Huyền của phái Võ Đang địch không nổi là phải! Nhưng anh em chúng tới đây có việc gì thế nhỉ?”
Mấy người ngồi trong phòng sách chưa hàn huyên xong, Tào Hóa Thuần và mấy người ngồi trong phòng bước vào rồi. Nghe lời giới thiệu của Tào thái giám, trong bọn người đó có cả Lã Nhị Tiên sinh phái Phương Nam nữa. Thừa Chí nghĩ thầm: “Ôn Minh Thi bị ta đánh trúng yếu huyệt, không ai cứu chữa cho, có lẽ y đã trở nên tàn phế rồi. Bây giờ chỉ còn lại có bốn anh em chúng thôi, chắc Ngũ Hành Trận của phái Thạch Lương không sao bày nổi nữa. Nhưng bây giờ chúng có thêm các tay cao thủ thuộc Ngũ Độc giáo và các phái khác, mình chưa chắc đã địch nổi chúng.”
Lại nghe Tào Hóa Thuần nói:
– Trường Bạch tam anh đâu nhỉ?
Một tên Thái giám nói:
– Sử gia ba vị đã tới rồi, không biết ba ông ấy lại bỏ đi đâu rồi?
Thừa Chí ngấm ngầm điểm cho anh em họ Sử mỗi người một cái thực mạnh vào chỗ yếu huyệt thì dù chúng có hồi tỉnh cũng không sao nói được.
Tào Hóa Thuần liền cho người đi tìm kiếm. Mấy bọn Thái giám đi tìm kiếm khá lâu, khi quay trở về đều trả lời là không thấy hình bóng anh em họ Sử đâu cả. Mọi người bàn tán dị nghị, và tỏ vẻ bực mình vì phải chờ đợi.
Tào Hóa Thuần nói:
– Chúng ta không chờ anh em y nữa, vì họ tự ý bỏ dịp may để lập công trạng không còn trách gì ai được.
Lúc ấy, mọi người xích ghế lại gần nhau, hình như ai nấy đều ngồi quây quần quanh Tào Hứa Thuần để chờ nghe lệnh vậy.
Sau hai tiếng ho đằng hắng, Tào Hứa Thuần mới khẽ cất tiếng nói. Thừa Chí biết tên đại gian thần sắp thố lộ gian mưu đến nơi liền yên lặng lắng tai chú ý để nghe. Tào Hóa Thuần nói:
– Sấm tặc đã phá tan Đồng Quan rồi. Binh bộ Thượng thư đã tử nạn.
Mọi người sau khi nghe Tào Hóa Thuần cho hay tin đó đều xì xào bàn tán. Thừa Chí nghĩ: “Chắc chúng tới nay mới rõ tin này.”
Tào Hóa Thuần nói tiếp:
– Chúng ta không mau mau nghĩ cách đối phó thì khi tặc binh đánh tới Kinh thành, và Hoàng thượng vẫn không chịu mượn binh diệt khẩu thì lúc ấy chỉ còn một cách là lập một Minh chủ khác để đứng ra duy trì xã tắc.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Lúc ấy chúng ta cứ việc tôn thành Vương gia thay thế y.
Tào Hóa Thuần nói:
– Phải lắm, ngày hôm nay tôi định nhờ quý vị ra sức giúp cho một tay trong việc tôn lập Tân Quân, tất cả mọi sự đều có tiểu đệ đảm đang hết, khi lập được kỳ công rồi lúc ấy quý vị sẽ được quan tước ngay.
Thấy mọi người không dị nghị, Tào Hóa Thuần liền phân phát anh em đắc lực đi mai phục bao vây xung quanh thâm cung của Hoàng thượng, ngăn cản không cho một người nào vào trong đó, còn Hà giáo chủ và thủ hạ mai phục ở bên ngoài thư phòng, rồi do Thành Vương gia vào trong cung khuyên can.
Lã Nhị tiên sinh nói:
– Còn Chu đại tướng quân hiện đang cầm binh quyền và lại là kẻ trung thần nhứt của Hoàng thượng hiện nay, chẳng hay có nên diệt trừ ông ta trước không?
Tào Hóa Thuần cười nói:
– Chu đại tướng quân và Sác thượng thơ đã sớm bị tôi dùng tiểu kế diệt trừ. Hà giáo chủ nói cho Lã Nhị tiên sinh nghe câu chuyện ấy đi.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Tào công công đã sớm liệu từ trước rồi, ủng hộ Thành Vương gia lên ngôi cửu ngũ, thể nào Chu đại tướng quân và Sác thượng thơ cũng trở ngại cho nên đã sai tiểu muội phái người hàng ngày vào trong Bộ Hộ ăn trộm khố ngân. Nhà vua hiện thời là người bủn xỉn lắm, không bao giờ chịu để cho tiền bạc trong kho cứ mất mát luôn nhưvậy. Nghe nói hôm nay Hoàng thượng đã hạ chỉ cách chức Chu đại tướng quân và Sác thượng thơ rồi.
Ai nấy đều cười xòa và khen ngợi Tào Hứa Thuần thần cơ diệu toán. Tới lúc này Thừa Chí mới hay bọn Hồng Y đồng tử trộm bạc của ngân khố để thi hành âm mưu phản quốc chớ không phải vì tham tiền bạc. Tội nghiệp thay, vua Sùng Chính cứ tự phụ thông minh khôn ngoan, nhưng bị lọt vào tròng của người mà vẫn không hay biết gì cả.
Lại nghe Tào Hóa Thuần nói:
– Bây giờ mời quý vị xuống dưới kia nghỉ ngơi chốc lát, chờ đợi tiểu đệ sai người tới thỉnh mời.
Anh em họ Ôn và Lã Nhị tiên sinh đều cáo lui trước. Hà Thiết Thủ ra sau cùng, khi sắp sửa tới cửa bỗng nói:
– Tại sao Trường Bạch tam anh không tới nhỉ? Hay là anh em họ đi tố cáo cho Hoàng thượng hay rõ âm mưu chúng ta chăng?
Tào Hóa Thuần nói:
– Dù sao Hà giáo chủ cũng cẩn thận hơn. Việc này chúng ta cứ giấu không cho anh em họ biết. Nhưng anh em họ là tâm phúc của Cửu vương, gần đây lại lập được công lớn. Nếu bảo họ phản lại Cửu vương thì không bao giờ đến nỗi thế.
Hà Thiết Thủ nói:
– Họ lập công lớn gì thế?
Tào Hóa Thuần nói:
– Anh em họ đã lấy trộm một con dao găm của phái Võ Đang rồi dùng khí giới đi hành thích Tiêu Công Lễ Bang chủ bang Kim Long. Như vậy, các nhân vật võ lâm Giang Nam tất phải tàn sát lẫn nhau. Sau này chúng ta có xuống Giang Nam lánh nạn sẽ dễ thở hơn bây giờ nhiều.
Trước kia Uyển Nhi đã có chín phần tin chắc Trường Bạch tam anh là hung thủ giết cha nàng, bây giờ nghe lời nói của Tào thái giám nàng không nghi ngờ gì nữa.
Nghe tới đây, Thừa Chí sợ Uyển Nhi xúc động quá khóc ra tiếng thì nguy hiểm vô cùng, hơn nữa Hà Thiết Thủ tai mắt tinh mẫn lắm, chỉ hơi một tí động tĩnh cũng không giấu nổi, nên chàng phải vội giơ tay ra khẽ bịt miệng Uyển Nhi. Lại nghe thấy Hà Thiết Thủ cười nói:
– Công công tuy ở trong cung đình mà biết rõ chuyện giang hồ đến thế, kể cũng hiếm có thực.
Tào Hóa Thuần cười gằn hai tiếng rồi nói:
– Chuyện trong triều đình tôi trông thấy nhiều rồi, ai mà chẳng tham đồ phú quý? Ai mà chẳng nói nhân nghĩa đạo đức? Riêng có anh em giang hồ nói một là một, nói hai là hai. Lần này tôi mưu đồ đại sự, không dám thương nghị với đại thần trong triều đình mà lại chịu dùng trọng lễ thỉnh các vị tới rút dao tương trợ là bởi nguyên do ấy đấy…
Hai người vừa nói chuyện vừa đi ra khỏi thơ phòng.
Núp sau kệ sách, Thừa Chí nghe hết câu chuyện, biết sự thể rất khẩn cấp, nhưng phải nên làm như thề nào chàng chưa dám quyết định hẳn…
– Ba tên gian tặc này ta nên xử sự ra sao? Tiểu muội có thể giết chúng được không?
Thừa Chí đáp:
– Được, nhưng chớ có để máu chảy lênh láng ra ngoài để người ta phát giác thì không tiện cho chúng ta tí nào.
Nói đoạn, chàng bưng đầu Sử Bính Quang lên, chỉ vào hai bên Thái Dương huyệt mà nói:
– Cô biết sử dụng thế võ “Chung Cổ Tề Minh” (chuông trống cùng kêu) không?
Uyển Nhi gật đầu, Thừa Chí nói tiếp:
– Khuỷu xương ngón tay cái hướng ra ngoài. Nắm quyền như thế này. Phải rồi! Phát quyền đi!
Theo lời chỉ bảo của Thừa Chí, Uyển Nhi phát quyền tức thì. Chỉ nghe “bốp” một tiếng, song quyền đồng thời đánh vào hai bên Thái Dương huyệt của Sử Bính Quang.
Tên gian tặc ấy không kêu được nửa lời, đã tắt thở ngay tức thì. Cùng sử dụng phương pháp đó, nàng tiếp tục giết cả Sử Bính Văn lẫn Lý Cương. Thù lớn vừa trả xong, nghĩ tới cha, Uyển Nhi không sao nhịn nổi, phục luôn vào vai Thừa Chí khóc.
Thừa Chí nói:
– Chúng ta phải đi theo mau, xem Hà Thiết Thủ đi đâu?
Uyển Nhi cũng một đấng nhi nữ anh hùng, đang đau đớn như vậy thấy Thừa Chí nói tới công việc chính, lập tức nín ngay và theo Thừa Chí ra khỏi thư phòng. Thấy Tào Hóa Thuần và Hà Thiết Thủ đang chia tay ở ngã ba đường phía trước mặt. Hai tên Thái giám cầm đèn lồng dẫn bọn Hà Thiết Thủ đi về phía Tây. Thừa Chí và Uyển Nhi ăn mặc y Thái giám dù có gặp người lạ cũng không sao, nên cứ thong thả xa xa theo bọn Hà Thiết Thủ, qua mấy đình viện, rồi bọn Ngũ Độc giáo bước vào căn nhà. Thừa Chí và Uyển Nhi cùng đi theo vào, vừa vào tới cửa đã nghe thấy tiếng chửi rủa của Thanh Thanh ở căn phòng phía Đông như sau:
– Chúng bây Ngũ Độc giáo khốn nạn thật, con Hà Thiết Thủ không biết xấu hổ tý nào, rồi tao sẽ cho chúng mày bốn cẳng hóa thành sắt.
Nghe tiếng nói của Thanh Thanh, Thừa Chí không sao nhịn nổi xông thẳng vào căn phòng đó. Thấy Thanh Thanh đang nằm trên giường, có hai tên tiểu Thái giám đang sắc thuốc hầu. Chàng liền giơ tay điểm huyệt hai tên Thái giám nọ. Lúc này Thanh Thanh mới nhận ra mừng quá kêu lên một tiếng:
– Đại ca!
Thừa Chí chạy lại gần giường hỏi:
– Chú bị thương đấy à? Đã thấy đỡ chưa?
Thanh Thanh đáp:
– Em đã đỡ nhiều rồi.
Nàng trông thấy Uyển Nhi đứng phía sau người yêu, liền hỏi:
– Cô cũng tới đây đấy à?
Uyển Nhi đáp:
– Vâng, vết thương của Hạ cô nương có nặng không?
Thanh Thanh chỉ dùng giọng mũi trả lời “hừ” một tiếng thôi. Nàng bỗng nói với Thừa Chí:
– Nếu con Hà Thiết Thủ vào đây, đại ca đánh nó một trận nên thân hộ em nhé?
Thừa Chí nghĩ thầm: “Chúng còn có âm mưu khác, ta hãy tạm không lộ diện thì hơn.”
Nghĩ đoạn, chàng vội trả lời:
– Chú Thanh này, bây giờ tôi chưa tiện ra tay đánh nàng ta. Chú cứ dụ nàng ta trò chuyện thử hỏi xem nàng ta bắt cóc chú để trong cung này có mục đích gì?
Thanh Thanh hỏi:
– Trong cung nào thế?
Uyển Nhi nghĩ: “Thế ra nàng vẫn chưa hay nơi đây là thâm cung.”
Đang lúc ấy, bỗng nghe tiếng chân người đi tới, chàng không kịp hỏi han gì nữa, vội nhét hai tên Thái giám vào trong tủ áo, thấy xung quanh không còn nơi nào có thể ẩn núp được, mà người bên ngoài đã đi tới cửa phòng rồi, đành phải kéo Uyển Nhi cùng chui vào trong gầm giường để tạm trú ẩn.
Trong lúc Thanh Thanh đang ngơ ngác thì Hà Thiết Thủ và Hà Hồng Dược đã bước vào trong phòng rồi.
Hà Thiết Thủ tủm tỉm cười nói:
– Hạ công tử đã đỡ chưa? ủa, người hầu hạ công tử đi đâu cả rồi? Những quân ấy chỉ lười biếng không ai bằng!
Thanh Thanh nói:
– Tôi bảo chúng đi ra khỏi đây đấy! Ai khiến chúng hầu hạ cơ chớ?
Hà Thiết Thủ không nổi giận, vẫn cười nói:
– Thật là tánh trẻ con có khác!
Nàng lại gần siêu thuốc, vội la lớn:
– Ủa, thuốc đã được rồi đây!
Nàng lấy một tấm bông tơ, trắng nõn như tuyết, phủ lên trên bát bạc, rồi mới cầm siêu thuốc lên rót, bả thuốc ở cả trên tấm bông tơ, còn nước thuốc thì chảy cả vào trong bát bạc đó.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Thuốc này chữa trị vết thương rất linh nghiệm. Công tử cứ yên trí. Nếu trong thuốc có chất độc bát bạc này sẽ đen ngay.
Thoạt trông thấy Thừa Chí, Thanh Thanh mừng rỡ vô cùng, nhưng lại thấy mặt Uyển Nhi trong lòng khó chịu. Sau cùng nàng lại còn trông thấy hai người kéo taynhau chui vào trong gầm giường thái độ có vẻ âu yếm lắm, càng tức giận thêm, liền chửi đổng rằng:
– Các người lén lút tưởng ta không biết hay sao?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Chúng tôi có cái gì lén lút cơ chứ?
Thanh Thanh quát lớn:
– Các người bắt nạt ta, bắt nạt con người mồ côi cha thế này. Quân chết yểu, đồ vô lương tâm!
Thừa Chí ngạc nhiên khẽ hỏi:
– Nàng đang chửi ai thế?
Uyển Nhi là đàn bà con gái nên hiểu lòng Thanh Thanh hơn Thừa Chí, biết Thanh Thanh có vẻ nghi ngờ mình nhưng khó bề giải thích. Lúc này nghe Thanh Thanh có chửi đổng, trong lòng đau đớn vô cùng, bực mình đến nỗi chân tay run bây bẩy. Thừa Chí hiểu ngay nàng đang bị chửi oan, nhưng không sao lên tiếng an ủi được, chỉ có cách khẽ vỗ về an ủi thôi. Hà Thiết Thủ không hay biết tâm sự của ba người lúc bấy giờ, cứ cười nói:
– Thôi, xin công tử đừng cáu kỉnh nữa, lát nữa tôi sẽ đưa công tử về đằng nhà.
Thanh Thanh nói:
– Ai khiến cô đưa tôi về. Tôi không biết đường hay sao?
Hà Thiết Thủ cứ để mắt cười khúc khích. Mụ ăn xin già Hà Hồng Dược bỗng sầm nét mặt lại, hằn học nói:
– Tiểu tử họ Hạ kia, ngươi đã lọt vào tay chúng ta, khi nào Hà Hồng Dược này lại chịu để yên cho ngươi được lành lặn về tới đằng nhà. Cha ngươi hiện giờ ở đâu? Còn con ************** đẻ ra ngươi bây giờ cũng ở đâu?
Thấy Hà Hồng Dược nhục mạ mẹ mình, Thanh Thanh không sao nhịn được, cầm luôn bát thuốc nóng hổi nhắm mặt mụ ăn xin ném luôn. Hà Hồng Dược tránh sang một bên, bát thuốc ném trúng tường đổ vỡ tung tóe khắp phòng. Tuy vậy, nước thuốc đã bắn vào mặt Hà Hồng Dược khá nhiều, nóng bỏng rát cả hai má. Giận quá, Hà Hồng Dược quát lớn:
– Thằng ngốc kia, mày muốn chết phải không?
Thừa Chí nằm trong gầm giường đang chăm chú xem động tĩnh bên ngoài thấy Hà Hồng Dược hai chân nhún một cái định nhảy xổ đến chỗ Thanh Thanh.
Chàng ở trong gầm giường cũng sửa soạn để đối phó. Hễ Hà Hồng Dược hạ thủ đánh Thanh Thanh là chàng tấn công hạ bộ kẻ địch ngay. Chỉ thấy một bóng trắng thoáng một cái, Hà Thiết Thủ đã nhảy vào giữa mụ ăn xin và Thanh Thanh rồi. Tiếp theo đó Hà Thiết Thủ lên tiếng nói trước:
– Thưa cô, cháu đã nhận lời tên họ Viên đưa tên tiểu tử này về rồi. Chúng ta không nên thất tín với người.
Hà Hồng Dược cười nhạt một tiếng nói:
– Để làm gì?
Hà Thiết Thủ nói:
– Bên chúng ta có rất nhiều người bị điểm huyệt, phải nhờ tên họ Viên đến giải mới khỏi được.
Trầm ngâm giây phút, Hà Hồng Dược nói:
– Thôi được, chúng ta cũng không giết chết y nhưng dù sao cũng phải bắt y nếm chút đau khổ mới được. Này, tên tiểu tử họ Hạ kia, ngươi thử coi xem mặt ta có đẹp không?
Thanh Thanh bỗng thét lớn một tiếng đầy vẻ sợ hãi kinh hoàng, chắc Hà Hồng Dược làm điệu bộ mặt xấu xí cho xấu hơn nữa, rồi đưa mặt tới gần Thanh Thanh để dọa nạt.
Hà Thiết Thủ nói:
– Cô, cô dọa nạt y làm gì?
Giọng nói của nàng có vẻ không bằng lòng. Hà Hồng Dược hừ một tiếng rồi nói:
– Phải nói tên tiểu tử này đẹp trai nên cháu mới bảo vệ cho nó như vậy.
Hà Thiết Thủ nổi giận nói:
– Cô nói gì thế?
Hà Hồng Dược nói:
– Tâm sự của các cô trẻ tuổi như thế nào tưởng cô không biết hay sao? Cô cũng sống qua đời trẻ tuổi rồi. Cô còn lạ gì! Cháu xem cái hình này sẽ thấy bộ mặt của cô hồi còn trẻ ra sao?
Nói đoạn, mụ ta móc túi lấy tấm hình ra cho Hà Thiết Thủ và Thanh Thanh xem.
Cả hai người đều kinh ngạc kêu “ủa!” một tiếng, hình như có vẻ khen ngợi nữa.
Hà Hồng Dược cười gượng một tiếng rồi nói:
– Các người lấy làm lạ lắm phải không? Hà… hà… xưa kia tôi cũng đẹp đẽ như ai chớ có phải xấu như thế này đâu?
Nói xong, mụ vứt tấm hình bằng lụa xuống đất.
Thừa Chí đưa mắt nhìn tấm hình ấy thấy trên vẽ một thiếu nữ trạc độ hai mươi tuổi, hai má đỏ bừng, ăn mặc quần áo người Thượng, đầu chít khăn thêu, khuôn mặt rất đẹp, có vẻ giống khuôn mặt Hà Hồng Dược. Chàng đang cảm thấy kỳ lạ lại nghe Hà Hồng Dược nói:
– Tại sao tôi lại làm thành bộ mặt xấu xí như Trư Bát Giới thế này? Tại làm sao? Tại làm sao?… Tất cả đều do cha ngươi, con người táng tận lương tâm mà nên cả.
Thanh Thanh hỏi:
– Bà nói gì thế, Cha tôi là người rất tốt, quyết không nỡ làm cho người khác khó chịu!
Hà Hồng Dược nổi giận nói:
– Lúc bấy giờ ngươi, thằng quỷ con này đã ra đời đâu mà biết được mọi việc mà cha ngươi đã làm cho ta khó chịu, và tại sao ta phải làm nên bộ mặt thế này? Tại sao lại có ngươi, con tiểu quỷ ra đời?
Thanh Thanh nói:
– Bà càng nói càng kỳ lạ quá! Ngũ Độc giáo của các ngươi ở tỉnh Vân Nam còn cha tôi lấy mẹ tôi ở tận Triết Giang, hai nơi cách xa nhau những mười vạn tám nghìn dặm, thì bà liên can vào đó sao được?
Hà Hồng Dược cả giận, giơ tay tát Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ vội dùng tay phải cản ra và khuyên rằng:
– Xin cô hãy bớt giận, có chuyện gì cứ thong thả mà nói.
Hà Hồng Dược quát lớn:
– Cha cháu bị Kim Xà Lang Quân chọc tức đến nỗi uất ức mà chết. Bây giờ cháu còn hết sứ bênh vực y, cháu có biết xấu hổ không?
Hà Thiết Thủ cũng nổi giận nói:
– Ai bênh vực hắn nào? Cô mà đánh hắn bị thương là chính tay cô đã giết chết hơn bốn chục anh em giáo hữu, cô có biết không? Tôi thấy cô là bề trên nhường nhịn cô ba phần. Nhưng khi cô đã phạm quy luật của giáo ta, tôi không thể nào nể được nữa đâu.
Hà Hồng Dược thấy nàng giở thân phận Giáo chủ ra, không dám hăng hái như trước, nén ngay cơn giận lại, ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu, một lát sau hỏi:
– Mẹ cậu đâu? Chắc bà ta cũng là một mỹ nhân sắc nước khuynh thành? Cho nên bà ta mới làm mê hoặc được cha cậu phải không?
Nói tới đây, Hà Hồng Dược thở dài một cái, mới nói tiếp:
– Tôi đã nằm mơ rất nhiều giấc mơ, mơ thấy mẹ cậu nhưng chỉ trông thấy lờ mờ thôi, chớ không hề thấy rõ mặt bà bao giờ… tôi muốn gặp bà ta một lần…
Thanh Thanh nói:
– Mẹ tôi đã chết rồi.
Hà Hồng Dược giựt mình kinh ngạc hỏi:
– Chết rồi à?
Thanh Thanh đáp:
– Vâng.
Giọng nói đầy vẻ nghẹn ngào, Hà Dược lại cất cao giọng:
– Thảo nào tôi cứ bắt buộc y nói chỗ ở đâu, y càng không chịu nói cho tôi hay. Thì ra mẹ cậu đã chết rồi. Được, được lắm, mối thù của tôi không sao trả được nữa. Lần này tôi tha cho cậu về. Dẫu sao cũng có ngày, ngươi, tên tiểu tử này sẽ lọt vào tay ta… có phải mẹ cậu giống cậu lắm không?
Thấy Hà Hồng Dược đang nói, bỗng gọi mình là tiểu tử, Thanh Thanh bực mình, nằm quay mặt vào trong không thèm trả lời nữa.
Hà Hồng Dược nói với Hà Thiết Thủ rằng:
– Thưa Giáo chủ, chúng ta phải bắt tên họ Viên chữa cho giáo hữu chúng ta trước, rồi chúng ta mới thả tên tiểu tử ra.
Hà Thiết Thủ đáp:
– Điều đó tất nhiên rồi!
Hà Hồng Dược bỗng cúi xuống. Thừa Chí và Uyển Nhi sợ hãi quá, nhưng may thay mụ ăn xin không nhìn vào trong gầm giường, chỉ ở trước giường dùng ngón tay viết mấy chữ lên trên ván gác thôi. Mấy chữ đó là: Cho nó uống ngãi Nhện độc, ba năm sau mới phát bệnh. Hà Thiết Thủ dùng chân dí những chữ đó đi, và trả lời rằng:
– Cũng được, cứ theo đó mà thi hành.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Thế là ý nghĩa gì?… à, phải rồi, trước khi thả chú Thanh ra về, chúng sẽ cho chú ấy uống ngãi Nhện độc, ba năm sau mới phát bịnh, lúc ấy thì không còn thuốc nào chữa khỏi được nữa. Như vậy chúng cũng coi như đã trả được mối thù rồi. Hừ, các ngươi độc ác thật. Cũng may trời sai khiến để cho ta thấy âm mưu của chúng, nếu ta không tới đây…”
Nghĩ tới đây, chàng toát mồ hôi lạnh, rùng mình khiếp sợ.
Hà Hồng Dược đứng dậy đi ra ngoài cửa, khi sắp bước qua ngưỡng cửa bỗng nghĩ ngợi cái gì, lại quay trở lại nói:
– Cháu có thật bụng nghe lời cô mà thi hành không?
Hà Thiết Thủ đáp:
– Tất nhiên rồi, nhưng… Nhưng chúng ta không nên thất tín với người.
Hà Hồng Dược nổi giận nói:
– Cô biết cháu đã yêu nó mà. Sự thật có bao giờ cháu để tâm đến việc trả thù cho cha cháu đâu?
Mụ ta giận dữ quay trở vào, ngồi xuống ghế, hình như đang cố nén cơn hờn giận và nghĩ ngợi mưu kế để hãm hại Thanh Thanh. Trong phòng lúc bấy giờ yên lặng không có một tiếng động gì.
Thừa Chí và Uyển Nhi thở cũng phải cẩn thận. Thanh Thanh bỗng đập mạnh xuống giường một cái, la lớn:
– Các người còn không ra phải không? Muốn làm gì nữa?
Thừa Chí sợ quá, định nhảy ra bên ngoài, Uyển Nhi vội nắm tay chàng kéo trở lại.
Hà Thiết Thủ ôn tồn an ủi rằng:
– Công tử cứ yên tâm ngủ một giấc đi, chờ trời sáng tỏ tôi sẽ tiễn công tử về đằng nhà ngay.
Thanh Thanh chỉ hừ một tiếng bằng giọng mũi rồi cứ dậm mạnh xuống giường như đánh trống liên hồi vậy, bụi bẩn rơi cả xuống đầu, mặt, quần áo của Thừa Chí và Uyển Nhi. Hít phải bụi, Thừa Chí muốn phải hắc hơi mà phải cố gượng mãi mới nhịn nổi. Thanh Thanh nghĩ thầm: “Con Hà Thiết Thủ và con mụ ăn xin có địch nổi hai người đâu mà cứ ẩn núp mãi dưới gầm như vậy, có giả tâm gì thế?”
Nàng có biết đâuThừa Chí đã hay biết âm mưu giết vua lập Thành Vương, việc này liên can đến khí vận của Quốc gia chớ có phải là chuyện tầm thường đâu nên chàng mới cố nhẫn nại không dám ra ngay là vậy.
Thanh Thanh trong lòng tức giận vô cùng nhưng Hà Hồng Dược lại còn tức giận hơn nàng, liền nói với Hà Thiết Thủ rằng:
– Giáo chủ, cháu là Giáo chủ, việc đại sự trong giáo tất nhiên là cho cháu chấp chưởng. Cái móc vàng của giáo tổ truyền cho cháu, cháu có quyền sinh sát trong tay.
Nhưng cô phải cho cháu hay, tuy rằng trong giáo chúng ta không cấm đoán tình dục thật nhưng những việc bi thảm của cô đã tao ngộ chẳng lẽ cháu còn không sáng mắt ra hay sao?
Hà Thiết Thủ cả cười nói:
– Cô gặp phải kẻ phụ tâm rồi cứ tưởng đàn ông nào cũng bạc hạnh như thế cả!
Hà Hồng Dược nói:
– Tất nhiên trong đám đàn ông cũng có người tốt kẻ xấu, nhưng cháu nên nhớ rằng, tiểu tử này là con trai của Kim Xà Lang Quân. Cháu nhận kỹ lại bộ mặt y xem, có khác Kim Xà Lang Quân tí nào không? Như vậy ai dám cam đoan tâm địa của y không giống cha y cơ chứ?
Hà Thiết Thủ nói:
– Cha y cũng đẹp trai như y hay sao? Thảo nào cô mê ông ta đến thế?
Nằm dưới gậm giường, Thừa Chí nghe giọng nói của Hà Thiết Thủ biết ngay là nàng đã yêu Thanh Thanh rồi. Nàng có võ nghệ như vậy lại là Giáo chủ của một giáo phái, thế mà không phân biệt nổi Thanh Thanh là đàn bà, kể cũng buồn cười thật. Hà Hồng Dược thở dài một tiếng rồi nói:
– Cháu cứ hay cố chấp như vậy mà không chịu giác ngộ thì đây, để cô kể hết chuyện của cô cho cháu nghe, cháu sẽ tự cảnh tỉnh ngay.
Hà Thiết Thủ nói:
– Hay lắm, cháu rất thích nghe chuyện dĩ vãng của cô. Cô cứ kể đi, cho cả y nghe cũng chẳng sao!
Hà Hồng Dược nói:
– Phải đấy, để cho y nghe những chuyện xấu xa của cha y, sau này y có chết cũng yên tâm mà nhắm nghiền mắt lại.
Thanh Thanh nhảy phắt dậy, la lớn:
– Bà đừng có bịa đặt. Cha tôi là đại anh hùng, đại hào kiệt có bao giờ làm những chuyện xấu xa nào? Tôi không nghe, tôi không nghe!
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Thưa cô, y không thích nghe, biết làm sao đây?
Hà Hồng Dược nói:
– Cô nói cho cháu nghe, còn y có chịu nghe hay không thì mặc y.
Thanh Thanh thoạt tiên lấy chăn bông trùm đầu không thèm nghe, sau vì tánh hiếu kỳ thúc đẩy, dần dần kéo chăn ra để nghe Hà Hồng Dược kể chuyện dĩ vãng của Kim Xà Lang Quân.
Hà Hồng Dược nói:
– Hai mươi năm trước đây, lúc ấy cô còn ít tuổi hơn cháu bây giờ. Cha cháu đã lên làm Giáo chủ rồi, phái cô tới Vạn Diệu sơn trang làm Trang chủ, trông nom và chăn nuôi ổ rắn độc ở đó. Hôm đó, cô thấy nhàn rỗi một mình tới phía sau núi bắt chim để chơi.
Hà Thiết Thủ xen vào nói:
– Cô đã làm Trang chủ mà còn bắt chim chơi à?
Hà Hồng Dược chỉ trả lời bằng giọng mũi “hừ” một tiếng, lại nói tiếp:
– Cô vừa rồi chẳng nói cho cháu nghe là vì hồi ấy cô còn ít tuổi hơn cháu bây giờ mà? Cô cũng như một đứa trẻ con thôi. Cô bắt được hai con Thúy Điều trong lòng hớn hở vô cùng, lúc trở về đi qua ổ rắn, bỗng nghe trong bụi cây có tiếng kêu “phì phì.” Cô biết ngay là có rắn đã xa ổ, cô liền theo tiếng động xem, quả nhiên một con rắn Ngũ Hoa (năm màu) đang bò ra bên ngoài. Cô ngạc nhiên quá vì những rắn nuôi trong ổ rất thuần thuộc, xưa nay không hề thiếu một con nào cả. Vậy con Ngũ Hoa xà này bò ra bên ngoài làm gì thế? Cô không bắt nó lại vội, cứ theo sau xem nó đi đâu. Thấy nó bò về phía sau bụi cây, tới gần một người. Cô ngẩng đầu lên nhìn giựt mình kinh hãi.
Hà Thiết Thủ hỏi:
– Tại sao vậy?
Hà Hồng Dược nghiến răng nói:
– Cũng bởi vì tiền oan nghiệp chướng mà nên. Y là con ma của đời sống của cô.
Hà Thiết Thủ hỏi:
– Có phải người đó là Kim Xà Lang Quân đấy không?
Hà Hồng Dược đáp:
– Lúc ấy cô không biết y là ai cả. Chỉ trông thấy mặt mày y đẹp lắm, quả thật là một đấng anh tài xuất chúng. Tay y đang cầm ngải thơm dụ rắn. Lúc ấy cô mới hay con Ngũ Hoa Xà ngửi thấy mùi thơm mới bị dẫn dụ ra ngoài. Y trông thấy cô, nhìn cô cười.
Hà Thiết Thủ nói:
– Lúc ấy chắc cô đẹp lắm nên ông ta mới mê mẩn như vậy.
Hà Hồng Dược đưa mắt lườm Hà Thiết Thủ nói:
– Cô nói chuyện đứng đắn, cháu lại cứ nói đùa mãi như vậy? Lúc ấy cô thấy y là người lạ mặt, sợ y bị rắn cắn, mới vội gọi bảo: “Này ông kia, con rắng này độc lắm đấy. Ông đứng yên, để tôi bắt lấy nó cho.” Y lại cười, rồi lấy cái hộp gỗ trên vai xuống. Góc cái hộp đó có buộc một con cóc còn sống. Trông thấy con cóc, con Ngũ Hoa Xà liền đớp ngay. Sau đó, nó như mê man nằm im trên đám cỏ. Ông ta cười khinh một tiếng rồi bắt con Ngũ Hoa Xà bỏ vào chiếc hộp.
Hà Thiết Thủ chận lại:
– Con Ngũ Hoa Xà của cô nuôi phải không?
Hà Hồng Dược gật đầu:
– Chứ còn của ai nữa?
– Thế sao cô không bắt con Ngũ Hoa Xà lại để cho ông ta bỏ vào chiếc hộp?
Hà Hồng Dược lúng túng:
– Chỉ vì… chỉ vì…
Hà Thiết Thủ bật cười:
– Chỉ vì cô đã yêu thương ông ta vì ông ta tuấn tú?
Hà Hồng Dược trợn mắt:
– Hãy nói chuyện nghiêm chỉnh, đừng đùa cợt với ta.
Hà Thiết Thủ hỏi:
– Rồi chuyện xảy ra như thế nào?
Cặp mắt Hà Hồng Dược chớp sáng lên:
– Ta mời hắn về trại. Hắn do dự một lúc nhìn ta rồi theo ta. Ta sai tỳ nữ bưng cơm lên đãi hắn, ta cũng cùng ăn với hắn. Ta ngỏ ý lưu hắn ở lại vài ngày, hắn ưng chịu dù lúc đó hắn bảo hắn đang có chuyện gấp phải làm nhưng y nể vì ta.
Hà Thiết Thủ chen vào:
– Vậy là chính hắn cũng đã say mê sắc đẹp của cô nên bất chấp chuyện khác bằng lòng ở lại với cô?
Hà Hồng Dược không đáp lời mà chỉ tiếp câu chuyện:
– Đêm đó ta sai tỳ nữ dọn một cái phòng tươm tất cho hắn ngủ. Ta trở về phòng nằm trằn trọc chờ hắn không sao ngủ được. Ta cứ mơ tưởng, nhớ nhung tới hắn nhưng mã không thấy hắn tới…
Sáng ngày sau khi bữa cơm xong ta đưa hắn đi dạo khắp nơi trong và ngoài trại. Hắn hỏi ta đủ thứ nhưng tuyệt nhiên không đả động gì về chuyện tình yêu cả. Hà Thiết Thủ hừ nhạt:
– Như thế hắn không tha thiết yêu cô. Còn cô cũng không nói với hắn chuyện tình yêu à?
– Lúc đó ta còn nhỏ mới vừa biết yêu mà chẳng dám nói yêu. Ta chờ hắn nhưng hắn lại không nói, biết sao. Hơn nữa ta cũng không hiểu hắn có yêu ta hay không nên cứ rụt rè nhìn hắn, mỗi lần như vậy hắn chỉ đưa mắt nhìn ta và miệng nở nụ cười.
Hà Hồng Dược như thiết tha:
– Ôi! Nụ cười của hắn… Nụ cười…
Hà Thiết Thủ liếc mắt nhìn Thanh Thanh:
– Nụ cười mê hồn phải không cô?
Hà Hồng Dược lắc đầu:
– Ta không biết rõ, nhưng mỗi khi hắn cười là ta nghe trái tim rúng động, tưởng như nhảy vọt ra ngoài và mỗi lần hắn nhìn ta là ta như không còn tự chủ được nữa.
– Rồi hắn làm sao cô lại oán hận hắn?
Hà Hồng Dược phát tay làm một cử chỉ:
– Hãy thong thả rồi ta nói tiếp cái ác gian của cha con bé này trước khi nó chết, để nó không hiểu tại sao ta thù hận Kim Xà Lang Quân…
Thanh Thanh trừng mắt nhìn Hà Hồng Dược nhưng vẫn không nói gì, lặng ta nghe tiếp câu chuyện.
Nàng hiểu Hà Hồng Dược không nói dối nên cũng muốn biết qua chuyện quá khứ của thân phụ nàng: Kim Xà Lang Quân.
Hà Hồng Dược tiếp tục câu chuyện:
– Sau đó hắn hỏi ta về bức địa đồ Ngũ Độc giáo?
– Hắn hỏi để làm gì?
– Hắn muốn xem qua bức địa đồ đó.
– Cô có đưa cho hắn xem không?
– Ta nghĩ bức địa đồ kia không có gì tai hại nên ta đã đưa hắn vào động Độc Long để coi địa đồ.
Hà Thiết Thủ kêu lên:
– Vậy thì cô đã vi phạm vào luật lệ của Ngũ Độc giáo rồi. Bởi ngoài Giáo chủ ra không có một ai được tới động Độc Long để xem bức địa đồ cả, nếu hắn không là kẻ… thù… khi… Nào lấy bức địa đồ để làm gì.
Hà Hồng Dược nói:
– Ta cũng không biết địa đồ gì? Chỉ biết nó là bảo vật của bổn giáo do Giáo tổ truyền lại đã mười mấy đời rồi. Hừ, không ngờ y lại xấu bụng đến thế không nghe lời ta, cứ nhìn ta cười thôi. Quy luật của bổn giáo, vào trong động Độc Long là phải cởi hết y phục ra. Lúc ấy thấy y cứ nhìn ta cười, thế là ta mơ mơ hồ hồ trao cả tấm thân trinh bạch cho y. Sau rồi, ta cũng không đòi hỏi gì y, cả hai người đem tam bảo lén lút ra khỏi động. Y hứa trả thù xong sẽ đem tam bảo hoàn lại cho bổn giáo. Từ khi y ra đi, ngày đêm ta nhớ nhung, hai năm liền không được một tin tức gì. Sau cùng nghe trên giang hồ đồn đãi ở Giang Nam mới xuất hiện một vị quái hiệp tay cầm một thanh kiếm, thiện dùng Kim trùy giết người, nên được người ta ban cho trác hiệu là Kim Xà Lang Quân. Ta biết ngay là y, trong lòng lo lắng, không biết y đã trả được mối thù đó chưa? Qua được ít lâu, Giáo chủ bắt đầu sinh nghi, liền điều tra ngay, thấy mất tam bảo, mới bắt ta phải liễu đoạn, ta mới trở nên bộ dạng xấu xí như thế này.
Thanh Thanh hỏi:
– Tại sao vậy?
Hà Hồng Dược hậm hực không trả lời. Hà Thiết Thủ khẽ nói:
– Lúc ấy cha tôi làm Giáo chủ, mà em gái của mình lại phạm lỗi lớn nên mới uất ức mà chết. Theo quy luật của giáo phái chúng tôi thì cô tôi phải tự nộp mình vào trong hang rắn, để cho hàng nghìn con độc xà cắn. Mặt cô tôi có đầy những vết thẹo kia là những vết rắn cắn đấy.
Thanh Thanh nghe nói rùng mình kinh hãi, trong lòng cắn rứt, và không thấy giận ghét mụ ăn xin như trước nữa.
Hà Thiết Thủ lại nói:
– Cô tôi chữa khỏi các vết thương xong, lại còn phải xuất hành khất. Quy luật của giáo phái chúng tôi quy định như vậy. Kẻ phạm trọng tội phải đi ăn xin trong ba mươi năm để nuôi sống thân mình, không được lấy trộm một đồng tiền và một hạt gạo, và cũng không được nhận tiếp tế của các võ lâm đồng đạo.
Thanh Thanh khẽ nói Hà Hồng Dược rằng:
– Nếu cha tôi đã hại bà thật như vậy, điều đó quả thật cha tôi không tốt.
Hà Hồng Dược chỉ trả lời bằng giọng mũi “hừ” một tiếng, rồi nói:
– Lúc đầu ta vẫn còn chung tình với y một mạch hành khất xuống miền Giang Nam kiếm y. Tới tỉnh Triết Giang, ta hay tin y ở Từ Châu giết người trả thù. Ta muốn gặp mặt y nhưng hành tung của y thần xuất quỷ mạt, không sao tìm kiếm được, tới khi ta gặp y ở Kim Hoa thì y đã bị bắt rồi. Mấy lần ta định cứu y nhưng địch thủ phòng vệ cẩn mật lắm, không sao kiếm được dịp may để hạ thủ. Chúng áp giải y lên phía Bắc, ta rất lấy làm lạ, không hiểu chúng giải y đi như thế để làm gì? Sau ta điều tra mãi, mới hay chúng bắt buộc y phải nộp tờ địa đồ ra. Thì ra tờ địa đồ ấy là địa điểm một bảo tàng. Có một lần, rút cuộc ta kiếm được dịp may nói chuyện với y vài câu. Nhưng địch thủ áp giải y võ nghệ cao cường lắm, mình ta không sao địch nổi. Y nói, lúc bấy giờ chỉ có một sinh cơ duy nhứt là làm thế nào đánh lừa được bọn địch thủ lên trên đỉnh núi Hoa Sơn.
Hà Thiết Thủ nói:
– Thưa cô, những chuyện sau này cháu không hay biết gì hết. Y muốn lên đỉnh núi Hoa Sơn để làm gì thế?
Hà Hồng Dược nói:
– Y nói khắp thiên hạ chỉ có một người có thể cứu y thoát nguy hiểm thôi. Người đó là Bát Thủ Tiên Viên Mục Nhân Thanh của phái Hoa Sơn.
Nghe câu chuyện kinh hồn động phách, Thừa Chí ở dưới gầm giường trong lòng không khỏi kinh hãi. Với hành vi của Kim Xà Lang Quân, chàng không biết nên đáng ghét hay nên thương tiếc họ. Lúc này, nghe nói tới tên của sư phụ, chàng càng chăm chú lắng tai nghe.
Nghe Hà Hồng Dược hỏi tới sư phụ của Thừa Chí, Thanh Thanh cũng yên lặng để hết tâm vào nghe.
Hà Hồng Dược nói:
– Ta hỏi y Mục Nhân Thanh là người thế nào? Y nói, ông ta là một cao nhân hiệp sĩ giỏi quyền kiếm nhứt thiên hạ. Tuy y chưa được gặp mặt, nhưng xưa nay biết ông ta là người chính trực trượng nghĩa. Nếu như hiệp sĩ trông thấy y bị hành hạ như vậy, thếnào cũng ra tay cứu độ. Y nói Ngũ Hành trận pháp của anh em họ Ôn lợi hại lắm, lại thêm bọn đạo nhân của phái Nga Mi tương trợ, như vậy trừ vị hiệp sĩ họ Mục ấy ra, không còn ai có thể địch nổi bọn họ Ôn nữa. Y bảo ta mau mau lên ngay đỉnh núi Hoa Sơn khóc lóc yên cầu Mục đại hiệp cứu cho. Ta nhận lời ngay, và trong lòng quyết định là, nếu Mục đại hiệp không chịu cứu trợ thì ta sẽ tự vận ngay trước mặt ông ta. Nói tóm lại, thể nào cũng phải cứu được y thoát nạn mới yên tâm. Ta thấy kẻ địch canh gác nghiêm ngặt lắm, không thể nào nói được thêm vài lời nữa, ta định ôm y hôn xong rồi mới rút lui ra. Ngờ đâu, ta vừa tới gần đã ngửi thấy ngực y có mùi thơm của đàn bà, ta liền thọc tay vào trong áo lót của y kéo ra một cái hồ bao thêu rất đẹp rất thơm, trong đó có đựng một mớ tóc đàn bà, một cái kim thoa nho nhỏ. Ta tức giận đến nỗi run bây bẩy cả người, liền hỏi y cái đó ai tặng cho thế? Y không chịu nói. Ta bảo, không nói thì ta không đi yêu cầu Mục đại hiệp nữa. Y cứ làm thinh tỏ vẻ rất kiêu ngạo. Cháu xem, cái vẻ kiêu căng của thằng nhãi này giống cha nó như đúc.
Nói tới đây, giọng nói của mụ ta càng thê thảm rùng rợn, một tay chỉ Thanh Thanh, ngừng một lúc lại nói tiếp:
– Ta còn muốn hỏi cho ra lẽ, thì người của phái Thạch Lương canh gác đã đi phố về. Ta đau đớn quá, vì y, đã chịu đựng biết bao nhiêu khổ sở, mà y lại bỏ rơi ta đi yêu thương kẻ khác. Chờ đến khi kẻ địch đưa y lên tới đỉnh núi Hoa Sơn, ta cũng không đi tìm kiếm Mục đại hiệp gì, chỉ ngấm ngầm bỏ thuốc độc vào đồ uống, thế là hai tên đạo sĩ chết liền. Mấy tên họ Ôn không ngờ có người hãm hại chúng ngầm như vậy. Chúng chỉ sơ xuất một tí là ta cứu y thoát khỏi nơi đó ngay. Ta giấu y vào một cái sơn động.
Chúng kiếm mãi không thấy rồi nghi ngờ lẫn nhau cãi vã om xòm. Sau chúng lại khám xét tất cả khoảnh núi, làm mích lòng Mục đại hiệp. Ông ta chỉ giở sơ sơ tuyệt kỹ ra đã khiến bọn anh em họ Ôn hoảng sợ mà bỏ chạy xuống núi cả. Rồi Mục đại hiệp cũng hạ sơn nốt. Tối hôm đó, ta bắt buộc kẻ phụ bạc phải nói tên họ người yêu của y cho ta hay. Y biết nói cho tay hay, thể nào ta cũng nghĩ cách giết chết được người yêu của y.
Võ công đã mất hết, y không sao đi theo mà bảo vệ được, nên y cứ ngậm miệng không chịu nói. Ta giận quá, ba ngày liền, sáng, trưa, tối, mỗi lần ta đánh cho y một trận đòn vọt…
Thanh Thanh ngồi nhổm dậy la lớn:
– Bà… mụ độc ác này… sao lại hành hạ cha tôi như thế?
