Bạn đang đọc Kiếm Hiệp Kim Dung Full – Chương 14: Thần Điêu Hiệp Lữ ( 6 )
Thần điêu đại hiệp – Hồi 068
Ma Kiếm Trong Vách Núi
Khi bệnh tình của Dương qua đã bình phục, thấy phía sau động có cỏ cây thanh lịch, phong cảnh hữu tình, bèn rảo bước dạo chơi, đi trong chốc lát tới một vách núi đứng sừng sững, như một bức bình phong cực lớn cao đến chọc trời. ở giứa vách núi cách mặt đất sáu mươi trượng, nhô ra một tấm đá lớn độ bốn năm trượng vuông, thành một sân dài bằng phẳng, trông thấp thoáng như có một dấu chữ khắc trên đó. Dướng Qua chướng mắt nhìn thật kỹ thấy hai chữ “kiếm mộ”. Chàng lấy làm lạ, tự hỏi:
– Tại sao kiếm cũng có mộ? Không lẽ Độc cô tiền bối bị gãy thanh kiếm quý rồi chôn ở nơi đây?
Chàng bước lần tới vách núi, thì thấy vách đá láng trơn không mọc cỏ cây, cũng không có một dấu vết để bám tay được nên tự hỏi:
– Vách đá thẳng trơn như thế nầy, mà người cưa làm sao lên để làm “mộ kiếm”? Nhưng họ cũng là người như mình, sao lại leo được chỗ cao khó khăn như vậy được, chắc có một bí ẩn gì mình chưa tìm thấy. Nếu thật chỉ nhờ võ công mà leo lên được, thì thật là khó tưởng tượng.
Chàng cố hết sức suy tưởng, và chăm chú nhìn thật kỹ, bỗng thấy từ trên vách đá, một khoảng cách xa chừng một thì có mọc ra một chòm rêu. Tất cả có chừng năm chục chòm sắp một hàng thẳng từ dưới thấp lên trên cao. Dương Qua liền tung mình nhảy vút lên, đưa tay nắm lấy chòm rêu ở chỗ thấp nhất nhất thì vớ ra một nắm đất đen, quả nhiên sau lớp đất mọc rêu ấy, để lộ ra một cái lỗ nhỏ. Xem như vậy, chàng biết được xưa kia Độc cô dùng vật bén xoi những lỗ nhỏ trên vách đá đã trải qua nhiều năm tháng, lòng lỗ bụi tấp lâu ngày gặp nhiều sương gió mới sinh ra rêu. Dương Qua nhân lúc đang rảnh rang, nên muốn thừa dịp lên xem những gì trên ấy, nhưng khổ thân chỉ còn có một tay, leo trèo thật khó khăn. Chàng tự nhủ:
– Nếu không nổi thì thôi, có ai cười chê gì mà sợ?
Nghĩ xong bèn buộc chặt thắt lưng, rồi nhún mình nhảy cao hơn một trượng, chân trái đạp nấc thứ nhất, tiếp đến chân mặt đạp vào chòm rêu trên, làm cho đất dẻo bắn ra, lên cao hơn sáu trượng có một nấc rất lớn để nghỉ chân. Lần thứ nhất chàng leo chừng bốn chục trượng, thì bị kiệt sức, bèn nhè nhẹ tụt trở xuống, trong lòng thầm nghĩ:
– Mình leo đã hơn bốn mươi mấy nấc rồi, lần nầy phải cố sức thì leo được hết.
Nghĩ như vậy, chàng bèn ngồi xuống đất điều khí dưỡng thần một hồi, đoạn phóng mình lên, leo tuốt một mạch lên trên thạch đài. Dương Qua thấy tay bị mất, mà khinh công không hề suy giảm, nên trong lòng cảm thấy an ủi phần nào, nhìn vào tảng đá to, thì thấy hai bên chữ “mộ kiếm” thật lớn, lại có khắc thêm hai hàng chữ nhỏ: “Kiếm ma độc cô cầu bại” là vô địch trong thiên hạ được chôn kiếm nơi đây. Than ôi ta đi khắp giang hồ tứ hải mà chưa gặp người xứng tay đối thủ với trường kiếm ta, nên sắc bén cũng thành vô dụng.
Dương Qua thấy vừa kinh ngạc vừa ngưỡng mộ, nên hiết được vị tiền bối này rất khinh thế ngạo vật. Chàng cảm thấy tánh tình của vị này rất thích ý, nhưng còn nói đến việc đi khắp cả thiên hạ mà không gặp địch thủ, thì danh vọng này càng khó hơn nữa. Chàng đăm chiêu đứng nhìn hai hàng chữ một hồi lâu, quay đầu nhìn sang phía nam, thì thấy rất nhiều tảng đá chất thành ngôi mộ lớn, ngôi mộ này xây dựng về phía sơn cốc, phía trước nhìn thẳng về một dãy không gian vô tận. Dương Qua thầm nghĩ:
– Ta không biết vị tiền bối kiếm ma anh hùng thế nào, nhưng chỉ trông ngôi mộ nầy thì cũng biệt được văn võ song toàn, hoài bão phi thường của người rồi, nhưng trong sách và truyền thuyết thì lại không ai nhắc đến tên họ và sự tích. Thật là một việc khó hiểu. Dương Qua đứng bên mộ kiếm ngửa cổ ngâm một tiếng dài, bốn bề vọng vang lên không dứt.
Tâm trí chàng muốn xem thử trong mộ có những binh khí như thế nào nhưng lòng ngưỡng mộ vẫn không dám mạo phạm tiên nhân bèn ngồi ôm gối bên mộ, từng làn gió thoảng qua làm cho tâm thần sảng khoái vô cùng, cảm thấy lâng lâng như thoát tục.
Bỗng nhiên dưới vách núi vọng lên “gù, gù, gù” ba tiếng. Chàng ló đầu nhìn xuống, thấy thần điêu đang tung tăng nhảy theo các nấc lỗ vách leo lên. Thân hình nó nặng nề nhưng mỗi chân nó đều có sức mạnh ngàn cân, nên tung mình lên mỗi cái đều ba trượng, trong chốc lát thì đã leo lên tới bên Dương Qua.
Thần điêu nhìn qua nhìn lại một hồi rồi khẽ gật đầu, kêu lên mấy tiếng, âm thanh thật kỳ dị.
Dương Qua cười bảo:
– Điêu huynh chỉ tiếc vì tôi không biết nghe tiếng của loài chim, không hiểu được lời nói của huynh nên không thể biết được việc sinh tiền của Độc cô tiền bối mà huynh đã biết.
Thần điêu lại khẽ kêu lên mấy tiếng, rồi đưa đôi chân cứng rắn ra, bươi mạnh những táng đá trên mộ. Dương Qua chợt thoáng qua một ý niệm:
– à! Võ công của Độc cô tiền bối đã thâm hậu tuyệt chúng đến thế, không lẽ không để lại một pho kiếm kinh hay quyền phổ gì sao?
Đôi chân của thần điêu bươi không ngừng, chẳng bao lâu những tảng đá trên mộ đều lật qua một bên, để lộ ra ba thanh kiếm sắp một hàng, ở khoảng giữa thanh kiếm thứ nhất và thứ nhì, lại có một mảnh đá mặt phẳng và có diện tích chừng hai tấc vuông, dày không đầy một phân. Ba thanh kiếm và mảnh đá mỏng ấy đều sắp trên một tảng đá xanh. Dương Qua lấy thanh kiếm thứ nhất ở bên tả lên thì thấy trên tảng đá ở dưới thanh kiếm có khắc một hàng chữ “thanh gươm nầy rất cứng rắn, lúc thiếu thời dùng để tranh hùng với quần hùng”. Dương Qua thấy thanh kiếm trong tay dài chừng bốn thước, ánh thép xanh lóng lánh, thật là một lợi khí chưa từng thấy. Chàng nghiêng mình nhìn mảnh đá mỏng nằm trên thanh kiếm thì thấy khắc hai hàng chữ nhỏ: “Tử vi nhu kiếm, bước ba mươi tuổi dùng nó, đã lỡ tay chém trọng thương một người nghị sĩ, thật là điều bất tường nên ném nó trong hang cốc”. Đọc đến đây, toàn thân Dượng Qua bất giác rung động, lòng thầm nghĩ:
– Cánh tay của mình bị Quách Phù dùng thanh kiếm nầy chặt đứt, vì Độc cô tiền bối đã vứt nó trong hoang cốc rồi rắn độc nuốt vô trong bụng, nhưng thần sai quỷ khiến, lại để cho mình lấy được. Thật trên đời nầy khó mà có lợi khí như vật nầy tuy lúc mình đang bị bịnh nhưng đâu có dễ gì Quách Phù chém đứt được cánh tay nếu không có thanh kiếm ấy?
Chàng đứng tần ngần một hồi lại thò tay lấy thanh kiếm thứ hai, nào ngờ mới xách lên thì nghe “keng” một tiếng, trường kiếm rơi xuống đá, bật lửa tung tóe ra, làm chàng giật mình lách sang một bên. Nhưng té ra thanh kiếm ấy bụi bám đầy không có vẻ gì khác thường nào ngờ đâu lại có một sức nặng lạ thường. Bề dài chừng hơn ba thước mà nặng hơn sáu chục cân, nên khi xách lên chàng tưởng như những thanh kiếm khác, thành bị sút tay. Do đó, chàng đặt thanh kiếm trên tay xuống đá rồi cố sức nắm thanh kiếm thứ hai lên. Kiếm nầy tuy nặng, nhưng đối với công lực của chàng, thì sáu, bảy chục cân còn nhẹ nhàng và sử dụng dễ dàng, xem lại kỹ lưỡng thấy hai bên mép đều lụt cả còn mũi kiếm thì tròn tròn như hình bán nguyệt.
Chàng tự nghĩ:
– Kiếm nầy nặng nề như vậy thì làm sao sử dụng cho tiện lợi được? Hơn nữa, hai bên mép và mũi đều không sắc bén, thì thật là kỳ đời.
Chàng cúi xuống nhìn hai hàng chữ nhỏ khắc trên đá: “Kiếm nầy nặng nề mà không bén. Trước bốn mươi tuổi nhờ nó mà tung hoành khắp giang hồ”. Dương Qua lẩm bẩm đọc đi đọc lại mấy lượt, trong lòng như có sở ngộ, nhưng nghĩ lại kiếm thuật trong thế gian, bất cứ một môn phái nào, biến hóa nghệ thuật khác nhau, nhưng vẫn lấy cái lanh lẹ làm chính, mà thanh kiếm nầy nặng như vậy không biết sử dụng bằng cách nào được? Một hồi, chàng để trọng kiếm xuống, đưa tay lấy thanh kiếm thứ ba, lần này chàng bị mắc mưu một lần nữa. Cứ tưởng là thanh kiếm thứ ba chắc nặng hơn thứ nhất vừa rồi, chàng vận nội công vào tay để nâng kiếm lên. Nào ngờ đâu lại nhẹ quá nên giơ bổng lên cao. Chàng chăm chú nhìn lại, thì thấy là thanh kiếm bằng gỗ, qua nhiều năm tháng, kiếm đã hư mục hết cả, nhưng thấy mặt đá dưới kiếm có mấy hàng chữ nhỏ: “Sau bốn mươi tuổi, thảo mộc túc thạch đều làm kiếm được, từ đấy tĩnh tâm tu luyện, dần dần tiến đến mức không dùng kiếm mà thắng được người có kiếm”. Dương Qua cung kính để thanh kiếm gỗ xuống về chỗ cũ, thở một hơi dài nói:
– Thần kỳ của tiền bối thật khiến cho người đời khó tưởng tượng được.
Chàng có ý định ở dưới phiến đã chắc có tài liệu sách vở gì chăng bèn đưa tay giở lấy mảnh đá lên xem, thì thấy đó chỉ là lớp nham thạch của vách núi, không có vật gì khác, nên ngồi đăm chiêu tìm hiểu.
Bỗng nhiên thần điêu “gù” một tiếng, rồi ngậm thanh kiếm nặng lên, trao vào tay Dương Qua, kế đó lại “gù” một tiếng nữa, chiếc cánh trái xòe ra, đập mạnh xuống đầu Dương Qua. Chàng cứ ngồi tần ngần ở đó, cánh của thần điêu đập xuống cách đầu chàng chừng một thước thì ngừng lại, mỏ lại “gù, gù” lên tiếng. Dương Qua nói:
– Điêu huynh lại muốn thử sức tôi sao? Rảnh rang cũng buồn, thôi để tôi thử với huynh vài đường nhé!
Nhưng chàng thấy thanh kiếm trong tay nặng quá, không thể múa lanh lẹ được, bèn để trọng kiếm xuống, lấy thanh kiếm thứ nhất lên. Thần điêu đột nhiên xếp cánh lại, quay phắt mình đi không ngó ngàng gì tới Dương Qua nữa, như có vẻ bất bình muốn bỏ Dương Qua đi.
Dương Qua hiểu ý, vội vã cười nói chiều ý chim điêu:
– Huynh muốn tôi dùng trọng kiếm hả? Nhưng tôi võ công quá tầm thường, nếu ở đây thử sức, thì không phải là địch thủ với nhau, vậy mong huynh nới tay chút nhé!
Nói xong, chàng liền đổi lấy thanh kiếm nặng hơn sáu chục cân ấy rồi khí vận vào đơn điền, sức chuyển vào tay trái chầm chậm chém một nhát. Thần điêu vẫn điềm nhiên không xoay mình lại, chỉ vươn thẳng chiếc cánh ra phía sau, đụng vào thanh kiếm. Dương Qua thấy có một luồng sức mạnh từ mũi kiếm thâu lui về, làm cho chàng thở không ra hơi, lập tức vận sức chống lại, nghe “ự” một tiếng. Dương Qua cảm thấy xây xẩm mặt mày, rồi ngất lịm luôn. Chẳng bao lâu Dương Qua mới tỉnh lại, thì ngửi có mùi thơm ngát ở miệng chàng tỏa ra và đầu lưỡi còn thơm vị ngọt ngào, tựa như trong cơn mê có ăn một món gì lạ lùng lắm vậy. Chàng mở bừng mắt ra, thì thấy thần điêu miệng ngậm một quả chín đỏ tươi sắp đút vào miệng chàng. Dương Qua nhai mấy miếng, cảm thấy mùi vị nó thơm ngon ngào ngạt, như mùi vị đã cảm thấy ăn trong khi hôn mê vậy. Dương Qua hít vào một hơi dài, thì nghe lồng ngực hô hấp dễ dàng, liền đứng lên múa động tay chân thấy sức mạnh lại có một phần tăng lên và tinh thần lại sảng khoái vô cùng chàng lấy làm lạ:
– Theo lẽ thường thí võ, nếu gặp đối phương mạnh sức đánh mình ngã nghẹt thở, xỉu đi, dù không bị trọng thương, ít ra toàn thân cũng bị đau nhức, chứ không lẽ mấy quả chín đỏ tươi nầy lại là thuốc thần để trị những vết thương sao?
Chàng khom lưng nhặt thanh trọng kiếm lên, thì nghe như nhẹ đi một, phần. Cũng trong lúc ấy, thần điêu “gừ” lên mấy tiếng rồi xòe cánh đập mạnh xuống đầu Dương Qua một cái. Chàng không dám đỡ nữa vội xoay mình lách đi, thần điêu liền bước tới một bước, tung đôi cánh đánh mạnh một lượt, sức mạnh cực kỳ mãnh liệt. Dương Qưa biết nó không có ác ý, nhưng nghĩ lại thần điêu tuy có linh dị mà vẫn là con vật, thân nó có thần lực, khi dùng đôi cánh công kích, thì khó điều khiển sức mạnh để nhân tình được. Nếu nó quét trúng một cái là từ đây rơi xuống, thì còn gì là tính mạng?
Mắt nhìn đôi cánh quét tới, chàng vội bước lui hai bước, chân trái đá động vào mé đá rồi! Thần điêu cũng không chút dung tình, cái đầu to tướng vươn tới, chiếc mỏ cong mổ xuống đầu chàng. Dương Qua hết đường lui tránh, nên sợ hãi đưa kiếm lên đỡ, nghe “phập” một tiếng, chiếc mỏ chim điêu trúng thanh kiếm. Dương Qua cảm thấy chấn động cả cánh tay, trọng kiếm như muốn tuột khỏi tay, nhưng thấy thần điêu lại quét mạnh cách mặt thẳng vào đôi chân chàng. Dương Qua tung mình nhảy cao hơn một trượng, vượt qua đầu thần điêu, lướt vào giữa thạch đài, nhưng sợ nó tấn công, liền tung ra một kiếm, cũng nghe “phập” một tiếng lại cũng chạm phải cái mỏ ngàn cân đấy nữa. Dương Qua vừa thoát qua mấy đòn ác liệt, nên mồ hôi toát lạnh cả người, vội kêu lên:
– Điêu huynh! Đừng có xem tôi như Độc cô đại hiệp mà tấn công dữ như vậy.
Thần điêu kêu gừ gừ hai tiếng, không áp đảo nữa. Dương Qua tình cờ nói lên câu “xem tôi như là Độc cô đại hiệp” nên thầm nghĩ:
– Thần điêu chắc ở bên Độc cô tiền bối đã lâu, nên bước đi tiến thoái như một tay võ nghệ cao cường vậy. Có lẽ là Độc cô tiền bối một mình buồn tẻ, phải tập nó để làm đối thủ thí võ cùng nhau. Nhưng ngày nay Độc cô tiền bối chết đã lâu, xương đã tan, võ học tuyệt thế cũng theo người mà mất đi, thì may ra trên mình thần điêu không chừng mình có thể tìm lại được một chút dị phong của vị tiền bối đại sư này.
Chàng nghĩ đến đây, trong lòng đầy hy vọng, nên nói với thần điêu:
– Điêu huynh, cẩn thận nhé, thế kiếm của tôi tới nữa đây.
