Bạn đang đọc Kiếm Hiệp Kim Dung Full – Chương 11: Thần Điêu Hiệp Lữ ( 3 )
Hồi 31
ĐẠI HỘI CÁI BANG
Ban nhạc cử lên nhiều bài khi hùng tráng, lúc mê ly, khi dồn dập như sấm động, lúc thoảng qua như gió mùa xuân.
Dương Quá đứng nghe tiếng nhạc lòng mê say với giọng sáo tiếng kèn, óc ngẩn ngơ suy nghĩ những chuyện xa vời.
Vừa lúc đó cửa ngoài có bốn vị đạo nhân từ từ bước vào.
Thoạt trông thấy mấy người này, chàng cảm thấy tấm thân xao xuyến nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh.
Người đi đầu mặt đỏ hồng hào, tóc râu trắng phau như tuyết , quả là Quang Minh Tử Hách Đại Thông, một trong bảy vị cao thủ phái Toàn Chân- Toàn Chân thất tử.
Người đi kế theo là một lão đạo cô ,cả tóc mi cũng trắng bạc, xưa nay Dương Quá chưa gặp mặt lần nào nên không rõ danh tánh.
Hai người đi sau rốt không ai xa lạ , chính là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, sánh vai nhau đi thong thả, vừa bước vừa chuyện trò.
Vợ chồng trang chủ từ trong đại sảnh bước ra bái chào làm lễ tham kiến và gọi lão đạo cô là sư phụ.
Kế đến là vợ chồng Quách Tĩnh , con gái là Quách Phù và hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn cũng lần lượt chạy ra kính cẩn lạy chào đón tiếp.
Tuy trong rừng người , kẻ bàn tán ồn ào nhưng Dương Quá vẫn thính tai nghe được những lời đối đáp của đôi bên.
Chàng thấy một ông lão đứng bên mặt chỉ mấy vị và giới thiệu cho một người bạn biết :
– Vị lão đạo cô này là một vị nữ kiếm khách lừng danh của Toàn Chân phái tên là Tôn Bất Nhị đó.
Người kia nói :
– A, té ra là nữ hiệp Tôn Bất Nhị đã lừng danh Nam Bắc. Tôi đã từng nghe tiếng tăm vang dậy nhưng đến nay mới được gặp mặt lần đầu.
Ông lão nói thêm :
– Ngài là sư phụ của Lục phu nhân trang chủ. Còn Lục trang chủ thì không thọ giáo cùng lão đạo cô.
Lục trang chủ là Lục Quán Anh, con của Lục Thừa Phong. Xưa kia Lục Thừa Phong là đệ tử của Hoàng Dược Sư đảo chúa Đảo Đào Hoa, phụ thân của Hoàng bang chủ. Nếu tính theo vai vế thì Lục Thừa Phong và Quách Tĩnh ngang nhau, mà Lục Quán Anh thì dưới một bậc.
Vợ của Lục trang chủ tên là Trình Dao Ca, đệ tử của lão đạo cô Tôn Bất Nhị. Ngày trước hai vợ chồng trang chủ sống chung với cha là Lục Thừa Phong tại Quy Vân trang trên bờ Thái Hồ. Sau đó Âu Dương Phong đến đánh phá, đốt trụi cả Quy Vân trang. Lục trang chủ không đủ sức chống cự phải dời về Kinh Tử Quan là cơ sở ngày nay đây.
Thời còn niên thiếu, Trình Dao Ca gặp nhiều nỗi truân chuyên hoạn nạn , may nhờ có Quách Tĩnh và Hoàng Dung mấy phen cứu thoát, vì vậy cho nên đối với vợ chồng Hoàng Dung nói riêng và Cái Bang nói chung, Lục phu nhân vẫn mang một cái ơn rất lớn.
Lần này nhân dịp toàn thể Cái Bang họp đại hội và toàn thể anh hùng khắp nơi cũng được thiếp mời về dự “Anh hùng yến” nơi đây, tất thảy đều do vợ chồng Lục trang chủ bao hết mọi phí tổn. Số người quá đông, lẽ dĩ nhiên sự chi tiêu phải vô cùng tốn kém, có thể lên đến gần một nửa gia sản của chủ nhân. Tuy nhiên hai vợ chồng Lục Trang chủ là người hào phóng, trọng nghĩa khinh tài, vẫn không nề hà chút nào cả.
Khi ấy Quách Tĩnh mời Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị cùng bước vào đại sảnh để gặp mặt chư vị anh hùng.
Hách Đại Thông đưa tay vuốt chòm râu bạc, cất giọng sang sảng nói :
– Tất cả các huynh Mã , Khưu , Lưu, Vương đều có nhận được thiếp mời của Hoàng bang chủ , ai nấy cũng đã chuẩn bị để lên đường đi dự “Anh hùng yến” . Không ngờ vào giờ chót, Lưu sư huynh bị bệnh nên các vị sư huynh khác buộc lòng phải ở lại để lo săn sóc và tìm thầy thuốc men chạy chữa. Vì vậy nên bốn vị sư huynh có nhờ lão chuyển lời cáo lỗi cùng Hoàng bang chủ và Quách đại hiệp.
Hoàng Dung đáp lại :
– Không dám, xin nhị vị lão tiền bối đừng khách sáo. Được nhị vị niệm tình chiếu cố đến dự hôm nay cũng là một vinh dự cho Cái Bang lắm rồi. Chúng tôi chẳng còn đòi hỏi gì hơn nữa.
Tuy Hoàng Dung còn trẻ tuổi nhưng đã là Bang chủ của một tổ chức quan trọng nhất, nên Hách Đại Thông nể vì trọng vọng lắm.
Còn Quách Tĩnh và Doãn Chí Bình vốn đã quen biết và thân với nhau ngay từ ngày còn niên thiếu, do đó hôm nay gặp lại thì tay bắt mặt mừng chuyện trò vui vẻ lắm.
Lục Quán Anh nhân danh chủ yến, sai gia nhân dọn tiệc và mời chư vi anh hùng cùng vào ngồi dự.
Trong đại sảnh đèn đuốc sáng rực rỡ, bàn ghế la liệt, người đông như kiến, nói nói cười cười vô cùng náo nhiệt.
Tuy đã ngồi vào bàn nhưng Doãn Chí Bình cứ đưa mắt láo liên nhìn khắp chỗ, hình như cố tìm kiếm một kẻ nào đó. Triệu Chí Kính biết ý chàng , cười thầm trong bụng rồi ghé tai nói nhỏ :
– Sư đệ có gặp Long đạo hữu về dự tiệc hay không ?
Doãn Chí Bình thất sắc, chỉ nhìn lại, không nói gì hết.
Quách Tĩnh lắng tai nghe hai người nhắc đến vị đạo hữu họ Long thì cũng ngờ là một vị nào trong môn phái chứ không ngờ Triệu Chí Kính ám chỉ Tiểu Long Nữ.
Ông cũng vui cẻ góp lời :
– chắc nhị vị đang chờ một vị đạo hữu nào họ Long nhưng đến muộn phải không ?
Triệu Chí Kính cười hóm hỉnh và nói kháy :
– Thưa, vị ấy là bạn thân của Doãn sư đệ đấy. Bần đạo đâu dám đèo bòng đến.
Quách Tĩnh thấy thái độ hai người có ve khách sáo thiếu tự tin, đoán có lẽ giữa đôi bên có ẩn tình gì đây, nhưng không tiện hỏi thêm, quay sang nói chuyện với khách.
Chợt Doãn Chí Bình thấy Dương Quá đang ngồi lẫn lộn giữa đám đông thì trong lòng hồi hộp mất tự nhiên, sắc mặt tái đi trông thấy rõ. Chàng nghĩ thầm :
– Dương Quá có mặt thì thế nào Tiểu Long Nữ cũng đến đây và có lẽ sớm muộn gì rồi cũng xuất đầu lộ diện.
Nhìn mặt mày Doãn Chí Bình tái mét, Triệu Chí Kính và Quách Tĩnh cũng đều hết sức ngạc nhiên, vội nhìn ngay về hướng đó thì thấy có Dương Qua. Quách Tĩnh mừng quá lật đật chạy đến nơi nắm tay chàng ôn tồn nói :
– Qua nhi,chẳng hay con đến từ lúc nào. Sở dĩ vì đường sá quá xa xôi nên ta không biên thiếp mời con, ngại con đi vất vả. Con cùng đi với sư phụ sao không vào ngay mà cứ để sự phụ con nhọc công đi tìm kiếm con từ nãy đến giờ ?
Nguyên Quách Tĩnh ở Đào hoa đảo cách phái Toàn Chân quá xa xôi, hơn nữa lúc bấy giờ giao thông liên lạc rất khó khăn nên việc xung đột giữa Dương Quá và Toàn Chân phái ông vẫn chưa hề hay biết. Lần này đi dự Anh hùng yến , Triệu Chí Kính định đưa ra nói lại cho ông nghe nhưng chưa kịp. Chẳng ngờ lại gặp Dương Quá ở đây mà Quách Tĩnh lại ân cần đón hỏi, Triệu Chí Kính sợ rằng Dương Quá đưa ra nói trước. Khi nghe thấy Quách Tĩnh nói thế hắn mới biết Quách Tĩnh cũng chưa nắm rõ được tình hình nên buộc miệng nói :
– Bần đạo đâu có tài năng và diễm phúc được nhận Dương Quá làm đệ tử !
Quách Tĩnh nghe nói lạ lùng quá hỏi lại :
– ủa, tại sao Triệu sư huynh lại nói như vậy. Hay là Qua nhi đã có làm điều chi vô lễ xúc phạm đến sư huynh, hoặc chẳng nghe lời dạy bảo chăng ?
Triệu Chí Kính đưa mắt nhìn lên thấy trên đại sảnh anh hùng hào kiệt qua đông, ngại rằng nếu đưa việc này ra nói thì quả là dài dòng mà còn làm thương tổn đến danh dự của phái Toàn Chân nên phải dằn lòng cười nhạt một tiếng không nói gì hết .
Quách Tĩnh đưa mắt nhìn kỹ Dương Quá thì thấy mặt mũi sưng vù, trên má có bị nhiều vết trầy như bị ai cào, quần áo rách tả tơi, thân hình ốm o tiều tuỵ thì đoán có lẽ chàng đang sống trong một hoàn cảnh bi đát, nên chạnh lòng thương xót, đưa tay ôm choàng vào lòng vỗ nhẹ lên lưng như để an ủi vỗ về .
Dương Quá thấy bị Quách Tĩnh ôm chặt vào mình chưa rõ dụng ý gì nên vội vàng vận dụng nội công chống đỡ .
Quách Tĩnh thật lòng thương xót cháu, chẳng quan tâm đến sắc diện của chàng, ngó Hoàng Dung hỏi :
– Em có nhận ra ai đây không ?
Hoàng Dung đưa mắt nhìn Dương Quá từ trên xuống dưới và hỏi một câu để lấy lòng Quách Tĩnh :
– Hay quá, cháu về đây từ lúc nào đấy ?
Dương Quá không đáp lại, chỉ lấy tay gỡ tay Quách Tĩnh ra khỏi mình và nói nhỏ :
– Thân hình tôi dơ dáy bẩn thỉu lắm, xin lão trượng buông ra để khỏi làm lấm quần áo quý.
Câu nói đơn giản chân thật nhưng bao hàm nhiều nỗi cay chua đau đớn khiến cho Quách Tĩnh chạnh lòng thương xót nghĩ thầm :
– Tội nghiệp cháu tôi, không cha không mẹ, làm sao sung sướng được.
Ông âu yếm nắm tay Dương Quá kéo lại ngồi bên mình.
Dương Quá ghe xuống ghế và nói nhỏ nhẹ :
– Dạ,cháu ngồi đây được rồi. Xin bá bá đừng bận tâm , cứ lo tiếp các quan khách đi.
Quách Tĩnh nhận thấy chàng nói đúng vì nhìn xung quanh chư vị anh hùng đã tề tựu đủ cả. Ông cúi xuống vỗ vào lưng và bóp nhẹ vào vai chàng để tỏ ý thông cảm rồi trở lại ghế cũ rót rượu mời mọi người.
Qua ba tuần rượu, Hoàng Dung đứng dậy nghiêm trang lên tiếng :
– Thưa liệt vị , ngày mai mới là ngày chính thức của Anh hùng yến. Hôm nay còn nhiều vị ở xa chưa về kịp. Vậy kính mời liệt vị cứ ăn uống no say, rồi ngày mai chúng ta uống nữa.
Mọi người nâng chén vui vẻ nói :
– Chúng tôi xin vâng lời, Bang chủ chớ bận tâm.
Tiếp theo đó bọn tráng đinh khiêng các món ăn và đủ thứ đặt lên các bàn , nào thịt heo, thịt dê , bê thui, … mỹ tửu không thiếu thứ gì. Bàn nào cũng la liệt đầy cả các món ăn.
Tiệc xong các vị anh hùng đều được hướng dẫn về phòng riêng nghỉ ngơi.
Khi ấy tại đại sảnh, Triệu Chí Kính lại gần Hách Đại Thông thưa nhỏ vài câu.
Hách Đại Thông nghe xong gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Thưa xong, Triệu Chí Kính chạy lại phía Quách Tĩnh , chắp hai tay lại vái dài một lễ và nói:
– Xin Quách đại hiệp rộng lòng tha thứ cho, bần đạo đã phụ lòng uỷ thác của đại hiệp.
Quách Tĩnh cũng chắp tay đáp lễ rồi nói lại :
– ủa , sao Triệu sư huynh lại nói như vậy. Hay là cháu nó đã có gì thất lễ cùng sư huynh chăng. Vậy xin mời các vị cùng vào trong để tôi gọi cháu nó ra la rầy ít câu dạy hắn ít bớt cái tính ngang ngạnh bướng bỉnh đi.
Quách Tĩnh nói lớn tiếng nên mặc dầu ở xa, Dương Quá vẫn nghe rõ từng tiếng một. Chàng tức mình nghĩ bụng :
– Nếu người mắng ta một câu ta sẽ bỏ đi ngay, tội gì ở lại đây để nghe những lời vô lối như vậy . Nếu người đánh ta thì dẫu tài mọn sức kém, ta cũng quyết tâm chống lại, không thèm nhẫn nhịn nữa .
Vì có dự định thái độ trước nên chàng thản nhiên chờ đợi không chút nào phân vân lo ngại như lúc ban đầu.
Quách Tĩnh đưa tay ngoắc chàng lại bên mình.
Trong lúc ấy, Quách Phù và anh em họ Võ ngồi ăn chung một bàn ở căn phòng bên cạnh.
Khi thấy cha mẹ nhận ra Dương Quá , Quách Phù cũng nhớ ra liền. Nàng sực nhớ lại anh chàng này lúc bé đã cùng sống chung với mình trên đảo Đào Hoa, vui đùa thân thiết lắm, chẳng ngờ chưa bao lâu mà đã thay đổi khá nhiều, lúc gặp lại nhận không ra.
Nàng bỗng băn khoăn suy nghĩ thêm :
– Phàm còn trẻ tuổi ai cũng lớn mau như thổi. Chỉ cách nhau vài ba tháng, khi gặp lại đã thấy khác liền, huống chi hắn cùng ta đã xa nhau bao nhiêu năm trời thì làm sao khỏi quên cho được.
Nàng bỗng nhớ thêm :
– à, không rõ anh chàng này còn nhớ câu chuyện tranh chấp nhau hồi trên đảo không ? Nếu còn nhớ thì chắc hẳn là oán hận mình lắm.
Nàng thấy Dương Quá ăn mặc quá tồi tàn, rách rưới thì đem so sánh với anh em họ Võ và suy nghĩ có vẻ khoái chí lắm :
– Nhìn hai anh em họ Võ xinh trai, đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng bao nhiêu thì trông anh chàng Dương Quá dơ dáy, rách rưới như ma lem thật quả là hai thái cực trái ngược nhau.
Nhưng chàng lại thương hại ngay và quay sang hỏi nhỏ Võ Đôn Nho :
– Ngày trước phụ thân em đích thân đem Dương Quá gửi cho Toàn Chân phái, không biết đến nay đã học hỏi tới đâu rồi, có giỏi hơn bọn mình không nhỉ ?
Võ Đôn Nho tỏ vẻ khinh thường nhướn mắt đáp :
– Quách sư phụ là đệ nhất anh hùng trên thiên hạ. Quách bá mẫu đã được ngoại tổ và Hồng Thất Công lão bang chủ truyền lại nhiều thế võ công tuyệt diệu. Hai vị đã hết lòng truyền thụ cho chúng ta thì hắn không thể nào bì nổi. Trên thế gian này làm sao tìm ra một bậc sư phụ ngang tài cùng Quách sư phụ và Quách sư mẫu. Vì vậy, chắc chắn tài nghệ của chúng ta phải vượt hơn hắn xa lắm.
Quách Phù gật đầu tỏ vẻ tán đồng và nói thêm :
– Xưa kia hắn đã tỏ ra là người thiếu căn bản, ngày nay dù cố gắng cũng chưa chắc tiến bộ được là bao nhiêu. Nếu hắn có bản lĩnh khá, đâu đến nỗi lang thang tiều tuỵ như vậy được.
Vừa lúc ấy nghe Quách Tĩnh cất tiếng cười , Hách Đại Thông và mọi người vào phòng để hỏi tội Dương Quá , Quách Phù bỗng nổi tánh hiếu kỳ đứng dậy nói :
– Chúng ta thử nấp phía ngoài nghe thử mọi việc xem sao.
Võ Đôn Nho e ngại nếu sư phụ biết sẽ trách phạt thì Võ Tu Văn đã lẹn miệng đáp :
– Hay đấy, mình đến rình thử cho biết !
Thấy Võ Đôn Nho còn ngập ngừng không nói , Quách Phù đã bước ra bỗng dừng chân lại nói gằn :
– Sao, anh không đi phải không ?
Nghe giọng nói của nàng có vẻ gay gắt, Võ Đôn Nho nghĩ dầu có từ chối cũng chẳng xong nên gượng cười đứng dậy đi theo .
Ba người đứng ngoài, ghé mắt nhìn qua khe cửa thấy trong phòng có đủ mặt vợ chồng Quách Tĩnh , Hách Đại Thông , Tôn Bất Nhị , Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính.
Khi ai nấy ngồi xong rồi, Quách Tĩnh bảo Dương Quá :
– Con ngồi xuống đi !
Dương Quá lắc đầu, ngước mắt nhìn ông đáp :
– Con không dám ngồi, sợ rằng như thế sẽ vô lễ với sư thúc, sư bá.
Miệng nói, mắt nhìn xung quanh một lượt, thấy toàn là những cao thủ võ lâm, kẻ nào cũng vẻ mặt lạnh lùng, khiến cho Dương Quá cũng thấy rờn rợn trong lòng .
Quách Tĩnh xưa nay rất trọng các vị trong phái Toàn Chân , đối với Dương Quá thì ông lúc nào cũng xem như hàng con cháu. Ông không muốn căn vặn nhiều e mang tiếng hạch sách áp chế trẻ con nên chỉ la rấy lấy lệ :
– Tại sao cháu to gan lớn mật, chẳng biết kính nể kẻ bề trên ?
Mắng sơ rồi ông quay sang thưa cùng các vị trong phái Toàn Chân :
– Kính thưa sư phụ , sư thúc, xưa nay thánh nhân đã dạy con người phải biết kính trọng ba ngôi Quân , Sư , Phụ. Học trò lúc nào cũng phải tuyệt đối tuân theo lời thầy chỉ dạy, xem thầy như cha , thế mà ngày nay tình sư đệ trong võ lâm mỗi lúc càng lỏng lẻo, chẳng qua là vì chúng ta cưng chiều bọn hậu bối quá nên chúng đâm ra lớn mật .
Ông nói năng từ tốn, ôn tồn không hề quát tháo nặng lời hay hạch sách như bao nhiêu ngừoi khác .
Triệu Chí Kính cười lạt rồi đứng dậy nói :
– Xin Quách đại hiệp đừng dạy vậy mà bần đạo càng thêm hổ thẹn. Bần đạo đâu dám nhận làm sư phụ Dương tiểu gia đây. Ngay tất cả anh em trong Toàn Chân giáo đây cũng không một ai dám ngỏ lời buộc lỗi ai, xin đại hiệp đừng nói nặng lời cùng “tiểu anh hùng” trước đám đông mà không phải .
Rồi hắn nhìn Dương Quá nói :
– Dương anh hùng hãy tha thứ cho bọn già có mắt không ngươi này nhé. Chúng tôi bất tài, đâu có đủ tư cách làm sư phụ ai !
Quách Tĩnh và Hoàng Dung thấy thái độ của Triệu Chí Kính có vẻ quá đáng , càng nói càng lộ vẻ căm hờn , thấy có điều khác lạ và suy nghĩ :
– Phàm học trò có lỗi , làm thầy rầy la đánh mắng là chuyện bình thường xưa nay. Tại sao y nói năng có vẻ móc ruột và bực tức như vậy nhỉ ?
Hoàng Dung lanh trí hơn, đã dự đoán được phần nào câu chuyện nên vội dùng lời khoả lấp đôi bên :
– Triệu huynh không cần phải giận dỗi xa xôi làm gì cho mệt trí. Cháu nó dại khờ, nhân có đủ mặt mọi người ,cứ vạch tội của hắn cho rõ ràng, tự nhiên hắn sẽ biết lỗi mà chừa ngay.
Triệu Chí Kính cười nhạt và lớn tiếng nói :
– Triệu Chí Kính này bất tài thiếu đức , đâu dám làm sư phụ ai, nói ra người ta sẽ phỉ nhổ vào mặt tôi đấy .
Hoàng Dung có vẻ không bằng lòng thái độ của Triệu Chí Kính nên nghĩ thầm :
– Gia đình ta cũng Toàn Chân giáo cũng chẳng có thân tình bao nhiêu. Trước đây bọn Toàn Chân thất tử bày trận Thiên cang Bắc đẩu vây khốn phụ thân ta là Hoàng Dược Sư, sau nhờ Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ đứng ra dàn xếp cùng Quách Tĩnh mới yên.
Ngày nay nhớ lại chuyện này lòng ta vẫn còn bực tức. Nhưng nghĩ vì mọi việc đều thay đổi với thời gian , ta chẳng thèm quan tâm đến nữa. ấy vậy mà nay chú đạo sĩ này lại to tiếng lớn lời có vẻ vô lễ quá, thật không thể nào nhẫn nhịn được nữa .
Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị đã hiểu thấu được nỗi bực mình của Triệu Chí Kính nên không chấp nhất về sự to tiếng lớn lời của Triệu Chí Kính . Tuy nhiên hai người cũng đồng ý là thái độ ấy không phải là thái độ của một kẻ tu hành.
Nghĩ vậy nên Tôn Bất Nhị bảo Triệu Chí Kính :
– Nếu có điều gì hắn không phải thì cứ thẳng thắn trình bày cho vợ chồng Quách đại hiệp biết rõ và giải quyết, không nên hồ đồ như vậy, không xứng đáng là kẻ tu hành .
Tuy là đàn bà nhưng Tôn Bất Nhị là kẻ bề trên mà tính tình lại vô cùng nghiêm khắc nên đệ tử ai cũng kính nể. Vì vậy nên sau mấy lời ấy, Triệu Chí Kính không dám cãi lại , phải cúi đầu vâng dạ rồi rón rén trở về chỗ cũ .
Lúc bấy giờ Quách Tĩnh nghiêm giọng nói :
– Dương Quá ! Chắc con cũng nhận thấy thái độ khiêm cung lễ độ của sư phụ đối với bề trên . Sao con không noi theo gương ấy mà ăn ở cho đúng đắn và có lễ độ ?
Triệu Chí Kính định cải chính mình không phải là sư phụ của Dương Quá , nhưng Tôn Bất Nhị đã trừng mắt không cho phép nên vội làm thinh ngay và ngồi xuống .
Ngờ đâu Dương Quá vùng thét lớn :
– Hắn đâu phải là sư phụ tôi !
Câu nói quá đột ngột ,chẳng những làm cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung ngạc nhiên mà Quách Phù và hai anh em họ Võ đang nấp ngoài cửa cũng kinh hồn vì không ai có thể ngờ trước được.
Quách Tĩnh nghĩ bụng :
– Phàm cổ nhân có câu “Nhất tự vi sư, chung thân như phụ” , một ngày là thầy, suốt đời cũng coi như cha đẻ. Hơn nữa trong quy luật võ lâm, nghĩa thầy trò được xem trọng lắm. Mình đây ngày còn niên thiếu đã lạy thờ Giang Nam thất quái làm thầy, nhờ công ơn dạy dỗ nên người . Sau được Hồng Thất Công truyền dạy cho nhiều thế võ công thượng thặng trùm thiên hạ, lúc nào ta cũng xem tình thầy trò nặng như núi , sâu như biển. Thế mà không ngờ ngày nay thằng này quá ngỗ nghịch chẳng xem thầy ra cái quái gì hết ?
Nghĩ tới đây, Quách Tĩnh tức quá, xanh mặt trợn mắt điểm mặt Dương Quá thét lớn :
– Sao, mày …. muốn … nói sao ?
Hoàng Dung xưa nay chưa thấy chồng giận dữ đến mức đó bao giờ, nay thấy vậy lật đật dùng lời nhỏ nhẹ khuyên nhủ cho dịu bớt :
– Quách ca , đừng nóng giận lắm. Gặp thằng cháu ngỗ nghịch dạy không được thì cứ cho nó một quyền xong đời, hơi đâu mà bận lòng nhọc trí đến như vậy .
Dương Quá lúc đầu cũng e dè lo ngại, chừng nghe Hoàng Dung nói như vậy, lòng tự ái dâng lên, sinh liều nghĩ bụng :
– Bọn bay có cậy đông , ỷ lớn hiếp người , ta cũng quyết chống lại đến cùng, rủi mất mạng thì thôi chứ có chi đâu mà sợ ?
Nghĩ xong, chàng không kể gì nữa , oang oang quát lớn :
– Ta vốn là đứa bé bất lương, mất dạy, không có hân hạnh được học võ công của mấy người . Nhưng ta cũng có một điều hết sức ngạc nhiên là chẳng hiểu vì sao các người mang danh anh hùng hiệp nghĩa, bản lãnh siêu quần, thế mà nỡ mang tâm đi dùng thủ đoạn bất lương để lừa đảo một đứa bé khốn khổ mồ côi cha mẹ …
Nhắc đến bốn chữ “mồ côi cha mẹ” chàng bỗng xúc động tâm tình, nước mắt tuôn trào như suối, nhưng cũng cố bặm môi cố dằn cơn nức nở nghĩ thầm :
– “Phen này dầu chết thì thôi, ta cũng quyết không để sa lệ trước mặt bọn này để cho chúng đem lòng khinh miệt”.
Quách Tĩnh nổi giận nói :
– Vợ ta và sư phụ mi đã hết lòng dạy mi võ nghệ chỉ vì niệm tình ngày trước đã giao du cùng cha mi, ai lại cố tâm lừa đảo mi làm gì mà mi lại mở miệng nói những câu vô hậu như thế hả ?
Dương Quá mỉm cười mỉa mai đáp :
– Riêng Quách bá bá hết lòng thương tôi, nghĩa ấy tôi không thể quên được .
Hoàng Dung cũng nói trước để bào chữa cho mình :
– Nếu Quách bá mẫu có điều gì sơ thất cùng cháu, cháu đem lòng oán hận cũng phải đấy.
Dương Quá nổi nóng đáp lớn :
– Dầu Quách bá mẫu có không tử tế với ta, ta cũng đâu thèm oán hận. Nhưng ta thử hỏi bà đã dạy võ nghệ cho ta từ bao giờ, được môn nào. Hay chỉ dạy vớ vẩn mấy câu sách , để đọc như đọc vẹt, phòng sau này đi luồn cúi thiên hạ tìm những cái hư danh hay chăng ?
Nói đến đây lòng uất hận tràn lên bồng bột, Dương Quá chỉ thẳng vào Triệu Chí Kính và Hách Đại Thông gằn lên từng tiếng một :
– Còn hai cái hận máu này, thế nào ta cũng lấy máu để đòi nợ máu trong một ngày gần đây.
Quách Tĩnh quá đỗi ngạc nhiên vội hỏi :
– ủa , cái gì mà lạ thế ? Cháu muốn nói sao ?
Dương Quá càng to tiếng nói :
– Lão đạo sĩ họ Triệu kia, ngươi xưng danh sư phụ ta, chẳng hay ngươi đã dạy cho ta một ngón võ, một thế quyền nào chưa. Điều đó ta cũng chưa trách lắm. Nhưng ta thử hỏi , ta đã có tội tình gì mà người manh tâm gọi những tên đạo sĩ khác hùa nhau để giết ta ? Dầu cho Quách bá mẫu không dạy ta một miếng võ nào, bọn Toàn Chân không hề chỉ cho ta một đường kiếm , nhưng nếu bọn ngươi có tiểu tâm áp bức đánh ta, ta cũng sẵn sàng nghênh địch, dù cho đến chết cũng chẳng cần đâu .
Chàng chỉ luôn vào mặt Hách Đại Thông trợn mắt hỏi lớn :
– Thằng già họ Hách kia, tại sao ngươi nỡ đang tâm hạ sát một lão bà chỉ vì bà ta có lòng thương xót đùm bọc cho một đứa bé mồ côi ? Mang danh một đạo sĩ tu hành, tại sao có những hành vi ác độc như vậy ? Mi hãy tự vấn lương tâm về việc làm của mình xem có đúng hay không hả ?
Nhớ đến cảnh tượng Tôn bà bị chết thảm thương quá, Dương Quá uất hận tràn trề, nhảy tới thoi đại vào mặt Hách Đại Thông .
Kể về võ công và đạo đức , thì Quang Minh Tử Hách Đại Thông là một trong những người hữu danh nhất trong Toàn Chân thất tử, được người đời ca tụng tặng cho bốn chữ “cực cao cảnh giới” . Từ khi lỡ tay giết chết Tôn bà ngày nọ, ông vẫn thường ân hận mãi về hành đông nông nổi của mình. Ngày nay nghe Dương Quá nhắc lại, ông bỗng chạnh lòng, hồi tưởng hình ảnh Tôn bà bị ngã gục trước mặt mình, máu tuôn lai láng nên từ từ đứng dậy, rút thanh gươm đang cài sau lưng Triệu Chí Kính , nhìn thẳng vào Dương Quá .
Mọi người đinh ninh ông sẽ dùng gươm này để trừng trị cái tội hỗn láo của Dương Quá .
Quách Tĩnh dự định đứng ra can thiệp.