Hà Hồng Dược cười nhạt nói:
– Điều đó là y tự làm thì phải tự chịu chứ. Ta càng đánh dữ tợn bao nhiêu, y càng cười lớn bấy nhiêu. Y nói, từ đó tới giờ chưa hề yêu ta bao giờ, y lại nói vợ chưa cưới của y vừa đẹp vừa nhu mì, vừa ngây thơ, hơn ta gấp những trăm nghìn lần. Y nói một câu, ta quất y một roi. Hễ ta đánh một roi là y lại khen con khốn nạn một câu. Đánh đến nỗi khắp người y không còn một chỗ nào lành lặn, mà y vẫn cứ khen ngợi, vẫn cứ ha hả cười như thường. Đến ngày thứ ba, ta và y đều đói đến nỗi không còn hơi sức nữa. Ta đi kiếm trái cây về ăn, thấy y đứng canh gác cửa động không cho ta vào. Y nói, hễ ta bước chân vào cửa động một bước là y dùng kiếm đâm ta ngay. Y tuy đã mất hết võ công thật, nhưng trong tay y có kiếm Kim Xà, nên ta không dám vào nữa. Ta bảo y rằng: Quý hồ y nói cho ta hay tên họ và chỗ ở của người đàn bà nọ, là ta tha thứ tội bạc tình cho y. Y cả cười nói, y yêu người đó còn hơn cả đời sống của y. Cả hai người cứ khăng khăng như vậy không ai chịu lép vế ai. Ta có thức ăn, y tuy bị đói bụng nhưngvẫn cứng cỏi như thường. Ta biết lúc ấy Mục đại hiệp đã hạ sơn đi vân du rồi, ít nhứt một hay hai năm mới trở về núi. Như vậy không còn ai tới cứu giúp y nữa.
Hà Thiết Thủ buồn rầu nói:
– Thưa cô, có phải cô đã làm cho ông ta chết đấy không?
Hà Hồng Dược đáp:
– Hừ, khi nào cô lại chịu để cho y chết như vậy. Qua được vài ngày nữa, y đói đến nỗi kiệt lực. Ta vào trong động đánh đến gãy cả hai chân y.
Thanh Thanh kinh hãi, thét lớn một tiếng, nhảy lên định đánh mụ ăn xin nhưng bị Hà Thiết Thủ giơ tay vịn vai nàng xuống, không sao cử động được.
Hà Thiết Thủ nói:
– Hãy nghe cô tôi nói nốt đã.
Hà Hồng Dược nói:
– Trên đỉnh núi Hoa Sơn hiểm trở vô cùng, chân y đã què, tất nhiên không thể nào xuống núi được. Ta liền xuống núi đi dò thám xem người yêu của y ở đâu. Ta định bắt được con khốn nạn ấy, làm cho bộ mặt nó xấu xí hơn mặt ta, rồi đem lên trên núi cho y coi, làm y có còn khen ngợi con nọ nữa không? Nhưng tìm kiếm hơn nửa năm, ta không sao kiếm ra được con nọ. Ta nghĩ, nhỡ người họ Mục hồi sơn, gặp y thì nguy tai.
Hôm mà người họ Mục đánh đuổi bọn Thạch ta thấy bản lãnh của ông ta quả thật cao cường. Nếu kẻ phụ tâm cầu ông ta giúp đỡ, ta có quay trở lại núi Hoa Sơn cũng không lợi ích gì cho ta. Nghĩ vậy ta vội vàng trở về núi Hoa Sơn ngay. Ngờ đâu y đi đâu mất rồi, ta tìm kiếm khắp núi cũng không thấy tung tích y đâu cả? Không biết có phải là người họ Mục hay lại có một kẻ khác cứu y rồi? Từ đó tới nay, trong hai mươi năm trời, không nghe tin tức của y ở trên giang hồ nữa. Ta đi khắp thiên Nam địa Bắc cũng không biết kẻ vô lương tâm khốn nạn ấy còn sống hay đã chết rồi?
Nghe thấy giọng nói của mụ ăn xin chứa đầy oán độc, nói tới đây Thừa Chí mới hiểu rõ hết sự thể. Sở dĩ Kim Xà Lang Quân tự bế phong ở trong sơn động nhứt định biết kẻ oan gia ma đầu thế nào cũng quay trở lại kiếm, võ công đã mất không sao đối địch nổi, lại nghĩ bởi phụ người là bất nghĩa, và cũng không muốn cầu cứu phái khác, nên bịt chặt cửa động rồi tự sát cho xong chuyện.
Thừa Chí đang ngẫm nghĩ bỗng nghe thấy Hà Hồng Dược quát mắng Thanh Thanh rằng:
– Hừ, thì ra y quả thật đã di tồn một quân nghịch chủng là ngươi. Mẹ ngươi hiện giờ ở đâu? Ta biết nàng họ Ôn, nhưng ta không rõ chỗ ở của mẹ ngươi. Nếu ngươi không chịu nói cho ta hay, ta hãy khoét mắt ngươi trước.
Thanh Thanh cười một hồi mới nói:
– Hà, hà… bà hung ác thật! Cha tôi nói không sai. Mẹ tôi tốt hơn bà không những một trăm lần, hơn nữa một vạn lần…
Hà Hồng Dược tức giận quá, không sao nén nổi tay định cào nát mặt Thanh Thanh.
Thanh Thanh lùi vào trong góc giường, Hà Thiết Thủ tay ra cản. Hà Hồng Dược giận dữ nói:
– Cháu phải bắt nó nói chỗ ở của cha mẹ nó thì cô tha thứ cho nó ngay.
Hà Thiết Thủ nói:
– Thưa cô, chúng ta đang có việc lớn phải làm. Cô oán riêng sinh sự khắp mọi nơi như vụ phái Võ Đang chẳng phải cô tại nên là gì?
Hà Hồng Dược nói:
– Hừ, tên đạo tặc Hoàng Mộc khoe khoang với ta quen biết Kim Xà Lang Quân, không ngờ tin đó lại lọt tai ta nên ta mới bắt buộc tặc đạo sĩ nói cho ta hay chỗ ở kẻ phụ tâm kia.
Hà Thiết Thủ nói:
– Cô bắt nhốt người ta bấy lâu nay rồi mà người ta không chịu nói. Hoặc giả người ta không biết cũng nên. Như vậy kết thù kết oán nhiều làm gì?
Thừa Chí và Uyển Nhi đều gật đầu khen ngợi Hà Thiết Thủ biết điều hơn. Cả hai cùng nghĩ, thì ra mối thù giữa Ngũ Độc giáo với phái Võ Đang do thế mà nên đấy.
Như vậy Mộc đạo nhân chưa chết, chỉ bị Ngũ Độc giáo cầm giữ.
Hà Hồng Dược quát lên:
– Thằng nhãi họ Viên cầm Kim Xà kiếm của chú, dùng Kim Xà chủy đánh chết chó của chúng ta, Tam bảo vào tay ngươi. Cháu là Giáo chủ, sao không nghĩ cách cứu. Hà Thiết Thủ cười nói:
– Thôi cô đừng nói nữa, cháu đã biết cả rồi. Mà hãy đi nghĩ một lát đã.
Hà Hồng Dược hồng nói:
– Ta đã nói cho cháu nghe hết chuyện của ta rồi. Có dùng kế hoạch của ta hay không? Có trả thù hộ ta hay không? Cái đó đều do ở nơi cháu định đoạt!
Hà Thiết Thủ chỉ cười thôi, chớ không trả lời. Hà Hồng Dược nói:
– Cháu ra ngoài này cô có chuyện muốn cho cháu hay.
Hà Thiết Thủ nói:
– Nói ở đây cũng được chớ sao.
Hà Hồng Dược nói:
– Không được, chúng ta ra ngoài kia.
Thấy hai cô cháu mụ ăn xin ra khỏi phòng và tiếng chân đi đã đi khá xa, Thừa Chí vội chui ra gọi:
– Chúng ta chạy đi thôi, chú Thanh.
Thanh Thanh giận dữ nhìn Uyển Nhi thấy đầu tóc nàng bù rối, mặt lại dính đầy các bụi dưới gầm giường, “hừ” một tiếng rồi nói:
– Hai người trốn dưới ấy làm gì?
Uyển Nhi ngẩn người ra, hai má đỏ bừng, không nói được câu nào.
Thừa Chí thúc giục:
– Mau đứng dậy đi? Chúng đang lập mưu thiết kế hãm hại chú đấy.
Thanh Thanh đáp:
– Để cho chúng giết chết càng hay, tôi không chạy đi đâu cả.
Thừa Chí vội nói:
– Có chuyện gì để về nhà thong thả nói không được ư? Tại sao giờ phút này chú còn phá bĩnh thế?
Thanh Thanh nói:
– Tôi cứ thích phá bĩnh đấy!
Thừa Chí nghĩ: “Người này thật bướng bỉnh quá, tình thế khẩn cấp thế này, chỉ chậm trễ một tí là không thể nào thoát thân được, nhỡ nhà vua bị hãm hại có phải hỏng hết đại sự không?”
Nghĩ đoạn, chàng vội nói:
– Chú Thanh, chú làm gì thế?
Vừa nói chàng vừa giơ tay ra kéo nàng. Thanh Thanh vừa tức vừa hận, hai tay nắm chặt lấy tay chàng há mồm ra cắn liền. Xuất kỳ bất ý, Thừa Chí suýt bị cắn phải, vội dùng ngay thế “Thanh Phụng Triển Xí” (phượng xanh dương cánh) rút luôn tay ra, hỏi:
– Chú làm trò gì thế?
Thanh Thanh nói:
– Tôi cứ thích giở trò chơi đấy!
Nói xong nàng lấy chăn trùm lên đầu. Thừa Chí vừa lo vừa bực tức, chỉ có giậm chân xuống đất.
Uyển Nhi bỗng nói:
– Viên tướng công ở lại đây trông nom Hạ cô nương, tiểu muội ra ngoài kia một lát sẽ trở lại ngay.
Thừa Chí hỏi:
– Cô đi đâu thế?
Uyển Nhi không trả lời, đẩy cửa sổ nhảy ra ngoài đi luôn, Thừa Chí ngồi mép giường, khẽ đẩy Thanh Thanh một cái, nàng quay mặt vào phía trong, không thèm trả lời. Lúc ấy Thừa Chí vô kế khả thi, lại không dám bỏ đi, chỉ sợ Hà Thiết Thủ với mụ ăn xin quay trở lại cho nàng uống ngải độc thì nguy. Chàng đang nghĩ lời khuyên can đột nhiên nghe tiếng chân đi tới, nhảy ngay lên trên xà nhà nằm ẩn núp trên đó. Chỉ thấy một mình Hà Thiết Thủ đẩy cửa bước vào, rồi lại khóa trái cửa bước vào, từ từ đi đến cạnh giường Thanh Thanh.
Thừa Chí lấy sẵn hai mũi Kim Xà chủy ra phòng bị, hễ Hà Thiết Thủ hơi có ý hãm hại Thanh Thanh là chàng phát ám khí ra cứu ngay.
Hà Thiết Thủ ngắm trông lưng Thanh Thanh một hồi, khẽ nói:
– Hạ Tướng công, tôi có một lời muốn thưa cùng.
Thanh Thanh quay đầu trở lại, Hà Thiết Thủ nói:
– Cô tôi nhứt tâm yêu mến lệnh tôn đại nhân như vậy, theo ý Tướng công thì cô tôi có phải là kẻ hạ tiện không?
Thanh Thanh không ngờ nàng lại hỏi như vậy, ngẩn người một lát mới đáp:
– Tha thiết yêu mến như vậy, sao lại bảo là hạ tiện được?
Nói tới đây, nàng cất cao giọng nói tiếp:
– Chỉ có kẻ nào vong ân phụ nghĩa mới là hạ tiện.
Hà Thiết Thủ không biết nàng nói như vậy là cố nói cho Thừa Chí nghe, mừng quá khẽ nói:
– Lệnh tôn với cô tôi vô duyên, cái đó không thể nào trách cứ lệnh tôn được. Cụ ông đành chịu chết cũng không chịu nói chỗ ở của lệnh đường, và còn hy sinh tánh mạng để bảo vệ bà ta, như vậy mới thật là người tình thâm nghĩa trọng.
Thanh Thanh nói:
– Tiếc thay, trên thế gian này người như cha tôi thật hiếm có!
Hà Thiết Thủ nói:
– Nếu có người như vậy, nàng đành hy sinh tánh mạng để bảo vệ Tướng công, chẳng hay Tướng công có nhớ người đó mãi mãi không?
Thanh Thanh đáp:
– Khốn nỗi tôi lại không có phúc phận ấy!
Hà Thiết Thủ nói:
– Trước kia tôi không hiểu tại sao cô tôi lại si tình đến thế? Mới gặp một người đàn ông đã chung tình như vậy… tôi, tôi… thôi vậy, tôi không cần Tướng công phải đối xử với tôi như thế nào. Nhớ tôi cũng được, không nhớ cũng không sao.
Nói xong, nàng chạy luôn ra ngoài cửa. Thanh Thanh ngồi trên giường ngẩn người ra giây lát, không hiểu nàng nói vậy có ý nghĩa gì?
Thừa Chí ung dung nhảy xuống dưới cười nói:
– Cô bé ngốc nghếch ơi! Nàng đã yêu cô đấy, có biết không?
Thanh Thanh hỏi:
– Anh nói gì thế?
Thừa Chí cười nói:
– Nàng tưởng chú là đàn ông thật đấy.
Thanh Thanh nghĩ lại thái độ của Hà Thiết Thủ mấy ngày hôm nay đối xử với mình, quả thật có vẻ chung tình lắm. Thì ra, nàng mới gặp mình đã đem lòng yêu ngay rồi, nên không để ý tới mình là nữ giả nam trang, nghĩ tới đó, Thanh Thanh không nhịn được cười, liền hỏi:
– Biết làm sao bây giờ đây?
Thừa Chí cười nói:
– Khó gì, chú cứ lấy vị Ngũ Độc giáo phu nhân ấy là xong!
Thanh Thanh đang định trả lời bỗng nghe cửa sổ có tiếng động, Uyển Nhi nhảy vào, theo sau là La Lập Như, chàng cụt tay. Thanh Thanh sầm ngay nét mặt lại.
Uyển Nhi nói với Thừa Chí rằng:
– Viên tướng công, tiểu muội được Tướng công ra tay tương trợ, trả được đại thù. Sáng sớm ngày mai, tiểu muội định về Kim Linh ngay. Ngày nọ, hồi cha tôi chưa bị ám toán, rất khâm phục tài Tướng công. Đồng thời Tướng công lại truyền võ cho La sư huynh tôi như vậy Tướng công cũng như sư phụ của La sư huynh. Hiện giờ hai chúng tôi có một việc yêu cầu Tướng công giúp cho.
Thừa Chí hỏi:
– Việc gì mà vội thế? Để ra khỏi cung điện nhà vua hãy hay.
Uyển Nhi nói:
– Chúng tôi mong Tướng công đứng lên làm chủ hôn, gả tiểu muội cho La sư huynh.
Nàng vừa nói dứt lời, Thừa Chí và Thanh Thanh đều ngạc nhiên. La Lập Như lại càng kinh ngạc hơn nữa, líu lưỡi một hồi lâu mới nói được:
– Sư… sư muội… Nói gì thế?
Uyển Nhi nói:
– Anh không ưa tôi hay sao?
La Lập Như đáp:
– Tôi… tôi…
Thanh Thanh hớn hở vô cùng, cười:
– Vui quá, tôi mừng cho hai vị giai nhân nhé!
Thừa Chí biết Uyển Nhi muốn biện bạch sự thanh bạch của mình cho nên nàng đề nghị chịu hạ giá người sư huynh cụt tay như vậy. Mục đích của nàng để làm cho Thanh Thanh khỏi nghi ngờ và cũng để báo đáp ơn nghĩa của mình. Nghĩ tới đó, Thừa Chí cảm động vô cùng. Thanh Thanh lúc này cũng biết rõ ý nghĩa đòi lấy sư huynh của Uyển Nhi rồi, nàng hổ thẹn vô cùng, liền nắm tay Uyển Nhi nói:
– Cô em, vừa rồi tôi trót vô lễ với cô, cô đừng giận tôi nhé?
Uyển Nhi đáp:
– Em đâu dám trách cứ chị!
Nghĩ đến lời nhiếc móc của Thanh Thanh hồi nãy nàng bỗng nức nở khóc. Thanh Thanh cũng khóc theo.
Bỗng bên ngoài có tiếng chân người đi tới. Lần này hình như có bảy tám người tới nơi. Thừa Chí vội ra hiệu cho họ im lặng. La Lập Như nhảy xổ tới đẩy cửa sổ ra, chỉ thấy Hà Thiết Thủ quát tháo:
– Ai là Giáo chủ?
Hà Hồng Dược nói:
– Cháu không theo quy luật của giáo ta hành sự, ta là người đã vái qua Giáo tổ, có quyền đứng lên bầu Giáo chủ khác.
Lại có tiếng một người đàn ông nói:
– Tên tiểu tử là kẻ thù của bổn giáo, Giáo chủ sao cứ bảo vệ y như vậy?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Ta cấm các người vào bên trong. Ai táo gan cứ bước lên đi?
Lại có tiếng một người đàn ông giọng ồ ồ nói:
– Chúng ta hãy vào bố trí tên tiểu tử kia trước, rồi thanh toán việc nội bộ của chúng ta.
Tiếng chân đi tới cửa, chỉ nghe một tiếng kêu, tiếng một người ngã xuống đất, chắc người đó bị Hà Thiết Thủ đả thương.
Thừa Chí phẩy tay gọi ba người mau mau ra ngoài điện. La Lập Như đi trước, nhảy qua cửa sổ, Uyển Nhi và Thanh Thanh nhảy theo sau. Lúc ấy bên ngoài đang có mấy người đang đứng hằm hè với nhau. Thì ra Ngũ Độc giáo tàn sát lẫn nhau, đang đấu với Hà giáo chủ. Đánh được ít lâu, bỗng nghe “đùng” một tiếng, một người đạp cánh cửa mở toang xông vào.
Thừa Chí chỉ thoáng một cái đã nhảy ra khỏi cửa sổ rồi. Người đó trông thấy bóng của Thừa Chí liền kêu la:
– Mau vào đây, mau vào đây, tên tiểu tử đã chạy mất rồi!
Hà Thiết Thủ cũng giựt mình kinh hoảng. Mọi người liền ngừng tay không đánh nữa, xông cả vào trong phòng, thấy cửa sổ mở toang, trên giường đã vắng bóng người. Hà Thiết Thủ liền nhảy ra ngoài cửa sổ, thân pháp của nàng đã nhanh, nhỡn lực lại tốt, chỉ thấy một cái bóng xám chui vào bụi cây trước mặt. Nàng muốn đuổi theo để hộ tống Thanh Thanh ra khỏi cung, để tránh khỏi bộ hạ mình hạ độc thủ. Ngờ đâu bóng người đó chỉ trong chớp mắt đã xuyên qua mấy lớp cung điện rồi, và ẩn mặt vào trong một cung điện tường đỏ ngói xanh.
Thấy Hà Thiết Thủ theo riết như vậy, Thừa Chí nghĩ: “Hiện giờ bọn Thanh Thanh đi xa lắm, ta phải dẫn nàng này chạy một lát nữa.”
Nghĩ đoạn, chàng chạy quanh co, để cho Hà Thiết Thủ đuổi theo. Một lát sau, chàng đoán chắc ba người đã ra khỏi ngoài cung rồi, thấy phía trước mặt có một cung điện rất tinh nhã, liền chạy thẳng vào trong đó. Vừa vào tới bên trong, chàng đã ngửi mùi thơm phảng phất, thuận tay đẩy cánh cửa ra, rồi vào núp sau cánh cửa đó. Định thần một lúc, chàng đưa mắt nhìn căn nhà đó, hai má bỗng đỏ bừng, vì thấy trong treo màn bằng gấm, trên giường màn the rũ xuống trong có chăn thêu, thảm nhung trải trong phòng màu đại hồng và thêu hoa ngũ sắc.
Trên bàng cạnh cửa sổ bày la liệt những đồ trang sức của đàn bà, xung quanh phòng bày rất nhiều đồ cổ, hình như phòng đó là phòng của một vị Vương Phi nào vậy. Thừa Chí nghĩ, núp trong phòng này không tiện lắm, đang định đi ra bỗng nghe bên ngoài cửa có tiếng chân người và tiếng cười đùa của mấy người thiếu nữ. Chàng liền nghĩ, nếu lúc này chạy ra, nhỡ gặp phải những cung nữ ấy kêu la, có phải đại loạn cung điện không? Như vậy mưu kế của bọn Tào Hóa Thuần tất phải nán lại, chưa biết chúng lại giở trò khác, có phải hỏng hết đại sự không?
Nghĩ tới đó, chàng đành phải ẩn núp vào phía sau bình phong vậy.
Cửa phòng mở rộng, nghe tiếng biết bốn người cung nữ đưa một người đàn bà vào.
Một cung nữ nói:
– Công nương đi nghỉ ngay hay còn đọc sách.
Thừa Chí nghĩ: “Thì ra nơi đây là phòng ngủ của Công chúa.”
– Thôi Công chúa nên đi nghỉ đi, đừng đọc sách nữa.
Công chúa chỉ ừ một tiếng trả lời cung nữ, rồi ngồi lên giường, giọng nói của nàng rất ẻo lả.
Một cung nữ khác nói:
– Chúng con thắp hương lên nhé?
Công chúa lại trả lời bằng một tiếng “ừ.” Một lát sau, trong phòng khói hương tỏa đầy mùi thơm ngào ngạt. Lúc này Thừa Chí cũng thấy mỏi mệt vô cùng.
Công chúa nói:
– Lấy bút vẻ của ta ra đây. Rồi các ngươi ra cả bên ngoài.
Thừa Chí hơi kinh hoàng, nghĩ thầm: “Sao giọng nói của nàng quen quen thế nhỉ?”
Đồng thời, chàng lại lo ngại vì Công chúa vẽ tranh, ít nhất cũng phải mất một giờ ba khắc mới xong. Bọn cung nữ bày những dụng cụ và giấy vẽ ra, rồi thỉnh an Công chúa và vái chào xong mới lui ra ngoài.
Lúc ấy trong phòng yên lặng như tờ, chỉ thỉnh thoảng có một vài tiếng hương trầm cháy nổ “lách cách” thôi. Thừa Chí càng phải nằm yên không dám cựa quậy. Chỉ nghe thấy Công chúa thở dài một tiếng rồi mới khẽ ngâm nga:
– Vạn lý xuân tùy trục khách lai (Xuân từ vạn dặm dồn khách tới)
Thập niên hoa tống giai nhân lão (Mười năm hoa tiễn giai nhân già)
Khứ niên hoa khai ngả di bịnh (Năm ngoái hoa nở, ta đang đau ốm)
Khứ niên đối hoa hoàn thảo thảo (Năm nay, đối diện với hoa ta vẫn chẳng hơn gì)
Nghe giọng nàng ngâm nga của nàng dịu dàng êm ái, tất nhiên nàng là một thiếu nữ rất trẻ đẹp, nhưng tại sao tâm tình của nàng lại uất ức như vậy? Đồng thời, Thừa Chí lại nhận thấy giọng nói của nàng quen thuộc lắm, ngẫm nghĩ hồi lâu, bỗng cười thầm và nghĩ rằng: “Ta là một tên thảo măng ở giang hồ, bình sanh chưa tới kinh sư bao giờ, thì khi nào ta lại được gặp vị Kim chi Ngọc diệp này? Có thể giọng nói của nàng hơi giống giọng nói của người ta quen cũng nên?”
Lúc bấy giờ, nàng Công chúa đã tới trước thư án, chỉ nghe tiếng giấy “sột soạt” chàng biết ngay là Công chúa đang vẽ, trong lòng càng buồn bực thêm, nhìn kỹ căn phòng thấy Công chúa ngồi đối diện cánh cửa ra vào, mà cửa đã khép chặt rồi, mành mành ở cửa sổ cũng buông xuống như vậy thì làm sao mà ra khỏi phòng này được?
Lại qua một lát lâu nữa, Công chúa vươn vai một cái, rồi khẽ nói:
– Phải vẽ thêm hai ba ngày nữa bức họa này mới hoàn thành. Ngày ngày ta cứ mê mẩn tâm thần nhớ nhung chàng. Chẳng hay chàng có hoài tưởng đến ta không?
Nói xong, nàng đứng dậy, để bức họa đó lên ghế, rồi kéo cái ghế đó tới gần giường khẽ nói rằng:
– Chàng ở đây với em nhé?
Nàng cởi áo lên giường nằm. Thừa Chí ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Không biết người trong bức họa là ai thế?”
Vì lòng hiếu kỳ thúc đẩy, chàng liền nhích mình ra liếc nhìn, giật mình kinh hãi…
Thì ra hình người trong bức họa không ai khác cả, lại chính là chàng. Chàng mới định thần nhìn kỹ lại, thấy nàng họa người đó mặc áo bào, mồm tủm tỉm cười, đôi lông mày xếch ngược, trông rất phong nhã. Chàng nhủ thầm: “Không phải là mình, là ai nữa?”
Thừa Chí không ngờ Công chúa họa tấm hình đó giống hệt mình như vậy, ngạc nhiên quá, không trấn tĩnh được liền thốt ra một tiếng “ủa!” rất khẽ. Nhưng tai Công chúa thính lắm, nghe phía sau có tiếng người, sự bí mật của mình bị người ta biết, liền rút cây ngọc trâm ở trên đầu xuống, không cần quay người trở lại, thuận tay nhắm chỗ có tiếng người ném luôn.
Nghe tiếng gió động, đã thấy cây ngọc trâm tới trước mặt rồi, Thừa Chí đưa tay bắt lấy cây ngọc trâm. Lúc ấy Công chúa đã quay người trở lại. Hai người đối diện nhau, đều ngạc nhiên vô cùng, ngẩn người ra một hồi khá lâu. Thì ra Công chúa là đồ đệ của Trình Thanh Trúc, nàng A Chín. Tuy ở dọc đường Thừa Chí đã trông thấy nàng có Thị vệ trong Hoàng cung đi theo bảo vệ, biết không phải là người thường, nhưng Thừa Chí không ngờ nàng lại là Công chúa.
A Chín đột nhiên trông thấy Thừa Chí, sắc mặt trắng như tuyết bỗng đỏ bừng lên rồi nói:
– Mời Tướng công ngồi xuống, chúng ta nói chuyện.
Lúc bấy giờ nàng mới cảm thấy áo ngoài đã cởi ra rồi, vớ lấy áo khoác lên người. Cung nữ ở ngoài khẽ gõ cửa và nói:
– Có phải Công nương cho gọi chúng con không?
A Chín vội nói:
– Không, ta đang đọc sách đấy thôi. Các ngươi cứ việc đi ngủ đi. Không cần phải hầu hạ ta nữa.
Cung nữ nói:
– Dạ, xin mời Công chúa nghỉ sớm.
A Chín xua tay ra hiệu bảo Thừa Chí đứng yên, mỉm cười nhìn chàng, thấy chàng liếc nhìn bức họa, nàng xấu hổ vô cùng, vội chạy lại đẩy cái ghế quay sang bên. Cả hai cùng ngẩn người ra nhìn nhau, không ai biết nói gì cho phải.
Một lát sau, Thừa Chí đã trấn tĩnh lại nên khẽ nói:
– Công chúa có quen biết những người của Ngũ Độc giáo không?
A Chín gật đầu trả lời:
– Tào công công nói, Lý Sấm phái rất nhiều thích khách đến kinh sư quấy rối cho nên ông ta mới mướn một nhóm hảo thủ giang hồ vào cung bảo vệ, nghe nói võ nghệ của Hà Thiết Thủ, Giáo chủ Ngũ Độc giáo có vẻ rất cao cường.
Thừa Chí nói:
– Sư phụ của Công chúa là Trình lão phu tử bị chúng đả thương, chẳng hay Công chúa có biết không?
A Chín biến sắc mặt hỏi:
– Gì hả? Tại sao chúng lại đả thương sư phụ tôi? Ông ta bị thương có nặng không?
Thừa Chí nói:
– Không nặng lắm, Công chúa cứ yên tâm.
Chàng đứng dậy nói tiếp:
– Bây giờ đêm khuya lắm rồi, không tiện nói nhiều. Chúng tôi hiện giờ ở đường Chính Điền Tử, ngày mai Công chúa có thể tới thăm Trình sư phụ không?
A Chín nói:
– Cũng được.
Nàng trầm ngâm một lát lại nói tiếp:
– Tôi rất cám ơn Tướng công đã mạo hiểm tới đây thăm tôi.
Nàng tỏ vẻ bẽn lẽn càng nói càng nhỏ:
– Tướng công đã trót trông thấy tôi họa dung nhan của Tướng công tất nhiên đã biết tâm sự của tôi ra sao rồi.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Nguy to, nàng vẽ hình ta, có lẽ trong lòng nàng đã ái một ta. Lúc này lại hiểu lầm ta vào trong cung mục địch là tới thăm nàng. Việc này ta phải nói rõ ra mới được.”
A Chín lại nói:
– Hồi đánh nhau ở Sơn Đông, Tướng công đã ngăn cản Chữ Hồng Liễu cứu tôi thoát khỏi tai họa. Lúc nào tôi cũng nhớ tới ân đức của Tướng công… Tướng công xem tấm hình này vẽ có giống không?
Thừa Chí gật đầu nói:
– Thưa Công nương, tôi vào trong cung là…
A Chín vội ngắt lời chàng:
– Tướng công đừng có gọi tôi là Công nương, và tôi cũng không gọi Tướng công là Viên tướng công nữa. Lần đầu tiên gặp tôi, tôi là A Chín, như vậy tôi bao giờ cũng là A Chín. Tôi nghe chị Thanh Thanh gọi Tướng công là đại ca, trong bụng tôi nghĩ, ngày nào tôi được gọi Tướng công là đại ca, tôi mới sung sướng. Từ khi ra đời tới giờ, Khâm Thiên Giám đại thần lấy lá thơ cho tôi bảo rằng nếu tôi mà sống quá sung sướng trong cung thất sẽ bị chết yểu cho nên Phụ hoàng mới sai tôi bước chân vào chốn giang hồ, đi đây đi đó, học tập võ nghệ để phòng thân.
Thừa Chí nói:
– Thảo nào, cô theo Trình lão phu để học võ, và còng theo ông ta hành tẩu giang hồ.
A Chín nói:
– Ở bên ngoài, tôi kiến thức rất nhiều mới biết nhân dân quả thực cực khổ, tuy tôi vẫn đem vàng bạc ra phát chẩn, nhưng cứu giúp làm sao cho xuể tất cả người nghèo khổ trong nước?
Thấy nàng biết thương người nghèo khổ, Thừa Chí liền có thiện cảm với nàng rồi nói:
– Nếu vậy, cô nên khuyên hoàng thượng thi hành nhân chính, để cho dân chúng được no ấm, thì thiên hạ sẽ thái bình ngay.
A Chín thở dài rồi nói:
– Nếu Phụ hoàng tôi chịu nghe lời khuyên can thì may mắn rồi. Cha tôi bị bọn gian thần xu nịnh, việc gì cũng tưởng mình làm như vậy là phải.
Thừa Chí nói:
– Cô trông thấy nhiều, nghe nhiều, nên kiến thức của cô còn sáng suốt hơn Hoàng thượng…
Chàng vừa nói vừa nghĩ, không biết có nên nói vụ gian mưu của Tào Hóa Thuần cho nàng nghe không?
A Chín bỗng nói:
– Trình lão phu tử có nói rõ chuyện của tôi ra không?
Thừa Chí đáp:
– Không ông ta đã thề nguyền nặng, không thể tiết lộ thân thế của cô cho ai hay. Lúc ấy tôi lại tưởng là có liên can tới mối thù hằn ân oán rất lớn ở trên giang hồ, chớ tôi có ngờ đâu cô lại là Công chúa cơ chứ?
A Chín mỉm cười nói:
– Trình sư phụ vốn dĩ là Thị vệ cận thần của Phụ hoàng rất trung thành với cha tôi. Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
– Ông ta là Thị vệ thật ư?
A Chín nói:
– Lúc Phụ hoàng tôi còn là Thái tử ở Tín Vương phủ, Trình sư phụ đã là Thị vệ trưởng rồi. Sau Tiên hoàng băng hà, Phụ hoàng tôi vào cung lên ngôi Cửu ngũ. Hồi ấy trong cung cũng như trong triều đình đều là thân tín của Ngụy Trung Hiền cả, Ngụy Trung Hiền gian tặc bấy giờ nguy hiểm lắm, Phụ hoàng và vệ sĩ ngày đêm không dám ngủ, ăn uống cái gì cũng phải sai Thị vệ sang Tín Vương phủ lấy chớ không dám động chạm một tí gì ở trong cung cả. Tên gian thần Ngụy Trung Hiền mấy lần muốn hãm hại Phụ hoàng, nhờ có Trình sư phụ và Tào công công phòng bị chu mật, mới thoát khỏi cơ nguy. Cho nên Phụ hoàng tôi rất tin cậy Tào Hóa Thuần tức Tào công công là thế!
Thừa Chí nói:
– Có khi cũng không thể tin cậy được.
A Chín nói:
– Cũng vì thế mà Trình sư phụ với Tào công công không bằng lòng nhau.
Thừa Chí hỏi:
– Có phải vì thế mà sư phụ phải ra khỏi cung điện này không?
A Chín nói:
– Không phải vì Tào công công mà là vì chuyện Viên Sùng Hoán thì đúng hơn.
Nghe thấy A Chín nói tới tên cha mình, Thừa Chí giựt mình vội hỏi:
– Tại sao vậy?
A Chín nói:
– Lúc ấy tôi còn chưa ra đời, nghe Trình sư phụ nói. Viên Sùng Hoán là Đại soái ở ngoài Quan ải chống đỡ bọn Mãn Châu xâm lăng, lập được rất nhiều công lao. Sau người Mãn Châu lập kế phản gián phao đồn Viên đại soái định mưu phản. Thế rồi Phụ hoàng tôi hồ đồ quá, hạ chỉ giết ông ta. Biết Viên đại soái bị oan, Trình sư phụ cố cãi cho ông ta. Đang lúc Phụ hoàng tôi tức giận, thuận tay tát luôn sư phụ tôi một cái. Vì vậy sư phụ tôi tức giận mà ra khỏi cung điện này và thề từ đó trở đi không gặp Phụ hoàng tôi nữa.
Thừa Chí vừa cảm kích vừa đau lòng, nước mắt đã chảy quanh vành mắt.
A Chín lại nói:
– Trình sư phụ nói, Phụ hoàng không biết ai gian ai trung, tự làm hư hỏng Trường thành. Quốc gia này sẽ mất bở tay Phụ hoàng tôi. Mấy năm sau, Phụ hoàng tôi hối hận, nghe nói nếu để tôi ở trong cung này sẽ phải chết yểu, liền sai người đưa tôi đi theo sư phụ tôi. Hà! Không hiểu tại sao sư phụ tôi lại kết thù kết oán với Ngũ Độc giáo như vậy?
Thừa Chí đang định nói rằng: “Ngũ Độc giáo định hãm hại cha cô, biết Trình lão phu tử vẫn trung thành với Hoàng thượng, nên chúng định diệt trừ ông ta đi.”
Bỗng ngẩng đầu trông thấy cây nến đã cháy mất một nửa rồi, chàng liền nghĩ, thời cơ đã cấp bách lắm rồi, ta không thể ở lại đây nói chuyện với nàng nữa, vội đứng dậy nói:
– Tôi còn nhiều chuyện muốn nói cô hay nhưng để ngày mai hãy đàm thoại sau.
A Chín cúi đầu từ từ khẽ gật một cái, bỗng có người tới gõ cửa rất gấp. Mấy người đồng thời kêu gọi:
– Công chúa mở cửa mau?
A Chín giựt mình hỏi:
– Việc gì thế?
Một tên cung nữ gọi:
– Công chúa có sao không?
A Chín trả lời:
– Không việc gì đâu, ta đi ngủ rồi.
Cung nữ đó lại nói:
– Có người trông thấy có thích khách đã ẩn núp vào thâm cung của Công chúa đấy.
A Chín đáp:
– Chớ có nói bậy, có thích khách đâu?
Lại một cung nữ nữa nói:
– Thưa Công chúa, cho phép chúng con vào xét qua xem?
Thừa Chí rỉ tai A Chín nói:
– Hà Thiết Thủ đấy!
A Chín lớn tiếng đáp:
– Có thích khách vào đây, tôi làm được bình yên thế này? Mau đi, đừng ở đây quấy nhiễu nữa.
Cung nữ và mọi người ở bên ngoài nghe Công chúa nổi giận không dám nói nữa.
Thừa Chí rón rén chạy tới cạnh cửa sổ, mở một góc màn cửa lên định nhảy ra, ngờ đâu tay vừa động một cái, đã thấy ánh sáng lửa chói mắt rồi. Thì ra bên ngoài cửa sổ có mười mấy tên Thái giám tay cầm đuốc đang đứng canh gác.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Bây giờ ta định xông ra, ai có thể ngăn cản được ta đâu? Nhưng làm như vậy có hại đến thanh danh của Công chúa, không thể được.”
Nghĩ đoạn, chàng lui lại rỉ tai A Chín nói rõ sự thể.
A Chín cau mày, khẽ nói:
– Không sợ, Tướng công cứ ở lại đây một lát nữa cũng không sao.
Thừa Chí đành phải ngồi xuống chờ vậy.
Qua một lát sau, lại có người gõ cửa, A Chín quát lớn:
– Làm gì thế?
Lần này người gõ cửa lại là Tào Hóa Thuần, y nói:
– Hoàng thượng hay tin có thích khách vào cung, tất không yên dạ, mới sai nô tỳ tới đây vấn an Công chúa đấy ạ.
A Chín đáp:
– Không dám làm phiền tới Công công, ở đây bình yên vô sự, mời Công công về yên nghỉ đi.
Tào Hóa Thuần nói:
– Công chúa kim thể muôn ngàn, bị kinh hoàng thì phiền phức lắm. Xin Công chúa để cho nô tỳ vào tra xét qua loa thì hơn.
A Chín chắc lúc Thừa Chí vào đây có người đã trông thấy cho nên chúng mới nhứt định đòi khám xét như vậy, trong lòng tức giận Tào Hóa Thuần vô cùng. Nhưng nàng có hay đâu tối hôm ấy y muốn khởi sự mưu sát nhà vua. Y biết Công chúa giỏi võ, lại hay giao kết với nhân vật giới giang hồ. Nay y lại nghe Hà Thiết Thủ cho hay có người chạy vào thâm cung của Trường Bình công chúa, nên y mới phải thân chinh tới nơi điều tra cho ra manh mối.Y là người có quyền thế nhứt trong cung. Công chúa cũng không dám trái ý của y, vì vậy A Chín ngẫm nghĩ giây lát, liền ra hiệu bảo Thừa Chí lên giường chui vào trong chăn ẩn núp. Bất đắc dĩ, Thừa Chí đành phải cởi giầy ra, bước lên giường lấy chăn phủ lên mình, ngửi một mùi thơm xông thẳng vào trong mũi.
Lúc ấy Tào Hóa Thuần lại cứ thúc giục mãi, A Chín nói:
– Thôi được, mấy người cứ việc vào mà xem đi.
Nàng lấy tay mở cửa, rồi nhảy ngay lên trên giường lấy chăn trùm lên người. Thừa Chí đột nhiên thấy A Chín nằm ngay bên cạnh mình, áp sát vào nhau, dưới chân thì đã đụng chạm nhau, chỉ cảm thấy ấm áp mềm mại, nhưng chàng biết Tào Hóa Thuần và Hà Thiết Thủ vào trong phòng rồi, không dám cử động nữa, chỉ thấy người A Chín hơi rung động. A Chín cố làm ra bộ mới ngủ dậy, ngáp một cái thật lớn, rồi cười nói:
– Cám ơn Tào công công đã phải bận tâm tới.
Tào Hóa Thuần đưa mắt nhìn xung quanh căn phòng lượt, quả nhiên không thấy một bóng người nào cả. Hà Thiết Thủ giả bộ lỡ tay đánh rơi khăn tay xuống đất, rồi cúi xuống nhặt, để ngỏ nhìn vào gầm giường A Chín mỉm cười nói:
– Gầm giường cũng khám xét qua rồi, tôi không giấu thích khách ở trong này đấy nhé?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Công chúa minh giám cho, Tào công công sợ Công chúa kinh hãi mới phải cẩn tận như thế đấy ạ.
Nói xong, nàng quay đầu lại trông thấy tấm hình của Thừa Chí, ngẩn người giây lát, rồi vội quay đầu sang phía khác. Tào Hóa Thuần đưa mắt ra hiệu rồi nói:
– Chúng ta đi nơi khác khám xét xem.
Y lại nói với bốn người cung nữ rằng:
– Các ngươi ở đây hầu Công chúa, không được đi đâu cả nhé? Dù Công chúa có sai bảo cũng không được ra khỏi căn phòng này, nghe chưa?
Bốn tên cung nữ cúi chào và đáp:
– Chúng con nghe lời dặn bảo của Công công.
Tào Hóa Thuần, Hà Thiết Thủ và các cung nữ, Thái giám khác vái chào thỉnh an Công chúa xong, đều rút lui ra khỏi thâm cung.
A Chín nói:
– Buông màn xuống, ta phải ngủ đây.
Hai tên cung nữ tiến tới khẽ buông màn the xuống, rồi cho thêm hương trầm vào trong lư, khêu sáng ngọn nến, rồi cùng ngồi tựa lưng nhau ở góc phòng. A Chín vừa mừng vừa hổ thẹn, không ngờ bỗng nhiên lại được cùng chăn chiếu với người yêu mà mình tưởng bấy lâu nay. Nàng nằm yên không nói năng gì, chỉ trầm túy trong canh ngộ như một giấc mơ tình êm đẹp nhưng nàng không dám quay trở lại. Một lát sau, Thừa Chí khẽ nói:
– Biết làm sao bây giờ đây? Phải nghĩ cách cho tôi ra khỏi đây chứ?
A Chín chỉ ừ một tiếng thôi. Ngửi hơi đàn ông ở người Thừa Chí đưa ra, nàng cảm thấy một luồng hỷ ý xông thẳng vào trái tim, ngọt ngào biết bao. Nàng khẽ lui vào phía Thừa Chí, bỗng rụt lại, vì tay và đùi trái đụng phải cái gì lạnh như tuyết. Nàng giựt mình kinh hãi, giơ hai tay ra sờ, mới hay đó là một thanh kiếm đã rút ra khỏi bao, đặt ngang giữa hai người, vội khẽ hỏi:
– Cái gì thế?
Thừa Chí đáp:
– Tôi nói ra, cô đừng có trách cứ nhé?
A Chín nói:
– Có ai dám trách đại ca đâu?
Thừa Chí nói:
– Tôi vô ý đột nhập thâm cung của cô, lại bị hoàn cảnh bắt buộc phải cùng chăn chiếu, dưới tình thế này, tôi phải tỏ rõ không phải là con người kinh bạc vô lễ, nên mới rút kiếm ra để ngăn ngừa như vậy.
A Chín nói:
– Ai trách anh đâu? Mau bỏ thanh kiếm ra nơi khác, đừng để nó đâm phải da thịt tôi.
Thừa Chí nói:
– Tuy đã dùng lễ phép để tự giữ nhưng dù sao tôi cũng là thanh niên nam tử nằm chung giường với một thiếu nữ đẹp đẽ như cô chỉ sợ tôi không sao giữ nỗi…
A Chín khẽ cười nói:
– Cho nên anh mới lấy thanh kiếm để ngăn ngừa phải không? Trời ơi, sao ngốc thế đại ca tôi ơi?
Hai người nói chuyện chỉ sợ bọn cung nữ nghe, cứ phải chui vào trong chăn khẽ nói bên tai nhau. Thừa Chí ngửi hơi thở của A Chín thơm tho như mùi hoa lan, lòng bỗng ngây ngất, liền tự cảnh thích ngầm ngay, và nghĩ thầm: “Chú Thanh đối với ta thâm tình như vậy, ta chớ nên có tà niệm gì ở nơi đây!”
Nghĩ đoạn, chàng vội nói:
– Thành Vương gia là người bà con thế nào của cô?
A Chín đáp:
– Ông ta là chú ruột của tôi.
Thừa Chí nói:
– Thảo nào, bọn chúng định đưa ông ta lên cướp ngôi báu. Việc này cô có biết không?
A Chín nói:
– Việc gì thế? Ai định cướp ngôi hả anh?
Thừa Chí nói:
– Tào Hóa Thuần tư thông với Cửu vương bên Mãn Châu, muốn mượn quân Mãn Châu vào trong Quan ải để tiểu trừ quân Sấm Vương.
A Chín nói:
– Hừ, người Mãn Châu có tử tế gì đâu? Chúng cũng muốn cướp được Đại Minh giang san này đấy chớ?
Thừa Chí nói:
– Đúng thế, vì vậy Hoàng thượng mới không nhận lời mượn quân nên bọn Tào Hóa Thuần mới ủng hộ Thành Vương lên chiếm ngôi.
A Chín nói:
– Đúng thế, Thành Vương rất u mê hồ đồ, thể nào cũng nhận lời mượn quân ngoại quốc để diệt giặc.
Thừa Chí nói:
– Tôi e tôi nay chúng sửa soạn khởi sự đấy.
A Chín kinh hãi nói:
– Sao anh không cho hay sớm? Chúng ta mau đi cứu Phụ hoàng đi?
Thừa Chí nhắm mắt làm thinh, trong lòng đang phân vân, vì vua Sùng Chính là kẻ thù giết cha của chàng, mười mấy năm nay, chàng mong mỏi có ngày được chính tay mình giết chết kẻ thù, để trả mối huyết hải trầm oan đó. Lúc này trong cung bỗng khơi nội biến, mình sẽ không tốn hơi sức mà giết được kẻ thù ngay, đó là một cơ hội rất tốt. Nhưng gian mưu của bọn Tào Hóa Thuần mà thành công, mượn được quân Mãn Châu nhập quan thì vụ khởi nghĩa của Sấm Vương sẽ bị ảnh hưởng lớn. Nếu quân Mãn Châu đánh thẳng vào mà Sấm Vương không địch nổi, như vậy có phải cả đất nước cũng bị trầm luân vào tay địch không? Chàng đang nghĩ thì A Chín khẽ đẩy vai chàng và nói:
– Anh nghĩ gì thế? Mau giúp tôi đi cứu Phụ hoàng đi?