Vừa dứt lời, chàng vung kiếm chém thẳng vào ngực thần điêu. Thần điêu cánh trái xòe nhanh ra đỡ, cánh phải đập tới tấn công. Suốt ngày hôm ấy, Dương Qua lo tập luyện tỷ thí với thần điêu trên sân đá. Nhưng vì sức lực của thần điêu quá mạnh, cứ một cánh quét qua, sức gió như vũ bão, như một chưởng phong mấy chục vị cao thủ hợp lại, rồi đánh ra một lượt nên những môn “Tinh chân kiếm pháp”, “Ngọc nữ kiếm pháp” là sở trường bình sinh của Dương Qua, mà bây giờ không dùng được một thế nào, chỉ có lấy sự lanh lẹ để đánh nó mà thôi.
Đến tối, người và điêu cùng trở xuống sơn động, Dương Qua lao nhọc suốt ngày nhưng lạ thay không cảm thấy chút mệt mỏi, mà tinh thần lại sảng khoái hơn ngày thường. Chàng mới biết rõ công lao chăm sóc của thần điêu đã cho ăn những trái cây quý báu, nên thân thể mới thêm sức lạ thường thế này.
Sáng hôm sau chàng thức dậy, thì thấy chim điêu đã ngậm sáu quả chín để bên mình chàng. Dương Qua ăn xong, ngồi yên điều khí, có những mạch huyệt trước kia không chuyển công được bây giờ bỗng nhiên lưu thông trở lại. Dương Qua sung sướng vô cùng, lớn tiếng nói:
– Điêu huynh! Nay mình cùng lên thạch đài thí võ nữa chứ?
Chim điêu khe khẽ gật đầu.
Chàng tung mình nhảy phắt dậy, xách trọng kiếm cùng thần điêu ra đi. Ngày hôm qua, chàng đi mình không mà lên sân đã thấy khó khăn, nhưng ngày hôm nay trên tay xách theo trọng kiếm nặng hơn sáu chục cân, lại leo lên một cách nhẹ nhàng vô cùng. Dương Qua tự biết sau một ngày rèn luyện, công lực đã tiến lên rất nhiều nên khi giao đấu với thần điêu, bớt được một mối lo sợ phập phồng. Tuy vẫn còn tránh né, nhưng dưới đôi cánh lợi hại vô cùng của thần điêu, thỉnh thoảng chàng có thể trả được nhiều đòn hiểm độc.
Cứ như thế tập luyện được mấy ngày, Dương Qua sử dụng trọng kiếm trở nên lẹ làng, mỗi đường gươm, mỗi nhát chém đều thấy đúng theo ý muốn. Chàng vốn thông minh, nên mấy tháng trước đã ra công suy nghĩ nhiều ngày dựa theo võ công Toàn Chân phái và Cổ mộ phái, để tự khai thác ra một đường lối mới, lập được một phái võ học khác biệt cũng không thua sút gì các phái võ lâm khác. Nhưng hiện giờ sức lực chẳng đặng tăng, mỗi ngày tay dùng trọng kiếm đấu với thần điêu, càng ngày càng thấy rõ kiếm thuật lúc trước nay đã biến hóa vô cùng, nên vừa đánh với thần điêu vừa suy nghĩ những đường đi, nước bước của kiếm thuật. Những thế rất dễ dàng đơn giản thì đối phương nhiều lúc bối rối. Lúc này Dương Qua chỉ còn có một tay, nhưng ngày nào cũng được ăn những quả chín đỏ tươi không biết thần điêu ở đâu hái về, tự nhiên sức mạnh tăng lên mãi, đến ngày sau, lại có thể chống đối lại thần lực của thần điêu, nên nhát kiếm tung ra tiếng gió vù vù, trong lòng tự thấy an ủi vô cùng. Nhưng thật ra chàng nhờ có những căn bản học lúc trước, chứ hôm nay mới kỳ ngộ, đâu có thể đạt đến mức nầy. Vì thần điêu là một con vật không biết nói, vả lại nó cũng không rành bao nhiêu võ công. Chỉ nhờ có một sức mạnh và theo Độc cô cầu bại đã lâu ngày, thường giao đấu với ông nên mới biết được ít phép thuật tấn thoái mà thôi.
Sáng hôm nay thức dậy, thấy bầu trời mây đen, mưa đổ như vỡ đê. Dương Qua hỏi thần điêu:
– Điêu huynh! Hôm nay trời mưa to như thế, chúng ta còn luyện võ nữa không?
Thần điêu đưa mỏ, ngoạm áo chàng kéo đi thẳng về phía Đông Bắc được mấy bước, rồi thả áo ra, nó cất bước đi trước. Chàng tự nghĩ:
– Chắc ở hướng nầy còn vật gì kỳ lạ nữa chăng?
Nên cầm trọng kiếm dầm mưa đuổi theo, đi được mấy dặm, bỗng nghe “ầm ầm” những tiếng không ngớt vang lên. Càng đi tới tiếng vang càng náo động, hiển nhiên là tiếng nước đổ? Dương Qua thầm lo:
– Cơn mưa như thế nầy, nước mưa trên núi tuôn xuống mạnh, mình cần phải cẩn thận.
Qua khe núi hẹp, tiếng nước đổ nghe bùng tai, thấy giữa hai ngọn núi cao một thác nước như con bạch long đang cuồn cuộn đổ xuống trút vào một khe núi lở ầm ầm như sấm sét. Trong dòng nước chảy xiết, lại mang theo những tàn cây đá lớn từ trên núi cuốn nhào xuống. Bây giờ mưa lại càng lớn, quần áo Dương Qua ướt hết, bốn bề hơi nước mit mù, tạo thành một cảnh tượng rùng rợn, chỉ thấy thác nước chảy quá mạnh, trong lòng đầy lo sợ.
Thần điêu đưa mỏ kéo áo Dương Qua đi tới bên thác nước, như muốn đẩy chàng xuống. Dương Qua kinh hãi hỏi:
– Xuống dưới làm gì? Nước chảy xiết như thế này, bước xuống là trôi đi mất còn gì?
Thần điêu buông chiếc áo Dương Qua, ngửa cổ gáy dài, rồi nhảy vụt xuống nước, đôi chân đứng trên một tảng đá to giữa dòng. Đoạn nó dùng cánh trái quạt tảng đá một cái, làm cho tảng đá tung ngược lên thượng lưu. Nước chảy mạnh đưa tảng đá đổ xuống. Thần điêu chờ cho tảng đá trôi xuống thì lại quạt thêm một cái đánh trở lên. Cứ như thế thần điêu đánh mãi tảng đá đến sáu bảy hiệp mà tảng đá vẫn chưa thể trôi qua khỏi mình chim điêu được. Đợi đến lần thứ tám, tảng nham thạch vừa cuộn xuống, thần điêu vẫy cánh đập mạnh qua một cái, nham thạch lìa khỏi mặt nước bay bổng lên bờ bên phải. Thần điêu cũng tiếp nhảy lên đứng bên Dương Qua.
Dương Qua thầm đoán:
– Thuở xưa mỗi lúc mưa to, “Kiếm ma độc cô cầu bại” đến chỗ nầy để luyện kiếm, còn mình thì đâu có sức mạnh phi thường ấy mà dám thử liều?
Lòng thành đang phân vân thì thần điêu bỗng tung cánh nghe “soạt” một tiếng, phất trúng dưới lưng Dương Qua. Dương Qua trong lúc sơ ý nên rơi thẳng xuống khe, chàng phải cắn răng vận hết sức xử thế “Thiên cầu tục” đứng thẳng trên tảng đá to. Đôi chân chàng vừa chấm vào nước đã bị loạng choạng, thầm nghĩ:
– Độc cô tiền bối là người, mình cũng là người, mà trước kia tiền bối đã đứng được, sao nay mình lại không đứng được?
Nghĩ như thế, chàng bèn tụ khí ngưng thở, lo sức chống lại với sức mạnh của thác lũ. Nhưng việc đưa kiếm đỡ những tảng đá trôi theo nước cuốn dội xuống thật là việc khó vô cùng. Đứng đó chừng hơn một tiếng đồng hồ, sức lực của Dương Qua đã dần dần kiệt quệ, chàng bèn chống kiếm xuống tảng đá, nhảy vọt lên bờ. Chàng đứng trên bờ chưa kịp thở mấy hơi, đã bị thần điêu đưa cánh đập xuống. Lần này Dương Qua đã đề phòng, nên không bị nó quét trúng, mà chỉ tự động nhảy xuống khe. Chàng thầm nhủ:
– Chim điêu thật là một ông thầy tốt, một người bạn quý, nên ép mình luyện công không chút bê trễ . Nó đã có mỹ ý vậy, thì mình chẳng lẽ không cầu tiến hay sao? Chàng cố sức trầm trí đứng thật vững, một hồi lâu, dần dần tìm được môn ngưng khí để dung sức nước mỗi lúc một lớn thêm ngập lên tới ngực chàng. Chàng lại thấy chống chọi còn dễ hơn trước. Một lúc lâu nước cuộn chảy lên tới ngực lần lần lên tới miệng, Dương Qua thầm lo:
– Tuy mình đứng đã vững, nhưng nước đang lớn mạnh, đứng mãi ngập nước chết sao?
Chàng vội nhún mình nhảy phắt lên bờ, nào ngờ thần điêu đứng trên bờ thấy chàng vừa nhảy lên, không để cho chân chàng chấm đất, đã quạt cánh, Dương Qua vội đưa kiếm gạt mạnh, lại bị sức mạnh của đôi cánh quét qua nghe “tũm” một tiếng thì chàng bị trầm mình xuống giữa dòng nước rồi.
Đôi chân chàng vừa đạp tới nham thạch dưới lòng khe nước thì nước đã ngập quá đầu, một luồng nước vọt thẳng vào miệng. Nếu chàng vận khí đưa ngọn nước ra khỏi miệng, thì nội lực tăng lên, ắt chân bị bổng lên. Chàng liền ngưng khí thủ trung, nín thở một hồi lâu, nhún chân một cái, nhảy lên mặt nước miệng bắn ra một làn nước rồi trầm nữa xuống lòng khe, nhướng cho nước lũ vượt qua đầu. Thân chàng như một cây gậy chống ở giữa dòng, đứng vững trong nước chảy mạnh mà không hề lay động. Lòng chàng trở lại yên tĩnh, thầm nghĩ:
– Chim điêu muốn mình đứng vững trong nước lũ, mà bây giờ mình đứng đã vững rồi, thì thử dùng kiếm để phá như nó khi nãy coi! Chớ để nó khinh mình sao?
Dương Qua vốn xưa nay có tính háo thắng, nên trước mặt một con vật cũng vẫn tự ái. Vừa lúc sơn thạch và cành cây theo nước trôi xuống, chàng bèn đưa kiếm chặt ngang và phất ngược lên, làm cho nham thạch tung ngược lên thượng lưu còn cành cây vút bổng lên bờ. Hai nhát kiếm đầu chàng thấy có hiệu lực, trong lòng đầy niềm hy vọng, vì thế tay chân chàng trở nên linh hoạt vô cùng. Chàng không ngớt tay vừa chém vừa đâm, luyện mãi cho đến khi gân cốt sức lực đều kiệt quệ, chân bước xiêu vẹo, mới tung mình nhảy lên bờ.
Chàng sợ thần điêu lại đuổi chàng xuống nữa mà bây giờ đôi chân đã mất sức nếu không nghỉ ngơi một chút thì khó chống lại với áp lực của thác lũ. Quả nhiên thần điêu vừa thấy chàng từ dưới nước tung lên lập tức giương đôi cánh đánh ra. Dương Qua vội la lên:
– Điêu huynh! Muốn tôi chết sao?
Chàng bèn đứng dưới khe một hồi nữa nhưng chàng kiệt sức không thể đứng vững. Chàng vội nhảy lên bờ, thần điêu cũng giơ cánh quạt tới đỡ. Dương Qua không biết nói sao hơn nên hồi trọng kiếm chém trả mấy nhát, chỉ đánh ba đòn thần điêu đã phải lùi một bước. Chàng vội nói:
– Xin lỗi điêu huynh!
Rồi chém một nhát nữa nghe “soạt soạt” mấy tiếng, khí thế trở nên khác thường. Thần điêu thấy mũi kiếm đến quá mạnh không dám đón lại vội tránh lui. Dương Qua thấy sự luyện kiếm chỉ hơn nửa ngày trong nước lũ mà sức mạnh tăng lên rất nhiều, lòng phấn chấn vô cùng tự nhủ:
– Sức tăng thêm như thế này dẫu có luyện trong mười ngày nửa tháng chưa chắc đã được nay chỉ có luyện nửa ngày trong nước lũ mà được như thế này là nhờ những quả chín đỏ tươi thần điêu cho mình ăn hàng ngày có nhiều chất bổ gân cốt.
Dương Qua ngồi nghỉ trên mé bờ một hồi thấy trong người khoan khoái. Lần này thần điêu chưa thúc giục chàng đã tự động nhảy xuống khe tiếp tục luyện kiếm. Tập mãi hơn ba tiếng đồng hồ chàng mới cảm thấy mệt. Lần này chàng nhảy lên thì không thấy thần điêu ở đó nữa, chẳng biết nó đã đi đâu rồi. Mắt nhìn cơn mưa dần dần nhẹ hột, lòng chàng nao nao nghĩ:
– Nếu để ngày mai trở lại thì sức nước yếu mất, bây giờ mình cũng chưa mệt gì mấy, nên tập luôn một hồi nữa đã.
Nghĩ xong, chàng vội tung chân nhảy xuống khe, tung kiếm đánh tảng đá to đang tuôn mạnh xuống thác. Nháy mắt tảng đá đã vụt lên trên thác rồi. Cứ như thế chàng tập mãi và lúc này các vật to lớn đến đâu cuốn trôi theo nước cũng bị chàng đón đỡ được dễ dàng.
Khi Dương Qua nhảy lên thì thấy trên bờ đã để sẵn bảy quả chín. Chàng cảm kích ơn huệ của thần điêu vô cùng. Chàng ăn một hơi hết bảy quả chín rồi lại lo nhảy xuống khe luyện kiếm nữa. Tập mãi đến trời tối, chàng cảm thấy càng luyện, sức lực càng tiến, không còn biết mệt nữa, và tinh thần lại sảng khoái vô cùng. Suốt đêm ấy chàng không ngủ. Tâm thần minh mẫn, chàng tìm được rất nhiều kiếm lý trong dòng nước, nào là chém xuôi, đâm ngang, gọt dọc v.v…
Đêm đã khuya, mưa lớn vừa dứt hột, nền trời bao la, ánh trăng vằng vặc. Dương Qua nghĩ:
– Tâm trí đã thông kỳ lý, tay tinh kỳ thuật thế này là kiếm pháp của trọng kiếm đã lĩnh hội được hết, không cần luyện nữa, mình cứ theo lời của Độc cô tiền bối viết trong một kiếm, thì mai sau nội lực tăng lên, vả thanh kiếm trên tay sẽ thấy nhẹ dần di, tới sau cùng mình dùng kiếm gỗ cũng như dùng kiếm nặng. Thật lúc nầy mình mới thấy lời của Độc cô tiền bối là thâm thúy. Đúng là từ chỗ nông cạn đến chỗ cao thâm, do sự tu luyện của mình! Vậy kiếm thuật tập đến đây như đã hết. Dương Qua yên lặng rảo bước theo bờ suối, ngước mặt nhìn trăng thanh, lòng tưởng niệm đến Độc cô tiền bối đã để lại thanh trọng kiếm nầy. Nhưng nếu không nhờ Thần điêu ở một bên giúp sức chỉ dẫn, và không nhờ ăn những quả chín đỏ tươi ấy, thì nội lực đâu có tăng lên, để có thể tìm thấy kiếm thuật nầy ở trên thế gian? Độc cô cầu bại tự ý tìm được những bước
thần tiên trong kiếm thuật, thật là thông minh, tài trí lạ thường!
Chàng đứng yên lặng bên dòng nước để hoài niệm tiền nhân, lòng vừa mến phục, vừa biết ơn, vừa thương tiếc. Chàng thoáng ra một ý nghĩ:
– Mình tuy đã tìm ra được bí quyết của kiếm thuật, nhưng mãi ở chốn hoang vu nầy, thì có ích gì? Nếu chất độc của “Tình hoa” bộc phát, rồi ngày mai mình chết đi thì kiếm thuật tinh vi nầy lại phải tiêu tan như làn khói?
Dương Qua nghĩ đến đây, hùng tâm bốc lên: nên dùng thanh kiếm này đánh cho quần hùng trong thiên hạ đến tơi bời thúc thủ rồi mới chết cho thoải mái. Chàng đưa tay trái rờ vào bên phải lại nhớ đến cảnh rùng rợn khi cánh tay mặt chàng bị rớt trên giường nơi Quách Phù máu nóng liền sôi lên chàng thầm nghĩ:
– Con nhỏ này ỷ cha nó là đại hiệp đương thời, mẹ nó là bang chủ Cái Bang nên xem mình không được nửa con mắt. Còn mình lúc nhỏ phải ở nhà nó chịu biết bao nhiêu điều miệt thị của mẹ con nó. Mình nói dối để gạt anh em họ Võ sự thật cũng là muốn tốt. Nếu anh em họ Võ có một người vì nàng mà chết đi như thế không phải là tội của nàng sao? Hừ thế mà nó lại thừa lúc mình bệnh, chặt mất cánh tay, thù này mình không trả thì nó sẽ khinh rẻ suốt đời.
Dương Qua xưa nay vốn trọng ơn ghét oán, bụng dạ không rộng rãi mấy, bây giờ vết thương đã lành, võ công lại tiến rất nhiều nên tâm tư đều để hết vào việc trả thù. Lòng quyết định chàng vội bước trở về sơn động nói với thần điêu:
– Điêu huynh! ơn đức của điêu huynh suốt đời tiểu đệ không dám quên. Nhưng hiện nay tiểu đệ còn bao nhiêu việc ân oán trên giang hồ chưa trả xong. Ngày sau chúng ta cùng chung sống. Còn cây trọng kiếm của Độc Cô tiền bối xin cho tiểu đệ tạm dùng trong những ngày xa cách điêu huynh.