Nhưng ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy ông trở chuôi gươm trao cho Dương Qua, từ tốn nói :
– Mi nói đúng lắm . Mấy năm nay lúc nào Hách Đại Thông này cũng ăn năn mãi về hành động sát nhân của mình. Vậy hôm nay tuỳ ý mi sử trí, lão chẳng hề kháng cự tý nào đâu. Cứ nhận gươm và ra tay rửa hận cho Tôn bà đi.
Sự việc diễn ra quá đột ngột, ngoài sức tưởng tượng và ước đoán của mọi người.
Quách Tĩnh sợ Dương Quá giật gươm làm bậy nên vội lớn tiếng nói :
– Qua nhi, không được vô lễ đấy !
Dương Quá tự xét thấy trước mặt có Quách Tĩnh và Hoàng Dung , không dễ gì mình báo thù được cho Tôn bà nên lạnh lùng mỉa mai nói :
– Phải lắm. Ngươi đã già kinh nghiệm nên xử sự phải lắm. Ngươi thừa biết Quách bá bá và Quách bá mẫu đời nào để cho ta được tự do giết mi nên mới làm ra vẻ anh hùng trao gươm cho ta để loè thiên hạ. Nếu không, đời nào ngươi dám làm như vậy .
Hách Đại Thông vốn là một bậc võ lâm tiền bối , nay bỗng nhiên bị một thiếu niên như Dương Quá sỷ nhục trước mặt mọi người , làm sao chịu đựng nổi . Lưỡi gươm đưa ra không được, thu lại cũng không xong, ông uất quá, thét lớn một tiếng , bẻ thanh gươm làm hai đoạn vứt trên mặt đất và kêu lớn :
– Thế là hết , hết rồi !
Nói xong phi thân khỏi thư phòng rồi mất dạng.
Quách Tĩnh vội vàng chạy ra giữ nhưng không kịp nữa .
Ông trở vào đưa mắt nhìn Dương Quá , Tôn Bất Nhị và mọi người, lặng người suy nghĩ :
– Cứ xem thái độ thằng này thì có lẽ nó không nói bậy. Chắc việc này phải có nhiều uẩn khúc mà nó là kẻ chịu đựng phần thiệt thòi đau khổ nên nó mới có những cử chỉ như thế này.
Nghĩ vậy ông hỏi Dương Quá :
– Nếu trong mấy năm qua , các vị trong Toàn Chân giáo không truyền võ nghệ cho con thì ta hỏi con ở đâu và làm công việc gì, tại sao thân hình quá ư tiều tuỵ như vậy ?
Nghe câu hỏi này, lòng Dương Quá đã lắng dịu phần nào nên đáp :- Ngày Quách bá bá lên Trùng Dương cung đánh bại mấy trăm đạo sĩ rồi ra về, bọn này đã cố tâm hành hạ đánh đập tôi đến chết đi sống lại nhiều lần. Họ xem tôi là kẻ tử thù chứ có dạy cho tôi một miếng võ nào đâu. Bao nhiêu năm qua tôi đã sống những ngày cơ cực lầm than nhất đời, những tưởng không bao giờ nhìn thấy thiên hạ, hưởng ánh sáng mặt trời và cũng không ngờ ngày nay còn được gặp Quách bá bá nữa.
Nói đến đây chàng cảm động quá đứng lặng yên.
Thấy Quách Tĩnh có vẻ tin lời Dương Quá nói nên Triệu Chí Kính đứng lên cướp lời nói lớn :
– Tất cả huynh đệ trong Toàn Chân giáo đều là những người trọng nghĩa khinh tài, hành vi lỗi lạc, khi nào lại có những hành động vô lý như mi đã đặt điều nói láo. Ai đi hành hạ mi đâu ?
Quách Tĩnh vốn bản chất trung hậu, ngay thẳng, nghe Dương Quá nói là tin ngay. Hoàng Dung lanh lẹ trí trá hơn nhiều, khi nhìn thấy nét mặt của Dương Quá luôn luôn thay đổi , thỉnh hoảng len lét nhìn mình có vẻ e dè, thì đoán bên trong vẫn còn điều gì uẩn khúc nữa, chứ chưa nhất thiết như lời hắn đã thuật lại.
Nghĩ xong Hoàng Dung hỏi :
– Theo như mi nói, thì mấy năm qua mi làm việc không công cho Toàn Chân giáo phải không ?
Nói xong Hoàng Dung bất chợt vung tay, vận chưởng đập mạnh vào đỉnh đầu Dương Quá một cái, bàn tay xoè ra điểm luôn vào huyệt Bách hội và huyệt Thượng Tỉnh là hai huyệt quan trọng nhất trong người, nếu bị trúng phải là chết ngay tức khắc.
Quách Tĩnh thất sắc gọi lớn :
– Dung em , không nên như vậy !
Miệng kêu tay vung ra đỡ đòn. Nhưng Hoàng Dung xuất thủ theo thế “Lạc Anh Chưởng” lanh lẹ quá mức, hễ đánh ra là trúng ngay nên không đỡ kịp nữa .
Dương Quá muốn tránh nhưng nghĩ thầm :
– “Với bản lãnh của Hoàng Dung, mình né tránh làm sao nổi. Nếu đỡ được , bà tiếp tục thế khác cũng không xong. Biết đâu bà muốn thử xem quả thực mình không biết võ công như đã nói chăng ? “
Nghĩ vậy, chàng cứ đứng yên lặng nhận đòn không hề né tránh. Nếu ra tay thật tình thì Dương Quá không tài nào tránh né hay chịu được đòn này, nhưng đây chỉ là một thế thử thách của Hoàng Dung , nên chiêu thức đưa ra tuy mau lẹ nhưng chỉ đánh khẽ mà thôi .
Thấy Dương Quá không phản ứng gì mà vẻ mặt có vẻ lo sợ, Hoàng Dung mới tin chàng chưa được truyền thụ võ công nên mỉm cười nói :
– Mi chưa được học võ nghệ là một điều may mắn lắm đấy !
Tuy miệng nói như vậy nhưng trong thâm tâm Hoàng Dung vẫn chưa tin chắc là Dương Quá lại chưa học võ công của Toàn Chân giáo vì bà chợt nhớ lại :
– Có lẽ mình cũng lầm gian kế của thằng ranh này rồi. Ngay từ lúc trên Đào Hoa đảo hắn đã dùng được thế “Hàm mô công” để đánh người , như thế hắn đâu phải hoàn toàn không biết võ nghệ. Ta cần phải thử thách thêm một lần nữa mới chắc được .
Dương Quá nghe Hoàng Dung nói vậy chỉ yên bụng được phần nào, chứ trong lòng dự đoán là vẫn còn nhiều thủ đoạn nữa sẽ được thi thố. Vì vậy nên lúc nào chàng cũng luôn để ý đối phó để khỏi bị lật tẩy.
Khi đó Hoàng Dung hết nhìn Dương Quá đến Triệu Chí Kính, bỗng nghĩ ra một kế, mỉm miệng cười thầm .
Triệu Chí Kính thấy Hoàng Dung đánh thử, Dương Quá ranh mãnh làm bộ không chịu tránh né nên Hoàng Dung đã tin lời và ngó mặt mình mỉm cười mỉa mai nên nổi nóng nghĩ bụng :
– Thằng nhóc con này thật lắm cơ mưu , xảo quyệt đến nỗi Hoàng Bang chủ cũng phải lầm kế. Ta phải khám phá và vạch mặt hắn ra mới được.
Nghĩ xong hắn điểm mặt Dương Quá nạt lớn :
– Ranh con, nếu mi quả tình không biết võ công cứ nói thẳng ra đây trước mặt mọi người, nếu không ta quyết không tha mạng . Sống chết tuỳ nơi mi cả đấy, hãy lựa chọn lấy mà nói thật đi .
Triệu Chí Kính thừa biết Dương Quá võ công cao hơn mình một bậc nên quyết tâm nói khích để chàng lộ chân tướng ra , cho mình khỏi mất mặt cùng Quách Tĩnh . Nếu Dương Quá cứ khăng khăng đóng vai người không biết võ nghệ thì mình cứ hạ sát cho rồi .
Vì vậy nên miệng nói, tay y đã vung lên đập mạnh vào ngừoi Dương Quá mạnh như búa bổ.
Quách Tĩnh sợ nguy đến tính mạng Dương Quá vội gọi lớn :
– Hãy ngừng tay lại, sao nóng nảy vậy ?
Ông định ra tay can thiệp , nhưng Hoàng Dung đã đưa tay níu lại nói nhỏ :
– Mặc kệ chúng nó thử xem sao ?
Sở dĩ Hoàng Dung ngăn cản chồng đừng can thiệp vì đoán rằng trong lúc Triệu Chí Kính đang nóng giận thế nào cũng dùng những chiêu thức hiểm độc để hạ thủ. Lẽ cố nhiên Dương Quá phải dùng những thế võ đã học hỏi được ra chống cự để tự vệ và sẽ lộ liễu sự dối trá ra liền .
Quách Tĩnh tuy chẳng hiểu đầu đuôi sự việc ra sao. Ông chỉ đoán rằng trong việc này thế nào cũng có uẩn khúc chi đó và có lẽ Hoàng Dung lanh lợi hơn đã biết rồi . Ông cũng nghe theo đứng im để xem và định bụng nếu Dương Quá không biết võ công thật hoặc nếu bị bức bách quá đáng thì sẽ ra tay giúp đỡ .
Triệu Chí Kính đưa tay thoi ra một quyền, nhưng Dương Quá không né đỡ, cứ điềm nhiên chịu trân nên tức giận vô cùng quay về phía Tôn Bất Nhị và Doãn Chí Bình phân trần :
– Sư thúc và sư đệ cũng đã thấy rõ ràng, thằng ranh này quá sức xảo trá. Hắn muốn đóng kịch giả vờ không biết võ để lừa dối thiên hạ, lãnh phần phải về mình và chọc tức tôi mãi. Phen này tôi quyết đánh chết hắn để trừ một phần tử gian manh quỷ quyệt. Sau này xin nhờ nhị vị trình lại Giáo chủ giúp dùm tôi.
Tôn Bất Nhị thừa biết Dương Quá phản bội Toàn Chân giáo và cố tình trêu tức Triệu Chí Kính nên bảo rằng :
– Quân lừa thầy dối bạn ấy cũng nên xử đi cho rồi, để làm chi nữa.
Nguyên Tôn Bất Nhị là một vị lão ni đạo đức hiền lành, không khi nào có dụng ý sát nhận nhưng vì đã hiểu rõ tài nghệ của Dương Quá nên giả bộ nói câu ấy khích chàng nổi tức đánh lại, hoặc cũng không dám tiếp tục giả bộ ngây ngô để nhận đòn.
Triệu Chí Kính được sư thúc tán đồng ý kiến nên càng thấy yên chí, dùng chân phải đạp một đạp thật mạnh vào bụng Dương Quá theo thế “Thiên sơn phi độ” . Thế này bao gồm cả âm, dương, mềm cứng, mới trông vào thì rất dũng mãnh nhưng thực ra thì không nguy hiểm bao nhiêu.
Toàn Chân giáo đem thế này để huấn luyện các đệ tử mới nhập môn, tuy lợi hai với những tay mới chứ Dương Quá thì đâu có xem ra gì .
Theo lệ thường trong Toàn Chân giáo , mỗi khi dạy thế “Thiên sơn phi độ” thì dạy luôn thế “Thoái mã ” để tránh đòn. Sở dĩ Triệu Chí Kính dùng thế này là để cốt nhử cho Dương Quá theo thói quen tự nhiên lùi ra sau để né tránh. Như thế sẽ có đủ bằng cớ là chàng có thọ giáo với võ thuật của Toàn Chân giáo .
Nhưng Dương Quá ranh mãnh đoán được mưu ấy nên không hề thoái bộ né tránh mà chỉ đưa tay ôm bụng rồi ngồi xuống nhăn nhó la đau.
Triệu Chí Kính tức giận điên người , vận sức vào chân đạp thêm một cái nữa, sức mạnh có thể phá vách bể tường , nhưng Dương Quá đã đề phòng, một mặt cố sức chịu đựng, một mặt dùng tay trái ôm chân Triệu Chí Kính rồi điểm nhẹ vào huyệt “Thái cốc”
Phép điểm huyệt của Dương Quá đặc biệt ở chỗ là chàng không xỉa thẳng ngón tay vào huyệt đạo mà chỉ giả vờ xô nhẹ vào chân địch thủ, tự nhiên huyệt “Thái cốc” chạm vào ngón tay. Triệu Chí Kính bị chồn chân mất thăng bằng té nhào trên mặt đất.
Quá xấu hổ vì bị té bất ngờ, Triệu Chí Kính lồm cồm bò dậy, mặt mày đỏ gay, bẽn lẽn đứng nhìn mọi người. Doãn Chí Bình nín thinh không nói gì hết. Tôn Bất Nhị đứng dậy khen lớn :
– Chú bé tài thật ! Tài thật !
Từ xấu hổ đến tức giận, từ tức giận trở nên liều lĩnh . Triệu Chí Kính từ từ đứng dậy, mắt trừng trừng nhìn vào Dương Qua, dùng tay trái giả đập vào hàm mặt của Dương Quá rồi bất thình lình trong ống tay tống một đòn thật mạnh từ dưới lên trên móc vào quai cằm. Dương Quá đâu có ngán những thế võ này. Chàng ngấm ngầm vận dụng nội công của “Ngọc nữ tâm kinh” để chịu đựng, thành thử mấy đòn của Triệu Chí Kính tuy trúng được mục tiêu nhưng chẳng làm chàng đau đớn chút nào.
Không muốn để cuộc xung đột kéo dài mãi bất tiện, Quách Tĩnh bèn đứng ra hoà giải và dàn xếp đôi bên. Ông nhìn Tôn Bất Nhị lễ phép nói :
– Bây giờ cũng đã xế chiều, cần phải lo coi thu dọn nơi ăn chốn ở để sư thúc và chư vị anh hùng nghỉ ngơi đêm nay. Còn câu chuyện của Dương Quá xin tạm gác lại một bên. Khi nào thuận tiện sẽ đưa ra bàn bạc lại. Kính mời sư thúc về phòng an nghỉ. Dương Quá , bá bá nhờ cháu thay mặt ra ngoài xem xét dùm công việc , đừng để bê bối mà thất lễ với chư vị anh hùng nhé !
Nói xong ông nắm tay Dương Quá bước ra khỏi phòng ngay.
Vừa đi, ông vừa ghé tai nói nhỏ, vừa để khuyên răn, vừa để an ủi :
– Qua nhi , phàm người anh hùng lúc nào cũng lấy đức trả oán , cháu đừng nên bận tâm nhiều đến câu chuyện của Triệu Chí Kính làm gì. Ngoài trang viên có hàng trăm hạng người . Biết đâu trong số đông không tìm được một vài người có khí tiết để làm quen mà kết thành bạn tốt. Nhân dịp này cháu nên trà trộn vào đó, tìm hiểu và kết bạn với những người ý hợp tâm đầu.
Dương Quá chẳng biết nói sao, cúi đầu vâng dạ rỗi lững thững ra ngoài.
Thấy Dương Quá đi rồi, Quách Tĩnh lại nói chuyện với Triệu Chí Kính :
– Dương Quá nó còn nhỏ dại chưa hiểu đời , có những cử chỉ nông nổi, xin đừng quan tâm phiền trách làm gì cho mệt trí . Hôm nay trong buổi tiệc , sư đệ nên quên hết mọi chuyện , uống một bữa cho thật say để thoả tình hội ngộ. Chuyện cũ cứ để cho nó trôi qua trong quên lãng.
Vừa lúc ấy bọn tráng đinh đã bưng lên nhiều mâm trái cây tươi, rất nhiều món ăn lạ và rược ngon hảo hạng. Chén đũa cũng toàn là đồ quý giá, trông hoa cả mắt.
Nhìn trên bàn tiệc nhan nhản cả sơn hào hải vị , không thiếu gì của ngon vật lạ , Doãn Chí Bình vui vẻ nói với Hoàng Dung :
– Giàu có sang trọng đến bực này, hèn chi nhà chứa thực phẩm của Lục trang chủ có treo hai câu đố mà tiểu đệ dám chắc dầu là các bậc vương hầu khanh tướng cũng chưa chắc dám treo.
Hoàng Dung mỉm cười hỏi :
– ủa, sư đệ xuống phòng đấy hồi nào mà xem được hai câu đối ấy ?
Doãn Chí Bình đáp :
– Tiểu đệ vừa mới đi ngang qua đấy, thấy nét chữ quá sắc sảo, tiểu đệ mới chú ý nhìn xem cho biết . Tay nào đã viết ra hai câu đối ấy , chắc hẳn cũng là một bậc tài hoa xuất chúng, chữ nghĩa đầy mình .
Tôn Bất Nhị lắng tai nghe hai người nói chuyện cũng động tánh hiếu kỳ xen vào hỏi :
– Hai câu đối ấy như thế nào , hãy đọc lại cho ta nghe thử .
Doãn Chí Bình vâng lời đọc :
” Sơn hào hải vị tàng vô tận
Dã vị lâm cầm vẫn hữu dư “
Tạm dịch là :
” Miếng ngon vật lạ kho không thiếu
Dê béo chim rừng hỏi có ngay “
Chàng vừa đọc vừa kéo dài giọng ngâm nga ca kệ theo lối mấy cụ đồ ngâm thơ, khiến cho bao nhiêu quan khách trong buổi tiệc cũng đều tức cười và cùng vỗ tay tán thưởng .
Lúc bấy giờ Quách Phù và hai anh em họ Võ đã rời chỗ nấp đi ra phòng khách. Còn Dương Quá thì len lỏi vào đám đông tìm lại Vương Thập Tam nói chuyện cho vui nhưng tìm mãi không gặp .
Chàng lần đi vào nhà tiếp tân ăn năm ba miếng dằn bụng rồi rảo bước ra tìm thăm chừng con ngựa của mình còn đó hay là đi tìm cỏ để gặm rồi .
Vừa ra khỏi sân được vài bước , Dương Quá bỗng thấy dưới bóng cây hoè có hai người ăn xin đang nằm gối đầu trên bị gậy , quần vén tận háng, vừa nói cười tay gãi sồn sột, ra bề tương đắc lắm .
Dưới ánh sao chiếu mờ mờ, Dương Quá nhận thấy một người đã già và một chàng trai trẻ.
Người đã già có râu quai nón mọc rậm bao quanh hàm, che kín cả miệng. Ngừoi trẻ còn thanh niên , vẻ mặt tao nhã dễ ngó.
Nếu không có bị và gậy dưới đất , chắc cũng không ai có thể ngờ đó là đệ tử của Cái Bang hành khất.
Người già râu rậm nói :
– Sáng hôm qua ta đi ngang qua Dự châu, có đứa bé con gái đứng trong tiệm nhìn ra, nhạo ta hai câu thơ nghe cũng ngồ ngộ, cậu muốn biết không ? Để ta đọc lại và nhân thể nhờ cậu nhận xét thử ý nghĩa như thế nào nhé ? Có lẽ cũng sâu xa và thâm thuý lắm đó , hay câu thơ đó như vầy :
” Bất thức khẩn âm hà xứ đạo
Chỉ văn mạo lý hữu thanh tuyền”
Người thanh niên cười sằng sặc đáp :
– Hai câu thơ ấy tôi có nghe đọc một lần rồi . Kể ra chẳng có gì sâu xa hiểm hóc nhưng có vẻ hài hước chút ít. Nhưng có một điểm đáng trách là nó cả gan vô lễ mắng đại huynh là kẻ thiếu mồm .
Người già nhiều râu có vẻ bực tức nói :
– Chỉ có bọn ngu si dại dột mới nói như vậy . Chú mày thử nghĩ , nếu thiếu mồm thì làm sao nói năng ăn uống để sống chứ ? Hẳn là đàn bà chẳng biết gì. Cũng do nơi chú bàn xa tán rộng để mỉa mai ta mà thôi. Có phải thế không ?
Người thanh niên ôn tồn đáp :
– Đời nào đệ lại dám đi mỉa mai nhạo báng đại huynh. Hiện nay tiểu đệ tứ cố vô thân , hỉ co một hình một bóng , chuyện gì cũng nhờ cậy vào một mình đại huynh che chở đùm bọc, đời nào đệ lại đi xuyên tạc kẻ bề trên ân nhân của mình ! Đại huynh không để ý đấy chứ, trên đời hiếm chi người văn hay chữ nhiều , nếu đại huynh không tin cứ nhờ người ta giải thích hộ xem họ có nói như tiểu đệ hay không ? Bây giờ tiểu đệ xin giảng lại cho đại huynh nghe nhé :
Cứ theo câu trên ” Bất thức khẩu âm hà xứ tại ” có nghĩa là “chẳng biết mồm ông ở chốn nào ? ” . Còn câu dưới là “Chỉ văn mạo lý hữu thanh truyền ” có nghĩa là “chỉ nghe tiếng nói phát ra từ đám lông” . Muốn cho văn vẻ đôi chút thì tiểu đệ xin tạm dịch là :
” Mồm lão nơi đâu tìm chẳng thấy
Chỉ nghe tiếng nói tại chòm lông”
Giảng giải đến đây, chàng ta tức cười quá nhịn không được ré lên cười hăng hắc , khiến lão già râu rậm nổi giận nạt lớn :
– Cười gì mà lãng nhách , vo duyên lạ . Con bé đã nhạo ta chú lại còn thêm dầu giấm tô đậm thêm cho mặn mà để cười cho sướng cổ. Thôi từ đây có lên dốc xuống đèo , qua rừng lội suối , hãy cố mà lo liệu lấy, đừng có phá rày đến lão không mồm nãy nữa nhé.
Chàng thanh niên sợ hãi vội đứng dậy chắp tay bái luôn mấy cái khẩn khoản nói :
– Đại huynh, tiểu đệ trẻ người non dạ, vì nông nổi theo câu văn nói càng thiếu suy nghĩ đến nỗi xúc phạm đến đại huynh thật là đắc tội. Vậy xin đại huynh niệm tình tha thứ, đừng chấp nê tội nghiệp tiểu đệ .
Người già nghiêm giọng nói :
– Chú ăn nói hồ đồ , quả thật đáng trách lắm . Trong lúc này mà huynh đệ còn đùa cợt trêu chọc người ta được thì quả là vô ý thức. Ta đây dốt chữ, chỉ biết dùng sức mạnh giết quân thù xây dựng đất nước , cứu vãn dân tộc. Sở dĩ chưa tung hoành được là chưa có cơ hội tốt mà thôi. Ta muốn nhờ chú mày có chút căn bản học hành , mong một ngày mai tươi sáng cùng dìu dắt nhau hiến tài cho đất nước , không ngờ chú mày quá trẻ con chỉ nghĩ đến chuyện cười đùa cho thoả thích , đâu có nghĩ gì đến tình yêu đất nước giống nòi.
Bị mắng đậm, người thanh niên mủi lòng sụt sùi khóc nói :
– Từ ngày vua Cao Tông dời đô về Lâm An , giữ lại miền Nam Tống, bỏ rơi miền Bắc Tống vào tay bọn rợ Kim cướp nước, bao nhiêu công lao hạng mã Tống Thái Tổ gây dựng ngày xưa đã trôi theo dòng nước, kẻ có chút ít tâm huyết ai chẳng đau lòng. Em đâu phải hạng người tim sắt đá mà hững hờ với cảnh đất nước ngửa nghiêng. Ngày nay ta đã tạm dời cư sang Nam, em chỉ mong chờ một ngày nào thiên quang vân tạnh để đưa thân này hiến cho đất nước , đánh đuổi bọn xâm lăng. Nhưng buồn nỗi từ vua đến quan triều đình nhà Tống chỉ thủ phận cầu an, ai cũng muốn tích cực sống riêng giữ lấy hạnh phúc gia đình. Có kẻ tự cho có chút bản lãnh lại đứng lên xưng hùng xưng bá. Quan địa phương bất lực, bọn chúng càng tung hoành, không ai làm gì nổi. Ngày nay bao nhiêu ăn mày cùng chung sức trong tổ chức Cái Bang cũng chỉ mong có cơ hội tìm lại vinh quang cho đất nước. Em tự xét tài hèn sức yếu phải chờ đợi thời cơ. Những lúc buồn lòng, muốn dùng câu thơ ngâm nga cho tiêu sầu giải muộn, nào ngờ quá trớn xúc phạm đến đại huynh làm cho đại huynh buồn ý, thật ân hận vô cùng.
Dương Quá lắng tai nghe hai người nói chuyện có nhiều khí phách anh hùng nên vội rảo bước tới gợi chuyện làm quen .
Chàng vồn vã nói :
– Nơi đây chùa đất có Phật vàng , thật không ngờ hôm nay được nghe những lời tâm huyết . Tình cờ nghe câu chuyện của nhị vị, tiểu đệ mới biết được mục đích của Cái Bang và hiểu rõ nghĩa trắng đen của câu nói ” Đói cơm, rách áo mới đi ăn mày “
Nghe nói ông già liếc mắt nhìn chàng, ánh mắt sáng như sao băng.
Tuy ban đêm nhưng Dương Quá chú mục nhìn kỹ cũng nhận ra được ông lão da dẻ hồng hào, dáng độ vô cùng hiên ngang quắc thước, râu nửa đỏ nửa đen mọc rậm xung quanh hàm như râu Châu Thương đời nhà Hán, người thanh niên cứ ngồi yên một chỗ , không nói một lời , hình như y không hề quan tâm đến mình.
Ông già hỏi :
– Chú là ai ? Đến đây làm gì ?
Dương Quá đáp :
– Tôi về đây dự đại hội Cái Bang .
Ông lão hỏi tiếp :
– Chú thuộc hàng mấy túi ?
Dương Quá đáp luôn :
– Tôi chưa thuộc dạng nào mà cũng chưa có túi nào hết.
Ông ta cất tiếng cừoi ha hả và nói :
– A, thế ra chú mày cũng như bọn này , đều thuộc vào loại “ăn mày bất đắc dĩ” nên chưa được cấp túi sắp hạng chứ gì ?
Lúc ấy người ăn mày trẻ mời nhìn lại nói ra vẻ dạy đời :
– “Ninh khả chính nhi bất túc, bất khả tả nhi hữu dư” . Thà cứ làm việc để chịu nghèo còn hơn là làm điều bậy để mong giàu sang. Chức phận trong Cái Bang lợi đâu mà phải ước mơ ? Chú còn nhiều việc quan trọng phải làm tròn, hãy về mà lo liệu cho xong, sáng mai đến đây hãy gặp lại bọn ta nói chuyện lại.
Nói xong cả hai nằm lăn ra ngủ liền, không mấy chốc đã ngáy vang như xay lúa.
Thấy đứng mãi cũng chướng nên Dương Quá lẳng lặng rút lại về phòng trọ, trong lòng hơi cảm thấy tức về thái độ thiếu lịch sự của hai người ăn mày.
Canh càng khuya đêm càng vắng lặng. Bốn bề vẳng tiếng kêu ri rỉ như khóc như than khiến cho Dương Quá chạnh lòng thao thức mãi, không nhắm mắt được và nghĩ bụng :
– Hai người ăn mày một già một trẻ, khẩu khí cũng có vẻ anh hùng mã thượng , biết yêu nước thương nòi , chắc cũng ẩn tàng một bản lãnh siêu quần xuất chúng, mưu lược hơn người . Chẳng hiểu sao người thanh niên lại quả quyết là ta đang còn nhiều việc quan trọng chưa làm xong ? Hay sáng nay bọn Triệu Chí Kính còn kiếm chuyện gì rắc rối nữa chăng ?
Gió đêm thoảng mát, chàng bỗng nhớ lại những lúc cùng Lục Vô Song kề vai cọ vế và nhớ xa hơn nữa , đến chuỗi ngày thơ mộng vô tư lự cùng Tiểu Long Nữ trong cổ mộ đài, bao nhiêu nỗi nhớ nhung thiết tha dồn dập, khiến cho chàng thấy một niềm nhớ nhung tràn ngập tâm tư, phải kêu lên cho vơi bớt :
– Cô nương ơi ! Cô nương ! Giờ đây cô nương phiêu bạt nơi nào, cô nương ơi !
Lời kêu vô cùng thiết tha đến tận cõi lòng , tràn ngập tiếc thương như tiếng kêu của con nhạn lạc bầy trong đêm vắng.
Trằn trọc vẩn vơ suốt tàn canh, chàng thiếp đi lúc nào không hay biết.
Sáng tinh sương, tiếng thần điêu ríu rít trên ngọn cây tùng trước sân làm Dương Quá giật mình thức dậy.
Chàng dụi mắt , vươn tay mấy cái cho đỡ mỏi , lại ra ao rửa mặt, định vào sảnh đường để cáo biệt Quách Tĩnh rồi ra vườn dắt ngựa lên đường đi tìm Tiểu Long Nữ.
Quách Tĩnh đang đứng nơi đại sảnh, vừa trông thấy Dương Quá đã ân cần vui vẻ hỏi :
– Suốt đêm qua chắc con đã suy nghĩ điều hơn lẽ thiệt rồi, vậy con nên gặp Triệu sư phụ chịu nhận lỗi đi cho rồi .
Dương Quá từ tốn đáp :
– Thưa Quách bá bá, ở đời có hai điểm cần phải nhớ ơn : nhớ ơn người giúp mình khi đói rét, nhớ ơn kẻ dạy dỗ mình nên thân . Đối với người này tôi không hề chịu ơn gì hết. Hắn không giúp đỡ an ủi tôi một câu, chẳng dạy tôi một ngón võ nào, vậy thì tại sao tôi phải gọi hắn là sư phụ và buộc phải nhớ ơn hắn ?
Triệu Chí Kính đứng phía sau, nghe nói thẹn quá, nổi giận lôi đình đưa tay điểm vào “Hậu khê huyệt” của chàng.
Lối điểm huyệt này chỉ dùng bàn tay phớt qua trên ngón tay của địch thủ. Dương Quá đã biết trước nên vận khí vào ngón tay chờ sẵn và điểm ngay vào yếu huyệt trên tay y, Triệu Chí Kính đau quá tung chân đạp thật mạnh…
Hồi 32
ĐÔI LỨA GẶP NHAU TRONG BẼ BÀNG
Dương Quá vờ kêu lên :
– Xin đừng giận dữ và bạo động như vậy !
Vừa nói vừa chuyển mình dùng tay trái gạt vào lưng Triệu Chí Kính cách bả vai độ hai tấc năm phân.
Ngọn cước của Triệu Chí Kính đưa mạnh quá, sức mạnh dồn hết vào đòn độc đó, nên hai huyệt “chiếu hải” và “Thái khê” trong mình trống trơn, bị Dương Quá phản công lại, không sao gượng kịp, đành té xỉu xuống đất.
Tôn Bất Nhị thấy vậy vội đứng dậy nâng Triệu Chí Kính lên dùng ngón tay giải huyệt đạo cho Triệu Chí Kính .