Thừa Chí vẫn chưa dám giải quyết ra sao, A Chín lại thúc giục:
– Quý hồ anh không quên tôi thì dù sao tôi vẫn là người của anh… Chúng ta sau này còn có nhiều ngày giờ như thế này.
Thừa Chí giựt mình, nghĩ thầm: “Không ngờ nàng lại hiểu lầm, tưởng ta ham mê sự vui vầy chăn gối không chịu đứng dậy. Thôi được, ta hãy đi xem tình thế ra sao đã.”
Nghĩ đoạn, chàng liền khẽ nói:
– Cô ra điểm huyệt hết bọn cung nữ rồi lấy chăng phủ lên đầu chúng, thì chúng ta mới đi được.
A Chín nói:
– Phải điểm ở chỗ yếu huyệt nào? Anh nói cho tôi biết tôi mới hiểu chớ?
Bất đắc dĩ, Thừa Chí phải kéo tay nàng, sờ vào đầu cái xương sườn thứ mười một ở trước ngực mình, để cho nàng biết nên điểm nơi yếu huyệt đó.
Trong lúc cầm tay nàng, Thừa Chí chỉ thấy tay nàng mềm mại như không có xương vậy, liền nói:
– Đây là Chưởng Môn huyệt, cô dùng đốt ngón tay gõ vào bộ vị này của các cung nữ một cái là chúng chỉ chết giấc ngay. Nhưng cô chớ có gõ mạnh quá mà chúng bị toi mạng oan đấy!
A Chín lo lắng cha mình đang lâm vào thế nguy, vội xuống giường tức thì. Bốn tên cung nữ đều đứng dậy hỏi:
– Công chúa muốn lấy gì thế?
A Chín đi tới phía sau bình phong, rồi gọi từng tên cung nữ vào đó và theo lời dặn bảo của Thừa Chí mà điểm huyệt hết tên này tới tên khác. Tới người chót, vì gõ sai nơi yếu huyệt một tí, tên cung nữ đó liền kêu la ầm ỹ, A Chín vội bịt miệng và điểm huyệt lại lần nữa mới điểm được tên cung nữ đó chết giấc đi. Thừa Chí đã xuống giường mang giày rồi. Hai người mở tấm mành cửa sổ lên xem thấy bên ngoài không có người canh cửa, liền nhảy qua cửa sổ đi luôn.
A Chín nói:
– Anh cứ theo tôi mà đi.
Nàng dẫn Thừa Chí đi thẳng tới thâm cung của vua Sùng Chính. Sắp tớ cửa cung, xa xa đã trông thấy phía trước bóng người lấp ló rất đông, có ước chừng bảy trăm người tụ tập nơi đó.
A Chín vội nói:
– Gian tặc đã bao vây thâm cung của Phụ hoàng tôi rồi, chúng ta phải mau mau tiến lên mới được.
Hai người liền rảo cẳng chạy lên, mới đi được mấy trượng đã thấy một tên Thái giám tiến lại đón đường. Tên nọ thấy Trường Bình công chúa, tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng chỉ thấy nàng đem theo một người tùy tòng thôi, y liền điềm tĩnh ngay và cúi chào hỏi:
– Công chúa còn chưa an nghỉ ư?
Trông thấy xung quanh thâm cung bao vây đầy những Thái giám và Thị vệ, người nào người nấy đều tay cầm khí giới. Thừa Chí và A Chín biết sự thể đã nguy cấp lắm rồi.
A Chín nói:
– Tránh ra!
Nàng dùng tay phải đẩy tên Thái giám đó sang bên rồi xông thẳng tới cửa cung. Mấy tên thị vệ canh gác cửa cung định ngăn cản đều bị Thừa Chí đẩy lui sang hai bên, Thái giám không dám dụng võ với hai người, cấp tốc báo cho Tào Hóa Thuần biết, Trường Bình công chúa đã tiến vào thâm cung của Hoàng thượng. Con người gian trá Tào Hóa Thuần âm độc có dư, can đảm bất túc. Lần này y ủng hộ Thành Vương thoán vị, nhưng tự mình không dám xuất đầu lộ diện, chỉ lén lút ở bên ngoài chỉ thị thôi. Nên y bỗng nghe nói Công chúa vào trong cung vua, liền nghĩ: “Nàng là đàn bà, và chỉ có một mình, như vậy cũng chẳng làm nổi trò trống gì.”, liền truyền lệnh cho vệ sĩ phòng thủ cẩn mật thêm.
A Chín và Thừa Chí tiến thẳng vào thư phòng mà vua Sùng Chính ngày thường vẫn phải duyệt các sớ tấu, đã thấy mười mấy tên Thái giám và Vệ sĩ đang đứng canh gác tại cửa phòng, ở dưới đất đầy những vết máu tươi, cùng mấy cái xác chết của cácThị vệ trung thành với nhà vua. Mọi người thấy Công chúa tới đều ngẩn người ra. A Chín cứ việc kéo tay Thừa Chí vào thẳng trong phòng. Một tên vệ sĩ quát lớn:
– Khoan đã!
Y giơ đao nhắm cánh tay phải của Thừa Chí chém xuống. Né mình sang bên, Thừa Chí đồng thời dùng chưởng đánh luôn vào ngực kẻ địch. Tên Vệ sĩ ấy ngã bắn ra xa liền. Thừa Chí nhanh tay khóa trái cửa phòng lại.
Lúc ấy trong phòng đèn nến sáng choang, có mười người đang đứng ở đó. A Chín kêu gọi một tiếng:
– Phụ hoàng!
Nàng tiến thẳng tới người mặc áo bào đoạn vàng. Thừa Chí thấy người đó mặt gầy gò, đầy vẻ kinh hãi tức giận, liền nghĩ thầm: “Người này là kẻ thù giết cha ta là vua Sùng Chính đây.”
A Chín chưa đi tới cạnh cha, đã có hai tên đại hán giơ đao ra ngăn cản. Sùng Chính bỗng thấy con gái tới, liền nói:
– Con đến đây làm gì? Mau ra ngoài kia đi?
Một tên trạc độ bốn mươi tuổi, mặt đầy râu ria, người béo mập nói:
– Quân giặc đã phá tan thành Phần Châu và Thái Nguyên rồi, chỉ nay mai chúng sẽ đánh tới kinh sư này. Bệ hạ không chịu mượn binh để dẹp giặc? Chẳng hay hoàng huynh đã có mưu kế gì thế?
A Chín nổi giận nói:
– Hoàng thúc sao dám vô lễ với Hoàng thượng như vậy?
Thừa Chí mới hay người đó là Thành Vương, kẻ định thoán ngôi vua.
Thành Vương cả cười nói:
– Vô lễ ư? Ông ta định làm mất giang sơm cẩm tú của tổ tiên truyền lại. Phàm là con cháu nhà họ Chu, đều có quyền hỏi đến.
– Thế nào? Anh đã quyết định chưa?
Sùng Chính chỉ thở dài, rồi nói:
– Trẫm vô đức vô năng mới khiến thiên hạ đại loạn như vậy. Để quân giặc đánh tới kinh sư tất nhiên xã tắc tan nát ngay. Còn mượn quân Mãn Thanh vào trong Quan ải thì cũng nguy tới quốc gia. Trẫm không hối tiếc gì khi đem cái chết ra tạ tội với quốc dân, nhưng trẫm chỉ ân hận giang sơn cơ nghiệp của tổ tiên để lại, từ đây sẽ phải nhượng cho người khác…
Phản Vương lăm lăm thanh kiếm chỉ thẳng vào vua Sùng Chính rồi tiến lên một bước nói:
– Đã biết vậy, anh phải lập ngay chiếu chỉ nhường ngôi cho người hiền đi!
Sùng Chính run bẩy bẩy quát lớn:
– Ngươi muốn thí quân phải không?
Thành Vương đưa mắt ra hiệu, một tên Cẩm Y Vệ quân rút luôn trường đao ra quát lớn:
– Hôn quân vô đạo, nhân dân ai ai cũng có quyền diệt trừ!
Nghe giọng nói hơi quen, Thừa Chí giựt mình, dưới ánh sáng đèn, chàng nhìn kỹ người đó mới hay là chồng của An đại nương, tên An Kiếm Thanh.
A Chín nổi giận quát mắng, cướp chiếc ghế, xông lên che chở cho Phụ hoàng và đỡ luôn ba đao của An Kiếm Thanh. Những Thị vệ theo Thành Vương tới đều xông cả lên. Thấy A Chín cầm cự không nổi, Thừa Chí xông vào giữa đám đông, giơ tay trái hất hai tên thị vệ bắn ra xa hơn một trượng, tay phải rút Kim Xà kiếm ra đưa cho A Chín sử dụng, rồi đứng cạnh Sùng Chính để bảo vệ. Mười mấy tên Cẩm Y Vệ xông lên tấn công định chém nhà vua nhưng đều bị Thừa Chí đấm đá gẫy chân, trẹo tay. A Chín có bảo kiếm trong tay trở nên oai phong vô cùng, chỉ mấy thế kiếm đã chém gãy thanh trường đao của An Kiếm Thanh.
Thành Vương không ngờ vua Sùng Chính lại có người võ nghệ cao cường như thế bảo giá, vội kêu lên:
– Những người còn ở bên ngoài vào cả đây ngay!
Hà Thiết Thủ, Hà Hồng Dược, Lã Nhị tiên sinh và anh em họ Ôn nghe lời gọi xông vào liền. Chúng thấy Thừa Chí ở trong đám đông tả xông hữu đột như sinh long hoạt hổ vậy, ai nấy đều ngẩn người ra.
Bỗng chợt có tiếng kêu:
– Chúng ta hãy hạ tên tiểu tử này trước!
Bốn anh em họ Ôn tiến lên bao vây. A Chín vội lui tới cạnh cha, nhờ có thanh bảo kiếm, các thủ hạ của Phản Vương nhứt thời không dám tiến lại gần. Nhưng nàng thấy kẻ địch càng ngày càng tới quá đông mà Thừa Chí đang bị mấy tên hảo thủ của đối phương quây quần, không sao rảnh tay ra giúp đỡ mình được, tình thế thật là nguy cấp vô cùng. Trong lúc nàng đang lo ngại, bỗng thấy một mụ già ăn mặc lối hành khất, mắt lộ hung quang, giơ hai tay lên, lộ ra mười cái móng sắc nhọn, quát lớn:
– Trả thanh Kim Xà kiếm đây!
Lúc này Thừa Chí đã quyết định rồi, dù sao cũng phải cứu nhà vua ra khỏi cảnh nguy hiểm để phá âm mưu dẫn binh Mãn Thanh nhập quan của Tào Hóa Thuần mới không thành công, chờ đến khi Sấm Vương đánh tới Kinh sư, mới ra tay giết chết Sùng Chính trả thù cho cha cũng chưa muộn. Chàng định như vậy là muốn giữ đại nghĩa, tiên quốc hậu gia, tiên công hậu tư. Nhưng anh em họ Ôn võ nghệ cao cường vô cùng, lại thêm Lã Nhị tiên sinh và Hà Thiết Thủ, thì tất nhiên chàng tự giữ lấy thân đã khó rồi. Trong lúc bối rối, chàng đưa mắt trông thấy A Chín đầu tóc rũ rượi, tay múa bảo kiếm loạn xạ, bọn Cẩm y vệ ở ba mặt tiến lên bao vây. Đang lúc nguy cơ, chàng sực nghĩ ra một kế, tránh hai thế tấn công của Lã Nhị tiên sinh và Ôn Minh Sơn tiến tới trước mặt Hà Thiết Thủ. Vừa lúc đó Hà Thiết Thủ nhìn Thừa Chí cười:
– Nhiều người tấn công như thế này thực không phải lắm. Xin lỗi nhé?
Nói xong, nàng thuận tay bổ luôn một cái móc. Thừa Chí né đầu tránh, quát lớn:
– Chẳng lẽ Giáo chủ đành tâm để mấy chục tên giáo hữu chết hết hay sao?
Hà Thiết Thủ giựt mình, nhảy luôn ra khỏi vòng chiến, Thừa Chí theo liền. Bốn anh em họ Ôn khi nào chịu để yên. Ôn Minh Đạt múa xong, nhắm sau lưng chàng đánh xuống, Thừa Chí liền bảo với Hà Thiết Thủ rằng:
– Cô ngăn cản bọn chúng hộ tôi.
Hà Thiết Thủ hỏi:
– Cái gì?
Thừa Chí vừa né tránh khí giới tấn công của anh em họ Ôn và Lã Nhị tiên sinh, vừa lớn tiếng bảo với Hà Thiết Thủ rằng:
– Tôi đưa cô đi gặp chú em họ Hạ của tôi ngay.
Từ khi gặp Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ đem lòng yêu tha thiết. Lúc này nàng nghe thấy Thừa Chí bảo dẫn đi gặp người yêu, trái tim đập mạnh, trong lúc khẩn cấp, không suy xét gì cả, quay lại giơ trái bổ luôn một móc vào đầu Ôn Minh Ngô. Không ngờ bỗng dưng nàng lại phản thủng như vậy, Ôn Minh Ngô kinh hãi quá, vội quay roi da lại đỡ móc sắt đó. Nhưng thế công của Hà Thiết Thủ lợi hại vô cùng, liên hoàn ba móc, cánh tay trái Minh Ngô đã bị móc sướt rồi, chất độc trên đầu móc rất mãnh liệt, chỉ trong giây phút, mặt Minh Ngô đã tái mét, cánh tay đã to gấp đôi. Y loạng choạng suýt ngã, tay phải cứ dụi hai mắt, lớn tiếng la:
– Tôi không trông thấy gì rồi… tôi đã trúng độc…
Lo trông nom cho anh hơn là đuổi đánh kẻ địch, ba anh em họ Ôn vội chạy lại đỡ Minh Ngô. Lúc này Thừa Chí mới rảnh tay, thấy chất độc ở cái móc sắt của Hà Thiết Thủ lợi hại như vậy cũng phải kinh hãi thầm. Chàng quay lại thấy A Chín đang cầm cự với Hà Hồng Dược và An Kiếm Thanh, càng đánh càng đuối sức sắp bị đối phương hạ độc thủ. Chàng liền phi thân lại túm lưng mụ ăn xin ném ra ngoài. An Kiếm Thanh ngẩn người ra nhìn bị A Chín thừa cơ đâm luôn một kiếm vào đùi non bên trái, ngã lăn ra đất. Bên này Hà Thiết Thủ đánh với Lã Nhị tiên sinh hăng hái vô cùng. Thấy Ôn Minh Ngô trúng độc thảm trạng như vậy, Lã Nhị tiên sinh kinh hãi không dám ham chiến liền mượn thế nhảy ra ngoài vòng lớn tiếng nói:
– Lão phu không có thì giờ tiếp chiến nữa.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Lã Nhị tiên sinh, chúng ta sẽ tái ngộ sau!
Lúc ấy chất độc đã ngấm, Ôn Minh Ngô đã mất tri giác. Thấy tình trạng trúng độc của Ôn Minh Ngô cũng giống hệt xưa kia Kim Xà Lang Quân hạ độc thủ nên cả ba cùng hãi sợ. Minh Đạt liền đưa mắt ra hiệu Minh Nghĩa ẵm Minh Ngô lên. Rồi Minh Đạt đi đầu dẫn đường, Minh Sơn đi đoạn hậu, cùng xông thẳng ra ngoài cung. Hà Thiết Thủ đuổi ra theo, ném một gói thuốc độc, rồi kêu:
– Thuốc giải độc đây, mau đón lấy.
Ôn đạt liền đón luôn gói thuốc đó, Hà Thiết Thủ đứng nhìn theo một hồi mới quay trở lại.
Thế là thế công và thế thủ đổi ngược, tình thế do đó thay đổi hẳn. Thừa Chí và A Chín đánh Cẩm Y vệ thấi linh bát lạc, bỏ chạy tán loạn.
Cửa điện mở lớn, đột nhiên Tào Hóa Thuần thống lãnh một nhóm Cẩm vệ binh xông thẳng vào. Thấy kẻ địch thế mạnh hơn, Thừa Chí liền gọi:
– Công chúa, Hà giáo chủ, chúng ta bảo vệ Hoàng thượng xông ra.
A Chín và Hà Thiết Thủ nhận lời ngay. Ba người tới đứng xung quanh Sùng Chính, đang định cướp đường chạy về phía trước, Tào Hóa Thuần bỗng nhiên gọi rằng:
– Quân gian tặc táo gan thật, dám kinh động tới Ngự giá. Quân bây, mau giết chết mấy tên gian tặc này cho ta.
Nhóm Cẩm vệ binh xông lên đánh với bọn Cẩm Y vệ liền. Thành Vương sợ hãi quá, ngẩn người ra giây lát, mới kêu gọi:
– Tào công công… Công công với ta…
Thành Vương chưa nói dứt lời đã bị Tào Hóa Thuần đâm luôn một nhát kiếm xuyên qua giữa ngực. Sự thể thay đổi quá đột ngột như vậy, không những bọn Cẩm Y vệ hoảng kinh, thất sắc, mà ngay cả Thừa Chí, Hà Thiết Thủ và A Chín ba người cũng ngạc nhiên vô cùng. Riêng có vua Sùng Chính trong lòng khen ngợi thầm Tào Hóa Thuần trung nghĩa.
Thì ra Tào Hóa Thuần ở bên ngoài thám thính tin tức, biết đại sự đã hỏng hết rồi, mưu gian thí quân không xong, mới nghĩ ra một kế khác, thống lãnh ngay nhóm Cẩm Vệ binh vào trong thâm cung cứu giá. Bọn Cẩm y vệ thấy Tào Hóa Thuần giở quẻ, liền vứt ngay khí giới xuống đất.
Tào Hóa Thuần liền gọi:
– Bắt lấy bọn phản tặc này!
Nhóm Cẩm Vệ binh bắt ngay bọn Cẩm y vệ đi ra ngoài cung điện. Tào Hóa Thuần hạ lệnh:
– Xử trảm tất!
Chỉ trong giây lát, bọn người tham dự phản nghịch đều bị chém giết sạch. Sở dĩ Tào Hóa Thuần phải làm nhanh chóng như vậy là để giấu nhẹm độc kế của y, giết người diệt khẩu để sau này không lấy đâu ra nhân chứng mà tố cáo y mưu phản nữa.
Thấy cục diện đã ổn định, Hà Thiết Thủ cười nói:
– Viên tướng công, ngày mai tôi đợi nơi dưới gốc cây lớn ở ngoài mười dặm phía Tây Thành nhé?
Nói xong, nàng dắt tay Hà Hồng Dược đi ra khỏi thâm cung, Sùng Chính vội gọi:
– Các… các ngươi…
Nhà vua muốn ban thưởng công hộ giá cho hai cô cháu họ Hà. Hà Thiết Thủ bao giở thèm để ý tới cái đó, vẫn lạnh lùng đi thẳng. Ngồi lên trên ghế rồng, lên tiếng hỏi A Chín:
– Y là ai thế? Công lao rất lớn, trẫm tất có trọng thưởng cho y.
Nhà vua tưởng nói như vậy, Thừa Chí thế nào cũng quỳ xuống vái lạy. Ngờ đâu chàng vẫn ngang nhiên không thèm để ý tới. A Chín vội kéo áo chàng, và khẽ nói:
– Đại ca mau mau tạ ân Hoàng thượng đi! Nhìn mặt Sùng Chính, Thừa Chí nghĩ đến cha mình xả thân vệ quốc, lập bao nhiêu đại công, mà còn bị nhà vua khép tội lăng trì mà chết, bị phẫn uất đau khổ vô cùng, nhưng Sùng Chính có biết đâu tâm sự của chàng như vậy, lại còn ôn tồn hỏi:
– Tên khanh là gì? Làm việc ở cung điện nào?
Thấy chàng mặc quần áo Thái giám tưởng chàng là một tên tiểu Thái giám. Thừa Chí định thần lại, mới nghiêm nghị nói:
– Tôi họ Viên, là con của Binh bộ Thượng thư kiêm Tiểu Liêu Đốc Sư, Viên Sùng Hoán.
Sùng Chính ngẩn người trong giây lát, hình như chưa nghe rõ lời nói của chàng vậy, lại hỏi:
– Khanh nói gì?
Thừa Chí đáp:
– Tiên phụ có công với nước, mà Hoàng thượng xử tử một cách oan uổng đấy!
Sùng Chính rùng mình nói:
– Bây giờ trẫm đã thấy hối hận vô cùng.
Một lát sau, nhà vua lại hỏi:
– Khanh muốn trẫm ban thưởng cho khanh cái gì?
A Chín cả mừng, khẽ kéo tay áo chàng, ra hiệu bảo chàng nên thừa dịp may này mà xin làm phò mã đi.
Thừa Chí phẫn nộ đáp:
– Tôi vì việc nước mà cứu ông, thật tâm tôi không hề mong muốn được thưởng gì cả. à, phải rồi, Hoàng thượng đã hối hận thì xin Hoàng thượng hãy hạ chiếu chỉ rửa oan cho cha tôi đi.
Tánh Sùng Chinh rất ương ngạnh bởi thế muốn cho nhà vua nhận lỗi còn khó hơn việc xuống bể mò trai. Cho nên, khi nghe Thừa Chí đòi hỏi như vậy, Sùng Chính trầm ngâm không nói gì. Lúc bấy giờ Tào Hóa Thuần tiến vào, cung kính vấn an Thánh thượng và tâu rằng tất cả bọn phản tặc đã xử trảm cả rồi và gia quyến của Thành Vương, thủ lãnh bọn phản nghịch cũng đã bắt giam rồi. Sùng Chính gật đầu rồi nói:
– Được lắm, dù sao khanh vẫn là bầy tôi trung thành nhứt.
Thừa Chí định lật gian mưu của Tào Hóa Thuần ra cho mọi người rõ nhưng chàng nghĩ lại, nghĩa quân của Sấm Vương dù sao cũng sắp đánh vào đây rồi. Nên chàng không nhắc nhở tới nữa, quay lại nói với A Chín rằng:
– Cô cho tôi xin lại thanh kiếm, tôi phải đi ngay đây.
A Chín lo sợ quá, không còn nghĩ tới Phụ hoàng và Tào Hóa Thuần còn đứng cạnh đó, buột miệng nói luôn:
– Bao giờ anh trở lại đây thăm em?
Thừa Chí đáp:
– Công chúa nên bảo trọng lấy ngọc thể.
Giơ tay ra đòi kiếm, A Chín định trả, bỗng rụt tay lại nói:
– Em giữ thanh kiếm này, lần sau anh tới, em sẽ hoàn lại.
Thừa Chí thấy nét mặt của Sùng Chính và Tào Hóa Thuần cùng tỏ vẻ ngạc nhiên.
Chàng không muốn dây dưa nữa bèn lắc đầu rồi quay người đi liền. Đuổi theo ra tới ngoài cung điện, A Chín khẽ nói:
– Anh cứ yên trí, không bao giờ em phụ bạc anh đâu!
Thừa Chí nghĩ, lúc này không phải là lúc giải thích cho nàng rõ, và nơi đây cũng không phải chỗ có thể trò chuyện lâu được, liền nói:
– Thiên hạ sắp đại loạn đến nơi, cô ở trong cung như thế này bất lợi lắm, thà ra giang hồ hay đi xa còn tốt hơn. Cô nên nhớ kỹ lời nói này của tôi.
Thừa Chí biết Sấm Vương sắp đánh tới kinh sư rồi, trong lúc loạn ly, hoàng cung là nơi nguy hiểm hơn hết, cho nên mới khuyên nàng ra khỏi cung điện để tị nạn. Ngờ đâu, A Chín quá si tình, lại hiểu lầm ý nghĩa lời nói của chàng, nàng tủm tỉm cười nói:
– Anh nói rất phải. Em rất vui lòng được theo anh hành hiệp ở trên giang hồ còn hơn là ở trong thâm cung này hưởng phúc nhàn. Lần sau anh tới, chúng mình sẽ bàn việc đó.
Không muốn nói thêm nữa, Thừa Chí chỉ thở dài giơ tay lên chào từ biệt, rồi vượt tường ra khỏi hoàng cung. Chàng thấy đâu đâu cũng lửa đuốc sáng chaong, hiệu lệnh hô ầm ĩ, bộ hạ của Tào Hóa Thuần đang đi lùng bắt các quyền thuộc của bọn nghịch đảng.
Thừa Chí lo nhớ Thanh Thanh, vội vàng về thẳng đường Chính Điều Tử, tới nhà đã thấy Thanh Thanh, Uyển Nhi và La Lập Như ba người đã trở về rồi. Lúc ấy chàng mới yên tâm. Suốt cả đêm không được nghỉ ngơi một phút nào, mỏi mệt vô cùng, chàng hỏi thăm mọi người xong đâu đấy, rồi về phòng ngủ ngay tức thì. Lúc tỉnh dậy đã là giờ Thìn, chàng ra ngoài khách sảnh thấy Đồng Huyền, Mẫn Tử Hoa cùng mấy tên đệ tử phái Võ Đang ngồi trên khách sảnh chờ đợi mình. Thì ra bọn họ đã hay tin nhà của Thừa Chí bị bọn Ngũ Độc giáo tới đánh trộm, cho nên mới đến để tương trợ.
Cảm ơn anh em phái Võ Đang xong, Thừa Chí mới cho họ hay tin Hoàng Mộc đạo nhân còn sống. Mấy sư huynh đệ phái Võ Đang mừng rỡ vô cùng. Thừa Chí nhờ bọn họ canh gác và bảo vệ các người bị thương rồi đi luôn ra ngoại ô phía cửa Tây Thành, đi độ mười dặm, xa xa đã trông thấy Hà Thiết Thủ đứng chờ đợi dưới gốc cây rồi. Thấy Thừa Chí tới, nàng tủm tỉm cười, tiến lên nghênh đón và cười:
– Viên tướng công, hôm qua tôi giúp Tướng công nhiều việc như vậy, Tướng công đã coi tôi là người bạn thân chưa?
Thừa Chí đáp:
– Tình thế đêm hôm qua thực hiểm quá, may có Hà giáo chủ đột nhiên ra tay giúp cho, mới khỏi gây nên tai họa lớn, tôi thực cảm ơn vô cùng.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Diễm phúc của Viên tướng công thật lớn quá, được một vị Công chúa đẹp như tiên nga yêu đương, sau này được phong làm Phò mã rồi, liệu có quên hay ngơ đi những kẻ giang hồ thô bỉ này không?
Thừa Chí nghiêm nét mặt nói:
– Hà giáo chủ đừng nói bông nói đùa nữa.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Trời ơi! Tướng công còn bảo tôi nói bông ư? Lúc nào nàng cũng đăm đăm nhìn Tướng công đầy vẻ tình tứ như thế ai chẳng trông thấy cơ chứ? Hơn nữa, nếu Tướng công không yêu nàng, tại sao lại đưa kiếm Kim Xà cho nàng giữ? Tại sao Tướng công lại thí mạng chí tử cứu cha nàng như vậy?
Thừa Chí nói:
– Vụ đó là vì tôi trọng đại nghĩa quốc gia mà thí mạng như vậy, chớ đâu phải định tâm cứu cha nàng đâu?
Hà Thiết Thủ bịt miệng cười nói:
– Đúng lắm. Vậy lén lúc cùng người ta chung chăn gối ở trên giường như thế cũng là vì đại nghĩa quốc gia hay sao?
Chân tay luống cuống, Thừa Chí mặt đỏ bừng, đáp:
– Điều… điều đó…? Tại sao Hà giáo chủ lại biết?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Tướng công hỏi tôi tại sao lại biết rõ chuyện ấy phải không? Khi tôi với Tào Hóa Thuần vào trong thâm cung của Công chúa, rõ ràng trông thấy một người núp ở trong chăn nằm cạnh nàng. Chuyện ấy chỉ có thể giấu diếm những con mắt thường thôi, chớ dấu sao nỗi đôi mắt của những kẻ giang hồ lão luyện như chúng tôi? Hì, hì, lúc ấy tôi định lật chăn lên xem là ai, sau thấy tấm hình của Tướng công trên ghế bên cạnh giường, tôi lại không nỡ phá đám để được lòng Tướng công đấy, Tướng công có biết không?
Thừa Chí xấu hổ vô cùng, nghĩ thầm: “Nàng nói đúng đấy! Lúc ấy ta quá hấp tấp quên cất bức họa chân dung đó đi, để cho nàng trông thấy mới biết hết chuyện bí mật của ta.”
Thấy chàng đỏ bừng cả hai tai, Hà Thiết Thủ biết ngay chàng là người có tánh cả thẹn và không quen bông đùa, liền xay sang chuyện khác hỏi:
– Hạ tướng công đã bình yên về tới nhà chưa?
Thừa Chí gật đầu rồi nói:
– Bây giờ Giáo chủ đưa tôi đi chữa cho các giáo hữu của quý giáo đi!
Hồi 21
Hà Thiết Thủ liền dẫn đường đi trước, tiếp tục hướng về phía Tây, vừa đi vừa khen ngợi A Chín xinh đẹp. Nàng nói:
– Không ngờ một vị Công chúa càng vàng lá ngọc còn ít tuổi như vậy mà võ nghệ lại cao cường hơn người, thật là hiếm có.
Mặc nàng muốn nói gì thì nói, Thừa Chí cứ lẳng lặng đi theo. Đi được hơn năm dặm đường tới trước chùa Hoa Nghiêm, có một số giáo dân Ngũ Độc canh gác cẩn thận, thấy mặt Thừa Chí chúng giận dữ trố mắt ra nhìn. Thừa Chí cúi đầu theo Hà Thiết Thủ, đi thẳng vào trong điện. Trên Đại Hùng bảo điện có rải cỏ thật đầy, giáo chúng bị thương nằm thành hàng trên đó. Thừa Chí giải huyệt cho từng tên một, và nói:
– Tôi với quý vị không thù oán gì cả, chỉ vì một sự hiểu lầm nho nhỏ mà đã thất lễ như vậy. Tôi rất ân hận và xin thành thật cáo lỗi cùng quý vị.
Nói đoạn, chàng cúi đầu chào mọi người. Giáo chúng Ngũ Độc quay đi không thèm trả lời. Thừa Chí nghĩ, mình đã làm tròn lời hứa và rất lễ phép, chả cần phải nói nhiều nữa. Nghĩ đoạn, chàng liền quay ra, bỗng thấy một đôi mắt độc ác, giận dữ nhìn về phía Hà Thiết Thủ. Người đó ẩn trong xó tối, không rõ thân hình ra sao. Chàng chỉ thấy song nhỡn ấy xanh biếc sáng quắc. Giựt mình, chàng nghĩ thầm: “Hai mắt ấy chứa đầy oán độc phẫn uất. Người đó là ai?”
Chàng trừng mắt lên nhìn. Người nọ đã lẻn vào phía trong. Chỉ thoáng thấy thân hình, chàng đã nhận ra là Hà Hồng Dược.
Tiễn chàng ra khỏi cửa chùa, Hà Thiết Thủ thay đổi hẳn sắc mặt, không vui tươi như trước. Thừa Chí nghi hoặc vô cùng. Sau khi chào từ biệt Hà Thiết Thủ, chàng trở về đường cũ. Đi được hơn dặm đường, chàng càng nghĩ nghi ngại chúng có gian mưu gì khác, chi bằng nhân lúc này quay trở lại dò xét xem sao, để tiện việc phòng bị. Nghĩ xong, chàng quay sang hướng Nam, trở lại phía sau chùa. Nhìn quanh, thấy không có người canh gác, chàng liền nhảy qua tường mà vào bỗng nghe tiếng còi inh ỏi.
Thừa Chí biết đó là tiếng còi gọi hội họp của Ngũ Độc giáo, liền núp sau cây cổ thụ. Sau đó đoán chắc bọn chúng đã vào trong hội họp cả rồi, chàng mới lén đi tới phía sau Đại Hùng bảo điện và nghe tiếng cãi cọ ở bên trong vọng ra. Chàng úp ta vào khe cửa để nghe cho rõ. Tiếng nói của Hà Hồng Dược rất chua, tiếng của Tề Vân Ngao khàn khàn, cả hai đang đua nhau vạch tội của Hà Thiết Thủ ra. Một tên bảo nàng ham luyến tình dục quên cả thù lớn của bổn giáo. Một tên nói là nàng hiệp với kẻ địch làm hỏng việc bầu vua mới, lỡ một cơ hội bành trướng bổn giáo. Hà Thiết Thủ chỉ mỉm cười rồi nói:
– Các người muốn làm gì ta?
Mọi người đều yên lặng một hồi lâu. Hà Hồng Dược nói:
– Chúng ta nên lập Giáo chủ khác.
Hà Thiết Thủ sầm nét mặt lại hỏi:
– Theo quy giáo của chúng ta từ xưa tới giờ, mấy trăm năm nay, chỉ khi nào cố Giáo chủ tạ thế, mới được lập tân Giáo chủ. Như vậy, có phải cô muốn tôi chết không?
Thấy mọi người không nói năng gì, nàng lại hỏi tiếp:
– Bây giờ ai có thể đảm đang được tân Giáo chủ?
Nàng hỏi liền ba lần, không ai dám trả lời cả. Nàng cười nói:
– Các người thử nghĩ xem, có ai đủ tài năng thắng được ta? Ai tự thấy đủ tài cướp ngôi Giáo chủ! Nếu tham sống sợ chết thì các người đừng có lôi thôi nữa!
Thừa Chí ngó qua khe cửa, thấy Hà Thiết Thủ một mình ngồi trên ghế bành Vẻ mặt hình như có vẻ sợ sệt vô cùng. Chàng nghĩ: “Các tay cao thủ trong Ngũ Độc giáo đều đấu với ta rồi. Quả thật không có một tên bằng được một nửa võ công của nàng. Nhưng nàng lấy sức đè nén chúng, ta e nàng khó giữ nổi ngôi Giáo chủ được lâu bền.”
Thấy Ngũ Độc giáo nội bộ lủng củng, chớ không phải bày mưu kể để trả thù mình với Thanh Thanh, chàng không muốn theo dõi thêm, định trở về nhà, bỗng thấy một luồng ánh sáng chớp nhoáng, Hà Hồng Dược tay cầm một khí giới kỳ lạ vượt khỏi giáo chúng bước ra.
Thấy võ khí của mụ ăn xin tựa như một cái kéo lớn, chàng chưa hề thấy và chưa hề nghe sư phụ nói đến, không biết cách sử dụng ra sao, lòng hiếu kỳ thúc đẩy, nên ở lại cúi xuống rình xem.
Hà Hồng Dược vẻ mặt lạnh lùng, cất giọng the thé nói:
– Ta không muốn làm Giáo chủ và cũng tự biết không đánh nổi cháu. Nhưng thiết nghĩ năm xưa Thất tổ Tam tử sáng lập bổn giáo, khó nhọc khổ sở biết bao, hơn bốn mươi năm phấn đấu mới tạo nên được giáo môn. Hơn trăm năm nay, bổn giáo hoành hành một trời Nam oai dũng biết bao, vì vậy ta không muốn bổn giáo bị tan rã bởi tay cháu!
Hà Thiết Thủ hỏi:
– Nhục mạ Giáo chủ phải chịu tội hình gì?
Hà Hồng Dược đáp:
– Ta đã không coi mi là Giáo chủ thì mi có quyền gì khép tội ta. Có giỏi thì ra đây?
Hai tay giơ thẳng vũ khí ra, trông giống như cái kéo, nhưng hai lưỡi lại cong cong như mũi kềm. Hà Thiết Thủ cười nhạt vẫn ngồi yên trên ghế. Hà Hồng Dược võ nghệ cao cường nên khi mụ đánh không trúng, mụ lập tức nhảy lùi ngay. Hà Thiết Thủ vẫn ngồi yên như trước, chỉ lúc mụ ăn xin tấn công tới mới tránh sang bên chớ không trả đũa, rồi lại ngồi yên như cũ. Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, liếc mắt thấy giáo chúng tên nào cũng tay cầm võ khí, từ từ tiến tới, Hà Thiết Thủ giữ thế thủ, đề phòng mọi người bao vây tấn công.
Vì khe cửa quá hẹp, Thừa Chí chỉ trông thấy một phần nào thôi. Chàng đoán chắc lúc đó giáo chúng đã tứ phía, tám phương vây trọn nàng rồi.
Mọi người cầm cự giây lát, không ai dám tiến thêm một bước, Hà Hồng Dược lớn tiếng kêu gọi:
– Bọn ngươi sợ cái gì? Hãy cùng ta tiến lên một lúc!
Mụ phẩy cái kéo một cái, mọi người đều hưởng ứng hò reo tiến lên. Hà Thiết Thủ bỗng nhảy phắt lên, chỉ nghe mấy tiếng “chát chúa” thật lớn, cái ghế của nàng đang ngồi đã bị mấy thứ võ khí chém nát làm trăm mảnh. Hai tên giáo chúng đứng gần đã bị móc sắt của Hà Thiết Thủ móc nát người, thảm thiết kêu lên mấy tiếng chết liền tức thì. Trên đại điện các bụi bay tứ tung, bóng người của Hà Thiết Thủ thấp thoáng trong đám đông. Trận ác chiến đã khai diễn ác liệt vô cùng.
Thừa Chí là nhà võ thuật đại hành, trên điện mấy người ác đấu, tuy đánh hỗn loạn nhưng chàng có thể phân biết rõ từng thế võ một. Những tay cao thủ của Ngũ Độc giáo đã bị chàng dùng phép phân cốt thức với điểm huyệt, tuy lúc này chúng mới được chàng giải huyệt cho nhưng tên nào tên nấy chưa hết đau, hành động vẫn thiếu linh hoạt, nếu Hà Thiết Thủ muốn thoát thân chạy ra khỏi nơi đó không khó gì. Tuy vậy, nàng vẫn không bỏ chạy, còn muốn võ lực áp đảo thu phục bọn chúng, và trừng trị những tên đứng đầu làm loạn. Lại đánh thêm mấy chục hiệp nữa, Thừa Chí trông thấy một tên có hành động quỷ quyệt. Tên ấy tuy theo giáo chúng tấn công, nhưng tay chân rất chậm chạp, trong tay còn cầm một cái gì, từ từ tới gần Hà Thiết Thủ, nhìn kỹ mặt tênn đó, Thừa Chí nhận ngay ra y là Cẩm Y Độc Cái Tề Vân Ngao. Bỗng dưng thấy y thét lên một tiếng, hai tay tung lên một cái, một luồng hào quan ném thẳng vào người Hà Thiết Thủ.
Hà Thiết Thủ lộn một vòng tránh sang bên. Ngờ đâu ám khí của Tề Ngao là con rắn vàng mà y bắt được ở trong đất tuyết hồi nọ. Bỗng thấy mặt mũi tối sầm lại, Hà Thiết Thủ vội rứt con rắn đang cắn trên vai ra, nổi giận móc luôn hai móc sắt, giết chết liền hai tên giáo chúng đứng gần đó.
Hà Hồng Dược la lớn:
– Con tiện tỳ này đã bị rắn độc cắn phải rồi, chúng ta cứ vây chặt lấy nó, nọc độc sẽ làm nó mê man tức thì!
Hà Thiết Thủ loạng choạng chạy thẳng về phía sau điện. Tuy trúng phải nọc độc của rắn, nàng vẫn còn oai phong, nên nhứt thời giáo chúng không thể ngăn cản được. Hà Hồng Dược nhảy theo, cái kéo múa nhanh như gió, nhằm sau gáy nàng cắt luôn. Hà Thiết Thủ cúi đầu xuống, trái tay đánh trả lại một móc. Phan Tú Đạt và Trình Kỳ Tư đã xông lên chận đường nàng rồi. Nàng để tay vào hông bấm ra một cái, những kim độc Hàm Sa Xạ Ảnh bắn ngay ra. Phan Tú Đạt không tránh kịp, chưa kịp kêu đã ngã lăn đùng ra chết ngay. Nọc độc trên vai đã làm nàng mê mẩn, móc sắt múa loạn xạ, không thành thế võ nào nữa.
Thấy nàng sắp bị giáo chúng hạ sát tới nơi, Thừa Chí nghĩ: “Sở dĩ nàng bị giáo chúng phản lại như vậy cũng do ta mà nên. Ta không ra cứu nàng sao đành?”
Nghĩ đoạn, chàng nhảy vào la lớn:
– Mọi người hãy ngừng ngay tay lại!
Giáo chúng bỗng thấy chàng xuất hiện, ai nấy đều kinh hãi và đồng thời ngừng ngay tay lại. Lúc này Hà Thiết Thủ không còn biết gì nữa, bổ luôn móc vào mặt Thừa Chí. Chàng né mình, và thuận tay chụp lấy mạnh môn nàng. Thừa Chí vừa đụng tới cổ tay, nàng trầm tay xuống tránh, rồi đưa luôn cái móc lên, vừa đúng vừa ác độc. Thừa Chí không bắt được tay nàng, la lớn:
– Tôi tới cứu cô đấy!
Hà Thiết Thủ vẫn không hay biết gì, cứ múa móc như vũ bão tấn công. Đỡ luôn mấy thế, Thừa Chí bắt buộc giơ chân ra ngăn, nàng ngã lăn ra đất, bỗng trợn mắt thất kinh la lớn:
– Viên tướng công, có phải tôi đã chết rồi không?
Thừa Chí nói:
– Tôi cứu cô ra khỏi nơi đây.
Nói xong, chàng cầm cánh tay nàng đứng dậy, giáo chúng đang đứng xem hai người chiến đấu bỗng thấy Thừa Chí đỡ Giáo chủ dậy xong chạy thẳng ra ngoài, đều quoát tháo mà ùn ùn đuổi theo, Thừa Chí đứng lại quát lớn:
– Kẻ nào có can đảm dám tiến lên?
Các giáo dân đa số đã bị chàng điểm huyệt, tên nào tên nấy cũng như Kinh cung chỉ điểu (con chim bị cung bắn hụt) không ai dám xông lên cả, rồi không biết ai đã lên tiếng hô hào, bọn chúng bỗng quay mình bỏ chạy cả vào trong điện, đóng kín cửa lại. Thừa Chí thấy giáo chúng sợ hãi mình như vậy, cũng phải bật cười, cúi đầu nhìn Hà Thiết Thủ, thấy vai trái sưng húp và đỏ ửng, trên mặt phủ một làn hắc khí.
Thừa Chí biết nàng trúng phải nọc độc rất nặng, nhưng sực nghĩ nàng suốt ngày gần gũi các độc vật, sức chịu đựng tất phải hơn người, thể nào cũng chịu được một hồi lâu nữa. Chàng liền ẵm nàng lên, chạy thẳng về nhà.
Thấy chàng trở về trên tay bồng Hà Thiết Thủ, Thanh Thanh ngạc nhiên vô cùng, hờn giận hỏi:
– Anh cứ ẵm nàng mãi làm gì? Có buông ngay xuống không?
Thừa Chí nói:
– Mau mau lấy con Băng Thiền ra cứu nàng.
Uyển Nhi tiếp tay đỡ Hà Thiết Thủ vào trong nội thất cứu chữa. Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa vừa giận vừa ngạc nhiên. Thừa Chí bèn đem tiến nhân hậu quả ra kể cho mọi người nghe và nói thêm:
– Lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân bị chúng nhốt ở đâu chờ nàng tỉnh dậy hỏi sẽ biết rõ liền.
Các đệ tử phái Võ Đang đều bái tạ. Một lát sau, Uyển Nhi bước ra nói:
– Sắc mặt nàng đã đỡ đen dần, nhưng không hiểu tại sao nàng vẫn còn mê man bất tỉnh.
Thừa Chí nói:
– Cô vào lấy cho nàng uống một chút thuốc giải độc, và hãy để cho nàng ngủ yên một lát sẽ khỏi ngay.
Uyển Nhi vâng lời đang định đi vào, bỗng thấy La Lập Như vẻ mặt hốt hoảng chạy vào kêu to:
– Viên tướng công, mừng lớn, mừng lớn!
Thừa Chí cười nói:
– Anh mừng lớn thì đúng hơn!
Uyển Nhi xấu hổ, tránh luôn vào nhà trong. La Lập Như nói:
– Viên tướng công đã hiểu lầm lời nói của tôi. Tôi nói mừng lớn đây là vì vừa có tin của quân Sấm Vương đã hạ được Du Lâm và Hán Trung, hai thành đó rồi.
Mọi người nghe xong cả mừng. Thừa Chí hỏi:
– Tin này có đích không?
La Lập Như đáp:
– Người anh em họ Trương trong bọn chúng tôi được cử đi theo dõi… Mẫn nhị gia và Đồng đạo trưởng hai vị, không ngờ vừa gặp đạo quân của Sấm Vương đang tấn công thành trì, bị nghẽn đường không sao đi được. Vì vậy anh ta được mục kích quân Minh đại bại và tân Tổng binh của thành đó cũng bị giết chết.
Thừa Chí nói:
– Thế thì hay lắm. Như vậy chỉ nay mai nghĩa quân sẽ đánh tới Kinh sư này, chúng ta phải nội ứng cho họ mới được.
Chàng lập tức bàn định kế hoạch, đến lúc ấy sẽ chỉ định ai đi phóng hỏa, đi mở cửa, ai giết tướng thủ thành, nhứt nhứt đều ghi rõ vào một tờ giấy rồi cất kín, vì việc đó cần phải giữ bí mật nên tạm thời không tuyên bố vội.
Liên tiếp mấy ngày, chàng bận rộn về việc tiếp đón các lộ hào kiệt đang có mặt ở Kinh sư, chỉ chờ đợi ở nghĩa quân tiến tới chân thành là sẽ khởi sự hưởng ứng ngay. Ngày hôm ấy, sau khi họp hội nghị xong, chàng thấy Uyển Nhi vẻ mặt lo buồn nói:
– Viên tướng công, Hà giáo chủ vẫn còn mê man bất tỉnh như cũ.
Thừa Chí thất kinh hỏi:
– Chữa bấy nhiêu ngày rồi tại sao cô ta còn chưa khỏi?
Nói xong, chàng vội theo Uyển Nhi đi vào nhà trong thấy Hà Thiết Thủ mặt nhợt nhạt trông rất tiều tụy, hơi thở hắt ra như sắp chết đến nơi. Ngẫm nghĩ giây lát, Thừa Chí bỗng nhảy lên la lớn:
– Nguy tai!
Uyển Nhi hỏi:
– Việc gì thế Viên tướng công?
Thừa Chí đáp:
– Người thường trúng phả nọc độc, sau khi hơi độc đã rút hết tất nhiên phải khỏe mạnh dần. Nhưng nàng gần gũi các loài độc vật từ thuở nhỏ bình thời lại uống những thuốc thang cổ quái, các thứ độc vật tầm thường không hại nổi, nhưng nếu trúng độc lại nguy kịch hơn những người khác. Mấy ngày hôm nay tôi bận việc không nghĩ tới điểm này.