Nói rồi chàng đến lạy mộ đá của Độc cô cầu bại, đoạn quay đầu bước ra thung lũng. Thần điêu đưa Dương Qua ra ngoài cửa. Một người, một chim cúi đầu tạm biệt. Thanh kiếm nặng nề vô cùng, nếu giắt vào mình thì dây buộc lưng không chịu nổi. Dương Qua tìm được ba sợi dây mây già ở bên núi quấn nhập thành một, buộc chặt trọng kiếm vào lưng, rồi giở khinh công, chạy thẳng về thành Tương Dương.
Khi đến ngoài thành mặt trời gần lặn, chàng thầm nghĩ:
– Ban ngày hành sự không tiện, vả lại một đêm mình không ngủ thì sức khỏe bị sút đi. Quách phu nhân và Quách bá bá đều là tay cao thủ mà hôm nay chắc cơ thể đã bình phục, nếu gặp mình sẽ có một trận ác chiến.
Nghĩ như thế, chàng liền vào bãi tha ma ở ngoài thành ngủ một giấc, đoạn điều khí vận công, rồi hái một mớ trái rừng ăn cho đỡ bụng, đợi hết canh một mới chạy thẳng tới thành Tương Dương.
Thành Tương Dương hùng vĩ vô cùng! Ngày trước Kim Luân Pháp Vương cùng Lý mạc Thu từ trên đầu tường nhảy xuống, còn phải dùng người lót chân mới dám lướt qua. Bây giờ từ chân tường leo lên thật là một việc rất khó. Khi nằm ngoài bãi tha ma, Dương Qua đã nghĩ được kế leo thành theo thuật của Độc cô tiền bối dùng để leo lên vách núi nên lòng thấy khoan khoái vô cùng. Chàng đi tới cửa thành tìm một nơi vắng vẻ, chờ những tên quân canh trên thành đi cách xa, mới tung mình nhảy lên, rồi dùng trọng kiếm chém một nhát vào thành. Trọng kiếm tuy không bén nhọn, nhưng thế kiếm quá mạnh, tường xây bằng đá hoa cương thật dày chỉ nghe một tiếng vang lên tường thành đã vỡ ra một lỗ bằng nắm tay. Dương Qua không ngờ một nhát kiếm đã thành quả như vậy, lòng vừa lo vừa mừng, chàng nhảy lên bám chân trái vào chỗ vỡ, đưa tay chém thêm một nhát kiếm nữa. Lần nầy chàng ra tay nhẹ hơn để khỏi gây ra tiếng động làm cho binh tuần hay được. Cứ như vậy, chàng leo lên từng bước, khi còn cách đầu thành ba bước chàng liền giở thuật “Bích hổ du tường” leo lên núp vào chỗ bóng tối. Tường thành có nấc thang để xuống. Dương Qua đợi khi quân canh đi qua rồi, lẹ làng nhảy xuống thành, chạy thẳng vào Quách phủ.
Sau khi ăn qua những quả hồng nội lực chàng đã tăng nhiều, làm cho cơ thể nhẹ nhàng, khinh công thâm hậu hơn xưa. Tuy nhiên chàng biết võ công của Quách Tỉnh thật phi thường, chỉ một môn “Giáng long thập bát chưởng” thì đã vô địch trong thiên hạ rồi, cộng thêm “Đả cẩu côn pháp” biến hóa huyền ảo của Hoàng Dung nữa. Chàng vị tất đã thắng nổi, vì thế chàng không dám sơ ý, cẩn thận leo lên tường bước nhẹ vào. Dương Qua đã sống lâu ngày trong Quách phủ, nên đường đi lối vào rất quen thuộc. Bước vòng qua vườn hoa, chàng thấy phòng ngủ của chàng khi trước, chàng bèn đi tới áp tai vào cửa sổ nghe ngóng và biết trong ấy không có người nên nhẹ tay xô cửa bước vào. Trong đêm tối mắt chàng nhìn rõ như ban ngày! Chỉ thấy giường màn, bàn ghế, vẫn y như cũ có khác là mền gối trên giường đã cất hết. Chàng đặt mình ngòi xuống giường, nhớ lại cánh tay đã rơi, lòng vừa căm tức, vừa bùi ngùi!
Tướng mạo Dương Qua vốn tuấn tú, tính tình lại có chút phong lưu, mặc dầu chàng đối với Tiểu long Nữ vẫn một lòng chung thủy nhưng lại có rất nhiều thiếu nữ trẻ đẹp thấy chàng thầm mơ trộm ước như Trình Anh, Lục Vô Song, Hoàng nhan Bình, Công Tôn Lục Ngạc. Bấy giờ chàng sờ tay lên thành giường thấy lúc này đã trở thành người tàn phế, nếu gặp lại những thiếu nữ đa tình ấy nét mặt họ sẽ có những nét thương hại, hay khinh bỉ?
Chàng thấy mình võ công tuy tinh nhuệ nhưng cũng chỉ như một con quái vật mà thôi. Trong bóng tói, tâm tư chàng rào rạo, nghĩ đến những việc vừa qua, bất giác thở dài lẩm bẩm:
– Chỉ có mình Tiểu long Nữ là chung thủy. Đừng nói chi mất chỉ một cánh tay, dù là tứ chi đều mất nàng vẫn một lòng thương yêu mình, không hề đổi dạ.
Chàng vừa nghĩ đến đây, bỗng nghe phía Đông có tiếng cãi lẫy. Chàng nghe rõ tiếng nói đó chính là Quách Tỉnh và Hoàng Dung. Chàng tò mò, muốn nghe thử họ cãi việc gì, bèn lẻn đến phòng ngủ của vợ chồng Quách Tỉnh. Bỗng nghe Hoàng Dung lớn tiếng nói:
– Rõ ràng hai nguời ấy ẵm Tường nhi đến tình cốc, đổi thuốc giải độc, thế mà anh cứ bảo thằng Dương Qua là người tốt. Con bé mình mới sinh ra chưa được một giờ đồng hồ thì đã rơi vào tay họ, làm sao toàn mạng được?
Nói tới đây, lời nghẹn ngào, rồi nức nở khóc. Quách Tỉnh nói:
– Qua nhi không phải hạng người đó. Vả lại, nó đã nhiều lần cứu anh và em. Nếu chúng ta dùng tánh mạng của Tường nhi đổi lấy tánh mạng Qua nhi cũng không đáng tiếc.
Hoàng Dung nghẹn ngào nói:
– Anh dứt tình chứ em thì không!
Trong phòng bỗng nổi lên tiếng khóc của trẻ con, tiếng khóc át cả lời cãi vã giữa hai người. Dương Qua lấy làm lạ tự nhủ:
– Đứa con gái ấy đã được mình giật lại tại tay Lý mạc Thu đem về đưa cho Quách bá mẫu rồi, sao Quách bá mẫu lại nói không toàn mạng?
Dương Qua đưa mắt nhìn vào khe cửa, thấy Hoàng Dung đang bồng một đứa trẻ, đứa trẻ nầy mặt vuông tai lớn, làn da đen thui. Dương Qua đã bồng bé Quách Tường trong thời gian rất lâu, nên thấy đứa bé nầy không giống bé Quách Tường. Hoàng Dung xoay lưng qua phía cửa sổ, sẽ ru đửa trẻ rồi nói với Quách Tỉnh:
– Mình sinh song thai, nhưng bây giờ chỉ còn có một đứa con trai, đứa con gái thì bị họ bắt mà anh vẫn điềm nhiên!
Thật ra Hoàng Dung có một bào thai hai đứa, đứa thứ nhứt là đứa con gái tên Quách Tường đứa thứ hai là trai tức là Quách phá Lỗ. Đứa con gái bị Tiểu long Nữ ẵm đi mất rồi, chỉ còn một mình đứa con trai.
Quách Tỉnh dạo gót trong phòng nói:
– Em Dung! Lúc thường em vẫn có tính dễ dãi, tại sao lúc nhắc đến việc con gái là em lại khó tính như vậy? Bây giờ quanh vụ khẩn cấp, anh đâu có thể vì đứa con mà bỏ thành Tương Dương được?
Hoàng Dung nói:
– Em đích thân tìm con một mình, anh lại không cho. Không lẽ để đứa con mình phải chết oan uổng như vậy sao?
Quách Tỉnh nói:
– Cơ thể của em còn yếu đuối, làm sao đi được?
Hoàng Dung tức tối nói:
– Cha nó thì không thương con, mẹ nó thì đang đau như vậy thì có cách gì bây giờ?
Dương Qua đã chung sống với vợ chồng Quách Tỉnh nhiều năm trên đảo Đào hoa, thấy hai người thương yêu nhau rất mực, chưa hề có một tiếng hờn trách nhau. Bây giờ họ lại nghiến răng cau mày, lời nói không chút nhường nhịn nhau, cũng chỉ vì bé Quách Tường bị kẻ nào ẵm trộm mất.
Hoàng Dung vừa khóc vừa kể, Quách Tỉnh lại nghiêm sắc mặt, không ngớt đi qua đi lại đếm bước trong phòng. Một hồi sau, Quách Tỉnh nói:
– Đứa con gái nầy dầu có tìm được em cũng chiều chuộng nó như Phù nhi, để rồi dung túng nó hại người, thì thật chẳng ích gì.
Hoàng Dung lớn tiếng nói:
– Phù nhi lỡ phạm tội như vậy vì nó quá thương em nó, nên mới lỡ tay như vậy. Việc đó cũng lẽ thường. Nếu gặp tôi… Dương Qua không trả bé Tường cho tôi thì cả cánh tay trái của nó tôi cũng chặt luôn.
Quách Tỉnh gắng giọng hỏi:
– Em Dung! Em nói cái gì?
Rồi chàng giơ tay đập xuống bàn nghe “bành” một tiếng, cây ván tung bay, chân bàn to tướng đã bị bể mất một nửa. Đứa trẻ trên tay Hoàng Dung đang khóc, bỗng nghe tiếng đập bàn ấy, nó giống người nín mất.
Sau tiếng đập bàn của Quách Tỉnh, Dương Qua chợt thấy bên cửa sổ phía tây thoáng qua bóng đen, có một bóng người xuống rón rén lui ra.
Dương Qua thầm nghĩ:
– Thế nầy, ngoài mình ra, lại có người khác cũng rình nghe nữa. Họ là ai vậy?
Chàng bèn giờ khinh công nhón gót đuổi theo người ấy, thì thấy thân người ấy ẻo lả duyên dáng đúng là Quách Phù. Dương Qua cơn hận nổi lên, lẩm bẩm:
– Tốt lắm! Ta đang đi tìm mi đây!
Bỗng nghe tiếng Hoàng Dung nói:
– Anh ra ngoài đi, đừng la lối con nó giật mình!
Rồi ánh đèn trong phòng Hoàng Dung cũng tắt rụi. Mọi người đều chìm lặng trong bóng tối.
Dương Qua biết Quách Tỉnh sắp đi ra, vội tung mình nhảy ra sau giả sơn, vòng bước tới phòng Quách Phù, rồi nhảy vọt lên cành cây ẩn mình trong lá. Một hồi lâu, quả nhiên thấy Quách Phù trở về phòng. Con thị tỳ săn sóc cho Quách Phù thấy nét mặt nàng khác thường, nhưng không dám hỏi gì nhiều, chỉ nhỏ nhẹ nói:
– Đêm đã khuya rồi, mời cô nương lên giường yên nghỉ!
Đoạn thị tỳ lui ra ngoài khép cửa lại.
Thần điêu đại hiệp – Hồi 069
Tái Ngộ Trong Kỳ Lạ
Dương Qua núp trên cây nghe Quách Phù thở dài não ruột. Chàng thầm trách:
– Mi mà buồn bực gì nữa? Mi đã chặt mất của ta một cánh tay, thì ta có quyền chặt lại cánh tay của mi, nhưng vì ta là nam tử không đi đánh với gái hư. Nếu bây giờ ta xuống đánh mi thật dễ như trở bàn tay, nhưng không đúng hành vi của một kẻ đại trượng phu.
Chàng ngồi trầm ngâm một lúc, nẩy ra một ý:
– Hay! Để mình la to lên, cho Quách bá phụ nghe tiếng mà thôi. Ông ta là một vị Thái sơn Bắc đẩu trong võ lâm, mình hạ ông ta trước, rồi hãy trị con nhỏ này. Làm việc kinh khủng như vậy thì ai dám chê mình?
ý niệm này vừa thoáng qua, thì chàng đổi ý:
– Nhưng võ công của Quách bá phụ đến mức tinh vi trác tuyệt, mình dễ gì thắng nổi ông ta? Nhưng chẳng lẽ mình bỏ qua mối thù nầy sao?
Chàng sờ vào cánh tay bị cụt, máu nóng sôi sùng sục, vừa toan nhảy xuống báo hận cừu, bỗng nghe có tiếng chân người đi thình thịch. Tiếng chân bước tới thật vững vàng, chính là Quách Tỉnh. Ông đi tới phòng con gái của ông, đưa ngón tay búng nhè nhẹ vào cửa, rồi nói:
– Phù nhi, con đã ngủ chưa?
Quách Phù ở trong phòng, giọng run run nói:
– Dạ, cha… Cha đến tìm con?
Dương Qua giật mình, thầm lo:
– Không lẽ Quách bá phụ đã biết mình đến đây mà tới che chở cho nàng?
Quách Tỉnh “ừ” một tiếng, Quách Phù mở cửa phòng, đưa mắt nhìn cha nàng một cái, rồi vội cúi đầu xuống. Quách Tỉnh khép kín cửa lại ngồi trên ghế nghiêm nghị nhìn vẻ mặt khác lạ của Quách Phù, rồi điềm nhiên hỏi:
– Phù nhi! mấy hôm nay con đi đâu?
Quách Phù e ngại trả lời:
– Thưa cha!… Con… Con đả thương Dương đại ca, sợ cha quở phạt, nên con…
Quách Tỉnh nói:
– Nên con đi ra ngoài để lánh mặt cha ít ngày phải không?
Quách Phù đứng khoanh tay, đôi môi mím chặt khe khẽ gật đầu. Quách Tỉnh nói tiếp:
– Con định cơn giận của cha đã nguôi rồi mới trở về đây hả?
Quách Phù gật đầu, bỗng nhiên chồm vào lòng ông van lơn:
– Cha ơi! cha còn giận con không?
Quách Tỉnh đưa tay vuốt tóc con gái, thấp giọng nói:
– Cha không giận con. Mà từ nay cũng không bao giờ giận con. Nhưng cha chỉ đau lòng vì con mà thôi.
Quách Phù gào lên một tiếng “cha” rồi dụi đầu vào lòng Quách Tỉnh, khóc òa lên! Quách Tỉnh đưa mắt nhìn trần nhà, chờ đến lúc tiếng khóc của con gái ông dịu đi, mới nói:
– Tổ phụ Dương Qua là ông Dương thiết Tâm, cùng với ông nội con xem nhau như tình cốt nhục, còn cha nó với cha con, cũng là anh em kết nghĩa thâm giao, những việc này con đều biết chứ?
Quách Phù “Dạ” một tiếng. Quách Tỉnh nói tiếp:
– Thằng Dương Qua tuy có tánh hơi ương ngạnh, nhưng lại cô một tấm lòng nghĩa hiệp, bao nhiêu lần xả thân cứu mạng của cha, mẹ con. Dương Qua tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã liều thân vì nước, vì dân nên lập những công lao to tát. Việc này con cũng đã biết chứ?
Quách Phù nghe giọng nói của cha nàng quá nghiêm khắc, nên không dám nói một lời nào. Quách Tỉnh đứng dậy, nói:
– Còn việc này con chưa biết, nên cha phải nói để con rõ: Dương Khang là thân phụ của Dương Qua, ông ta là nghĩa huynh của cha. Nhưng khi xưa đức hạnh ông ta không tốt mà cha khuyên giải mãi không được, nên chung quy đưa đến hậu quả là ông ta phải chết thê thảm ở miếu Vương thiết Thương tại Gia Hưng. Trong cái chết của Dương Khang tuy không phải mẹ con ám hại, nhưng cũng tại mẹ con. Như thế họ Quách nhà mình đã phụ nhà họ Dương quá nhiều rồi.
Dương Qua nghe mấy tiếng “chết thê thảm ở miếu Vương thiết Thương” thì rùng mình. Đây là lần thứ nhất chàng mới biết được nơi bỏ mạng của thân phụ, cừu hận ấy đang vùi sâu trong cõi lòng, bây giờ bất giác lại bốc cháy. Lại nghe Quách Tỉnh nói tiếp:
– Nên từ lâu cha đã có ý định gả con cho thằng Dương Qua để bù đắp lại lỗi lầm của gia đình mình, nhưng không ngờ con… ôi thôi!
Quách Phù tìm lời biện bạch:
– Cha ơi! Nhưng tại Dương Qua đã đoạt em gái con rồi dùng những lời nói ngạo mạn phỉ báng con. Tuy giữa họ nhà mình với nhà họ Dương có nhiều mối liên quan mật thiết, nhưng không lẽ vì thế mà con phải chịu sự hiếp đáp của nó, lại không có chút quyền phản kháng?
Quách Tỉnh đứng phắt dậy, quát lớn:
– Rõ ràng mày đã chặt mất cánh tay của nó, mà sao lại nói nó hiếp đáp? Thanh kiếm ấy đâu?
Quách Phù không dám nói nữa, đưa tay vào dưới gối rút thanh Tử vi kiếm ra đưa cho Quách Tỉnh. Ông vặt nhẹ một cái, thanh kiếm liền phát ra những tiếng vo vo, điềm nhiên nói:
– Phù nhi, ngươi sống trong trời đất, làm việc gì đừng để thẹn với lòng! Ta tuy nghiêm khắc, nhưng lòng thương con cũng không kém gì mẹ con.