Dương Quá thấy hành động của Tôn Bất Nhị , biết vị này võ công cao hơn Triệu Chí Kính một bậc, nên có vẻ ái ngại, lùi lại mấy bước rồi tránh sang một bên.
Tôn Bất Nhị là người luyện võ công nhiều năm, sự hiểu biết rất tinh vi nên thấy Dương Quá có lối đánh đỡ thần tốc đó thì tự nghĩ rằng :
– Dầu mình có giao đấu với hắn cũng chưa chắc đã giành được phần thắng .
Nghĩ như thế nên Tôn Bất Nhị nói với Triệu Chí Kính:
– Chạy đi thôi ! Chạy đi thôi !
Vừa nói vừa phẩy tay áo, lẹ làng tung mình qua cửa sổ như một cánh chim không kịp từ biệt Hoàng Dung và Quách Tĩnh lấy một lời .
Từ nãy đến giờ , Doãn Chí Bình như người mất trí, toan đến chất vấn Quách Tĩnh mấy câu , song Triệu Chí Kính khoa tay bảo :
– Thôi ! Còn mong mỏi làm gì nữa cho hoài hơi uổng tiếng.
Dứt lời , Triệu Chí Kính nắm áo Doãn Chí Bình kéo băng qua cửa sổ , phi thân đuổi theo Tôn Bất Nhị .
Quách Tĩnh và Hoàng Dung không trông thấy Dương Quá dùng tay chân điểm huyệt , mà sao Triệu Chí Kính lại bị xỉu xuống đất, nên cả hai đều lấy làm ngơ ngác nhìn nhau nghĩ thầm :
– Chắc có người thứ ba nào núp đâu đây ám trợ cho Dương Quá thì phải .
Quách Tĩnh vội vã nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn theo , nhưng không trông thấy một bóng người nào cả.
Hoàng Dung chợt bắt gặp đôi hài xanh của Quách Phù bỏ rơi gần lối ra vào , bèn cất tiếng gọi :
– Quách Phù con ! Con ở nơi nào vậy.
Quách Phù chạy ra , cười hì hì nũng nịu :
– Con đang xem sách với hai anh con trong phòng này .
Hoàng Dung vốn đã rõ tánh nết của ba đứa trẻ đó có bao giờ để ý đến sách vở đâu. Hôm nay chúng vờ xem sách chỉ là để nghe trộm câu chuyện của mình.
Tuy vậy, Hoàng Dung cũng bỏ qua không hỏi gì thêm.
Quách Tĩnh nhìn qua cửa sổ, không thấy một bóng ai. Với bản tính thật thà, Quách Tĩnh phỏng đoán :
– Nếu không có kẻ ám trợ Dương Quá thì làm sao sự việc lại xảy ra như thế được. Có lẽ Triệu Chí Kính muốn giết thằng bé Dương Quá , nhưng sau nghĩ thế nào lại thôi, rồi giả cách bị trúng huyệt rồi bỏ chạy.
Hoàng Dung trái lại không nghĩ thực thà như Quách Tĩnh . Bà cho rằng Dương Quá đã dùng bí thuật nào đây để ngầm hại Triệu Chí Kính , nhưng bà không trông kịp , vì lúc đó bà đứng phía sau lưng Dương Qua.
Điều thắc mắc của vợ chồng Quách Tĩnh không có gì là lạ vì cả hai đều chưa biết trên đời lại có “Ngọc nữ tâm kinh”.
Chính nhờ “Ngọc nữ tâm kinh” mà Dương Quá đã dự liệu được những hành động của đối phương và vì thế Toàn Chân giáo mới mang thảm bại.
Vợ chồng Quách Tĩnh đang ngấm ngầm nghi hoặc về sự chạy trốn của Tôn Bất Nhị và Triệu Chí Kính thì bỗng có một đệ tử Cái Bang chạy vào bẩm cáo :
– Thưa Bang chủ, có một vị khách ở xa đến xin yết kiến !
Hoàng Dung đưa mắt nhìn Dương Quá từ đầu đến chân rồi lặng lẽ theo Quách Tĩnh ra đón khách .
Trước khi cất bước, Quách Tĩnh quay lại dặn anh em họ Võ :
– Anh Dương Quá đây vốn là bạn với các cháu hồi nhỏ . Các cháu mời anh ấy vào trò chuyện cho vui.
Hai anh em họ Võ từ nhỏ tánh đã không hợp với Dương Quá , nay lại thấy Dương Quá quần áo lôi thôi, hình dáng tiều tuỵ thì có ý khinh khi, bèn gọi một gia nhân đến bảo dọn cho Dương Quá một chỗ để nghỉ ngơi rồi hai anh em trở ra tìm Quách Phù để hàn huyên tâm sự.
Nhưng Quách Phù lúc này lại săn đón Dương Quá hơn lúc nào hết . Nàng thấy Dương Quá có thái độ hững hờ không vui liền hỏi :
– Anh Dương Quá ơi ! Sao sư phụ anh lại không nhận anh nhỉ ?
Dương Quá thản nhiên đáp :
– Việc đó có gì khó hiểu . Chẳng qua vì tôi dốt nát, sư phụ tôi dạy mãi không được gì , nhất là tôi không biết chiều chuộng sư phụ tôi nên sư phụ tôi oán ghét tôi.
Anh em họ Võ nghe Dương Quá nói như chọc vào tai.
Võ Tu Văn không dằn được lòng bực tức gắt gỏng nói :
– Anh nói sao ?
Dương Quá vẫn nói với giọng cay đắng, đáp :
– Tôi nói là tôi vụng về, không làm vừa lòng sư phụ nên sư phụ bỏ tôi chứ sao ?
Quách Phù với nụ cười vô tư đon đả nói :
– Sư phụ anh là một nhà đạo sĩ mà tại sao lai có cái tính như đàn bà con gái, hay giận hay hờn như thế ?
Dương Quá đưa mắt nhìn Quách Phù thấy nàng cười tươi như hoa, vẻ đẹp kiều diễm không sao tả xiết. Cái đẹp của nàng là một cái đẹp hồn nhiên, không như những cái đẹp bóng loáng của các cô gái lầu hồng.
Trông thấy vẻ đẹp trang nhã thơ ngây ấy, Dương Quá có cảm giác là mình đang đứng trước một đoá hoa phù dung đang ướm nhuỵ.
Quách Phù thấy tự nhiên anh em họ Võ tỏ thái độ bất bình trước mặt Dương Quá thì lẫy làm lạ lắm. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc , linh tính của nàng đã cho nàng biết rằng chỉ vì mình có thái độ thân thiện với Dương Quá nên anh em họ mới có thái độ ấy.
Dương Quá quay mặt sang phía khác , không hề để ý đến tâm trạng của Quách Phù và anh em họ Võ lúc bấy giờ.
Tuổi Dương Quá tuy chẳng hơn anh em họ Võ và Quách Phù bao nhiêu, song nhờ chàng dấn thân trên bước giang hồ, phiêu lưu đây đó nên sự hiểu biết già dặn hơn.
Quách Phù thấy Dương Quá mơ màng đưa mắt nhìn sang phía khác mà nghĩ chuyện đâu đâu , liền dịu giọng nói :
– Dương đại ca ! Bây giờ đã tối rồi. Vậy Dương đại ca hãy vào phòng an nghỉ. Sáng mai chúng ta sẽ cùng trò chuyện.
Dương Quá sẽ gật đầu, không đáp, bước theo gia đinh vào phòng ngủ.
Nhưng chưa vào khỏi phòng, Dương Quá nghe Quách Phù nói với hai anh em họ Võ :
– Sao tôi thấy quý mến và thích nói chuyện với Dương đại ca quá. Nếu Dương đại ca võ nghệ sút kém, tôi sẽ yêu cầu phụ thân tôi rèn luyện cho Dương đại ca.
Lẽ ra đợi xem anh em họ Võ phản ứng trước câu nói này của Quách Phù thế nào, Dương Quá không thèm để ý, bước thẳng vào phòng, cởi hài trèo lên giường nằm ngay tức khắc.
Sau khi thẫn thờ suy nghĩ đó đây một lúc, Dương Quá ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết. Đến khi thức dậy , chàng thấy trời đã sáng, vội bước ra rửa mặt rồi lên đại sảnh dùng điểm tâm .
Vừa dùng điểm tâm xong, Dương Quá đã thấy Quách Phù đứng nơi hoa viên vẫy tay gọi :
– Dương huynh, hãy ra đây !
Dương Quá thấy hai anh em họ Võ cũng đã có mặt nơi đó nhưng cả hai đều đượm vẻ rầu rầu.
Dương Quá vừa cười , vừa chạy đến cất tiếng hỏi :
– Cô gọi tôi có việc gì thế ?
Quách Phù nói :
– Có chứ ! Tôi muốn anh và tôi, hai chúng ta cùng nhau dạo chơi trước cánh đồng này để anh có dịp kể lại cho tôi nghe những gì trong mấy năm qua mà anh vắng mặt.
Dương Quá chép miệng nghĩ thầm :
– “Ôi chao ! Kể lại chuyện cũ trong mấy năm thì biết bao giờ mới hết. Nhưng ta dại gì đem chuyện đời mình kể cho cô ta nghe “
Tuy nghĩ vậy nhưng Dương Quá vẫn tản bộ nối gót theo Quách Phù .
Đi được một lúc, Dương Quá ngoảnh lại thấy anh em họ Võ cùng lẽo đẽo theo sau.
Quách Phù vẫn biết anh em họ Võ theo mình, nhưng nàng làm như không hay biết, không để ý đến, cứ chuyện trò với Dương Quá một cách thân mật.
Dương Quá được thế khoa chân múa tay, nói trời nói đất làm cho Quách Phù cười như nắc nẻ. Tuy nhiên có nhiều chuyện Quách Phù cũng biết là Dương Quá đặt điều, song những câu chuyện bịa ấy rất duyên dáng và lý thú , ít người nghĩ ra được.
Hai người thong thả từng bước một , vừa đi vừa chuyện trò. đến một gốc hoè kia, cành lá rườm rà, thấy thoáng có bóng con ngựa ốm, lông lá xồm xoàm.
Anh em họ Võ bỗng ré lên cười lớn , chạy đến bên cạnh Quách Phù , trỏ tay vào con ngựa nói với Dương Quá bằng giọng chế diễu :
– Dương huynh mua con “Thiên lý mã” này ở đâu thế ? Chắc là quý lắm ! Khi nào gặp Dương huynh mua dùm tiểu đệ một con.
Võ Đôn Nho bĩu môi, xen vào :
– Đây là giống ngựa quý ở bên “Đại tư” chỉ có Dương huynh mới sắm nổi. Chúng mình làm gì có nhiều tiền mà mong ước.
Quách Phù ngắm con ngựa ốm tong, lại nhìn Dương Quá quần áo rách rưới , đầu tóc bù xù, không nhịn được , phá lên cười lớn .
Dương Quá cũng cười theo và nói :
– Tôi xấu thì tất nhiên con ngựa cũng xấu. Tục ngữ nói ” Thầy nào tớ ấy” có gì mà phải lấy làm lạ. Tôi chắc rằng ngựa của anh em Võ huynh phải là những con “Thần câu, tuấn mã”.
Võ Tu Văn ngắt lời nói :
– Anh em chúng tôi cũng không có con ngựa nào hơn con ngựa của Dương huynh. Chỉ có Quách muội đây được con ngựa hồng rất quý. Chắc Dương huynh còn nhớ được con ngựa đó trước đây ở Đào hoa đảo chứ ?
Dương Quá làm ra vẻ ngạc nhiên :
– Thì ra Quách bá bá đem con ngựa hồng ấy tặng cho cô nương rồi sao ! Tôi đâu có rõ…
Bốn người đang cười đùa vui vẻ , chợt Quách Phù chỉ tay về phía Tây nói :
– Mẫu thân tôi đang dạy phép “đánh bổng” kia mà !
Dương Quá ngẩng đầu lên, thấy Hoàng Dung đang cùng một ông lão trong Cái Bang ở tận chân núi thao diễn, người nào cũng cầm trong tay một cây bổng.
Võ Tu Văn nhướn mày nhìn ông lão một lúc rồi nói :
– Lỗ trưởng lão đã già, tinh thần suy kém, trí óc đã mờ, học đến bao giờ mới thuộc được “đả cẩu bổng pháp” đây.
Dương Quá nghe nói đến bốn tiếng “Đả cẩu bổng pháp” lòng bỗng nhiên bồi hồi . Tuy nhiên , chàng cố giữ lấy vẻ điềm tĩnh vờ như không để ý, ngoảnh mặt sang phía khác vờ ngắm cảnh đẹp núi non.
Quách Phù nói :
– Thân mẫu tôi thường nói môn “đả cẩu bổng pháp” là bảo vật của Cái Bang dùng để trấn áp trong bang và làm áp lực với bên ngoài. Phép ấy lợi hại lắm, không thể học trong mười ngày hai nửa tháng mà đạt được . Các anh chớ khinh khi ông lão đó .
Võ Đôn Nho thở dài nói :
– Nghe nói phép đó huyền diệu lắm, tiếc rằng chỉ được truyền cho ai làm Bang chủ mà thôi, không truyền cho người ngoài.
Quách Phù nói :
– Nếu mai kia anh được đề cử làm Bang chủ thì sẽ được Lỗ trưởng lão truyền lại cho chứ lo gì. Môn đánh bổng ấy chính phụ thân tôi còn chưa biết mà.
Võ Đôn Nho nói :
– Bọn hèn như mình làm gì được chức Bang chủ . A này, khi truyền dạy “Đả cẩu bổng pháp” cho Lỗ trưởng lão , có phải sư mẫu muốn truyền Lỗ trưởng lão thay thế chức Bang chủ phải không ?
Quách Phù nói :
– Sang năm nay, thân mẫu tôi sẽ giao hết tất cả mọi việc trong bang cho Lỗ trưởng lão. Tôi thường nghe thân mẫu tôi nói trong bang già trẻ không thiếu gì người , song phần nhiều là những hạng ham ăn, tham uống , những phường hữu thực vô danh, chỉ có Lỗ trưởng lão là khá hơn hết. Chờ khi nào lão học được “Đả cẩu bổng pháp” thành thạo, lão sẽ được chính thức làm Bang Chủ .
Võ Tu Văn nói :
– Cô đã được xem lối đánh bổng theo phép “Đả cẩu bổng” chưa ?
Quách Phù nói :
– Tôi chưa bao giờ được xem . Vả lại cũng không ai cho tôi xem .
Võ Tu Văn nói :
– Thế mà tôi xem rồi đấy !
Dứt lời, Võ Tu Văn cúi xuống lượm một cành cây ngắn quất nhẹ vào vai Võ Đôn Nho , nói :
– Đây này ! Phép “đánh chó” đây này !
Võ Đôn Nho quát lớn :
– A ! Ngươi dám bảo ta là chó sao ?
Quách Phù cười ngất nói :
– Thôi , chư huynh chớ tranh hơn thua. Tôi có ý kiến này …
Võ Tu Văn nói :
– Được , cô có ý kiến gì thì cứ giãi bày ra.
Quách Phù nói :
– Chúng mình lén đến xem thuật “Đả cẩu” như thế nào, để hiểu tại sao môn võ đó lại là một bí quyết lợi hại.
Võ Tu Văn vỗ tay khen :
– Hay lắm ! ý kiến của cô rất hợp lý.
Võ Đôn Nho lắc đầu , nhún vai nói :
– Không được ! Chúng ta đến xem lén, rủi sư mẫu biết được thì chết cả lũ.
Quách Phù thấy Võ Đôn Nho trái ý mình , nói giận dữ, mặt đỏ gay :
– Các anh muốn hiểu phép “đả cẩu” mà không đi xem lén thì làm sao mà biết được ! Tôi muốn xem ,các anh có đi theo tôi không thì mặc .
Võ Đôn Nho thấy Quách Phù giận dữ , không dám trái ý, đứng lặng thinh.
Quách Phù quay qua nói với Võ Tu Văn :
– Đây là buổi thao diễn môn võ công vào bậc nhất thiên hạ. Dầu chết cũng phải đi xem cho sướng mắt, huống hồ bọn ta đều là con cháu trong nhà, thân mẫu tôi có bắt gặp chẳng lẽ lại đem giết chết đi hết hay sao mà sợ ?
Dứt lời, Quách Phù quay sang hỏi Dương Quá :
– Thế nào ? Dương huynh cũng vui lòng đi với chúng tôi chứ ?
Dương Quá giả cách mải mê ngắm cảnh không nghe lời nói của Quách Phù nên không đáp lại.
Quách Phù hỏi lần nữa, Dương Quá mới làm bộ ngơ ngác quay lại hỏi :
– Cái gì nhỉ ? Đi đâu vậy ? Xa hay gần hả Quách cô nương ?
Quách Phù nói :
– Anh này hay thật! Nãy giờ chúng tôi tranh luận anh không để ý hay sao ? Thôi chẳng dài dòng, chúng tôi đi đâu anh theo đó là đủ .
Võ Đôn Nho ra vẻ cẩn thận , nói với Quách Phù :
– Cô rủ Dương huynh cùng đi e bất tiện .Dương huynh vốn quê kệch, không lanh lẹ, rủi sư mẫu trông thấy thì nguy cả lũ .
Quách Phù nói :
– Hai anh chớ lo . Hai anh đi trước, tôi và Dương huynh đi sau. Tôi đảm bảo mọi trách nhiệm.
Bốn người cùng cất bước.
Hai anh em họ Võ tuy chiều ý Quách Phù nhưng lòng không vui vì Quách Phù đi kèm một bên Dương Quá , làm cho anh em họ Võ thấy khó chịu.
Mặc dầu thế , anh em họ Võ chẳng bao giờ dám làm trái ý Quách Phù , sợ làm phật lòng nàng , nàng hờn dỗi mười bữa, nửa tháng không chuyện trò thì càng buồn hơn nữa.
Qua đến ngã rẽ, Quách Phù chỉ tay với anh em họ Võ :
– Hai huynh đi vòng đường này đến ẩn núp vào bụi cây cành lá rườm rà đó. Còn tôi và Dương huynh đi vòng đường này cũng đến đó luôn.
Anh em họ Võ đều gật đầu đồng ý .
Quách Phù nhìn ngắm Dương Quá thấy quần áo rách nát như kẻ ăn xin , thương hại nói :
– Để lát nữa về tôi nói với thân mẫu tôi may cho Dương huynh vài bộ quần áo để thay đổi. Ăn mặc thế này thì khó thương quá.
Dương Quá mỉm cười hỏi :
– Thế tôi ăn mặc thế này cô không thích à ?
Quách Phù nói ;
– Không phải không thích . Nhưng người của anh thế kia mà ăn mặc như thế thì khó coi quá. Nếu anh ăn vận đàng hoàng , lành lặn thì có lẽ thiếu nữ nhiều cô phải để ý đến !
Nói dứt câu, Quách Phù đỏ bừng mặt lên, e thẹn vì biết mình nói lỡ lời .
Dương Quá thấy vẻ e thẹn của Quách Phù làm cho nàng đẹp hơn lên rất nhiều. Hai má ửng hồng , làn mi thon thon, khoé mắt long lanh như mặt nước hồ thu, thật là một tuyệt thế giai nhân. Đem nàng so sánh với Lục Vô Song, Hoàng Nhan Bình, Gia Luật Yến thì nàng còn đẹp hơn gấp bội lần.
Dương Quá tự nhiên thấy lòng rạo rực vì men tình mới chớm bốc, bèn nói :
– Tôi hiểu nỗi buồn rầu của cô rồi.
Quách Phù cũng cười nói :
– Thật thế sao ? Dương huynh biết nỗi lòng của tôi sao ? Vậy thử nói ra xem sao.
Dương Quá nói :
– Tâm sự của cô lúc này là buồn phiền vì hai anh em họ Võ. Hai người ấy để ý thương cô mà cô chẳng bằng lòng ai cả ? Có đúng như vậy không ?
Quách Phù thấy Dương Quá hiểu rõ tâm sự của mình, tự nhiên bối rối, nghĩ thầm :
– ” Tâm sự của mình mà anh chàng này hiểu được. Nếu anh ra đem niềm riêng của mình nói ra cho mọi người làm cho các trấn quan nha đồn đãi anh em họ Võ bất bằng, thân phụ ta mà biết được thì xấu hổ lắm. Chi bằng nói thiệt với anh ta và dặn anh ta đừng thổ lộ với ai thì hơn!”
Nghĩ như thế , Quách Phù toan tỏ thật với Dương Quá nhưng ú ớ mãi mà nàng không đủ can đảm để tỏ bày. Và e thẹn của người con gái lại tràn ngập cả tâm tư.
Bỗng hai mắt nàng rớm lệ, rồi những giọt lệ đọng lại từ từ lăn trên hai gò má của cô bé.
Dương Quá thấy người đẹp đến lúc mủi lòng , liền tấn công thêm vài đòn tâm lý :
– Tôi thấy anh em họ Võ một người thì nho nhã phong lưu, một người thì kiêu hùng khí tượng. Người nho nhã phong lưu thì có thể cung cấp đủ yêu thương tình cảm, còn người khí tượng kiêu hùng thì có thể đem lại sự nghiệp vĩ đại trong đời, như vậy đâu có phải là bậc thường tình trong trong thế sự. Tôi chỉ tiếc cô nương không thể hoá thân thành hai để thụ hưởng hai tài năng khác biệt đó thôi.
Quách Phù nghe nói nghĩ thầm :
– Mình ta mà cả hai anh em họ Võ đều mến chuộng, ta phải làm sao để có thể làm vừa lòng cả hai người được ?
Nàng hỏi Dương Quá :
– Theo ý anh thì nên giải quyết ra sao ?
Dương Quá nhìn sắc diện và nghe hơi thở của Quách Phù thì biết nàng đã xiêu lòng thực sự trước những lời tâm huyết của mình, nên lầm bầm :
– Thế thì bỏ quách anh em họ Võ mà lấy tôi chứ khó gì !
Tuy nhiên câu nói ấy chàng không dám nói ra tiếng. Chàng chỉ ậm ừ để kéo dài giây phút đợi chờ của Quách Phù.
Không thấy Dương Quá trả lời, Quách Phù giục :
– Thế nào , Dương huynh thấy hai anh em họ Võ người nào khá hơn ?
Sở dĩ Quách Phù dám đường đột hỏi Dương Quá như vậy là vì hai người từ khi còn bé đã quen thân nhau, nay lớn lên, trai đương độ, gái đương thì, lời nói ấy vừa thực lòng vừa dối lòng để thử lòng nhau. Qua cử chỉ thân mật của Dương Qua, Quách Phù cũng phần nào cảm thấy lòng cảm mến của Dương Quá đối với nàng. Nhưng nàng cũng không quên anh em họ Võ từ tấm bé đến giờ sống chung với nàng, chiều chuộng nàng hết mực mà cũng nhiều phen vì nàng mà rầu rĩ, vì nàng mà vui tươi. Nhân cớ ây, nàng thử xem Dương Quá có vì sự thân mật của anh em họ Võ đối với nàng mà phản ứng chăng…
Quả nhiên, Dương Quá nghe Quách Phù hỏi , đáp ngay :
– Tôi xem hai anh chàng họ Võ đều là phương bất hảo cả!
Quách Phù làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi : – Sao ? Họ bất hảo ở chỗ nào ?
Dương Quá nói liền :
– Nếu họ không phải là kẻ bất hảo thì Dương Quá này còn hy vọng gì nữa ?
Dứt lời, Dương Quá phá lên một trận cười lớn để che lấp cái vẻ lì lợm của mình.
Quách Phù đưa mắt nguýt Dương Quá một cái rồi chẳng nói gì nữa.
Từ đó , hai người sát cánh nhau, vừa đi vừa cười đùa vui vẻ, ríu rít như đôi chim đã tìm ra tổ ấm. Tuy nhiên, đối với Dương Quá chàng chỉ cốt đùa vui ngoài mặt chứ không có tà ý gì khác .
Qua một lúc, bỗng Dương Quá nín lặng không nói năng gì với Quách Phù nữa.
Quách Phù tự thấy làm khó chịu, nắm tay Dương Quá níu lại hỏi :
– Sao anh lại đờ người ra như thế ?Không tươi tỉnh hơn lên !
Quách Phù từ thưở bé vốn là một đứa con cưng. Chỉ có nàng giận hờn người khác chứ người khác chưa bao giờ dám giận nàng.
Dương Quá hiểu lẽ đó, làm ra vẻ nghiêm trọng nói :
– Gần đến nơi rồi . Phải cẩn thận chứ ! Cô nương không sợ dư luận ư ?
Quách Phù như vừa tỉnh cơn mộng, gật đầu , rồi dùng khinh công leo núi, băng qua lối mòn, thoăn thoắt như thỏ vượt rừng hoang, chạy về phía sau núi.
Nàng bỏ Dương Quá đến hơn một dặm.
Dương Quá thững thờ như chợt nhớ lại một điều gì trong trí óc. Chàng lẩm bẩm :
– “Ta đuổi theo ba đứa này làm gì nhỉ ? Sao ta không nhân lúc này tránh xa chúng đi ? “
Nghĩ như vậy, chàng thong thả đi từng bước một và xem xét lại cử chỉ của anh em họ Võ đối với Quách Phù.
Anh em họ Võ xem Quách Phù như một tiên nữ giáng trần, người nào người nấy lúc nào cũng lo sợ không biết nàng tiên ấy có để bụng mình chăng ! Ôi, sống giữa cái đời nước mắt nhà tan mà thân trai chỉ biết đem thờ phụng ái tình thì còn gì là danh dự. Dương Quá lần lần tản bộ theo lối khác , không đi theo hướng của Quách Phù .
Quách Phù chạy một lúc ngoảnh đầu lại không thấy Dương Quá đâu, đoán là Dương Quá không thạo khinh công nên không theo nàng kịp, nàng liền phóng người quay lại tìm kiếm. Nàng trở lại một đoạn đường bắt gặp Dương Qua, nhưng thấy Dương Quá không đi theo mình mà lại đi theo một hướng khác, lấy làm lạ tự hỏi :
– Anh chàng này sao ngu ngốc thế nhỉ ?
Quách Phù vận dụng hết sức lực của mình chạy lên đón đầu Dương Qua, hỏi :
– Sao không đi với tôi mà lại rẽ hướng khác /
Dương Quá thản nhiên đáp :
– Quách cô nương, xin cô làm ơn bẩm hộ với lệnh tôn đường là tôi xin phép đi phương khác.
Quách Phù ngạc nhiên, nhìn đăm đăm vào mặt Dương Quá hỏi :
– Tại sao anh có ý định bỏ đi một cách hấp tấp như thế ?
Dương Quá cười nhạt nói :
– Do sự bất ngờ mà tôi đến đây, nay xét ra tôi ở lại cũng vô ích, nên lại xin ra đi một cách bất ngờ như khi đến vậy !
Quách Phù lúc này đối với Dương Quá đã có ý cảm mến, tuy chưa tỏ ý cho Dương Quá biết. Nay Dương Quá định bỏ đi, làm sao nàng không quyến luyến.
Nàng buồn bã nói :
– Dương huynh, anh em ta lâu ngày xa cách nhau, còn nhiều việc tâm sự, sao Dương huynh đã vội dứt dây thân ái.
Dương Quá lầm lì nét mặt không đáp .
Quách Phù tìm cách để giữ Dương Quá lại, nói tiếp :
– Đại ca ơi ! Đêm nay mới khai mạc Anh hùng yến, các tay hảo hán đều tụ họp nơi đây đủ mặt, sao đại huynh không ở nán lại dự hội cho vui ?
Dương Quá cười nhạt nói :
– Tôi đâu phải là anh hùng mà dự Anh hùng yến . Nếu ở lại đây các vị anh hùng thấy mặt cười cho thì mang xấu .
Quách Phù lâu nay sống trên đảo , ít tiếp xúc với ai nên lời nói cũng không thận trọng . Nàng vụt miệng nói :
– Trong trang viện họ Lục thiếu gì người không biết võ công. Vậy anh hãy lưu lại lo việc trông nom sai bảo bọn gia đinh lo cơm nước , nhân đó xem hội luôn.
Tuy Quách Phù không có ý khinh Dương Quá mà chỉ cốt nói sao cho Dương Quá ở lại, nhưng nàng vụng về đến nỗi như khing người.
Dương Quá nghe Quách Phù nói mấy câu ấy, lòng hậm hực vô cùng, song cũng nén giận nghĩ thầm :
– Nếu nàng khinh ta, ta sẽ ở lại để cho nàng biết ta như thế nào !
Nghĩ như vậy, Dương Quá nói :
– Được vậy rhì còn gì hơn!
Quách Phù thấy Dương Quá nhận lời mình thì vui vẻ nói :
– Thôi, chúng ta tiến lên mau kẻo trễ mất. Thân mẫu tôi diễn xong môn võ ấy thì hết cả thú vị.
Nói xong, nàng quay người cất bước . Dương Quá cố làm ra vẻ chậm chạp tiếp bước theo sau.
Khi gần đến chỗ Hoàng Dung dạy võ thì đã thấy anh em họ Võ đang vắt vẻo ngồi trên một cành cây rậm rạp, um tùm ngó đầu nhìn ra.
Quách Phù nhún mình một cái, nhảy lên một cành, rồi đưa tay xuống kéo Dương Qua. Dương Quá nắm lấy tay nàng thấy mềm mại và man mát, cũng có đôi phần rạo rực, lòng chàng có ý nghĩ :
– “Cô ta tuy đẹp thật, song cái đẹp của cô ta đâu bằng Tiểu Long Nữ “
Quách Phù kéo Dương Quá lên đến một cành cây, quay lại hỏi anh em họ Võ :
– Thân mẫu tôi đã khai diễn chưa ?
Võ Tu Văn chỉ tay về phía trước nói thấp giọng :
– Lỗ trưởng lão đang tập luyện kia kìa. Còn sư mẫu và sư phụ vừa nói rủ nhau đi đâu, chẳng biết là có việc gì !
Quách Phù vốn sợ cha nên nghe nói có mặt Quách Tĩnh ở đây thì lấy làm ái ngại. Nàng nhìn ra thấy Lỗ Hữu Cước đang cầm một đoạn tre múa đông đánh tây, chẳng có pháp thuật nào ra vẻ lợi hại mà người ngoài phải sợ cả.
Nàng thì thầm :
– Đánh múa như thế mà gọi là “Đả cẩu bổng pháp” ư ?
Võ Đôn Nho nói :
– Đã lâu rồi, sư mẫu dạy cho lão đánh múa hay lắm, nhưng vừa rồi sư phụ gọi sư mẫu đi chỗ khác nói chuyện riêng, nên lão mới tập dượt một mình đó.