Uyển Nhi hỏi:
– Biết làm sao bây giờ đây?
Suy nghĩ một lát, Thừa Chí trù trừ nói:
– Bây giờ chỉ có một cách là cho uống hết con Băng Thiền này mới hy vọng khỏi hẳn được… Nhưng chúng ta đang nhờ vả con vật quý báu này để giải độc cho những anh em ngộ độc hay trúng độc. Nếu cho nàng uống hết con đó, nhỡ lần sau có bị bọn Ngũ Độc giáo đả thương thì lấy gì để cứu chữa?
Uyển Nhi cũng thông cảm lời nói của chàng. Đang lúc hai người phân vân không biết thế nào cho phải, Thừa Chí bỗng vỗ đùi đến “bạch” một cái, rồi nói:
– Người này tuy vô thân cô cớ với chúng ta thật nhưng chả lẽ ta nhẫn tâm trông thấy nàng chết mà không cứu chữa hay sao? Thôi, cứ cho nàng uống trước hãy hay!
Cũng nhận thấy làm như thế rất mạo hiểm, Uyển Nhi nghiền nhỏ con Băng Thiền, dùng rượu hòa đều cho nàng uống liền. Chưa đầy nửa giờ sau, mặt của Hà Thiết Thủ đã biến thành màu hồng, hơi thở mạnh dần. Biết nàng đã thoát khỏi tay tử thần, Thừa Chí lẳng lặng rút lui ra. Hồng Thắng Hải đang kiếm chàng khắp nơi, vừa gặp mặt liền nói:
– Viên tướng công, phe Ngũ Độc giáo đã đến tận nhà ta sanh sự đấy!
Thừa Chí cau mày, hỏi:
– Chúng có tất cả bao nhiêu người?
Hồng Thắng Hải nói:
– Hiện giờ mới có một người tới trước cửa thôi, còn bao nhiêu tên nữa tới sau thì bây giờ chưa biết!
Thừa Chí ngẫm nghĩ: “Ngũ Độc giáo chỉ có Hà Thiết Thủ là võ nghệ cao cường thôi, còn những người khác thì không đáng kể nhưng thủ đoạn của chúng rất thâm hiểm độc ác. Xưa nay hễ thấy mặt ta là chúng ù té chạy ngay. Không hiểu tại sao lần này chúng lại dám đến tận cửa nhà ta sinh sự như thế? Hay là chúng đã có người khác đỡ đầu cho chăng? Con Băng Thiền chí bảo của ta đã cho Hà Thiết Thủ uống mất rồi, bây giờ nếu có người nào trúng phải nọc độc của chúng ta lấy thuốc đâu mà chữa chạy đây?”
Nghĩ xong, chàng nói với Hồng Thắng Hải rằng:
– Anh mau vào nhà trong truyền lệnh bảo các người tập trung cả ở trong đại sảnh, chờ có hiệu lệnh của tôi, không ai được ra ứng chiến cả.
Hồng Thắng Hải vâng lời đi ngay. Thừa Chí rảo bước đi ra ngoài cửa, thấy một người cởi trần, mặc một cái quần rách, đầu lộn ngược, hay tay chống xuống đất, hai chân chổng lên trời, ở ngay giữa cửa. Mấy lần trông thấy điệu bộ kỳ quái của Ngũ Độc giáo lúc này Thừa Chí không ngạc nhiên chút nào, đưa mắt nhìn kỹ, mới biết rõ người đó là Cẩm Y Đại Cái Tề Vân Ngao, lại thấy vai lưng, và hai cánh tay của y cắm chín con dao nhọn dài hơn thước, con nào cũng cắm sâu vào trong thịt mà không thấy máu chảy ra ngoài. Không biết y định sử dụng yếu pháp gì, Thừa Chí cẩn mật phòng bị, và quát hỏi:
– Người tới đây làm gì?
Tề Vân Ngao không trả lời, mồm lẩm bẩm đọc:
– Cửu đao xuyên động, ma giáo chi hùng! (Chín con dao xuyên qua hang động, đó là sức hùng mạnh của ma giáo).
Thừa Chí nói:
– Ta với quý giáo từ nay mỗi người đi một đường lối, các người đừng có tới đây quấy nhiễu và ta cũng không làm khó dễ các ngươi, mau đi nơi khác đi!
Tề Vân Ngao tựa như bị ma ám, miệng cứ đọc câu:
– Cửu đao xuyên động, ma giáo chi hùng!
Trợn mắt lên nhìn kỹ, Thừa Chí thấy chỗ cán dao nào cũng buộc một con độc vật còn sống đang ngọ nguậy. Những độc vật ấy là bò cạp và rít.
Lúc này Hồng Thắng Hải đã triệu tập tất cả mọi người ở đại sảnh, rồi cùng Thanh Thanh ra cửa quan sát.
Thừa Chí đưa mắt ra hiệu, Hồng Thắng Hải rất khôn ngoan nghe rõ lời nói của tề vân ngao liền chạy ngay vào nhà trong, bảo Uyển Nhi đưa vào phòng Hà Thiết Thủ, lớn tiếng nói:
– Hà giáo chủ, “Cửu đao xuyên động, ma giáo chi hùng” là nghĩa gì thế?
Sau khi uống hết con Băng Thiền, Hà Thiết Thủ đã tỉnh táo dần, bỗng nghe Hồng Thắng Hải hỏi như vậy, vội ngồi ngay dậy, hỏi lại:
– Bên ngoài người nào tới thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
– Một tên ăn xin cởi trần.
Hà Thiết Thủ nói với Uyển Nhi:
– Được lắm, cô nương làm ơn đỡ tôi ra ngoài kia.
Thấy nàng bịnh nặng mới đỡ phần nào, đứng dậy đi ra bên ngoài rất nguy hiểm, Uyển Nhi định khuyên can nhưng Hà Thiết Thủ xua tay bảo Hồng Thắng Hải ra khỏi phòng để mình thay áo. Uyển Nhi đáp:
– Chị không nên đi ra ngoài đó.
Hà Thiết Thủ đáp:
– Không sao, cô đỡ tôi một tay là được.
Uyển Nhi đành phải giơ tay ra đỡ, Hà Thiết Thủ quài tay lại một cái đã nắm được cổ tay Uyển Nhi rồi. Trong lòng sợ hãi, Uyển Nhi cũng khâm phục. Bước ra tới cửa, Hà Thiết Thủ quát lớn:
– Ngươi hãy mở to hai con mắt mà coi, có phải ta vẫn còn sống không?
Tề Vân Ngao mặt lộ hỷ sắc, lộn luôn hai vòng, vẫn đứng bằng hai tay như trước.
Hà Thiết Thủ nói tiếp:
– Tại sao ngươi lại tới đây tạ lỗi cùng ta? Ngươi chưa gặp nguy nan chắc không bao giờ giác ngộ phải không?
Tề Vân Ngao đáp:
– Giáo chủ minh xét cho, tội của tiểu nhân đáng vạn tử vì đã trót thả rắn độc ra cắn Tôn thể bị thương. Cũng may Thất tổ Tam tử phù hộ cho, Giáo chủ mới được vô sự.
Hà Thiết Thủ quát lớn:
– Ngươi tưởng dùng Kim Xà hại ta tất phải thiệt mạng. Theo quy luật của bổn giáo, thì ngươi sẽ được bầu làm Giáo chủ phải không?
Tề Vân Ngao lại lộn hai vòng nữa.
Hà Thiết Thủ nói tiếp:
– Thôi được, ngươi cứ đi đi.
Tề Vân Ngao nhún hai tay, chân đụng đất để chào. Hà Thiết Thủ hỏi:
– Ta hãy hỏi ngươi, tại sao ngươi lại tới đây tạ tội như vậy?
Tề Vân Ngao đáp:
– Tiểu nhân không dám giấu Giáo chủ, theo luật lệ trong bổn giáo, thì tiểu nhân được kế tiếp ngôi Giáo chủ thật nhưng mụ ăn xin già đã tranh cướp, tiểu nhân địch không nổi…
Hà Thiết Thủ hỏi:
– Ta đã sớm biết ngươi định phản loạn từ lâu rồi nhưng bây giờ ngươi đã biết hối, chịu tận trung với ta thì ta tha cho ngươi khỏi chết.
Nói xong, nàng cúi đầu rút con dao ở bên vai y ra. Tề Vân Ngao cả mừng lại vái chào bằng cách đụng đầu xuống đất một cái rồi mới đứng thẳng dậy, ung dung đi liền.
Hà Thiết Thủ nhờ Uyển Nhi đỡ đi vào trong đại sảnh. Mọi người đều quây lại hỏi han câu chuyện quái dị vừa rồi.
Hà Thiết Thủ đáp:
– Y bị bọn chúng dồn vào đường cùng cho nên mới tới đây cầu cứu.
Thanh Thanh hỏi:
– Những con dao cắm trên người y là gì thế?
Hà Thiết Thủ cỡi con bò cạp buộc trên dao ra, lấy khăn tay gói thật kín bỏ vào túi, cười nói:
– Đó là môn tà pháp của giáo phái chúng tôi. Xin quý vị chớ có mỉa cười. Trên cán của chín cao dao đều có giun, rít thật độc, dĩ độc chống độc, chỉ có dùng chất độc của những con giun, rít ấy hòa với các vị thuốc khác, mới có thể chữa khỏi. Bây giờ mỗi ngày tôi rút cho y một con dao, và tới giữa Lập Xuân trong người y phát độc, là phải tới xin tôi ban cho một thang thuốc giải độc để chữa.
Hồng Thắng Hải nói:
– Như vậy tên này phải cầu tới Giáo chủ để trị thương mà không dám phản loạn nữa.
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Hồng Tướng công đoán không sai.
Thanh Thanh lại nói:
– Y tự rút dao ra không được hay sao?
Hà Thiết Thủ đáp:
– Những con dao đó là do y tự cắm vào người. Y tới đây xin tôi rút hộ là có ý về quy thuận tôi. Y đã dùng con Kim Xà hãm hại tôi, nếu y không dùng đại pháp cửu đao này, biết tôi không khi nào tha thứ cho.
Thanh Thanh lại hỏi:
– Đã tha thứ cho y rồi, tại sao không rút cả chín con dao một lúc mà để tám con như thế đau khổ biết bao?
Hà Thiết Thủ tủm tỉm cười nói:
– Tôi còn muốn y phải chịu đựng đau khổ hơn thế nữa… Nhưng Hạ tướng công định khoan hồng cho y thì ngày mai tôi rút hết mấy con dao nọ cũng được.
Thanh Thanh nói:
– Thôi để mặc y, có bao giờ tôi thương hại những kẻ tàn ác ấy đâu?
Chờ hai người nói xong, Đồng Huyền đứng dậy nói:
– Hà giáo chù, xin nể Viên tướng công, cho chúng tôi được biết rõ sự thật.
Đạo nhân vừa nói xong lời đó, các đệ tử Võ Đang đều đứng dậy. Hà Thiết Thủ cười nhạt nói:
– Viên tướng công ban ơn cho tôi có liên quan gì đến phái Võ Đang nào? Trong lúc tôi chưa lành mạnh hẳn, có phải các bạn định thừa dịp người ta nguy nan mà áp bức đó không? Nhưng Hà Thiết Thủ không sợ gì đâu nhé?
Không ai ngờ nàng lại ương ngạnh đến thế. Thừa Chí vội đưa mắt ra hiệu cho Đồng Huyền rồi nói:
– Hà giáo chủ còn đau yếu, chuyện ấy để thư thả hãy nói tới.
Hà Thiết Thủ mặt lầm lì, vịn vai Uyển Nhi đi về phòng. Các đệ tử phải Võ Đang phẫn nộ, bàn tán xôn xao.
Thừa Chí nói:
– Việc này quý vị giao cho đệ phụ trách. Đệ cam đoan sẽ tìm kiếm ra tung tích của Hoàng đạo trưởng.
Các môn hạ của phái Võ Đang mới chịu yên.
Ngày hôm sau, Tề Vân Ngao lại tới, Hà Thiết Thủ lại rút một con dao cho y. Liên tiếp mấy ngày như vậy, đến trưa ngày hồm thứ chín, Hồng Thắng Hải đi cho Hà Thiết Thủ hay tin rằng:
– Người đó lại tới đấy!
Lúc ấy Hà Thiết Thủ đã bình phục. Cả Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, chàng Câm, Thiết La Hán, và Hà Quế Nam cũng khỏi nốt. Ai nấy đều muốn xem sau khi Hà Thiết Thủ đã rút hết chín con dao cho Tề Vân Ngao rồi, nàng sẽ đối xử với tên phản loạn nọ ra sao, nên cũng theo nàng ra tới cửa lớn thấy Tề Vân Ngao hớn hở, vẫn lộn ngược đứng bằng hai tay như mọi ngày, trên vai chỉ còn một con dao thôi.
Hà Thiết Thủ quay lại tủm tỉm cười, nói với Thanh Thanh rằng:
– Hạ Tướng công, người này tánh nết xấu nhưng võ công khá cao cường, để tôi biếu cho Tướng công, bắt y làm đầy tớ hầu hạ suốt đời, Tướng công có thuốc giải được độc thương của y thì sau đó y sẽ đối với Tướng công trung thành vô cùng. Chẳng hay Tướng công có nhận không?
Thanh Thanh hờn giận nói:
– Tôi là đàn bà con gái, dùng tên đàn ông hôi hám ở cạnh thân làm gì?
Hà Thiết Thủ ngạc nhiên vô cùng. Từ khi gặp Thanh Thanh đến giờ, nàng cứ yên trí Thanh Thanh là đàn ông vì quá si tình, nàng không để ý đến chuyện Thanh Thanh là thiếu nữ cải nam trang. Lúc này nghe Thanh Thanh nói là phận gái, nàng ngẩn người ra giây lát, rồi hỏi:
– Sao vậy?
Thanh Thanh đáp:
– Tôi không nhận đâu.
Hà Thiết Thủ lại hỏi:
– Tướng công vừa nói cái gì phận đàn bà thế?
Uyển Nhi cười nói:
– Chị Thanh Thanh đây là Hạ cô nương đấy. Chị ấy thích mặc nam phục từ thuở nhỏ nên ít người biết chị ấy là thiếu nữ. Ngay như em đây, lúc mới gặp cũng tưởng chị ấy là một vị Tướng công đấy.
Hoa mắt giây lát, Hà Thiết Thủ định thần nhìn kỹ lại, thấy mặt Thanh Thanh trắng bạch, đôi lông mày cong cong, quả thật là một người con gái đẹp đẽ, trong lòng tức giận vô cùng, nghĩ thầm: “Sao ta lại hồ đồ đến thế? Vì một người con gái mà phản giáo bỏ chúng bạn. Như vậy đời này ta còn sống làm quái gì nữa!”
Tánh nàng cương trực, nghĩ cũng gọi cho mình lẩm bẩm:
– Ta hồ đồ thật.
Bước xuống thềm đá, nàng cúi đầu rút nốt con dao cuối cùng cho Tề Vân Ngao.
Dù là người hiếu cường xưa này, nàng bỗng gặp biến cố lớn này, tâm thần hoảng hốt, hai chân mềm yếu hẳn đi, loạng choạng suýt ngã.
Uyển Nhi định tiến lên đỡ, bỗng nghe bên đường có một tiếng quát tháo thật lớn, một người nhanh như ngựa phi nhảy tới phía sau Tề Vân Ngao, cúi mình một cái lại nhảy sang bên ngay. Chỉ nghe Tề Vân Ngao thét lên vài tiếng, rồi nằm phục xuống đất, phía sau lưng một con dao dài hơn thước đã cắm phập tới cán rồi. Hành động ấy không khác gì trời quang bỗng nổi sấm, nhanh như chớp nhoáng, tuy có Viên Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, chàng Câm, rất nhiều cao thủ đứng cạnh đó nên mọi người đều kinh hãi la lớn, và quay lại nhìn người ám sát Tề Vân Ngao, mới hay là mụ ăn xin Hà Hồng Dược. Mụ ấy đang kêu la, tay trái vừa phẩy vừa múa, hai chân cứ nhảy nhót loạn xạ, mà không sao phẩy được con Kim Xà đang cắn chặt, thoát khỏi tay mụ.
Tề Vân Ngao ngẩng đầu nói:
– Hay lắm! Đáng lắm!
Nói xong, y cựa quậy mấy cái rồi gục đầu xuống chết liền. Lúc này, mọi người đều chú ý vào Hà Hồng Dược, chỉ thấy mụ sợ hãi quá, mãi không có cách gì trị được con độc vật, mấy lần mụ định giơ tay phải ra nắm cổ con Kim Xà nhưng tay sắp tới rụt ngay lại, hình như sợ đụng tới mình con vật là có đại họa ngay. Hà Thiết Thủ đứng cạnh xem cứ nhe răng ra cười không nói nửa lời. Hà Hồng Dược móc túi lấy một con dao găm ra, chém đứt luôn cổ tay trái và vội vàng xé vạt áo ra bọc lấy chỗ tay cụt đó, cấp tốc chạy thẳng. Mọi người trông thấy tấn kịch khùng đó đều ngẩn người ra một hồi. Hà Thiết Thủ móc túi Tề Vân Ngao lấy ra một cái ống sắt, úp luôn vào mình con Kim Xà. Đồng thời dùng móc sắt móc đứt miếng thịt ở tay của mụ ăn xin bỏ vào trong ống sắt để cho con rắn ăn, nàng mới đậy nút lại.
Thừa Chí hỏi:
– Con Kim Xà này ở đâu tới thế?
Hà Thiết Thủ cười gượng nói:
– Tên Tề Vân Ngao tuy tới đây yêu cầu tôi thu dụng và che chở cho nhưng y vẫn không yên trí sợ tôi nghĩ tới thù cũ hãm hại, mới giữ con Kim Xà bên người để đề phòng. Hừ, ngờ đâu cô tôi nhứt định không chịu buông tha nhưng cô ta cũng khá gan dạ đấy, chặt luôn cổ tay của mình để mong thoát chết. Bằng không chỉ chần chờ giây phút nữa là không sao chữa khỏi được.
Thừa Chí thở dài nói:
– Thật là trời quả báo có khác!
Thanh Thanh hỏi:
– Bàn tay trái của chị cũng vì trường hợp ấy mà phải chặt đi đấy à?
Hà Thiết Thủ đưa mắt lườm Thanh Thanh không trả lời, bỗng ôm mắt chạy thẳng vào nhà trong. Thanh Thanh mắt hườm, bực mình nói:
– Người này kể cũng kỳ quái thật!
Uyển Nhi yên lặng từ nãy tới giờ lúc này mặt hiện vẻ lo sầu khẽ nói:
– Tôi phải vào ngồi cạnh nàng, chớ không lại nảy nở ra chuyện khác thì phiền lắm đấy.
Nói đoạn, nàng vào bên trong liền. Lát lâu sau, nàng lại quay trở ra nói:
– Viên tướng công, Hà giáo chủ khóa trái cửa lại, một mình ở trong phòng, tôi gọi mãi không thấy thưa.
Thừa Chí nói:
– Để cho nàng nghỉ ngơi một lát.
Uyển Nhi lại nói:
– Cô ta không phải nghỉ ngơi đâu, tôi e…
Thừa Chí nói:
– Thôi được, chúng ta cùng vào bên trong xem sao.
Ba người cùng vào tới cửa phòng Hà Thiết Thủ, Uyển Nhi gõ cửa không thấy Hà Thiết Thủ thưa, liền vòng ra ngoài ngó qua khe cửa sổ, đột nhiên la lớn:
– Nguy to rồi. Viên tướng công mau lại đây xem.
Nói đoạn, nàng phá cửa sổ phi thân vào phòng. Biết sự thể không lành, Thừa Chí và Thanh Thanh cùng nhảy theo vào. Thấy Hà Thiết Thủ, Thừa Chí ngượng quá mặt đỏ bừng. Thì ra nàng cởi hết khuy áo, để hở cái ngực trắng nõn, quỳ trước một pho tượng bằng gỗ nho nhỏ, tay phải cầm con Kim Xà, đang định đặt vào ngực mình. Không nghĩ ngợi gì cả, Thừa Chí móc túi lấy hai quân cờ ra ném liền một quân cờ trúng ngay miệng con rắn, Hà Thiết Thủ giựt mình, để con Kim Xà xuống, nằm phục xuống bàn khóc. Cướp lấy ống sắt, Thanh Thanh nhốt Kim Xà vào, khẽ nói:
– Hà tất chị phải tự tử như thế làm gì? Giáo chúng không theo chị nữa thì chị cứ việc ở lại đây với chúng tôi?
Hà Thiết Thủ cứ khóc lóc mãi, Thừa Chí nói:
– Hà giáo chủ, Ngũ Độc giáo là tà giáo hại người, cô nên bỏ tà quy chính, nhân dịp này cắt đứt luôn liên lạc với Ngũ Độc giáo, như vậy có phải đẹp đẽ biết bao không? Hà tất cô phải đau lòng như vậy?
Lúc này, Trình Thanh Trúc và các người hay tin đều chạy vào khuyên ngăn và an ủi.
Hổ thẹn với lương tâm, Hà Thiết Thủ chỉ muốn chết đi cho rảnh nhưng lại được mọi người cứu thoát. Lúc này nàng đã biết yêu đời, sực nghĩ ra một việc, tươi cười nói:
– Nếu Viên tướng công nhận lời vấn đề này, tôi không chết nữa.
Thanh Thanh nghĩ: “Lúc nãy nàng bỗng tự tử, khóc một lúc tự dưng lại cười. Không hiểu nàng yêu cầu đại ca nhận lời điều gì thế? à, phải rồi! Nguy to, hay là nàng đã đem lòng yêu đại ca chăng?”
Nghĩ tới đó, vội hỏi:
– Chị muốn đại ca nhận lời điều gì thế?
Hà Thiết Thủ nói:
– Trước hết tôi cần phải biết Viên tướng công có nhận lời không đã?
Thừa Chí hỏi:
– Chẳng hay Hà giáo chủ muốn tôi làm hộ việc gì thế?
Lúc này, chàng cũng sinh nghi nên không dám nhận lời ngay. Hà Thiết Thủ nhìn Thanh Thanh và Uyển Nhi cười, rồi bỗng quỳ ngay trước mặt Thừa Chí vái lạy lia lịa.
Thừa Chí kinh hãi vội đáp lễ liên tiếp, và nói:
– Cô đừng hành lễ như vậy vội!
Hà Thiết Thủ nói:
– Nếu Tướng công không nhận tôi làm đồ đệ, tôi sẽ quỳ mãi thế này.
Thanh Thanh thở hắt ra một cái rồi cười nói:
– Võ nghệ của Hà giáo chủ lợi hại như thế còn ai dám làm sư phụ của Giáo chủ nữa?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Sư phụ, nếu không nhận tên đồ đệ này, tôi sẽ quỳ ở đây suốt đời.
Thừa Chí nói:
– Tôi rời khỏi sư môn chưa đầy một năm thì dạy đồ đệ sao được? Nếu cô không hiềm võ nghệ của tôi tầm thường, chúng ta có thể nghiên cứu với nhau, như thế cả hai ta cùng có ích lợi. Còn chuyện bái sư thì xin miễn nói tới.
Hà Thiết Thủ cứ quỳ nguyên không chịu đứng dậy. Thừa Chí giơ tay định đỡ nàng dậy. Nàng vội rụt tay lại, cười nói:
– Tay tôi có nọc độc đấy!
Chỉ thấy ô quang nhoáng một cái, cái móc sắt đay móc vào bàn tay Thừa Chí rồi.
Thừa Chí không lui tránh, trái lại còn đưa tay về phía trước, đỡ luôn khuỷu tay của Hà Thiết Thủ lên. Tưởng thế nàng phải đứng dậy, ngờ đâu nàng cứ theo cái đà tay của Thừa Chí bồng lên trên cao, bỗng thấy nàng co người một cái, bắn ra khỏi tay Thừa Chí hai thước rồi lại rơi xuống mặt đất, mày hai chân vẫn quỳ như trước. Thấy nàng lộ tuyệt kỹ đó, ai nấy đều phải khen ngợi không ngớt.
Thừa Chí nói:
– Hà giáo chủ hãy nghỉ ngơi trong chốc lát, tôi còn phải ra ngoài kia tiếp khách.
Nói xong, chàng cứ đi thẳng ra ngoài. Hà Thiết Thủ lo quá, la lớn:
– Có thật Tướng công không chịu nhận tôi làm đồ đệ ư?
Thừa Chí đáp:
– Tôi không dám.
Hà Thiết Thủ nói:
– Được lắm, Hạ cô nương nghe tôi kể chuyện ban đêm hôm nọ ở bên cạnh giường cho cô nương nghe nhé?
Thanh Thanh ngạc nhiên không hiểu gì cả. Thừa Chí mặt đỏ gay, nghĩ thầm: “Việc gì Hà Thiết Thủ cũng dám làm. Câu chuyện của mình với cô A Chín tuy không có một tí gì bậy cả, nhưng thanh niên nam nữ đêm khuya nằm chung một giường, mà bị nàng đồn ra ngoài, không những Thanh Thanh bực mình mà còn làm mất cả thanh danh của mình nữa.”
Nghĩ vậy, chàng xua tay lia lịa, Hà Thiết Thủ nhìn Thừa Chí cười nói:
– Sư phụ nhận lời đi thì hơn.
Thừa Chí trầm ngâm một lúc, miệng chỉ nói:
– Ừ ừ.
Hà Thiết Thủ cả mừng nói:
– Hay lắm, Tướng công đã nhận lời rồi.
Nói đoạn, nàng quỳ ngay hai chân xuống, vái chàng ba vái theo đúng đại lễ nhập môn. Bị tình thế bắt buộc, Thừa Chí đành đáp lại nửa lễ. Mọi người xúm lại mừng.
Thanh Thanh nghi ngờ, liền hỏi Hà Thiết Thủ:
– Chị định kể chuyện gì cho tôi nghe thế?
Hà Thiết Thủ cười nói:
– Trong giáo phái chúng tôi có một phép tà thuật là, hễ tôi vẽ hình người đó để cạnh giười ngủ rồi quỳ lạy tấm hình đó ba lạy, hành pháp một hồi thế là người đó bị đau đầu nhức óc ba tháng liền.
Thanh Thanh bán tín bán nghi. Thấy nàng bịa đặt ra câu chuyện ấy để nói dối Thanh Thanh, Thừa Chí mới yên trí nghĩ thầm: “Khắp trần gian này có ai bái sư lại bắt buộc như thế không? Nếu nàng không cải tà quy chánh thì ta nhứt định không dạy võ nghệ cho.”
Nghĩ xong, chàng nghiêm nét mặt nói:
– Sự thật tôi không đủ bản lãnh để nhận đồ đệ truyền dạy võ nghệ, nhưng bây giờ chị đã thành tâm như vậy tôi không sao khước từ được. Bây giờ chúng ta chỉ mang danh từ sư đồ thôi, phải chờ tôi bẩm sư phụ tôi và phải được cụ ta cho phép, lúc ấy tôi mới dám truyền cho chị võ công của phái Hoa Sơn.
Hà Thiết Thủ cả mừng vâng lời luôn mồm. Thanh Thanh nói:
– Hà giáo chủ…
Hà Thiết Thủ nói:
– Bây giờ cô đừng gọi tôi là Giáo chủ nữa. Sư phụ làm ơn đặt cho đồ đệ một cái tên mới.
Ngẫm nghĩ giây phút, Thừa Chí mới nói:
– Cũng được, bây giờ tên chị là Thích Thủ vậy. Chữ Thích ở đây là cảnh thích những điều không phải của dĩ vãng, Thủ là giữ hành vi đoan chính.
Hà Thiết Thủ mừng quá, nói:
– Hay, hay, từ nay Hạ sư thúc gọi tôi là Thích Thủ nhé?
Thanh Thanh nói:
– Bản lãnh của chị giỏi hơn tôi, tuổi lại lớn hơn tôi sao chị gọi tôi là sư thúc thế?
Hà Thiết Thủ ghé sát tai nàng khẽ nói:
– Bây giờ tôi tạm gọi chị là sư thúc, sau này sẽ gọi là sư mẫu đấy!
Thanh Thanh hai má đỏ bừng, trong lòng mừng thầm, từ đây trở đi có cảm tình với Hà Thiết Thủ, đang định cất tiếng mắng, bỗng thấy Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa bước vào.
Thừa Chí nói:
– Bây giờ chúng ta đã là người nhà rồi. Chuyện vong tồn của Hoàng Mộc đạo trưởng ra sao, chị hãy nói cho hai vị này nghe đi.
Hà Thiết Thủ mỉm cườn nói:
– Ông ta ở Vân Nam…
Nàng vừa nói tới đây, bỗng nghe một tiếng động lớn như trời long đất lở, ấm chén trên bàng cũng rung chuyển, ai nấy đều hoảng sợ, vừa định thần lại có mấy tiếng liên tiếp như thế nữa. Trình Thanh Trúc nói:
– Chắc là đại bác đấy.
Hồi 22
Các người trong nhà đều lên cả đại sảnh. Hồng Thắng Hải ở bên ngoài chạy vào, kêu lớn:
– Quân của Sấm Vương đã tới.
Lúc ấy tiếng đại bác lại nổ, trong thành ánh lửa rực trời, tiếng hò reo dậy đất, đại quân của Sấm Vương đã đánh tới ngoài thành Bắc Kinh.
Thừa Chí nói với Đồng Huyền rằng:
– Đạo trưởng, nàng đã bái tôi làm sư rồi, việc của tôn sư hãy thong thả…
Hà Thiết Thủ nhanh mồm nói liền:
– Hoàng Mộc đạo nhân bị cô tôi nhốt ở trong Độc Long động tại huyện Đại Lý tỉnh Vân Nam. Hai vị đem cái này đi tới đó để cứu ông ta.
Nói xong, nàng đưa cái còi bằng sắt đen, hình con rắn, cho hai người. Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa hay tin sư phụ vô sự, mừng rỡ vô cùng, vội cám ơn nàng và nhận lấy cái còi. Hà Thiết Thủ nói tiếp:
– Cái còi này là lệnh phù của tôi. Hai vị phải đi ngay, quý hồ tới trước bọn giáo chúng ở đây về là cứu được tôn sư ngay, vì giáo chúng ở đó vẫn chưa hay tin tôi đã phản giáo phái, chúng thấy lệnh phù này tự nhiên tha lệnh tôn sư ngay.
Đồng Huyền và Mẫn Tử Hoa vội vàng đi luôn.
Hai người đi không lâu, các nơi hào kiệt đều tới nghe hiệu lệnh của Thừa Chí khởi sự làm nội ứng cho Sấm Vương. Phân phát cho ai phóng hỏa, ai tiếp ứng, Thừa Chí đã có sẵn kế hoạch đâu vào đấy cả. Chàng lại cho người tới chân thành thám thính. Không bao lâu, một tên đầu hạ của Chế tướng quân Lý Nham sai tới trà trộn vào trong thành để đưa thư. Chàng cả mừng, liền cho người đi các nơi hành sự ngay. Buổi chiều hôm đó, các người đã đem ca dao đi truyền bá khắp mọi nơi. Ở thành Tây, chúng trẻ đều ca rằng:
“Buổi sáng nguyện cầu thăng, buổi chiều nguyện cầu hợp. Gần đay kẻ nghèo khó sinh tồn, sáng sáng mở cửa vái Sấm Vương. Già trẻ lớn bé được phước hưởng.”
Quân Minh ở trong thành đã đại loạn, còn ai ngăn cấm dân chúng hát những bài ca dao ấy nữa. Ở miền Nam đêm lên mười hòm châu báu, Thừa Chí đã bán hết lấy tiền để cho nhân viên đắc lực hối lộ các quan binh giữ thành.
Ngày hôm sau là ngày 18 tháng 3, Thừa Chí và Thanh Thanh, Hà Thích Thủ, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, vân vân, hóa trang làm quân Minh đều lên trên đầu thành trông xuống, chỉ thấy mấy chục vạn quân của Sấm Vương mặc áo vàng, giáp vàng, như là mây vàng phủ khắp cánh đồng. Đại bác cứ bắn vào trong thành. Trận thế của quân thủ thành đã loạn thì địch sao nổi. Những quan binh ăn hối lộ chỉ bắn tên lên trời, và đại bác chỉ bắn thuốc súng không thôi. Tường thành Bắc Kinh tuy dầy thật nhưng chỉ một, hai ngày là bị hạ ngay.
Bọn Thừa Chí cả mừng, trưa ngày hôm đó liền chỉ huy mọi người phóng hỏa khắp các nơi, đón đường chém giết quan binh. Dân nghèo khắp mọi nơi đều nổi lên hưởng ứng, trong thành loạn lạc tứ tung. Quần hùng đang hò reo tác chiến với quan binh, Thừa Chí bỗng trông thấy một đội quan binh ủng vệ một Cẩm Y Thái giám vừa đi vừa hò hét. Dưới ánh sáng lửa, Thừa Chí nhận ngay ra tên Thái giám đó là Tào Hóa Thuần.
Thừa Chí cả mừng kêu gọi:
– Tất cả anh em theo tôi lại đây bắt tên gian tặc kia.
Thiết La Hán cùng Hà Thích Thủ mở đường đi trước, xông thẳng sang. Quần hùng đều là những nhân vật cừ khôi trong võ lâm cả thì những quan binh thường cản trở sao nổi. Thấy tình thế bất lợi, Tào Hóa Thuần vội quay đầu ngựa định chạy, Thừa Chí nhảy tới trước mặt, túm lấy chân tên gian tặc ấy lôi ngay xuống dưới đất. Nhận thấy kẻ địch là Thừa Chí, Tào Hóa Thuần sợ hãi quá. Thừa Chí quát lớn:
– Ngươi định chạy đi đâu?
Tào Hóa Thuần đáp:
– Hoàng… hoàng… thượng, sai… tiểu nhân ra cửa thành Trương Nghĩa đốc chiến.
Thừa Chí nói:
– Được, đi tới Trương Nghĩa môn ngay.
Quần hùng quây quần theo Tào Hóa Thuần lên thẳng trên đầu thành, xa xa trông thấy cờ bay phất phới, dưới lá cờ lớn nhứt có một người đầu đội nón lá, cỡi trên ngựa ô, đi lại đốc chiến, người đó tức là Sấm Vương Lý Tự Thành. Thừa Chí lớn tiếng kêu gọi:
– Mau mở cửa thành ra nghênh đón Sấm Vương.
Nói xong, chàng dùng sức bóp mạnh một cái, Tào Hóa Thuần đau đến nỗi chết giấc tại chỗ. Tánh mạng đã nằm trong tay người, y đâu dám cưỡng lệnh, huống hồ đã thấy đại thể sụp đổ rồi, y đành phải xoay lại ngay, định đầu hàng Sấm Vương, để được ra nghênh đón tân chủ, may ra vẫn được ở chức cũ. Nghĩ đoạn, y liền ra lệnh cho mở cửa lớn Trương Nghĩa môn. Quân lính của Sấm Vương ở ngoài thành. Thừa Chí dẫn mọi người theo bọn tàn binh của nhà Minh lui vào nội thành.
Trong nội thành cũng có khá nhiều binh sĩ canh gác, lại thêm những tàn binh ở ngoài thành rút lui và đứng chật ních cả tường thành. Lúc ấy trời đã chiều tối, nghĩa quân ở ngoại thành gõ chiêng thu binh để nghỉ ngơi. Bọn Thừa Chí cũng trở về nhà ăn uống nghỉ ngơi. Dưới chân thành tiếng trống và tiếng hò reo vẫn còn ồn ào. Các Thống binh và tướng ta, có người đang đứng tên tường thành đốc chiến và cũng có người bỏ chạy mất dạng rồi, không ai để ý tới bọn Thừa Chí cả.
Về tới nhà, mọi người tắm rửa, thay quần áo và cơm nước xong, đều lên cả nóc nhà xem thấy trong nội thành đâu đâu cũng có ánh sáng lửa. Thừa Chí mừng nói:
– Sáng sớm ngày mai, Sấm Vương có thể tấn công vào nội thành rồi, tối hôm này là lúc ta giết kẻ thù trả thù cho ta đấy.
Mọi người biết chàng định đi hành thích vua Sùng Chính để báo thù cho cha, ai nấy đều muốn đi theo vào trong thâm cung.
Thừa Chí nói:
– Quý vị đã vất vả một ngày rồi, tối hôm nay còn nhiều việc lớn phải làm. Trong lúc loạn lạn này, trong cung thể nào cũng giới nghiêm kém ngày thường, hành thích hôn quân dễ như trở bàng tay, một mình tôi đi cũng dư sức rồi. Mọi người nghĩ: “Chàng võ nghệ tuyệt thế như vậy, muốn giết người xưa nay vẫn tự xưng Cô gia quả nhân, hơn nữa trong lúc loạn ly, các thị vệ có lẽ đã bỏ chạy hết sạch, thật dễ như trở bàn tay.”
Vì vậy, ai nấy đều nghe lời ở lại. Thừa Chí dặn Thanh Thanh lập một bài vị viết “Tiền quân cố Binh bộ Thượng thư Kế Liêu Đốc soái Viên” và thắp sẵn hương nến, chờ chàng chặt đầu Sùng Chính đem về tế lễ cha mình, rồi mới đem ra đầu thành treo lên để bêu riếu. Lúc ấy chỉ đứng trên cao hô lên một tiếng là cả thủ quân trong nội thành phải tan rã ngay. Chàng đem theo một cái túi da để đựng đầu lâu nhà vua, lưng giấu một con dao nhọn dài hơn thước, rồi rảo cẳng đi về phía hoàng cung.
Suốt dọc dường ánh sáng đuốc và nến chiếu rạng, tàn binh bại tướng tới đâu là cướp phá đấy. Thừa Chí vào thẳng Hoàng cung, Vệ binh và Thái giám canh gác đã đào tẩu đi đâu rồi. Thấy trong cung lạnh lùng yên tĩnh như tờ, Thừa Chí cũng phải giựt mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Nếu Sùng Chính trốn núp một nơi nào thì công của ta thành dã tràng.”
Nghĩ đoạn, chàng đi thẳng tới thâm cung, vừa ra tới ngoài cửa đã nghe thấy tiếng một người đàn bà đang lớn tiếng mắng chửi. Thừa Chí đứng núp bên cạnh cửa, ngó vào bên trong, trong lòng hớn hở, thì ra Sùng Chính đang ngồi yên trên ghế, một người đàn bà mặc y phục hoàng hậu đang chỉ tay chửi:
– Nếu mười mấy năm nay ông chịu nghe lời tôi thì đâu đến nỗi có chuyện ngày này. Ông đã làm cho tôn miếu xã tắc trầm luân vào tay giặc, còn mặt mũi nào gặp các cụ tổ dưới âm.
Sùng Chính cúi đầu không nói. Hoàng hậu mắng chửi một hồi, hai tay ôm mặt chạy ra. Thừa Chí đang định nhảy vào hạ thủ, bỗng nhiên thấy đâu bên cạnh có bóng người nhảy ra, một thiếu nữ tay cầm bảo kiếm đi tới trước mặt Sùng Chính kêu gọi:
– Phụ hoàng, thời thế đã khẩn cấp lắm rồi, mau mau ra khỏi cung đi.
Thiếu nữ đó là Trường Bình công chúa – A Chín. Nàng quay lại nói với một tên Thái giám:
– Vương công công làm ơn hầu hạ cẩn thận một chút.
Thái giám đó là Vương Thừa Ân, ứa mắt nói:
– Dạ. Công chúa cùng chạy với bộ hạ và hạ thần đấy ư?
A Chín đáp:
– Không tôi còn phải ở trong cung này một lát.
Vương Thừa Ân nói:
– Chỉ trong chớp mắt, nội thành sẽ bị phá tan, Công chúa ở lại trong cung nguy hiểm lắm.
A Chín nói:
– Tôi còn phải chờ đợi một người.
Sùng Chính biến sắc mặt hỏi:
– Con muốn chờ con trai của Viên Sùng Hoán phải không?
A Chín mặt đỏ đáp:
– Vâng, thần nhi ngày hôm nay xin cáo biệt bệ hạ.
Sùng Chính hỏi:
– Con chờ y làm gì?
A Chín đáp:
– Anh ta đã nhận lời, thế nào cũng tới đây với con.
Sùng Chính nói:
– Con đưa thanh kiếm cho trẫm.
Sùng Chính cầm lấy thanh kiếm Kim Xà, bỗng nhanh tay chém luôn một cái, bổ xuống đầu A Chín.
A Chín sợ hãi thét lên một tiếng tránh sang bên. Thừa Chí kinh hãi. Chàng không ngờ Sùng Chính lại nhẫn tâm chém giết con gái mình như vậy, cách hai người xa quá, thấy tình thế nguy ngập, vội nhảy xổ vào cứu. Vừa tới giữa đường, chàng đã trông thấy A Chín ngã lăn ra đất rồi. Sùng Chính giơ kiếm định chém nữa, Thừa Chí giơ tay ra bắt lấy thanh kiếm, tay trái vẫn nắm chặt cổ tay kẻ thù, quay lại thấy A Chín đang nằm trong vũng máu, cánh tay trái của nàng đã bị chém đứt. Thừa Chí cả giận quát lớn:
– Tên hôn quân kia, giết chết cha ta, hôm nay ta tới lấy mạng mi đây!
Thấy là Thừa Chí, Sùng Chính thở dài một tiếng rồi nói:
– Phải, trẫm tự là Hưng Trường Thành, ngày hôm nay hối bất cập nhà ngươi cứ việc ra tay đi.
Nói xong, nhà vua nhắm nghiền mắt lại. Hai tên Nội giám chạy lại muốn kéo tay Thừa Chí, bị đá luôn một cái. Cả hai đều bắn thẳng ra xa.
Phẩy tay phải một cái, Thừa Chí múa thanh kiếm đang định chém vào đầu Sùng Chính, A Chín mở mắt trông thấy, cố gượng hế sức bình sinh, nhảy lại ôm chặt lấy Sùng Chính, la lớn:
– Anh muốn giết Phụ hoàng, xin giết em trước…
Hai mắt nhìn Thừa Chí tỏ vẽ khẩn cầu. Nàng chưa nói dứt lời đã chết giấc, nằm lăn ra đất. Thấy cánh tay nàng máu chảy ra rất nhiều trong lòng bất nhẫn, tay trái khẽ đẩy một cái, Sùng Chính ngã ngửa bắn ra đằng xa. Thừa Chí ẵm luôn A Chín dậy, điểm luôn mấy chỗ yếu huyệt có liên can tới cánh tay bị thương, để cầm máu lại. Nhờ vậy, máu tươi không phun ra nữa. Chàng móc túi lấy thuốc Kim Thương Chỉ Huyết ra rịt cho nàng, và xé vạt áo bọc chỗ vết thương. A Chín dần dần tỉnh dậy. Vương Thừa Ân và mấy tên Nội giám đỡ Sùng Chính dậy, chạy thẳng ra ngoài cửa.
Thừa Chí quát lớn:
– Chạy đi đâu?
Chàng định đặt A Chín xuống, đuổi theo. A Chín ôm chặt lấy cổ chàng, khóc van lơn:
– Đừng giết cha em, đừng giết cha em!
Thừa Chí nghĩ lại, thành đã bị phá tới nơi, chắc Sùng Chính không toàn tánh mạng, tuy không phải chính tay ta giết, nhưng thù cha cũng như báo đền rồi. Nàng bị thương nặng ta không nên để nàng đau lòng thêm, nghĩ xong, chàng liền gật đầu đáp:
– Cũng được.
A Chín yên trí một lát, lại chết giấc liền.
Thấy các nơi trong cung đều đại loạn, Thừa Chí nghĩ: “A Chín bị thương nặng không ai trông nom cho, tất phải toi mạng, bây giờ ta đành phải ẵm nàng đem về nhà hãy hay.”
Chàng liên ẵm nàng ra khỏi hoàng cung.
Lúc ấy đã sang canh ba, chàng ngẩng đầu lên nhìn thấy nửa góc trời sáng rực như ban ngày, đâu đâu cũng có tiếng khóc than, chắc quân Minh tàn bại, thừa cơ cướp bóc của dân chúng. Khi về tới đường Chính Điền Tử, mọi người đang ngồi chờ đợi. Thanh Thanh trông thấy Thừa Chí lại ẵm một người con gái về, tỏ vẻ không vui, tiến tới gần mới hay là A Chín, vênh váo hỏi:
– Thủ cấp của Hoàng đế đâu?
Thừa Chí nói:
– Anh không giết y. Tiêu cô nương làm ơn trông nom nàng hộ.
Uyển Nhi nhận lời ẵm A Chín vào trong nhà trong. Thanh Thanh lại hỏi:
– Tại sao anh không giết?
Tần ngần giây phút, Thừa Chí chỉ tay vào bên trong nói:
– Nàng yêu cầu anh đừng giết.
Thanh Thanh nổi giận nói:
– Nàng, nàng là ai? Tại sao anh lại nghe lời nàng?
Thừa Chí chưa trả lời, Hà Thích Thủ cười nói:
– Một cô con gái đẹp đẽ như thế, tại sao lại què tay như vậy? Sư phụ, bức hình nàng họa đâu? Có đem theo đây không?
Thừa Chí đưa mắt ra hiệu lia lịa. Hà Thích Thủ còn muốn đùa nữa nhưng thấy sắc mặt của Thanh Thanh và chàng đều trịnh trọng vô cùng liền lè lưỡi ra, câm miệng không dám nói nữa.
Thanh Thanh liền hỏi:
– Bức hình gì thế?
Hà Thích Thủ cười nói:
– Cô nương ấy vẽ giỏi lắm. Tôi đã được trông thấy tấm hình của nàng vẽ ấy rồi, thực là đẹp vô cùng.
Thanh Thanh xếch mắt lên hỏi:
– Có thật không?
Nói xong, nàng đi vào nhà trong. Hà Thích Thủ nhìn Thừa Chí thè lưỡi lắc đầu. Thừa Chí về phòng nghỉ ngơi giây lát. Lúc trời sắp sáng tỏ, Hồng Thắng Hải hấp tấp chạy vào trong kêu gọi:
– Viên tướng công, Sa trại chủ bắt được Thái giám Vương Tướng Nghiên, đã dẫn binh đi mở cửa Tuyên Võ môn rồi.
Thừa Chí nhảy lên, vội hỏi:
– Nghĩa quân đã vào thành chưa?
Hồng Thắng Hải đáp:
– Lưu Tôn Mẫn tướng quân đã vào rồi.
Thừa Chí nói:
– Hay lắm, chúng ta ra nghênh đón đi.