Nói đến những tiếng sau cùng, giọng ông lại ôn tồn vô cùng. Quách Phù khe khẽ nói:
– Con biết cha nghiêm khắc để răn dạy con, chứ nào con có dám hờn trách?
Quách Tỉnh đanh thép nói:
– Tốt lắm! Con đưa cánh tay mặt ra đây. Con đã chặt mất một cánh tay của nó thì cha phải chặt một cánh tay của con. Cha của con xưa nay cương trực, không thể che chở con để cho anh hùng trong thiên hạ chê cười.
Quách Phù đoán biết lần nầy không thể tránh khỏi sự quở phạt của cha nàng, nhưng không ngờ phải bị hình phạt chặt tay, nên mặt mày biến sắc gào lớn:
– Cha ơi! Cha!
Mặt Quách Tỉnh đầy vẻ cương quyết, đôi mắt nhìn thẳng vào mặt con gái:
Dương Qua không thể ngờ được Quách Tỉnh lại trọng nghĩa đến mức nầy. Chàng nhìn sự cương trực ấy, trong lòng thầm phục vô cùng.
Chỉ thấy ông ta vung kiếm lên, rồi chém mạnh xuống cánh tay Quách Phù. Bất thình lình nghe “vù” một tiếng, một người từ cửa sổ bay vào, thân pháp lanh lẹ lạ thường. Người chưa tới mà gậy đã lao tới trước, rồi nhanh như chớp phong tỏa ngay nhát kiếm của Quách Tỉnh.
Người nầy không ai khác hơn là Hoàng Dung. Bà không hề mở miệng nói một lời nào, chỉ nghe “soạt soạt soạt” ba tiếng liên tiếp. Đó là ba đòn tuyệt tác trong “Côn pháp đánh chó”. Quách Tỉnh vì không hề để ý, hơn nữa côn pháp của Hoàng Dung quá tinh vi nên bị ép lui lại hai bước. Hoàng Dung nóng lòng la lên hối hả:
– Phù nhi, hãy mau trốn đi!
Quách Phù như kẻ mất hồn, đột ngột được gặp mẹ nàng che chở bảo đi ra ngoài, mà nàng vẫn đứng tần ngần ở đó. Hoàng Dung tay trái bồng Quách phá Lỗ, tay mặt vung gậy tới cuốn vào áo con gái rồi kéo thẳng nàng ra ngoài cửa, miệng bảo:
– Con hãy mau trở về Đào Hoa đảo, mời Kha công công đến đây để khuyên giải cha con mới được.
Kế đó, Hoàng Dung nhanh như cắt xoay gậy lại dùng “Đả cẩu bổng pháp”, cản không cho Quách Tỉnh bước ra cửa, miệng vẫn quát:
– Đi mau mau đi! Tiểu hồng mã đã sẵn sàng ngoài cửa.
Việc nầy Hoàng Dung đoán được tính chồng bà quá cương trực, rất trọng nghĩa có thể hy sinh tình máu mủ. Bà biết con gái lần nầy không thể tránh được hình phạt, bèn sai gia nhân sửa soạn hành lý, và dắt tiểu hồng mã chờ sẵn ngoài cửa. Hễ bà cầu xin chồng may ra được là phúc lớn, bằng không sẽ đưa con gái trốn thoát lẹ làng.
Trong cơn giận dữ của chồng bà đành cho con gái thân yêu của bà xa vắng một thời gian, để đến khi nào tìm được cách khuyên giải Quách Tỉnh, bà sẽ đem con gái về đoàn tụ. Hoàng Dung cãi lớn với Quách Tỉnh trong phòng ngủ một hồi, thấy sắc mặt của chồng hầm hầm đi về phòng con gái, lòng bà đoán biết dữ nhiều lành ít, nên tiếp thoo chân. Đến vừa đúng lúc chồng bà đang vung gươm chặt tay con gái, để tra tội đã chặt tay của Dương Qua. Hoàng Dung kịp thời tung gậy ra đỡ được nhát kiếm, cứu con gái thoát nạn.
Sự thật nếu so võ công thì Hoàng Dung không thể cản được Quách Tỉnh. nhưng xưa nay Quách Tỉnh có tính nhịn vợ, lại thấy trên tay bà bồng con nhỏ, nên không nỡ ra tay, cũng nhờ một giây chần chờ ấy mà Quách Phù đã chạy đến vườn hoa.
Dương Qua vẫn ngồi yên trên cây mộc tất hoa, theo dõi tình cảnh lạ thường. Đến lúc Quách Phù bị Hoàng Dung đẩy ra cửa. Nếu chàng cố ý đưa kiếm chém xuống thì nàng làm sao tránh khỏi. Nhưng chàng nghĩ lại
thấy gia đình họ Quách cãi nhau đến náo động trong Quách phủ cũng vì công việc của chàng, như vậy chàng không muốn thừa lúc người ta lâm nguy, mà ra tay một cách quá hèn hạ.
Quách Tỉnh bấy giờ đứng dựa vào thành, hết đường tiến lui nữa rồi. Hoàng Dung bỗng bảo lớn:
– Anh bồng nó đây!
Bà ném ngay Quách phá Lỗ về phía chồng. Quách Tỉnh vội đưa tay trái hớt lấy con. Hoàng Dung buông thẳng gậy tre xuống đất, bước tới trước mặt chồng, nhỏ nhẹ nói:
– Anh Tỉnh! anh tha tội cho Phù nhi một lần nhé!
Quách Tỉnh lắc đầu nói:
– Em Dung, lòng anh đâu phải không thương con? Nhưng nó đã gây nên việc tàn nhẫn như vậy nếu không trừng trị, thì mình làm sao yên lòng được? Còn thằng Dương Qua mất một cánh tay, chẳng ai coi sóc gì cả không biết giờ này sống chết thế nào?
Dương Qua nghe lời nói chân thành như vậy, biết rõ Quách bá phụ vẫn hằng thương nhớ đến chàng, nên bất giác động lòng cảm mến, lệ trào khóe mắt.
Hoàng Dung nói:
– Chúng ta cũng đã tìm kiếm khắp nơi, mà vẫn chưa thấy tông tích nó. Nếu có xảy ra điều gì bất trắc mình đã nghe thấy thiên hạ đồn đại rồi. Nhưng võ công của Qua nhi đâu có kém gì của chúng mình. Dẫu có bị trọng thương như vậy, chắc cũng không thể thiệt mạng đâu.
Quách Tỉnh nói:
– Hay lắm! Để anh đi gọi Phù nhi trở về.
Hoàng Dung cười nhạt nói:
– Nó đã cưỡi tiểu hồng mã đi cách xa rồi, làm cách nào kêu lại được?
Quách Tỉnh nói:
– Trong lúc đêm khuya, không có lệnh tiễn của Lữ đại nhân hay của anh, ai dám mở cửa thành cho nó đi?
Hoàng Dung thở dài nói:
– Thôi được, tùy anh định liệu.
Quách Tỉnh liền giao đứa bé cho Hoàng Dung, rồi nhỏ nhẹ nói:
– Em Dung, nếu con mình có mất một cánh tay, tuy phải chịu tàn tật nhưng đó là một phước lớn cho nó, nếu ăn năn hối…
Hoàng Dung không để cho chồng nói hết câu, đã gật đầu nói:
– Anh nói rất phải!
Bà đưa tay ẵm đứa bé trên tay chồng. Nhưng bàn tay mặt của Hoàng Dung đã lẹ làng đưa thẳng vào nách Quách Tỉnh, sử dụng ngón tuyệt kỹ gia truyền “Lưu hoa phất huyệt” đồng thời phết vào huyệt “uyển dịch” bên tả và huyệt “kinh môn” bên hữu, hai huyệt nầy đều nằm hai bên nách, nếu Hoàng Dung không dụng kế, thì đâu có thể thành công?
Quách Tỉnh trong lúc vô tình đã bị vợ điểm huyệt đạo bí quyết, nên thúc thủ vô phương, toàn thân mềm nhũn, ngã lăn xuống giường, không cử động được. Sự thực kế nầy Hoàng Dung đã định ý trước khi giao đứa nhỏ cho Quách Tỉnh, nên bà hành động rất thần diệu.
Hoàng Dung bồng con lên, rồi lấy gối chêm đầu cho chồng nằm một cách thoải mái. Đoạn nàng thò tay vào túi chồng lấy ra một lệnh tiễn.
Quách Tỉnh đôi mắt mở thao láo nhìn mọi cử chỉ của vợ, nhưng không còn phương thế nào kháng cự được.
Hoàng Dung đặt con nằm trên mình chồng, kéo chăn đắp lại cho hai cha con Quách phá Lỗ, miệng khẽ nói:
– Anh Tỉnh, hôm nay em xin chịu đắc tội một lần, để em đưa Phù nhi ra khỏi thành rồi trở về làm ít món ăn ngon, dâng ba ly để tạ tội, có được không?
Quách Tỉnh nghe qua, thấy vợ mình đã là mẹ ba đứa con, mà vẫn còn vẻ đùa cợt như mọi năm xưa. Hoàng Dung đôi môi mỉm cười, chân bước nhanh ra cửa, trong lúc đó lòng Quách Tỉnh lỡ khóc lỡ cười.
Hoàng Dung vốn tánh cưng con, nên nhận thấy Quách Phù một mình trở về đảo Đào Hoa, với sắc đẹp hiếm có ấy, sợ đi đường khó tránh khỏi lũ háo sắc. Bà vội trở về phòng ngủ lấy chiếc “Giáp nhũ trụ” dùng lụa gói lại, kẹp vào nách, rồi lẹ làng tiến nhanh ra cửa thành.
Hoàng Dung tuy mới sanh chưa đầy một tháng, nhưng vì từ nhỏ đã luyện nội công, nên sức khỏe sớm bình phục. Bà giở môn khinh công lao mình vun vút. Trong nháy mắt bà đã đến cửa Nam thành, thấy Quách Phù đang ngồi trên lưng tiểu hồng mã, lớn tiếng gây gổ với viên tướng thủ thành.
Tướng thủ thành lễ độ nói:
– Xin cô nương ở lại, không được đi, vì trong đêm tối, không có lệnh tiễn mà mở cửa thành, sẽ bị tội bêu đầu.
Hoàng Dung cầm lệnh tiễn bước tới nói:
– Đây lệnh tiễn của Lữ đại nhân, ông hãy nghiệm coi đúng không.
Viên tướng thủ thành thấy Quách phu nhân đích thân đến, lại thấy lệnh tiễn là thật, bèn đi mở cửa thành, và dẫn tới một con ngựa, hỏi:
– Xin Quách phu nhân nếu thấy cần, thì dùng ngựa của tiểu tướng để đỡ bước.
Hoàng Dung nói:
– Hay lắm, vậy xin ông cho tôi tạm mượn.
Quách Phù thấy mẹ nàng tới, mừng rỡ vô cùng. Hai mẹ con cưỡi ngựa song song ra thành. Hai người kề vai cho ngựa phi về hướng Nam. Hoàng Dung không nỡ rời xa con gái, nên đưa đi đã xa mà vẫn đi mãi. Phía Nam thành Tương Dương nhờ có trọng trấn , Bình chương, chưa bị quân Mông Cổ dày xéo nên dân được an cư như cũ. Mẹ con Hoàng Dung đi được hai mươi dặm, trời đã hửng sáng, tới một thị trấn nhỏ, các cửa hàng mở cửa buôn bán. Hoàng Dung nói:
– Phù nhi! Mình vào tiệm ăn cho đỡ lòng, rồi mẹ phải trở về!
Quách Phù ứa lệ gật đầu, lòng hối hận vô cùng:
– Thật ra vì cơn nóng giận điên cuồng, mình đã chặt tay Dương Qua, cho đến ngày nay phải cốt nhục chia lìa. Rồi đây mình phải trở về đảo Đào Hoa, sống chung với ông lão đui mù, trong những ngày buồn tẻ sắp tới, không biết làm sao sống cho được?
Hai người bước vào tiệm ăn, gọi một tô thịt bò cùng bánh mì, nhưng trong giờ phút chia ly kề gần, ai cũng không lòng dạ nào nuốt cho trôi.
Hoàng Dung đưa bộ “giáp nhũ trụ” cho con gái bảo:
– Phù nhi! Con tới khách điếm mặc áo nầy vào mình, để đề phòng việc bất trắc dọc đường.
Mắt nhìn con gái đang cúi đầu vâng lời, lòng bà đau như cắt, đôi mắt đỏ hoe, cái vẻ liếng thoắng ngây thơ khi xưa đều mất cả.
Chợt thấy đầu đường phía Tây có một gian hàng bán trái cây, có những trái bôm đỏ tươi, bà thầm nghĩ:
– à! Mình mua vài trái cho Phù nhi dọc đường ăn đỡ sức.
Nghĩ xong, bà quay qua nói với Quách Phù:
– Phù nhi, con hãy ráng ăn thêm vài miếng cho đỡ lòng. Trong tình thế loạn lạc nầy, dọc đường khó mua món ăn. Thôi con ngồi đây, để mẹ đi mua thêm ít trái cây.
Bà vội bước tới gian hàng bán trái cây cách xa tiệm ăn hơn mười căn phố. Hoàng Dung lựa hơn mười quả bôm, trong lúc trả tiền, bỗng có giọng lanh lảnh của một người thiếu phụ nói:
– Bà hàng, để cho tôi hai chục cân gạo, một cân muối và dồn tất cả vào cái túi nầy.
Hoàng Dung khẽ liếc mắt nhìn qua, thấy đó là một đạo cô áo vàng, tay mặt đang cầm tiền trả, tay trái bồng một đứa bé. Đứa bé mặc bộ đồ lụa đỏ, trước ngực có thêu một con ngựa nhỏ, đúng là bộ áo của Hoàng Dung đã tự tay may cho Quách Tường. Thấy thế, Hoàng Dung bỗng nhiên rung động cả lòng, những quả bôm trên tay đều rơi trở lại trong giỏ hàng, linh tính báo cho bà biết, đứa bé nầy không ai khác hơn là Quách Tường. Còn đạo cô kia chính là Xích luyện tiên tử Lý mạc Thu. Hoàng Dung chưa gặp mặt, hay giao đấu với nữ ma đầu này nhưng thấy trên lưng hắn có giắt phất trần, mắt bị mù một con. Tướng mạo và lối trang phục này bà đoán đích là Lý Mạc Thu. Hoàng Dung vừa mừng vừa sợ bất giác ứa lệ. Còn gã bán trái cây thấy Hoàng Dung đưa tiền mà không lấy trái cây lòng kinh ngạc trân trối nhìn.
Lý mạc Thu trả tiền xong, đón lấy túi gạo, lẹ làng bước đi ra trấn. Hoàng Dung toan xoay mình đuổi theo, mà gã bán bàng cứ lựa những quả bôm chín đỏ tươi đưa lên. Hoàng Dung thuận tay luồn vào túi áo vài trái, miệng bảo:
– Thôi đủ rồi!
Bà liền cất bước đuổi theo Lý mạc Thu. Vì thời cơ cấp bách nên bà không kịp trở lại cho Quách Phù hay. Bà chỉ thầm nghĩ:
– Tường nhi đã lọt vào tay một người hiểm độc như vậy, nếu mình cường đoạt, chắc nguy đến tánh mạng của con.
Bà nhìn thấy Lý mạc Thu đi thẳng về hướng Tây, bèn lặng lẽ theo sau, lòng lại nghĩ:
– Hắn là sư bá của Qua nhi. Tuy nghe nói họ không ưa nhau, nhưng Phù nhi đã chặt mất cánh tay của Qua nhi, thì Quách gia nầy nay lại thêm một mối thâm thù với phái Cổ mộ. Nếu Qua nhi cùng Long cô nương đều đợi ở đằng trước, mình một mà địch họ ba chắc khó thắng, phải sớm ra tay mới đạt được kết quả.
Thấy Lý Mạc Thu đã rẽ về hướng Nam, đi vào một khu rừng bà bèn giở khinh công phi thân lướt nhanh như chiếc tên lìa ná, bay vòng qua đám rừng, chận đầu Lý Mạc Thu. Lý Mạc Thu bỗng thấy trước mặt hiện ra một thiếu phụ đẹp đẽ liền dừng bước lại. Hoàng Dung tươi cười nói:
– Xin chào đạo cô, nếu tôi đoán không lầm thì đạo cô chắc là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Thu, nếu quả vầy thì thật hân hạnh.
Lý Mạc Thu thấy thân pháp đối phương hiện ra trong những bước thật vững vàng, biết không phải hạng tầm thường, lại thấy bên hông giắt chiếc gậy tre xanh biếc, thầm hiểu bèn lễ phép thi lễ:
– Tiểu muội hằng ngưỡng mộ đại danh của Quách phu nhân, hôm nay mới được thấy phu nhân thật là vạn hạnh.
Trong làng võ hiệp này, kẻ nào cao thủ của phái nứ thì chỉ có danh tiếng Hoàng Dung và Lý Mạc Thu vang dậy nhất, còn Tôn bất Nhị tuy thành danh sớm nhưng võ công đâu có bằng hai người này, còn Tiểu long Nữ thì tuổi còn nhỏ nên chưa có oai danh gì.
Hoàng Dung là con ruột “Đông tà” Hoàng dược sư, làm vợ của đại hiệp Quách Tỉnh, còn đích thân lại đương kim bang chủ Cái Bang. Lý Mạc Thu chỉ có ba môn tuyệt kỹ vang danh trong thiên hạ là cây “phất trần”, “Ngân châm”, “Ngũ độc thần chưởng”. Bây giờ hai bên gặp nhau đều kinh lạ.
Hoàng Dung cười nói:
– Lý đạo cô là bậc thành danh, sao lại nói những lời khách sáo như thế?
Lý Mạc Thu khiêm nhượng nói:
– Quách phu nhân là bang chủ của Cái Bang, tiểu muội xưa nay ngưỡng mộ vô cùng.