Quách Phù xem Lỗ Hữu Cước mua thêm mấy đường bổng nữa, không nhận thấy có gì gọi là huyền diệu, bèn bảo mọi người :
– Lỗ trưởng lão chắc học không thuộc nên múa bậy bạ xem chán mắt quá. Thôi, chúng ta đi là hơn.
Tuy nhiên dưới mắt của Dương Quá , chàng thấy lối múa của Lỗ trưởng lão giống hệt lối đánh đỡ mà Hồng Thất Công đã truyền dạy cho chàng nơi núi Hoa Sơn. Chàng tủm tỉm cười , nói một mình :
– Bọn chúng ngu dốt chẳng hiểu gì mà cứ tự phụ !
Bỗng có tiếng chân người sột soạt dẫm trên cỏ khô từ phía đằng xa vọng lại. Cả bọn nhìn xuống thì thấy Quách Tĩnh đang cùng với Hoàng Dung đi tản bộ gần đó.
Quách Tĩnh vừa đi vừa nói :
– Việc chung thân của Quách Phù, mình không thể coi thường được. Dương Quá còn trẻ người non dạ, chúng ta không nên chấp trách chuyện lầm lỡ của nó. Ta nên gầy dựng cho nó mới phải !
Hoàng Dung nói :
– Ông nghĩ đến tình xưa giữa hai nhà họ Dương và họ Quách cũng phải, song tôi thấy tánh nó giống cha nó quá, nên tôi phân vân không muốn gả Quách Phù cho nó .
Cả Dương Qua, Quách Phù lẫn anh em họ Võ đang núp trên cây , nghe vợ chống Quách Tĩnh bàn như thế đều lấy làm kinh hãi.
Anh em họ Võ nghĩ thầm :
– “Chẳng biết giữa họ Dương và họ Quách trước kia đã toan tính như thế nào mà sư phụ mình lại muốn gả Quách Phù cho Dương Quá nhỉ ?”
Cả ba chàng trai đang nấp trên cây, nghe câu chuyện đó ai cũng cho là chuyện hệ trọng có liên quan đến cuộc đời của mình nên tất cả đều chăm chú theo dõi.
Quách Tĩnh nói :
– Nghĩa đệ Dương Khang lưu lạc sang nước Kim, tính đột nhập vào Vương phủ , không ngờ bị trúng kế của giặc phải chết một cách thảm thương, đầu một nơi, thân một nẻo, thịt da chôn vào bụng quạ. Nếu Dương huynh đệ chịu nghe theo lời thúc phụ Dương Thiết Tâm dạy bảo thì đâu đến nỗi !
Hoàng Dung thở dài, than :
– Cứ nghĩ việc ấy xảy ra ở Gia Hưng Vương miếu thuở nào mà tôi lại rùng mình kinh sợ.
Nói đến đây, Hoàng Dung hạ thấp giọng thì thầm :
– Việc đã lỡ rồi thì biết làm sao ?
Dương Quá từ tấm bé đến giờ chưa được rõ thân thế, cảnh ngộ của mình ra sao. Chàng chỉ biết cha chàng chết sớm vì bị người ta giết. Còn bị giết tại đâu ? Chết bằng hình phạt gì ?thì chẳng được ai nói lại cả. Ngay như mẹ chàng lúc sinh thời cũng chẳng nói cho chàng hay việc ấy.
Nay nghe Quách Tĩnh nói đến việc cha mình lưu lạc đến nước Kim, đột nhập vào Vương phủ trúng kế giặc. Lại nói cha chàng chết không toàn thây, đầu một nơi, người một nẻo, thịt da chôn vào bụng quạ. Chàng lấy làm kinh sợ, toàn thân run lên, mặt tái mét.
Quách Phù thấy nét mặt Dương Quá biến đổi lạ lùng, chẳng hiểu ra sao, nói nhỏ :
– Dương huynh sợ quá ư ? Đừng sợ gì cả, cứ bấu chặt vào cành cây kẻo rơi xuống bây giờ.
Dương Quá chỉ ấm ớ không nói.
Bấy giờ vợ chồng Quách Tĩnh dắt nhau đến ngồi dưới một gốc cây tùng gần đó. Quách Tĩnh nhìn Hoàng Dung âu yếm nói :
– Từ ngày phu nhân mang thai đến nay, ta thấy sức khoẻ của phu nhân không còn tốt như ngày xưa nữa. Vậy nên giao việc Cái Bang cho Lỗ trưởng lão để phu nhân có thì giờ nghỉ ngơi.
Hoàng Dung nói ;
– Việc trong Cái Bang không làm cho tôi bận rộn bằng việc chung thân của Quách Phù. Việc này đã làm cho tôi phải lo nghĩ nhiều.
Quách Tĩnh nói :
– Phái Toàn Chân đã không thu nhận Dương Qua, vậy ta phải nuôi nấng dạy dỗ nó . Tôi xem nó thông minh hơn người, nếu mình đem hết khả năng rèn luyện cho nó thì chắc ở dưới suối vàng cha nó cũng vui mừng là trên đời này đã có người bạn tốt chăm sóc, bảo vệ cho nó.
Nghe đến đây, Dương Quá mới biết Quách Tĩnh là bạn chí thân của cha mình. Ba tiếng “Quách bá bá” mà chàng thường gọi hàng ngày chính là đã bao hàm một ý nghĩa trọng đại.
Nghĩ như thế, Dương Quá cảm động đến ứa hai dòng lệ…
Trong lúc Quách Tĩnh đang trầm ngâm thì Hoàng Dung nói :
– Tôi chỉ ngại nó thông minh quá mà hại đời nó. Vì vậy , trước đây tôi định dạy cho nó học đọc sách, không học võ nghệ, cốt hy vọng sau này nó trở thành một người rõ nghĩa lý, đường đường một trang nam nhi trong học giới, rồi sẽ gả Quách Phù cho nó,. Như vậy là đẹp đôi. Ai ngờ …
Quách Tĩnh mỉm cười ngắt lời vợ :
– Phu nhân xem tôi không thông minh ư ? Thế nào, thông minh không làm hại được tôi. Vả lại Quách Phù có một hình dáng “anh thư”, lại năm ba môn võ công, bắt nó làm vợ một thư sinh yếu đuối thì làm sao nó bằng lòng. Vợ chồng như vậy không thể sống trong hạnh phúc được.
Hoàng Dung nghĩ một lúc rồi nói :
– Việc mình thu nhận Dương Quá không khó, chỉ khó là đối xử với anh em họ Võ làm sao cho đẹp ý. Theo nhận xét của Tỉnh ca thì trong hai anh em họ Võ, người nào khá hơn?
Nghe câu này, anh em họ Võ và Quách Phù lòng nóng như lửa đốt. Còn Dương Quá thì cho là không can hệ gì đến mình. Tuy nhiên, chàng cũng để ý nghe để tìm hiểu xem sự phê phán của vợ chồng Quách Tĩnh như thế nào ?
Quách Tĩnh trầm ngâm rồi thở phào ra một hơi, nói :
– Tài năng con người ta không thể nói trước được, chờ khi nào lâm sự, ai hơn, ai kém mới biết rõ.
Giọng nói êm dịu của Quách Tĩnh như rót vào tai người nghe.
Hoàng Dung chưa kịp tỏ ý thì Quách Tĩnh đã nói tiếp :
– Quách Phù còn nhỏ tuổi, việc đôi lứa kéo dài thêm vài năm cũng chưa muộn.Mà như vậy mình có đủ thì giờ để xét đoán việc hơn thiệt. Mình làm cha mẹ không nên vội vã làm hỏng việc trăm năm của con gái. Tôi xem mấy hôm nay phu nhân phải dạy võ thuật đánh bổng cho Lỗ trưởng lão, trong người chắc không được khoẻ khoắn. Vậy chúng ta hãy gác việc này lại, bàn vào dịp khác.
Dứt lời, Quách Tĩnh đứng dậy, rảo bước về trang trại.
Hoàng Dung ngồi một mình trên tảng đá, thỉnh thoảng hít mạnh khí vào như để điều hoà huyết quản.
Một lúc sau, Hoàng Dung gọi Lỗ Hữu Cước đến diễn lại thuật đánh bổng mà nàng đã truyền dạy.
Lúc này, Lỗ Hữu Cước đã gần thuộc ba mươi sáu thế trong “đả cẩu bổng pháp”. Lão múa để trình diễn. Tuy nhiên, những bí quyết quan trọng trong mỗi đường lão chưa hiểu đến đâu cả.
Hoàng Dung lần lượt giảng cho lão từng bí quyết một để luyện tập.
Môn võ “đả cẩu bổng pháp” này là môn võ công thật là cao siêu huyền bí mà bí quyết của nó thì còn thần diệu hơn nữa. Thật vậy, chỉ cần một đoạn tre mà có thể dùng làm vật trấn thủ quý báu của Cái Bang.
Xem như Âu Dương Phong lợi hại là thế mà cũng phải nghĩ ngợi suốt một đêm mới khám phá ra được ít nhiều.
Lỗ Hữu Cước được Hoàng Dung chỉ dạy phép đánh bổng được gần một tháng nay.Lúc này ông ta được dạy thêm về cách biến hoá của các chiêu thức,các bí quyết trong các ngón tân kỳ . Nếu Lỗ Hữu Cước không phải là người thông minh thì không thể nào lãnh hội được.
Hai anh em họ Võ và Quách Phù không hiểu gì cả, nên thấy Lỗ trưởng lão múa máy linh tinh thì cho là chuyện thường, chứ có biết đâu trong mỗi thế đều có biến thế từ một đến mười tám rồi từ mười tám đến ba mươi sáu, đủ cả công thủ.
Vì cho rằng những thế đánh đỡ của Lỗ Hữu Cước đang luyện tập chỉ là những miếng đánh đỡ của trẻ con nên anh em họ Võ và Quách Phù không muốn xem nữa, định tụt xuống ra về, nhưng vì sợ Hoàng Dung trông thấy nên cả ba đành nằm bẹp xuống, chờ cho Hoàng Dung về sớm để thoát thân.
Tuy nhiên, trái với ý muốn của anh em họ Võ và Quách Phù, Hoàng Dung không về vội, vì sợ đêm nay trong đại hội “Anh hùng yến” , Hoàng Dung phải trao quyền Bang chủ cho Lỗ Hữu Cước, do đó Hoàng Dung phải dạy cho Lỗ Hữu Cước thuộc lòng môn “đả cẩu bổng pháp” theo đúng quy luật của Cái Bang đã định.
Chỉ phiền một nỗi là Lỗ Hữu Cước lúc này đã già, sức yếu, hơn nữa trí óc đã lụt, nên nhiều chỗ Hoàng Dung phải dạy đi dạy lại nhiều lần ông ta mới lãnh hội được.
Hoàng Dung năm mười sáu tuổi đã quen biết Quách Tĩnh nên bà chịu ảnh hưởng rất nhiều ở tính cách của Quách Tĩnh . Sự trầm lặng và kiên nhẫn có thừa. Chính vì thế nên khi truyền dạy võ công có gặp những học trò dốt nát, chậm trễ, bà cũng không hề cáu gắt mà cứ dạy đi dạy lại cho đến khi biết hết thì thôi.
Theo quy luật của Cái Bang, phép “đả cẩu bổng pháp” chỉ được truyền miệng , không được ghi ra thành sách vở. Vì thế nên người dạy rất vất vả . Đôi khi , chỉ có một chiêu thế nhưng Hoàng Dung phải giảng giải đến hàng ba bốn canh giờ.
Nhưng thời gian kéo dài càng lâu bao nhiêu thì càng có lợi cho Dương Quá bấy nhiêu.
Trước kia, Dương Quá ở trên đỉnh Hoa Sơn được Hồng Thất Công truyền thụ mấy thế trong “đả cẩu bổng ” nhưng toàn là chiêu thức chân tay, chứ không có khẩu quyết biến hoá của các thế. Bởi lẽ Hồng Thất Công cho rằng :”Dẫu có truyền dạy cho Dương Quá các chiêu thức đánh đỡ mà không truyền thụ cho nó khẩu quyết biến hoá thì nó cũng chẳng làm gì được và như thế thì Hồng Thất Công ta cũng chẳng vi phạm quy luật của Cái Bang”.
Không ngờ trời xui đất khiến thế nào mà Dương Quá lại gặp dịp dể ghi nhận lại toàn bộ của “Đả cẩu bổng pháp”. Dương Quá bản tính thông minh gấp hàng trăm lần Lỗ trưởng lão nên mỗi thế chàng chỉ nghe qua là thuộc làu làu, không sai một chữ.
Còn Lỗ Hữu Cước thì có khi phải nhắc đi nhắc lại đến ba bốn lần mà vẫn chưa thuộc.
Hoàng Dung đang mang thai, lại phải chỉ dạy cực nhọc nên chỉ mới nửa ngày, bà đã thấm mệt, không gượng được nữa, phải ngồi nghỉ trên tảng đá, nhắm mắt để bồi bổ tinh thần.
Một lúc sau, Hoàng Dung cất tiếng gọi :
– Phù nhi ! Cả Văn, Nho , Qua nhi nữa ! Các con xuống đây cả đi.
Cả bốn người đang nấp trên cành cây rậm rạp, nghe kêu đích danh, thất sắc nhìn nhau nói thầm :
-“Ôi chao ! Sao Hoàng sư mẫu tài tình đến thế nhỉ ? Làm thế nào mà bà có thể phát hiện được chúng ta núp ở nơi đây nhỉ ? “
Quách Phù nhanh nhẩu chạy xuống trước, tìm lời nũng nịu :
– Mẫu thân ơi ! Sao mà mẫu thân tài tình đến thế ? Biết chúng con ở đây ư ?
Dứt lời nàng dùng thế “Nhũ yến đầu lâm” phóng mình đến trước mặt Hoàng Dung, anh em họ Võ cũng nhảy xuống đứng hầu một bên, duy chỉ có Dương Quá làm bộ ngờ nghệch, hai tay vịn cành cây chuyền xuống rất nặng nề chậm chạp.
Khi đã đủ mặt bốn người , Hoàng Dung lên giọng mắng :
– Các con tài nghệ chưa vào đâu, giang hồ chưa từng trải, sao lại đến ẩn núp nơi đây làm gì ?
Quách Phù lấy thân tình mẹ con, vừa cười vừa nói :
– Thưa mẫu thân, việc này là do con rủ ba anh ấy, lỗi ở con cả mà. Con muốn xem “Đả cẩu bổng pháp” như thế nào vì nghe nói môn võ này nổi danh thiên hạ , nhưng lúc đến xem Lỗ trưởng lão luyện tập thì thấy môn võ này tầm thường quá, thực chất chẳng có gì là lợi hại cả.
Hoàng Dung nghe Quách Phù nói, vừa cười vừa lấy đoạn tre ở tay Lỗ trưởng lão , hăm :
– A ! Con dám chê môn võ này không hay sao ? Vậy giữ lấy thân, ta sẽ “đả cẩu” cho mà xem này !
Quách Phù chăm chăm nhìn tay Hoàng Dung, định bụng đoạn tre kia ném tới, nàng sẽ nhảy lên né tránh .
Nhưng thoáng một cái, đoạn tre kia đã bay vù đến hai ống chân nàng, Quách Phù thất kinh kêu lên :
– Thôi thôi ! Con xin má ! Để con thủ thế đã.
Hoàng Dung rút cây bổng lại , rồi cười và hỏi :
– Con thủ thế gì bây giờ ?
Suy nghĩ một lúc, Quách Phù bảo anh em họ Võ :
– Hai anh đứng hai bên, tôi đứng chính giữa, xoạc hai chân ra và nắm lấy tay nhau thì vững như núi Thái Sơn.
Hai anh em họ Võ liền làm theo lời Quách Phù.
Khi đã thủ thế xong, Quách Phù nói :
– Bây giờ mẫu thân “đả cẩu” đi. Chúng con đứng thế này thì dẫu có dùng “Giáng long thập bát chưởng” cũng chẳng thể làm gì nổi !
Hoàng Dung cười nụ , cầm cây bổng lướt qua mặt ba người. ba người thấy như bị một luồng gió tạt mạnh vào mặt, người nào cũng lùi để né tránh và nhanh như chớp, cây bổng luồn vào chân ba người làm ba người té lăn ra đất.
Cả ba vội đứng lên , Quách Phù nói :
– Mẫu thân ơi ! Ngón đánh đó gọi là gì mà lợi hại thế ?
Hoàng Dung nói :
– Đây là thuật “Đả cẩu bổng pháp” Nhưng chỉ là một thế thường trong ba mươi sáu thế mà ta mới truyền dạy cho Lỗ Trưởng lão chứ chưa phải là các ngón bí quyết của thế võ. Nếu muốn thòng lọng bắt các con, ta sẽ buộc vào đầu cây gậy này một đoạn dây, đoạn dây sẽ mắc vào cổ các con không thể nào giãy giụa nổi. Với môn võ này , thì cho dù các con có ” Giáng Long Thập Bát Chưởng” cũng đành bó tay. Thật là một môn võ siêu đẳng trong thiên hạ .
Những lời giảng giải trên , Dương Quá nghe đến đâu thì gật đầu đến đấy, chàng cảm thấy sung sướng vì mình đã gặp vận may.
Còn anh em họ Võ và Quách Phù thì bỡ ngỡ, chẳng hiểu vào đâu cả, vì chúng chưa rõ căn nguyên của diệu pháp.
Hoàng Dung lại giảng giải tiếp :
– Phép sử dụng “đả cẩu bổng” của Cái Bang có chỗ khác biệt với các môn phái khác ở chỗ : tuy học được chiêu thức thì cũng chưa thể dùng được khi chưa biết được các khẩu quyết của các thế. Các bí quyết ấy dầu người thông minh đến đâu cũng không thể nào lần ra được. Nói tóm lại, những bí quyết khẩu truyền ngoài ta ra không ai có. Vì vậy cho dù có nhìn trộm, học lén cũng chẳng có ích gì !
Quách Phù cười rồi nũng nịu nói :
– Môn võ lợi hại thế mà sao mẫu thân lại không truyền lại cho đứa con cưng của mẫu thân ?
Hoàng Dung rất cưng cô con gái này. Tuy nhiên, với đòi hỏi đó, Hoàng Dung chỉ mỉm cười nói :
– Con cùng hai anh đi chơi đâu đó đi !
Đoạn bà quay sang bảo Dương Quá :
– Qua nhi! Ta có việc cần hỏi, con ở lại một chút.
Khi anh em họ Võ và Quách Phù đã dắt tay nhau đi khỏi, Hoàng Dung nói với Lỗ Hữu Cước :
– Lão hãy còn chậm chạp lắm ! Hôm nay ta mệt, vậy hãy tạm để ngày mai học tiếp.
Lỗ Hữu Cước tuân lệnh, cầm cây bổng theo chân Quách Phù và anh em họ Võ trở về trang viện.
Dương Quá còn lại một mình, chàng thấp thỏm nghĩ thầm :
– Không lẽ riêng mình ta chịu tội xem trôm thế võ “đả cẩu” chăng ?
Nhưng không, Hoàng Dung thấy Dương Quá thần sắc không được tự nhiên, bèn cầm tay chàng dắt đến một phiến đá, bảo ngồi một bên và nói :
– Dương Quá con, con còn có những khúc mắc gì , ta đâu có biết ? Dầu ta có hỏi , chắc con cũng chẳng nói thật. Ta lúc tuổi trẻ, tính tình nhiều khi quái ác. Nhưng từ khi gặp được Quách bá bá con , tánh tình ta chịu ảnh hưởng rất nhiều …
Nói đến đây, Hoàng Dung thở ra một hơi dài não ruột, bà lại tươi tỉnh mỉm cười nói tiếp :
– Ta không dạy con võ nghệ là dụng ý muốn con là một người tốt, ngờ đâu, vì ý nghĩ của ta mà gây cho con biết bao đau khổ đoạ đày.
Ngừng một lúc, bà nhìn Dương Quá nói với giọng thân mật :
– Qua nhi ! Quách bá bá của con thương yêu ta lắm. Tình thương ấy sâu như biển cả , há ta chẳng đáp đền ư ? Quách bá bá con lại để ý đến con, mong tác thành cho con làm thế nào để con sau này trở thành một trang tuấn kiệt. Vì cảm tình của Quách bá bá con, ta muốn dạy dỗ con để người được toại nguyện. Con đừng nghĩ quanh co đến những việc đã qua mà làm phật lòng Quách bá bá của con như thế . Con nghĩ sao ?
Lời ngọt ngào êm dịu đầy vẻ yêu thương thành thực và ánh mắt của Hoàng Dung lúc đó hiện ra những nét chân thành khiến cho Dương Quá cảm động quá. Bất giác chàng nức nở khóc.
Hoàng Dung vỗ nhẹ vào đầu Dương Quá nói :
– Qua nhi ! Đây là những lời thành thực phát ra từ đáy lòng ta. Trước kia, chỉ vì ta không ưa cha con mà ghét lây đến con. Từ nay trở đi, ta thề sẽ thương con hết mức, đợi đến khi ta sanh nở xong xuôi, ta sẽ đem hết võ công truyền dạy cho con.
Hoàng Dung càng nói, Dương Quá càng khóc, cái khóc cởi mở của một đứa bé đã cô đọng nhiều khúc mắc trong tiềm thức.
Được một lúc , Dương Quá sụt sùi nói :
– Quách bá mẫu, trăm sự nhờ ở tình thương của bá mẫu.
Hoàng Dung vuốt đầu Dương Quá nói :
– Hôm nay ta mệt mỏi lắm. Đợi vài hôm nữa ta sẽ nói hết cho con nghe cũng chẳng muộn gì ! Có điều cần làm là con ăn ở cho phải đạo trời đất là ta mừng rồi. Đợi đến khi xong đại hội Cái Bang, con sẽ thấy lòng ta đối với con là thực hay hư ảo.
Dương Quá nghĩ đến việc Hồng Thất Công qua đời, chàng muốn nhân đại hội Cái Bang này đem việc ấy trình bày cho mọi người rõ, nên chàng ưng thuận ở nán lại.
Cả hai chuyện trò dưới gốc cây, thổ lộ tất cả các suy nghĩ của mình. Bao nhiêu sự bất mãn trước đây đều xoá nhoà trong trí nhớ, và quyện theo mây khói thời gian.
Phá tan được thù hận , ngờ vực, Dương Quá vui mừng lắm. Từ ngày cùng Tiểu Long Nữ cách biệt đến nay, có lẽ hôm nay Dương Quá mới thấy lòng mình có hy vọng về tương lai…
Hồi 33
BỌN MÔNG CỔ XUẤT HIỆN PHÁ ANH HÙNG YẾN
Trò chuyện được một chập, Hoàng Dung cảm thấy trong bụng chuyển đau dần dần, nên uể oải đứng dậy bảo Dương Quá :
– Thôi, chúng ta nên về đi là vừa !
Nói xong, Hoàng Dung nắm tay Dương Quá dắt đi bách bộ thong thả trên con đường về, Gió chiều nhè nhẹ thổi, nhiều cánh bướm bay chập chờn trên các bụi cây hai bên đường, cảnh sắc đượm vẻ êm đềm thơ mộng.
Bước theo Hoàng Dung, Dương Quá dự định đem câu chuyện Hồng Thất Công đã chết trên đỉnh Hoa Sơn để thuật lại cho bà nghe. Chàng nói :
– Quách bá mẫu …
Trong lúc này, cơn đau bụng của Hoàng Dung lại gắt hơn trước. Nhiều lúc cơn đau tăng quá, bà phải cố vận công chịu đựng, hơi thở bị đứt quãng. Nghe Dương Quá nói, bà nhăn mặt nhìn chàng rồi lắc đầu đáp :
– Bây giờ ta đang đau bụng quá, có chuyện gì chờ sáng mai hãy nói !
Dương Quá nhìn mặt Hoàng Dung thấy nước da tái mét. Mồ hôi đổ lấm tấm trên trán và nơi cổ, đôi mắt lờ đờ, mới nhìn như một thây ma, không còn chút sắc khí. Nắm tay bà thấy lạnh buốt như nước mùa đông.
Chàng vội vàng nắm chặt bàn tay bà rồi vận công chuyển nội lực sang người Hoàng Dung.
Lối truyền nội công này là một công phu thượng thặng trong “Ngọc nữ tâm kinh” mà Dương Quá đã cùng Tiểu Long Nữ luyện tập khi còn ở trên Chung Nam Sơn lúc trước.
Vốn đã có một căn bản nội công thâm hậu, nay lại được Dương Quá truyền thêm nhiệt lực vào, Hoàng Dung cảm thấy một luồng hơi ấm từ lòng bàn tay thâm nhập vào khắp cơ thể, trong người trở nên sảng khoái, và không bao lâu cơn đau đã biến mất, hơi thở điều hoà trở lại, đi đứng được tự nhiên như cũ.
Xưa kia, tại Lâm An, trong hoàng cung vua Tống, Quách Tĩnh đã bị Âu Dương Phong dùng chưởng lực Hàm mô công đánh trọng thương. Hoàng Dung phải cõng Quách Tĩnh về trốn trong mật thất tại Ngưu gia thôn, áp dụng phương pháp luyện công trong Cửu Âm Chân Kinh , ấp hai bàn tay cũng nhau truyền nội lực , tĩnh dưỡng trong suốt bảy ngày bảy đêm liền mới chữa hết vết âm thương.
Hôm nay, thấy Dương Quá nắm tay mình truyền nội lực, chỉ trong chốc lát đã thấy khoan khoái và sức lực mạnh hơn trước gấp mấy lần, cơn đau cũng đã tiêu tan đi mất, da dẻ hồng hào trở lại, Hoàng Dung rất ngạc nhiên và nghĩ bụng :
– Thật không ngờ thằng bé này mà luyện được nội công thâm hậu như thế này, Cứ như công lực nó đã truyền cho ta, thì mấy vị trong Toàn Chân thất tử vị tất đã theo kịp.
Tuy nghĩ bụng nhưng Hoàng Dung không nói ra, chỉ dịu dàng nhìn Dương Quá mỉm cười tỏ ý khen ngợi.
Bà muốn nói chuyện cảm ơn và hỏi thăm thủ thuật này là do ai truyền dạy cho Dương Quá , thì bỗng đâu từ đằng xa, bóng Quách Phù đang tung tăng chạy lại. Khi vừa đến nơi, nàng liến thoắng hỏi ngay :
– Mẫu thân, con đố mẫu thân biết ai là người đến dự hội đầu tiên ?
Hoàng Dung cười xoà nói :
– Hôm nay là ngày hội ngộ của các anh hùng trong thiên hạ, ai ai cũng tề tựu về đây, kẻ trước ngừoi sau, làm sao ta biết rõ được ai là người đến trước được !
Vừa đáp xong, bà chợt nghĩ lại và nói tiếp :
– Sư thúc và sư bá của nhị Võ lâu lắm chưa lại đây, chắc thế nào cũng nóng lòng gặp gỡ hơn những người khác . Có phải hai vị này đã đến đây trước tiên phải không ?
Thấy mẹ đoán trúng phóc, Quách Phù vỗ tay tán thưởng và khen lớn :
– Mẫu thân thông minh và liệu việc như thần, đáp đúng quá. Con xin chịu thua.
Hoàng Dung mỉm cười xoa đầu Quách Phù nói :
– Có gì đâu mà không đoán ra. Hai anh em nhà họ Võ lúc nào cũng đi theoc cạnh con như hình với bóng. Hôm nay con chỉ đi tìm mẹ có một mình, không thấy bóng của hai đứa nó thì mẹ biết ngay là chúng phải ở nhà tiếp người thân rồi. Có thế thôi, phải không ?
Dương Quá xưa nay vẫn tự cho mình là lanh lẹ thông minh hơn người, hôm nay thấy Hoàng Dung nhận xét và quyết đoán công việc mau lẹ và chính xác như thế thì chàng phục bà hết sức và công nhận Hoàng Dung còn thông minh hơn mình một bậc xa.
Hoàng Dung nhìn Quách Phù tười cười bảo :
– Phù nhi ! Mẹ mừng cho con sắp học thêm được một môn võ công thượng thặng đấy nhé!
Quách Phù ngạc nhiên hỏi mẹ :
– Võ công nào mà thượng thặng hả mẹ ?
Hoàng Dung chưa kịp đáp thì Dương Quá đã buột miệng nói hớt :
– Thuật “Nhất dương chỉ” !
Quách Phù càng thêm lạ lùng hơn, bỡ ngỡ hỏi nữa :
– Anh bảo sao, em chưa hiểu ? Mẹ ơi, anh Dương Quá vừa bảo thuật gì nghe lạ quá hả mẹ?
Hoàng Dung mỉm cười nói :
– Anh Dương Quá con đã hiểu rõ, con cứ hỏi thêm, anh ấy sẽ nói thêm cho mà nghe !
Quách Phù phụng phịu nói tiếp :
– Mẹ lừa con rồi .Có lẽ mẹ đã bày cho anh ấy biết trước rồi phải không ?
Nghe câu nói quá ngây thơ, cả Hoàng Dung và Dương Quá đều cười tủm tỉm nhưng không nói gì cả.
Trong khi ấy, Hoàng Dung chợt nghĩ :
– Dương Quá là đứa thông minh tài trí, lanh lẹ tuyệt vời. Anh em nhà họ Võ làm sao bì kịp hắn. Còn Quách Phù thì trẻ con và hời hợt quá, co biết gì đâu. Thuật “Nhất Dương chỉ” là một môn công phu tuyệt đỉnh của Nhất Đăng đại sư tức là Đoàn Nam Đế luyện thành công. Quách Tĩnh tuy cũng được học qua nhưng do một người khác chỉ dạy lại chứ không phải là do chính Nhất Đăng đại sư đích thân chân truyền, kể ra cũng uổng. Ngày nay , hai vị sư thúc bá của anh em họ Võ tới thăm, thế nào cũng nghĩ xót tình hai cháu mồ côi mồ cút mà truyền lại thuật này cho. Tuy nhiên, hai đứa ấy tài nghệ trí óc quá nông cạn, làm sao thụ huấn được cho nổi, kể ra cũng đáng tiếc.
Trong khi Hoàng Dung đang phân vân suy nghĩ về vấn đề này Quách Phù thắc mắc trong bụng :
– Mẹ ta có thuật hay như vậy mà không truyền dạy cho ta, lại đi dạy cho anh Dương Quá là nghĩa lý gì nhỉ ?
Nguyên Nhất Đăng đại sư , tức Đoàn Chấn Hưng – Đoàn Nam Đế, một trong ngũ bá võ lâm ngày trước , có cả thảy bốn đại đồ đệ là Ngư , Tiều, Canh,Độc. Sau này Võ Tam Thông , cha của hai anh em họ Võ được đứng vào hàng đệ tử thứ năm của người.
Võ Tam Thông giao đấu cùng Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu bị trọng thương, sau đó mất tích giang hồ, chưa biết lưu lạc về đâu, đã chết hay còn sống ?