Hai người đi ra ngoài khách sảnh. Hà Thích Thủ nói:
– Sư phụ cứ yên trí, về việc trông nom các cô nương ở nhà đã có đồ đệ phụ trách.
Thừa Chí gật đầu tỏ vẽ bằng lòng. Trước kia Thị vệ trưởng của Sùng Chính, trong khi Thừa Chí điều động người tiếp ứng Sấm Vương, Trình Thanh Trúc không hề tham gia tới, suốt ngày chỉ khóa trái cửa phòng ngồi một mình bên trong không nghe và cũng không hỏi han tới các tin tức.
Thấy y còn nhớ một chút ơn đức của chủ cũ, Thừa Chí cũng không miễn cưỡng bắt phụ trách công việc gì. Lúc ấy, Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán chưa về. Thừa Chí dẫn chàng Câm, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải bốn người đi ra ngoài Đại Minh Môn, trên trời mây đen phủ kín, tuyết bay phấp phới, trên đường tàn binh bại tối chạy tán loạn khắp nơi. Bỗng có một người chạy qua la lớn:
– Chính Dương môn, Tề Hoa môn, Đồng Trực môn đều mở phanh ra rồi.
Năm người đi được một quãng đường, càng ngày càng thấy bại binh thưa thớt dần. Ngoài cửa các nhà bách tính đều dán giấy viết:
“Vĩnh Xương nguyên niên Thuận Đại vương vạn vạn tuế”
Dân chúng tay cầm hương hoa đứng chực ở hai bên lề đường, tiếng hoan hô vang lên như sấm động. Có nhà còn bày rượu và thịt ra cửa để ủy lạo nghĩa quân.
Thừa Chí nói với Hồ Quế Nam rằng:
– Nhân tâm như vầy, làm sao Sấm Vương không thành công cơ chớ?
Lại đi được một lúc nữa, phía trước tiếng tù và vang dội, mấy nghìn người dồn dập đi tới, Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán đi đầu, đằng sau là các anh hùng hào kiệt ở trong nội thành Bắc Kinh, đi tới đâu là đón đánh quân Minh tới đó, trông thấy Thừa Chí, ai nấy đều hoan hô.
Thiết La Hán nói:
– Sấm Vương sắp tới nơi rồi!
Vừa dứt lời, phía trước đã có mấy người cỡi ngựa phi tới. Một tên binh tốt của nghĩa quân tay cầm lá cờ lớn, trên đề “Chế tướng quân Lý”, bốn chữ thật lớn. Lý Nham mặc áo màu vàng, phi ngựa tới. Thừa Chí cả mừng kêu to:
– Đại ca!
Rồi chàng nhảy ngay tới phía trước ngựa. Lý Nham giựt mình nhưng khi nhìn thấy mặt chàng, bèn nhảy ngay xuống đất, cười nói:
– Chú Hai, chú là người đứng đầu công phá vỡ thành này đấy!
Thừa Chí nói:
– Đại quân của Sấm Vương đánh tới, quân Minh đều hãi sợ đầu hàng, tiểu đệ có công lao gì về việc ấy đâu?
Hai người nắm tay nhau trò chuyện được vài câu đã thấy Lưu Nhất Hổ, ngày trước từng gặp chàng ở trên núi Lão Nha và Thôi Thu Sơn, Thôi Hy Mẫn, An đại nương và An Tiểu Tuệ cùng đi tới nơi. Ai nấy đều tay bặt mặt mừng. Mọi người đang hàn huyên vui vẻ, bỗng nghe có tiếng tù và vang động và tất cả quan binh hô lớn:
– Đại vương đã tới. Đại vương đã tới!
Thừa Chí đứng sang một bên, thấy hơn trăm kỵ binh đi đầu mở đường. Lý Tự Thành đầu đội nón lá, mình khoác áo tơi, cỡi con ngựa ô, từ cửa Đắc Thắng môn đi tới.
Lý Nham tiến lên khẽ nói mấy lời.
Lý Tự Thành cười nói:
– Hay lắm, mời chú em họ Viên lại đây.
Lý Nham vẫy tay gọi. Thừa Chí đi tới trước mặt hai người.
Lý Tự Thành cười nói:
– Chú Viên, chú lập công càng lớn! Sao không có ngựa ư?
Nói xong, Sấm Vương nhảy xuống đất nhường cương nhường ngựa cho Thừa Chí.
Chàng vội vàng cảm tạ. Mọi người đều hoan hô vạn tuế. Lý Tự Thành cỡi con ngựa khác. Rồi mọi người hộ vệ Sấm Vương đi thẳng về phía Thừa Thiên Môn. Sấm Vương quay đầu lại nói với Thừa Chí:
– Chú noi theo ý chí của thân phụ. Tôi thừa lệnh của Trời!
Nói đoạn, Sấm Vương lắp tên, giương cung, nhắm chữ Thiên trên cổng thành, bắn luôn một phát trúng liền. Thần lực của Sấm Vương kinh người, mũi tên đó xuyên ngập bức tường thành. Quần hùng lại hoan hô lần nữa. Khi tới Đắc Thắng môn, Thái giám Vương Đức Hoa đã dẫn ba trăm tên nội giám phủ phục nghênh đón.
Sấm Vương vút roi xuống đất, cả cười rồi nói với Thừa Chí rằng:
– Chú Viên, hồi năm ngoái chú gặp tôi ở Thiểm Tây, chú có ngờ tới ngày hôm nay không?
Thừa Chí đáp:
– Đại vương khắc thành đại nghiệp, các nhân sĩ thức thời đều đã sớm biết có ngày nay rồi. Họ chỉ không ngờ sao lại nhanh chóng đến thế mà thôi.
Lý Tự Thành vỗ tay cả cười, bỗng có một người chạy tới báo cáo:
– Bẩm Đại vương, có một tên Thái giám nói, y đã trông thấy Sùng Chính chạy về phía núi Mai Sơn.
Lý Tự Thành quay đầu lại nói với Thừa Chí:
– Chú Viên, chú đem người đi tróc nã Sùng Chính về đây.
Thừa Chí đáp:
– Tuân lệnh.
Chàng vẫy tay một cái, bọn Hồ Quế Nam vội đi theo liền.
Sự thật Mai Sơn chỉ là một ngọn đồi nhỏ. Thừa Chí cùng các vị hào kiệt khi lên tới đỉnh đồi đều giựt mình kinh hãi, vì thấy dưới cành cây cổ thụ, có hai người treo cổ lơ lửng. Một người tóc xõa xuống phủ lấp cả mặt mũi, mình mặc bào trắng, áo cánh lam, quần nhiễu trắng, chân trái không đi giày, chân phải xỏ chiếc giầy mũi vuông màu hồng. Lật tóc ra xem, Thừa Chí nhận thấy người đó đúng là vua Sùng Chính, trước ngực ông ta có viết mấy dòng chữ bằng máu như sau: “Trẫm từ ngày đăng quang tới giờ đã mười bảy năm, bị địch quân xâm nhập nội địa bốn bên, rồi nghịch tặc lại đánh tới kinh sư. Trẫm tuy đức bạc, mang tội với trời nhưng cũng do quần thần làm lỡ việc mà nên. Trẫm chết rồi, còn mặt mũi nào gặp chư vị tổ tiên dưới âm phủ nên trẫm phải bỏ vương mão, phủ tóc xuống che mặt, phó mặc cho giặc phân thây trẫm nhưng xin đừng làm tổn thương đến một người dân nào.”
Thừa Chí cầm tờ huyết thư lên đọc trong lòng rất đỗi hoang mang. Chàng nghĩ thầm: “Đại thù từ hai mươi năm nay, bây giờ mới được dịp báo phục, đáng lẽ ta phải vui mừng mới phải nhưng thấy kẻ thù chết một cách bi thảm như vậy ta cũng thấy bồi hồi xúc động trong lòng.”
Chàng thở dài rồi nói:
– Sao bây giờ ông lại nói đạo đức quá, khuyên đừng làm tổn thương đến một người dân nào! Nếu ông sớm biết thương tiếc bá tánh, không để cho thiên hạ lầm than đói rét, thì đâu đến nỗi xảy ra cơ sự như ngày nay.
Hồng Thắng Hải nói:
– Viên tướng công, người treo cổ ở bên góc kia là một viên Thái giám đấy.
Thừa Chí nói:
– Hoàng đế này lúc chết chỉ có một Thái giám hầu cạnh, thật là cột “dậu đổ bìm leo” có khác! Chúng phản thiên lý, không còn một người nào hết lòng trung thành lúc này! Anh Thắng Hải, khiêng cái xác này ra ngoài kia, đừng để cho người khác xâm phạm và làm nhục.
Hồng Thắng Hải vâng lời làm theo liền. Thừa Chí phi ngựa trở về báo cáo cho Sấm Vương hay.
Lý Tự Thành đã vào trong cung. Chàng tới cửa cung, bọn cận vệ nhận được, cung kính đưa chàng vào nội cung. Lúc ấy Lý Tự Thành đang ngồi trên ghế. Một thiếu niên áo mũ chỉnh tề đứng cạnh. Thấy Thừa Chí vào, Lý Tự Thành vội hỏi:
– Chú Viên đã về đấy à? Nhà vua đâu? Đưa y vào đây?
Thừa Chí nói:
– Vua Sùng Chính đã tự ải rồi ạ.
Ngẩn người ra giây lát, Tự Thành liền cầm lấy di chiếu của Sùng Chính lên xem. Người thiếu niên đứng cạnh bỗng phục xuống đất khóc lóc suýt chết giấc tại chỗ.
Tự Thành nói:
– Thái tử đấy.
Thừa Chí vội vựt Thái tử dậy. Tự Thành lại nói:
– Thái tử có biết tại sao nhà vua mất thiên hạ không?
Thái tử đáp:
– Vì Phụ hoàng tôi dùng lầm bọn gian thần, như Chu Diện Nho chẳng hạn.
Lý Tự Thành cười nói:
– Ta cũng biết lắm.
Nói xong, Sấm Vương lại nghiêm nét mặt nói tiếp:
– Nói cho cậu biết, Phụ hoàng của cậu vừa hồ đồ vừa tàn nhẫn khiến nhân dân thiên hạ đau khổ biết bao. Ngày hôm nay, Phụ hoàng cậu chết treo như vậy rất bi đát. Nhưng y trị vì mười bảy năm trời có biết hàng nghìn hàng vạn nhân bị áp bức mà phải chết treo, lại càng bi đát hơn nữa.
Thái tử cúi đầu ngẫm nghĩ một lát lâu, mới nói:
– Nếu vậy, ông đem tôi ra xử trảm đi!
Thấy Thái tử cứng cổ như vậy, Thừa Chí cũng phải lo ngại thay. Tự Thành nói:
– Cậu còn nhỏ, không làm nên tội trạng gì. Ta không vô cớ giết người.
Thái tử nói:
– Nếu vậy, tôi xin ông mấy điều này.
Tự Thành đáp:
– Cậu thử nói cho ta xem.
Thái tử nói:
– Xin ông đừng kinh động tới lăng tẩm tổ tiên tôi, và chôn cất Phụ hoàng cùng mẫu thân tôi được tươm tất.
Tự Thành đáp:
– Những điều đó, cậu không xin, ta cũng sẽ làm như thế.
Thái tử lại nói:
– Còn một điều nữa, xin ông đừng có chém giết bừa những dân chúng vô tội.
Tự Thành lớn tiếng cười một hồi mới nói:
– Cậu là trẻ con có khác. Không hiểu một tí gì! Cậu có biết ta là hạng người gì không? Ta đây cũng là dân chúng và chính cúng ta dân chúng đây đã công phá kinh thành, cậu có biết không?
Thái tử đáp:
– Như vậy, ông không bao giờ giết chóc nhân dân phải không?
Tự Thành bỗng cởi áo ra, đưa vai cho mọi người xem những vết thẹo bị đòn vọt trông rất rùng sợ, rồi mới kể cho thái tử nghe:
– Ta vốn dĩ là một người dân lành bị tham quan ô lại đánh đập đến chết đi sống lại, hễ trông thấy những vết thương này là phẫn uất không sao nhịn được, mới nổi lên phản loạn. Hừ, cha của cậu giả nhân giả nghĩa, mở miệng là thương mến nhân dân mà trong quân đội ta, ai ai cũng là nạn nhân của cha cậu đấy.
Thái tử cúi đầu không dám trả lời. Mặc áo vào, Tự Thành lại nói:
– Cậu đi ra đi. Thấy cậu là Thái tử của tiên Hoàng đế, ta vẫn vui lòng phong cho cậu vương tước để cậu biết chúng ta, nhân dân khoan hồng như thế nào? Bây giờ biết phong cho cậu vương tước gì nhỉ? A, cha cậu đã hiến giang sơn cho ta thì phong cho làm Tống Vương vậy.
Thái giám Tào Hóa Thuần đứng cạnh nói:
– Mau quỳ xuống tạ ơn Bệ hạ đi.
Thái tử giận dữ nhìn, bỗng quay tay tát một cái thật mạnh. Mặt Tào Hóa Thuần hiện ngay năm vết ngón tay, Tự Thành cả cười nói:
– Hay lắm, gian tặc bất trung bất nghĩa đáng ăn tát lắm! Bây đâu, đem tên phản tặc này ra trảm ngay!
Sợ hãi đến nỗi sắc mặt tái mét đi, Tào Hóa Thuần quỳ ngay xuống, vái lia lịa, đầu rập xuống thềm, trán chảy máu rất nhiều. Tự Thành đá lộn một vòng, quát lớn:
– Bước ra ngoài kia, từ nay ta còn bắt gặp sẽ mổ bụng banh xác ngươi ngay!
Tào Hóa Thuần giọng nói run bây bẩy đáp:
– Dạ, dạ…
Y lại vái mấy cái, vội lùi ra ngay. Thái tử nghêng ngang đi theo ra.
Tự Thành vừa cười vừa nói với Thừa Chí rằng:
– Thằng bé ấy khá cứng cỏi đấy. Ta thích những đứa trẻ có cốt khí như thế.
Sấm Vương lại quay về phía sau nói với quân sư lùn Tống Hiến Sách rằng:
– Nghe nói Sùng Chính có còn một vị công chúa, sao ta không thấy mặt nàng.
Thừa Chí vội đỡ lời:
– Hoàng đế đã chặt đứt một cánh tay của nàng rồi. Khi nào lành mạnh, em sẽ dẫn nàng tới đây vấn an Đại vương.
Tự Thành cười nói:
– Được, được, công lao của chú rất lớn, ta đang nghĩ không biết lấy gì để tặng cho chú mới xứng đáng, thì tiện đây ta thưởng luôn Công chúa cho chú đấy.
Thừa Chí xấu hổ, ấp úng đáp:
– Không, không… em…
Tống Hiến Sách cười nói:
– Có thế mà chú Viên đã xấu hổ rồi. Hà, hà, dù sao anh hùng vẫn là giới thiếu niên. Lưu tướng quân và mấy vị nữa công lao cũng lớn lắm mà Đại vương chỉ thưởng cho mỗi người một nàng cung nữ thôi.
Nghe lời nói của quân sư lùn hình như có vẻ châm biếm mình, Thừa Chí ngạc nhiên, đưa mắt nhìn Hiến Sách, thấy y cao không đầy ba thước, chân phải thọt, nên đi khập khiễng, tay y cầm một cây gậy, mặt hơi dài và nhỏ, đôi mắt tinh khôn nhìn mình mỉm cười. Đang lúc Lý Nham ở ngoài hấp tấp chạy vào lớn tiếng nói:
– Đại vương, Lưu tướng quân cùng mấy người nữa làm quá lắm.
Tự Thành hỏi:
– Việc gì thế?
Lý Nham đáp:
– Lưu tướng quân và mấy người nữa đi bắt bớ các quan phú hộ, đem về tra tấn, bắt gia đình nạn nhân phải đêm tiền bạc tới chuộc, có một số người quá nghèo chuộc không nổi đã bị các vị ấy xử trảm rồi.
Tống Hiến Sách cười nói:
– Các anh ấy ra sống vào chết, hy sinh rất nhiều mới cướp được giang sơn này, dù có làm bậy kiếm chút tiền để tiêu pha, cũng không phải là quá đáng!
Lý Nham nổi giận nói:
– Không thể để cho các anh ấy làm bậy như thế được. Hiện giờ Giang Nam chưa ổn định, Sơn Hải Quan tướng Ngô Tam Quế chưa đầu hàng, lòng dân hoang mang mà người cầm quân chỉ muốn phát tài cướp của như thế sao được?
Tống Hiến Sách cười nhạt nói:
– Họ muốn phát tài một tí có làm sao đâu? Chỉ sợ những người mới quy hàng mà vẫn ôm ấp lòng phản trắc mới là mối nguy đáng ngại nhứt.
Gân mặt run động mấy cái, Tự Thành đưa mắt lườm Lý Nham, không nói nửa lời.
Lý Nham phẫn uất nói:
– Chúng ta sở dĩ được thành đại sự, chẳng phải nhờ lòng dân quy hưởng, bá tánh ủng hộ là gì?
Thấy hai người càng cãi càng lớn tiếng, Thừa Chí nghĩ mình không phải là người cũ của Sấm Vương, không tiện dây dưa vào trong đó làm gì. Nghĩ đoạn, chàng cúi chào Tự Thành, rút lui ra khỏi Hoàng cung.
Vừa đi ra tới cửa cung, chàng thấy một người chạy tới kêu gọi:
– Tiểu sư thúc, cháu đang tìm kiếm chú đấy!
Hồi 23
Người ấy mặt áo vải đi giầy rơm, lưng đeo trường đao, chính là cháu ruột của Thôi Thu Sơn, chàng Thôi Hy Mẫn Thừa Chí hỏi:
– Có việc gì thế?
Hy Mẫn móc túi lấy một lá thư ra đưa cho Thừa Chí. Nhận xét bút tích, chàng biết ngay lá thơ của sư phụ, liền cung kính đỡ lấy, bóc thư ra đọc. Trong thơ viết:
“Theo di huấn của chư vị tổ sư, bất cứ đệ tử nào của phái Hoa Sơn đều không được phép nhận quan chức của Triều đình. Ngày nay Sấm Vương đã khắc tựu đại nghiệp, tất cả đệ tử của phái ta đều phải rút lui ngay. Và đêm trăng tròn tháng tới, lên đỉnh núi Hoa Sơn tề tập.”
Dưới ký tên: Nhân Thanh.
Thừa Chí nói:
– Ủa, cách hội kỳ chỉ còn non một tháng, chúng ta phải đi ngay mới kịp.
Hy Mẫn nói:
– Chính thế ạ. Cả Thôi thúc thúc cũng bảo đi cùng với chúng ta đấy.
Hai người trở về đường Chính Điền Tử, vừa tới đầu đường đã nghe thấy tiếng khí giới va chạm, hò hét mắng chửi, rồi lại thấy mấy chục quân Minh từ trong nhà chàng hấp tấp chạy ra…
Thừa Chí nghĩ: “Quân Minh đã tan rã hết rồi, tại sao lại còn mấy chục người ở đây thế?”
Nghĩ đoạn, chàng bước rảo cẳng. Về tới nhà, Thừa Chí thấy Hà Thích Thủ đang múa động song câu, đánh bọn quân Minh chen nhau chạy ra ngoài. Chỉ trong giây lát, không còn một bóng người nào ở đó nữa.
Hà Thích Thủ cười nói:
– Những tên đại binh này thấy nhà ta cao lớn, muốn ào đánh cướp đấy sư phụ ạ.
Thừa Chí cười nói:
– Cũng may tôi trở về sớm một tí, chớ không bọn tàn quân ấy còn phải chịu khổ nữa.
Ba người cùng đi vào nội đường, bỗng thấy Hồng Thắng Hải từ phía trong hớt hải chạy ra, sắc mặt nhợt nhạt, lớn tiếng kêu la:
– Nguy tai! Nguy tai!
Thừa Chí giựt mình kinh hãi, liền hỏi:
– Việc gì thế?
Hồng Thắng Hải đáp:
– Trình… Trình… lão phu… tử…
Mọi người đều ùa vào trong phòng của Trình Thanh Trúc. Ai nấy đều kinh hãi vô cùng, vì thấy ông ta đang quỳ ở dưới đất, người cứng đờ như tượng gỗ, trên ngực thấy cắm một con dao sáng quắc.
Sa Thiên Quảng giận dữ nói:
– Mau bắt tên thích khách!
Y nhảy luôn ra ngoài cửa sổ, Hồ Quế Nam, Hà Thích Thủ cũng nhảy theo ra. Thừa Chí để tay vào mũi Thanh Trúc xem còn thở hay không. Nhận thấy sự hô hấp đã đình chỉ, người đã giá lạnh như băng tuyết chàng mới hay ông ta chết từ lâu rồi. Chàng cúi xuống xem tờ giấy buộc ở trên cán dao, thấy có việc tám chữ như sau: “Vì thần đồng tử, dĩ tuần ngô chủ” (Thần hèn mọc này xin cùng chết, do được tuẫn tiết cho chủ.) Lúc này, chàng mới hay Trình Thanh Trúc đã tự sát để thủ tiết với chủ cũ. Chắc ông ta khi hay tin Sùng Chính băng hà, nhớ lại tình cũ nghĩa xưa, liền lấy dao tự sát luôn. Hành động này tuy là tận trung một cách ngu dại, nhưng tánh nết cương trực của ông ta thật đáng thương hại. Thừa Chí cũng phải nhỏ mấy hàng lệ anh hùng. Chàng liền sai người đuổi theo gọi bọn Sa Thiên Quảng trở về, và cho người đi mua cỗ quan tài để an táng cho Trình Thanh Trúc. Ông ta là Bang chủ của một bang phái lớn, đáng lẽ phải làm ma chay thật linh đình nhưng trong lúc loạn ly này, phu phen không có, bạn bè cũng chạy cả, vậy lấy ai để khênh vác các đồ nghi trượng, nên Thừa Chí đành phải cho khâm liệm ngay. Chàng cùng mọi người đứng trước quan tài hành lễ. Mãi không thấy Thanh Thanh ra, chàng hỏi Uyển Nhi rằng:
– Hạ cô nương đâu?
Uyển Nhi đáp:
– Em không thấy chị ấy ra ngoài này. Để em vào mời chị ấy ra hành lễ.
Thừa Chí nói:
– Không dám phiền cô, tôi đi gọi lấy cũng được.
Chàng vào tới cửa phòng Thanh Thanh, dùng ngón tay khẽ gõ vài cái và nói:
– Chú Thanh, mở cửa cho tôi.
Thấy trong phòng im lặng, chàng lại gõ thêm vài tiếng nữa, vẫn không thấy hồi âm. Chàng đẩy mạnh cửa vào, thấy trong phòng rỗng không, liền ngẩn người ra giây lát. Khi định thần lại, chàng mới hay Thanh Thanh bỏ đi rồi. Nàng đem cả bảo kiếm lẫn y phục, thậm chí đem cả cái lu đựng hài cốt của mẹ nàng đi nốt. Chàng lục lọi khắp nơi, thấy dưới gối có một tờ giấy của nàng để lại, trên đó viết: “Anh đã có Kim Chi Ngọc Điệp, còn lấy tôi, con nhà dân quèn làm gì nữa!”
Thừa Chí ngẩn người ra nhìn tờ giấy của Thanh Thanh viết để lại, trong lòng bối rối vô cùng, không biết làm thế nào cho phải? Chàng nghĩ: “Ta đối với nàng chân tình như thế, mà hơi tí lại nghi ngờ, lúc nào cũng đề phòng ta. Ta là nam nhi đại trượng phu, làm gì cũng quang minh chính đại, chớ có bao giờ ta làm điều gì khuất lấp đâu? Suốt ngày vào sanh ra tử trong rừng thương núi đao, tránh sao khỏi không đụng chạm với người này người nọ, nhưng ta không làm một điều gì trái với lương tâm cả. ChúThanh, chú Thanh ơi! Quả thật chú không hiểu lòng tôi một tí nào!”
Nghĩ tới đây, chàng ứa nước mắt, trong lòng đau đớn vô cùng, lại nghĩ tiếp: “Lần trước nàng ra đi, suýt tí nữa nàng bị quân ngoại quốc bắn chết. Hiện bây giờ thiên hạ chưa được ổn định, trong lúc binh hoang loạn mã này, không biết nàng đi về phía nào?”
Chàng buồn bực, ngồi xuống mép giường. Uyển Nhi rón rén bước vào nhìn thấy Thừa Chí thẫn thờ như người mất hồn mất vía vậy, sợ hãi quá vội chạy ra báo tin cho mọi người hay. Ai nấy đều vào cả trong phòng khuyên giải. Uyển Nhi tuy ít tuổi hơn hết nhưng rất điềm tĩnh, ra hiệu bảo mọi người yên lặng, rồi nói với Thừa Chí rằng:
– Viên tướng công lo lắng như vậy cũng vô ích. Hạ cô nương võ nghệ cao cường như thế, ai dám hà hiếp cô ta? Tướng công, chú Câm và chị Hà Thích Thủ cứ việc đi lên Hoa Sơn trước. Tiểu muội xin ở lại đây trôm nom cô A Chín. Còn chú Sa Thiên Quảng, Thiết lão sư, chú Quế Nam và tất cả đàn em trong bang Kim Long sẽ chia đường đi kiếm Hạ cô nương, đồng thời Tướng công cho truyền lệnh bài đi khắp chốn giang hồ, ra lệnh cho các hào kiệt, bang phái để ý giúp hộ cho.
Nàng vừa nói, Thừa Chí vừa gật đầu. Chờ nàng nói xong, chàng mới lên tiếng:
– Ý kiến của Tiêu cô nương rất hay. Chúng ta cứ theo kế hoạch đó mà tiến hành. Nhưng Hà Thích Thủ vì chưa chánh thức nhập môn của tôi, còn phải đợi tôi bẩm cùng sư phụ rõ đã hãy hay. Lần này, chị ấy hãy tạm ở lại đây.
Hà Thích Thủ định lên tiếng cầu khẩn, bỗng sực nghĩ tới Thanh Thanh cũng nghi ngờ nàng, nếu bây giờ nàng đi cùng với Thừa Chí thì không tiện tí nào, nên nàng chỉ mỉm cười không lên tiếng nữa.
Nàng lại nghĩ: “Không cho ta đi, ta cứ đi cho mà xem.”
Nàng là Giáo chủ tà giáo, xưa nay thích gì làm nấy, chớ không ai dám ngăn cản cả. Nhưng gần đây, nàng đã ngoan ngoãn hiền lành ít nhiều rồi, tuy vậy, tánh ương ngạnh còn phần nào nên nàng mới trù tính lên núi Hoa Sơn một mình để bái sư tổ là thế.
Chỉ bảo đâu đấy xong, tối hôm ấy, Thừa Chí vào trong cung từ biệt Sấm Vương và Lý Nham. Tự Thành tặng cho chàng rất nhiều châu báu. Chàng định từ chối, thấy Lý Nham đưa mắt ra hiệu, chàng đành phải cảm tạ nhận lấy.
Lý Nham tiễn chàng ra tới cửa cung, thở dài nói:
– Chú Viên, chú công thành thân thoái như thế, thực là may mắn lắm… còn tôi ở lại đây sẽ bị tiểu nhân kèn cựa nhưng tôi vẫn phải ở lại, quyết lấy tánh mạng ra báo đền lòng tri ngộ của đại vương.
Nói xong, chàng tỏ vẻ buồn rầu. Thừa Chí cảm khoái nói:
– Xin đại ca thận trọng đôi chút, nếu gặp sự nguy nan, xin huynh cứ báo tin cho biết ngay. Dù xa cách nghìn vạn dặm, đệ cũng sẽ hỏa tốc tới giúp.
Hai người cùng gạt lệ từ biệt nhau.
Sáng sớm ngày hôm sau, Thừa Chí cỡi con Ô Bắc (đen và trắng) của Sấm Vương tặng cho, cùng với Thôi Thu Sơn, Thôi Hy Mẫn, An đại nương, Tiểu Tuệ, Hồng Thắng Hải sáu người, dắt hai con đười ươi thủng thẳng đi về phía Tây, tiến lên núi Hoa Sơn.
Ngựa của các người kia cũng là lương mã nên không bao lâu đã tới huyện Uyển Bình.
Mọi người vào khách sạn nghỉ chân. Cơm nước xong, sắp sửa lên đường, Hồng Thắng Hải nhanh mắt trông thấy trên góc tường có một con bò cạp và một con rít, cả hai con đều được đóng bằng một cái đinh cỏn con.
Chàng giựt mình vội kéo vạt áo Thừa Chí. Đưa mắt nhìn hai con vật nọ, Thừa Chí gật đầu, trong lòng nghĩ thầm: “Cái này chắc có liên can tới Ngũ Độc giáo, chỉ tiếc rằng Hà Thích Thủ không có mặt ở đây, không biết họ làm dấu hiệu như thế có ý nghĩa gì?”
Hồng Thắng Hải hỏi dò điếm tiểu nhị:
– Mấy con vật ở trên góc tường kia, chắc lại bọn người nói giọng miền Nam đóng lên phải không?
Điếm tiểu nhị cười nói:
– Nếu không nhật ít tiền của họ thì cháu đã vứt hai con vật ấy đi từ lâu rồi. Thật phiền quá ông ạ.
Y vừa nói vừa đếm đốt ngón tay, rồi lại vừa cười vừa nói tiếp:
– Từ ngay hôm kia tới giờ, kể cả ông đã có trên mười vị khách quan hỏi cháu về chuyện hai con vật ấy.
Hồng Thắng Hải vội hỏi:
– Chú có nhớ người nào đã đóng lên không?
Điếm tiểu nhị đáp:
– Một mụ ăn xin già đấy!
Hồng Thắng Hải đưa mắt nhìn Thừa Chí rồi lại hỏi tiếp:
– Còn những người đã hỏi chú là hạng người như thế nào?
Vừa hỏi, chàng vừa nhét một ít bạc vụn vào tay điếm tiểu nhị.
Nhận lấy số bạc vụn, điếm tiểu nhị cám ơn rồi cười nói:
– Những người đã hỏi cháu toàn là bọn ăn xin và tụi côn đồ, nhưng không ngờ người lịch sự như ông mà cũng hỏi tới chuyện…
Thừa Chí liền ngắt lời tên nọ, hỏi luôn:
– Khi mụ ăn xin đóng hai con vật ấy, có ai đứng cạnh không?
Điếm tiểu nhị nghĩ ngợi giây phút mới đáp:
– Ngày hôm ấy… kể cũng hơi kỳ thật, thoạt tiên có một cậu công tử rất đẹp trai tới đây ăn uống…
Thừa Chí lại vội hỏi:
– Người ấy hình dáng như thế nào? Mặc quần áo gì? Bao nhiêu tuổi?
– Cậu ấy trẻ hơn Tướng công chừng hai, ba tuổi, mặt đẹp lắm. Thoạt tiên, cháu cứ tưởng là cậu ta là một kép hát chuyên đóng vai đàn bà nhưng sau thấy cậu ta đeo kiếm, cháu không dám tưởng tượng như thế nữa. Hình như trong nhà có người mới chết vậy, mặt mày ủ rũ, cứ uống một chén rượu, là như muốn khóc…
Mọi người đều đoán chắc người đó là Thanh Thanh chớ không sai. Thôi Hy Mẫn nổi giận nói:
– Không cần chú kể lể lôi thôi những chi tiết ấy làm gì. Ai có rỗi thì giờ nghe nào!
Điếm tiểu nhị thấy Hy Mẫn hung tợn, sợ hãi vô cùng, vội lảng sang chuyện khác nói:
– Quý vị sắp phải lên đường ngay đấy ư?
Thừa Chí hỏi:
– Sau rồi thế nào nữa, chú tiểu nhị?
Điếm tiểu nhị đưa mắt nhìn Hy Mẫn rồi đáp:
– Vị Tướng công trẻ tuổi ấy đang uống rượu thì nghe có tiếng chân người lên thang, quay lại trông thấy một cụ râu tóc bạc phơ, tay cầm quài trượng. Vừa lên tới trên lầu này, ông cụ mới chống mạnh quài trượng xuống sàn gác, những chén bát ở các bàn này đều nhảy cả lên.
Nghe nói tới đây, Thừa Chí lo ngại quá, nghĩ thầm: “Lão già họ Ôn Minh Sơn gặp Thanh Thanh ở đây, thì nàng thoát sao khỏi tay lão ấy?”
Điếm tiểu nhị lại nói tiếp:
– Ông cụ ấy ngồi ở cái bàn cạnh Tướng công nọ. Cụ ta vừa gọi rượu và món ăn xong, lại có một ông cụ nữa lên. Lạ quá, trước sau có tất cả bốn ông cụ lên ăn uống. Ông nào ông nấy đều râu tóc bạc phơ mặt đỏ hồng. Có ông cầm đôi đoản kích, có ông cầm roi da. Mỗi người ngồi một bàn, không ông nào nhìn ông nào, bốn ông ngồi xung quanh Tướng công nọ. Cháu đang ngạc nhiên không hiểu các ông ấy định giở trò gì, thì lúc ấy mụ ăn xin già lên. Ông tài phú chúng cháu định lên tiếng đuổi mụ ta đi. Ngờ đâu, bỗng nghe keng một tiếng. Hà! Tướng công thử đoán xem là cái gì?
Thôi Hy Mẫn vội hỏi:
– Cái gì thế?
Điếm tiểu nhị đáp:
– Thật không ai có thể tưởng được, tiếng keng ấy là thoi bạc lớn của mụ ném ra mặt quầy. Rồi mụ chỉ tay vào mặt bốn ông cụ với vị Tướng công nọ và nói: “Mấy người kia ăn bao nhiêu, tính cả vào phần tôi, tôi trả hết.” Đấy quý vị xem, có mụ ăn xin nào lại tiêu sang đến thế chưa?
Càng nghĩ càng lo, Thừa Chí nghĩ: “Bốn ông già họ Ôn đã khó địch rồi, lại thêm mụ Hà Hồng Dược nữa thì nàng chống sao nổi?”
Càng nói càng cao hứng, tiểu nhị nói đến nỗi nước miếng bắn tung tứ phía mà vẫn nói:
– Ngờ đâu mấy người kia cứ cúi đầu ăn uống, không thèm đếm xỉa đến mụ kia. Mụ ăn xin tức giận quá, thét lớn một tiếng, giơ tay ném một đạo bạch quang, nhắm ông già cầm quài trượng bắn tới.
Thôi Hy Mẫn nói:
– Thôi đi, chú đừng có nói dóc nữa. Chẳng lẽ mụ ấy lại biết phi kiếm hay sao?
Điếm tiểu nhị vội cãi:
– Cháu không nói dóc đâu. Tuy không phải là phi kiếm nhưng cháu chắc cũng có mấy thành giống phi kiếm thực. Rồi ông già nọ giơ đôi đũa lên, chỉ nghe thấy “kinh koong, kính koong” một hồi, trên hai chiếc đũa đã xâu một tràng cái gì bóng nhoáng. Cháu liếc mắt nhìn trộm… Trời ơi! Quý vị khách quan có biết là cái gì không?
Hy Mẫn hỏi:
– Cái gì thế?
Điếm tiểu nhị kéo tay Hy Mẫn tới cạnh một cái bàn, rồi nói:
– Đây, Tướng công thử xem?
Trên mặt bàn có một cái lỗ, tiểu nhị lấy một chiếc đũa cắm vào, vừa lọt, không to và cũng không nhỏ hơn, rồi nói:
– Ông già ấy cầm chiếc đũa xoay một cái là cắm vào trong mặt bàn ngay. Chỉ miếng võ này cũng đủ thấy ông ta không phải là tay tầm thường, phải không Tướng công? Mụ ăn xin biết địch không nổi ông ta liền chạy luôn. Sau đó, vị Tướng công trẻ tuổi cùng với bốn ông già đi một lúc. Cháu mới hay năm người đó cùng một bọn, bày sẵn trận thế để đối phó mụ ăn xin kia.
Thừa Chí hỏi:
– Họ đi về hướng nào?
Điếm tiểu nhị đáp:
– Họ đi về làng Lương Hương ở phía Tây. Mấy ông già và Tướng công tuổi trẻ đi không bao lâu, mụ ăn xin quay trở lại, đóng hai con quái vật ở góc tường kia, lại cho cháu một miếng bạc, dặn cháu canh nom hộ, đừng để cho ai đụng tới. Mấy ngày hôm nay, thiên hạ đại loạn, ông chủ tiệm chúng cháu định đóng cửa nghỉ vài ngày nhưng bà chủ không chịu, nhờ vậy cháu mới kiếm được một ít bổng lộc…
Trong khi tiểu nhị đang lẩm bẩm nói, Thừa Chí đã nhảy ra tới cửa, phi thân lên mình ngựa kêu gọi:
– Chúng ta đuổi theo mau!
Hãy nói Thanh Thanh bữa nọ bực mình ra đi, trong lòng đau đớn vô cùng, nàng quyết tâm đem hũ tro (hài cốt của mẹ nàng) lên trên đỉnh núi Hoa Sơn để chôn cùng với cha nàng, rồi tự tử luôn cạnh mộ của cha mẹ.
Nàng nghĩ: “Ta cô độc một thân một mình, lại gặp phải người yêu bạc tình, kết cục đau khổ như nhiện thời.”
Càng nghĩ càng tự thương tự liên.
Ngày hôm ấy, tới huyện Uyển Bình, vào nghỉ chân trong tửu lâu, không ngờ lại gặp bốn anh em họ Ôn và Hà Hồng Dược. Sau Ôn Minh Sơn giở một miếng nội công tuyệt kỹ ra, Hà Hồng Dược tự biết mình địch không nổi liền rút lui ngay. Thanh Thanh đã có lòng quyết tử nên thấy không kinh hãi gì cả. Nàng chỉ sợ bốn ông lão giết nàng tại chỗ, không làm tròn lời trối trăn của mẹ lúc sắp chết. Sau nàng nghĩ ngay được một kế, đi tới trước mặt Ôn Minh Đạt vái chào, lớn tiếng nói:
– Ôn trưởng vẫn mạnh giỏi đấy ạ?
Rồi nàng đi tới chào từng người một. Bốn anh em họ Ôn thấy nàng thản nhiên không có vẻ gì sợ hãi gì cả, đều ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau.
Thanh Thanh cười nói:
– Bốn ông đi đâu thế?
Ôn Minh Đạt hỏi lại:
– Cháu cũng đi đâu thế?
Thanh Thanh đáp:
– Cháu có hẹn với người bạn họ Viên gặp nhau ở đây. Ngờ đâu đến giờ vẫn chưa thấy y đến?
Nghe tới tên của Thừa Chí, bốn anh em họ Ôn, như kính cung chỉ điểu (con chim vừa thoát chết trước mũi tên) đâu còn dám ở lại nơi đó nửa phút.
Ôn Minh Nghi quát lớn:
– Cháu theo các ông ngay đi.
Thanh Thanh giả bộ nói:
– Cháu còn phải chờ đợi người bạn.
Nhanh như chớp, Ôn Minh Nghĩa cách đó điểm luôn yếu huyệt của nàng, kéo luôn ra khỏi tửu điếm, rồi cùng cỡi một con ngựa, phi thẳng ra ngoại thành. Bốn anh em họ Ôn cứ kiếm chỗ thật vắng người mà đi, tới một cây cổ thụ, cùng nhảy xuống ngựa. Ôn Minh Nghĩa quăng Thanh Thanh xuống, cất tiếng chửi rủa:
– Con tiện nhân vô sỉ này, ngày hôm nay trời xanh run rủi khiến mày lọt vào tay chúng tao.
Thanh Thanh khóc lóc nói:
– Thưa ông, cháu có lầm lỗi gì đâu? Các ông tha thứ cho cháu, từ nay trở đi, các ông dạy bảo gì cháu cũng xin tuân theo.
Ôn Minh Nghĩa nói:
– Mầy còn muốn sống ư?
Vừa nói, y vừa rút luôn thanh đoản kiếm ra. Thanh Thanh vẫn khóc lóc nói:
– Ông Ba, mẹ con là con gái của ông, cháu xin ông một điều này.
Minh Sơn nói:
– Hôm nay mầy thế nào cũng chết.
Thanh Thanh khóc nói:
– Cháu chỉ xin ông giúp cho một việc là sau khi cháu chết, xin ông bắn tin cho người bạn họ Viên của cháu hay, bảo y đi kiếm báu vật đi, khỏi phải chờ cháu nữa.
Bốn anh em nghe nàng nói tới ba chữ “Kiếm vật báu” đều động lòng tham cùng lên tiếng hỏi:
– Mầy vừa nói gì thế?
Thanh Thanh đáp:
– Thể nào cháu cũng phải chết rồi, việc bí mật này cháu không thể nói cho ai hay được. Cháu chỉ mong ông gởi lời chào người bạn của cháu thôi.
Nói xong nàng xé một mảnh vạt áo, móc túi lấy mũi kim để trong bao kim chỉ ra, chích vào đầu ngón tay cho chảy máu rồi viết vào mảnh vải. Bốn anh em họ Ôn cứ luôn mồm hỏi nàng nếu nàng kiếm vật báu gì thế. Nàng làm thinh cứ cúi đầu viết.
Xong đâu đấy, nàng liền giao cho Ôn Minh Sơn và nói rằng:
– Ông Ba, ông đừng đưa thẳng tay cho y, nhờ người khác đem tới tửu điếm ở huyện Uyển Bình mà lúc nãy cháu ngồi chờ đợi là được rồi!
Tuy giả bộ làm ra như vậy nhưng hễ nghĩ tới Thừa Chí bạc tình, nàng lại ứa hai hàng lệ.
Thấy nàng thương tâm như vậy, bốn anh em họ có biết đâu là nàng làm ra trò để lừa dối người, cứ xúm quanh để xem. Nàng viết: “Kính thưa Thừa Chí đại ca, đời này chúng ta không sao tái ngộ được nữa. Những vật báu của cha em để lại, xin tặng anh tất cả. Vậy anh cứ việc đi đào lấy, không phải chờ đợi em nữa.
Nay kính, Thanh Thanh.”
Ôn Minh Nghĩa quát hỏi:
– Những vật báu gì thế? Chẳng lẽ cháu cũng biết nơi chôn giấu hay sao?
Thanh Thanh gật đầu. Ôn Minh Nghĩa nói:
– Quân xảo quyệt, mầy định lừa dối chúng tao phải không? Sự thật không có vật báu gì hết. Hồi mồ mả cha mầy đã lừa dối chúng tao một trận rồi. Bây giờ đến lượt mầy lại muốn giở cái trò ấy ra phải không?
Thanh Thanh cúi đầu làm thinh, thò tay vào trong vạt áo, cởi ngầm đôi bướm ngọc buộc lên dây đeo ở trước ngực ra. Đôi bướm ngọc này cũng là bảo vật trong mười cái hòm nọ, khi đem bán lấy tiền, nàng thấy nó xinh đẹp và trông như bướm thực, nàng mới giữ lại để đeo trong người. Lúc đứng dậy, nàng giả bộ đánh rơi đôi bướm ngọc, rồi nói:
– Tin hay không tùy các ông. Muốn giết thì các ông cứ việc ra tay đi.
Nghe tiếng kêu “cạch” một cái, bốn anh em họ đều nhìn xuống đất, thấy một đôi bướm ngọc rất đẹp rơi cạnh chân nàng. Thanh Thanh vội cúi xuống nhặt hai con bướm lên. Làm giặc mấy chục năm, anh em họ Ôn biết ngay đôi bướm ngọc ấy giá trị liên thành, đều đỏ ngầu mắt lên, trống ngực đập mạnh đồng thanh quát hỏi:
– Vật này mầy lấy ở đâu thế?
Thanh Thanh vẫn làm thinh như trước. Ôn Minh Sơn nói:
– Cháu chịu nói rõ chỗ giấu vật báu cho các ông hay, các ông sẽ tha chết cho.
Thanh Thanh đáp:
– Hai con bướm này cháu lấy ở trong những hòm châu báu đấy. Theo tờ bản đồ của cha cháu để lại, cháu với Viên đại ca đã đi đào được mười hòm châu báu. Vì hai người không vác nổi cho nên chúng cháu chỉ lấy tạm vài món ra để tiêu xài tạm. Cháuthấy đôi bướm này hay hay, giữ lại đeo chơi. Chúng cháu đã hẹn nhau lần này sẽ đi lấy hết mười hòm châu báu ấy. Ngờ đâu, các ông…
Nói xong nàng lại khóc. Bốn ông cụ đứng ra một bên thì thầm bàn tán. Họ tin võ nghệ của họ cao cường hơn Thanh Thanh nhiều nên không sợ nàng bôn tẩu.
Ôn Minh Đạt nói:
– Theo nó thì những châu báu đó là chuyện có thật đấy.
Minh Nghĩa nói:
– Chúng ta buộc nó phải dẫn anh em mình đi đào.
Ba người kia đều gật đầu. Minh Sơn nói:
– Trước hết hãy lừa dối nó là chúng ta vui lòng tha cho nó khỏi chết. Chờ tới khi kiếm được số châu báu đó rồi, anh em mình sẽ trừng trị nó sau.
Ôn Minh Ngô nói:
– Phải đấy, khi đào những châu báu đó ra rồi, chúng ta chôn sống nó vào trong hố ấy, để khi thằng nhãi con họ Viên tới, sẽ đào thấy của quý ấy, có phải hay không?
Ba người kia đều cả cười, rồi cùng nói:
– Ý kiến của chú Năm hay lắm!
Bàn định xong, bốn người nghĩ: “Lần này vừa lấy được của, lại rửa được mối căm hờn bấy lâu nay.”
Bốn anh em đều hớn hở quay trở lại uy hiếp Thanh Thanh. Lúc đầu, nàng còn giả bộ không nghe, cứ khăng khăng không chịu đi, sau mãi mới bằng lòng vậy. Nàng nói:
– Nơi chôn những hòm châu báu ở trên đỉnh núi Hoa Sơn.
Nàng định dẫn anh em họ Ôn lên trên đỉnh núi Hoa Sơn, tìm kiếm được nơi chôn cất thi hài cho cha mình, và nhân lúc anh em họ đang đào bới sẽ chôn luôn hài cốt của mẹ nàng vào đấy, rồi rút kiếm ra tự tử. Lời nói của nàng rất hợp lý, nên bốn anh em họ Ôn mới bị mắt lừa.
Năm xưa, anh em họ Ôn dùng gian mưu bắt được Kim Xà Lang Quân, bắt Hạ đại hiệp phải đưa đi tìm của. Hạ đại hiệp cũng đã dẫn anh em họ Ôn lên núi Hoa Sơn.
Kiếm mãi không thấy châu báu chôn ở đâu cả, mà Kim Xà Lang Quân lại đột nhiên mất tích.