Hai người khách sáo nhau một hồi, Hoàng Dung nói:
– Đứa bé trong lòng Lý đạo cô dễ thương quá, nhưng chẳng biết con cái nhà ai vậy?
Lý Mạc Thu nói:
– Nói ra thêm hổ ngươi, xin Quách phu nhân đừng cười.
Hoàng Dung nhỏ nhẹ tiếp:
– Xin đạo cô cho biết, chứ tôi đâu dám vô lễ thế.
Miệng nói nhưng lòng bà thầm nghĩ:
– Mình đã nói đến chính đề, nếu không xong thì phải trở mặt rồi mới động thủ sau.
Đang suy nghĩ thì đã nghe Lý Mạc Thu nói:
– Đây là một bất hạnh của phái Cổ Mộ chúng tôi vì tiểu muội vô đức, không biết dạy sư muội, nên chính đứa bé này là con của Long sư muội.
Hoàng Dung lấy làm lạ tự hỏi:
– Long cô nương coi có vẻ đoan trang trinh thục, mà cũng không thấy có thai, sao lại có con? Đứa con gái này rõ là đứa con gái mình, chắc hắn nói dối như vậy có dụng ý gì đây.
Hoàng Dung nghĩ xong bèn nói:
– Long cô nương là người đoan trang, té ra lại có việc này thật là khó hiểu. Nhưng không biết cha đứa bé là ai vậy?
Lý Mạc Thu nói:
– Cha của nó à? Nói ra lại càng thêm giận, vì chính là Dương Qua đồ đệ của sư muội mới buồn chứ!
Hoàng Dung tuy tánh tình lanh lợi, muốn mặc nhiên để điều tra nhưng bây gìơ nghe nói đôi má cũng đỏ bừng, lòng giận dữ thầm trách:
– Mầy lỡ nói con gái ta là con hoang của Tiểu long Nữ còn có thể kháng bây giờ nói cha nó là Dương Qua, thật là nhục trước mặt ta rồi.
Sắc giận dữ vừa thoáng qua, Hoàng Dung liền lấy lại bình tĩnh hỏi:
– Trời! Thằng Dương Qua như thế thật là hết nói nổi nữa rồi! Nhưng đứa bé này lại thật kháu khỉnh khiến người ta dễ mến, Lý đạo cô đưa tôi bồng nó một tí coi.
Nói rồi thò tay vào túi, lấy ra một ít trái cây đưa trước đứa bé, miệng thì đánh lưỡi “chụt chụt” để gọi dọn…
Từ khi đoạt được Quách Tường, mấy ngày liền Lý Mạc Thu ẩn trong thâm sơn, hằng ngày chỉ lấy sữa beo cho đứa bé bú. Hắn tuy rất độc, nhưng không phải thiên phú như thế, chỉ vì bị thất bại trên tình đời, sanh buồn chán, thù ghét thế nhân, rồi mới đi đến cái tánh hung dữ để cho thỏa mãn lòng căm giận. Vì vậy trước vẻ mặt xinh xinh, kháu khỉnh của bé Quách Tường đã làm cho Lý Mạc Thu hết lòng thương mến. Tình thương của Lý Mạc Thu đối với bé Quách Tường cũng như tình mẹ thương con, nên có nhiều đêm, Lý Mạc Thu nằm dài nựng bé Quách Tường, nói:
– Dù cho Tiểu long Nữ có mang “Ngọc nữ tâm kinh” đến đổi, thì ta cũng không thể đổi cháu cưng nhất đời ta được!
Bây giờ thấy Hoàng Dung muốn bồng đứa bé nầy, thì tựa như người mẹ nghe người ta khen con mình vậy, lòng Lý Mạc Thu sung sướng vô cùng, mỉm cười trao đứa bé cho Hoàng Dung.
Hoàng Dung vừa đưa tay sờ đến con mình đã nhoẻn nụ cười âu yếm. Phải chăng lòng mẹ thương con không trời bể nào bằng? Hơn nữa đối với đứa bé gái này, bà đã ngày đêm mơ tưởng, đau khổ vì sợ nó có mệnh hệ gì mà bây giờ được ẵm nó vào lòng, bảo sao không mừng như điên như dại?
Lý Mạc Thu cũng là người thông minh tuyệt đỉnh, đột nhiên thấy nét mặt khác thường của Hoàng Dung, lòng hoài nghi tự hỏi:
– Nếu hắn chỉ thích trẻ con thì bồng cho vui, sao lại lộ vẻ xúc động như vậy? Chắc có ẩn ý gì?
Nghĩ xong, liền giật đứa bé lại, ẵm chặt vào lòng, đôi chân điểm đất, nhảy vọt ra phía sau hơn hai trượng. Chân vừa chấm đất, Lý Mạc Thu toan quát hỏi, thì Hoàng Dung đã vụt mình tới. Lý Mạc Thu tung chiếc túi trên vai đánh thẳng vào mặt đối phương. Hoàng Dung thấy thế quá mạnh! Hàng triệu hạt muối bay vào dưới chân. Lý Mạc Thu thừa cơ ấy, nhảy lùi ra mấy trượng nữa, vội đưa cánh tay rút phất trần ra, cười khe khẽ nói:
– Quách phu nhân lại muốn giúp Dương Qua để giật con bé nầy sao?
Chỉ trong giây phút, Hoàng Dung đã nhận rõ thế cuộc, biết đối phương đã nghi ngờ, thì hết phương dùng trí thủ thắng được nên muốn dùng sức để đoạt bèn bình tĩnh nói:
– Tôi thấy đứa bé nầy dễ thương, muốn nựng nịu một chút mà thôi! Lý đạo cô lại có ý nghĩ như vậy, thì thật là khinh người thái quá!
Lý Mạc Thu nói:
– Quách phu nhân danh vang dội khắp giang hồ, tiểu muội hằng khâm phục hôm nay được thấy tận mắt, quả thật như lời đồn. Nhưng bây giờ tiểu muội có việc riêng, xin cáo biệt.
Sự thật Lý Mạc Thu sợ Quách Tỉnh ở gần đây ra tiếp sức thì không thoát khỏi tai nạn, nên hắn nói xong, bèn xoay mình đi nhanh.
Hoàng Dung tung mình nhảy theo, thân còn ở trên không, mà tay đã rút cây gậy tre, xử quyết chữ “vấn” điểm tới sau lưng Lý Mạc Thu. Lý Mạc Thu vội vung phất trần ra sau gạt ngang chiếc gậy trả lại một đòn. Côn pháp của Hoàng Dung mau lẹ tuyệt luân. Đánh nhau đến sáu hiệp, Lý Mạc Thu phải thủ thế rồi. Sức lực của Mạc Thu không bằng Hoàng Dung, vả lại trong tay ẵm một đứa trẻ, nên càng thất thế hơn. Hoàng Dung xoay động thân mình lướt qua, lướt lại lanh như chớp, múa gậy trúc không tài nào thấy được. Chỉ trong nháy mắt, Lý Mạc Thu đã lâm vào thế bại rõ rệt. Đang lúc yếu thế, Lý Mạc Thu thấy cây gậy trúc của đối phương cố tình tránh xa đứa bé, biết có thể đỡ thân, thầm nghĩ:
– Lúc đang đấu mình ẵm đưa bé này rất có lợi cho tánh mạng.
Lý Mạc Thu cười nhạt nói:
– Quách phu nhân muốn khảo sát công lực của tiểu muội, thì núi cao sông dài, ngày gặp nhau còn nhiều, cần gì phải đấu nhau bây giờ? Nếu lỡ
tay đả thương đến đứa bé đáng yêu nầy thì sao?
Hoàng Dung thấy đối phương có ý nhờ con bà yểm hộ, thầm nghĩ: “Không lẽ thật hắn không biết con bé này là con gái mình hay là hắn xảo trá? Mình phải thử hắn coi”.
– Cũng vì đứa bé này, tôi đã nhường Lý đạo cô mười mấy thế rồi đấy. Nếu đạo cô không để đứa bé xuống, thì tôi không đảm bảo sự an toàn của nó nữa!
Vừa dứt lời liền đưa gậy điểm vào chân của đối phương. Lý Mạc Thu vội đưa phất trần ra đỡ. Gậy tre của Hoàng Dung không hề chạm vào phất trần, mà đã vụt lên ngực trái của Lý Mạc Thu. Thế này vừa lẹ vừa mạnh, đà côn lại nhằm thẳng vào thân của đứa bé mà điểm tới. Nếu đòn ấy mà đánh trúng, chẳng những Lý Mạc Thu phải bị trọng thương và Quách Tường ắt cũng mất mạng. Cây gậy nầy Hoàng Dung điều khiển lẹ làng theo ý muốn. Đầu gậy đã tới sát mình bé Quách Tường. Thấy đòn này rất nguy hiểm, nhưng Hoàng Dung ra tay nặng nhẹ, gần xa, không chút sai chạy Lý Mạc Thu đâu hiểu nổi, chỉ thấy thế quá nguy, vội tránh sang bên hữu thì nghe “soạt” một tiếng là xương trái của hắn đã bị đầu gậy quạt trúng một cái, lảo đảo qua một bên, phải bước tréo qua hai bước, mới đứng vững. Lý Mạc Thu lại vung phất trần che thân đứa bé, rồi quát to:
– Quách phu nhân! Thật là uổng với hai tiếng nghĩa hiệp của danh dự bà. Bà quyết ra tay sát hại một đứa trẻ thế này, thử hỏi có đê tiện hay không?
Hoàng Dung thấy Lý Mạc Thu giận dữ, nghĩ thầm:
– Hắn cố sức để bảo vệ cho con mình, thì hay lắm!
Hoàng Dung mỉm cười giả cách nói:
– Đứa bé này không phải giống tốt, vậy để nó sống làm gì?
Vừa dứt lời đã tung mình nhảy tới, múa gậy tấn công liên tiếp. Quách Tường lại lâm vào cảnh nguy. Hoàng Dung lòng đau như cắt, thầm nhủ:
– Con yêu dấu chớ sợ! Mẹ muốn cứu con nên phải ra tay thế này!
Trong lòng tuy thương xót, nhưng bên ngoài dùng thế đánh quá ác độc. Nếu Lý Mạc Thu không cố sức kháng cự, xem ra đòn nào cũng đánh vào bé Quách Tường. Lý Mạc Thu tâm thần không yên đưa phất trần đỡ gạt, miệng quát hỏi:
– Quách phu nhân! Bà muốn gì?
Hoàng Dung cười nhạt nói:
– Kể về nữ anh kiệt trên giang hồ, đời trước chỉ có Ngọc nữ thần kiếm Lâm triều Anh, sau đó là Mai siêu Phong và Tôn bất Nhị. Còn trong đời nay hiện có Lý đạo cô và tôi mà thôi. Hôm nay chúng ta có dịp gặp nhau sao không so tài coi ai cao thấp?
Mấy đòn hiểm độc của Hoàng Dung cứ nhằm đánh thẳng vào đứa trẻ, làm cho Lý Mạc Thu tức giận quá. Bây giờ nghe bà ta nói thế, Lý Mạc Thu thầm nghĩ:
– Chồng bà có tới thì thì ta hơi sợ một chút, chứ bà cũng là một phụ nữ quần thao không lẽ ta lại sợ hay sao?
Nghĩ thế, nàng “hừ” một tiếng nói:
– Quách phu nhân đã có ý chỉ dạy, thì thật là hân hạnh cho tôi.
Hoàng Dung điềm nhiên nói:
– Lý đạo cô tay bồng con, dù cho ai thắng cũng không công bình, vậy hãy ném nó sang một bên, rồi ta hãy cùng nhau so tài.
Lý Mạc Thu cũng thấy tay bồng trẻ mà đấu thì khó thắng, còn có thể nguy đến tánh mạng của nó, nên thầm nghĩ:
– Trên giang hồ đều khen vợ chồng Quách Tỉnh nhân nghĩa hơn người. Nhưng mình xem thủ đoạn của bà ta không phải thế. Đã ra tay, thì bà không còn chút dung tình mà còn muốn sát hại đứa bé này nữa mới tàn nhẫn chứ! Được rồi, ta phải cho bà nếm mùi kim độc cho bỏ tính tàn ác!
Nghĩ như thế, bèn đưa mắt nhìn chung quanh, thấy dưới gốc cây to ở phía đông có một đám cỏ xanh, Lý Mạc Thu đem đứa bé tới để yên trên cỏ, rồi xoay mình lại nói:
– Vậy xin mời Quách phu nhân ra tay trước.
Hoàng Dung thầm nghĩ:
– Võ công của hắn không kém mình bao nhiêu. Nếu bây giờ nhảy qua bồng con, hắn nhảy vào đánh thì mình sẽ nguy mà không khéo sẽ thiệt mạng con nữa. Chi bằng mình đánh ngã nó trước rồi đến ẵm con về là tiện nhất.
Lý Mạc Thu xưa nay có tính độc ác, nên tự suy lòng hắn mà đoán cử chỉ kẻ khác. Mạc Thu thấy Hoàng Dung cứ liếc mắt nhìn qua phía đứa trẻ, nên thầm nghĩ:
– Bà ta chắc ý sợ đánh không lại mình, thì sẽ hạ độc thủ giết đứa bé để làm rối tinh thần mình.
Đoán thế, nên Lý Mạc Thu đứng gần Quách Tường không cho đối phương tiến tới được. Cũng trong lúc ấy Hoàng Dung đánh nhiều đòn ác độc mà không dám đánh tận lực sợ nguy hại đến bé Quách Tường. Hoàng Dung nhận thấy thế, thầm tính:
– Xem cử chỉ của nữ ma dầu này, quả thật là quí mến Tường nhi của mình. Nếu để hắn ở gần con mình thì không thể nào đánh bại hắn được.
ý niệm vừa thoáng qua, Hoàng Dung bèn nói:
– Lý đạo cô! võ công của chúng ta không phải tầm thường, nên trong thời gian ngắn khó phân thắng bại. Nhưng trong lúc giao đấu hăng say, nếu có loài cọp beo ra ăn mất đứa trẻ, thì chúng ta làm sao? Vậy chúng ta cho nó nhắm mắt trước, rồi mới yên lòng mà giao đấu.
Vừa nói xong, bèn đưa tay xuống đất, nhặt lên một cục sỏi, để trên hai ngón tay búng phắt ra. Nghe “vù” một tiếng cục sỏi bay thẳng vào mình Quách Tường. Cách búng này là “Đàn chỉ thần công”, môn gia truyền tuyệt kỹ của Hoàng Dung. Lý Mạc Thu đã có dịp thấy Hoàng Dược sư dùng qua, nên biết sức mạnh nó phi thường, vội dùng phất trần gạt mạnh, rồi quát hỏi:
– Đứa nhỏ này có làm gì tới bà đâu? Sao bà cứ nằng nặc giết hại nó?
Hoàng Dung thầm cười vì sự thật là hòn sỏi này lúc búng ra dùng sức mạnh, nhưng Hoàng Dung đã dùng hồi lực trên hai đầu ngón tay, dù cho Lý Mạc Thu không kịp ra tay, đón lại thì hòn sỏi ấy đến bên Quách Tường sẽ lập tức bay hồi trở lại, tuyệt đối không thể hại đến tính mạng của đứa bé.
Hoàng Dung cười mỉa mai nói:
– Lý đạo cô mãi lo cho đứa bé này, thì người ngoài cứ… cứ tưởng… là… Hà hà…
Lý Mạc Thu căm giận nói:
– Không lẽ cứ tưởng là con…
Khi nói đến tiếng “con”, bỗng nhiên nàng nín bặt, đôi má nóng bừng lên, bèn hỏi:
– Cứ tưởng là gì
Hoàng Dung cười nhạt nói:
– Đạo cô là một người tu hành, lẽ tất nhiên không có con nên người ngoài cứ tưởng là em gái của Lý Đạo cô.
Lý Mạc Thu “hừ” một tiếng, rồi cũng không chấp nhứt gì được. Nhưng nàng đâu có biết Hoàng Dung rất điêu ngoa, không bao giờ chịu thiệt thòi trên đầu môi chót lưỡi nên thâm ý bảo Tường nhi là em của Lý Mạc Thu, tức là nói Quách Tỉnh và bà là bực cha mẹ của nàng để trả thù lúc nãy Lý Mạc Thu bảo cha của Quách Tường là Dương Qua. Lý Mạc Thu tức bực giục:
– Quách phu nhân, hãy ra tay tiếp.
Hoàng Dung nói:
– Đạo cô bận lo cho đứa bé, khi ra tay chắc không đủ tinh thần mấy, tôi dù có thắng cũng vô vị, vậy để tôi cắt một mớ gai mây rào nó lại để thú dữ không thể vào được, rồi ta mới có thì giờ so tài cao thấp thực sự.
Nói xong, bèn thò tay vào túi, lấy ra một con dao nhỏ, cắt mấy cây gai mây. Con dao nhỏ này cán bằng vàng, vốn xưa kia Thành Cát Tư Hãn ban cho Quách Tỉnh, có đế hiệu “Kim đao phò mã”. Về sau Quách Tỉnh kết hôn với Hoàng Dung sợ vợ để lòng ghen tuông nên phải tặng lại con dao “Kim đao phò mã” ấy cho nàng, không ngờ lúc này lại có dịp phải dùng đến.
Lúc đầu Lý Mạc Thu phải phòng giữ cẩn thận, vì sợ Hoàng Dung dùng kế hại đứa bé. Nhưng sau thấy đối phương kéo gai đứng cách đứa trẻ và rào ngoài những thân cây xung quanh bãi cỏ chỗ Quách Tường nằm, nàng mới yên lòng. Lý Mạc Thu thấy lối rào của Hoàng Dung tinh thuật, lòng thầm khen.
– Trên giang hồ ai cũng khen bà ta rất túc trí đa mưu, thật nay mình mới thấy tận mắt.