Trước kia, trong lúc Hoàng Dung được Quách Tĩnh cõng lên núi Đào nguyên cầu Nhất Đăng đại sư chữa bệnh, có gặp bốn người Ngư , Tiều ,Canh ,Độc , đấu võ và đấu trí cả bốn người đều thua cặp Quách Hoàng. Hôm nay, trong bốn vị có hai người là Tiều và Độc đến phó hội dự “Anh hùng yến” , còn Ngư, Canh có lẽ ở nhà bế môn dạy anh em họ Võ thuật “Nhất dương chỉ”.
Qua ngày hôm sau, khi ăn cơm trưa xong, tất thảy mọi người trong Cái Bang đều tụ hội tại một khu rừng rộng lớn phía bên ngoài, cạnh Lục gia trang để chuẩn bị dự lễ.
Lễ bàn giao giữa nhị vị Tân và Cựu bang chủ là nghi lễ quan trọng bậc nhất của Cái Bang, cho nên tất cả các trưởng lão và bang chúng bị gậy ở khắp nơi, dù là phương nào cũng đều về tụ hội đủ mặt. Riêng anh hùng hào kiệt võ lâm cũng nghe tiếng và được giấy mời về tham dự. Tất cả các võ phái quan trọng đều cử người đại diện về.
Suốt mười năm qua, Hoàng Dung bận công việc riêng trên Đào Hoa đảo , giao cho Lỗ Hữu Cước xử lý thường vụ công việc trong Cái Bang. Vốn là công minh chính trực nên Lỗ Hữu Cước được toàn thể bang chúng kính nể và cả hai phe “áo bẩn” và “áo sạch” đều thảy kiêu vì. Nhờ vậy mà uy tín ông đã tăng nhiều, và công việc trong phát triển khả quan lắm.
Lễ bàn giao hôm nay là một dịp để hợp pháp hoá nhiệm vụ mà Lỗ Hữu Cước đảm nhận từ lâu để điều khiển Cái Bang với danh chính ngôn thuận. Vì vậy nên cần phải tổ chức lại thật trọng thể và đúng theo nghi thức của Cái Bang xưa nay.
Sau khi Hoàng Dung tuyên bố trước mọi người quy luật của Cái Bang xong, tự tay mình trao cho Lỗ Hữu Cước cây “đả cẩu bổng” do các vị Bang chủ đã lưu truyền hàng trăm năm nay để làm bảo vật trấn bang, và lưu truyền mãi mãi từ vị Bang chủ này đến vị Bang chủ khác.
Sau khi nghe tuyên bố nội quy xong, tất cả mọi người xúm lại khạc đờm nhổ vào người, đầu, mình của vị Tân Bang chủ. Khi nào khắp người của Bang chủ đã dính đầy đờm dãi, chừng ấy mới chính thức xem như đã cáo thành.
Dương Quá đứng ngoài nãy giờ theo dõi những thủ tục vô cùng kỳ dị của Cái Bang, chàng cảm thấy buồn cười nhưng chàng cố gắng bấm bụng chịu đựng không dám cười ra tiếng sợ mang tiếng thất lễ với bề trên. Tuy nhiên, chàng nghĩ :
– Có lẽ bao nhiêu đệ tử Cái Bang phải nhổ vào mặt vị chúa tể của mình để nhắc nhở vị ăn mày chúa lúc nào cầm cân nảy mực cũng phải đúng mực công bằng. Làm lớn phải nghĩ đến con em, đừng giành riêng phần mình no đủ. Ngay bây giờ họ phỉ nhổ trước rồi mới hoan hô sau, làm như thế thì việc hoan hô càng tăng thêm giá trị. Sau này nếu gặp một Bang chủ tham lam, gian lận thì cũng đã phỉ nhổ xong rồi, phải chịu vậy chứ sao?
Trong lúc đang mải mê suy nghiệm ngấm ngầm về cổ tục trong nghi lễ Tấn phong Bang chủ Cái Bang, Dương Quá muốn đem chuyện cựu Bang chủ Hồng Thất Công đã qua đời loan báo cho mọi người biết thì thình lình có một người đứng tuổi, có lẽ cũng thuộc hàng chức sắc cao cấp trong Cái Bang , tung mình nhảy lên một tảng đá cao, tay cầm một cái hồ lô màu đỏ đưa cao lên cho mọi người xem.
Dương Quá ngạc nhiên hết sức khi vừa trông thấy chiếc hồ lô này. Vì quả là chiếc hồ lô do Hồng Thất Công dùng để đựng rượu luôn luôn mang theo mình từ trước đến nay và cũng là vật báu di truyền từ đời Bang chủ này sang đời Bang chủ khác.
Chàng quá ngạc nhiên tự hỏi :
– Ô kìa , sao lạ quá vậy nhỉ ? Khi mình gặp Hồng lão tiền bối trên đỉnh Hoa Sơn thì rõ ràng là ông có mang theo cái Hồ Lô đỏ nọ toòng teng bên hông, Sau khi ông thất lộc , chính tay mình đã mai táng thi hài ông và cũng chính tay mình đã đem vùi cái Hồ Lô này bên huyệt. Tại sao hôm nay Hồ Lô lại rơi vào tay cái anh chàng kia thì cũng lạ thiệt ! Chẳng lẽ trên đời này lại có hai cái Hồ Lô giống nhau như đúc sao ?
Chàng cứ suy nghĩ mông lung, tinh thần rối loạn, chưa biết hư thiệt ra sao , bỗng nghe tiếng hoan hô vang dậy náo động cả khu rừng , nghe như tiếng sấm động.
Lão ăn mày này chờ cho tiếng vỗ tay và hoan hô lắng xuống mới lớn tiếng nói :
– Lão Bang chủ Hồng đại gia truyền lệnh cho tôi đến gặp các bạn hôm nay để truyền lại cho Lỗ Bang chủ.
Rừng người lại hoan hô náo động một lần nữa và lần này thì kéo dài như vô tận.
Nguyên nhân, toàn thể đệ tử Cái Bang ai nấy đều kính mến Hồng Thất Công, xem lão như vị cha già, nhưng suốt mười năm qua, Hồng Thất Công đi đâu biệt tích, không ai được gặp nên ngày nay nghe tin về Hồng Thất Công thì ai nấy đều hết sức vui mừng, xem như một tin đại hỷ.
Bỗng từ trong rừng có một ngừoi lớn tiếng nói :
– Toàn thể đệ tử Cái Bang thành tâm cầu chúc cho Hồng Bang chủ trường thọ , luôn luôn mạnh khoẻ !
Tiếng hoan hô và vỗ tay lại nổi lên ầm ầm như sấm đông lần nữa.
Suốt đời Hồng Thất Công luôn giữ được tấm lòng nghĩa hiệp can trường, xứng danh trang anh hùng hào kiệt đầu đội trời, chân đạp đất, khiến cho bao nhiêu anh hùng hảo hán dù hắc hay bạch đạo đều hết thảy kính ngưỡng, khâm phục tài đức của ông. Còn bao nhiêu vạn bang chúng trong làng bị gậy thì ai ai cũng xem ông như cha.
Tiếng hoan hô hoà lẫn với những tràng vỗ tay như pháo xuân cứ kéo dài luôn mấy khắc , âm thanh vang đi xa mấy dặm. Dương Quá để ý nhìn kỹ, thấy có nhiều kẻ vì quá cảm động mừng rỡ mà chảy cả nước mắt.
Thấy ai ai cũng hân hoan tin tưởng là vị chúa tể thân yêu hãy còn sống khoẻ mạnh, Dương Quá không tiện đem chuyện ông đã chết nói ra lúc này, vi sợ gieo sự đau buồn cho mọi người và có thể người ta sẽ không thèm nghe mình là khác.
Đang phân vân suy nghĩ, bỗng lão ăn mày vừa rồi la lớn tiếp :
– Trước đây ba hôm, tôi đã có dịp được bái yết Hồng lão bang chủ tại quận Long câu…
Dương Quá ngạc nhiên quá sức, nghĩ thầm :
– Lạ thật ! Rõ ràng Hồng Thất Công đã chết và do tay mình chôn cất trên đỉnh Hoa Sơn. Thế tại sao người này lại quả quyết là mới tiếp kiến người cách đây ba hôm thôi ?
Nỗi thắc mắc cứ vương vấn mãi chưa tìm ra manh mối. Dương Quá vẫn đang ngẩn người suy nghĩ thì lão ăn mày lại nói tiếp :
– Hồng lão bang chủ cũng biết rõ ngày hôm nay Hoàng Bang chủ làm lễ trao lại quyền bang chủ cho Lỗ trưởng lão và được toàn thể mọi người trong bang đồng ý tấn phong Bang chủ. Người có bảo cũng tại hạ rằng người cũng rất tán thành và hoàn toàn tín nhiệm Lỗ trưởng lão.
Nghe tới đây, Lỗ Bang chủ vội vàng quỳ sụp xuống đất khấu đầu nói lớn :
– Được Hồng Bang chủ có lòng xót thương , đệ tử nguyện xả thân hy sinh vì lợi ích chung cho Bang ta, dù phải nhảy vào lửa đỏ dầu sôi cũng không dám nề hà.
Thấy Lỗ hữu Cước tân Bang chủ Cái Bang quỳ thưa, người ăn mày nhắm mình thân phận thấp hèn, không biết nói năng sao cho phải lễ và khỏi mang tiếng là phạm thượng, nên vội vàng đưa tay lúc lắc chiếc Hồ Lô đỏ , biểu hiện của Hồng Thất Công.
Lỗ Hữu Cước kính cẩn nhắm chiếc hồ lô lạy luôn mấy lạy.
Người ăn mày dõng dạc nói thêm , giọng sang sảng :
– Hồng lão bang chủ có dạy rằng :” Quốc gia xã tắc đang lâm cảnh loạn ly, thiên hạ đang lầm thân vì quan tham vô lại và nạn ngoại xâm. Giặc Mông Cổ đang đặt gót sắt lên đất nước theo kiểu “tằm ăn rỗi” với ý đồ thôn tính toàn bộ giang sơn Đại Tống trong một thời gian ngắn gần đây. Vậy tất cả các đệ tử Cái Bang , từ trên xuống dưới phải dốc lòng hiệp nghĩa, đem gan óc đền nợ núi sông, chúng ta phải hy sinh xương máu chống giặc đến giọt máu cuối cùng.
Cả rừng người đồng thanh hô lớn :
– Đệ tử xin tuân lệnh, tuân lệnh …
Người ăn mày già nói tiếp :
– Hiện nay triều chánh đang mục nát thối tha, , bao nhiêu quyền hành quốc gia đều nằm trong tay bọn mua quan bán tước. Chúng ta cần phải tiêu diệt trước bọn này để tẩy uế cho dân tộc, tránh cho đại chúng khỏi một cái ách bên trong rồi mới phấn khởi chống với cái nạn bên ngoài.Chúng ta trừ được nạn ô quan vô lại thì dân chúng mới tin tưởng và quên mình trả nợ nước. Ngày nay, lão Bang chủ đang dầm sương gội gió nơi miền cực Bắc để lo cho hoàn thành một sứ mạng vô cùng trọng đại. Vì vậy người không tiện về đây để chứng kiến và họp mặt cùng anh em được. Người sai tôi vượt ngàn dặm về đây cùng anh em và dặn tôi truyền đạt lại cho mọi người phải luôn luôn ghi tạc trong tâm hai chữ “Trung nghĩa” để bồi đắp mối nợ ấy của dân tộc, của quốc gia.
Người ấy nói vừa dứt câu thì rừng người lại hô lớn :
– Xin tuân lệnh Hồng Bang chủ, Hồng Bang chủ muôn năm…
Trước lòng nhiệt thành của hàng vạn bang chúng Cái Bang , triệt để tin tưởng vào mệnh lệnh của một vị Bang chủ, Dương Quá chạnh lòng suy nghĩ :
– Từ nhỏ mình không được học văn chương, chữ nghĩa nên chẳng quán thông cho hết ý nghĩa tốt đẹp của hai chữ trung, nghĩa ? Tuy nhiên, cứ nhìn hàng vạn người trong Cái Bang , tuy khoác chiếc áo ăn xin, tay gậy vai bị nhưng trong tâm hồn chất chứa đầy những chính khí thật đáng khâm phục. Thế mà xưa kia vì không hiểu rõ mục đích tôn chỉ của Cái Bang, mình đã nhiều lần đùa cợt với đệ tử của Cái Bang, quả thật là không phải.
Vừa hối hận với những việc mình đã làm khi trước, Dương Quá chợt nghĩ lại câu chuyện thắc mắc :
– Lạ quá, chính tay mình đã an táng thi hài Hồng Thất Công lão tiền bối. Tạo sao lão ăn mày này lại dám quả quyết rằng lão vừa yết kiến Hồng Thất Công trước đây ba bữa ? Bảo rằng lão mạo lệnh của Hồng Thất Công thì cũng không đúng. Vì hiệu lệnh toàn những lời nghĩa khí chính đại quang minh, không có ẩn ý gì vụ lợi hay hại ai cả . Nếu là kẻ tầm thường nhất định không thể nào thốt lên được bao nhiêu lời vang ngọc như thế được.
Trong lòng cứ băn khoăn ngờ vực không yên, cuối cùng Dương Quá nghĩ tới biện pháp chót :
– Để rồi ta hỏi lại Hoàng Dung Bang chủ vậy. Chắc là bà có ý kiến hay và đúng đắn !
Vì là việc của Cái Bang cho nên những người ngoài cuộc không ai muốn xen vào bàn cãi hay góp ý. Vì vậy, sau khi lễ tấn phong kết thúc, các anh hùng hảo hán đều cáo từ ra về.
Khi ấy , bóng chiều cũng dần dần phủ xuống non sông. Hồi chuông công phu vang lên trong bầu không khí, từ ngồi chùa cổ vọng ra, dội tận mé núi xa xa. Đoàn thợ rừng nghe tiếng chuông vội vàng thu xếp dụng cụ ra về. Những nông dân đang làm rẫy cũng ngước mắt nhìn ánh tà dương rồi ung dung về nhà. Chim rừng đã ríu rít gọi nhau về tổ.
Từng đàn chim lớn đậu đĩnh đạc trên ngọn cây cổ thụ đứng sừng sững trên khu rừng, đưa mắt nhìn từng đàn chim bé nhỏ đang chíu chít xôn xao tìm chỗ ngủ.Từ đằng xa , nhiều tiếng cò đang vỗ cánh bay từng đàn vượt qua triền núi cao về nơi chân trời khuất trong những đám mây xám xịt.
Nhìn những con chim bé nhỏ đang tìm chốn ngủ, Dương Quá nổi nóng bảo thầm trong bụng :
– Cây rừng đất núi đâu phải là dành riêng cho chúng bây mà chúng bây lại ỷ mạnh hiếp yếu, hiếp đáp bầy chim non như vậy. Ta phải cho bây biết mùi kẻ mạnh để chừa bớt thói bắt nạt kẻ yếu hơn.
Nghĩ xong, chàng cúi xuống toan lượm mấy viên sỏi giết chết bầy chim này, nhưng chàng chợt nghĩ lại :
– ấy chết, sao ta lại ác như vậy ? Sách thánh hiền đã dạy :” Làm ác gặp ác, làm thiện gặp thiện” ,. Hoá công đã sanh có chim nhỏ và bầy chim lớn chắc có định sẵn một quy luật sinh sống cho bọn chúng rồi, hơi đâu mà lo cho mệt xác. Ta ném bọn chim to, nhưng biết đâu bứt dây động rừng, nắm sỏi ném ra có thể gây náo loạn trong khu rừng này khiến bầy chim non thêm sợ hãi bay toán loạn để tối nay không có chỗ ngủ cũng tội. Thôi thây kệ chúng vậy. Bọn ác điểu sẽ có quyền hoá công xử phạt…
Màn đêm dần dần bao bọc khắp đó đây. Dương Quá thơ thẩn bước ra về vừa tới trước cổng trang viện nhà họ Lục
Chàng đưa mắt nhìn qua, thấy từ bên trong ra tới tận cổng, đâu đâu cũng có treo đèn kết hoa vô cùng lộng lẫy, chắc có lẽ đang có đại yến chi đây ?
Từ toà đại sảnh lớn giữa trang viện cho tới phía sau , hai bên tả hữu bàn ghế sắp la liệt . Trên những dãy bàn dài thẳng tắp có sắp sẵn hơn hai trăm thôi, mỗi thôi có mười người ngồi, để tiếp đãi anh hùng hào kiệt khắp bốn phương.
Dương Quá suy nghĩ :
– Từ trong đến ngoài, quá nửa là tân khách từ phương xa về dự. Bình sinh ta chưa khi nào gặp được một buổi đại tiệc vĩ đại và sang trọng như thế này ! Chủ nhân ngoài là một đại cự phú, tất nhiên còn phải là một tay trọng nghĩa khinh tài, nức tiếng giang hồ, được nhiều người ngưỡng mộ, cho nên ngày nay mới mời được quá đông người hưởng ứng như thế này !
Trong lúc này vợ chồng Quách Tĩnh , Hoàng Dung và con gái Quách Phù đang bận rộn tiếp khách nơi đại sảnh.
Hoàng Dung chỉ cho Dương Quá một chỗ ngồi ngay bên cạnh mình, còn Quách Phù và hai anh em họ Võ lại để ngồi ở một bàn khác cách bà khá xa .
Thấy Dương Quá được mẫu thân ưu đãi, Quách Phù thắc mắc trong bụng :
– Thằng ngốc Dương Quá không biết qua chút võ nghệ nào, chẳng hiểu vì sao mẫu thân lại trọng đãi nó, đưa nó lên ngồi chiếu trên trong đại yến dành riêng cho các bậc anh hùng hảo hán trong võ lâm như vậy nhỉ ?
Nhưng nàng bỗng nghĩ thêm:
– Hay là phụ thân có ý định đem mình gả cho chàng, nên mẫu thân mới đặc biệt đãi chàng như vậy chăng ? Như thế thì mẫu thân cũng ưng thuận rồi sao ?
Xưa nay Quách Phù vốn được cha mẹ nuông chiều đã quen . Ngày nay thấy Dương Quá đã chiếm mất sự ưu ái đó , trong bụng bỗng dưng sang tự ái, bực dọc. Khi thấy Hoàng Dung vỗ vai Dương Quá nói chuyện ra vẻ thân mật , hình như coi chàng là con đẻ, chính nàng xưa nay cũng chưa bao giờ được hưởng những cử chỉ đó, Quách Phù thấy sự căm tức tràn lên tận cổ, suy nghĩ :
– Phụ thân chỉ nói sơ như vậy mà mẫu thân đã vội thương nó ngay mà chẳng thèm nói với mình một tiếng .Đã vậy, ta quyết phá đám cho vui.
Bũng nghĩ như vậy, nét giận đã lộ ra trên đôi mắt. Nàng cứ nhìn trừng trừng về phía Dương Qua.
Thấy thái độ của Quách Phù như vậy, Võ Tu Văn mừng rỡ như bắt được báu vật, thừa dịp mở đường nói khích :
– Này Quách muội, hãy nhìn xem cái thằng nhãi con họ Dương kia kìa . Hắn là hạng nào, tài nghệ đáng bao nhiêu mà dám ngất ngưởng ngồi ngay tại chiếu trên dành cho các bậc anh hùng hào kiệt đương thời ?
Như được gãi đúng chỗ ngứa, Quách Phù vội phụ hoạ theo liền :
– ừ ! Quả thật tức muốn chết lên được. Anh có cách gì làm nhục hay tống cổ hắn đi cho khuất mắt không ?
Từ lúc nấp trên cây cao nghe trộm , biết Quách Tĩnh định đem Quách Phù gả cho Dương Qua, thì hai anh em họ Võ vô cùng bực tức và đã nuôi lòng ganh ghét Dương Quá từ lúc ấy. Từ chỗ ganh tỵ đến chỗ căm thù , xem nhau như tình địch có bao xa ?
Vừa nghe Quách Phù nói tỏ ý bực tức Dương Quá và yêu cầu như vậy, Võ Tu Văn nghĩ :
– Ta cũng nên thừa dịp này làm vừa lòng Quách Phù, cho tên Dương Quá này nhục một phen cho bõ ghét. Một khi hắn đã bị công khai bêu xấu giữa công chúng thì còn khi nào dám nhận làm rể quý của gia đình này nữa chứ ? Quách sư mẫu xưa nay chỉ thích và trọng những ai có võ công cao cường và nhiều tinh thần mã thượng mà thôi .
Nhân vừa học được một chút ít về thuật Nhất Dương chỉ, Võ Tu Văn muốn đem ra thi thố xem sao, trước để cho Quách Phù phục mình, sau làm đẹp lòng Sư bá đã có lòng rèn luyện cho mình.
Nghĩ thế nên Võ Tu Văn đáp ngay :
– Bất tài mà dám tự xưng anh hùng thì cũng đáng tống đi cho khuất mắt. Nếu không sẽ có ảnh hưởng không tốt đến bọn ta. Tôi đã có cách đối phó với hắn.
Nói xong, Võ Tu Văn rót đầy một ly rượu đứng dậy hăm hở bước lại cạnh Dương Quá tươi cười mời :
– Dương đại ca ! Em có ly rượu, xin chúc mừng anh đây !
Dương Quá vốn bản chất thông minh tuyệt vời, Võ Tu Văn không thể nào so sánh kịp. Nay tự nhiên thấy Võ Tu Văn đem rượu đến ân cần mời mọc, chàng đã có ý nghi ngờ. Hơn nữa, mắt Võ Tu Văn luôn liếc về phía Quách Phù, nên Dương Quá đoán việc này thế nào cũng có ác ý và bọn này dự mưu định hãm hại mình rồi !
Tuy trong lòng nghi ngờ ly rượu có bỏ độc nhưng Dương Quá vẫn tươi cười đứng lên tiếp lấy uống một hơi cạn ráo .
Võ Tu Văn thừa lúc Dương Quá đang uống, lén điểm ngay vào huyệt “Tiếu yêu” phía sau lưng chàng.
Nếu người thường mà bị điểm vào huyệt này thì tất nhiên sẽ nổi lên cười lăn cười lóc, cười hoài không thể nào ngưng được cho đến khi ra nước mắt và ngất xỉu mà thôi. Võ Tu Văn muốn điểm huyệt này để khiến Dương Quá cười hoài ngay giữa bữa tiệc, gây sự vô lễ trước mặt các vị anh hùng làm mất mặt Hoàng Dung, thì cố nhiên là sẽ mất vợ. Chừng ấy Quách Phù nhất định phải thuộc về mình.
Nhưng cách dự liệu này làm sao qua được con mắt tinh tế của Dương Qua. Chàng đã khám phá ra và lưu ý theo dõi từng cử chỉ nhỏ của Võ Tu Văn ngay từ lúc đầu rồi.
Nếu là một kẻ khác, hay trong một dịp nào không có mặt đông đủ quần hùng thì Dương Quá đã trả đũa lại ngay. Nhưng nơi đây thấy rằng dù sao mình cũng không nên gây rối loạn làm phiền lòng Quách bá mẫu, huống chi Võ Tu Văn là học trò của hai vị, dù ghét đệ tử thì cũng nên nghĩ đến thầy. Vì vậy nên chàng điềm nhiên như không hề hay biết, chỉ dùng phép nghịch chuyển các huyệt đạo mạch máu trong thân thể theo phương pháp mà dưỡng phụ Âu Dương Phong đã truyền thụ cho khi trước. Nhờ phương pháp này nên cho dù Võ Tu Văn có điểm trúng huyệt đạo “Tiếu yêu” thì chàng vẫn không bị ảnh hưởng gì hết.
Đây là một thuật đặc biệt do Âu Dương Phong sáng tạo ra, khiến cho thần kinh và mạch máu trong cơ thể nghịch chuyển và làm cho tất cả các yếu huyệt trong châu thân thay đổi phương vị. Vì trong trường hợp này, Dương Quá không thể chổng chân lên trời , chúc đầu xuống đất nên không lâu sau bao nhiêu mạch máu lại vận chuyển lại bình thường và các huyệt đạo lại trở lại vị trí cũ.
Võ Tu Văn điểm mạnh vào đúng ngay huyệt Tiếu yêu của Dương Quá , nhưng Dương Quá chỉ cười khẽ một tiếng rồi điềm nhiên ngồi yên như cũ, không có tác dụng nào khác nữa, nên trong lòng ngạc nhiên hết sức. Võ Tu Văn lẳng lặng trở về chỗ ngồi nói nhỏ cùng Võ Đôn Nho :
– Thuật điểm huyệt Nhất Dương chỉ của sư bá dạy anh em mình không có hiệu lực gì cả. Em đã điểm hắn trúng ngay huyệt đạo mà hắn vẫn không sao cả .
Võ Đôn Nho hỏi lại :
– Tại sao, chắc là vì lối dạy không hiệu nghiệm chăng ?
Võ Tu Văn đem việc mình vừa ngấm ngầm điểm huyệt Dương Quá mà kể đầu đuôi lại.
Võ Đôn Nho mỉm cười chưa đáp, Quách Phù đã bĩu môi nói :
– Tôi xem cái thuật Nhất Dương chỉ chẳng có gì đặc biệt, chỉ khiến cho thiên hạ buồn cười mà thôi, đừng thi thố làm gì cho xấu mặt !
Võ Đôn Nho tức ứa gan, nhưng không nói gì, lẳng lặng rót một ly rượu đầy, bưng lại trước mặt Dương Quá lễ phép nói :
– Kính thưa Dương đại ca, anh em chúng ta xa cách lâu ngày nay được gặp lại, không biết lấy gì, chỉ xin lấy chén rượu mừng đại ca lấy thảo. Xin chớ chối từ !
Dương Quá nghĩ bụng :
– A ! Té ra thằng em không làm gì được, bây giờ tới phiên thằng anh tới quyết hạ độc thủ đây mà. Bọn bay chỉ là bọn giá áo túi cơm, muốn hại ta thế nào nổi. Tài nghệ ngươi cũng như thằng em người chứ có hơn chút nào đâu mà hòng ?…
Nghĩ thế , chàng đứng dậy, tay phải gắp một miếng thịt trâu thật lớn trên mâm, tay trái bưng ly rượu, tươi cười đáp :
– Đa tạ, đa tạ !
Xuất kỳ bất ý, Võ Đôn Nho dùng tay phải che rồi đưa tay trái điểm thật nhanh vào huyệt “tiếu yêu” trên lưng Dương Qua.
Lần này, Dương Quá không cần phải dùng thuật nghịch chuyển huyệt đạo, chỉ thò tay ra đằng sau đặt miếng thịt trâu ngay trên huyệt “tiếu yêu” của mình.
Ngay lúc đó, Võ Đôn Nho đưa tay điểm tới, xuyên mạnh qua miếng thịt trâu.
Dương Quá đặt đũa xuống bàn, cười hề hề nói :
– Uống cạn ly này rồi được tặng miếng thịt trâu để nhắm thì còn gì thú vị bằng . Hì hì …
Võ Đôn Nho rụt tay về , dính luôn cả miếng thịt trâu thui trên đầu ngón tay, máu chảy nhểu xuống đất từng giọt. Võ Đôn Nho luống cuống, bỏ ra thì chứớng, nắm lại thì càng xấu mặt hơn, nên chàng ta đứng sững sờ một lúc rồi đoạn lườm Dương Quá một cái rồi nắm luôn cả miếng thịt lầm lũi bước về chỗ cũ.
Quách Phù thấy Võ Đôn Nho cầm cả miếng thịt trâu to tướng còn dính đầy máu đem về thì ngạc nhiên lắm, vội hỏi :
– ủa ! tại sao vậy ? Bàn này thiếu gì thịt trâu mà phải lấy trộm nơi khác mang về =, không sợ thiên hạ cười cho hay sao ? Anh cũng nên nhớ hôm nay là ngày đãi tiệc anh hùng trong thiên hạ, làm như vậy không thấy thẹn với người ta hay sao ?
Võ Đôn Nho thẹn quá đỏ mặt, chỉ cúi xuống, không biết đối đáp ra sao…..
Trong lúc Võ Đôn Nho đang lúng túng chưa biết gỡ gạc ra sao thì một cụ già đi rót rượu từng bàn và mời từng tân khách. Cụ già ấy chính là Lỗ Hữu Cước , tân Bang chủ Cái Bang.
Sau khi rót rượu giáp vòng đủ cả các tân khách , Lỗ Hữu Cước trịnh trọng cất giọng nói sang sảng :
– Xin liệt vị tân khách vui lòng giữ yên lặng cho lão thưa qua một việc …. Vị chúa tể Cái Bang là Hồng Thất Công lão bang chủ có truyền lại một điều : Hiện nay quân Mông Cổ từ phương Bắc đang xâm lấn nước nhà. Phàm là công dân đất nước, trong lúc nước nhà gặp cơn nguy biến , bất luận già trẻ gái trai, ai ai cũng phải đem hết tài lực ra chặn đứng làn sóng ngoại xâm, quyết đem cái chết đáp đền nợ nước. Dám chắc bao nhiêu anh hùng liệt vị có mặt trong đại yến hôm nay người nào cũng nghĩ đến hai chữ “trung, nghĩa” làm đầu. Vì vậy, chúng tôi mong muốn quý vị ai có ý kiến nào hay có thể ngặn chặn được vết chân ngựa Hồ xâm lăng khỏi vượt qua sông tiến về phía Nam, để đem đến cái hoạ lớn khiến cho mọi người cõng vợ , bồng con đi chạy giặc thanh niên trai tráng chết la liệt ngoài đường như năm nào hồi đời Tỉnh Khang khi trước nữa.
Lời nói của Lỗ Hữu Cước vừa dứt, bỗng nhiều tiếng xôn xao của nhiều người muốn lên tiếng đáp một lúc, nghe không rõ ràng. Sau đó một người đứng dậy nói lớn :
– Chúng ta phải đồng tâm hiệp lực chống ngoại xâm, giữ gìn đất nước !
Hầu hết tân khách, ai ai cũng mang một bầu nhiệt huyết, lúc nào cũng có lòng thành với non sông, cho nên ai nấy đều nhận thấy cái họa Mông Cổ xâm lăng đất nước cũng giống như lửa cháy mày, đòi hỏi phải có sự đồng tâm nhất trí của anh hùng hào kiệt bốn phương để chống lại.
Một vị đầu bạc như tuyết, râu trắng như sương bước ngay ra giữa đại sảnh cất tiếng rổn rảng như chuông đồng, nói lớn :
– thưa liệt vị, phàm trời sinh rắn phải có đầu, binh phải có tướng, chúng ta dù có đông tới đâu nhưng không người điều khiển, lãnh đạo thì ai cũng như ai, mỗi người một ý , làm sao hiệp lực để hoàn thành việc lớn ? Liệt vị nghĩ vậy có phải không ?