Nhưng trong thâm tâm của anh em họ Ôn đã chôn sâu ấn tượng “vật báu thể nào cũng chôn ở trên núi Hoa Sơn.” Năm xưa Trường Xuân Cửu cùng với vị hòa thượng đã lên đỉnh núi Hoa Sơn tìm kiếm cũng do thế mà nên.
Bốn anh em họ Ôn liền dẫn Thanh Thanh đi ngay tức thì, sợ Thừa Chí đuổi theo kịp, đi cả ban đêm, không dám nghỉ ngơi ở đâu cả.
Ngày hôm đó, năm người đi tới ranh giới tỉnh Sơn Tây. Đã mấy đêm ngày liền không nghỉ ngơi rồi, nên ai nấy đều mệt lả, đành phải vào một khách điếm nọ nghỉ chân. Minh Nghĩa háu đói nhứt và ăn cũng rất khỏe, cứ luôn miệng gọi đem cơm nước lên. Tiểu nhị vừa bưng thức ăn lên, Ôn Minh Nghĩa không gọi ai cả, sà vào ăn ngay. Ba người kia và Thanh Thanh vừa ngồi vào bàn bỗng nghe Minh Nghĩa kinh hãi la lớn, tay gắp một vật gì ở trong bát lên, rồi cả người cứng đờ như tượng đá vậy. Bốn người đều thất kinh, đưa mắt nhìn con vật Minh Nghĩa vừa gắp lên mới hay là một con nhện đen thật lớn. Minh Đạt rờ tay người em, thấy đã giá lạnh, mũi cũng không có hơi thở rồi. Ôn Minh Nghĩa vừa sợ hãi vừa tức giận, túm ngực tên tiểu nhị giơ cao tay vứt mạnh xuống đất chỉ nghe “đạch” một tiếng, tên nọ hai chân gãy gục và chết giất liền.
Ôn Minh Sơn chạy ra túm ngực người trưởng quầy, tay cầm đôi đũa gắp con nhện quát hỏi:
– Mi táo gan thật, dám mưu toan hại mạng? Cái này là cái gì?
Sợ hãi đến mất hồn vía, tên trưởng quầy van lơn, phân trần:
– Tiểu điếm đã mở hơn bảy mươi năm rồi, trong bếp lại thanh khiết vô cùng. Không… Không… hiểu… tại sao lại… có vật này…
Minh Sơn nắm má dưới tên nọ bóp mạnh một cái, cả cái quai hàm rời hẳn ra, không sao mím môi lại được. Minh Sơn liền nhét con nhện vào mồm trưởng quầy, chỉ trong giây phút và người hắn ta thâm tím mà chết liền.
Lúc ấy trong tửu điếm đã đại loạn, Minh Đạt một tay vẫn nắm cổ tay Thanh Thanh, còn tay kia bồng xác Minh Nghĩa. Minh Sơn và Minh Ngô thì đập phá hết và giết chóc, chỉ trong chốc lát đã có bảy tám mạng người bị chết oan, rồi còn châm lửa thiêu tửu điếm ấy ra tro. Thấy anh em họ hung dữ quá, những người đi đường chỉ đứng tận đằng xa mà nhìn chớ không ai dám tới can thiệp cả.
Ba anh em họ Ôn đem xác Minh Nghĩa ra cánh đồng chôn cất, rồi dắt Thanh Thanh vào một cổ miếu nghỉ ngơi. Ba anh em vừa bị thương vừa phẫn nộ, đều không hiểu tại sao con nhện lại độc đến thế?
Thấy thủ đoạn của Ngũ Độc giáo độc ác quá đỗi, Thanh Thanh nghĩ thầm: “Đấy tất nhiên là hành vi của Ngũ Độc giáo và chắc mụ Hà Hồng Dược đang theo dõi bọn chúng ta cũng nên?”
Ngày hôm sau, bốn người vào khách điếm ăn cơm, bắt người làm trong điếm phải nếm thử trước mới dám ăn. Đi được mấy ngày, một đêm, trong chuồng ngựa bỗng có tiếng người ồn ào, và tiếng điếm tiểu nhị kêu là có người ăn trộm ngựa. Minh Ngô nổi giận, đi xuống xem xét, sắp tới chuồng ngựa, bỗng nghe trong bóng tối có tiếng “sịt” một cái, thấy một tia nước phun tới Minh Ngô lùi về phía sau để tránh nhưng không kịp, nước đó đã phun đầy mặt. Mặc dầu hai mắt không mở được nhưng nhờ có võ nghệ khá cao, Minh Ngô rút roi ra, nhắm phía tia nước vọt tới quất luôn một cái, đánh trúng kẻ ám hại gẫy gục xương sống.
Một tên khác quát lớn:
– Lão huynh còn muốn đánh nữa phải không?
Vừa nói tên nọ vừa bổ búa xuống. Minh Ngô quay nhuyễn tiên lại quấn luôn cả người lẫn búa của địch, giơ lên quất mạnh xuống một cái. Người nọ bị văng sang góc tường, không kịp kêu la, đã vỡ sọ chết liền.
Tưởng chỉ có vài tên trộm quèn thôi, Minh Đạt và Minh Sơn nghĩ rằng một mình Minh Ngô cũng dư sức đối phọ rồi nên cứ ở trên lầu nằm nghĩ. Sau nghe tiếng kêu la của Minh Ngô khác thường đều giựt mình chạy xuống xem, mới hay Minh Ngô hai tay dụi mắt kêu đau. Minh Đạt chạy lại bồng lấy em, còn Minh Sơn nhảy ra bên ngoài tra xét tung tích của địch, nhưng không thấy gì, liền quay trở vào cùng anh bồng MinhNgô lên lầu. Vừa tới cửa phòng, thấy Minh Ngô đã tắt thở rồi, cả hai ông anh đều gục xuống thi hài em mà khóc lóc. Mặt mày Minh Ngô bị thuốc độc ăn nát bét. Minh Đạt càng nhìn càng xót thương giận dữ nói:
– Hai mươi năm trước, tên Kim Xà ác tặc bỗng tẩu thoát khỏi tay anh em chúng ta. Lúc ấy chân tay bị cắt đứt hết gân mạch và đã trở nên phế nhân rồi, thì còn chạy sao nổi? Nên anh đã nghĩ bọn Ngũ Độc giáo cứu y…
Minh Sơn nói:
– Chính thế, có ngờ đâu bọn Ngũ Độc giáo lại gây hấn ngầm với anh em ta. Lần này, chúng ta và bọn chúng đều được Tào Hóa Thuần mời vào trong Kinh mưu đồ đại sự, tuy không thành công nhưng chúng ta với chúng không có thù oán gì với nhau, tại sao chúng lại theo dõi và giở thủ đoạn độc ác đốc với chúng ta như thế này?
Ngẫm nghĩ giây lát, Minh Đạt bỗng nhảy lên la lớn:
– Tên Kim Xà ác tặc dùng các thứ thuốc độc lợi hại vô cùng.
– Chẳng lẽ nó với Ngũ Độc giáo có liên hệ gì chăng?
Minh Sơn cũng sực tỉnh ngộ liền nói:
– Đúng thế đấy.
Hai người nghĩ lại những pha trò thù độc ác của Kim Xà Lang Quân ở Từ Châu, Thạch Lương đều sợ hãi vô cùng. Bàn định nửa ngày, hai anh em chôn Minh Ngô xong, quyết tâm lên núi Hoa Sơn trước, chờ đào bảo vật xong, mới đi kiếm bọn Ngũ Độc giáo để trả thù. Sợ bọn Hà Hồng Dược hãm hại ngầm, hai anh em họ Ôn không những ăn uống rất cẩn thận mà đêm tới cũng không dám vào khách sạn ngủ trọ.
Hôm đó hai anh em dắt Thanh Thanh vào một tòa cổ miếu đổ nát để nghỉ ngơi. Muốn được yên trí ngủ một giấc ngon lành, Minh Đạt khuân luôn hai tảng cối đá lớn chặn cửa trước và cửa sau. Ngủ tới giữa đêm, bỗng nghe đằng sau tượng phật có tiếng động “chít chít” đưa ra. Thoạt tiên, hai anh em tưởng lầm là lũ chuột ra kiếm ăn nên không thèm để ý tới, lim dim sắp sửa ngủ lại. Minh Sơn bỗng ngửi nghe có mùi thơm đưa tới, trong người khoan khoái vô cùng, cảm thấy toàn thân nhẹ bỗng và đi trên mây.
Nhưng y bỗng rùng mình ngồi nhổm dậy, sực tỉnh ngộ ngay, quát lớn một tiếng, nhảy phắt lên. Tuy việc xảy ra rất đột ngột nhưng dù sao Minh Đạt cũng là tay giang hồ lão luyện, y liền kéo Thanh Thanh rồi cùng nhảy lên trên bàn thờ. Dưới ánh trăng lờ mờ, hai người trông thấy Minh Sơn đang múa quài trượng đánh tứ phía bốn bề. Bỗng nghie một tiếng động rất lớn, thì ra tượng phật đã bị quài trượng của Minh Sơn đánh sạt một góc.
Phía sau tượng có hai thằng bé áo vàng nhảy ra. Một tên múa đao nhảy vào tấn công Minh Sơn, còn tên kia cầm ống đồng thổi khói độc phun ra. Minh Đạt lấy hai cái tụ tiễn (tên trong tay áo) ném luôn ra. Hai tên nhỏ bị ám khí xuyên qua ngực chết liền, Minh Sơn vẫn múa quài trượng đánh đập lung tung.
Minh Đạt vội gọi:
– Chú Ba hết kẻ địch rồi.
Minh Sơn hình như không nghe, vẫn cứ múa đánh như cũ, thì ra đầu óc y đã bị hơi độc làm mê ám. Minh Đạt muốn xông vào hãm quài trượng của người anh lại nhưng Minh Sơn càng múa càng nhanh, không có kẽ hở nào để nhảy vào.
Đang vô kế khả thi, đột nhiên Minh Đạt thấy Minh Sơn quay đầu trượng lại đâm mạnh vào ngực một cái, miệng hộc máu tươi ra ngã nằm thẳng cẳng, chỉ trong vài ngày, ba người ông ngoại đã bị bọn Ngũ Độc giáo giết chết.
Tuy xưa nay không ưa gì ông ấy thật nhưng thấy tình cảnh bi đát như vậy, nàng cũng phải động lòng thương xót. Minh Đạt lẳng lặng bồng xát Minh Sơn ra ngoài chôn cất.
Tánh nết rất cứng cỏi và ương ngạnh, Minh Đạt không ứa một giọt nước mắt, đứng trước mộ Minh Sơn vái mấy cái rồi nói với Thanh Thanh rằng:
– Ta sẽ giết những kẻ thù rồi đưa người trở lại nơi này hành quyết cúng tế ba anh em.
Thanh Thanh rơi lệ chẳng đáp nửa lời, vì nàng hiểu rõ tính tình của Minh Đạt rất là ác độc. Những người ông ngoại của nàng từ trước đến này vẫn không bao giờ từ bỏ tính hiểm độc và tham lam.
Thanh Thanh tự hiểu Minh Đạt khống chế nàng để làm con tin chờ sau khi chiếm bảo vật rồi sẽ mổ tim nàng để tế mộ.
Tế mộ xong, Minh Đạt đưa Thanh Thanh vào khách điếm, trói gô nàng nằm lên giường.
Trời tối dần!
Thanh Thanh bị trói nằm trên giường nhớ tới Thừa Chí. Nàng giận chàng vì chàng có quá nhiều người con gái theo chàng.
Thanh Thanh ngộ nhận Uyển Nhi và A Chín đã có tình với Thừa Chí nên nổi cơn ghen tức bỏ đi.
Và vì vậy, nàng mới gặp khốn khổ thế này. Thanh Thanh rơi nước mắt, sự thật trong thâm tâm của nàng chẳng còn muốn sống làm gì trên thế gian nữa vì nàng nghĩ mình đã mất người yêu.
Trời trở về khuya, trong khách điếm đã im vắng tiếng người, chỉ còn Minh Đạt nằm đọc quyển sách gì đó.
Chợt nghe có tiếng động thật khẽ ở phía ngoài cửa sổ. Tiếng động như chiếc lá rơi.
Là một kẻ giang hồ lão luyện, Minh Đạt hiểu ngay có kẻ đang tới đứng bên cửa sổ rình rập.
Ông ta nhỏm người lên nhẹ như sợi tơ hồng, bước lại gần bên cửa sổ lắng tai nghe.
Tiếng động phía ngoài mạnh hơn, hình như người kia đang sắp sửa bỏ chạy vì phát giác bên trong có người.
Soạt!
Lẹ như chớp, Minh Đạt mở toang cánh cửa sổ phóng ra ngoài vừa lúc ba mũi phi tiêu bắn vào mặt lão.
Minh Đạt đưa tay bắt lấy ba mũi phi tiêu đưa mắt nhìn thì nhận ra có một chiếc bóng chạy đằng xa.
Không bỏ lỡ cơ hội, Minh Đạt phóng mình đuổi theo chiếc bóng kia thật gấp. Lão nhất định bắt xem tên kia là ai.
Phía trước chiếc bóng kia cứ chạy, đằng sau Minh Đạt rượt theo thật gấp.
Ra tới ngoại ô chiếc bóng kia chợt biến mất chẳng hiểu đi đằng nào.
Minh Đạt ngưng bước đưa mắt nhìn quanh khắp tìm chiếc bóng kia xem đang trốn ở nơi nào.
Bỗng lão kêu lên:
– Chết! Ta đã trúng kế “Điệu hổ ly sơn” của mụ Hà Hồng Dược rồi!
Minh Đạt khẩn cấp chạy trở về khách điếm, vừa tới đã thấy cánh cửa phòng mở toang.
Lão đưa mắt nhìn vào trong thì không còn trông thấy Thanh Thanh nữa. Lão phóng người vào nhận ra còn mấy sợi dây trói cô gái bị cắt đứt bởi một loại kiếm rất sắc.
Đương nhiên kẻ kia đã bắt cóc Thanh Thanh đi từ lúc Minh Đạt rượt theo chiếc bóng kia…
* * *
Thật thế, kẻ bắt cóc Thanh Thanh chẳng ai khác hơn là Hà Hồng Dược.
Mấy ngày qua, ả này đã theo sát bên lưng anh em Minh Đạt và ả đã cho đánh độc chết ba người, giờ ả dùng quỷ kế bắt Thanh Thanh.
Hà Hồng Dược bắt cóc nàng không phải vì bảo vật như Minh Đạt mà chỉ vì mối tình hận năm xưa.
Hà Hồng Dược nhất định bắt buộc nàng phải đến tới chỗ trú ngụ của Kim Xà Lang Quân để tìm người yêu cũ và sau đó sẽ giết nàng thay thế cho mẫu thân nàng.
Cái ghen của bà ta quả thật là kinh khủng chưa từng trông thấy trên mặt giang hồ. Thanh Thanh vẫn hiểu như thế, nhưng cũng chỉ vì ghen tức Uyển Nhi và A Chín mà nàng bỏ đi và nàng không cần đến cái mạng sống của nàng nữa. Ý định của nàng cũng tự quyết trước mộ phần của song thân sau khi mai táng.
Trưa nay, Hà Hồng Dược dẫn Thanh Thanh đi trên một con đường vắng vẻ. Thanh Thanh nhìn phía trước có hai người đang đi sát bên nhau.
Một ông đạo sĩ già và một người lái buôn đứng tuổi vừa đi vừa trò chuyện. Thanh Thanh nhận ra hai người đó là Mộc Tang đạo nhân và đại sư huynh của Thừa Chí, Hoàng Chân. Nàng biết rõ hai người ấy võ nghệ giỏi hơn mụ ăn xin này nhiều nhưnghễ cứ hơi cử động một tí là bị năm ngón tay chất độc của mụ nọ đâm vào cổ họng liền.
Lại nghe tiếng Hoàng Chân cười nói:
– Trong vài ngày nữa, sư phụ cháu thế nào cũng hồi sơn, và tiểu sư đệ một hay hai ngày cũng sẽ tới, lúc ấy đạo trưởng khỏi lo không có đối thủ đánh cờ.
Mộc Tang hà hà cười nói:
– Nếu không vì ham đánh mấy ván cờ thì lão đạo sĩ này lên núi dự buổi họp của phái Hoa Sơn các anh làm quái gì?
Vừa cười vừa nói, hai người càng đi càng xa. Di mãi rồi hai người cũng lên tới đỉnh núi hoa sơn. Biết võ nghệ của đệ tử phái Hoa Sơn cao siêu khôn lường lại thêm họ hội họp trên núi, Hà Hồng Dược phải cúi đầu xuống, không dám sơ ý, rồi từ từ bò lên trên mỏm núi, lấy dây thừng ra cột vào cành cây cổ thụ, còn một mẩu dây cột vào thân mình với Thanh Thanh, cho thòng lòng xuống dưới vách núi.
Không tới lưng chừng, Thanh Thanh bỗng trông thấy một cái động nhỏ, liền nói:
– Ở đây này.
Trống ngực đập thật mạnh, vì mấy chục năm nay, Hà Hồng Dược ngày đêm vẫn hằng mong nhớ con người phụ bạc, nay lại gặp gỡ nơi đây, có lẽ mình sẽ dầy vò y một hồi, rồi đánh chết cho hả dạ nhưng cũng có lẽ mình không nhẫn tâm, và sẽ tha thứ cho chàng. Nghĩ tới sự sắp gặp mặt đến nơi, mụ ta cảm thấy chân tay run bây bẩy, gan bàn tay toát mồ hôi lạnh. Mụ dùng tay phải bới những gạch đã dựng ở xung quanh cửa động cho rộng để chui vào.
Cửa động này, Kim Xà Lang Quân xây rất chật hẹp, sau nhờ có Thừa Chí dùng Kim Xà kiếm phá rộng nên bây giờ hai người mới chui được vào không khó như trước nữa.
Đề phòng Kim Xà Lang Quân tập kích, mụ ăn xin bắt Thanh Thanh phải bò vào trước, còn mụ ta theo sau. Vừa bò vào phía bên trong động, Thanh Thanh vừa khóc lóc rất thảm thiết. Tới phía trong, thấy tối quá, Hà Hồng Dược phải đánh đá lửa, đốt dây thừng để soi sáng, rồi đưa cho Thanh Thanh cầm để chiếu lối đi. Thanh Thanh nghĩ: “Lấy dây thừng thay đuốc thế này nhỡ cháy hết đoạn dây này thì lấy gì mà leo lên trở về? Đằng nào ta cũng đã định chết ở đây để được gần gũi cha mẹ rồi nhưng chẳng lẽ mụ ta cũng không muốn trở về nữa chăng.”
Sự thật thì Hà Hồng Dược cũng đã quyết được chết ở trên này rồi.
Càng đi vào sâu càng cảm thấy động này hình như không có người ở, mụ nọ trong lòng càng sinh nghi. Đột nhiên mụ ta nắm lấy cổ Thanh Thanh quát hỏi:
– Ngươi vừa đánh lừa ta, người sẽ chết khổ, chết sở!
Vào thêm mấy bước, dưới ánh sáng dây thừng hai người trông thấy phía trước mặt có một thạch thất rất rộng. Hà Hồng Dược vội cầm dây thừng ở tay Thanh Thanh lên soi, thấy bốn vách có khắc những đồ hình luyện võ, và còn thêm một hàng chữ như sau: “Trọng báu bí thuật, tặng kẻ hữu duyên, vào trong cửa này, gặp họa chớ oán.”
Tuy ở với nhau không lâu lắm nhưng bút tích của Kim Xà Lang Quân thế nào, Hà Hồng Dược có thể nhận ra ngay. Thấy chữ viết trên vách, mụ ta nhận ngay ra bút tích của người yêu, nhưng mụ ta không thấy hình bóng Kim Xà Lang Quân đâu cả. Trong lòng đau đớn như bị dao cắt, mụ lớn tiếng kêu gọi:
– Tuyết Nghi, anh ra đây đi!
Lát lâu không thấy trả lời, mụ định thần giây phút, quát hỏi Thanh Thanh rằng:
– Y đi đâu rồi?
Thanh Thanh vừa khóc vừa chỉ xuống dưới đất, trả lời:
– Cha tôi ở dưới này!
Hai mắt tối sầm, Hà Hồng Dược vội nắm tay Thanh Thanh, và suýt nữa đã bị chết giấc ngã lăn ra đó. Với một giọng nói khàn khàn và run run, mụ ta hỏi:
– Ngươi nói gì vậy?
Thanh Thanh đáp:
– Tôi nói là thi hài cha tôi được mai táng ở dưới đất này đấy!
Hà Hồng Dược ngẩn người ra nói:
– Ồ… thế ra là… y… y đã chết rồi!
Lúc này, mụ ta không thể nào đứng vững được nữa, ngã ngồi phịch xuống tảng đá mà Kim Xà Lang Quân vẫn thường dùng để tọa luyện nội công, hai tay mụ ôm lấy đầu, trong lòng đau đớn hết sức. Nỗi căm hờn từ mấy chục năm nay tiêu tan ngay trong chốc lát và những cảnh âu yếm xưa kia nay hiện cả ra trước mắt. Mụ khẽ nói:
– Cô mau ra ngoài kia đi! Tôi tha thứ cho cô đấy!
Lúc đó trông mụ ta rất thương hại. Thanh Thanh bỗng cảm thấy trong lòng nảy nở mối tình tương liên và thương xót. Nàng nghĩ tới cha mình phụ bạc mụ ta và Thừa Chí cũng phụ bạc mình. Vì mối dây đồng bịnh ấy, nàng đột nhiên chạy lại ôm lấy mụ ăn xin mà khóc lóc rất thảm thiết.
Hà Hồng Dược nói:
– Cô hãy mau may ra khỏi nơi này đi, kẻo để dây thừng này cháy thêm một khúc nữa thì cô không còn hy vọng lên được tới đỉnh núi này nữa đâu!
Thanh Thanh hỏi:
– Còn bà thì sao?
Hà Hồng Dược đáp:
– Tôi ở lại đây với cha cô.
Hà Hồng Dược ngồi thừ mặt ra, chẳng nói chẳng rằng và cũng không thèm để ý gì tới Thanh Thanh nữa rồi bỗng nhiên như điên cuồng, ra tay cào đất lên.
Thanh Thanh giật mình hỏi:
– Bà làm gì thế?
Hà Hồng Dược vẻ mắt thê thảm đáp:
– Tôi mong nhớ anh ta từ hai mươi năm nay rồi, tuy bây giờ không còn được gặp mặt anh ta nữa nhưng được trông thấy xương cốt anh ta cũng hả hê lắm rồi.
Thấy thần sắc của mụ ta thay đổi khác thường, Thanh Thanh vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Năm chiếc móc tay của Hà Hồng Dược rất lợi hại, khác gì cái bừa sắt, chỉ bới trong chốc lát đã trông thấy một đống xương tàn rồi. Đó là hài cốt của Kim Xà Lang Quân mà năm xưa đã do tay Thừa Chí chôn cất. Nhờ nơi động đó ở trên đỉnh núi cao ráo vô cùng nên xương cốt vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thanh Thanh gục xuống cạnh đống di cốt của cha mà khóc lóc thảm thiết. Khi bới thấy cái sọ, Hà Hồng Dược vội ôm chặt lấy, vừa khóc vừa hôn, lớn tiếng kêu gọi:
– Hạ lang, Hạ lang, em tới thăm anh đây!
Khóc chán, mụ ta lại còn ca hát những bài ca rất lạ. Thanh Thanh nghe nhưng không hiểu nổi lời ca ấy.
Trong những phút điên rồ, Hà Hồng Dược cứ hôn lấy hôn để cái sọ ấy. Đột nhiên mụ thất thanh la lên một tiếng. Thì ra mặt mụ đã bị vật gì rất nhọn đâm phải một cái.
Mụ vội vàng cầm cái sọ ấy tởi dưới ánh lửa để xem xét, mới hay bộ răng trong sọ có cắn chặt một cái kim thoa nho nhỏ. Vì cái kim thoa ấy nhỏ quá, nên không ai trông thấy. Hà Hồng Dược thò tay moi cái kim thoa ấy ra, ngờ đâu bộ răng cắn chặt quá không sao moi ra được. Chắc Kim Xà Lang Quân lúc chết đã cắn chặt cái kim thoa này, cho tới khi xác thịt đã rữa hết mà vẫn còn cắn chặt trong mồm. Hà Hồng Dược phải thọc hai ngón tay vào trong mồm cái sọ, dùng sức giật mạnh một cái, cả bộ răng rơi ra, và kim thoa cũng rơi theo xuống đất. Mụ nhặt lên lau chùi hết bụi bẩn, bỗng sắc mặt thay đổi hẳn, giận dữ quát hỏi:
– Có phải tên mẹ cô là Ôn Nghi không?
Thanh Thanh gật đầu. Hà Hồng Dược vừa đau lòng, vừa uất hận, nghiến răng nói:
– Giỏi lắm, giỏi lắm, anh ta sắp chết mà còn vẫn nhớ tới con tiện tỳ ấy, cắn chặt cái kim thoa của nó trong mồm!
Trông thấy trên chiếc kim thoa có khắc hai chữ “Ôn Nghi”, mụ càng tức giận thêm, đôi mắt như nổ lửa, đột nhiên bỏ kim thoa vào mồm nhai ngấu nghiến đến nỗi bị kim thoa đâm, máu tươi chảy đầy mồm.
Thấy mụ ta như con hổ điên, thần trí bấn loạn, Thanh Thanh biết mình cùng với mụ sắp chết đến nơi, liền mở túi ra, lấy chiếc hũ tro (hài cốt của mẹ) ra, đổ những tro đó vào trong hố. Hà Hồng Dược ngẩn người ra giây lát rồi quát hỏi:
– Cô làm gì thế?
Dốc hết hũ tro xong, Thanh Thanh vun đất lấp hố miệng lẩm bẩm cầu khẩn:
– Cha mẹ có linh thiêng, xin hiện về chứng giám cho con đã hoàn tất nguyện vọng “hợp táng một huyệt” của cha mẹ rồi đó.
Hà Hồng Dược giằng lấy cái hũ, xem xét một lúc, đã hiểu biết là cái gì rồi, liền quát hỏi:
– Hũ này đựng tro hài cốt của mẹ cô phải không?
Thanh Thanh từ từ gật đầu. Hà Hồng Dược vung tay đánh luôn một chưởng. Thanh Thanh lùi lại nhưng vẫn không tránh khỏi, bị cái chưởng ấy đánh trúng vai, loạng choạng suýt ngã. Hà Hồng Dược như điên như cuồng, kêu gào thật lớn:
– Cấm hai người được hợp táng một nơi! Ta cấm…
Vừa la, mụ vừa bới lung tung, nhưng tro xương đã trộn lẫn với đất rồi, làm sao phân tách ra được? Lửa ghen bốc cháy, Hà Hồng Dược bới hết xương cốt của Kim Xà Lang Quân lên, la lớn:
– Ta phải thiêu hài cốt của anh thành tro, tung xuống núi Hoa Sơn, cho nó bay bổng đi khắp mọi nơi, không bao giờ có thể tụ hợp với con tiện tỳ ấy được!
Thanh Thanh sợ quá, chạy lại quyết thí mạng, mong cướp lấy lại chỗ xương cốt đó. Nhưng võ nghệ của nàng kém mụ ta xa, mới đấu được vài hiệp đã bị mụ ấy giáng cho một chưởng ngã lăn ra đất. Hà Hồng Dược cởi áo ngoài ra bọc lấy chỗ hài cốt ấy để đốt. Mụ dùng khuỷu tay trái đè lên mình Thanh Thanh không cho nàng nhổm dậy, tay phải quạt lửa cho bốc cháy lớn thêm. Chỉ trong giây lát, hài cốt đã bắt lửa, trong động khói tỏa um tùm, Hà Hồng Dược đang ha hả cười, đột nhiên ngửi mùi rất lạ xông lên mũi liên ngạc nhiên rồi la lớn:
– Hạ lang, anh ác độc lắm!
Thanh Thanh cũng ngửi mũi thơm xông lên mũi, đang ngạc nhiên không hiểu mùi đó ở đâu ra thì bỗng thấy đầu óc choáng váng. Rồi nàng thấy Hà Hồng Dược quỳ xuống trước đống xương đang cháy, dùng mũi hít mạnh những làn khói thơm đang bốc lên, mồm kêu la rùm beng rằng:
– Hay lắm, hay lắm! Sự thật em cũng muốn chết bên cạnh anh mà!
Mụ bỗng ngẩng đầu lên ngắm nhìn Thanh Thanh, vẻ mặt trông rất ghê sợ. Thanh Thanh thét lớn một tiếng, rảo cẳng chạy ra bên ngoài, vừa ra khỏi nơi đó vài trượng, đã mê man và chân tay bủn rủn, ngã lăn ra đất.
Hãy nói, hôm đó Thừa Chí ở tửu điếm, trông thấy dấu hiệu của Hà Hồng Dược đóng trên tường, biết ngay là hiệu lệnh kêu gọi giáo chúng của mụ để đuổi theo kẻ địch. Đồng thời Thanh Thanh đã lọt vào tay anh em họ Ôn. Hai nhóm đó, bất cứ bên nào đắc thắng, Thanh Thanh cũng bị tai họa. Thừa Chí càng nghĩ tới, càng lo sợ cho nàng, liền cấp tốc phi ngựa đuổi theo.
Suốt dọc đường dò hỏi, chàng mới hay trong bọn anh em họ Ôn đã có ba người bị trúng độc chết. Chàng càng lo lắng thêm, ngày đêm ăn nằm không yên. May thay, căn cứ vào sự theo dõi tung tích của chúng, chàng thấy cả hai nhóm người đều đi về phía Hoa Sơn. Nhờ vậy chàng đỡ phải lo ngại sẽ lỡ kỳ hẹn hội họp.
Khi tới núi Hoa Sơn, Hồng Thắng Hải thấy bãi đất ở cạnh lương đinh có vẻ khác thường, liền dùng khí giới đào thử xem, ngờ đâu lại thấy thi hài của Ôn Minh Đạt chôn tại đó.
Thừa Chí nói:
– Hiện giờ chú Thanh đã lọt vào tay bọn Ngũ Độc giáo rồi, chúng ta phải mau đuổi theo lên núi đi.
An đại nương an ủi chàng rằng:
– Lúc này là thời kỳ hội họp của phái Hoa Sơn chúng ta, dù Mộc lão sư phụ chưa về, chỉ cần một trong hai sư huynh có mặt trên đó cũng sư sức cứu cô ấy thoát nạn.
Thừa Chí nói:
– Bọn Ngũ Độc giáo dám táo gan xông lên trên núi Hoa Sơn chắc thế nào chúng cũng có sửa soạn trước nên mới dám tới như vậy. Chúng ta chớ có để cho các sư điệt trong phái ta bị chúng đả thương.
Thôi Hy Mẫn nói:
– Cả Tổ sư gia cũng đã đến rồi, thì sợ quái gì bọn chúng, chúng ta mau mau lên núi đi!
Mọi người liền cỡi ngựa vào một nhà nông, rồi vội vàng lên núi. Lúc sắp lên tới đỉnh núi, mọi người bỗng trông thấy mấy chiếc ám khí nhỏ bay vượt lên trên không phát ra những tiếng kêu “soẹt soẹt”, Thừa Chí mừng rỡ nói:
– Mộc Tang đạo trưởng ở trên kia, ông ta ném ba quân cờ ra hiệu gọi chúng ta đấy.
Nói đoạn, chàng cũng móc túi lấy ba quân cờ ra, ném thẳng lên trời. Một lát sau, ba quân cờ ấy bay lẩn vào trong đám mây, vài phút sau mới thấy rơi xuống.
Thôi Hy Mẫn khen rằng:
– Tiểu sư thúc, hồi này công lực của sư thúc mạnh hơn trước nhiều.
Đang giơ tay ra định thâu hồi mấy quân cờ của mình, Thừa Chí bỗng thấy trên lưng chừng núi có mấy chiếc ám khí bay vọt ra, chỉ nghe “leng keng” mấy tiếng, ba quân cờ của chàng đã bị những ám khí nọ đụng phải bắn ra phía sau, rơi cả xuống đất.
Chàng đang ngạc nhiên thì bỗng thấy Thiết Toán Bàn Hoàng Chân cả cười đi tới. Thôi Hy Mẫn la lớn:
– Sư phụ, không ngờ sư phụ tới trước.
Vừa rồi, chàng vừa chạy tới quỳ xuống vái ba cái. Chàng là người trực tính, khi nào trong lòng hớn hở là lúc vái lạy đầu gõ xuống mặt đất rất mạnh, nên lúc đứng dậy, trán chàng vì va mạnh và mặt đá đã có hai ba chỗ xưng húp. Vừa thương vừa bực tức, Tiểu Tuệ khẽ trách nhẹ chàng. Chàng chỉ nhe răng cười khì, trông rất ngô nghê, ngốc nghếch. Thừa Chí cũng vội tiếng lên chào. Vì nhớ Thanh Thanh, chàng vội hỏi Hoàng Chân có trông thấy tung tích của Thanh Thanh ở đâu không? Hoàng Chân chưa nói gì thì bỗng hai con đười ươi đột nhiên kêu la loạn xạ, rồi cứ cắm đầu chạy thẳng lên trên sườn núi.
Thôi Hy Mẫn nói:
– Nguy to, hai con đười ươi chạy mất rồi!
Nói đoạn, chàng cất cẳng đuổi theo liền, Thừa Chí nói:
– Nơi đây là cố hương của chúng, về tới chốn cũ, tất nhiên chúng phải vui mừng chạy nhảy chớ? Thôi, cứ để mặc chúng!
Nhưng đôi súc vật này nuôi đã khá lâu rồi, sao lúc đi chúng không có vẻ gì luyến tiếc cả? Ai nấy đều ngạc nhiên về điểm ấy.
Hai con đười ươi càng lên càng cao. Thừa Chí đang nhìn theo bỗng trông thấy trên vách núi có làn khói đen phun ra, mà nơi đó lại là thạch động chôn hài cốt Kim Xà Lang Quân, và cũng là nơi mình đã tìm được vật báu. Chàng đang ngạc nhiên chưa hiểu tại sao thì thấy hai con đười ươi ở phía trên con cứ chỉ trỏ ra hiệu, hình như gọi mình lên trên ấy vậy. Tiểu Tuệ cũng trông thấy liền nói:
– Thừa Chí đại ca, hình như hai con đười ươi không phải bôn tẩu đâu. Chúng đang gọi anh đấy.
Thừa Chí trả lời:
– Đúng thế.
Chàng giơ tay ra hiệu, chàng Câm hiểu ý gật đầu liền chạy về thạch thất lấy đuốc và thừng ra, rồi cùng mọi người leo lên triền núi.
Thừa Chí nói:
– Đường lối đi lên trên động chỉ có tôi thuộc hơn hết, vậy để mình tôi đi thôi.
Nói đoạn, chàng xé vạt áo chia ra làm hai mảnh nhét vào lỗ mũi, đốt đuốc đâu đấy, rồi thả dây thừng leo xuống. Hai con đười ươi đứng trên sườn núi và nhảy nhót kêu là loạn xạ, gãi đầu gãi cổ hình như nóng lòng sốt ruột vô cùng.
Thừa Chí chui vào cửa động, thấy khói mù xông ra, vội nhịn hơi nín thở, từ từ đi vào bên trong, quả nhiên trông thấy một người nằm ngang dưới đất. Chàng tới gần xem mới hay là Thanh Thanh. Vừa mừng vừa sợ, chàng để tay vào mũi nàng, không thấy thở, rờ vào ngực nghe trái tim còn đập rất yếu. Lúc ấy trong động vẫn còn ánh sáng lửa, chàng trông thấy một người nữa nằm ở đó, định vào cứu đột nhiên thấy đầu óc choáng váng, chân tay bủn rủn, biết ngay khói mù có hơi độc rất mạnh, vội vã bồng Thanh Thanh ra ngoài cửa động, giật mạnh dây thừng lên một cái. Chàng Câm và Hồng Thắng Hải ở trên đỉnh núi vội kéo dây thừng lên. Lúc đang kéo lên Thừa Chí thấy xung quanh không có hơi độc, mới dám hít mạnh vài hơi, bỗng nghe trong bụng khó chịu vô cùng, không sao chịu được, nôn ọc ra một đống thật lớn. Mọi người đều lo ngại, chỉ sợ chàng bị nội thương cáng đáng không nổi, tuột tay một cái là cả hai người đều bị rơi xuống dưới thung lũng. Hồng Thắng Hải và chàng Câm vừa kéo vừa lo sợ.
Hai chú cháu Thôi Thu Sơn vội vàng chạy lại phụ giúp.
Khi Thừa Chí và Thanh Thanh sắp lên tới đỉnh núi thì trong động bỗng có tiếng nổ thật lớn, khói bốc lên mù mịt, đá vụn bắn tứ tung. Mọi người đều giật mình kinh hãi. Hồng Thắng Hải suýt buột tay, may chàng Câm vì tai điếc nên không nghe gì, vẫn bình tĩnh kéo dây lên, lại thêm sức khỏe hơn người, mới cứu được Thừa Chí và Thanh Thanh khỏi nguy.
Lên tới đỉnh núi, hai chân bủn rủn, Thừa Chí đứng không vững ngã quỵ xuống.
Mộc Tang đạo nhân vội xoa bóp cho chàng. Lúc ấy trong động vẫn còn tiếng nổ phát ra liên tiếp, ai nấy không hiểu tại sao trong lại có lắm thuốc nổ như vậy? Và cũng không hiểu ai ở trong ấy quấy nhiễu như thế, đều ngơ ngác nhìn nhau. Một lát sau, Thừa Chí từ từ tỉnh dậy, vẫn còn thấy mỏi mệt vô cùng liền nói:
– Hiểm thật!
Một lúc sau, Thanh Thanh cũng tỉnh lại, trông thấy Thừa Chí vội òa lên khóc. Thấy hai người đã thoát khỏi nguy hiểm, mọi người mới được yên trí. Tất cả ở trên đỉnh núi nghỉ ngơi một hồi lâu, không nghe tiếng nổ nữa. Thôi Hy Mẫn xin leo xuống điều tra xem. Thôi Thu Sơn buộc dây vào lưng chàng, để nhỡ gặp nguy là kéo lên ngay. Khi thòng xuống tới động, Thôi Hy Mẫn kiếm mãi không thấy cửa động đâu cả.
Vì những đá vụn ở trong động bắn ra đã lấp kín mất cửa động rồi. Chàng đành phải ra hiệu cho bên trên kéo lên. Khi tỉnh táo lại như thường, Thanh Thanh mới từ từ kể hết chuyện đã xảy ra ở trong động cho mọi người nghe. Mộc Tang đạo nhân than thở nói:
– Năm xưa bần đạo thấy Kim Xà Lang Quân đặt nhiều tên nhỏ trong hộp sắt để bẫy người, đã cho là khôn khéo lắm rồi, ngờ đâu lại còn hơn thế nữa.
Hoàng Chân nói:
– Có ngờ đâu, ông ta lại còn tự lấy thuốc độc vào xương cốt nữa.
Tròn xoe đôi mắt, Thôi Hy Mẫn ngạc nhiên hỏi:
– Sư phụ, ông ta làm thế nào mà tự cấy thuốc độc vào trong xương cốt được? Người ta khi chết rồi đã trở nên bộ xương khô, làm sao còn bỏ thuốc độc vào trong xương của mình như thế được?
Hoàng Chân vừa cười vừa mắng:
– Chờ khi nào mầy quy thiên rồi, mầy thử bỏ thuốc độc vào trong cốt ngu ngốc của mầy xem.
Mọi người đều cười ồ. Thôi Hy Mẫn phùng mồm bĩu môi nói:
– Người ta không biết mới hỏi chớ!
Thừa Chí nói:
– Hạ lão sư Kim Xà Lang Quân là người đa mưu túc kế, giỏi tính toán. Ông ta tự biết bình sinh kết nhiều thù oán, sau khi chết tất có người tới hủy hoại di hài của ông ta để cho đỡ tức. Ông ta đã thiện sử dụng chất độc, nên lúc hấp hối ông ta đã uống một thứ thuốc độc thật mạnh để ngấm vào xương cốt.
Lúc này mới vỡ lẽ, Thôi Hy Mẫn vỗ đùi đến “đét” một cái, rồi la lớn:
– Tôi biết rồi, nếu có ai tới đốt xương cốt của ông ta, khói độc bốc lên có thể giết chết được kẻ thù… Nhưng tại sao trong động có nhiều tiếng nổ lớn như thế? Chẳng lẽ ông ta còn cho cả thuốc nổ vào trong xương tủy chăng?
Tiểu Tuệ nói:
– Cho làm sao thuốc nổ vào trong xương tủy được? Tôi chắc ông ta chôn thuốc nổ ở dưới đất.
Thừa Chí nét mặt buồn rầu thở dài đáp:
– Bà mẹ của chú Thanh có trối lại muốn được chôn cùng với ông ta. Hiện giờ hài cốt của hai người tuy đã hóa ra tro nhưng cũng đã được hợp táng một nơi một chốn rồi.
Thôi Hy Mẫn lè lưỡi ra, tỏ vẻ vô cùng kinh hãi rồi nói tiếp:
– Có thể đối phó với kẻ thù của mình được. Mụ ác phu Ngũ Độc giáo bị chết như thế cũng đáng kiếp lắm.
Thừa Chí nói:
– Tuy oán độc quá nỗi, nhưng bà ta si tình như vậy, kể cũng tội nghiệp thật!
Luôn tay vuốt ve hai con đười ươi, Tiểu Tuệ nói:
– Nếu không nhờ hai con thú này phát giác thì chỉ chậm một tí nữa không những chị Thanh Thanh không ra được, mà cả anh Thừa Chí cũng bị chôn vùi trong động vì thuốc nổ mất.
Mọi người đều nhận thấy lời nói của Tiểu Tuệ là đúng. Như vậy đủ thấy súc sinh tinh khôn có khi còn hơn loài người. Mọi người vừa trò chuyện vừa đi lên núi.
An đại nương và Tiểu Tuệ đỡ Thanh Thanh vào trong thạch thất, rửa mặt và thay áo quần cho nàng xong, đỡ nàng lên giường nằm nghỉ.
Trúng độc khá nặng, Thanh Thanh đã uống thuốc giải độc linh đơn của Mộc Tang rồi, nhưng thuốc độc của Kim Xà Lang Quân chế theo đơn bí truyền của Ngũ Độc giáo nên thuốc giải độc thường không sao chữa khỏi được.
Sáng ngày hôm sau, tuy ngủ được một đêm, mặt nàng đầy những hắc khí, bịnh càng trầm trọng thêm, có lúc mê mẩn, có khi khóc lóc kêu la, nói mê nói sảng, cứ trách Thừa Chí phụ bạc. Thấy Thừa Chí ngượng nghịu, mọi người vừa buồn cười, vừa lo ngại, thấy chàng không vui, đều lẳng lặng rút ra bên ngoài.
Thừa Chí an ủi Thanh Thanh, thề không phụ bạc, không yêu người khác. Mặt Thanh Thanh lúc này hồng hào, khi thì xám đen, mồm cứ mãi ộc ra nước đen. Thấy vậy, Thừa Chí cuống cả chân tay, đành phải thúc thủ nằm cạnh nàng khóc thầm.
Mọi người ở bên ngoài bàn tán xôn xao, đều trách Kim Xà Lang Quân dụng tâm quá độc, mới hại người hại khiến con gái bị liên lụy như vậy. Ai nấy chán nản không còn tâm trí đâu mà ăn cơm nữa.
Hoàng hôn sắp tới, hai con đười ươi kêu la om sòm, bên ngoài có tiếng người ồn ào, thì ra vợ chồng Quy Tân Thụ dẫn Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, và Tôn Trọng Quân, tất cả sáu người đã tới. Nghe nói Thanh Thanh trúng độc, Quy nhị nương liền lấy Phục Linh Thủ Ô hoàn của con uống thừa cho nàng uống. Nhờ vậy nàng mới ngủ yên một giấc.
Một lát sau, đệ tử của Hoàng Chân dẫn tám sư đệ và hai đứa con tới, liền tiến lên vái chào Mộc Tang đạo nhân trước rồi vái chào sư phụ vợ chồng nhị sư thúc. Y thấy Thừa Chí nhỏ tuổi hơn cả đứa con lớn, khi quỳ lạy có vẻ không muốn, nên chỉ chào một tiếng:
– Sư thúc!
Giọng nói của y rất ngượng ngạo. Thừa Chí thấy người sư điệt đó bốn mươi tuổi, dáng người to lớn vạm vỡ, gân cốt cứng như gang thép, cao hơn mình một đầu, trong lòng khen thầm, liền nghĩ: “Đại sư huynh anh hùnh như vậy, phải có nhân tài xuất chúng như người này mới đáng là đệ tử trưởng môn của anh ta. Thôi Hy Mẫn võ công đã kém người lại lỗ mãng, so sánh với người này thật kém xa quá.”
Chàng đang nghĩ thầm, thấy người nọ sắp quỳ xuống vội giơ tay ra cản, và xua tay bảo chín đệ tử kia rằng:
– Tất cả khỏi phải lễ phép như thế nữa!
Thôi Hy Mẫn đứng cạnh đó liền giới thiệu:
– Sư thúc, vị đại sư huynh của cháu đây họ Phùng tên là Nan Địch, các giới giang hồ ban cho anh ta biệt hiệu là Bát Diện Oai Phong (oai phong tám mặt).
Thừa Chí hỏi:
– Chắc Phùng huynh đã học được hết chân truyền của đại sư ca rồi?
Hoàng Chân biết Phùng Nan Địch không muốn quỳ trước một sư thúc còn ít tuổi như vậy, vì y là người có tên tuổi trên chốn giang hồ, cần phải giữ sĩ diện, nên ông ta cũng không muốn cưỡng ép y làm gì. Hơn nữa tánh ông ta hay vui đùa, không bao giờ chú trọng đến lễ nghi phiền phức cả, cho nên chỉ cười một hồi rồi thôi. Phùng Nan Địch nói vài câu khiêm tốn khách sáo, rồi sai con lớn Phùng Bất Phá, con thứ Phùng Bất Thôi, vái chào mọi người.