Chỉ thấy Hoàng Dung rào một lớp gai mây, rồi bao phủ thêm một lớp gai táo trùng trùng điệp điệp, rào càng nhiều lòng bà càng sung sướng, nên trên nét mặt tỏ vẻ vui tươi.
Lý Mạc Thu thấy như có một âm mưu gì, trong lòng hơi lo sợ nói:
– Thôi, đủ rồi Quách phu nhân!
Hoàng Dung nói:
– Hay lắm, tôi cũng mệt lắm rồi, nhưng phải gắng làm cho vừa lòng Lý đạo cô, bây giờ đạo cô nói đủ rồi thì thôi!
Hoàng Dung đứng vận lại sức, rồi bình tĩnh hỏi:
– Lý đạo cô, tôi nghe trước kia đạo cô đã gặp cha tôi phải không?
– Đúng vậy, có gặp một lần.
Hoành Dung hỏi tiếp:
– Tôi nghe Dương Qua có kể lại, đạo cô có viết bốn câu thơ để nhạo báng cha tôi. Câu thơ ấy như vầy:
Đào Hoa chúa đảo
Rất đông học trò.
Năm người đánh một.
Thiên hạ cười cho
Lý Mạc Thu lạnh lùng đáp:
– Vì hôm ấy đến năm người vây đánh một mình tôi, lời thơ đó là một sự thật.
Hoàng Dung cười nhạt bảo:
– Được rồi, thì hôm nay một đánh một, để xem ai bị thiên hạ cười cho nhé!
Lý Mạc Thu nổi giận, quát lớn:
– Bà chớ ỷ tài mà kiêu căng, võ công của Đào Hoa đảo tôi đã thấy chán rồi, cũng chưa có gì đặc sắc lắm mà!
Hoàng Dung điềm nhiên nói:
– Khỏi nói tới võ công của Đào Hoa, dù không phải võ công đi nữa, người đối phó cũng chưa lại. Nếu còn bản lĩnh, xin đạo cô vào bồng đứa bé ra xem thế nào?
Lý Mạc Thu kinh hãi thầm nghĩ:
– Không lẽ bà ta đã hại mạng nó sao?
Nghĩ đến đó, nàng vội tung mình vượt qua một lớp gai táo, rẽ sang góc bên tả, thấy bị mất lối, bèn quẹo qua bên hữu, nghe có trẻ khóc oa oa, hơi yên lòng, nhưng vừa rẽ vào trong được mấy bước, không biết thế nào lại đi ra vòng ngoài. Lý Mạc Thu lấy làm lạ, cố bình tĩnh suy đoán:
– Đúng là mình đi vào vòng trong, tại sao bỗng nhiên lại đứng vòng ngoài thế này?
Nàng đang bối rối, vội điểm đôi chân một cái, nhảy vọt vào trong vòng, chỉ thấy gai góc chất nhiều đống lớn thành năm cửa tám lối, nằm ngổn ngang. Lý Mạc Thu vừa lọt vào lối giữa, đã trở qua cửa phía Đông, nghe “tẹt” một tiếng, chéc áo phía trái của nàng bị rách một lỗ. Lúc này Lý Mạc Thu bị kẹt vào nhiều vòng gai, không còn lối bước, nên đưa mắt nhìn tứ phía, chợt thấy Hoàng Dung đã đứng trong ấy, khom lưng bồng đứa bé. Lý Mạc Thu kinh hãi lớn tiếng quát:
– Hãy để yên nó xuống.
Rồi nàng vội tung mình nhảy lên, vượt qua gai góc, tiến thẳng về phía Hoàng Dung, nhưng chu vi của hai lớp gai rào không đầy sáu trượng, chỉ nhìn thấy mà xông đến không được. Nàng tung hoành chạy, nhảy, cứ tưởng bên tả thì sự thực là bên hữu, tưởng ở đằng trước mà thật ra là phía sau, rồi quẹo qua quẹo lại, rốt cuộc cũng trở ra ngoài vòng.
Lý Mạc Thu đã có kinh nghiệm qua nhiều trận đấu nhưng chưa gặp sự lạ lùng như thế này, bèn định thần nghĩ:
– Không lẽ bà ta có phép tà thuật? Như thế này biết phá cách nào bây giờ?
Đang suy nghĩ, lại thấy Hoàng Dung để đứa trẻ nằm xuống đấy rồi bước trở ra quẹo bên Đông, rẽ sang Tây. Trong nháy mắt bà đã vượt ra khỏi hai vòng rào gai.
Lý Mạc Thu đột nhiên nhớ lại:
– Đêm nọ mình có đấu với bọn Dương Qua, Trình Anh và Lục vô Song. Họ chỉ đắp những mô đất ngoài lều tranh mà mình không thể tiến vào được, bây giờ Hoàng Dung dùng gai rào như vậy, chắc cũng theo lối “Cửu cung bát quái” của Đào Hoa đảo đây. Nàng đứng trầm ngâm hồi tưởng lại và quyết định. Chỉ còn cách mình phải đánh ngã địch thủ trước rồi sẽ tìm cách phá rào sau. Chứ bây giờ nếu xông liều vào thì địch sẽ chiếm ưu thế tấn công, mình thua phần chắc.
Định ý xong, Lý Mạc Thu liền xách phất trần lướt ra xa ba trượng để đợi địch thủ, tựa như không còn bận tâm đến việc tiến vào vòng gai nữa.
Hoàng Dung ban đầu thấy đối phương bối rối trong trùng gai, lòng mừng khấp khởi nhưng sau đó lại thấy Lý Mạc Thu nhảy lui trở ra bà ta thầm khâm phục lo nghĩ:
– Thôi bây giờ mình đã lo cho Tường nhi nằm êm ái là tốt rồi, phải hạ thủ hắn cho xong để cấp tốc bồng con về!
Thầm tính xong, Hoàng Dung nhẹ nhàng lướt rào xông thẳng đến chỗ Lý Mạc Thu. Vừa đến nơi bà đã vung gậy tre lên, đánh thuật “Để chó cúi đầu”, ép thẳng sau ót đối phương. Lý Mạc Thu vội tung phất trần quyện tréo lên đầu gậy, chỉ nghe “soạt” một tiếng dây tơ của phất trần đánh trở vào mặt Hoàng Dung. Hai người đều đánh đỡ lẹ như chớp. Cả hai đều dùng những thuật sở trường của mình, chỉ trong khoảnh khắc họ đã đấu hơn mười mấy hiệp. Lý Mạc Thu tuổi tác đã lớn nên công lực đã uyên thâm. Nhưng đối với côn pháp đánh chó của Hoàng Dung lại tinh xảo vô cùng cứ một thế tầm thường Hoàng Dung đánh tới, thì phương hướng và vị trí của Mạc Thu bị lệch ra. Lý Mạc Thu tự biết nếu tiếp tục đấu chừng mười hiệp nữa thì chắc đối phương sẽ toàn thắng. Lý Mạc Thu cố sức đánh thêm hơn ba hiệp nữa, thì trên trán mồ hôi rơi lã chã, phất trần bị rũ xuống mấy lần, công lực bị giảm nhiều. Nàng vội nhảy lui hơn ba bước nói:
– Côn pháp của Quách Phu nhân tinh diệu vô cùng, tiểu muội xin phục tài đó. Nhưng có một điều tôi lấy làm thắc mắc, xin phu nhân chỉ dạy cho.
Hoàng Dung khiêm tốn nói:
– Lý đạo cô khen quá lời, tôi nào dám?
Lý Mạc Thu nói:
– Vì côn pháp này là tuyệt kỹ của “Cửu chỉ thần cái” mà, chứ võ công của Đào Hoa đảo nếu thật oai vũ thì sao Quách phu nhân lại không sử dụng võ công Đào Hoa đảo phái mà phải mượn chỉ tài của người ngoài?
Hoàng Dung nghe nói thế thầm nghĩ:
– Miệng lưỡi của hắn thật đáng sợ. Hắn dùng sức nhắm không thắng được mình, bây giờ muốn dùng đến trí để cảm hóa chứ!
Nghĩ thế, Hoàng Dung cười nhạt hỏi:
– Lý đạo cô biết pháp này là của Cửu chỉ thần cái, vậy cũng biết tên côn pháp này là gì chứ?
Lý Mạc Thu nhướng đôi mắt nhìn qua, miệng “hừ” một tiếng mà không trả lời. Hoàng Dung cười nhạt nói:
– Côn hiệu “Đánh chó”, thấy chó thì đánh. Nếu đã gặp như thế cần gì phải đổi món khác?
Lý Mạc Thu thấy không thể làm cho đối phương đổi ý được. Nếu cứ đấu khẩu mãi, sẽ bị thêm nhiều lời nhục, vì đối phương quá miệng lưỡi. Nàng giắt phất trần vào lưng, cười nhạt nói:
– Những tên ăn xin trong thiên hạ đều thuộc bài “Hoa sen rơi”, quả nhiên Bang Chủ cũng là người môi miếng, thật đáng khâm phục.
Vừa dứt lời, Lý Mạc Thu đành chiu thua bỏ đi bèn tiến về phía Tây ngồi trên một gốc cây. Hoàng Dung thấy địch thủ đầu hàng ra đi, lòng mừng vô cùng, nhưng thấy hắn chỉ đến gốc cây rồi ngồi tại đấy, không đi nữa, bà lại thầm lo:
– Nếu hắn ngồi đấy, không đi thì chắc có một dụng ý gì ? Chắc hắn còn cố giữ Tường Nhi không nỡ đi, hắn chờ mình bồng bé Quách Tường thì hắn nhào ra giao đấu, thế này mình chịu hết thiệt thòi sao? Nếu mình không đánh ngã hắn thì không thể nào bồng con về nhà bình yên được.
Nghĩ thế, nàng bước sang phía tả ba bước, rẽ hữu bốn bước rồi bước tới trước mặt Lý Mạc Thu. Mấy bước nhảy của nàng xem nhẹ phớt nhưng bên trong chứa thuật Bát quái biến hoá phi thường, dù Lý mạc Thu nhảy sang cương vị nào cũng khó tránh khỏi sự cản trở của bà ta. Nhanh như chớp Hoàng Dung đưa thẳng tay mặt có nắm cây tre điểm thẳng vào khuỷu tay đối phương.
Lý Mạc Thu đưa tay khoá trái, miệng nói lớn:
– à! Sau khi Mai Siêu Phong và Trần Huyền Phong đã chết Hoàng Dược Sư không có người truyền võ công nên Quách phu nhân chỉ biết dùng “Côn pháp đánh chó” của Cái Bang mà thôi.
Lời nói ấy Lý Mạc Thu có ý chế nhạo Hoàng Dung và cả Hoàng dược sư, cha nàng không biết lựa đồ đệ truyền võ công “ngọc tiêu kiếm pháp”.
Sự thật thì Hoàng Dung cũng đã luyện đến mức cao thâm, tại vì trong tay nàng không có kiếm nên phải lấy côn tre dùng thế kiếm. Hoàng Dung nói:
– Cha tôi không biết chọn người đồ đệ cho nên mấy tên đồ đệ không nên thân, đâu có bằng Lý đạo cô với Long cô nương chị em hú hý, đồng khí tương cầu được?
Lý mạc Thu nổi giận bừng bừng, đôi má đỏ lên vội tung mạnh tay phải ra một cái liền bắn xẹt ra mũi “Băng phách ngân châm” đâm thẳng vào bụng Hoàng Dung.
Phải biết Lý Mạc Thu là một tay giết người không nháy mắt, thủ đoạn sâu độc không lường được nhưng lại là một cô gái giữ mình trinh tiết. Nàng cứ cho Tiểu long Nữ là lả lơi trắc nết nên khi nghe Hoàng Dung so sánh nàng giống như Tiểu long Nữ, lòng nổi giận vô cùng thành thử mới ra tay đã dùng tới ám khí hiểm độc nhất, để giết địch thủ trong tức khắc, cho hả giận.
Bây giờ Hoàng Dung đứng gần địch thủ nên không kịp né hai mũi ám khí ác độc, vội vã dùng côn tre quay tít mà gạt ra cả. Nếu Hoàng Dung không nhờ côn pháp đánh chó đã luyện đến mức thượng thừa thì may lắm mới gạt được mũi thứ nhất, chứ đâu có thể tránh được mũi thứ hai? Khi hai mũi kim bạc bay cách thân bà hai tấc thì bà cảm thấy một mùi thuốc xông lên. Hoàng Dung thầm nhớ lại:
– Mấy năm trước đây, chân của đôi chim điêu mình cũng bị loại Băng phách ngân châm này làm trầy, phải chữa trị hơn sáu, bảy tháng trời chất độc mới hết, thế này mình phải cẩn thận chứ trúng phải độc nầy là nguy.
Tay Hoàng Dung chưa ngớt múa động côn tre, thì đã thấy hai mũi tên bay tới nữa. Bà vội bước tréo qua bên tả ba bước, liền nghe có sức gió mạnh phớt qua mang tai rợn người. Hoàng Dung thầm lo:
– Chỗ này cách Tường nhi quá gần, mà các mũi kim này có chất độc lạ thường, nếu rủi phớt qua làn da của Tường nhi là không toàn mạng.
Nghĩ như thế, bà vội cất bước chạy về hướng Đông, chui qua đám rừng. Lý Mạc Thu tưởng đối phương kinh sợ bỏ chạy bèn đuổi theo, cho là Hoàng Dung chỉ có côn pháp đánh chó chứ còn ngoài ra những môn võ công khác không thể bì kịp nàng.
Lý Mạc Thu vừa thấy Hoàng Dung chui ra rừng bèn quát hỏi:
– Thắng bại còn chưa phân, sao lại bỏ chạy đi như vậy Quách phu nhân?
Hoàng Dung quay đầu lại chỉ mỉm cười không nói gì. Lý Mạc Thu hỏi tiếp:
– Khi đỡ ngân châm của tôi, Quách phu nhân cũng phải nhờ đến cây gậy tre ấy sao?
Thấy Lý Mạc Thu đang tiến tới, Hoàng Dung thầm nghĩ:
– Bây giờ nếu mình không cất gậy tre, dù có thắng đối phương cũng không khâm phục mình.
Hoàng Dung nghĩ thế, bèn giắt côn tre vào lưng rồi cười nói:
– Lâu nay hằng nghe Ngũ độc thần chưởng của Lý đạo cô vô song, bây giờ xin cho tôi thưởng thức vài đường coi nào.
Lý Mạc Thu hơi ngạc nhiên:
– Bà ta đã biết sự lợi hại “Ngũ độc thần chưởng” của mình mà lại muốn thử thách, chắc có âm mưu gì đây? Nhưng dù cho chưởng pháp của bà ta có thần diệu đến mức nào, cũng không thể bì kịp thần chưởng của mình được. Nếu bà ta không dùng côn tre thì trong nháy mắt mình hạ thủ liền.
Nghĩ xong, nàng đưa thẳng đôi tay ra nói:
– Tuyệt kỹ của Đào hoa đảo đã nguyện thì xin lãnh giáo “lạc anh chưởng” đây.
Đôi mắt Hoàng Dung trông thoáng qua bèn vung đôi tay đánh ra một chưởng, lẹ như chớp, tay trái đỡ đòn “Ngũ độc thần chưởng”, tay phải đấm thẳng vào vai đối phương. Lý Mạc Thu dùng hai đòn này vốn lẹ làng mạnh mẽ mà tay trái lại ném ra hai mũi ngân châm đâm thẳng vào bụng Hoàng Dung. Đòn độc này là do nàng sau ngày rời sư môn đã tự sáng chế ra, nên lúc giao đấu với mọi người chỉ biết đề phòng độc chưởng chứ không ngờ đứng gần nhau, lại có thể ném ám khí kèm theo độc chưởng được. Do đó nhiều nhà võ học tay trái về gạt cánh tay mặt địch, phá được đòn độc chưởng ác liệt, tay mặt thò vào túi áo, tựa như muốn lấy ám khí để trả đỏn. Nhưng đã chậm mất một giây, chỉ thấy trong tay bà vừa đưa ra là ngân châm đâm tới cách bụng không đầy ba tấc. Đã tới nước nầy, dù có bản lãnh siêu phàm cũng khó tránh khỏi!
Lý Mạc Thu lòng mừng vô kể, vì thấy ngân châm ghim thẳng vào mình đối phương, đến lút mất. Bỗng nghe Hoàng Dung kêu lên “ái” một tiếng, đôi tay ôm bụng, cong lưng xuống. Lý Mạc Thu thừa thắng áp tới thì bị tay trái Hoàng Dung đánh thẳng vào ngực một đòn quá mạnh. Nàng kêu khẽ một tiếng “hay” rồi ngửa người ra sau, đôi tay tống thẳng tới một lượt, đánh trả vào ngực Hoàng Dung. Lúc này nàng thấy rõ đối phương đã trúng phải hai mũi ngân châm, chỉ trong chốc lát là bị chất độc hoành hành khắp châu thân, nên thầm nghĩ:
– Thế này tay bà chỉ còn khẽ động đậy, chứ thân thể chắc đã tê liệt rồi. Bây giờ mình chỉ cần đẩy đối phương ngã sang một bên là trong khoảnh khắc sẽ phát độc mà chết.
Đôi bàn tay Lý Mạc Thu vừa chạm vào vai áo trước ngực đối phương, bỗng nhiên hai lòng bàn tay nổi đau nhói lên như bị vật gì nhọn đâm vào. Nàng kinh hãi vội nhảy lùi lại, đưa hai bàn tay lên xem, thì thấy mỗi lòng bàn tay đều đâm thủng một lỗ nhỏ, chung quanh lỗ ấy có vòng máu bầm đen đúng là bị Băng phách ngân châm của nàng tự đâm trúng, lòng kinh sợ nghĩ thầm:
– Tại sao hai kim độc của mình lại đâm ngược lại mình được?
Nàng chỉ thấy Hoàng Dung từ trong túi móc ra hai qủa bôm giơ cao lên, trên mỗi quả bôm đều có ghim một mũi kim châm. Lý Mạc Thu bây giờ mới thấy thuật đỡ lạ thường của Hoàng Dung.