Mọi người thét vang như sấm động :
– Hiện nay quần hùng chưa có người lãnh đạo, chúng tôi bằng lòng suy tôn lão trượng là người có tuổi tác đáng kính, nhận trọng trách lãnh đạo cho chúng tôi làm theo !
Ông lão cả cười đáp :
– Thân già này đã gần đất xa trời, không biết đến lúc nào chầu Diêm Vương, trí thiển tài hèn trong hành khất, làm sao có đủ tư cách đảm nhiệm trọng trách ấy. Ngày nay trong giới võ lâm giang hồ chỉ có bốn vị là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái là những bậc có võ công thượng thặng và Vương Trùng Dương là đệ nhất hào kiệt võ lâm e ra mới có đủ khả năng lãnh đạo công việc này. Hiện giờ Vương Trùng Dương đã sớm chầu trời, còn lại Đông tà, Tây Độc không phải là người trong phái chúng ta, còn Nam đế thì ở tận quốc gia Đại Lý quá xa vời. Như thế người có thể làm Minh chủ võ lâm chỉ còn lại có một mình Bắc Cái Hồng Thất Công là đáng mặt hơn cả .Xưa nay, Hồng Thất Công được các giới trong võ lâm sùng kính, mến chuộng, trọng vọng như Bắc đẩu, Thái Sơn và thảy toàn dân đều ngưỡng mộ.
Ngay lúc đó từ trong rừng người có tiếng nói :
– Hồng Bang chủ quả xứng mặt là lãnh tụ quần hùng, tuy nhiên, một mình người cũng chưa đủ. Chúng ta cần chọn một người tài đức gồm đủ để làm phó thủ lĩnh thì công việc lãnh đạo mới được hoàn thành.
Tiếng nói rổn rảng như tiếng chuông ngân, âm thanh như xói thủng màng tai, nhưng mọi người không thấy người đó đâu hết .
Mọi người đưa mắt nhìn về phía phát ra âm thanh tìm kiếm, mãi một hồi lâu mới tìm ra một vị thân hình lùn tịt, bị mọi người xung quanh che khuất nên mặc dù người đó đã nhón gót đứng dậy nhưng mọi người vẫn không trông thấy diện mạo được.
Có kẻ yêu cầu :
– Vị nào vừa phát biểu ý kiến , xin vui lòng xuất đầu lộ diện cho anh em nhìn thấy !
Từ đám đông, một người nhảy vút lên đứng trên mặt sàn giữa sảnh. Quần hùng nhìn thấy người đó trạc độ bốn mươi tuổi, thân hình thấp lùn, cao chỉ chừng mấy thước nhưng mặt mũi khôi ngô, đôi mắt sáng quắc như hai ngọn đèn.
Vừa trông thấy thân hình quá ư thấp bé, nhiều người đã cười khúc khích. Nhưng khi thấy người đó đưa đôi mắt sáng như điện loang loáng đảo khắp nơi, đầy vẻ hào khí , nên cảm thấy khiếp sợ, vội vàng nín miệng không dám cười nữa.
Một chập sau , ngưòi lùn nói :
– Mặc dù Hồng Thất Công lão tiền bối đạo đức cao thâm, bản lãnh hơn người , nhưng đã ngót mười năm qua, ngừoi không xuất đầu lộ diện . Nếu chúng ta bầu người làm Minh chủ thì ngay lúc này lấy ai đứng ra điều khiển quần hùng một cách thiết thực cho được ? Mặc dù chúng ta kính trọng, quý mến người nhưng việc làm cần thực tế mới được !
Ai nấy đều gật gù ngẫm nghĩ :
– Gã nói như vậy thật là có lý !
Người lùn nói tiếp :
– Công cuộc của chúng ta hiện nay dốc lòng tận trung báo quốc, đâu phải chuyện riêng tư của một người nào hay của một nhóm nào ? Chúng ta cần bầu một vị Minh chủ thứ hai, thay mặt Hồng Thất Công lão tiền bối điều hành đại cuộc chống ngoại xâm. Liệt vị nghĩ sao, xin cho biết ý kiến ?
Một tràng vỗ tay vang lên như sấm nổ, tán thành ý kiến đó.
Bây giờ bắt đầu mục đề cử.
Một người nói lớn :
– Tôi xin đề nghị đại hiệp Quách Tĩnh !
Một người khác cất tiếng theo :
– Tôi xin đề cử Lỗ Bang chủ !
Nhóm khác thét to :
– Xin bầu cho Lục Trang chủ là người xứng đáng hơn cả.
Từ phía trước lại nhao nhao lên :
– Chúng tôi xin đề cử Mã Giáo chủ Toàn Chân giáo. Nếu không thì xin bầu Bang chủ Thiết chưởng Bang làm đệ nhị Minh chủ võ lâm !
Mỗi người một tiếng, mỗi nhóm một ý, tiếng hò hét vang lên khắp nơi, vô cùng nhộn nhịp. Mãi một lúc sau, Quách Tĩnh phải chật vật lắm mới giữ được trật tự .
Mọi người đang phân vân chưa biết chọn người nào cho xứng đáng, bỗng từ bên ngoài, bốn lằn đen lướt vào như bốn luồng khói. Ai nấy cùng định nhãn nhìn kỹ thì thấy bốn ngừoi đó đang dùng thuật khinh công tiến vào phía sau đại sảnh. Người đi đầu là Hách Đại Thông, tiếp theo là Tôn Bất Nhị, kế tới là Triệu Chí Kính và sau cùng là Doãn Chí Bình.
Vừa thấy bốn người này trở lại, Dương Quá đã e ngại trong lòng không hiểu vì lý do gì .
Quách Tĩnh cùng Lục Quán Anh trang chủ cùng vội vàng bước ra niềm nở đón tiếp rồi ân cần đón tiếp vào trung quân, mời ngồi chiếu trên và nói :
– Khắp thiên hạ, ai ai cũng biết Toàn Chân giáo là Bắc đẩu võ lâm . Cho nên trong cuộc anh hùng đại yến hôm nay vắng mặt quý vị quả thật là một khiếm khuyết quá lớn. Chúng tôi đang âm thầm lo ngại và mong chờ. Không ngờ được liệt vị chiếu cố đến vừa đúng lúc quá. Thật là vạn hạnh.
Hách Đại Thông ghé vào tai Quách Tĩnh nói nhỏ :
– Vì có bọn kình địch sắp lại đây phá rối nên chúng tôi tới trước báo tin cùng đại hiệp biết để chuẩn bị đối phó. Vậy đại hiệp nên thu xếp đề phòng ngay bây giờ là vừa.
Quách Tĩnh nghe xong nghĩ bụng :
– Quảng Ninh tử Hách Đại Thông là một kiếm khách lỗi lạc trên giang hồ, trong võ lâm ai nấy đều kính nể. Nay người đích thân đến đây báo cho ta biết tin này, tất nhiên kẻ địch phải là hạng người đáng ngại lắm !
Nghĩ vậy, Quách Tĩnh hỏi :
– Thưa , có phải là Tây Độc Âu Dương Phong hay không ?
Hách Đại Thông đáp :
– Không phải ! Chính là bọn Mông Cổ. Chúng tôi đã cùng chúng đối địch mấy lần rồi !
Thấy không phải là Âu Dương Phong, Quách Tĩnh cảm thấy yên dạ được phần nào và suy nghĩ thêm :
– Nếu vậy có lẽ là bọn Hoắc Đô Vương tử . Và chắc cũng chỉ có nó mà thôi !
Quách Tĩnh định hỏi lại Hách Đại Thông xem có phải là đúng như lời mình đoán hay không . Hách Đại Thông chưa kịp trả lời thì bỗng từ bên ngoài đã có tiếng tù và rúc lên từng hồi liên tiếp , rồi kế theo đó là tiếng trống, thanh la và cả đàn sáo lẫn lộn. Cảnh tượng Lục gia trang trở nên xao xuyến hỗn độn hơn trước rất nhiều.
Lục Quán Anh đứng lên nhắc mọi người :
– Có quý khách sắp tới ! Xin quý vị chuẩn bị đón tiếp .
Nói vừa dứt lời , đã có trên hai chục người nhảy vào đại sảnh .
Quần hùng đang mải mê nói chuyện, bỗng thấy nhóm người lạ mặt xuất hiện quá đột ngột , ai nấy đều ngạc nhiên và đoán có lẽ là những người được mời dự Anh hùng yến nhưng đến muộn.
Toàn thể quan khách có ý thử nhìn xem có ai quen biết hay không. Nhưng một chập sau vẫn không nhận thấy kẻ nào quen thuộc.
Vì vậy nên quần hùng không để ý nữa .
Quách Tĩnh ghé tai Hoàng Dung bảo nhỏ :
– Bọn mới vào, ngừoi nào cũng có vẻ hiên ngang ngạo ngược. Chúng ta cần lưu tâm phòng bị mới được.
Dặn xong, hai người cũng chạy ra đón tiếp ….
Quách Tĩnh nhận thấy người đi đầu mặt mũi sáng sủa, khôi ngô, mình mặc áo cẩm bào màu đỏ, đầu đội mão có đính Kim hoa. Kẻ ấy không ai xa lạ, chính là Hoắc Đô Vương tử , một người trong Hoàng tộc Mông Cổ . Đi kèm theo là một người thân hình mảnh khảnh nhưng khoẻ mạnh, một vị chưởng giáo phái Mật Tông ở bên Tây Tạng tên Đạt Nhĩ Ma.
Quách Tĩnh đã chạm trán cùng hai người này tại Trùng Dương Cung ngày trước cho nên về mặt võ nghệ cũng không thấy gì đáng ngại.
Đi cạnh hai người này lại có một vị tăng, vừa gầy, vừa cao, đầu đội nón “tu lờ” , mặc áo bào đỏ thẫm, trán rộng, bóng nhoáng và nhô lên trông rất dữ tợn.
Quan sát xong, Quách Tĩnh và Hoàng Dung cùng suy nghĩ :
– Xưa kia, có lần được nghe Hoàng Dược Sư kể lại bên Tây Tạng có một phái Mật tông có võ công rất cao kỳ tinh diệu, vì phải luyện tập rất công phu. Nếu họ là những người này thì cũng đáng lo cho mình đấy !
Bụng nghĩ như vậy, nhưng hai người vẫn điềm nhiên cúi đầu thi lễ :
– Hôm nay được liệt vị chiếu cố tới đây, chúng tôi vô cùng hân hạnh. Vậy kính thỉnh liệt vị vào trong mời ngồi chiếu trên để tỏ lòng ngưỡng mộ.
Lục Quán Anh đưa tay ra hiệu, bọn tráng đinh vội vàng thay chén đũa và dọn tiệc mới.
Anh em Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn lúc ấy cũng theo sư phụ và sư mẫu ra đón khách. Võ Tu Văn lanh chân lẹ miệng nên hối thúc bọn tráng đinh kê bàn dọn chén rất mau, không bao lâu tiệc đã bày xong tươm tất, mời tân khách vào an toạ.
Quách Phù nhìn lại thấy Dương Quá vẫn ngồi yên chỗ cũ thì nghĩ thầm :
– Ngươi sao không biết thân phận, cứ ngồi chỗ này hoài trông chướng mắt quá chừng ! Mi mà cũng xưng anh hùng hảo hán ư ? Hoạ chăng bao nhiêu anh hùng hảo hớn trên thiên hạ này chết hết rồi mới tới phiên mi được gọi là anh hùng !
Nàng đưa mắt liếc nhìn Võ Tu Văn rồi lại nhìn Dương Quá nguýt một cái , bĩu môi ra vẻ khinh bỉ .
Võ Tu Văn biết ý, và muốn được lòng ý trung nhân nên chạy lại cạnh Dương Quá nói :
– Dương đại ca, đây không phải là chỗ dành cho anh ngồi đâu !
Nói dứt lời, chẳng đợi Dương Quá cho biết ý kiến, Võ Tu Văn ra lệnh cho gia đinh dọn chén đũa của Dương Quá xếp vào xó nhà.
Dương Quá giận sôi lên trong lòng, nhưng cũng cố nén nhịn và chỉ cười nhạt, không nói gì hết.
Vừa lúc đó, tại tiệc giữa, Hoắc Đô Vương tử chắp tay nói với vị tăng nhân người Tây Tạng :
– Kính bẩm sư phụ, có phải sư phụ đưa đệ tử đến đây hôm nay để gặp mặt các vị anh hùng hào kiệt trong Trung Nguyên không ạ ?
Nghe thế, Quách Tĩnh chột dạ suy nghĩ :
– Té ra vị này là sư phụ của Hoắc Đô Vương tử.
Vị tăng nhân Tây Tạng chỉ gật đầu hai cái, chớp mắt mà không nói gì. Một chập sau nhắm mắt lại hình như không để ý đến mọi việc xung quanh.
Hoắc Đô Vương tử đứng lên giới thiệu :
– Bẩm sư phụ, vị này vốn là Tây chinh nguyên soái trong quân lực Mông Cổ , tên là Quách Tĩnh , một đại hiệp trong Trung Nguyên, ai ai cũng nể sợ oai danh.
Rồi chỉ Hoàng Dung nói tiếp :
– Còn đây là Cái Bang Hoàng Bang chủ
Khi nghe đến mấy chữ Tây chinh nguyên soái Mông Cổ, vị tăng nhân Tây tạng bỗng mở choàng đôi mắt sáng rực nhìn soi mói từ đầu tới chân Quách Tĩnh rồi nhắm mắt lim dim nhập định như cũ.Còn đối với Hoàng Dung lão vẫn cứ nhập định như thường, hình như không hề để ý tới.
Hoắc Đô Vương tử tiếp tục giói thiệu luôn :
– Thánh tăng đây biệt hiệu là Kim Luân Pháp Vương , vốn là người Tây Tạng , hiện nay được đức Hoàng thái hậu đại Mông Cổ sắc phong làm Hộ Quốc Đại Pháp Sư.
Nghe lời giới thiệu này , toàn thể quần hùng thảy đều ngạc nhiên, nhìn nhau nghĩ thầm :
– Chúng ta đang cùng nhau bàn bạc tìm cách chống quân Nguyên Mông xâm lược, cớ sao tụi Mông Cổ lại kéo nhau tới đây làm gì nhỉ ? Trong số này lại có cả vị quốc sư Mông Cổ , một nhân vật khá quan trọng của quân địch .
Quách Tĩnh vốn tính chậm chạp, không biết nói sao cho văn vẻ và hợp lòng người nên chỉ rót chung rượu mời bọn người mới tới :
– Quý vị không ngại đường sá xa xôi, quá bộ tới đây chiếu cố cho, chúng tôi rất lấy làm hân hạnh tiếp đón. Vậy đây có chén rượu tẩy trần , xin liệt vị nhận cho !
Uống rượu được ba tuần, Hoắc Đô Vương tử từ từ đứng dậy, phe phẩy cái quạt có vẽ mấy đoá hoa mẫu đơn hàm tiếu, cất tiếng dõng dạc nói :
– Thầy trò chúng tôi không được thiệp mời lại đường đột tới đây như thế này thì kể ra cũng vô lễ thật. Tuy nhiên, cứ suy nghiệm cho kỹ thì không mấy khi có cuộc đoàn tụ quần hùng đông đủ như thế này, nên cứ câu chấp không đến thì cũng uổng. Chúng tôi không muốn theo lối cổ tục thông thường “không mời không đến” cứ đường đột lại đây hôm nay, chẳng qua cũng chỉ vì vấn đề võ lâm Minh chủ. Hôm nay thầy trò chúng tôi muốn được cùng quần hùng đề cử ra một vị xứng đáng chỉ huy hào kiệt thiên ha, vậy chư vị nghĩ sao, xin cho biết ?
Ông già lùn khi nãy lên tiếng nói :
– Không được đâu, Vương gia nói thế sao được. Chúng tôi đã đồng thanh cử Hồng Thất Công lão tiền bối làm Minh Chủ rồi ! Hiện nay chỉ cử ra người làm phó mà thôi, vậy các vị có ý kiến gì về việc bầu phó Minh chủ hay không ?
Đạt Nhĩ Ma, trưởng giáo Mật Tông đứng lên cười nhạt nói lớn :
– Hồng Thất Công chết đã xanh cỏ từ lâu rồi , ai lại suy tôn một người đã chết làm Minh Chủ bao giờ. Bọn ta đâu phải cô hồn dưới âm ty ?
Câu nói ấy đã làm bao nhiêu người bất mãn, tiếng xôn xao huyên náo laị nổi lên, co người đã quát tháo cho là vô lễ không biết phép lịch sự.
Nhưng Đạt Nhĩ Ma vẫn không thèm đếm xỉa, nói lớn :
– Nếu quý vị bảo Hồng Thất Công chưa chết thì xin thỉnh ra đây cho mọi người diện kiến ngay bây giờ ?
Lỗ Hữu Cước nổi nóng, vung cây gậy trúc nói lớn :
– Hồng Lão Bang chủ ngài đang đi chu du thiên hạ , nay đây mai đó, hành tung không nhất định. Người muốn gặp mặt không phải là một chuyện dễ dàng !
Đạt Nhĩ Ma nói lớn :
– Ví dù Hồng Thất Công có còn sống và có mặt nơi đây thì cũng không đáng được ta bầu cử lên chức vị đó. Vì Hồng Thất Công so với sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương còn thua sút quá xa, kể cả đức độ và võ công cũng như thế. Như thế thì chư vị anh hùng nên theo lời đề nghị của ta tôn Kim Luân Pháp Vương làm Minh chủ võ lâm là xứng đáng hơn cả. Dưới tầm mắt của ta thì hiện nay trên võ lâm không còn một ai xứng đáng hơn Kim Luân Pháp Vương cả !
Sau mấy lời tuyên bố ấy, toàn thể quần hùng đều đã hiểu rõ thâm ý của bọn Mông Cổ. Bọn chúng hiểu rõ quần hùng Trung Nguyên đang bầu người giữ chức Minh chủ võ lâm nên kéo nhau về đây để tranh giành, hầu giữ phần lợi về mình. Nếu chức vị này thuộc về tay một cao thủ Mông Cổ thì người Hán không còn ai lãnh đạo nữa , võ lâm Trung Nguyên không khác gì rắn không đầu , hành động không thống nhất , sau này bọn chúng có thể thừa cơ tiêu diệt dần dần không một chút khó khăn. Chừng ấy lực lượng kháng Mông Cổ không còn nữa, trên dải đất Trung Nguyên gấm vóc tha hồ cho bọn chúng thao túng áp bức và đè đầu cưỡi cổ dân lành.
Tuy biết được thâm ý của Đạt Nhĩ Ma nhưng quần hùng chưa ai lên tiếng, vì mọi người đang chờ ý kiến của Hoàng Dung. Xưa nay trong võ lâm Trung nguyên, ai ai cũng biết là Hoàng Bang chủ là người đa mưu túc trí hơn cả.
Tuy nhiên mọi người đều yên chí vì ai cũng nghĩ rằng :
– Bọn chúng cho dù tài cao đến đâu nhưng với vài chục người cũng không thể nào chống lại với lực lượng hàng mấy nghìn con người đang hiện diện hôm nay nổi. Nếu mười ngưòi đánh một thì không chết cũng bị thương, huống hồ chi trăm người đánh một thì làm sao không nắm được phần thắng thế ?
Vì vậy nên mọi ngưòi lẳng lặng chờ nghe ý kiến của Hoàng Dung bang chủ.
Thấy mọi người đang chờ nghe ý kiến của mình, Hoàng Dung nghĩ bụng :
– Cứ như tình thế này, hôm nay chỉ có dùng võ lực mới giải quyết được vấn đề mà thôi, dùng lời lẽ không thấm vào đâu với bọn này được !
Nghĩ xong, bà lên tiếng dõng dạc nói :
– Anh em quần hùng Trung nguyên thảy đều bầu cử Hồng lão tiền bối làm MInh chủ võ lâm .Trái lại, chưởng giáo lại muốn suy tôn Kim Luân Pháp Vương làm Minh Chủ. Nếu lúc này có mặt Hồng Thất Công lão tiền bối thì công việc sẽ được giả quyết một cách đơn giản, vì trong một trận so tài sẽ biết ngay ai hơn, ai kém. Tiếc thay, Hồng lão tiền bối đang mải theo thú vui hạc nội mây ngàn, khi ẩn khi hiện như thần long nấp bóng, biết đâu mà tìm ? Đáng tiếc hơn nữa là Hồng lão tiền bối chúng tôi không biết hôm nay có quý vị giá lâm để chuẩn bị về đón tiếp cho đúng lễ … Bây giờ tôi xin đề nghị một biện pháp là đưa đẹ tử của Hồng Lão tiền bối ra tranh đấu cùng đệ tử của Kim Luân Pháp Vương. Hai bên đại diện cho nhị vị sư phụ ra tranh tài cao thấp , rồi căn cứ theo đó mà quyết định ngôi Minh chủ võ lâm cũng tiện. Như vậy có được không, mong trưởng giáo cho biết ? …
Toàn thể anh hùng Trung Nguyên thời bấy giờ ai ai cũng biết rõ Quách Tĩnh ,đệ tử của Hồng Thất Công là một tay võ công tuyệt đỉnh, công lực dồi dào, ngay nếu Hồng Thất Công nơi đây cũng chưa chắc gì hơn được Quách Tĩnh nữa. Như thế thì trong cuộc thử sức này cùng đệ tử Kim Luân Pháp Vương, phần thắng chắc chắn sẽ về tay Quách Tĩnh .
Tin tưởng vào thắng lợi chắc chắn cho phe mình, toàn thể đệ tử Cái Bang và quần hùng có mặt nơi đây tất thảy đều mừng rỡ, cùng đưa tay múa chân reo hò tưng bừng, tiếng vang rền khắp một vùng, khiến cho mái ngói cũng lao xao chuyển động.
Mọi người đồng thanh la lớn :
– Hoàng Bang chủ nói phải lắm ! Xin cho đệ tử của hai bên giao đấu cùng nhau để lấy kết quả quyết định !
Phe Kim Luân Pháp Vương thấy mình ít hơn nên đứng im chưa nói một lời nào .
Hoắc Đô Vương tử từ ngày đụng độ cùng Quách Tĩnh tại Trùng Dương Cung đã biết tài của đại hiệp và tự lượng sức mình không thể nào cự lại được cùng Quách Tĩnh . Dù đưa Đạt Nhĩ Ma ra cũng không thể nắm được phần thắng lợi ! Nhưng nếu không theo lời đề nghị của Hoàng Dung thì làm sao phân biệt được chân tài để tranh ngôi Minh chủ ? Vì vậy nên bao nhiêu mâu thuẫn tranh chấp trong trí óc Hoắc Đô mãi chưa tìm ra một giải pháp nào cho thuận.
Giữa lúc Hoắc Đô đang phân vân thì Kim Luân Pháp Vương cất tiếng truyền lệnh :
– Hoắc Đô , con hãy thử ra tranh đấu cùng đệ tử Hồng Thất Công xem sao ?
Giọng nói của Kim Luân Pháp Vương bao gồm đầy vẻ hằn học và nặng nề, bao hàm tất cả tin tưởng quyết thắng và thắng gấp. Vì mãi sống ở Tây Tạng , Kim Luân Pháp Vương cho rằng võ công của Hoắc Đô đã đến chỗ tuyệt đỉnh cao siêu rồi, trên võ lâm chắc gì có kẻ nào chống lại nổi. Nếu có thì may ra chỉ là các tay cao thủ hào kiệt như Đông Tà, Tây Độc… mà thôi. Thật ra Kim Luân Pháp Vương chưa hề biết trong dịp đụng độ cùng Quách Tĩnh tại Trùng Dương Cung, Hoắc Đô đã bị Quách Tĩnh hạ thủ một cách quá dễ dàng.
Tuy nghe sư phụ ra lệnh nhưng Hoắc Đô chỉ dạ một tiếng lấy lệ rồi đứng nguyên một chỗ, suy nghĩ thêm chứ chưa ra giáp chiến.
Lặng yên một chút, hắn trầm giọng thưa rằng :
– Bẩm sư phụ, đệ tử của Hồng Thất Công rất đông, lại lắm người tài ba lỗi lạc, con chưa chắc đã đủ sức hạ gục bọn chúng. Nếu rủi ro mà con bị thua, chẳng những làm mất danh sư phụ, mà còn thương tổn đến uy danh của Triều Đình đại Mông Cổ nữa !
Kim Luân Pháp Vương nghe nói chỉ hừ một tiếng rồi nói :
– Người đã đấu với bọn chúng lần nào chưa mà bảo rằng bọn chúng tài cao ? Cứ ra tay liền xem thế nào , lẹ lên ?
Hoắc Đô vô cùng phân vân nên tự trách mình :
– Vì ta không trình bày trước cho sư phụ biết rõ các nhân vật Trung Nguyên , để ông ta cứ đinh ninh rằng mình tài cao hơn hết. Trong dịp này ông quyết thúc đẩy ta ra tranh tài cùng Quách Tĩnh dể tranh ngôi Minh chủ võ lâm. Quả thật việc tính một đường, chỉ sơ suất một chút mà đi xa muôn dặm. Nếu vâng lời sư phụ ra thi tài cùng Quách Tĩnh nghĩa là nắm lấy phần thất bại về mình một trăm phần trăm rồi còn gì ?
Trong lúc đang phân vân chưa biết giải quyết thế nào , bỗng có một người mặc y phục Mông Cổ chạy lại gần, ghé tai thì thầm mấy câu. Nghe xong, Hoắc Đô lộ vẻ mừng rỡ.
Y khoan thai bước ra đứng trước mặt quần hùng , tay phe phẩy cây quạt rồi cất tiếng dõng dạc nói :
– Tôi được nghe thiên hạ đồn, Hồng Bang Chủ có một pho võ công đặc biệt vô cùng kỳ diệu mệnh danh là “Đả cẩu bổng pháp” . Sở dĩ Hồng Thất Công được nổi danh trên giang hồ võ lâm cũng là nhờ có thiên võ công đó. Hôm nay, tôi muốn đem tài múa quạt ra thi thố cùng môn “Đả cẩu bổng pháp” của quý bang. Nếu tôi được thì xem như Hồng Thất Công thua cuộc và ngôi Minh chủ võ lâm sẽ đương nhiên thuộc về tay sư phụ tôi là Kim Luân Pháp Vương.
Lúc đầu, Hoàng Dung chú ý thấy một người ghé tai nói chuyện cùng Hoắc Đô nhưng không thèm quan tâm tới. Nhưng sau khi Hoắc Đô đưa ra ý kiến gạt được Quách Tĩnh ra vòng ngoài thì nàng vô cùng ngạc nhiên, không biết kẻ này là ai mà mưu kế cao diệu vô cùng.
Sau khi nàng định thần nhìn kỹ lại ngừoi ấy thì bà thất sắc bàng hoàng cả người. Kẻ đó không ai xa lạ mà lại là một vị chức sắc cao cấp trong Cái Bang , tức là Bành Trưởng lão đó !
Hoàng Dung nhìn trời than thầm :
– Thật không ngờ rằng bọn chó săn này lại tham vàng bỏ nghĩa ! Hắn nỡ vì chút công danh lợi lộc mà bán rẻ đất nước, đem thân phục vụ cho quân cướp nước., quên cả nòi giống dân tộc, dám công nhiên cải trang thành lính Mông Cổ để bày mưu lập kế cho quân thù, xúi chúng giết hại anh em bà con mình. Chắc chắn thế nào cũng do lão già này mật tấu cùng bọn Mông Cổ biết được môn võ công trấn bang “Đả cẩu bổng pháp” của Cái Bang chỉ truyền từ đời Bang chủ này sang đời Bang chủ khác . Dù Quách Tĩnh có là đệ tử thân yêu cũng không thể học được bổng pháp này., còn Lỗ Hữu Cước tuy có học nhưng chưa thành thục lắm. Hắn cố bày mưu để ép ta ra trận giao chiến đây mà !
Phần Quách Tĩnh lại suy nghĩ khác :
– “Đả cẩu bổng pháp” là món ruột của Hoàng Dung. Nàng áp dụng thuật này thì nhất định thế nào cũng thắng Hoắc Đô dễ như bỡn. Nhưng ngặt nỗi hiện nay Hoàng Dung đang mang thai gần đến ngày sinh nở. Mấy tháng nay khí huyết không điều hoà, thường chóng mặt và mệt nhọc, công lực giảm sút rất nhiều, e rằng không đủ sức ra giao đấu được. Phen này cứ liều để bà ra đánh nhau với bọn này thế nào cũng lành ít, dữ nhiều, có khi nguy đến tính mạng nữa.
Nghĩ xong, ông chững chạc bước ra chính giữa nói lớn :
– Thưa liệt vị, “Đả cẩu bổng pháp” là bảo pháp trấn Bang của Cái Bang, không thể nào vì một lẽ không xác đáng mà mang ra thi thố được. … Nếu các ngài muốn tranh tài, xin cứ việc thi thố cùng môn “Giáng Long Thập Bát Chưởng của Quách mỗ cũng có thể tranh tài cao thấp được .
Nghe Quách Tĩnh tuyên bố, lời nói sang sảng, Hoắc Đô giật mình nhìn lại, thấy ông đứng tấn vững như núi Thái Sơn, vô cùng kiêu dũng, nên trong bụng lo ngại nghĩ thầm :
– Tay này quả nhiên quá lợi hại. Ta phải tìm cách tránh đi chứ không thể đương nhiên chạm trán cùng hắn được đâu.
Nghĩ vậy, Hoắc Đô cười xoà :
– Xưa kia, trên Trùng Dương Cung tại Chung Nam Sơn, tiểu vương đã có hân hạnh gặp gỡ cùng các hạ. Hôm ấy, các hạ đã nhận là môn đệ của Mã Ngọc và các vị trong Toàn Chân, cớ sao hôm nay lại nhận là đệ tử Hồng Thất Công nữa ?
Quách Tĩnh chưa kịp trả lời giải thích ra sao thì Hoắc Đô lại nói tiếp :
– Một học trò học hai ba thầy, chuyện ấy thế gian có thường, nhưng hôm nay là vấn đề đặc biệt, đệ tử Hồng Thất Công đua tài cùng đệ tử của Kim Luân Pháp Vương . Các hạ tuy là một tay võ công tuyệt đỉnh, tuy nhiên không thể nào các hạ thao diễn được đúng mức tất cả các tinh diệu của các môn võ công bí truyền của Hồng Thất Công được đâu !
Lời nói của Hoắc Đô cũng có phần hợp lý, Quách Tĩnh là người chất phác, tối dạ, không tài lợi khẩu, ít mồm mép cho nên không biết biện bác thế nào cho ổn, đành đứng yên một chỗ không đáp được.