Phùng Bất Phá năm nay đã hai mươi mốt tuổi, Phùng Bất Thôi thì mười bảy, cả hai anh em đều nhờ tên tuổi lừng lẫy của cha mà các anh hùng hào kiệt ở miền Tây Lương đều phải kiêng nể, và anh em y cũng có đôi chút võ nghệ thật sự. Chúng thấy Thừa Chí tuổi mới có đôi mươi đã là sư thúc tổ, cao hơn chúng những hai bậc, tuy phải miễn cưỡng quỳ lạy, trong lòng vẫn không phục tí nào, lại thấy đôi mắt của Thừa Chí vừa sưng vừa đỏ ngầu, lúc ra tiếp khách nước mắt chưa ráo hẳn. Hai anh em chúng đều nghĩ: “Con người chưa hết hôi sữa như thế này chắc võ nghệ cũng tầm thường thôi.”
Anh em y biết Tôn Trọng Quân là người rất hiếu thắng, võ nghệ lại cao cường nên đêm hôm ấy, chúng bàn tán định súc siểm Tôn Trọng Quân sư cô đấu võ với tên tiểu sư thúc tổ, để cho mất hết sĩ diện một phen chơi.
Chúng nghĩ dù cha chúng và sư tổ hay chuyện cũng không thể nào trách cứ được. Vì vậy sáng sớm ngày hôm sau, hai anh em dậy thật sớm đi kiếm Tôn Trọng Quân, ngờ đâu lại gặp bác sư thúc Thạch Tuấn. Chúng biết Thạch Tuấn cũng là người ít tuổi hiếu thắng, võ nghệ cũng giỏi như chúng, vì mặt bên phải có vết máu, người ta ban cho cái tên là Thanh Diện Thần. Thấy anh em họ Phùng có vẻ đang đi kiếm người, y liền quát hỏi:
– Này, anh em cậu định làm trò quỷ gì thế?
Phùng Bất Thôi cười đáp:
– Chúng tôi đi kiếm Tôn sư cô. Nghe nói cô ta ở Sơn Đông hạ rất nhiều anh tài của phái Bột Hải, chúng tôi định yêu cầu cô ấy kể lại những chuyện đó cho nghe đấy. Thạch Tuấn cười nói:
– Thế à. Vừa rồi tôi trông thấy cô ta luyện võ với Mã sư huynh ở phía sau núi kia.
Ba người hớn hở chạy tới phía sau núi. Anh em họ Phùng vừa đi vừa nghĩ kế xúi dục Tôn Trọng Quân đi kiếm Viên tiểu sư thúc để đấu võ.
Phùng Bất Thôi khẽ nói:
– Nếu Tôn sư cô còn luyện kiếm ở đó thì anh em ta nói tên họ Viên bảo những đường kiếm của nàng sai bét.
Phùng Bất Thôi cười gật đầu tỏ ý tán thành. Ba người vừa đi tới sơn hậu đã nghe tấy tiếng quát mắng của Tôn Trọng Quân, đều ngạc nhiên vô cùng. Phùng Bất Thôi liền tiến lên xem, thấy Tôn Trọng Quân tay cầm cái móc đang đuổi một người. Người đó trạc độ ba mươi tuổi, vẻ mặt phẫn uất, vừa chạy vừa chửi:
– Con giặc cái, con ác phụ…
Y lại múa đao quay lại đấu với Tôn Trọng Quân, nhưng võ nghệ y kém hơn cho nên đánh một hồi lại bỏ chạy, có điều lạ là y không chạy xuống núi, chỉ kiếm các nơi hẻo lanh mà chạy quanh thôi, hễ có cơ hội may là y lại quay lại đánh.
Phùng Bất Thôi nói:
– Chúng ta tiến lên đón đường tên nọ đừng để cho nó tẩu thoát.
Thạch Tuấn nói:
– Tôn sư tỷ không thích người ta giúp sức đâu. Vả lại nàng dư sức thắng tên nọ. Lúc ấy người nọ kêu la om xòm:
– Mi giết chết vợ ta và ba đứa con thơ thì thôi chớ? Tại sao mi lại còn đang tâm giết cả bà mẹ trên bảy mươi của ta?
Mặt Tôn Trọng Quân lạnh lùng như sương tuyết, quát lớn:
– Ngươi là côn đồ vô sỉ, nhà người còn thêm vài người nữa ta cũng giết tất!
Hai người càng đấu càng kịch liệt, Phùng Bất Phá nói:
– Tại sao Tôn sư cô không dùng kiếm? Cái đơn câu này hình như cô không hợp sử dụng thì phải?
Thạch Tuấn và Phùng Bất Thôi cũng thấy khí giới của nàng không hợp dùng thực.
Thạch Tuấn liền rút luôn thanh kiếm của mình ra, quay đầu kiếm ném cho nàng và gọi:
– Tôn sư tỷ, tiếp lấy kiếm này.
Thanh kiếm đó đang nhằm phía Tôn Trọng Quân bay sang, ngờ đâu vừa tới quãng giữa, bỗng có một người ở trong bụi rậm nhảy ra bắt luôn kiếm đó. Ba người giật mình kinh hãi, thấy khinh công của người ấy vừa nhanh chóng vừa đẹp đẽ, đều phải khen thầm. Chờ tới khi người đó đứng yên, nhìn rõ mặt, mọi người mới hay là Mạt Ảnh Tử Mai Kiếm Hòa, đại đệ tử của Quy sư thúc.
Thạch Tuấn liền kêu gọi:
– Mai sư huynh!
Mai Kiếm Hòa gật đầu chào, rồi ném kiếm trả lại Thạch Tuấn và nói:
– Tôn sư muội luyệt tập sử dụng khí giới khác, không dùng kiếm nữa.
Lúc này Thạch Tuấn mới vỡ lẽ nhưng chàng không hiểu Tôn Trọng Quân vì lạm sát những người lương thiện bị Mộc lão tổ sư cấm chị sử sụng kiếm.
Lúc này người nọ đấu với Tôn Trọng Quân đang hăng hái nhưng vì võ nghệ kém hơn, không bao lâu bị Trọng Quân đá trúng cổ tay, con đao của y rời khỏi tay bắn ra đằng xa. Tiếp theo đó, Trọng Quân dí luôn đoản câu vào ngực tên nọ, đang định đưa mạnh một cái là tên nọ thủng hông và chết ngay, Mai Kiếm Hòa vội lên tiếng gọi:
– Hãy khoan!
Hồi 24
Tôn Trọng Quân ngẩn người ngừng tay lại, người nọ nhảy sang bên tránh và cắm đầu chạy thẳng xuống dưới núi.
Mai Kiếm Hòa cười nói:
– Sư muội tha thứ cho y để sư tổ ban khen cô một phen.
Tôn Trọng Quân mỉm cười. Ngờ đâu, tên nọ chạy một khoảng khá xa, bỗng ngừng chân quay trở lại chửi:
– Con giặc cái, đồ khốn nạn!
Thấy y không biết điều gì cả, Mai Kiếm Hòa lẫn Thạch Tuấn cũng phải nổi giận.
Phùng Bất Thôi quát lớn:
– Mi là cái thứ gì mà dám tới Hoa Sơn đây quấy nhiễu như vậy?
Nói đoạn, chàng cầm cây thiết tiên xông xuống núi. Tôn Trọng Quân lại càng tức giận hơn, lớn tiếng nói:
– Không giết chết tên tiểu tử này, ta thề không làm người? Đành để cho sư tổ chặt thêm một ngón tay nữa cũng cam tâm.
Nàng múa móc đuổi theo tên nọ. Xưa nay vẫn tận tâm bảo vệ sư muội, Mai Kiếm Hòa sợ nàng giết người lại bị khiển trách lần nữa, liền nghĩ: “Ta hãy bắt sống tên này đánh một trận thật đau, để sư muột đỡ tức tối, như thế thì hơn.”
Chàng liền chạy đường tắt đón bắt tên nọ.
Khinh công cao siêu hơn người nọ, chỉ trong chốc lát, Mai Kiếm Hòa đã vượt qua tên nọ rồi, thấy có người chận đường, người nọ vội chạy sang đường hẻm bên trái.
Thạch Tuấn và anh em họ Phùng đều lấy ám khí ra. Phùng Bất Phá nhằm phía sau tên nọ ném một viên phi hoàng thạch.
Người nọ cũng khá lanh lẹ, nghe tiếng gió động, vội nhảy sang bên trái để tránh nhưng y tránh không nổi mũi trụ tiễn, đùi trúng ám khí, đau chịu không nổi, ngã nằm lăn ra đất. Mai Kiếm Hòa tiến lên định đè chặt y bỗng nghe bên cạnh có tiếng động, tiếp theo tên nọ bay lên cao.
Chàng giật mình kinh hãi vội cúi đầu để tránh, nhận kỹ lại mới hay tên nọ bị người ta dùng mấy chục sợi dây trói cho và kéo sang bên kia. Lúc ấy Tôn Trọng Quân và mọi người vừa chạy tới đều thất thanh kêu la. Thì ra người ra tay cứu tên nọ lại là một thiếu nữ rất đẹp, mặc y phục trắng, tóc tỏa xuống hai vai, hai chân không đi giày, cổ tay và cổ chân đều đeo vòng vàng, ăn mặc rất kỳ lạ, không ra Mân Mường, miệng tủm tỉm cười đứng yên nhìn mọi người.
Tay phải của thiếu nữ đó trắng như ngọc ngà, đang cầm một bó mấy chục sợi dây, giây đó không phải là dây tơ hay dây kẽm. Sau nàng lại có một thiếu nữ trẻ hơn, từ đầu chí chân đều bao bọc bằng áo khoác lông Hồ Ly trắng, chỉ để lộ bộ mặt thôi.
Tuy nhan sắc đẹp như mỹ nữ trong tranh, nhưng trông vẻ rất tiều tụy. Hai thiếu nữ ấy là Hà Thích Thủ và A Chín.
Thì ra sau khi Thừa Chí rời khỏi kinh đô chừng độ một ngày, Hồ Quế Nam cũng thăm dò tới khách sạn Uyển Bình đã hay hết chuyện của anh em họ Ôn, Hà Hồng Dược và Thanh Thanh, liền trở về bàn với mọi người. Hà Thích Thủ biết mấy con vật đóng ở góc tường là dấu hiệu triệu tập giáo chúng Ngũ Độc giáo, chỉ sợ Thanh Thanh ngộ độc thủ của mụ ăn xin là mình có lỗi với sư phụ, nàng nghĩ như vậy. Nhưng nàng đã nhận lời trông nom A Chín rồi, bỏ đi sao được? Trong lúc loạn ly này nhỡ A Chín có chuyện gì không may xảy ra thì sao? Bàn đi tính lại, nàng chỉ có một cánh lưỡng toàn là dắt A Chín đi cùng thôi. Nàng liền đem chuyện đó bàn với A Chín, đêm hôm ấy viết lá thư để lại, hai người lẳng lặng tìm tới nơi vua Sùng Chính tự ải để cho A Chín tế lễ qua rồi mới lên đường. Tuy bị thương nặng, A Chín nhờ có Hà Thích Thủ là người giàu kinh nghiệm trông nom và săn sóc cho, không đến nỗi đau khổ, và vết thương chỉ có khỏi dần chớ không nguy kịch như trước nữa. Cũng vì vậy, tình cảm của hai người càng ngày càng mật thiết thêm. Lúc hai người lên tới Hoa Sơn vừa gặp Hồng Thắng Hải ác chiến với Tôn Trọng Quân. Sau thấy Thắng Hải bị ám khí đánh ngã, Hà Thích Thủ vội lấy Nhuyễn Hồng Chân Sách (lưới nhện bằng sợi dây vàng) ra cứu.
Không biết Hồng Thắng Hải đã theo hầu Thừa Chí rồi, Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân càng không hay Hà Thích Thủ với A Chín là ai, chỉ đột nhiên thấy hai nàng lên trên Hoa Sơn quấy nhiễu đều tức giận vô cùng.
Tôn Trọng Quân quát hỏi:
– Các người là thủ hạ của môn phái nào? Tất cả có phải là đồng đảng của phái Bột Hải không?
Hà Thích Thủ cười đáp:
– Tỉ tỉ cao tánh đại danh là chi? Không biết bạn này có điều gì thất lễ với chị?
Tiểu muội xin đứng trung gian giảng hòa cho đôi bên nhé?
Thấy nàng ăn mặc quái dị, giọng nói lại ỏn ẻn, Tôn Trọng Quân liền thóa mạ rằng:
– Mi là yêu quái của tà giáo nào? Có biết nơi đây là đâu không?
Hà Thích Thủ chỉ cười chớ không thèm trả lời. Hồng Thắng Hải nói:
– Hà cô nương, con giặc cái này ác độc lắm. Biệt hiệu của nó là Phi Thiên Ma Nữ, nhà tôi với ba đứa con, còn bà mẹ ngoài bảy mươi tuổi nữa cũng bị nó giết chết cả.
Nói xong, chàng tức giận đến hai mắt như nổ lửa. Từ khi ở Kim Linh chịu một bài học rất sâu sắc của Thừa Chí đến giờ, Mai Kiếm Hòa đã mất tánh ngạo mạn, vả lại y biết ngày hôm nay, sư tổ thế nào cũng tới, không muốn gây sự với ai, vội lớn tiếng nói:
– Các ngươi mau mau xuống dưới núi đi, đừng có ở đây nói lôi thôi nữa.
Phùng Bất Thôi cũng lên tiếng nói:
– Các người có nghe sư thúc ta nói gì không? Mau mau đi ngay xuống núi.
Nói xong, chàng xông tới trước mặt A Chín làm bộ xua đuổi. A Chín tay cầm gậy thanh trúc, liếc mắt nhìn với vẻ oai nghi của một vị hoàng tộc, Bất Thôi bỗng tự dưng rùng mình thất kinh. Nhưng giây phút sau, Bất Thôi thức tỉnh, nổi giận quát hỏi:
– Các người muốn chết phải không?
Chàng vừa nói vừa giơ tay định kéo áo A Chín, muốn đẩy nàng đi ra. Được Trình Thanh Trúc dạy bảo cho từ hồi nhỏ, võ công đã được chân truyền, A Chín chỉ múa thanh trúc đánh một vạch và một móc. Phùng Bất Thôi đã đứng không vững, ngã lăn ra đất. May võ công đã có căn bản, lưng vừa sát đất, chàng đã nhún một cái đứng dậy.
Tuy vậy, chàng cũng phải thua người một tiếng rồi. Tánh người thanh niên bao giờ chẳng hiếu cường hiếu thắng, chàng xấu hổ quá, giơ roi sắt xông lại đánh.
Hà Thích Thủ cười nói:
– Các vị là người của phái Hoa Sơn phải không? Chúng ta là người nhà cả đấy mà!
Phùng Bất Thôi quát lớn:
– Ai là người nhà với nữ yêu tinh như mi?
Mai Kiếm Hòa là người lịch duyệt giang hồ lâu năm, kiến thức nhiều hơn, thấy Hà Thích Thủ vừa rồi ra tay cứu Hồng Thắng Hải, thân thủ khác người, biết ngay nàng là người có lai lịch liền đưa mắt ra hiệu bảo anh em họ Phùng hãy yên, rồi lên tiếng hỏi:
– Chẳng hay tôn sư là vị nào?
Hà Thích Thủ đáp:
– Sư phụ tôi họ Viên tên là Thừa Chí, là môn hạ của phái Hoa Sơn.
Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân đưa mắt nhìn nhau, bán tín bán nghi.
Thạch Tuấn cười nói:
– Viên sư thúc còn là đứa bé con không biết đã học hiểu ba thế võ của bổn môn chưa mà dám thu nhận đồ đệ như vậy?
Hà Thích Thủ mỉm cười hỏi:
– Có thật không?
Tôn Trọng Quân đã bị thất bại nặng nề trong tay Thừa Chí, sau đó bị sư tổ chặt đứt một ngón tay, tánh đàn bà hẹp hòi, đều đổ lỗi vào đầu Thừa Chí, hễ nghĩ đến tiểu sư thúc là hầm hực tức tối. Nhưng khi nàng nghĩ tới bản lãnh của Thừa Chí cao cường hơn, lại là bề trên của mình, và người ta còn có ơn cứu sống đứa con yêu quý của sư phục mình nữa, nên nàng chỉ có ân hận trong lòng chớ không dám thốt ra lời bao giờ.
Bây giờ nàng nghe Hà Thích Thủ tự nhận là đồ đệ của Thừa Chí, lửa uất hận lại bốc lên sùng sục, liền lớn tiếng nói:
– Nếu mi là đệ tử của phái Hoa Sơn tại sao lại đi đôi với tên cuồng đồ này?
Hà Thích Thủ đáp:
– Y là người tùy tòng của sư phụ tôi. Tôi không thấy y có cái gì là vô sỉ cả.
Xong quay sang phía Thắng Hải, nàng quát:
– Tại sao anh lại thất lễ với cô nương này?
Mấy người ở hậu sơn cãi lộn, tiếng vang ra phía trước. Không bao lâu, Phùng Nan Địch, Lưu Bội Sinh, với các đồ đệ khác đều lần lượt kéo về phía hậu sơn xem.
Phùng Bất Phá nói:
– Thưa cha, người đàn bà này nhận là đệ tử của tên tiểu… à tiểu sư thúc họ Viên đấy ạ.
Phùng Nan Địch “hừ” một tiếng rồi nói:
– Bọn họ đang cãi vã nhau chuyện gì thế?
Phùng Bất Thôi tranh nói trước, bèn kể đầu đuôi câu chuyện vừa rồi cho cha nghe.
Các đệ tử đời thứ ba của phái Hoa Sơn thì Phùng Nan Địch là người lớn tuổi hơn hết, và vào học môn này sớm nhất, lại thêm tên tuổi lừng lẫy trên giang hồ, đương nhiên là lãnh tụ của các đệ tử rồi. Chàng nghe con thứ kể xong, quay lại hỏi Tôn Trọng Quân rằng:
– Tôn sư muội tại sao kết thù với tên nọ?
Mai Kiếm Hòa thấy Tôn Trọng Quân mặt đỏ bừng không trả lời được, bèn lên tiếng nói giúp:
– Tên cuồng đồ này có một người anh kết nghĩa, không biết tự lượng, cứ đòi hỏi lấy sư muội, bị sư muội mắng cho một phen…
Hồng Thắng Hải xen lời nói:
– Nhận lời hay không tùy ở nàng thật. Nhưng không chịu thì thôi, tại sao nàng lại cắt luôn hai tai của nghĩa huynh tôi…
Phùng Nan Địch trợn mắt nói:
– Ai hỏi ngươi nào?
Mai Kiếm Hòa lại nói:
– Ngờ đâu tên cuồng đồ này mời rất nhiều người tới giúp sức, nhân lúc sư muội đi một mình nhảy bao vây và bắt đi. May thay sư mẫu chúng em hay tin tới cứu kịp.
Phùng Nan Địch trợn tròn xoe đôi mắt, quát lớn:
– Ngươi táo gan thật? Còn muốn dây dưa mãi câu chuyện này phải không?
Hà Thích Thủ đáp:
– Bắt cóc người để ép bức kết hôn như vậy anh em y có lỗi thật. Nhưng Tôn sư tỉ đã giết chết nghĩa huynh của y, như thế cũng hả dạ rồi, tại sao chị ấy lại còn tới nhà y giết luôn bốn người. Xin chị cho hay, đứa con lên ba và bà cụ ngoài bảy mươi của y có tội tình gì mà chị đang tay giết chết như vậy?
Ai nấy đều công nhận Tôn Trọng Quân hạ thủ quá ác độc.
Phùng Bất Phá nói:
– Nguyên nhân cũng chỉ tại ngươi lập tâm bất lương trước. Bây giờ người nhà người đã chết rồi, ngươi muốn làm gì nữa?
Hà Thích Thủ nói:
– Vấn đề này để tôi vào thỉnh giáo sư phụ rồi xem ông ta định đoạt ra sao.
Lưu Bội Sinh nói:
– Hiện giờ Viên sư thúc đang bận rộn, chắc không được rỗi đâu.
Mai Kiếm Hòa hỏi:
– Sư phụ chúng ta đâu?
Lưu Bội Sinh đáp:
– Sư phụ, sư nương, và sư bá, sư thúc đang bận nghĩ cách cứu người.
Phùng Nan Địch nói:
– Nếu vậy, hãy giam tên này lại trước, chờ lát nữa thỉnh thị sư phụ và hai vị sư thúc hãy hay.
Anh em Phùng Bất Phá nghe nói liền xông lên bắt người. Tuy đã cải tà quy chính rồi, Hà Thích Thủ vẫn chưa giảm hết dã tính, thấy mọi người coi mình không ra gì, xưa nay độc bá nhất phương, làm quen Giáo chủ, thì khi nào nàng lại chịu nhịn được?
Nàng tủm tỉm cười nói:
– Muốn trói người phải không? Đây tôi có dây thừng.
Nàng lấy cái lưới Nhuyễn Hồng Châu Sách ra đưa thẳng tới. Phùng Bất Thôi lườm nàng rồi nói:
– Ai thèm lấy giây của mi.
Đi thẳng tới cạnh Hồng Thắng Hải, hai anh em vừa giơ tay định động thủ, bỗng có tiếng cười khì rồi cả hai anh em đều thấy chân bó chặt, người bị nàng bồng lên trên không, như là đằng vân giá vũ bay thẳng đi. Hai anh em họ hoảng sợ mất hến hồn vía, bỗng nghe bên tai có tiếng đàn bà nói:
– Mau xử miếng “Lý Ngư Phiên Thân” (cá chép trở mình) đi. Miếng võ đệ nhất này, chắc cha cậu đã dạy rồi phải không?
Phùng Bất Phá nghe lời, dùng luôn miếng Lý Ngư phiên thân, hai chân đứng xuống đất tức thì, vẻ mặt ngơ ngác giây lát. Còn Phùng Bất Thôi trẻ người bướng bỉnh, không chịu nghe lời, định sử dụng miếng võ khác, nhảy tránh sang bên đứng luôn, tỏ ra một dáng điệu rất đẹp, ngờ đâu lúc xuống nhanh quá, cả cái mông đít ngồi phịch xuống đất đến “đét” một cái. Chàng vừa đau vừa xấu hổ, mặt đỏ bừng lên như gấc chín.
Thấy con mình bị khi thị, Phùng Nan Địch cả giận, quát lớn:
– Con yêu nữ này lúc đầu mi nhận là đệ tử của bổn môn, chúng ta còn bán tín bán nghi, nhưng bây giờ mi giở võ công hạ tiện kia ra, đủ thấy mi không phải là môn phái của bổn môn. Mi lại đây.
Chàng tức giận đến nỗi không kịp cởi từng cái khuy áo một, chỉ kéo mạnh một cái đứt hết mấy cái khuy, rồi vứt luôn cái áo ngoài ra một bên, bên trong lộ cái áo ngắn vải xanh, thần thái rất oai tráng, tựa như một cái tháp sắt vậy.
Hà Thích Thủ cười nói:
– Vị sư huynh này muốn đấu thử vài hiệp với tiểu muội phải không? Thế thì còn gì bằng nữa, nhưng chúng ta đánh cuộc cái gì nào?
Vừa rồi thấy nàng ra tay khá lanh lẹn, Phùng Nan Địch tự thị đã được chân truyền của sư môn, oai trấn Tây Lương, nên coi thường người thiếu nữ kia. Tuy vậy tánh rất nhân từ, chàng thấy Hà Thích Thủ có vẻ e sợ, tức khí nguôi liền, trong lòng nảy nở ngay thiện chí, dõng dạc nói:
– Bọn chúng tôi đây còn dễ nói chuyện, chờ lát nữa Quy nhị nương ra đây, bà ta là người coi người ác như kẻ thù, thấy người yêu quái như cô thể nào cũng không tha cho đâu, tôi khuyên cô nên đi ngay thì hơn.
Hà Thích Thủ nói:
– Anh có phải là sư phụ tôi đâu, mà có quyền đuổi tôi đi?
Vừa rồi vô cớ bị quật ngã hai cái, Phùng Bất Thôi uất hận khôn tả, liền đưa mắt ra hiệu cho anh hay, rồi la lớn:
– Chúng ta đấu với mi đây, nhưng không được sử dụng quỷ kế như hồi nãy nghe chưa?
Hai anh em đều múa roi sắt xông lên. Hà Thích Thủ cười nói:
– Hay lắm, tôi đứng yên, không cử động và cũng không đánh trả, như thế đã bằng lòng chưa?
Nói đoạn, nàng quấn chiếc Nhuyễn Hồng Chân Sách vào lưng, hai tay thọc vào trong tay áo trong tay áo. Song thiết tiên của hai anh em họ Phùng đánh đều xuống, không thấy nàng né tránh gì cả, khi thấy khí giới sắp đụng tới đầu nàng, cả hai đều thâu roi lại. Tuy còn ít tuổi, anh em họ được cha dạy từ hồi nhỏ, xưa nay không hề vô cớ đả thương người.
Phùng Bất Thôi nói:
– Mau lấy khí giới ra đi?
Hà Thích Thủ cười nói:
– Nếu chân tôi cửa động rời khỏi nơi đây nửa tấc, và tay tôi thò ra ngoài tay áo là coi như tôi thua cuộc rồi, như thế đã bằng lòng chưa?
Phùng Bất Thôi nói:
– Nhỡ anh em chúng tôi lỡ tay đả thương cô thì đừng có oán trách đấy nhé?
Hà Thích Thủ cười đáp:
– Cứ việc xông vào đánh đi. Các cậu trẻ con cứ hay nói lôi thôi mất cả thì giờ.
Xấu hổ vô cùng, Phùng Bất Phá giơ roi đánh vào đầu nàng tức thì.
Hà Thích Thủ ngã người sang bên, tránh khỏi roi đó. Phùng Bất Thôi bị nàng đánh ngã, liền dùng hết sức bình sinh múa thiết tiêu đánh xuống vai nàng một cái thật mạnh, ngờ đâu cây roi vừa xuống tới nơi, thân hình của đối thủ đã biến mất. Hai chân của Hà Thích Thủ vẫn như đóng đinh vào mặt đất, còn người của nàng thì tránh Đông né Tây. Song tiên của anh em họ Phùng càng đánh nhanh bao nhiêu, thân hình nàng càng tránh né nhanh bấy nhiêu, nàng vẫn tươi cười, song tiên của anh em họ không saođánh trúng mảnh áo của nàng. Mọi người đều ngơ ngác nhìn nhau không hiểu người thiếu nữa này ở đâu tới, nàng lại tự nhận là đệ tử của phái Hoa Sơn nhưng thân pháp và võ công không có một tí nào giống võ công của phái Hoa Sơn cả, mà tài lại tinh xảo đến thế.
Ba người đánh thêm mấy chục hiệp, anh em họ Phùng bỗng huýt còi miệng bảo nhau, cùng quất song tiên vào chân Hà Thích Thủ và cũng nghĩ rằng: “Hai chân mi không nhích động, xem mi chống đỡ bằng cách nào?”
Hà Thích Thủ bỗng nhiên cười nói:
– Cẩn thận nhé!
Nàng cúi cong mình xuống, khuỷu tay trái đẩy mạnh lưng Phùng Bất Phá một cái, khuỷu tay phải đụng vào lưng Bất Thôi. Cả hai anh em chỉ cảm thấy đau nhức, song tiên rơi xuống đất, loạng choạng ngã bắn ra xa.
Phùng Nan Địch khẽ nói:
– Mai sư đệ, người con gái này lạ lùng lắm, để huynh lên đấu trước thử xem.
Mai Kiếm Hòa gật đầu, Phùng Nan Địch nhún mình nhảy ra lớn tiếng nói:
– Tôi xin lãnh giáo vài hiệp.
Thấy chân đi nặng nề và vững chắc, Hà Thích Thủ biết ngay người này võ công rất cao cường, vẻ mặt nàng vẫn tươi cười, hai má lộ hai đồng tiền trông rất xinh đẹp, trong lòng nàng thì giới bị cẩn thận, cười nói:
– Nếu tiểu muội địch không nổi, xin sư huynh chớ có cười nhé?
Phùng Nan Địch đáp:
– Cô khéo ăn nói lắm. Nào, mời cô ra tay trước!
Nói đoạn, chàng liền cúi chào theo lối con nhà võ, tả chưởng hữu quyền, hợp hai tay vào nhau vái một cái, rồi sử dụng luôn miếng “Phá Ngọc quyền” để giữ thế. Hà Thích Thủ đáp lễ lại, rồi khẽ giơ tay đẩy lui thế võ của đối phương. Phùng Nan Địch khen thầm: “Tài ba lắm!”
Chàng đang định tiếp tục tấn công, đột nhiên nghe dưới lưng núi có tiếng kêu la hò hét, có người đang đánh nhau đuổi nhau. Phùng Nan Địch ngẩn người ra, trong lòng chần chờ, đưa mắt nhìn đối phương.
Hà Thích Thủ cười nói:
– Anh nghĩ tôi đem người tới đánh giúp phải không? Nếu vậy chúng tay hãy ngưng tay xem sao đã rồi hãy thi đấu nhé?
Tiếng hò hét càng ngày càng gần, trong đó có cả tiếng mắng chửi của đàn bà, Phùng Nan Địch gật đầu đáp:
– Cũng được.
Mọi người đều chạy tới mỏm núi nhìn xuống xem, thấy một thiếu nữ hồng y đang chạy vội lên núi, phía sau có bốn đại hán tay cầm khí giới đuổi theo đánh. Thấy trên sườn núi có bóng người, thiếu nữ hồng y tinh thần phấn khởi, cấp tốc chạy lên, trông thấy Phùng Nan Địch liền gọi:
– Bát Diện Oai Phong, mau cứu tôi.
Phùng Nan Địch giật mình nói:
– Ồ, Hồng Nương Tử đấy à?
Khắp thân thể đầy những máu tươi, Hồng Nương Tử không sao chịu đựng được nữa, liền chết giấc nằm lăn ra đất. Tiếp theo đó, bốn người kia vừa lên tới trên núi, không thèm đếm xỉa tới mọi người đứng đó, giận dữ xông thẳng tới định tróc nã Hồng Nương Tử.
Phùng Nan Địch giơ tay trái ra, đánh luôn một chưởng vào người đi đầu, và quát lớn:
– Bọn kia, phải nên hiểu biết nơi đây là đất đai gì?
Người nọ đưa tay phải lên đỡ, hai chưởng đụng nhau đến “bốp” một tiếng, cả hai cùng bị lui ra mấy bước. Thì ra người đó võ nghệ cao siêu vô cùng. Hai người đưa mắt nhìn nhau có vẻ kinh hãi trong lòng.
Người nọ quát lớn:
– Tôi thừa lệnh Tổng quân sư dưới trướng của Sấm Vương tróc nã vợ tên phản nghịch Lý Nham, sao người dám ngăn cản?
Biết Lý Nham là nghĩa huynh của sư phụ, Hà Thích Thủ nghĩ thầm: “Vị Hồng Y nữ này đã là vợ của Lý Nham thì ta phải ra tay cứu mới được.”
Nghĩ đoạn, nàng xông lên cười nói:
– Thiên hạ ai chẳng biết Lý Nham là một vị anh hùng hào kiệt, xin quý vị nể tiểu muội đôi chút, buông thả cho vị nương tử này!
Thái độ của người nọ kiêu ngạo vô cùng, tự thị võ nghệ hơn người, y không coi Hà Thích Thủ vào đâu, không thèm trả lời, giơ tay ra hiệu cho ba người kia tiến lên bắt trói Hồng Nương Tử.
Hà Thích Thủ cười nói:
– Giỏi lắm, các ngươi không muốn sống chắc?
Nàng liền để tay vào cạnh sườn bấm cái máy ám khí “Hàm Sa Xạ Ảnh” (ngậm cát bắn bóng) những đinh độc bắn ra tức thì. Ba tên nọ võ nghệ tầm thường làm sao tránh nổi những ám khí “thần bất tri quy bất giác” ấy. Tên đi trước bị luôn bảy tám mũi đinh độc bắn vào mặt, không kịp kêu la đã ngã lăn ra chết liền. Mấy tên nọ sợ hãi vô cùng, đều quát hỏi:
– Ngươi là ai?
Cái móc sắt trên tay trái của nàng vẫn giấu trong tay áo, lúc đánh nhau với anh em họ Phùng cũng không lộ ra. Đến bây giờ, nàng mới lật tay áo lên để lộ cái móc sắt ra. Người đi đầu sợ đến nỗi mặt tái mét, giọng nói run run hỏi:
– Cô… cô… cô là… Ngũ Độc giáo… Hà giáo chủ phải không?
Hà Thích Thủ mỉm cười, tay phải lại lộc cái móc vàng ra, ánh sáng lập lòe. Ba tên nọ mất hết hồn vía, quay đầu chạy liền, bỏ cả xác của đồng đảng ở đó. Một tên sợ hãi quá, chạy tới sườn núi trợt chân ngã lăn long lóc. Mọi người đứng đó đều ngạc nhiên và nghĩ thầm: “Sao ba tên nọ lại sợ nàng đến thế?”
Phùng Nan Địch và Mai Kiếm Hòa lăn lộn trên giang hồ lâu năm, đều biết tiếng tăm của Ngũ Độc giáo, vội chạy lại đỡ Hồng Nương Tử, đang định hỏi han nguyên nhân thấy phía bên sườn núi có một đạo sĩ vừa gầy vừa cao đi tới, cúi đầu nhìn xuống lưng núi lớn tiếng kêu gọi:
– Ba tên hèn nhát như rái, có mau bò lên đây không?
Tiếng hò hét của y vang động như tiếng chuông kêu vậy, rung chuyển cả sơn cốc.
Ba tên nọ trông thấy mặt đạo nhân cả mừng, ngưng chân lại không bôn tẩu nữa, và quay mình bò trở lên núi liền. Mọi người thấy đạo nhân mặc áo đạo bào, không phải là tơ và cũng không phải là vải, quý giá hoa lệ vô cùng, trên mũ của đạo nhân một viên ngọc trắng tinh, ánh sáng chói lọi, thật là một báu vật vô giá, trên lưng đeo một thanh trường kiếm, đôi lông rất đạo mạo, hiển nhiên là một vị đắc đạo cao nhân.
Phùng Nan Địch tiến lên vái chào rồi nói:
– Xin đạo trưởng cho hay pháp hiệu? Chẳng hay đạo trưởng có phải là bạn hữu của Tổ sư tệ phái đây không?
Người đạo nhân nọ không đáp lễ lại, chỉ phe phẩy cái phất trần, đưa mắt ngắm nhìn mọi người rồi hỏi:
– Các người tụ họp ở đây làm gì thế?
Phùng Nan Địch đáp:
– Tổ sư của tệ phái triệu tập các đệ tử ở đây để hội họp đại hội thường niên đấy ạ.
Đạo nhân nọ lại hỏi:
– Thế à. Mục Nhân Thanh đã tới chưa?
Thấy đạo nhân dám gọi quý danh của tổ sư mình, hình như là bạn hữu chí thân với nhau vậy, Phùng Nan Địch lại càng lễ phép hơn, vội đáp:
– Tổ sư chúng tôi chưa giá lâm ạ.
Đạo nhân nọ mỉm cười, chỉ Tôn Trọng Quân, Hà Thích Thủ và A Chín, ba người mà nói rằng:
– Lão Mục thâu khá nhiều nữ đồ đệ đẹp đẽ như tiên kia, y cũng diễm phúc thật.
này, ba cô kia lại đây bần đạo xem nào!
Thấy đạo nhân ăn nói vô lễ như vậy, mọi người đều thất kinh. Tôn Trọng Quân cả giận hỏi:
– Ngươi là ai?
Đạo nhân nọ cười nói:
– Được lắm, tiểu nương tử hãy theo đạo gia về ta sẽ thong thả nói cho biết đạo gia là ai.
Thấy thái độ của đạo nhân suồng sã quá, Tôn Trọng Quân nổi giận thét:
– Ngươi nói gì? Dám đến đây quấy nhiễu thế ư?
Đạo nhân nọ cười tít mắt lại, giơ tay vuốt má nàng một cái, rồi để tay lên mũi ngửi, cười nói:
– Thơm tho quá.
Tôn Trọng Quân cả giận, thuận tay đâm luôn một móc. Khẽ giơ tay phải lên đỡ, đạo nhân đã nắm được cổ tay của nàng. Mạch môn bị địch nắm chặt, Tôn Trọng Quân cảm thấy tê cả người, không còn hơi sức nữa. Đạo nhân lôi nàng vào lòng, ôm chặt lấy hôn lên má một cái rồi khen rằng:
– Con bé này xinh ghê!
Phùng Nan Địch, Mai Kiếm Hòa, và Lưu Bội Sinh cả giận, vỗ ra một chưởng. Chỉ thấy đạo nhân nhún chân mạnh một cái, tay vẫn ôm chặt Trọng Quân mà người đã lui về phía sau mấy bước rồi. Mọi người thấy y ôm theo một người mà vẫn còn lanh lẹ như vậy, ai nấy đều kinh hãi, biết tên đạo sĩ ấy không phải là tay tầm thường. Tuy vậy, chẳng lẽ bó tay không cứu Trọng Quân hay sao? Nên ai nấy đều rút khí giới ra xông cả lên vây chặt kẻ địch. Đạo nhân nọ cũng lẹ tay rút luôn thanh kiếm ở sau lưng ra.
Trong các đệ tử chỉ có Mai Kiếm Hòa thân pháp nhanh hơn, và hơn nữa chàng quan tâm đến Trọng Quân cũng hơn ai hết, nên chàng là người thứ nhất xông vào tấn công.
Thấy thanh kiếm của đạo nhân sáng quắc, biết ngay kiếm đó là bảo vật, Mai Kiếm Hòa không dám để kiếm của mình chạm kiếm của địch, chỉ nhằm khe hở ở người đạo sĩ đâm luôn ba kiếm. Từ khi chàng bị Thừa Chí đánh cho rơi kiếm ba lần mới hay võ công của bổn môn quả tinh xảo lắm, mình chỉ hiểu biết có chút ít thôi, nên chàng giảm bớt tánh kiêu ngạo, và xin sư phục và sư mẫu dạy thêm kiếm pháp. Nửa năm trời, chàng không ra cửa một bước, suốt ngày chàng chăm chú nghiên cứu học tập kiếm pháp, quả nhiên võ công của chàng tiến bộ hơn trước nhiều.
Ba chiêu dùng tấn công đạo nhân là tuyệt học bình sinh của chàng, nhanh chóng và ác độc, đã được tinh yếu kiếm pháp của phái Hoa Sơn.
Đạo nhân khen liền:
– Khá lắm!
Chưa dứt lời, chỉ nghe thấy keng một tiếng, kiếm của tên đạo nhân đã chặt đứt thanh kiếm của Kiếm Hòa ra làm đôi rồi. Sợ hãi quá, Kiếm Hòa vội nhảy lui. Theo luật thì chàng phải ném đoạn kiếm này vào địch thủ rồi mới rút lui, để đề phòng địch thủ thừa cơ tấn công mình. Sở dĩ chàng không làm theo như vậy là e nhằm phải sư muội.
Nhưng dù chàng rút lui rất nhanh mà búi tọc trên đầu chàng cũng bị đạo nhân cắt đứt ngay lúc ấy rồi.
Sau khi Mai Kiếm Hòa thất bại rút lui, Phùng Nan Địch, Lưu Bội Sinh, Thạch Tuấn, Phùng Bất Phá, Phùng Bất Thôi, và Tứ đệ tử cùng lục đệ của Hoàng Chân đều cầm khí giới xông vào tấn công. Đạo nhân nọ liền múa trường kiếm chống đỡ, chỉ nghe mấy tiếng keng keng đã có người bị chém đứt khí giới, có người bị y đá bắn ra xa, sau cùng chỉ còn lại hai người.
– Thanh kiếm này cũng tốt đây để ta chơi đã rồi ta sẽ gởi lại trả, nghe chưa!
Nói xong, y cắn kiếm vào bao, tiến tới trước mặt Hà Thích Thủ cười nói:
– Cô cũng theo ta đi nhé?
Hà Thích Thủ rất khôn ngoan lanh lợi, thấy đạo nhân đi tới, biết y định giở thủ đoạn gì rồi, nhưng vừa rồi nàng đã trông thấy võ nghệ của đạo nhân rất cao cường, tự nghĩ khó bề tránh thoát nổi, liền bảo Hồng Thắng Hải rằng:
– Anh mau đi mời sư phụ tới đây.
Hồng Thắng Hải vừa quay mình đi, đạo nhân nọ đã tiến tới trước mặt rồi.
Nàng cười nói:
– Võ nghệ của đạo trưởng cừ khôi quá! Chẳng hay đạo hiệu của đạo trưởng là gì thế?
Thấy nàng tủm tỉm cười, không có vẻ gì hãi sợ cả, đạo nhân ngạc nhiên vô cùng, ngắm nghía nàng từ trên đầu xuống tới chân. Y thấy hai chân không của nàng trắng như tuyết, hai má đỏ hồng, lời ăn lẽ nói và nhứt là tiếng cười của nàng làm cho người hồn siêu phách lạc, nên đạo nhân nhũn cả hai chân tay, lại tiến lên một bước, cười nói:
– Tên ta là Ngọc Chân Tử, cô bé tên là gì thế? Cô khen võ nghệ của ta cao siêu, cô muốn học những môn võ ấy, cứ đi theo ta, ta sẽ dạy cho.
Hà Thích Thủ cười nói:
– Ông chớ có lừa dối tôi đấy nhé? Và chúng ta đã nói cái gì là phải theo đúng mà làm, không được nuốt lời, nghe chưa?
Ngọc Chân Tử đáp:
– Ta không lừa dối cô em đâu. Thôi, đi theo ta đi!
Vừa nói y vừa giơ tay ra kéo tay nàng. Lùi lại một bước, Hà Thích Thủ cười nói:
– Hãy khoan đã, chờ Sư phụ tới, để tôi hỏi xem ông có bằng lòng cho tôi đi hay không!
Ngọc Chân Tử nói:
– Hừ! Cô theo sư phụ dù có học được như bọn kia cũng vô ích mà. Những sư phụ cơm nguội ấy có tài ba gì đâu mà cô còn muốn theo học nữa! Thôi, theo ta đi đi. Hà, hà…
Hà Thích Thủ đáp:
– Bản lãnh của sư phụ tôi cao siêu lắm. Nếu ông ta biết tôi theo ông đi thể nào cũng không cho đâu.
Bọn Phùng Nan Địch thấy Tôn Trọng Quân bị tên đại nhân ôm trong lòng mà con yêu nữ nọ lại nói bông nói đùa với kẻ địch như vậy, ai nấy đều tức lộn gan lộn ruột.
Mai Kiếm Hòa quát tháo:
– Tặc đạo giỏi thật, hôm nay ta phải thí mạng với mi!
Chàng múa kiếm xông lên. Vẫn trò chuyện với Hà Thích Thủ, Ngọc Chân Tử không thèm quay người lại nói:
– Ta lại giở thêm một miếng võ nữa cho cô bé xem nhé? Cô sẽ thấy ta tài ba hơn hay là sư phụ cô lợi hại hơn.
Vừa nói y vừa né mình tránh thế kiếm của Mai Kiếm Hòa, và mồm lại nói tiếp:
– Với kiếm pháp này, tên kia có thể nói là một tay cao thủ hiếm có của phái Hoa Sơn các ngươi nhưng mà gặp phải ta. Hừ, hừ, cô bé cứ đếm từ một tới mười, ta tay không sẽ cướp được kiếm của y, không quá thời gian đó cho mà xem!
Thấy đạo nhân miệt thị mình quá như vậy, Mai Kiếm Hòa càng bực tức thêm, thế kiếm càng đánh càng lợi hại hơn trước nhiều. Hà Thích Thủ cười nói:
– Có phải tha hồ tôi đếm nhanh thế nào cũng được không? Được, một, hai, ba, bốn, năm…
Rồi nàng đếm thẳng một hơi, Ngọc Chân Tử cười nói:
– Con bé này hư lắm đấy nhé! Này nhìn kỹ đi!
Mai Kiếm Hòa vừa đâm kiếm ra, đột nhiên thấy địch né sang bên, và giơ thẳng cánh tay ra, không hiểu đối phương làm cách gì, đã xỉa thẳng hai ngón tay vào mặt mình rồi. Chàng kinh hãi vô cùng, rồi giơ tay trái lên gạt. Ngọc Chân Tử rụt tay lại, khuỷu ta thuận thế đụng thật mạnh vào cổ tay đối phương một cái. Mai Kiếm Hòa cảm thấy tay mình tê liệt, buông rơi trường kiếm bị Ngọc Chân Tử nhanh như chớp nhoáng cướp mất thanh kiếm đó rồi. Lúc ấy Hà Thích Thủ mới đếm tới tám. Ngọc Chân Tử kha khả cười, tay trái cầm kiếm, dùng hai ngón tay, ngón trỏ và giữa bên tay phải kềm chặt mũi kiếm rồi đè mạnh một cái, chỉ nghe thấy “cắc” một tiếng, thanh kiếm gãy ngay một mẩu. Mọi người trông thấy những ngón tay của đạo nhân được bọc bằng bao gang đen nhánh. Nhưng thần lực như vậy cũng là hiếm có lắm rồi. Lại nghe thấy “cắc cắc” mấy tiếng liền, thanh trường kiếm nọ đã bị đạo nhân bẻ gãy làm mươi mảnh.
Ngọc Chân Tử vứt luôn cán kiếm gãy xuống đất, thét lớn một tiếng thật dài giơ tay định kéo cổ Hà Thích Thủ. Cố tâm sử dụng kế hoãn binh để kéo dài thời gian nhưng Hà Thích Thủ chờ mãi không thấy Thừa Chí tới. Lúc này không thể nào có thể chờ đợi thêm được nữa, nàng giơ luôn tay trái ra cho đạo nhân nắm lấy, yên trí sẽ nắm được một cái bàn tay thơm tho, Ngọc Chân Tử không ngờ lại nắm phải một cái gì cứng rắn và lạnh buốt, giựt mình kinh hãi, vội buông ngay tay ra, đã thấy một luồng sáng vàng chói lóe mắt, một chiếc móc vàng đã bổ tới sống mũi rồi.
Hà Thích Thủ tấn công vừa nhanh vừa đúng, dù Ngọc Chân Tử võ nghệ có cao tới đâu cũng không thể né tránh nổi. Trong lúc nguy cấp, Ngọc Chân Tử chỉ còn có một cách là ngửa đầu về phía sau để tránh, cái móc của Hà Thích Thủ vừa lướt qua đầu mũi, chỉ thấy mùi tanh hôi lạ lùng, thì ra móc của nàng có tẩm thuốc độc. Ngọc Chân Tử không ngờ cô bé xinh đẹp như thế mà ra tay lại ác độc như vậy, hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh. Y đang ngẩn người nghĩ ngợi, cái móc sắt bàn tay trái của Hà Thích Thủ lại tấn công tới. Chỉ trong chớp mắt, song câu đã tấn công luôn đến miếng độc. Ngọc Chân Tử tay không có khí giới, lại đang ôm Tôn Trọng Quân trong lòng nên bị nàng tấn công đến cuống cả chân tay đành phải đẩy Tôn Trọng Quân ra khỏi lòng, nhảy sang bên một bước để tránh, rút trường kiếm ra, kha khả cười nói:
– Thật không ngờ cô bé này lại có hai miếng khá lợi hại đấy, được lắm, chúng ta sẽ tái đấu nào?