Khi ám khí của Mạc Thu bắn tới, Hoàng Dung chỉ luồn tay vào bụng để di động hai quả bôm, đón thẳng đường tiến của hai mũi ngân châm. Rồi nhử đối phương đánh vào hai quả bôm, nên trúng phải mũi ngân châm một cách dễ dàng. Lý Mạc Thu cũng là người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng hôm nay gặp phải tay địch thủ ngụy trá như vậy, nên lòng khâm phục vô cùng. Nàng thò tay vào túi lấy thuốc giải độc, nhưng chưa kịp lấy thuốc đã nghe làn gió cuồn
cuộn tới, là đôi tay của Hoàng Dung đã đấm thẳng tới trước mặt rồi. Lý Mạc Thu vội đưa tay trái khóa lên, bỗng thấy năm ngón tay đối phương xòe ra, phất vào huyệt “tiểu hải” bên khuỷu tay mặt nàng. Năm ngón tay quá lẹ làng uyển chuyển, trông đẹp như đóa hoa lan, Mạc Thu thầm kinh sợ tự hỏi:
– Không lẽ đây là bài “Lan Hoa phất nguyệt thủ”. Mình đã nghe bà ta làm chấn động giang hồ?
Tay mặt nàng không kịp lấy thuốc giải độc, vội trở bàn tay chụp lấy bàn tay của đối phương. Tay mặt của Hoàng Dung lẹ làng rút về, còn tay trái cũng dùng ngón phất vào huyệt “khuyết hồn” ở giữa cổ và vai. Lý Mạc Thu thấy đối phương dùng cả “Lạc anh chưởng” lẫn với “Lan hoa phất huyệt thủ” cùng một lúc, các chiêu thế không thể nào trông kịp và mạnh mẽ, lợi hại lạ thường, nét mặt nàng bỗng xám lại, lòng thầm nghĩ:
– Hôm nay mình mới thấy thần kỳ của Đào Hoa đảo, quả thật là không tầm thường. Dù cho tay mình không bị trúng độc, cũng không thể đối địch với bà ta nổi.
Lý Mạc Thu cố tìm cách thoát thân, để kịp thời lấy thuốc giải độc, nhưng Hoàng Dung vẫn tiến sát, không hở một thế nào. Vì còn lo sợ đối phương giở trò thuật gì ác độc khác, nên bà thầm nghĩ:
– Nếu mình không có hai quả bôm trong túi thì có lẽ đã phải bị hai mũi ngân châm lợi hại làm ngất xỉu rồi. Nhưng cũng nhờ hai mũi độc ấy mà mình làm cho hắn mắc mưu. Bây giờ phải áp đảo đừng để hắn rảnh tay giải độc.
Hoàng Dung thấy nét mặt đối phương đã tái mét, tay chân đánh đỡ mỗi lúc một yếu. Bà cho rằng tâm địa của Lý Mạc Thu quá hiểm độc, dù có chết đi nữa cũng phải, nên bà ta ra tay không chút nới tình.
Lý Mạc Thu bị kim độc, cảm thấy hai tay tê liệt rồi dần dần nhức buốt cả cánh tay, bây giờ đôi cánh tay cứng đờ, không thể cử động được nữa, nàng vội kêu lên:
– Hãy khoan?
Kêu chưa dứt lời, nàng đã nhảy tránh qua một bên, luôn miệng nói:
– Quách phu nhân, xưa nay tôi đã từng giết người không nháy mắt, nên tôi đã từng ngang dọc trên thiên hạ cho đến ngày nay. Nhưng hôm nay đấu trí, đấu sức tôi đều thua bà, nếu giờ đây tôi có chết cũng cam chịu mà chi xin Quách phu nhân một việc này, có được không?
Hoàng Dung hỏi:
– Việc gì vậy?
Đôi mắt của Hoàng Dung vẫn nhìn chằm chằm vào đối phương, phòng sợ nàng giả kế đánh bất thần. Đôi tay của Lý Mạc Thu đã cứng đờ, không thể thò tay vào túi lấy thuốc được nên tỏ lời cầu khẩn:
– Xưa nay tôi hằng nghịch với sư muội, nhưng đứa con của nó quá xinh đẹp đáng thương, xin Quách phu nhân nhủ lòng từ bi săn sóc cho đứa bé vô tội ấy, đừng có làm hại nó tội nghiệp!
Hoàng Dung nghe qua những lời thành khẩn ấy trong lòng cảm xúc vô cùng: – Ma đầu này tính ác như núi, nhưng lúc gần chết lại có lòng thương người cũng lạ.
Nghĩ như thế, Hoàng Dung nói thử:
– Cha mẹ đứa bé này không phải hạng tầm thường, nếu để nó phải chịu cực nhọc mà nuôi kẻ thù sao?
Lý Mạc Thu quá đau lòng, cầu khẩn:
– Xin bà nhủ lòng thương, chứ đứa bé ấy chưa biết gì tội lỗi!
Hoàng Dung muốn thử ý đối phương nữa, liền bước tới gần, đưa ngón tay phất huyệt trước rồi thò tay vào túi áo Lý Mạc Thu lấy ra một bình thuốc liền hỏi:
– Cái nầy có phải là thuốc giải độc ngân châm của đạo cô không?
Lý Mạc Thu vội đáp:
– Đúng rồi!
Hoàng Dung nói:
– Trong một ngày tôi không thể giết hai mạng người được. Nếu đạo cô muốn tôi cứu thì để tôi giết đứa bé. Bằng ngược lại đạo cô chịu chết thì tôi sẽ không giết nó.
Lý Mạc Thu chưa bao giờ bị tình cảm bối rối như thế này. Nhưng lúc này nàng không thể nào nói được tiếng giết đứa trẻ nên suy nghĩ:
– Nếu mình chết thì cũng được nhưng đứa bé này sợ không được bà ta thương mến. Bằng mình không chịu chết thì nó bị giết! Không được! Nó phải sống! Nó đáng thương lắm.
Chỉ thấy Hoàng Dung cầm bình thuốc lắc qua lắc lại, như chờ Lý Mạc Thu trả lời. Lý Mạc Thu cắn răng nói:
– Để tôi… tôi!…
Hắn suy nghĩ lâu như vậy cũng thấy rõ lòng thương của hắn đối với Tường nhi quá nặng rồi. Bây giờ hắn đành chịu chết, đã chứng tỏ lòng thiện cảm, thật đáng cho mình tha mạng. Dù cho hắn có nợ máu đầy mình thì ngày sau ắt có người tìm hắn mà thanh toán, ta không cần giết hắn làm chi.
Nghĩ xong Hoàng Dung cười nói:
– Xin cảm ơn Lý đạo cô đã hết lòng chăm lo cho Tường Nhi của tôi.
Lý Mạc Thu ngạc nhiên hỏi:
– Bà nói cái gì vậy?
Hoàng Dung thuật lại:
– Đứa bé gái này họ Quách tên Tường là con gái của tôi và Quách Tỉnh, vừa sinh ra không bao lâu thì lọt vào tay Long cô nương. Không hiểu thế nào Lý đạo cô có sự hiểu lầm này! Như vậy nhờ đạo cô dưỡng nuôi nhiều ngày, tôi xin đội ơn khôn cùng.
Nói xong, bà nép mình thi lễ, rồi đưa cho Lý Mạc Thu một viên thuốc giải độc, và hỏi:
– Một viên đủ giải độc cho đạo cô chưa?
Lý Mạc Thu bần thần nói:
– Tôi trúng độc nhiều, phải cần đến ba viên.
Hoàng Dung bèn trao thêm cho Lý Mạc Thu hai viên nữa, nhưng lòng thầm nghĩ:
– Thuốc còn trong bình này mình cất để phòng mai sau cần đến, không nên trả cho hắn.
Hoàng Dung định ý xong nói:
– Chừng ba tiếng đồng hồ nữa, các huyệt đạo của Lý đạo cô sẽ tự mở, không có gì đáng lo.
Hoàng Dung liền trở bước đi vào rừng, nghĩ thầm:
– Mình đi lâu thế nầy, không biết Phù nhi đã đi chưa? Nếu nó còn ở đó đợi mình thì chị em nó gặp nhau vui biết mấy!
Bà bước qua vòng rào dây gai, định bế Quách Tường. Nhưng vừa thoáng qua, toàn thân bà như rơi vào bể tuyết. Vì thấy vòng rào không có chút dời đổi, mà bóng Quách Tường đã mất! Ngực bà hồi hộp, đôi mắt hoa lên. Thật một người túc kế đa mưu như Hoàng Dung, lúc này cũng phải bối rối chịu trận. Một hồi lâu bà mới định thần được, cố suy nghĩ:
– Mình cùng Lý Mạc Thu ra ngoài kia giao đấu cũng chưa bao lâu, Tường nhi bị ai ẵm mất, chắc đi cũng chưa bao xa.
Hoàng Dung vội leo lên một ngọn cây cao nhất, đảo mắt nhìn tứ phía. Địa thế chung quanh thành Tương Dương thật bằng phẳng, có thể nhìn xa hơn mười trượng nhưng không có một sự gì khả nghi cả. Lúc này đại binh Mông Cổ triệt thoái, mà trên đường không một bóng người qua lại nếu có gì di động, dù cách xa cũng trông thấy.
Hoàng Dung nghĩ lại:
– Chắc người này chưa có thể đi xa được, mình phải tìm ở gần đây.
Bà liền rảo bước đi xung quanh rào nhưng không tìm được một dấu di động, biết không thể có một thú dữ nào vào bắt Quách Tường được. Lòng trầm tĩnh suy nghĩ:
– Rào dây gai này mình dùng phép “Cửu cung bát quái” trên đời này ngoài đệ tử của Đào Hoa đảo, thì không ai hiểu được. Dù cho hùng tài trí như Kim Luân Pháp Vương cũng không vào được. Nhưng đệ tử Đào Hoa đảo đâu còn ai? Hay cha mình đã tới đây? Không thể có được? à! phải rồi, mấy tháng trước đây mình đánh với Kim Luân Pháp Vương. Lúc nguy cấp mình đã dùng mô thạch bố trận để chống lại. Khi Dương Qua tới cứu, mình đã kể sơ lược của trận pháp cho hắn nghe. Nhưng nó là một người thông minh tuyệt đỉnh, nên có thể am hiểu môn này được.
Khi nghĩ đến Dương Qua bà quyết đoán:
– Phù nhi chặt mất một cánh tay của nó, là lúc này đã kết thành một mối thâm thù với nó. Như thế này Tường nhi lọt về tay hắn, thì tánh mạng của con mình thật là đau khổ.
Bà nghĩ đến đứa con gái mới ra đời chưa được mấy ngày mà vận mệnh đã trớ trêu như thế bất giác rơi lệ. Nhưng Hoàng Dung đã trải qua nhiều cuộc biến cố, tài trí tuyệt luân, đâu có phải hạng gái bi quan tầm thường nên chỉ trầm ngâm một hồi liền lau khô nước mắt để truy tầm lối đi của Dương Qua. Nhưng tìm mãi không hề thấy một dấu chân nào của người vào ẵm Quách Tường, Hoàng Dung lấy làm lạ:
– Dù khinh công của nó có luyện đến mức tuyệt đỉnh thì trên mặt đất xốp này cũng có một vài dấu chân lờ mờ chứ. Không lẽ nó lại bay trên không mà xuống?
Hoàng Dung ước đoán như vậy quả nhiên không sai. Quách Tường thật đã bị Dương Qua ẵm mất, mà lối đi vào rào gai cũng là từ trên gai bay xuống.
Thần điêu đại hiệp – Hồi 070
Còn Một Tay Trái Đại Chiến Quần Hùng
Đêm vừa rồi Dương Qua ở ngoài cửa sổ thấy Hoàng Dung điểm huyệt Quách Tỉnh, giải thoát cho Quách Phù tẩu thoát. Dương Qua lần bước trở ra ngoài thành, lần theo hai mẹ con Hoàng Dung. Vì lúc này Hoàng Dung đang tiến bước cho con gái về Đào Hoa Đảo nên lòng quá bùi ngùi, không lưu ý tới sau lưng họ có người theo dõi. Đến lúc Hoàng Dung giao đấu với Lý Mạc Thu ở trong rừng thì Dương Qua tới núp ở một bên xem tường tận. Đợi đến lúc hai người đi cách xa chỗ Quách Tường nằm, Dương Qua đã có một kế. Chỉ thấy chàng tung mình lên ngọn cây, tết ba sợi mây dài, buộc một đầu trên cây, đầu kia thòng xuống chỗ bé Quách Tường. Vì Dương Qua sợ hai người giao đấu không bao lâu trở vào thì bại lộ là khó lòng cho việc mạo hiểm.
Trong chốc lát Dương Qua đã thòng mình xuống đất. Đôi chân chàng kẹp lấy mình của Quách Tường, tay trái dùng sức kéo một cái, thân hình vút lên cành cây. Dương Qua nhìn ra mé rừng thấy Hoàng Dung và Lý Mạc Thu đang đòn qua ngón lại rất kịch liệt, lòng thầm mừng:
– Họ còn bận đánh nhau như thế là mình đủ thời gian bồng đứa bé này đi xa rồi. Rồi đây họ sẽ trở lại mà tìm kiếm đứa bé mới hồi hộp cho.
Dương Qua nghĩ xong, liền mở sợi dây cuộn tròn ném vào một bụi rậm, rồi từ trên cành cây tung mình nhảy ra rừng, xuống đất chạy như gió hút, tiến về phía thị trấn. Bây giờ khinh công của Dương Qua trên đời khó có ai bì kịp. Chỉ trong nháy mắt chàng đã thấy Quách Phù đứng bên đường tay dắt con tiểu hồng mã đang ngơ ngác nhìn quanh như trông ngóng chờ một việc gì. Dương Qua tung mình một cái từ ngoài xa hơn hai trượng, nhảy vọt lên lưng con tiểu hồng mã. Quách Phù giật mình nhìn lại thấy người đoạt ngựa lại là Dương Qua, bất giác kêu lên:
– Trời ơi!
Nhưng chỉ thấy Dương Qua cười nhạt, nàng kinh hãi vội đưa tay rút phăng thanh kiếm trên lưng ra. Thanh tử vi kiếm bị Quách Tỉnh giữ lại nên thanh kiếm trên tay nàng chỉ là loại kiếm thường. Bây giờ Dương Qua muốn trả thù Quách Phù dễ như trở bàn tay. Nhưng thấy mặt nàng không còn một chút máu, chàng chỉ “hừ” một tiếng rồi phất chiếc tay áo bên mặt ra, quần vào thanh kiếm Quách Phù, tay trái ra cương ngựa. Tiểu hồng mã cất vó dấn thân vào gió bụi. Quách Phù ngã quỵ xuống, hồn vía bay mất hết. Một hồi lâu tỉnh lại nàng thấy thanh kiếm cong như một chiếc vòng sắt lóng lánh. Lối đánh này của Dương Qua chỉ có ý thị oai cho Quách Phù thấy tuy tay mặt chàng đã mất nhưng một tay áo không cũng đủ làm cho nàng thảm bại rồi.
Dương Qua bồng Quách Tường cho ngựa lướt gió băng đường về hướng Bắc. Con tiểu hồng mã này chạy một ngày hơn một ngàn dặm nên chỉ trong khoảnh khắc đã đưa chàng qua khỏi thành Tương Dương do đó Hoàng Dung có leo lên cây cao nhìn cũng không tài nào còn thấy được nữa. Lúc này lòng Dương Qua như nổi cơn sóng gió, vì đã bao nhiêu lần toan chặt tay Quách Phù để báo thù nhưng lâm vào thực tế như chạy lùi về phía sau, chàng cúi đầu nhìn con bé trong lòng, thấy nó đang ngon giấc chàng thầm nghĩ:
– Mình không trao trả đứa bé đáng thương này cho nhà họ Quách, cũng như mình trả mối thù mất một cánh tay rồi! Gia đình họ còn phải đau khổ chán chường gấp bội phần mình nữa.
Dương Qua học văn luyện võ đều thông minh hơn người nhưng tâm trí thường chế ngự không nổi tánh quá khích, nên ý nghĩ luôn luôn thay đổi. Khi nãy chàng căm thù vợ chồng Quách Tỉnh đã định giết đến mấy lần. Nhưng lúc chàng tới trả thù thì thấy họ lâm nguy, lại xả thân để cứu. Đến lúc nàng Quách Phù đã ra tay làm cho chàng tàn tật như vậy chàng quyết tới trả thù nhưng thấy nàng quá sợ sệt chàng liền đổi ý không nỡ giết. Chưa được nửa ngày trời Dương Qua đã cách xa Tương Dương hơn trăm dặm. Chợt thấy một thôn trang, chàng dừng lại, vào làng xin ít sữa bò cho đứa bé bú. Bây giờ chàng có con ngựa hay liền quyết định trở về Cổ Mộ tìm Tiểu Long Nữ. Con tiểu hồng mã cất vó lướt đi như tên, chưa đầy hai ngày đã đưa Dương Qua tới chân núi Chung Nam. Lòng chàng hồi tưởng việc xưa, nghe cảm khoái vô cùng liền giục lên núi, tới trước Cổ Mộ. Bia đá vẫn đứng sừng sững, không khác gì năm xưa, nhưng cửa Cổ Mộ thì đóng lại vì lý Lý Mạc Thu tới tấn công. Bây giờ nếu muốn vào trong, chỉ còn cách chui qua Thủy Khê, xuống cùng dưới đất, theo đường bí mật vào. Nhưng nội công của Dương Qua đã tinh vi vượt qua cảnh này đâu có khó mấy, chỉ có Quách Tường yếu sức quá khi chui vào các khe nước, chắc không toàn mạng.