Nhưng quần hùng nhao nhao phản đối kịch liệt :
_ Nếu có tài thì cứ ra tranh hùng cùng Quách đại hiệp mấy keo xem sao ? Quách đại hiệp là đệ tử chính tông của Hồng Bang chủ, thì so tài với người quả nhiên là hợp lý hết sức. Vương tử có gan thì nếm trước môn “Giáng Long Thập Bát Chưởng ” của Hồng Bang chủ, rồi nếu còn thừa sức thì sẽ nếm “Đả cẩu bổng pháp” sau cũng được !
Hoắc Đô Vương tử chỉ ngước mặt lên trời cười tỏ vẻ khinh khi quần hùng. Rồi y không thèm đáp, chỉ điềm nhiên vận nội công xương cốt vang lên những tiếng răng rắc , át cả tiếng nói của quần hùng.
Y vận khi mạnh đến nỗi công phu phát ra khiến mái ngói trên nhà bị xô đẩy kêu rào rào như gặp cơn giông bão.
Toàn thể anh hùng có mặt trong sảnh thảy đều kinh hoàng và không ai ngờ một con người mặt mày non choẹt và tao nhã như thế lại có một công lực kinh người như thế ấy ? Vì vậy ai nấy đều đứng lặng im không nói một lời. Không khí nặng nề bào trùm cả một vùng đông nghẹt cả bóng người.
Hoắc Đô quay sang thưa với Kim Luân Pháp Vương :
– Bẩm sư phụ, thầy trò chúng ta cũng ngỡ anh hùng Trung Nguyên có nhiều tay khá nên không nài hà ngàn dặm đến đây. Không ngờ chỉ là phường tham sanh uý tử, vậy thì chúng ta nên bỏ về cho sớm còn hơn. Nếu chúng ta cứ ở lại đây, dù sau này có giữ được chức Minh Chủ võ lâm cũng sẽ mang tiếng là đứng đầu một phường vô dụng, giá áo túi cơm mà thôi. Như thế chẳng những làm hạ thể diện của sư phụ mà cũng giảm cả uy tín của đệ tử nữa.
Hoắc Đô nói những lời này là để khích Hoàng Dung ra thi đấu cùng mình.
Nghe y nói những câu khinh thường võ lâm Trung Nguyên, xem người bằng nửa con mắt, toàn thể quần hùng nổi giận căm gan, trừng trừng nhìn y đến tím cả mặt.
Lỗ Hữu Cước không nhịn nổi với câu nói mục hạ vô nhân ấy của Hoắc Đô, vung gậy trúc xông ra nói lớn :
– Lão phu vừa được tấn phong Bang chủ Cái Bang. Bằng phép đả cẩu mới học mười phần chưa thuộc một, tuy nhiên cũng không thể nào chịu để cho người khinh thị võ lâm Trung Nguyên. Ta sẵn sàng ra đây cùng ngươi hầu tiếp vài ngón xem sao ?
Lỗ Hữu Cước tuy chưa tinh thục “đả cẩu bổng pháp” nhưng về võ công cũng là người có hạng. Nay thấy Hoắc Đô tuổi trẻ mà lớn giọng khing thường bao nhiêu anh hùng thiên hạ nên không chịu nổi phải xông ra trước để bảo vệ thanh danh võ lâm trong nước mình, sau đỡ nhọc cho Hoàng Dung, vì lão thừa biết Hoàng Dung đang gần ngày sinh nở, khí huyết hao mòn, công lực giảm sút không thể nào chiến đấu được.
Phần Hoắc Đô thì chỉ sợ có một mình Quách Tĩnh mà thôi. Ngoài ra bất cứ kẻ nào y cũng không thèm quan tâm tới. Vì vậy nên khi nghe Lỗ Hữu Cước nói , y vội khom lưng bái một cái nói lớn :
– Kính chào Lỗ bang chủ. Tiểu Vương hân hạnh được hầu Lỗ bang chủ một vài keo cho biết .
Trong khi ấy, bọn gia đinh trong Lục gia trang đã dọn hết bàn ghế, lắp thèm đèn đuốc sáng rực trên một khoảng trống trên phạm vi bảy tám trượng để tiện bề dụng võ.
Giữa rừng người, một vùng rộng lớn , thảy đều sáng như sao sa, rực rỡ như ban ngày.
Hoắc Đô Vương tử đứng giữa thủ thế rồi nói tiếp :
– Xin Lỗ bang chủ cẩn thận, tại hạ ra tay đây !
Nói vừa dứt lời, y dùng quạt tấn công luôn mấy cái.
Tức thì một làn gió mạnh thổi phốc lại phía Lỗ Hữu Cước toả ra mùi hương thơm ngào ngạt, nghe thoang thoảng như mùi hoa nhài.
Ngại có mê hồn hương, Lỗ Hữu Cước vội nghiêng mình sang một bên để né tránh. Ngay khi đó, Hoắc Đô thừa dịp xếp quạt lại như cây bút dài độ tám tấc, điểm huyệt đối phương.
Nếu như đối phương là tay mơ thì phép điểm huyệt này vô cùng nguy hiểm. Nhưng Lỗ Hữu Cước đã biết trước nên ông múa tít ngọn bổng che kín phía trước ngực bao phủ cả bên sau, bước lùi ra sau mấy bước lấy trớn rồi nhún mình vọt luôn tới trước để tấn công Hoắc Đô.
Nhìn thấy địch thủ lùi ra sau, Hoắc Đô tiến theo. Vừa khi hắn tới đúng tầm ngọn bổng , Lỗ Hữu Cước tạt ngang một đòn “phát cỏ” xuống hạ bàn, trúng ngay mắt cá nghe “bốp” một tiếng.
Quần hùng đứng ngoài trông thấy vỗ tay tán thưởng và reo hò nói lớn :
– Chó nhỏ đã trúng đòn rồi. Phen này cho mi biết lợi hại của “đả cẩu bổng pháp” của Cái Bang nhé !
Bị chế nhạo, Hoắc Đô thẹn quá , đỏ mặt, hắn vội vàng xoay mình qua nhanh như điện chớp. , đưa tay trái phóng ra một chưởng tấn công Lỗ Hữu Cước.
Lỗ Hữu Cước bình tĩnh phóng mình sang một bên, vung tít cây bổng trúc theo tư thế “loạn đả tàn vân” khiến cây bổng xoay tít như một bầy rắn dữ đang vờn trên mặt sóng, đánh bật chưởng phong của Hoắc Đô ra ngoài và phá giải hoàn toàn chưởng thế của hắn.
Hoắc Đô thất kinh vội nghĩ :
– Chà, Đả cẩu bổng pháp” quả thật là tinh diệu phi thường,xưa nay tiếng đồn thiên hạ quả là không sai ! Ta cần phải cẩn trọng để khỏi bị thảm bại về tay lão.
Nghĩ xong, hắn đem hết tinh thần vào cuộc chiến đấu, quyền cước tung ra dồn dập, áp dụng theo đúng mười hai lối biến hoá vô cùng linh động, tấn công tới tấp vào người Lỗ Hữu Cước.
Vì chưa học hết tinh tuý của “đả cẩu bổng pháp” nên trong lúc đánh đỡ, Lỗ Hữu Cước đã có nhiều sơ hở vụng về đáng tiếc, khiến Quách Tĩnh và Hoàng Dung đứng ngoài trông thấy phải chắt lưỡi hít hà than thở :
– Kém quá, Lỗ Hữu Cước còn kém quá. Nếu cứ như thế này mãi thì tất nhiên phải nguy ngập rồi !
Trận chiến càng kéo dài, Lỗ Hữu Cước càng lộ nhiều sơ hở.
Dương Quá ngồi đằng xa thấy lối đánh của Lỗ Hữu Cước cũng tức mình dậm chân nhăn mặt, đứng ngồi không yên.
Cũng may, ngay từ lúc mới giáp chiến, Hoắc Đô đã bị một đòn vào chân, tinh thần dao động, không dám tấn công mạnh nữa vì sợ nhầm kế của đối phương, nếu không thì Lỗ Hữu Cước đã bị thảm bại từ lâu rồi.
Thấy tình thế ngày càng bất lợi, Hoàng Dung dự định cất tiếng gọi Dương Qua, bỗng nhiên Lỗ Hữu Cước thừa dịp đánh được một đòn “phang ngang lưng chó” trúng mạnh vào cạnh sườn Hoắc Đô thật mạnh.
Tuy bị đánh khá đau, nhưng vì cơn giận bốc lên ngùn ngụt quên cả đau đớn, Hoắc Đô chuyển hết thần lực kẹp chặt ngọn bổng rồi xông tới giáng một đòn thật mạnh, trúng ngay má Lỗ Hữu Cước nghe đánh “chát một tiếng, rồi thuận chân đạp luôn vào ống chân Lỗ Hữu Cước nghe “rắc một tiếng nữa, ống quyển gãy đôi. Lỗ Hữu Cước la “ối một tiếng miệng hộc máu tươi lăn đùng ra đất.
Lập tức hai đệ tử Cái Bang hạng tám túi xông ra khiêng Lỗ Hữu Cước đem vào trong buộc thuốc và chuyên chữa.
Quần hùng trông thấy Hoắc Đô tàn nhẫn và hung bạo quá, tất thảy đều nổi giận sôi gan, nghiến răng căm tức nhưng chưa ai nói câu nào.
Hoắc Đô cầm cây gậy trúc màu xanh biêng biếc trên tay, hiu hiu tự đắc, huyênh hoang tuyên bố :
– Té ra vật này là bảo vật trấn bang của Cái Bang . Ta tưởng có gì kỳ diệu, té ra cũng quá tầm thường !
Nói xong, hắn dùng hai tay định bẻ gãy cây gậy thành hai khúc.
Thình lình, có một luồng sáng bạch thoáng qua trên đầu, rồi có tiếng lanh lảnh của một thiếu phụ quát mắng theo giọng của kẻ bề trên :
– Hãy coi chừng và liệu hồn đấy !
Thiếu phụ ấy chính là Hoàng Dung. Bà vừa cất tiếng quát, đã đưa tay giật lấy chiếc gậy trúc.
Hoắc Đô bất thình lình bị Hoàng Dung cướp cây gậy trong tay lẹ như tia chớp nhoáng, nhanh như vũ bão thì giật mình kinh sợ.
Nguyên phép đoạt gậy này gọi là “giật gậy từ miệng chó”, cũng chính là một tư thế vô cùng tuyệt diệu trong “đả cẩu bổng pháp” . Trước đây, trong đại hội Cái Bang trên núi Quân Sơn, Hoàng Dung cũng đã sử dụng chiêu này ba phen cướp gậy trong tay Dương Khang, cha của Dương Quá , dễ như lấy đồ trong túi.
Hôm nay, cũng một tư thế này, Hoàng Dung lấy lại cây gậy trong tay Hoắc Đô không chút gì khó nhọc cả.
Từ trên thềm cao và khắp xung quanh, quần hùng vỗ tay hoan hô dậy một gầm trời, Hoàng Dung nắm cây gậy ung dung trở về chỗ ngồi , sắc thái vô cùng tự nhiên, trong khi Hoắc Đô còn ngơ ngẩn nhìn theo, chưa tin rằng đó là sự thật. Hắn ngơ ngác nhìn theo Hoàng Dung , vẻ mặt bẽn lẽn thẹn thùng, nghĩ bụng :
– Hoàng Dung có tà thuật gì mà lấy gậy quá lẹ như vậy ? Tuy nhiên, trước mặt sư phụ ta, Hoắc Đô này nhất định không để cho một kẻ nào có thể làm nhục được !
Nghĩ xong, y cất tiếng nói lớn :
– Hoàng Bang chủ, tôi đã có hảo ý trao trả cây gậy cho bà để giữ tình hoà khí. Bây giờ bà có dám cùng tôi so tài mấy hiệp hay không ?
Câu nói vừa điêu ngoa, vừa kiểu cách như chọc vào ruột người nghe, làm cho Quách Phù tức không nhịn được. Nàng nghĩ :
– Bình sinh ta chưa hề thấy kẻ nào dám vô lễ với mẫu thân như tên này. Hắn đã dám ngang nhiên chọc tức, cần phải cho hắn nếm mùi lợi hại của cô nương một phen mới được !
Nghĩ thế, nàng liền vung kiếm xông ra/ Nhưng Võ Tu Văn vội ngăn lại bảo :
– Phù muội, hãy để hắn cho tôi trừng trị cho !
Võ Đôn Nho cũng lên tiếng nói theo :
– Đã có tôi tiếp sức, xin cô nương chớ bận lòng.
Cả hai cùng phi thân ra đấu trường, đồng thanh mắng lớn :
– Này tên rợ Mông Cổ kia, một người cao sang quý phái như sư mẫu ta đâu thèm đua tranh với những hạng như ngươi. Hãy cũng anh em chúng ta so tài cũng được.
Vừa trông thấy hai chàng tuổi trẻ mà thân hình mau lẹ như chim bay, Hoắc Đô đã đoán ra là hạng đệ tử của danh môn chính phái nên nghĩ thầm :
– Chúng ta tới đây là để quyết tranh ngôi Minh chủ võ lâm cùng một tay quái kiệt nhất trong Cái Bang, chứ nào phải để so tài theo bè với bọn chúng. Vì nếu chia bè để đánh thì bên ta ít, bên địch quá đông, làm sao cự cho lại ?
Nghĩ như vậy, hắn lớn tiếng nói :
– Xin chư vị anh hùng nghe Tiểu Vương trình bày một ý kiến. Xem hai chú con nít này, miệng còn hôi sữa, tài sức đáng bao nhiêu mà dám ra so tài cùng ta. Nếu ta ra tay thì làm sao tránh được tiếng ỷ lớn ăn hiếp trẻ con, nếu không ra tay thì cũng mang tiếng là sợ hãi lũ trẻ. Vậy ta nêu ra một điều kiện sau :”Keo vừa rồi tôi tuy thắng Lỗ Bang chủ Lỗ Hữu Cước nhưng tôi sẵn lòng bỏ qua không tính tới. Bây giờ , bắt đầu từ giờ phút này, tôi sẽ cùng người trong quý bang đấu luôn ba trận, bên nào thắng hai trận sẽ được xem như là thắng cuộc và được giữ ngôi Minh Chủ ! Các vị nghĩ sao ?
Câu nói bao hàm giọng bề trên nhưng cũng có lý. Quách Tĩnh và Hoàng Dung bàn nhỏ :
– Chúng ta nên phân công như thế này may ra thủ thắng được. Trước tiên cho một đệ tử của Nhất Đăng đại sư ra đấu cùng Hoắc Đô . Hách Đại Thông chuẩn bị đấu cùng Đạt Nhĩ Ma. Quách Tĩnh chờ đó để tiếp chiến cũng Kim Luân Pháp Vương . Tuy nhiên, lúc nào Quách Tĩnh cũng phải đề phòng xem chừng Kim Luân Pháp Vương có thể xông vào tiếp sức cho bọn đệ tử thì hỏng hết cả kế hoạch.
Tuy nhiên, mọi người kẻ bàn ra, người tán lại cũng vẫn chưa ngã ngũ ra sao hết. Bỗng Hoàng Dung nghĩ ra một kế và nói ngay :
– Tôi xin đề cử một người, và phần thắng nhất định phải nghiêng về phía chúng ta.
Quách Tĩnh nghe nói mừng quá, định hỏi thử là ai cho biết. Nhưng ông chưa kịp hé môi, bỗng từ phía dưới thao trường, tiếng vũ khí đã khua vang rang rảng nghe rợn cả người. Mọi người đưa mắt nhìn xuống thì thấy hai anh em họ Võ đã tấn công Hoắc Đô Vương tử…
Hồi 34
GIỮA THAO TRƯỜNG TIỂU LONG NỮ GẶP DƯƠNG QUÁ
Dương Quá ngồi tận sâu xa, vừa trông thấy anh em họ Võ xông ra đánh với Hoắc Đô thì cười thầm trong bụng :
– Không biết hai anh em này liều thân ra đánh với Hoắc Đô Vương tử là vì nòi giống Hán tộc hay là để làm hài lòng một giai nhân là Quách Phù cô nương ? Bảo rằng bọn bay vì nòi giống mà ra tay thì không thể nào mà tin được ! Vì trên đời này không có gì to tát hơn mối thù giết cha giết mẹ ( ? ) . Nếu hai anh em bây có chút khí khái thì đã đi tìm Lý Mạc Sầu mà trả thù rồi, có lý nào ở đây đóng vai trò nô bộc để làm vừa lòng ý trung nhân ? Trên thiên hạ biết bao nhiêu kẻ khoác áo nhân nghĩa , lợi dụng mục đích phục vụ dân tộc để âm mưu làm lợi riêng cho mình ! Chẳng hiểu hai anh em nhà ngươi có khi nào thầm nghĩ mà tủi thẹn với hai cái tên đẹp đẽ “Đôn Nho” và “Tu Văn” hay không ? Mang danh Văn, Nho mà cứ cam tâm đi làm tôi đòi cho một cô gái còn hơn cả cha mẹ mình. Huống chi cả hai anh em ruột mà cùng yêu thương một cô gái thì thật quả là vô luân. Nếu họ không loạn luân một cách công nhiên thì cũng ít ra đã loạn luân về mặt tư tưởng và tinh thần rồi . Thật đáng trách và cũng thật đáng phàn nàn vậy !
Trong lúc Dương Quá trầm ngâm suy nghĩ về mục đích và tư cách của anh em họ Võ thì Quách Tĩnh , Hoàng Dung và bao nhiêu anh hùng trong đại yến thảy đều quan tâm đến cục diện trận chiến dang diễn ra phía dưới.
Nguyên trong khi đối đáp, anh em họ Võ thấy Hoắc Đô mằng mình là bọn con nít, miệng còn hôi sữa thì trong lòng đã oán hận và thẹn thùng vì lời nói thốt ra trước mặt người đẹp. Hơn nữa, vừa rồi thấy Hoàng Dung đoạt cây gậy trúc trong tay Hoắc Đô một cách quá dễ dàng, thì cả hai đinh ninh rằng gã này tài nghệ cũng không bao nhiêu, nên trong lòng cũng đã có ý khinh thường rồi. Huống chi cả hai đã mang danh là môn đệ của Quách Tĩnh đại hiệp, lúc này cùng nhau hợp lực tấn công hắn, cho dù không thắng nổi cũng thể để bại được.
Phàm trâu nghé chưa biết sợ cọp, nên hai người vung gươm tấn công Hoắc Đô Vương tử. Nhưng phàm ở đời có tiếp xúc với thiên hạ mới biết rõ tài năng của mình, chứ quanh năm cứ quanh quẩn trong nhà để so sánh với Quách Phù và bao nhiêu người mới nhập môn thì lúc nào cũng chủ quan tự cho mình là tài giỏi hơn ai hết. Hôm nay chạm trán với Hoắc Đô cũng là một dịp để nhìn xa hơn chút nữa.
Sau vài chiêu đánh đỡ, hai thanh trường kiếm của anh em họ Võ đã dần trở nên vụng về chậm chạp, không giữ vững được bình tĩnh như trước, thỉnh thoảng lại bị rối loạn. So với hai người, tài nghệ của Hoắc Đô cao hơn một bậc rất xa.
Hoắc Đô cũng muốn nhân dịp này trổ tài cho quần hùng trông thấy, nên giả vở luống cuống sơ hở, để Võ Tu Văn đâm vào một kiếm, rồi xuất kỳ bất ý, y cầm quạt điểm ngang vào thanh trường kiếm kêu “keng một tiếng rất to, thanh trường kiếm đã gãy thành hai đoạn .
Hai anh em họ Võ hoảng hốt, mất cả bình tĩnh. Võ Tu Văn sợ hãi vội bước lùi ra sau. Võ Đôn Nho sợ em bị tập kích theo nguy tới tánh mạng , nên vội đưa trường kiếm ra ngăn cản Hoắc Đô, không cho đuổi theo.
Lập tức Hoắc Đô vung quạt hất mạnh lên nhằm ngay thanh kiếm.
Võ Đôn Nho cảm thấy hình như có một luồng điện mạnh làm tê rền cả tay. Thanh trường kiếm bị đánh tung lên trên không như một lằn điện xẹt, văng tuốt ra đằng sau rất xa.
Tuy sợ hãi, nhưng quá uất ức và thẹn thùng, anh em họ Võ quyết không bỏ chạy, cố đứng lại dùng quyền cước đấu cùng Hoắc Đô.
Võ Đôn Nho dùng tay trái án ngữ trước bụng , còn tay phải quay ra sau lưng, tung một chưởng trong “Giáng Long Thập Bát Chưởng” tấn công Hoắc Đô. Còn Võ Tu Văn thì dùng tay trái che trước ngực, chìa ngón trỏ thẳng về phía trước, tay phải cũng vòng ra phía sau lưng, áp dụng thuật “Nhất Dương chỉ” để đối phó.
Thấy cả hai đã mất hết binh khí mà vẫn còn hiên ngang dùng quyền chưởng chống đỡ, Hoắc Đô không dám xem thường, chú ý dùng những đòn tuyệt kỹ để nghênh chiến, trong lòng suy nghĩ :
– Ta thắng chúng quá rõ rệt rồi, và thắng một keo cũng đủ rồi, cần gì phải đi đến nước cuối cùng cho nhọc thân vô ích.
Nghĩ vậy, y chắp tay vái một cái rồi cười ha hả nói lớn :
– Xin mời hai vị về nghỉ ngơi dưỡng sức. Chúng ta đấu cùng nhau cốt để thử tài cao thấp chứ nào phải phường đạo tặc mà hòng giết chóc lẫn nhau như thế ?
Lời nói thốt ra có vẻ từ tốn dịu dàng, nhưng bao hàm một ý nghĩa mỉa mai khinh miệt và khí phách.
Hai anh em họ Võ quá xấu hổ, nóng bừng cả tai, trong lòng muốn ra đánh nữa cho hả giận, nhưng không tiện ra tay vì thiếu binh khí. Muốn dùng chưởng lực, điểm huyệt thì Hoắc Đô lại không chịu xáp lại gần. Vì vậy cả hai đành lẳng lặng rút về chỗ khác chứ không trở lại chỗ Quách Phù lúc trước nữa.
Quách Phù cảm thấy thương hại, bèn chạy lại bên cạnh an ủi :
– Thôi, hai anh đừng buồn nữa. Hãy hợp sức cùng em, ba chúng ta cùng tấn công hắn để giành thắng lợi về mình.
Quần hùng chăm chú theo dõi hành động của ba người, không ai nói gì hết.
Nói xong, Quách Phù tuốt kiếm nhảy ra nói lớn :
– Anh em chúng ta quyết tâm sống mái một trận cuối cùng với tên Hung Nô Mông Cổ này.
Nhưng Quách Tĩnh đã thét lớn :
– Phù nhi ! Không được vỗ lễ, chớ làm huyên náo như thế !
Quách Phù lúc nào cũng kính nể cha, cho nên khi Quách Tĩnh vừa quát mắng, nàng đã sợ hãi rút lui ra sau, tra gươm vào vỏ ngay, nhưng đôi mắt phượng vẫn gườm gườm nhìn thẳng về phía Hoắc Đô Vương Tử.
Thấy một nữ lang xinh đẹp chăm chú nhìn mình, Hoắc Đô vui vẻ gật đầu mấy cái rồi cười mơn nói :
– Nếu cô nương không thoả mãn lúc ban ngày ban mặt, không phải lỗi về phần tôi đâu nhé. Vậy xin chờ đêm tới, Tiểu Vương sẽ xin hầu tiếp cô nương.
Quách Phù tức quá, trợn mắt nhìn hắn rồi nhổ nước miếng trên cỏ tỏ vẻ khinh bỉ rồi quay đầu bỏ đi.
Bị đại bại trước Hoắc Đô, anh em họ Võ chỉ ngại Quách Phù nhạo báng. Nhưng khi thấy nàng không những không có cử chỉ nhạo báng mà còn có ý ủng hộ thì cả hai yên tâm hơn, quên cả thất bại vừa rồi.
Hoắc Đô phe phẩy chiếc quạt nói :
– Bên tôi có cả thảy ba thầy trò. Sư phụ, sư huynh và tôi đang chờ một trận tranh tài xứng đáng. Mấy trận vừa qua chẳng qua chỉ là một dịp qua quít cho vui, không có gì đáng kể, xin bỏ qua cũng được. Bây giờ xin Quách đại hiệp vui lòng chọn người xứng đáng để ra thử tài cao thấp, kẻo để tình trạng như từ nãy đến giờ thì chán quá.
Quách Tĩnh sực nhớ lại vừa rồi Hoàng Dung nói là sẽ đề cử một ngừoi có đủ khả năng chiến thắng thì đoán là vợ mình đã tìm ra kế hay cho nên yên tâm tin tưởng, lớn tiếng nói :
– Được rồi, chúng tôi sẽ đề cử người xứng đáng ra tranh tài, ai thắng sẽ được giữ ngôi Minh chủ võ lâm, khỏi cần thúc hối làm gì.
Hoắc Đô Vương tử nghĩ bụng :
– Cứ xem lực lượng bên ấy thì chỉ có Quách Tĩnh là người đáng sợ hơn hết. Nhưng y đối với sư phụ ta chắc không thấm vào đâu. Hoàng Dung thì thân pháp cũng có vẻ kỳ diệu lắm, nhưng bà ta đang trong thời kỳ thái nghén, sức khỏe chẳng đầy đủ, thành thử không đáng quan tâm lắm. Trừ hai mạng này ra, ta xét thấy không còn tay nào đáng kể nữa.
Đoán ngầm thấy chắc ăn, Hoắc Đô lớn giọng nói :
– Xin quý vị khỏi nhọc công lo lắng chọn lựa nữa cho tốn thời giờ. Nếu bên ấy nhắm theo không được thì xin cứ chịu thua và nhường chức MInh chủ võ lâm lại cho chúng tôi thì hơn, mà còn giữ được tình hoà khí.
Toàn thể quần hùng thấy Hoắc Đô vừa đánh bại Lỗ Hữu Cước nặng nề và hạ luôn cả hai anh em họ Võ thì đã có phần kiêng nể nên ai nấy thảy đều chờ mệnh lệnh của Hoàng Dung chứ không lên tiếng như trước nữa.
Hoàng Dung quay sang hỏi Hoắc Đô :
– Có phải túc hạ ra điều kiện là keo thứ nhất túc hạ so tài , keo thứ hai đến phiên lệnh sư huynh, và keo chót là do lệnh Tôn sư, có phải như vậy không ?
Vừa thắng luôn hai keo, Hoắc Đô đã có ý xem thường phe địch nên Hoắc Đô điềm nhiên đáp :
– Đúng như vậy,.Tôi muốn theo lệ mới là để cao đấu với cao, thấp đấu với thấp cho xứng vai xứng vế, và cũng không ai phiền trách chỗ nào được, dù được hay thua cũng công bằng hết. Chừng ấy đôi bên không bên nào được oán hận.
Nghe nói xong, Hoàng Dung thấp giọng nói với quần hùng :
– Nếu như vậy thì phe mình ăn chắc đi rồi, xin anh em cứ tin tưởng….
Quách Tĩnh vội hỏi :
– Căn cứ vào đâu mà em dám chắc chắn là sẽ nắm phần thắng lợi như vậy ?
Hoàng Dung ghé tai ông nói nhỏ :
– Dùng ngựa hay của ta đua với ngựa thường của họ. Sau đó đem ngựa thường của mình đua với ngựa kém của người ta. Đó là phương pháp đua ngựa mà xưa kia Điền Kỵ đã áp dụng để thắng vua Tề đoạt giải ngàn vàng đó !
Quách Tĩnh không phải là người học rộng về văn chương điển tích, còn ngẩn ngơ chưa hiểu ý ra sao, thì Hoàng Dung lại ghé vào tai ông nói tiếp :
– Ông vốn là người tinh thông binh pháp, há lại quên chuyện Tôn Tẫn chân nhân dạy về diệu pháp rồi sao ?
Vừa nghe vợ nói, Quách Tĩnh bỗng sực nhớ lại lúc thiếu thời nghiên cứu Võ mục di thư có một đoạn ghi rằng :”Đại tướng nước Tề là Điền Kỵ đua ngựa với vua Tề,đánh cuộc ngàn vàng. Điền Kỵ tới thỉnh kế Tôn Tẫn chân nhân thì người dạy rằng : Lúc đầu đem ngựa kém đua với ngựa giỏi của vua. Như vậy vua thắng keo đầu nhưng phải thua hai keo sau. Ta thua một thắng hai tức là đã thắng rồi. Như thế làm sao không ăn giải được ?”
Khi nghe Hoàng Dung nhắc lại, ông chợt nhớ ra câu chuyện đó, bèn vỗ đùi khen hay và trong bụng đinh ninh thế nào vợ mình cũng có mưu kế để thắng bọn Hoắc Đô Vương tử.
Lúc bấy giờ, Hoàng Dung quay sang bên phải nói :
– Chu sư huynh, với thuật ” Nhất dương chỉ”, nhất định sư huynh phải thắng đứt tên Hoắc Đô vương tử rôi phải không ?
Nguyên Chu Tử Liễu là một thư sinh nước Đại lý, trước đây thi đỗ Trạng nguyên làm quan phò Đoàn Nam Đế nước Đại Lý, sau lên tới chức quan Tể Tướng, tột phẩm công thần. Vốn là bậc quân tử tài ba, kiến thức hơn người. Khi mới nhập môn cùng Nhất Đăng đại sư , ông đứng hàng thứ năm, sau Ngư, Tiều, Canh, Độc. Nhưng cách mười năm sau, ông đã vượt lên đứng hàng thứ hai. Càng ngày, võ công của ông càng tiến bộ bao nhiêu thì ông lại càng ôn hoà thuần hậu bấy nhiêu, chứ không bao giờ ỷ mình giỏi mà khinh thường người khác. Vì có đặc tính đó mà Nhất Đăng đại sư tín cẩn thương mến, dốc lòng truyền hết võ công “Nhất dương chỉ” cho.
Về thuật “Nhất dương chỉ ” Quách Tĩnh và Hoàng Dung chẳng những kém hơn Chu Tử Liễu mà ngay cả bọn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Hách Đại Thông … là những võ lâm tiền bối cũng còn thua xa.
Vốn là người lòng dạ ngay thẳng chất phác, nên khi nghe Hoàng Dung nói, Quách Tĩnh đã gật đầu đáp luôn :
– Cứ so sánh tài nghệ thì Chu sư huynh có thể ăn đứt Hoắc Đô , phần tôi thì cũng có thể đánh bại được Đạt Nhĩ Ma, nhưng điều đáng ngại là không biết Hách sư thúc có cự nổi với Kim Luân Pháp Vương hay không ? Chúng ta nên thận trọng mới được.