Vừa rồi, nhân lúc bất ngờ mới liên tiếp tấn công được tên đạo nhân mấy miếng, Hà Thích Thủ cũng tự biết sức mình nên cô tranh đấu thật với đối phương tất không sao địch nổi nhưng tình thế bắt buộc, nàng đành phải liều lĩnh một phen, liền cười nói:
– Ông không được đánh thật nhé? Chúng ta chỉ đùa giỡn chơi thôi.
Lúc này, Ngọc Chân Tử sinh nghi rồi, biết người con gái này bề ngoài xinh đẹp như tiên nữ, mà ra tay thì ác độc vô cùng, nhưng y tự thị võ công thiên hạ vô địch nên không coi đối phương vào đâu, liền nói:
– Nhưng cô thua thì phải theo ta đi đấy nhé?
Hà Thích Thủ đáp:
– Được, hãy coi móc của tôi đây.
Nàng múa song câu, tấn công rất nhanh. Ngọc Chân Tử không dám sơ ý, phải dùng thế gỡ thế, hai người tranh đấu rất hăng hái.
Mai Kiếm Hòa vội chạy lại đỡ Tôn Trọng Quân dậy. Lúc đầu mọi người thấy Hà Thích Thủ đánh ngã anh em họ Phùng, còn tưởng là hai thiếu niên chưa được tinh xảo nhưng lúc này thấy nàng đối những thế võ quái dị, song câu của nàng y như đạo hoàng khí và một luồng hắc khí nổ lực địch trường kiếm của Ngọc Chân Tử. Ai nấy đều tắc lưỡi khen thầm, và định tiến lên trợ giúp một tay, nhưng thấy hai người tranh đấu kịch liệt và lợi hại quá nên không ai dám xông vào, vì tự biết tài nghệ quá thấp kém, có vào đánh cũng chỉ chết oan uổng dưới trường kiếm của tên đạo tặc mà thôi.
Hai người càng đấu càng nhanh, bỗng nghe thấy “keng” một tiếng, chiếc móc vàng của Hà Thích Thủ đã bị Ngọc Chân Tử chém gẫy một mẩu, Hà Thích Thủ vội phẩy tay áo một cái, liền đó có một ám khí bay ra, “bốp” một tiếng, ám khí đó bùng nổ, một làn khói màu hồng tỏa ra trước mặt Ngọc Chân Tử, ánh sáng mặt trời chiếu vào, trông thực đẹp đẽ.
Ngọc Chân Tử vội nhảy sang bên tránh, lớn tiếng quát mắng:
– Ngươi là người của Ngũ Độc giáo phải không? Tại sao lại trà trộn vào đây?
Thạch Tuấn và Phùng Bất Thôi đứng phía cuối gió, ngửi phải hơi độc của ám khí, đầu óc mê man, ngã lăn ra đất bất tỉnh liền.
Hà Thích Thủ cười nói:
– Hiện giờ ta đã cải tà quy chánh, xin gia nhập làm môn đệ của phái Hoa Sơn rồi. Ngươi cũng nên cải tà quy chánh đi thì hợp.
Ngọc Chân Tử vận dụng song chưởng thành gió, phát ra tiếng vù vù, đánh tan làn hơi độc đó, và đánh tiếp luôn một chưởng sức mạnh như thôi sơn bài hải đẩy tới. Thấy đối phương kiếm pháp di tinh diệu, Hà Thích Thủ không ngờ chưởng pháp của địch còn lợi hại hơn, vội rút luôn roi đuôi bò cạp ra, né mình tránh chưởng lực của địch.
Ngọc Chân Tử biết roi của nàng có chất độc rất mạnh, nghĩ thầm: “Võ công của mình độc bộ thiên hạ, nay lại để cho một người con gái tiếp mình nhiều hiệp thế này, thì còn gì sĩ diện nữa? Bây giờ ta không cho cô gỡ quá ba hiệp để cho chúng biết tay ta mới được.”
Nghĩ đoạn, y nhắm kỹ thế công của Hà Thích Thủ rồi giơ tay trái ra nắm luôn đầu roi. Nhờ có bao gang đeo trên ngón tay, y không sợ cây roi của đối thủ có chất độc nữa. Hà Thích Thủ hết sứ giằng mạnh một cái, thấy giằng không chuyển mà trường kiếm bên tay phải của địch đã đâm tới, vội buông roi ra, cười nói:
– Tôi chịu thua rồi, xin bái ông làm sư phụ vậy!
Nói xong, nàng quỳ xuống vái liền.
Ngọc Chân Tử cả cười, vứt cây roi đuôi bò cạp xuống đất, đột nhiên thấy trước mặt có ánh sáng xanh lập lòe, biết có sự nguy tai đến nơi, vội phẩy tay áo một cái, nhảy ngay lên trên cao, thấy một loạt đinh nhỏ bay qua dưới chân, rồi rơi cả xuống bụi lau.
Thì ra khi Hà Thích Thủ quỳ xuống vái bấm ngầm cái máy ám khí Hàm Sa Xạ Ảnh, lần này xuất kỳ bất ý, yên trí thế nào cũng bắn trúng kẻ địch vài cái đinh là ít.
Nhưng nàng đâu có ngờ Ngọc Chân Tử lại có võ công cao siêu đến thế, chỉ còn cách một sợi tóc là bị trúng mấy chục đinh ngay, mà y lại tránh khỏi được. Y ở trên không xà xuống, tựa như con diều hâu nhắm Hà Thích Thủ mà đâm bổ xuống.
Đứng cạnh đó quan sát, A Chín giờ phút nào cũng lo lắng cho Hà Thích Thủ, nhưng khổ một nỗi, tay nàng còn bị thương chưa khỏi nên không thể ra tay trợ giúp được. Lúc này thế đánh của Ngọc Chân Tử quá độc ác, mà Hà Thích Thủ đang sợ hãi đến mất hồn vía, nàng liền phóng luôn hai cái thanh trúc tiêu vào người Ngọc Chân Tử, đồng thời la lên:
– Tiếp lấy!
Nàng ném luôn thanh Kim Xà kiếm cho Hà Thích Thủ, Ngọc Chân Tử dùng tay áo phẩy một cái, cả hai chiếc phi tiêu bằng tre xanh đều bắn trở lại. Hà Thích Thủ tránh chưởng của địch, tiếp lấy thanh kiếm, gạt hai chiếc phi tiêu, tấn công kẻ địch, một hơi liên tiếp theo đó, hai người lại giao chiến. Lúc này, nàng đã có thêm bảo kiếm chém sắt chặt đá như chơi. Thế là, tay phải cầm kiếm, tay trái có thiết câu, về phương diện khí giới, nàng đã được lợi thế hơn kẻ địch. Thấy đấu mãi vẫn không hạ nổi đối phương, Ngọc Chân Tử nóng lòng nóng ruột vô cùng, đột nhiên quày tay trái rút cây phất trần ra trợ chiến. Như vậy khí giới của y có nhu có cương, dũng mãnh vô cùng. Hà Thích Thủ xưa nay không thiện dùng kiếm, tay trái thiết câu còn miễn cưỡng chống đỡ nổi, tay phải Kim Xà kiếm thì dần dần bị đối phương khắc chế.
Mọi người thấy nàng lâm nguy, không ai bảo ai, đều xông lại trợ chiến. Chỉ nghe thấy phất trần quất đến “vù” một tiếng, vai của Lưu Bội Sinh bị đánh trúng, đau buốt tận xương cốt. Tuy trong phất trần có cả sợi thép, nếu phải tay võ nghệ kém hơn, đã bị cái đánh ấy quất ngã rồi. Mai Kiếm Hòa nói với Tôn Trọng Quân rằng:
– Cô mau đi mời sư phụ, sư mẫu, sư bá, sư thúc ta đây đối phó tên đạo tặc này.
Chàng thấy võ công của Ngọc Chân Tử cao cường, bình sanh ít thấy ai tài giỏi như vậy, có lẽ phải hợp sức mấy tay cao thủ mới kềm chế nổi y.
Tôn Trọng Quân vâng lời, quay mình định đi, bỗng cả mừng kêu rút lên:
– Đạo trưởng, mau lại đây, mau lại đây!
Mọi người đang chăm chú vây đánh, không dám quay đầu nhìn lại, chỉ nghe thấy một giọng già lão cất lên:
– Giỏi lắm, tưởng là ai, không ngờ lại là chú!
Ngọc Chân Tử đánh liên mấy miếng thật mạnh đẩy lùi mọi người, rồi nhảy ra ngoài vòng vây, lạnh lùng đáp:
– Sư huynh mạnh giỏi đấy chứ?
Mọi người quay lại nhìn thấy Mộc Tang đạo nhân tay cầm bàn cờ, tay ông hai họp quân cờ, đứng ở phía sau.
Mọi người vốn biết đạo nhân là bạn thân của tổ sư, võ công giỏi ngang với tổ sư, nếu ông ta chịu ra tay, thì đối phương dù lợi hại đến đâu cũng phải rút lui ngay. Nhưng lại nghe thấy Ngọc Chân Tử gọi ông ta là sư huynh, ai nấy đều ngạc nhiên vô cùng.
Mộc Tang nói:
– Chú tới đây có việc gì thế?
Ngọc Chân Tử cười đáp:
– Anh tới đây đánh cờ, còn tôi đi bắt một người.
Vừa nói, y chỉ về phía Hồng Nương Tử rồi lại nói tiếp:
– Và còn thâu nhận thêm ba đồ đệ nữa.
Mộc Tang cau mày nói:
– Không ngờ mấy chục năm qua, chú vẫn không thay đổi tánh tí nào. Mau mau đi xuống núi ngay!
Với giọng mũi, Ngọc Chân Tử “hừ” một tiếng rồi nói:
– Năm xưa, sư phụ cũng không quản thúc nổi tôi chẳng lẽ bây giờ tôi lại phải phiền tới anh dạy bảo hay sao?
Mộc Tang nói:
– Chú thử nghĩ xem, mấy chục năm nay, chú đã làm bao nhiêu việc mai một lương tâm rồi? Có nhiều lần, ta định đi Tây Tạng kiếm chú…
Ngọc Chân Tử cười nói:
– Thế à? Chúng ta, hai anh em, đã lâu không gặp nhau rồi nhỉ?
Mộc Tang nói:
– Ngày hôm nay, ta khuyên chú một lần chót, nếu chú không chịu hối cải thì đừng có trách ta là kẻ bất nhân đấy nhé?
Ngọc Chân Tử cười nhạt nói:
– Ta một mình một kiếm tung hoành khắp thiên hạ, từ xưa tới nay không một kẻ nào dám nói nửa câu vô lễ với ta như vậy.
Mộc Tang nói:
– Phái Hoa Sơn có thù hằn gì với chú đâu, mà chú nỡ đánh đệ tử của phái đó bị thương như thế kia? Khi Mục sư huynh trở về thì biết ăn nói làm sao đây?
– Tôi ở Tây Tạng bấy lâu nay, ai chẳng rõ là tôi với anh đã đoạn tình tuyệt nghĩa rồi. Mục Nhân Thanh chỉ có hư danh thôi, người khác sợ y chớ tô, Ngọc Chân Tử này, đã có gan lên tới núi Hoa Sơn thì không tên khỉ già bảy hay tám chân ấy vào đâu cả.
Thở dài ra một tiếng, Mộc Tang nói:
– Trước sau cũng không sao tránh khỏi một trận đánh. Nếu biết thế này thì từ ba mươi năm về trước ta đã diệt chú rồi, có phải bao lâu nay nhiều người lương thiện khỏi bị chết oan chết uổng bởi tay chú không? Nào chú tiến lên đi!
Ngọc Chân Tử mỉm cười nói:
– Anh muốn đấu võ với tôi phải không? Cái này là cái gì có biết không?
Y bỗng móc túi lấy một thanh kiếm sắt rất nhỏ ra, rồi hay tay nâng cao lên trên đỉnh đầu. Ngắm nhìn thanh kiếm đó hồi lâu, Mộc Tang đạo nhân sắc mặt tái mét, giọng run run nói:
– Giỏi lắm, chú không uổng công sống ở Tây Tạng bấy nhiêu năm, quả nhiên đã kiếm được rồi.
Ngọc Chân Tử quát lớn:
– Mộc Tang đạo nhân! Tại sao ngươi trông thấy Thiết kiếm của sư môn lại không chịu quỳ lạy.
Mộc Tang vội vàng để bàn cờ và hộp cờ xuống, hướng về phía Ngọc Chân Tử mà quỳ xuống vái lạy.
Mọi người vẫn yên trí có Mộc Tang đạo nhân sẽ đánh bại được kẻ địch, ngờ đâu ông ta lại phải quỳ lạy trước mặt đối phương, nên ai nấy đều kinh hãi và ngạc nhiên vô cùng.
Ngọc Chân Tử giơ tay trái lên, vù một tiếng, đánh thẳng xuống. Mộc Tang không chống đỡ, không trốn tránh, vận hơi sức lên trên lưng để chịu đựng. Chỉ thấy “bộp” một tiếng, áo rách tả tơi từng mảnh một bay tung lên. Mộc Tang lảo đảo mấy cái, y nguyên như vậy. Sầm nét mặt lại, Ngọc Chân Tử lại bồi thêm một chưởng nữa, đánh vào vai Mộc Tang. Chưởng này không nghe thấy tiếng kêu gì cả, và áo cùng không thấy rách.
Ngờ đâu kình của chưởng lại mạnh một cách kỳ lạ. Chịu không nổi, Mộc Tang ngã gục về phía trước, miệng thổ máu tươi, phun đầy ra đỉnh núi, Ngọc Chân Tử lại khoa tay nhằm đầu Mộc Tang đánh xuống. Mọi người kêu thầm “nguy to!” Chưởng của y đánh xuống, Mộc Tang tất phải táng mạng, ai nấy đều lấy ám khí ra, nhắm cả vào cổ tay của Ngọc Chân Tử lao tới.
Tựa như cái quạt sắt, Ngọc Chân Tử múa chưởng gạt tất cả ám khí của mọi người rơi xuống mặt đất, rồi lại giơ tay lên đánh. A Chín đứng gần Mộc Tang, thấy ông ta đầu tóc bạc phơ mà bị ác đạo hà hiếp như vậy, liền động lòng nghĩa hiệp, nhảy vội tới phía Mộc Tang rồi dùng thân hình nàng làm mộc đỡ che đầu ông ta.
Ngọc Chân Tử ngẩn người ra chưa kịp hạ thủ bỗng đột nhiên phía sau lưng có tiếng ho, tiếp đó một ông cụ mặt áo nho sinh bước tới. Hà Thích Thủ thấy người đó bỗng xuất hiện bên cạnh A Chín một cách đột ngột, thân pháp kỳ lạ, trên thế gian này hiếm có, lại tưởng lầm là kẻ địch đã có người đến giúp sức. Nàng sợ A Chín bị hãm hại, vội xông ngay lại, vừa giơ chưởng đánh vào người ông già nọ, vừa quát lớn:
– Mau bước ra đằng khác!
Ông cụ liền giơ cánh tay lên gạt, Hà Thích Thủ cảm thấy có một sức lực rất mạnh đẩy nàng giật lùi không thể gượng đứng vững được, phải lùi lại mấy bước rồi ngã ngồi phịch xuống đất.
Nàng xấu hổ quá, nhìn mọi người, thấy ngoài Ngọc Chân Tử và tên sư đồ của y ra, ai nấy đều quỳ xuống vái lạy và đồng thanh chào:
– Sư tổ.
Thì ra Bát Thủ Tiên Viên Mục Nhân Thanh đã tới.
Hà Thích Thủ vừa kinh hãi vừa xấu hổ, trong bụng nghĩ thầm: “Nguy tai! Thế này thì mình khó bề được thâu nhận vào môn phái Hoa Sơn rồi.”
Lúc ấy Mộc Tang đã đứng dậy, tay vịn vào A Chín, nổ lực điều hòa hô hấp nhưng miệng vẫn cứ thổ huyết không ngớt. Mục Nhân Thanh nói với Ngọc Chân Tử rằng:
– Vị này là Ngọc Chân đạo trưởng chắc? Sao đạo trưởng đối xử với sư huynh lại nỡ hạ độc thủ đến thế? Thôi được, tôi chỉ còn mấy cái xương cốt già này, cũng vui lòng tiếp đón đạo trưởn vài hiệp!
Ngọc Chân Tử cười nói:
– Ta lên núi Hoa Sơn cũng vì mục đích này đấy. Xem ta Ngọc Diện Hồ Ly hơn hay người lão khỉ già hơn?
Mọi người thấy sư tổ sắp ra đấu với ác đạo, ai nấy vừa kinh hãi vừa cả mừng. Họ chưa thấy sư tổ đấu với ai bao giờ, bây giờ mới được mục kích thật dịp may hiếm có.
Lưu Bội Sinh nghĩ, sư tổ tuổi già sức yếu, võ công tuy cao cường đến đâu nhưng tinh thần sức lực tất không thể bằng được tên ác đạo đang lúc tráng niên này. Chàng vội chạy đi mời sư phụ và sư mẫu ra giúp sức.
Vừa vào tới thạch thất, chàng trông thấy Thừa Chí đứng trước giường, nước mắt đầm hai má. Còn sư bá, sư phụ, sư mẫu, Hồng Thắng Hải và chàng Câm đều ủ rũ u buồn. Chàng lẳng lặng đi tới bên giường, trông thấy Thanh Thanh hai mắt sâu hoắm, sắc mặt xám đen, hơi thở hồng hộc như sắp tắt thở đến nơi. Bên ngoài, người ác đạo quấy nhiễu đến trời lỡ đất long mà mấy người này ở trong thạch thất không ra xem xét chắc hẳn là vì Thanh Thanh sắp chết đến nơi chăng? Lưu Bội Sinh khẽ nói:
– Sư phụ, tên ác đạo lợi hại lắm, sư tổi đã phải ra tay đối phó.
Thừa Chí hồi nhỏ có khổ điêu linh, nhờ được sư phục nuôi dạy mới có ngày nay, thấy Lưu Bội Sinh nói có vẻ nghiêm trọng, biết đối phương là một địch thủ đáng ngại, trong lòng lo lắng cho sư phụ, liền ẵm Thanh Thanh lên nói với Hoàng Chân và vợ chồng Quy Tân Thụ rằng:
– Chúng ta cùng đi ra cả.
Mọi người rảo bước theo ra. Lưu Bội Sinh thấy tay Thừa Chí bồng một người mà chân bước đi nhanh nhẹn hơn mình, trong lòng cảm phục vô cùng.
Mọi người đi tới phía sau núi thấy Mục Nhân Thanh tay cầm trường kiếm, Ngọc Chân Tử tay phải cầm kiếm tay trái cầm phất trần. Hai người cúi chào nhau, vừa định ra tay giao đấu.
Thừa Chí vội kêu gọi:
– Sư phụ, xin cho đệ tử được phép đối phó với y.
Mục Nhân Thanh với Ngọc Chân Tử đều hiểu biết nhau là võ lâm đệ nhất cao thủ, cuộc tranh tài này, hễ sơ xuất một tí là danh tiếng cả một đời sẽ tiêu mạng ngay, và tánh mang cũng khó mà bảo tồn được là khác, cho nên cả hai đều tập trung tinh thần vào nhau, không nghe thấy tiếng kêu gọi của Thừa Chí.
Thừa Chí Liền đưa Thanh Thanh cho Hà Thích Thủ bồng, Thừa Chí chỉ nói được một câu:
– Chị làm ơn trông nom cô ta.
Chỉ thấy Ngọc Chân Tử phất cây trần một cái, đột nhiên đánh vào vai trái, thì không sao gỡ ra được. Chàng là đệ tử tất phải đỡ đần hộ sư phụ liền nhún chân nhảy tựa như con chim đại bàng bay vù đến, xông thẳng vào người Ngọc Chân Tử. Ngờ đâu không những chàng định như vậy, mà Hoàng Châu lẫn Quy Tân Thụ cũng thế, ba người không hẹn mà nên nhảy tấn công Ngọc Chân Tử cùng một lúc.
Thâu vội phất trần lại, lùi về phía sau hai bước, Ngọc Chân Tử giữ luôn thế thủ, chỉ thấy tiếng gió soạt một cái, một người bay qua đầu, y vội rụt cổ lại, thấy trên đầu mát lạnh. Cái mũ đạo sĩ của y đã bị Thừa Chí hai tay chộp mất. Ngọc Chân Tử cả giận, múa kiếm nhắm cánh tay trái Thừa Chí chém luôn một nhát. Miếng võ này vừa độc vừa hiểm. Thừa Chí ở trên không, không sao tránh kịp, vội rụt tay lại. Chỉ nghe thấy “sẹt” một tiếng, cả một cái tay áo bị thanh kiêm đối phương chém đứt liền. Tuy áo là vật mềm mại, ở trên không, không chịu một sức ép nào, mà bị bảo kiếm chém đứt, như vậy đủ thấy thanh kiếm đó sắc bén biết nhường nào? Và nội công của lão đạo sĩ cũng kinh người. Thừa Chí xuống tới đất, ba sư huynh đệ đều đứng cả một lượt ở trước mặt sư phụ.
Mọi người thấy hai bên vừa trao đổi một miếng, vì quá nhanh chóng quá, chưa kịp chú mục tới. Lúc nẫy nghĩ lại cảnh vừa qua, ai nấy đều toát mồ hôi lạnh.
Ngọc Chân Tử nếu chỉ hơi tránh chậm một tí là bị ngay chưởng lực của Thừa Chí giáng vỡ sọ. Còn Thừa Chí nếu rụt tay kém nhanh một ly cũng bị đối phương chặt đứt cánh tay rồi. Chung quanh đấy, người nào cũng võ nghệ khá cao, định thần xong, không hẹn mà nên, ai cũng đều kêu lên một tiếng “giỏi!”
Ngọc Chân Tử cậy có sư phụ truyền cho tuyệt nghệ, tự kêu là thiên hạ vô địch.
Tuy y biết oai danh của Mục Nhân Thanh đã lâu nhưng cứ giữ vững thế thủ, y lợi dụng kéo dài thời cuộc đấu tranh khiến Mục Nhân Thanh vì tuổi già sức yếu chịu đựng không nổi, là y chiếm thế thắng ngay. Ngờ đâu đột nhiên có cao thủ nhảy vào đánh trộm, y định thần nhìn kỹ, thấy Thừa Chí là một thiếu niên trạc độ hai mươi tuổi vừa kinh hãi vừa tức giận múa trường kiếm, quát lớn:
– Ta hãy chém chết con khỉ nhỏ này đã, rồi sẽ giết con khỉ già này sau.
Thừa Chí thưa Mục Nhân Thanh rằng:
– Xin phép sư phục cho đệ tử tranh đấu với tên đạo sĩ này trước, nếu đệ tử không địch nổi y thì mời đại sư huynh và nhị sư huynh vào đánh tiếp, như vậy có nên không?
Mục Nhân Thanh đáp:
– Cũng được, nhưng con chớ khinh địch, nghe chưa?
Hoàng Chân và Quy Tân Thụ biết sư đệ này tài ba hơn mình, nhưng vì khiêm tốn mà nói như vậy. Một thiếu niên có thể không tranh cường hiếu thắng như thế, thật là hiếm có, nghĩ vậy hai người đều nói:
– Sư đệ, đừng có khiêm tốn nữa, cần nhứt là đừng có kiêng nể gì hết.
Ngọc Chân Tử kiêu ngạo nói:
– Ngươi muốn đạo gia dùng khí giới hay bằng tay không tống tiễn nhà ngươi về Tây phương?
Hà Thích Thủ đưa Kim Xà kiếm cho A Chín và bảo rằng:
– Cô đưa thanh kiếm này cho sư phụ tôi.
A Chín cầm thanh kiếm tới trước mặt Thừa Chí. Đột nhiên trông thấy nàng, Thừa Chí ngẩn người ra. A Chín khẽ gọi:
– Anh… anh…
Cô bỗng mắc nghẹn không sao thốt nên lời. Chờ Thừa Chí cầm lấy thanh kiếm rồi, nàng lui ngay ra. Lúc ấy sương mù vừa tan, mặt trời đã mọc, chiếu sáng cả quả núi, mọi người đứng quây thành vòng tròn. Mục Nhân Thanh lùi lại đứng ở bên cạnh, xoa bóp cho Mộc Tang, Hoàng Chân tay cầm bàn tính, Quy Tân Thụ cầm cái bừa điểm huyệt, đều đứng trong vòng để áp trận.
Ngọc Chân Tử cười nói:
– Nếu các người muốn vào đánh cả một lúc cũng được.
Kiếm của đối phương điểm tới trước mặt. Y vội lấy phấn trần lên đỡ, tay trái cầm kiếm đâm luôn, nhưng bỗng thấy đối phương thâu kiếm lại, nhắm huyệt môn của mình điểm tới, nếu mình đâm kiếm đó là địch thừa hư điểm mà đâm thẳng vào ngay.
Y không ngờ một thiếu niên mặt mày thanh tú thế kia mà sử dụng thế kiếm lão luyện và độc ác đến thế? Y nhảy sang bên để tránh.
Thừa Chí biết đối phương sử dụng miếng này vừa thủ vừa tấn công, nếu kiếm của mình đâm ra một thước là kẻ địch tấn công vào bên phía phải ngay, chàng liền giơ ngang thanh kiếm và bảo vệ lấy thân mình trước. Cao thủ đấu kiếm khác hẳn với người thường, hai người bất cứ di động thế nào, đối phương đã biết ngay dụng ý ra sao rồi.
Những người đứng xem, có mấy người tài nghệ còn non nớt chỉ thấy hai người nhìn nhau, thân pháp và chân bước rất chậm chạp và ngây ngô, hình như không có vẻ gì là khẩn trương cả. Ngờ đâu, sự thắng bại của họ chỉ trong chớp mắt là quyết định xong ngay, sự sống chết như cột trên sợi tóc, sự thật nguy hiểm gấp bội lần đánh chém lung tung.
Tôn Trọng Quân hận Ngọc Chân Tử vừa rồi làm ô nhục mình, hờn giận vô cùng.
Nàng muốn giơ thiết câu đâm trộm vào phía sau lưng kẻ thù. Mai Kiếm Hòa thấy nàng đã tiến lên một bước, sợ hãi quá, vội giơ tay kéo lại và khẽ nói:
– Cô làm gì thế? Muốn chết hay sao?
Tôn Trọng Quân đáp:
– Anh để mặc em, em quyết định thí mạng với tên tặc đạo này rồi.
Mai Kiếm Hòa lại nói:
– Tên tặc đạo ấy đã biết tiểu sư thúc rất lợi hại, bây giờ y đang dùng kiếm pháp tối thượng thặng để bảo hộ toàn thân y. Nếu cô xông lên lúc này chỉ mất mạng mà thôi.
Tôn Trọng Quân cố gắng kéo tay ra, kêu la:
– Em không biết, để em lên giúp tay sư thúc.
Trước kia nàng thù ghét Thừa Chí hết sức, không bao giờ chịu tôn chàng là sư thúc cả. Lúc này, nàng thấy Thừa Chí ra tay đối địch với ác đạo, trong lòng quên hết oán hận cũ.
Mai Kiếm Hòa nói:
– Được, cô ném một cái ám khí thử xem!
Tôn Trọng Quân lấy kim tiêu ra, vận sức nhằm lưng Ngọc Chân Tử ném tới. Ngọc Chân Tử đang chăm chú nhìn vào mũi kiếm của Hà Thích Thủ hình như không biết gì kim tiêu phi tới, Tôn Trọng Quân đang mừng thầm sắp sửa ném trúng, bỗng nghe thấy “coong” một cái, Mai Kiếm Hòa thất thanh la lớn:
– Nguy tai!
Vừa la, chàng vừa kéo Tôn Trọng Quân cùng rập mình xuống đất. Nhưng không kịp vì Tôn Trọng Quân nhìn lên đã thấy phi tiêu của mình bắn trở lại, nhằm ngay giữa ngực phi tới. Biết không sao tránh khỏi, nàng chỉ còn cách đợi chết.
Bỗng thoáng một cái, một bàn tay ngọc giơ ra bắt luôn miếng vải đỏ buộc sau phi tiêu.
Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân trống ngực đập mạnh, nhìn xem ai là người đã ra tay cứu mình, thấy người đó là Hà Thích Thủ, trong lòng hai người vừa cám ơn vừa xấu hổ, chỉ có gật đầu một cái để tỏ ý tạ ơn cứu mạng.
Lúc ấy, Thừa Chí và Ngọc Chân Tử kiếm pháp bỗng biến đổi hẳn, hai người đều tấn công nhanh như chớp nhoáng, dùng toàn lực mà đối phó với nhau. Ngọc Chân Tử là sư đệ của Mộc Tang, về khinh công rất tài nghệ độc đáo, đột nhiên y giở “Bách Biến Quỷ Ảnh” ra, chạy quanh người Thừa Chí để làm Thừa Chí hoa mắt là tấn công vào chỗ hiểm ngay nhưng y có ngờ đâu Thừa Chí cũng thạo “Bách Biến Quỷ Ảnh.” Cho nên tha hồ y hư hư thật thật, thiên biến vạn hóa, Thừa Chí vẫn chăm chú như thường không bị khinh công của đối phương làm huyền hoặc tý nào. Đấu tới lưng chừng, Ngọc Chân Tử trong lòng nghi ngờ, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ y cũng tinh thông môn khinh công này chăng?”
Y bỗng nhảy ra ngoài, lấy Thiết kiếm ra, giơ lên, rồi quát lớn:
– Ngươi đã là đệ tử của Thiết Kiếm môn thì thấy Thiết kiếm này phải quỳ xuống lạy tức thì!
Thừa Chí nói:
– Thiết Kiếm môn cái gì? Xưa nay ta không nghe thấy ai nói tới cả.
Ngọc Chân Tử quát lớn:
– Ngươi không phải là đệ tử của Mộc Tang, tại sao ngươi lại biết khinh công “Bách Biến Quỷ Ảnh?” Mà đã là đệ tử của y tại sao lại không biết là người của Thiết Kiếm môn? Bây giờ kiếm ở trong tay ta, mau quỳ xuống nghe ta cư xử.
Thừa Chí đáp:
– Ta không biết đồng kiếm thiết kiếm gì cả!
Ngọc Chân Tử quay đầu hỏi Mộc Tang rằng:
– Bách Biến Quỷ Ảnh của y có phải anh dạy cho đấy không?
Mộc Tang lắc đầu. Biết sư huynh xưa nay không nói dối bao giờ, Ngọc Chân Tử ngạc nhiên vô cùng, ngẫm nghĩ giây lát lại nhảy đánh tiếp…
Vừa đánh Thừa Chí vừa ngẫm nghĩ những lời của đạo sĩ vừa nói, bỗng nghĩ: “Thảo nào, trước khi Mộc Tang đạo trưởng dạy tới Bách Biến Quỷ Ảnh, chỉ nhận là thua cờ phải dạy ta thôi chớ ông ta không chịu nhận ta là sư phụ là thế đấy? Và còn dạy chú Thanh trước rồi dạy lại ta sau, thoạt tiên ta tưởng tánh ông ta hoạt kê mới làm ra trò như vậy, chớ có ngờ đâu bên trong còn lắm chuyện rắc rối như thế này?”
Nghĩ tới Thanh Thanh, chàng đưa mắt nhìn thấy Thanh Thanh đang ngậm một miếng thuốc màu đỏ, Hà Thích Thủ đang cắt cổ tay thả máu độc ra cho nàng. Chàng mừng rỡ vô cùng, liền nghĩ: “Nàng trúng phải chất độc rất mạnh của Ngũ Độc giáo, mà Hà Thích Thủ là Giáo chủ tất nhiên biết cách giải cứu, như vậy nàng có cơ thoát nạn rồi!”
Nhưng cao thủ tỷ võ, không để ý một tí là nguy đến thân ngay. Trong khi hớn hở, Thừa Chí chỉ sơ xuất một chút, vai trái tránh hơi chậm, để hở một chỗ. Chờ mãi mới có dịp may này, Ngọc Chân Tử liền nhắm ngay sườn bên trái của Thừa Chí đâm luôn một kiếm.
Mọi người đều kinh hãi kêu rú, ngờ đâu Ngọc Chân Tử càng kinh hãi hơn. Thì ra kiếm ấy đâm trúng rồi mà kiếm lại bị bật ra, chớ không đâm vào người Thừa Chí được. Y có biết đâu Thừa Chí mặc cái áo cánh sợi vàng của Mộc Tang tặng cho. Y tưởng đối thủ võ công đã luyện tới mức đao kiếm chém không đứt, liền toát mồ hôi lạnh sợ hãi vô cùng.
Thanh Thanh vừa mới tỉnh lại, bỗng thấy Thừa Chí bị trúng một kiếm, trong lòng thương xót, vội móc túi lấy ống sắt, rút nút ra vẫy mạnh vào người Ngọc Chân Tử. Con Kim Xà bắn tung ra, nhe nanh vuốt cắn luôn Ngọc Chân Tử. Đạo sĩ cúi đầu tránh, có ngờ đâu con rắn vàng linh tính vô cùng, trầm mình xuống nhắm đầu y cắn luôn.
Nếu là người khác, không thể nào tránh khỏi Kim Xà trầm xuống cắn miếng ấy, nhưng Ngọc Chân Tử có phải là tay thường đâu, múa cây phất trần một cái đã cuốn luôn con vật nọ lại. Y biết nếu lại dùng sức hất con rắn đi, Thừa Chí sẽ thừa cơ tấn công ngay, đành phải vứt bỏ phất trần lẫn con Kim Xà xuống đất nhảy ra mấy bước.
Đánh mãi không hạ nổi đối phương, Thừa Chí chưa nghĩ ra nên dùng kiếm pháp gì để thắng y được. Lúc này chàng trông thấy con rắn vàng liền nghĩ ngay lại ngày nọ con Kim Xà này đấu với Tề Vân Ngao những thân pháp tinh diệu vô cùng, những khi nhàn rỗi, chàng vẫn đem những miếng võ ấy ra luyện tập và biến hóa. Thế là chàng không cần nghĩ ngợi thêm nữa, thân theo kiếm tẩu, liên miên tiến lên.
Ngọc Chân Tử giựt mình kinh hãi cố hết sức chống đỡ, nhưng kiếm pháp và thân pháp của đối phương tuyệt nhiên không phải là những thế võ gia truyền của các phái võ lâm, chỉ thấy những miếng võ lạ những bóc kén rút tơ, không sao hết được. Trong lúc y kinh hoàng, chỉ có cách lùi về phía sau. Thấy bộ pháp của y đã loạn, thét lớn một tiếng, tấn công mạnh mấy miếng, múa kiếm chém đứt một khúc tóc của đạo sĩ, tay trái giáng luôn một chưởng “đốp” một tiếng trúng ngay ngực Ngọc Chân Tử.
Chưởng đó gọi là Phá Ngọc quyền đích truyền của phái Hoa Sơn. Ngọc Chân Tử chịu đựng không nổi, ngã ngửa về phía sau, bỗng nghe cổ đau như cắt, thì ra y đã bị con Kim Xà đang cắn chặt. Y bị một chưởng của Thừa Chí chưa đến nổi chí mạng nhưng nọc độc kỳ lạ của Kim Xà mới khiếp người, vả lại con vật nọ lại cắn trúng chỗ yếu huyệt của y nên chỉ trong chốc lát, toàn thân đạo sĩ phát đen mà chết.
Ba tên theo y tới tróc nã Hồng Nương Tử thấy thủ lãnh đã chết, không dám ở lại nửa phút, vừa chạy vừa lăn xuống núi, cấp tốc đào tẩu liền.
Các đệ tử thấy Thừa Chí ra tay đánh bại kình địch, ai nấy khâm phục chàng vô cùng. Mộc Tang than thở luôn miệng và sai chàng Câm đem xác Ngọc Chân Tử đi chôn, rồi tay cầm thanh Thiết kiếm nói câu chuyện xưa.
Thì ra, Ngọc Chân Tử với ông ta năm xưa là đồng môn. Phái của ông ta là Thiết Kiếm môn, thanh Thiết kiếm của khai sơn tổ sư sử dụng, đời đời tương truyền. Một năm kia, sư phụ ông ta tạ thế ở tỉnh Tây Tạng, Thiết kiếm liền mất tích. Thoạt tiên, Ngọc Chân Tử học võ rất chăm, người lại chánh phái. Ngờ đâu sau khi sư phụ chết, không ai quản thúc, tánh nết thay đổi hẳn không còn lương thiện như trước nữa. Y tu hành từ hồi còn nhỏ, không gần nữ sắc, thế mà lúc đó lại thích hái hoa, cưỡng gian, không điều ác gì là không làm. Nhờ có võ nghệ cao cường không ai làm gì được y. Mộc Tang đã khuyên can y nhiều lần nhưng y không chịu nghe, còn cãi lại là khác, vì vậy hai sư huynh đệ mới tuyệt giao từ đấy. Ngọc Chân Tử biết võ công của sư huynh cao cường lắm chỉ sợ đối phó không nổi nên không ở lại một mặt tìm Thiết Kiếm. Chẳng ngờ y đã tìm ra được Thiết kiếm từ bao lâu không rõ.
Theo quy luật của Thiết Kiếm môn, hễ trông thấy Thiết kiếm y như trông thấy tổ sư vậy, nên người nào có Thiết kiếm sẽ được coi như là người Chưởng môn (đứng đầu môn phái), được quyền ra lịnh và xét xử người trong môn phái, thậm chí bắt chết cũng phải chịu. Cho nên Mộc Tang trông thấy Thiết kiếm không dám đánh lại y nữa.
Mục Nhân Thanh nghe xong câu chuyện ấy, vừa than vài tiếng quay đầu lại hỏi Hồng Nương Tử rằng:
– Tại sao bọn chúng đuổi bắt con?
Hồng Nương Tử quỳ sụp xuống vái lạy, vừa khóc vừa nói:
– Xin Mục lão gia cứu giúp chồng con!
Trước kia, Thừa Chí chưa hề gặp mặt Hồng Nương Tử bao giờ, nhưng do An đại nương giới thiệu, mới hay nàng là vợ của nghĩa huynh Lý Nham và cũng là một vị nữ hào kiệt. Nghe thấy nàng thưa với sư phụ như vậy, Thừa Chí kinh ngạc hỏi:
– Nghĩa huynh tôi làm sao hở chị?
Hồng Nương Tử đáp:
– Ngô Tam Quế liên kết với quân Mãn Thanh tấn công vào Sơn Hải Quan chiếm liền mấy trận, Sấm Vương đều bất lợi, vội đem quân rút ra khỏi Bắc Kinh. Ngờ đâu quân sư Tống Hiến Sách ở trước mặt Sấm Vương đặt điều thị phi, vu khống Lý tướng quân định mưu phản, tự lập làm vua chúa, Sấm Vương đã hạ lệnh bắt giam Lý tướng công, nên tôi phải vội vã lẻn trốn lên đây cầu cứu. Ngờ đâu tên lùn họ Tống lại phái người đuổi theo tôi…
Mọi người nghe thấy quân Mãn Thanh đã tiến vào Quan ải rồi đều sửng sốt tựa như đột nhiên nghe thấy tiếng sấm vậy. Thừa Chí lo ngại quá, vội đỡ Hồng Nương Tử dậy và nói:
– Chúng ta phải đi cứu ngay mới được. Tôi e đi chậm một bước là không kịp đâu.
Nhưng khi chàng nghĩ lại, lần này sư phụ triệu tập tất cả môn hạ tạ núi Hoa Sơn, tất phải có việc cần bàn tới. Vậy biết làm sao bây giờ đây? Chàng nhìn sư phụ, tỏ vẻ lo ngại.
Mục Nhân Thanh nói tiếp:
– Các người đã tới đông đủ cả, ta tuyên bố mục đích của buổi họp này.
Nói xong, ông ta cho thỉnh bức hình của sư tổ ra, thắp hương nến đâu đấy, các đệ tử đều quỳ xuống vái lạy. Hà Thích Thủ đứng núp vào một góc, đưa mắt nhìn Thừa Chí.
Mục Nhân Thanh mỉm cười nói:
– Cô cứ cương quyết đòi nhập môn phái của ta, sự thật võ công của cô cũng đủ tung hoành thiên hạ rồi. Vừa rồi tôi đẩy một cái, cô lùi có bốn bước thôi. Trong môn phái ta trừ ba đệ tử do ta đích thân dạy bảo ra không có người thứ tư có được công lực như cô. Thôi được, ta cũng vui lòng cho cô nhập môn, quỳ xuống vái Sư tổ đi!
Hà Thích Thủ cả mừng, chạy tới sau lưng Thừa Chí quỳ xuống vái lạy sư tổ. Hành lễ xong, Mục Nhân Thanh đứng vào chính giữa lớn tiếng nói:
– Hiện giờ thiên hạ đang đại loạn, ta tuổi tác đã cao, không muốn dính tới việc đời nữa. Từ nay tất cả mọi việc của môn phái Hoa Sơn này ta sẽ trao cho đại đệ tử Hoàng Chân đảm trách.
Hoàng Chân sợ hãi vội nói:
– Võ công của đệ tử còn kém, nhị sư đệ và tam sư đệ…
Mục Nhân Thanh vội ngắt lời nói:
– Con cứ giữ trọng trách chưởng môn, trông nom các đệ tử, bắt chúng tôn kỷ cho nghiêm, hành hiệp trượng nghĩa. Thôi, con đừng từ chối nữa.
Hoàng Chân không dám từ chối, liền quỳ xuống vái lạy tổ sư và sư phụ một lần nữa, rồi nhận phù trưởng môn. Mọi người xúm lại chúc mừng.
Thừa Chí thấy đại sự đã xong, trong lòng thương nhớ nghĩa huynh, liền quỳ lạy sư phụ, xin xuống núi ngay và nói với Thanh Thanh rằng:
– Chú Thanh, chú hãy ở lại đây điều dưỡng, chờ khi tôi cứu nghĩa huynh ra khỏi tù lao, sẽ trở lại đây với chú ngay.
Thanh Thanh thấy A Chín cũng theo lên núi, càng tức giận thêm, đôi mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng. A Chín đột nhiên chạy tới trước mặt Thanh Thanh, với giọng nghẹn ngào nói:
– Chị Thanh, chị không hận em nữa chứ!
Nói xong, nàng lột mũ da xuống, để lộ ra cái đầu trọc lóc. Thì ra nàng thấy cha đã quốc vong, lại biết Thừa Chí nhứt tâm yêu thương Thanh Thanh, chán nản vô cùng, liền cắt tóc đi tu. Thấy nàng như vậy, ai nấy đều ngạc nhiên. Thanh Thanh hổ thẹn vô cùng. Thừa Chí trong lòng bối rối như mớ bòng bong, không biết xử sự thế nào cho phải.
Mộc Tang bỗng nói:
– Cô nương này vừa rồi đã cứu bần đạo thoát chết. Bình sanh bần đạo chưa hề thâu nhận đồ đệ bao giờ. Bây giờ môn phái của bần đạo đã quét sạch những kẻ tồi bại rồi, nếu cô nương vui lòng, để bần đạo sẽ dạy bảo vài miếng võ cho.
A Chín cả mừng, vội tiếng tới trước mặt Mộc Tang quỳ xuống vái lạy. Sau này nàng học được hết tuyệt nghệ của Mộc Tang trở nên một đời đại hiệp về triều đại Mãn Thanh. Những môn hạ của nàng là Cam Phượng Trì, Bạch Thái Quan, Lã Tứ Nương đều là anh hùng nghĩa hiệp, tiếng tăm lừng lẫy nhứt thời vua Ung Chính, đó là những chuyện về sau.
Hãy nói Thừa Chí và Hồng Nương Tử, Thanh Thanh, Hà Thích Thủ đều đi cứu Lý Nham nhưng tới nơi hơi chậm, Lý Nham đã bị Sấm Vương xử trảm rồi. Khóc lóc một hồi, Thừa Chí kiếm được thi hài của Lý Nham, bèn đem đi mai táng hẳn hòi. Một hôm tế lễ trên mộ Lý Nham xong bỗng thấy một vị thư sinh trạc độ trung niên, áo trắng đứng ngoài cánh đồng hướng về phía Bắc khóc lóc.
Thừa Chí lấy làm lạ, liền tiến lên hỏi nguyên do người đó, mới hay là Hầu Triều Tôn, mười mấy năm trước đã gặp nhau ở trên núi Lão Nha. Lúc này Hầu công tử đầu tóc bạc phơ, không còn anh tuấn như xưa nữa. Hai người cùng trở về khách sạn, ăn uống no say một bữa. Hầu Triều Tôn lấy giấy bút ra viết luôn một bài thơ tặng Thừa Chí, rồi cáo từ đi liền. Đại khái bài thơ đó nói rằng: Những cảnh phồn hoa xưa kia bây giờ không còn nữa. Triều đại đã thay đổi khiến bao kẻ vong quốc phải đau lòng xót thương. Mỗi năm tới ngày hàn thực, ở chân trời góc biển, khóc một hồi để nhớ tới vua chúa và đất nước. Đây là lời đau thương của tôi, trước giờ từ biệt, để bày tỏ cho bạn hay.
Thừa Chí đọc xong bài thơ, trong lòng ngao ngán. Ngay ngày hôm đó, chàng thu xếp hành trang lên đường, bỗng trông thấy tờ địa đồ của vị quan Tây Dương tặng cho lúc trước, liền nghĩ tới chuyện ngao du hải ngoại. Thế là chàng đem Thanh Thanh, Hà Thích Thủ, chàng Câm, Thôi Hy Mẫn các người, lại còn triệu tập thêm Tổ Trọng Thọ, cha con Mạnh Bá Phi, vợ chồng Uyển Nhi, Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, cùng hào kiệt bảy tỉnh đi một thể. Và còn được Thất thập nhị đảo, Đảo chủ Trịnh Khởi Vân giúp đỡ, viễn chinh đất lạ. Từ đó chàng với mọi người ở hải ngoại thiết lập một thế giới mới.
Thật là:
Mãn đường hoa túy tam thiên khách.
Nhứt kiếm sương hàn tứ thập châu.
Tạm dịch:
Hoa nở đầy nhà, say ba ngàn khách.
Một thanh kiếm tỏa, lạnh bốn mươi châu
[Hết]