Dương Qua đứng trước Cổ Mộ lòng đinh ninh Tiểu Long Nữ ở trong mộ. Chàng không dần dà gì nữa, đưa tay vào túi lấy sữa bò cho đứa bé uống, rồi đặt bé Quách Tường nằm yên trong sơn động bên Cổ Mộ. Đoạn chàng cắt một mớ gai rào ngoài cửa động thật cẩn thận, rồi nhỏ nhẹ nói:
– Em bé nằm yên đây, để anh đi vào tìm cô Tiểu Long Nữ, có gặp hay không anh cũng trở ra bồng em theo.
Công việc lo lắng, chàng vòng qua Cổ Mộ đi ra phía sau, chỉ đi được mười mấy bước, một cơn gió thoảng qua, từ xa vọng lại những tiếng rang rảng của binh khí chạm nhau. Dương Qua nhìn về hướng ấy, thì chính là cửa động Trùng dương Cung. Chàng đứng chăm chú nhìn, bỗng nghe “vù vù” một tiếng, thấy chiếc ngân luân bay bổng lên không, biết rõ là binh khí của Kim Luân Pháp Vương. Gợi tánh tò mò Dương Qua liền giở khinh công hướng theo tiếng vo vo chạy tới. Trong nháy mắt chàng đã đến trước Ngọc Hư động ở sau Trùng dương Cung. Cũng đúng lúc Dương Qua chạy gần tới trận chiến, thì cơ thể của Tiểu Long Nữ đang bị hại “Bách xuyên hội hải” phái Toàn Chân và đòn đánh dồn của bọn Kim Luân Pháp Vương. Trước một thân hình liễu yếu như Tiểu Long Nữ, mà phải chiến đấu hơn ba trận ác liệt liên tiếp, với hàng trăm đạo sĩ của năm sáu cao thủ. Rồi đến bây giờ chín tay cao thủ, của hai phái võ lừng danh hợp lại đánh hai đòn ác độc vào nàng thì còn gì tính mạng! Nếu Dương Qua tới sớm một tý là có thể cứu được cái nguy này. Nhưng thiên di bất trắc, thế sự éo le, nên mọi việc đâu có thể được như ý muốn của con người? Mọi sự bi quan, ly tán, họa phước, vinh nhục ở dời, cũng chỉ vì một tý sai lạc, chậm trễ gây nên.
Tiểu long Nữ nghe đến chuyện Quách Phù chặt tay chàng, cơn ghen tức thù hận nổi lên làm nàng nghẹn thở, quên mất nàng đang bị trọng thương, mạng sống trong hấp hối. Máu nóng đang sôi lên, Dương Qua nói:
Cô! sau khi tôi mất một cánh tay chắc cô phải thương yêu tôi hơn xưa vì cánh tay này mà cô hết nghi ngờ tôi yêu Quách Phù chứ?
Tất cả tình thương yêu trìu mến đều bộc lộ ra trong đôi mắt ngấn lệ của Tiểu Long Nữ. Với nụ cười bẽn lẽn không trả lời nàng đã chứng tỏ lòng cầu mong trước khi nàng nhắm mắt được thấy Dương Qua một lần cuối. Bây giờ đã toại nguyện nên nàng không mong muốn gì hơn nữa. Lúc này chỉ thấy bốn mắt hai người nhìn nhau, đôi tim hoà nhịp. Tuy cường địch đang chực chờ xung quanh nhưng Dương Qua và Tiểu Long Nữ đều không hề lưu ý tới.
Toàn Chân ngũ tử thấy Dương Qua bỗng nhiên xuất hiện biết việc này thêm phần nan giải. Khưu Xứ Cơ quá gai mắt liền lớn tiếng:
– Trùng Dương cung là nơi tĩnh tu của chúng tôi, hôm nay các vị tới đây nhiễu loạn để làm gì?
Vương Xứ Nhất cũng quá giận dữ liền nói tiếp:
– Long cô nương! Cổ mộ phái cùng Toàn Chân giáo có xích mích nhau thì đôi bên tự giải quyết được rồi sao cô lại rủ bao nhiêu người Hồ cùng lũ tà ma ngoại đạo tới đây giết hại bao nhiêu đồ đệ của chúng tôi?
Tiểu Long Nữ lúc này đâu màng nghe những lời quở trách nhưng dù có nghe nàng cũng không còn sức để đôi co với họ nữa.
Bọn đệ tử Toàn Chân thấy Tiểu Long Nữ cố ý hạ sát Doãn Chí Bình nên xem nàng như thù địch nhưng lúc hỗn loạn này ai đâu có biết được sự thực mỉa mai cay đắng giữa nàng và Doãn Chí Bình.
Dương Qua vẫn điềm nhiên nhỏ nhẹ hỏi nàng:
– Cô! mình trở về Cổ mộ nhé! Mặc cho họ muốn nói gì kệ họ.
Tiểu long Nữ khe khẽ hỏi:
– Cánh tay anh còn đau không?
Dương Qua mỉm cười nói:
– Đã lành hẳn rồi!
Tiểu Long Nữ lại hỏi:
– Chất độc tình hoa trên mình anh còn tái phát nữa không?
Dương Qua hơi lo sợ đáp:
– Thỉnh thoảng cũng tái phát vài lần nhưng không đau đớn mấy.
Triệu Chí Kính lúc bị Tiểu Long Nữ đâm trọng thương mãi núp phía sau động nhưng chưa dám ló mặt ra. Vì tiếp đó hắn thấy năm vị đạo trưởng Toàn Chân đã khai quan nên thầm lo:
– Nếu mình ra mặt các vị đạo trưởng xét hỏi thì chức trưởng giáo sẽ mất mà thân còn phải chịu nghiêm hình. Nhưng thế cuộc đã đến nước này mình không thể để yên được chỉ còn cách gây thêm xáo trộn thị phi để năm vị đạo trưởng khó phân phải trái thì mình có dịp thủ thắng. Nếu có thể mình mượn tay bọn Kim Luân Pháp Vương trừ luôn Toàn Chân ngũ tử cũng được. Chỉ cực nhọc một lần mà mình sung sướng suốt đời. Hay hơn nữa thằng Dương Qua bây giờ chỉ còn một cánh tay, mà nó còn lo cho Tiểu long Nữ, thế này lúc khốn đốn lắm là mình gặp dịp may rồi.
Triệu Chí Kính thầm tính xong, vội bước tới mặt Dương Qua lớn tiếng:
– Tên phản nghịch Dương Qua! Hai vị tổ sư đang hỏi mi, sao không quỳ xuống tạ lỗi, mà còn ngạo mạn như vậy?
Dương Qua nhìn lại, ánh mắt của hắn chứa đầy vẻ căm giận, lòng thầm nghĩ:
– Lũ đạo sĩ bây đã đánh cô ta trọng thương, hôm nay tạm gác lại, có dịp khác sẽ tính sau.
Chàng không thèm trả lời, chỉ đỡ Tiểu long Nữ đứng dậy, cất bước đi. Triệu Chí Kính nhìn Trịnh Quan, hô lớn:
– áp vô! Đừng để nó thoát!
Triệu Chí Kính và Trịnh Quan cùng nhau tung kiếm ra một lượt đâm thẳng vào vai mặt Dương Qua. Triệu Chí Kính là một cao thủ có hạng trong hàng đệ tử đời thứ ba của Toàn Chân giáo. Thân thể hắn tuy bị ba nhát kiếm của Tiểu long Nữ đâm nhưng thương thế không đau mấy. Lúc này Triệu Chí Kính thấy Dương Qua không thể đánh đòn trả được, hắn có ý hạ thủ Dương Qua trong tức khắc, nên đánh đòn ác độc vô cùng. Đòn này chính là kiếm pháp của Vương trùng Dương, người đã được tôn là võ công đệ nhất trong thiên hạ khi xưa truyền lại. Khưu xứ Cơ tuy giận Dương Qua về tánh kiêu căng, nhưng nhớ lại năm xưa Quách Tỉnh đã có lời ký thác. Hơn nữa Dương Khang là đệ tử của lão, nên vội quát lớn:
– Triệu Chí Kính, hãy nới tay!
Xa xa có tiếng Mã quang Tổ quát lên:
– Ê! Triệu Chí Kính không hổ ngươi sao? Mi lại đâm cánh tay cụt của người ta?
Vì Mã Quang Tổ đã quen với Dương Qua và Tiểu long Nữ, nên lúc thấy hai người đang lâm nguy mà bọn đồ đệ Toàn Chân muốn ám hại nên gã muốn ra tay cứu, mà khốn nỗi chưa tới kịp.
Bỗng thấy một luồng xám tro thoáng qua, toàn thân mập phệ của Trịnh Quan bay bổng, miệng rú lên một tiếng như heo bị thọc huyết. Nghe ầm một tiếng hắn rớt thẳng xuống trên đầu Ni ma Tinh. Ni ma Tinh không để ý, nên gặp phải thân hình mập phệ ấy giáng xuống làm hỏng cây gậy thay chân nên lăn nhào xuống đất. Vai lão vừa chạm xuống đất, lập tức xoay mình lại, đưa gậy đập vào lưng Trịnh Quan. Trịnh Quan bị tiếp mấy đòn ngất xỉu luôn. Còn Dương Qua chỉ dùng một chân mặt đạp lên thanh kiếm của Triệu Chí Kính, mà Triệu Chí Kính dùng hết sức lực nép thanh kiếm lại nhưng vẫn không chút nhúc nhích được. Biến cố này xảy ra trong chớp nhoáng. Hạng võ công tầm thường không thể biết Dương Qua dùng cách nào đỡ đòn lợi hại của bọn Chí Kính quá dễ dàng như vậy. Chỉ có Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây và Toàn Chân ngũ tử mới thấy được.
Lúc đôi kiếm bọn Chí Kính đâm tới tay áo bên mặt Dương Qua thoáng phất lên một luồng sức mạnh tống ra, cái thân nặng hơn hai trăm cân của Trịnh Quan bị vứt bổng lên còn Triệu chí Kính thấy thế quá nguy, liền xử thế “Thiên cân truỵ” nên liểng xiểng. Cũng vì thế trường kiếm của hắn bị hạ xuống. Dương qua liền đưa chân đạp mạnh trường kiếm ấy dưới đất.
Lúc Dương Qua luyện kiếm giữa thác lũ, sức nước mạnh như thế chưa đẩy chàng ngã thì đủ thấy rõ công lực của đôi chân chàng vững đến mức nào rồi. Bây giờ một chân đạp lên thanh kiếm, thì Triệu Chí Kính dẫu vận hết sức cũng không thể nào kéo nổi!
Dương Qua lạnh lùng nói:
– Triệu đạo trưởng! Ngày xưa lúc gặp Quách đại hiệp ông đã bảo tôi không phải là học trò của ông, sao hôm nay lại nhắc việc ấy nữa? Thôi tôi nể vì ngày xưa đã gọi mấy tiếng sư phụ, nên tha cho ông đi đó!
Chàng vừa nói xong bàn chân không chút cử động nhưng nội công đã thu lại không đè mạnh thanh kiếm nữa. Triệu chí Kính cảm thấy thanh kiếm nhẹ đi vội giật mạnh một cái. Nghe “bịch”, một tiếng, cán kiếm thôi mạnh vào ngực Triệu Chí Kính. Hắn ngã ngửa xuống đất, lồng ngực đau nhói lên, hộc ra mấy bụm máu tươi rồi ngất xỉu. Thương tích này do Triệu Chí Kính quá tức giận mà gây nên. Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền đều tuốt kiếm ra khỏi vỏ, tả hữu tấn công Dương Qua. Bỗng nhiên có một bóng người phía Tây xông vào. Chỉ nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm tung lên không. Người xông vào thình lình chính là Ni ma Tinh đã bị Trịnh Quan đụng té nhào lúc nãy, nên lão giận đánh Trịnh Quan ngất xỉu mà chưa hả dạ. Bây giờ lão tìm ra căn nguyên tại Dương Qua gây nên, liền chống gậy nhảy tới. Lão đánh thẳng thiết xà trượng xuống đầu Dương Qua. Dương Qua phật mạnh tay áo lên, luồng sức mạnh làm thiết xà trượng Ni Ma Tinh tung ngược lại, đụng vào hai thanh kiếm của Vương Xứ Nhất và Lưu Xứ Huyền bay phắt ra. Bây giờ toàn thân Tiểu Long Nữ liểng xiểng dựa vào mình Dương Qua vì nàng bị vết thương công phạt, sức lực yếu hẳn.
Dương Qua thấy võ công Ni ma Tinh hơn hẳn bọn Triệu Chí Kính nên không dám dùng cánh tay áo chống cự với thiết trượng của lão. Dương Qua thu tay áo về, quấn vào bụng của Tiểu Long Nữ, để nàng dựa vào hông. Chàng vội rút phăng thanh “huyền thiết trọng kiếm” đeo bên hông trái, thuận tay vung ra. Nghe phập một tiếng, bàn tay của Ni Ma Tinh bị tét ra, liền thấy một bóng đen bay vút lên không. Lúc cấp bách, Dương Qua vội dùng thử trọng kiếm Độc cô Cầu bại. Chàng không ngờ một tay, dùng trọng kiếm lại có một sức mạnh đánh bay được thiết trượng nặng hơn bốn mươi cân của đối phương, bay cao hơn ba mươi trượng, nên chàng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Ni ma Tinh tê liệt nửa thân người, cánh tay mặt bị chấn động đến mết cả cảm giác. Nhưng cơn giận lão như lửa đốt, lão gầm lên một tiếng, tay trái tung cây gậy sắt cao hơn một trượng, giáng xuống đầu Dương Qua. Dương Qua đưa kiếm lên đỡ, thầm nghĩ:
– Cường lực trên kiếm mình đã thử rồi, vậy lần nầy thử nhu lực xem.
Định ý xong, chàng thúc nhẹ trọng kiếm tới, tức thì gậy sắt dính chặt vào mũi trọng kiếm. Bấy giờ Dương Qua chỉ vận nội lực tung ra, Ni ma Tinh ắt phải ném xa hơn mười trượng, và nếu lọt qua vách núi, lão chắc nát thịt tan xương. Lúc nầy Dương Qua thấy Tiểu Long Nữ bị trọng thương như vậy, lòng chứa đầy oán hận, thấy mọi người trước mắt đều là kẻ thù cả, nên ra tay không chút dung tình. Dương Qua khinh công hạ thủ, nhưng thoáng thấy thân hình Ni ma tinh dính bổng theo gậy sắt, mà không có đôi chân, bất giác nhớ đến cánh tay cụt của chàng, lòng cảm xúc thương người đồng cảnh ngộ, tự nhiên tay không bỗng giật mạnh xuống đất. Cây gậy sắt bị gằn mạnh cắm thắng xuống đất, kéo Ni ma Tinh xuống, bụi bay tung lên. Ni ma Tinh nắm chặt gậy sắt, toan dùng sức nhổ lên, nhưng tay mặt không còn cử động được, cơn đau nhức nhối khắp mình. Dương Qua nói:
– Hôm nay tôi tha mạng cho ông, thì ông còn mặt mũi nào ở lại dất Trung Nguyên này nữa?
Mặt Ni ma Tinh xám ngắt như đám tro tàn, miệng không nói được lời. Tiêu tương Tử, Doãn khắc Tây thấy việc bất ngờ như vậy, đều thấy rõ công lực của Dương Qua đã tiến quá nhiều. Nhưng họ còn cho Dương Qua dù sức lực mạnh cũng chi còn một tay, mà thắng được Ni ma Tinh đã cụt mất hai chân thì cũng chưa có gì kinh sợ. Doãn Khắc Tây bước tới, đưa tay nhổ gậy sắt cho Ni ma Tinh. Ni ma Tinh được dịp vội chộp lấy gậy chống đi nhưng nữa thân mình bị tê liệt, vừa nhảy đi một bước lại ngã quy xuống. Tiêu tương Tử là người có tánh ganh tị chỉ cầu cho kẻ khác bị rủi ro, bất kể bạn hay thù, nên hắn thấy Ni ma Tinh bị thất bại, đã thầm nghĩ:
– Võ công của thằng già Thiên Trúc vốn tương đương với mình, xưa nay không phục ai, bây giờ lão ta phải tiêu đời rồi. Bây giờ trước mặt các cao thủ, mình thắng được Dương Qua trước, thật một cơ hội lập danh oai.
Nghĩ như thế, Tiêu Tương Tử nhảy tới trước mặt Dương Qua, quát lớn:
– Tiểu tử Dương Qua, mi đã bao lần phá hoại đại sự của Vương gia. Hãy mau theo ta để nạp mình!
Dương Qua thầm lo:
– Cô ta bị trọng thương, cần phải chữa trị sớm nhưng khổ nỗi trước mặt cường địch quá nhiều, nếu ta không đánh lui họ hết thì làm sao có thể cứu chữa được? Sợ còn phải thiệt mạng nữa.
Chàng khẽ hỏi Tiểu Long Nữ:
– Cô! cô thấy đau lắm không?
Tiểu Long Nữ cảm động đáp:
– Hơi đau thôi! Không hề gì, anh đừng ngại.
Dương Qua quắc mắt nhìn Tiêu Tương Tử, nói:
– Xin người ra tay trước!
Tiêu Tương Tử ngạo nghễ cười nói:
– Mi chỉ còn một tay, nếu ta dùng hai tay đánh hạ mi, thì thật bất công quá.
Tương Tử đút tay trái vào dây lưng, tay phải múa côn “khốc tăng” nói:
– Ta chỉ cần một tay đánh mi có chết cũng không oán hờn gì nữa nhé!
Lúc này Dương Qua chỉ cần đánh gấp để chấm dứt chiến trận, nên không muốn nói dài dòng nữa. Dương Qua thấy Tiêu tương Tử khinh thường, liền đâm thẳng Huyền thiết kiếm vào bụng Tiêu Tương Tử. Mũi kiếm còn cách xa lão chừng hai thước. Tiêu tương Tử thấy thanh kiếm kịch cỡm, đen thui, như một thanh gỗ mun, nên khinh khỉnh nói:
– Thanh gỗ cháy này mi nhặt ở đâu vậy?