Hách Đại Thông xưa nay vốn là người hào khí nghĩa hiệp, biết rõ cuộc đấu võ hôm nay sẽ quyết định tới vận mệnh quốc gia, dân tộc, chứ không phải là một cuộc so tài bình thường trong võ lâm. Nếu phe mình để ngôi Minh chủ rơi vào tay Kim Luân Pháp Vương thì bao nhiêu anh hùng Hán tộc sẽ bị chúng nó tiêu diệt dần dần hết. Như thế còn thể nào nói tới chuyện kháng Mông Cổ cứu quốc nữa.
Suy nghĩ xong, ông vuốt râu khẳng khái nói :
– Nếu việc này có lợi cho nước nhà , dân tộc thì dù thân già này có bị ác tăng bằm làm muôn mảnh ta cũng sẵn sàng hy sinh không hề tiếc.
Hoàng Dung nói :
– Như kế đã định sẵn, chúng ta chỉ cần thắng hai keo mà thôi, cho chúng nó thắng một keo cũng chẳng sao. Cứ theo tôi thì keo thứ ba không quan hệ mấy.
Quách Tĩnh nghe nói mừng quá cười lớn bảo :
– Hay quá, mưu kế quả là hay tuyệt !
Chu Tử Liễu tươi cười nói :
– Trong ba keo này, chỉ keo của tôi là nặng nề nhất. Nếu phen này mà không thắng nổi Vương tặc Mông Cổ thì đời sau thiên hạ phỉ nhổ lên thân xác, và không còn mặt mũi nào nhìn anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.
Hoàng Dung tìm lời trấn an :
– Xin sư huynh đừng bi quan quá, không có chuyện chi đáng ngại hết. Vậy sư huynh cứ yên tâm ra chiến đấu đi !
Chu Tử Liễu khoan thai bước xuống vái Hoắc Đô Vương tử rồi lễ phép nói :
– Theo sự phân công trong nội bộ thì hôm nay tại hạ được hân hạnh lãnh giáo điện hạ keo này. Kẻ hèn này tên Tử Liễu, họ Chu, người ở Côn Minh thuộc xứ Vân Nam, vốn là đệ tử của Nhất Đăng đại sư. Bình sinh vốn ham mê văn chương thi phú, võ nghệ không tinh thông bao nhiêu. Vì vậy, hôm nay trong cuộc so tài cùng điện hạ , nêu có điều gì sơ suất, xin điện hạ vui lòng miễn chấp cho. Kẻ hèn này xin có lời cảm tạ trước.
Nói xong, ông rũ tay áo lấy ra một cây bút , cầm tay đưa thẳng lên trời vẽ luôn mấy vòng, rõ ràng là tác phong của một nhà nho không khác.
Hoắc Đô nghe giọng nghĩ bụng :
– Kẻ này nói năng lễ độ từ tốn khiêm cung, chắc bản lãnh phải cao siêu, tài ba xuất chúng. Ta cần phải để phòng mới được.
Nghĩ vậy, y vòng tay đáp lễ và nhỏ nhẹ nói :
– Tiểu Vương chưa có dịp được tiếp kiến và học hỏi lão tiền bối, không hiểu lão tiền bối quen sử dụng loại binh khí nào ?
Chu Tử Liễu cười ha hả nói :
– Mông Cổ là nước man di thiếu chữ nghĩa, văn chương, nên nhân tiện đây ta muốn dùng văn chương chữ nghĩa mà chỉ điểm cho một ít.
Hoắc Đô nghe nói, trong lòng giận sôi, suy nghĩ :
– Quân này láo thật. Hắn muốn dùng danh từ kiêu ngạo để mạ lỵ Đại Mông Cổ ta, Sự xáo láo này không thể tha thứ được. Phen này ta phải kết liễu mạng sống của hắn cho bọn này biết tay mới được !
Tuy nhiên, hắn cũng dằn lòng nói nhỏ nhẹ :
– ý tôi muốn biết ông sử dụng loại đao kiếm gì chứ đâu có hỏi văn chương chứ nghĩa mà ông bảo như vậy ?
Chu Tử Liễu múa tít cây bút lên trời mấy vòng rồi cười lớn đáp :
– Kẻ hèn xuất thân trong hàng nghiên bút, nào có biết đao kiếm là gì đâu. Những kẻ chuyên dùng đao búa chỉ là những bọn lòng lang dạ thú, chỉ chuyên ỷ mạnh hiếp người, xem sinh mạng con người như cỏ rác, có khi nào nghĩ đến nhân nghĩa, nhiều khi còn làm những điều thương luân bại lý nữa là đằng khác.
Hoắc Đô đưa mắt nhìn cây bút, thì thấy cán bằng trúc, đầu bút bằng lông dê, trên đầu có nhúng ướt mực cũng như muôn ngàn cây bút khác, chứ không phải là loại bút các nhà võ thuật thường dùng để điểm huyệt.
Y toan lên tiếng vặn hỏi thì thình lình có một bóng trắng bay qua lạnh như làn khói, mờ mờ trông như hình ảnh một nữ lang.Người này vừa sa xuống đã liếc mắt nhìn vào đám đông, hình như để tìm kiếm một kẻ nào vậy.
Quần hùng đang chăm chú nhìn vào trận đấu sắp diễn ra của Chu Tử Liễu và Hoắc Đô không hề để ý đến mọi việc bên ngoài. Nhưng bỗng nhiên có một bóng nữ lang bạch y vừa xuất hiện một cách quá ư đột ngột thì ai nấy tất thảy đều ngạc nhiên nhìn kỹ lại.
Dưới ánh đèn đuốc sáng rực như ban ngày, nư lang có nước da trắng xanh, hình như trong người đang mang bệnh, tuy nhiên hình dung vô cùng xinh đẹp. Trông nàng phảng phất như một tiên nữ, từ khuôn mặt cho đến dáng điệu thật vô cùng diễm lệ, hình như tất cả những nét gì tinh tuý nhất của vũ trụ này tất thảy đều tập trung để kết hợp lại thành nàng. Nàng đẹp đến nỗi chẳng biết dùng danh từ nào để tả, để gọi cho đúng. Mọi người có cảm tưởng đây là một tiên nữ vừa giáng trần !
Không ai hẹn mà cùng ồ lên một tiếng và cùng trầm trồ khen “quả thật là đẹp, đẹp như tiên nữ giáng trần”
Vừa trông thấy cô gái này, Dương Quá mừng rỡ như điên cuồng, vụt đứng thẳng dậy,chạy vụt ra khỏi chỗ chàng đang đứng, tay vung miệng reo :
– Cô nương … Trời ơi, cô nương !
Nữ lang đó quả đúng chính là Tiểu Long Nữ.
Từ khi cùng Dương Quá chia tay mỗi người một ngả, Tiểu Long Nữ một mình trở lại Cổ mộ đài, sống những ngaỳ cô độc buồn bã, ngày đêm cô tịch, một bóng một đèn.
Hai mươi năm trước kia, nàng đã từng sống trong Cổ Mộ Đài hiu quạnh, cuộc đời như mặt nước hồ thu, không bao giờ buồn chán.
Nhưng từ khi gặp Dương Qua, hai người cùng nhau chung sống với nếp sống bình dị hồn nhiên trong Cổ Mộ đài, đôi khi nàng tự nhiên thấy cõi lòng xao xuyến như hồ thu gợn sóng. Tuy vậy, nàng vẫn cố tâm kìm hãm và vẫn giữ được tuyết sạch, giá trong, cả hai không bao giờ để lửa tình chi phối.
Khi trở về Cổ Mộ Đài lần sau, Tiểu Long Nữ cố nén lòng quên hết dĩ vãng và mọi nếp sống đã qua cùng chàng để tìm lại nếp sống bình thản trong cảnh hoang vu u tịch, nhưng không thể nào được nữa.
Lắm khi đang ngồi trên giường Hàn ngọc, nàng chợt nhớ tới hình ảnh Dương Quá đang nằm ngủ say sưa trên chiếc giường này, cà cũng chính trên cái bàn cạnh đấy, hàng ngày chàng lo rót nước bưng lại hầu mình. Bao nhiêu hình ảnh đó luôn luôn xâm chiếm tâm hồn nàng , khiến cho Tiểu Long Nữ không thể nào chăm lo tu luyện được nữa. Nàng đã trải qua cả ngày dài ngồi suy nghĩ vẩn vơ, thương hình nhớ bóng, bỏ cả ăn ngủ, kéo dài cuộc sống chập chơn như cơn ác mộng.
Cảnh thác loạn trong ngôi Cổ Mộ cứ keo dài ngày này sang ngày khác, không bao lâu đã được một tháng trường.
Tiểu Long Nữ không chịu đựng được nữa và một ngày kia, nàng quyết tâm đi tìm Dương Qua.
Suốt đời từ tấm bé sống trong Cổ Mộ, nàng đâu hiểu gì về cuộc sống bên ngoài, từ nhân tình thế thái đến quan niệm nhân sinh,cái gì nàng cũng thấy mờ mờ mịt mịt như chú Mán về đồng. Từ bé, nàng chỉ được sư phụ dạy cho phương pháp luyện phép “bài trừ thất tình lục dục” khiến nàng có thể trở thành một con người không bị xúc động vì ngoại vật, không hờn, không giận và không để mọi vật chi phối. Vì vậy, cái gì đối với nàng cũng đều mờ mịt, mỗi bước đường đều hoàn toàn bỡ ngỡ, ngơ ngẩn.
Đối với một người không bao giờ chung sống cùng xã hội bên ngoài mà phải vượt núi trèo đèo đi tìm Dương Quá giữa nhân thế bao la thì có khác chi là “mò kim đáy bể”
Bước ra khỏi Cổ Mộ, không biết là nên đi về hướng nào, nàng cứ đánh liều đi về phía trước mãi, tới đâu hay tới đó.
Trên đường đi gặp ai nàng cũng cứ tưởng họ đều quen biết Dương Quá nên thật thà hỏi : – Ông, bà có gặp Dương Quá đi về hướng nào hay không ?
Người nào nghe nàng hỏi cũng đều buồn cười, chỉ nhìn nàng lắc đầu, biết đâu mà chỉ ?
Thân gái dặm trường, đường đời không định hướng, nàng đánh liều cất bước, hễ đói bụng thì ghé nhà người ta, gặp cơm thì ngồi lại ăn, chứ không hề biết là ăn thì phải trả tiền, hoặc nếu không có tiền thì cũng phải hỏi chủ đồng ý trước mới được. Với tánh quá ư hồn nhiên và ngơ ngẩn của nàng khiến cho nhiều người phải cười nôn cả ruột.
Cũng may là nhờ nàng có nha sắc vô cùng xinh đẹp, nên ai ai trông thấy cũng đều có cảm tình ngay, ngoài ra còn có kẻ nghĩ rằng nàng là tiên nữ giáng trần để thử lòng nhân thế nên ai cũng hết lòng chiều chuộng dễ dãi cùng nàng. Không một người nào có ý ngăn trở hay làm khó khăn cho nàng từ bữa ăn tới chỗ ngủ.
Một ngày ka, nàng đang ngồi nơi quán trọ, chợt nghe thiên hạ bàn tán nơi Lục gia trang tại Kinh tử quan có tổ chức “Anh hùng yến” . Tiểu Long Nữ chợt nghĩ :
– Cứ nghĩ võ công của Dương Quá cũng đáng mặt anh hùng. Có lẽ hắn có tên dự Anh hùng yến cũng nên. Ta cứ đến đó may ra sẽ gặp.
Nghĩ vậy rồi nàng quyết tâm dò đường tìm tới Kinh Tử quan và hỏi trang viện họ Lục.
Hàng ngàn quan khách bốn phương về dự Anh hùng yến, nhưng trừ Hách Đại Thông, Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính là biết nàng còn bao nhiêu người khác không ai có thể ngờ được nàng là Tiểu Long Nữ. Tuy nhiên, mọi người thảy đều ngạc nhiên về dung nhan cực kỳ diễm lệ của Tiểu Long Nữ và đoán đây cũng là một dị nhân kỳ nữ.
Vừa nhận được nàng, Doãn Chí Bình giật mình kinh sợ tái mét cả mặt mày. Triệu Chí Kính theo dõi nhận thấy như vậy chỉ bĩu môi cười thầm.
Quách Tĩnh và Hoàng Dung nhìn cử chỉ của hai người thì lấy làm ngạc nhiên không hiểu vì sao, nên trong lòng rất nghi hoặc.
Nghe giọng nói quá ư tha thiết mừng rỡ của Dương Qua, Tiểu Long Nữ cảm động quá, run run giọng nói :
– Qua nhi ! Sao người đi đâu để ta mất công tìm kiếm vậy ?
Dương Quá đôi mắt đẫm lệ, sụt sùi một hồi lâu mới nói lên được :
– Sao, cô nương … , cô nương có … bị lạc đường không vậy ?
Tiểu Long Nữ lắc đầu đáp :
– Không đâu ! Ta đi tới đâu cũng hỏi thăm người ta nên không bao giờ bị lạc lối cả !
Dương Quá mừng quá nói dồn dập :
– Tôi định đi tìm kiếm cô nương, thời may cô tìm tới đây, may quá, mừng quá !
Hàng ngàn tân khách theo dõi cử chỉ của hai người đều ngạc nhiên hết sức. Giữa đám đông thiên hạ mà hai người cùng nhau trò truyện hình như đang ở trong phòng riêng, không chút ngại ngùng và xem như xung quanh không có một người nào nhìn họ.
Tiểu Long Nữ cầm chặt tay Dương Qua, lòng tràn ngập cả hoan hỷ lẫn sầu thương.
Hoắc Đô Vương tử trông thấy Tiểu Long Nữ đẹp quá cũng đứng sững ra nhìn chứ không biết là ai. Y không ngờ rằng đây là người đẹp Tiểu Long Nữ mà xưa kia y đã đến cầu hôn thất bại nơi Chung Nam Sơn.
Trông thấy người đẹp lại xoắn sít bên cạnh một anh chàng mặt mày lem luốc, áo quần rách vá trăm mảnh thì y có lòng ganh tỵ bèn mắng lớn :
– Đây là chốn anh hùng tranh tài cao thấp, đâu phải là chốn để cho trai giá tự tình ? Biết điều thì hãy tránh đi cho khuất mắt .
Dương Quá không thèm đáp lại, nắm tay Tiểu Long Nữ kéo nàng ra mé ngoài hiên ngồi bên nhau kể hết nỗi nhớ niềm thương trong những ngày xa cách .
Thấy hai người đã đi xa rồi, Hoắc Đô quay sang Chu Tử Liễu :
– Nếu ông không biết sử dụng binh khí thì chúng ta dùng quyền cước so tài cùng nhau cũng được.
Chu Tử Liễu cười lớn đáp :
– Đâu được ! Nước Trung Hoa là một nước văn hiến, lấy lễ nghĩ làm căn bản, lấy văn chương mà cầu hiền, dùng bút nghiên mà chọn bạn, đâu phải như phưỡng dã man mọi rợ như quân Mông Cổ chúng bay, chỉ biết lấy sự chém giết làm lẽ sống ?
Hoắc Đô nổi giận thét lớn :
– Ta cũng không cần dùng đến gươm giáo đâu !
Nói xong, y xoè quạt quạt liền mấy cái.
Chu Tử Liễu bước ngang qua một bên tránh né rồi dùng bút vẽ luôn mấy cái về phía Hoắc Đô.
Hoắc Đô thấy đối phương vừa xuất thủ lanh lẹ phi thường đã đem lòng kính nể không dám coi thường, hết sức thận trọng cố ý dò xét xem thuộc môn phái nào để tiện bề đối phó, hoặc tấn công phòng thủ.
Chu Tử Liễu thấy Hoắc Đô có vẻ ngán mình trong bụng mừng thầm bèn doạ lớn :
– Chỉ cần một nét bút của ta có thể vẽ tan một ngàn quân Mông Cổ đấy. Vậy điện hạ hãy cẩn thận đề phòng cho kỹ đấy nhé !
Nói vừa dứt lời, ông vun g bút điểm luôn mấy cái liên tiếp .
Hoắc Đô Vương tử tuy học tại Tây Tạng, chưa hề lăn lộn giang hồ, nhưng sự hiểu biết của Kim Luân Pháp Vương rộng như biển hồ, bao nhiêu võ công chốn Trung Nguyên ông ta đều biết qua hết cả. Biết rằng Hoắc Đô cần học mình tất cả những kinh nghiệm để uy hiếp quần hùng Trung Nguyên, nên Kim Luân Pháp Vương sẵn sàng đem hết tuyệt học của mình ra truyền thụ. Nhưng ngờ đâu, Chu Tử Liễu xuất thủ cầm bút điểm luôn mấy cái mà y vẫn chưa nhận định được là thuộc môn phái nào. Mỗi khi múa bút lên trời ý không biết chữ gìm, tác dụng ra sao, mà lạ thay, cứ mỗi lần Chu Tử Liễu đảo bút là y lại thấy rung chuyển cả các đại huyệt trong người.
Nguyên Chu Tử Liễu là một văn nhân nổi tiếng phương Nam, sau này theo học võ công nhưng không bao giờ xao nhãng nghiệp văn chương. Võ công càng tinh thục, văn pháp cũng được trau dồi, ông chú tâm phối hợp cả hai môn theo Thư Pháp Nhất Dương Chỉ thành một môn tuyệt kỹ. Đây là môn thư pháp do ông tự sáng chế. Nếu người khác muốn học lại cũng rất khó vì cần phải giỏi cả ba thứ : văn hay, võ giỏi và thuật Nhất Dương chỉ nữa mới được.
Thuật thư pháp này gọi là “Văn trung hữu võ, võ trung hữu văn” nghĩa là trong văn có võ, trong võ có văn, cần phải kiêm tài văn võ.
Theo quan niệm của Hoắc Đô thì bọn nhà văn chỉ là những nhà hữu nho, chỉ chuyên đọc Tứ thư, Ngũ Kinh, chuyên về thi phú, ngâm vịnh,trói gà không chặt, chẳng làm nên trò trống gì. Không ngờ hôm nay trước mặt y, một thư sinh trổ tài điểm huyệt bằng bút, mỗi nét bút tung ra là một đòn điểm huyệt vô cùng thần bí. Lạ hơn nữa là lối điểm bút liên miên bất tận, theo lối viết chữ loang loáng như thảo thư, ánh bút phấp phới như ánh sáng chói loà không biết đâu đề phòng hay né tránh cả.
Thấy lối hươi bút điểm huyệt của Chu Tử Liễu quá ư tinh diệu thần bí, Hoắc Đô Vương tử nghi nghi hoặc hoặc, nhìn trân trối chẳng biết nên tới hay nên lui.
Quách Tĩnh tuy không thạo về văn chương cho lắm nhưng cứ nhìn theo lối múa bút của họ Chu cũng phải gật gù thầm phục là kỳ diệu.
Còn Hoàng Dung thì ngay từ nhỏ đã được cha là Hoàng Dược Sư dạy học nhiều loại kinh pháp văn chương nên bà là một người cả văn võ đều thạo. Cho nên trông thấy thư pháp của Chu Tử Liễu biểu diễn với một lối lạ lùng, bà cũng thầm phục hết sức.
Quách Phù chạy lại gần mẹ, thỏ thẻ hỏi :
– Mẫu thân, Bác Chu dùng bút vẽ ngang vẽ dọc những gì mà có vẻ huyền diệu tài tình quá như vậy. ?
Hoàng Dung đang bận theo dõi nên không tiện giải thích lâu dài, chỉ đáp suông một câu :
– Đó là bút pháp của Phòng Huyền Linh.
Quách Phù không biết hỏi thêm :
– Phòng Huyền Linh là ai vậy, mẫu thân ?
Hoàng Dung giải thích đơn sơ cho con nghe :
– Phòng Huyền Linh là một vị đại thần đời Đường, ông ta có lối chữ viết như rồng bay phượng múa, nét chữ già dặn sắc sảo, tinh anh. Vì vậy nên thiên hạ bái phục và gọi ông là “giai thư linh phẩm”.
Miệng thì nói chuyện với con gái, nhưng mắt bà không rời khỏi cuộc đấu giữa hai người.
Lúc bấy giờ, Chu Tử Liễu say mê với cuộc đấu , vứt bỏ cả mũ, hình thái không khác nào một kẻ điên khùng hay say rượu cả, vung tay viết những nét bút vừa mạnh, vừa dài, xem qua như rắn bò, rồng cuốn.
Quách Phù ngạc nhiên quá vội hỏi thêm Hoàng Dung :
– Mẫu thân, bác này có lẽ say rượu hay là nổi cơn điên rồi chăng ?
Hoàng Dung cười đáp :
– Không điên đâu. Nếu cho ông ấy uống thêm vài cốc mỹ tửu, ông ta càng viết đẹp hơn nữa đấy con ạ !
Nói dứt lời, Hoàng Dung xách bầu rượu lại gần nói lớn :
– Chu đại ca, hãy nếm vài ngụm rượu cho ấm lòng và thêm hứng thú !
Miệng nói, tay rót một chung đầy trao cho Chu Tử Liễu . Mùi rượu thơm phức xông ra ngào ngạt, nghe thoảng như mùi quế hương. Đây là loại rượu hảo hạng đặc biệt do Hoàng Dung mang từ đảo Đào Hoa về, tất cả quần hùng ở đây ai cũng công nhận là “thiên hạ đệ nhất mỹ tửu”.
Chu Tử Liễu bước lùi ra sau mấy bước, đưa tay tiếp lấy chung rượu, uống một hơi cạn hết.
Hoàng Dung lại rót thêm chung thứ hai, Chu Tử Liễu cũng uống cạn luôn. Qua chung thứ ba thì Chu Tử Liễu đã cảm thấy đầu óc nóng bừng, tinh thần hứng thú, hình như được Phật bà ban cho nước cam lộ. Vì vậy nên ông bưng chung thứ ba uống từng ngụm nhỏ để kéo dài sự hứng thú.
Hoắc Đô nhìn thấy đối phương trong lúc đang chiến đấu cùng mình mà còn khề khà nhắm rượu có ý khinh thường thì nổi nóng dùng quạt định đập bể chung rượu, nhưng Hoàng Dung đã đoán biết từ trước nên kịp thu tay về ngay.
Chu Tử Liễu không thèm để ý tới Hoắc Đô, chỉ cúi đầu cảm tạ Hoàng Dung đãi rượu.
Hoàng Dung tươi cười nói :
– Đại ca, sau khi uống rượu vào rồi, chắc hẳn đại ca viết và múa đẹp lắm đấy !
Chu Tử Liễu vừa cười vừa đáp lời Hoàng Dung và cũng gián tiếp nói chuyện với Hoắc Đô:
– Gia Cát Khổng Minh xưa kia lâm trận, dù bên mình có hàng vạn tinh binh cũng vẫn giữ được thần trí vô cùng bình tĩnh thư thái an nhàn, không bao giờ nôn nóng hấp tấp. Kẻ hèn này ngày nay chỉ đua tài cùng một kẻ dưới tay, lòng dạ không hơn gì lang sói, thì cần gì phải nói gấp đến chuyện hơn thua ?
Nhìn trời cười thêm một lúc nữa, ông nói tiếp :
– Sẵn có tửu hứng, tôi xin viết theo lối bút pháp của Trương Húc thời xưa để Hoàng Bang chủ thưởng thức nhé. Chu Tử Liễu này tuy không hơn nhiều kẻ trượng phu Trung Nguyên, nhưng cũng không đến nỗi bị thịt như bọn man rợ nơi đây đâu !
Nói xong, ông ta hươi bút viết luôn bài “Thánh tảo” ( nghĩa là chữ viết đẹp như thánh ) của Trương Húc cho Hoàng Dung và quần hùng xem.
Kim Luân Pháp Vương tuy ngồi nhắm mắt tham thiền, nhưng vẫn chú ý theo dõi cuộc tranh tài giữa đôi bên. Khi thấy bên này đưa ra một nhà nho múa bút ba hoa để kéo dài thời giờ thì bực mình gọi Hoắc Đô :
– Ai Cổ Tư Kim con, sao con mê muội lắm vậy ? Còn thuật “thất nhi thất nhi” đâu rồi không dùng tới ?
Quần hùng nghe nói chẳng hiểu y muốn gì cả. Duy có Hoắc Đô Vương tử đã chợt nghĩ ra :
– Sư phụ không muốn mình chậm trễ kéo dài thì giờ và muốn mình dùng thuật gió lốc để tấn công đối phương chứ gì ?
Nghĩ vậy, y dung nội lực, chúm môi thổi phù một cái, tiếp đo tay trái phất mạnh , tay phải quạt lia, khiến cho một cơn gió lốc thật mãnh liệt thổi phụt về hướng Chu Tử Liễu.
Trận cuồng phong xuất phát từ ống tay áo và cánh quạt của Hoắc Đô ào ào thổi tới như một cơn lốc. Sức gió phạt ngang qua một chút mà nhiều kẻ trong quần hùng không đứng vững phải ngã lăn ra như có một sức mạnh vô hình nào đó cuốn theo và xô đẩy.
Hùa theo luồng gió lốc, Hoắc Đô còn chúm môi hú lên những tràng dài nghe rất rùng rợn như ma kêu quỷ rống để áp đảo tinh thần đối phương.
Hoắc Đô còn dùng quạt quạt lia lịa để tăng thêm cường lực cho trận quái phong. Đây là một thuật thổi gió phun sấm của Mông Cổ, một thuật đặc biệt dùng để khống chế tinh thần địch. Trần cuồng phong mạnh đến nỗi làm tróc cả mấy tảng đá to ở ngoài hoa viên, và nhiều người phải lật đật đứng sang một bên để khói bị luồng gió thổi té. Lắm kẻ hoảng sợ chạy ra đằng sau nấp vào tường nhà hay nhảy luôn xuống giếng.
Hoàng Dung thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ đang ngồi sát vai nhau trên thềm đá gần đó, cách đấu trường hơn một trượng, đúng ngay vào đầu luồng gió đang thổi cuốn tới. Mặc cho gió cuốn, cả hai vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra, vẫn nói chuyện như thường. Cả một trận cuông phong xô nhà bứng đá, làm dạt cả cây cối, thế mà đối với hai người không khác nào là một cơn gió chiều hè, không thèm tránh né và cũng không thèm quan tâm đến trận chiến giữa Hoắc Đô và Chu Tử Liễu.
Hoàng Dung ngạc nhiên vô cùng. Từ đó bà chú ý theo dõi Dương Quá và Tiểu Long Nữ hơn là trận đấu của hai người. Bà nghĩ bụng :
– Cô gái này có vẻ lạ lùng, và nhất định là võ công phải rất cao siêu tuyệt đỉnh. Nàng rất thân mật và thắm thiết cùng Qua nhi. Chẳng hiểu nàng thuộc môn phái nào mà xưa nay ta chưa từng quen biết.
Lúc bấy giờ Tiểu Long Nữ đã ngoài hai mươi tuổi. Vì từ nhỏ sống trong Cổ Mộ, không mấy khi tắm ánh nắng mặt trời nên nước da nàng hơi xanh mét, tuy nhiên vẫn mịn màng như nhung. Vì tập luyện nhiều nên nàng già đi hơn mấy tuổi. Thoạt nhìn qua nàng có vẻ như một nữ lang trạc chừng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi.
Ngày còn sống trong Cổ Mộ, chưa gặp Dương Qua, lòng nàng thảnh thơi không vương vẫn chút tình cảm, vui, buồn, mừng, giận thì nàng trẻ hơn tuổi mình có đến mấy năm, nghĩa là khi đó nàng chỉ phỏng chừng mười hai, mười ba tuổi mà thôi.
Từ lúc gặp Dương Quá , bị tình cảm chi phối, và nhất là sau thời gian cách biệt , ngày đêm nhớ nhung trông đợi, thất tình lục dục đã dày vò tinh thần, thể xác, nàng như bị bệnh tương tư, nên đã già đi rất nhiều. Kinh nghiệm với bệnh tương tư suốt thangsg trong Cổ Mộ đài, lúc bấy giờ Tiểu Long Nữ mới nghĩ lại lời giáo huấn của sư phụ là đúng. Nàng tự thấy, nếu mình dốc lòng tu luyện , đừng để hương vị yêu đương lung lạc thì dẫu thọ tới trăm tuổi cũng vẫn còn trẻ như người năm chục tuổi mà thôi, chứ không đến nỗi bị già trước tuổi như hiện tại.
Nhưng dưới mắt của Hoàng Dung thì Tiểu Long Nữ có nhiều cử chỉ hết sức hồn nhiên , thanh nhã, sắc diện phúc hậu. Đem so sánh với con mình thì không khác gì bao phấn với bì vôi, con mình không thể nào sánh kịp, từ sắc đẹp cho đến nét duyên dáng.
Mải mê nhìn ngắm và suy xét về người con gái đang ngồi tâm sự cùng Dương Qua, Hoàng Dung bỗng nghe Chu Tử Liễu thét lớn :
– Thôi, đừng hòng dùng ma thuật để lung lạc ta. Trận quái phong của mi đâu có lợi hại gì, hãy mở to mắt ra xem bút pháp của ta đây !
Nói xong, ông dùng bút hươi mạnh thành những nét dọc ngang như mạng nhện giăng khiến cho Hoắc Đô đâm ra hoảng hốt sợ hãi nghĩ :
– Té ra thuật thổi gió phun sấm của mình chẳng có nghĩa lý gì với tên thầy đồ này !
Y đang ngẩn ngơ chưa biết tính lẽ nào thì bỗng Kim Luân Pháp Vương nói lớn :
– Mã mễ bát mễ, cổ tư hắc tư…
Toàn thể quần hùng không ai hiểu rõ ý nghĩa của tám chữ này nên thảy nhìn nhau ngơ ngác, sững sờ.
Riêng Chu Tử Liễu khi nghe Kim Luân Pháp Vương mách nước cho Hoắc Đô thì tự nghĩ:
– Mặc kệ cho bọn bay bày vẽ lẫn nhau. Bây giờ bày trò gì ta cũng phá được. Ráng mà thi thố cho hết tài, chưa biết kẻ nào thắng, kẻ nào thua đấy nhé ?
Nghĩ xong, ông đổi hẳn bút pháp. Lúc bấy giờ ông không hươi bút viết thành chữ như lúc trước mà dùng cán bút đâm vào như một người thợ đá đang đục gọt để làm tượng.
Quách Phù thấy kỳ lạ quá, vỗ vai mẹ hỏi :
– Mẫu thân, sao bác ấy lại khắc chữ vào đá để làm gì vậy ?
Hoàng Dung mỉm cười đáp :
– Sao con kém thông minh thế ? Bác Chu khắc bia đá theo lối chữ triện thời xuân thu đã khắc vào bia đá đó. Con có đọc được chữ gì không ?
Quách Phù chú mục vào nhìn theo, thấy nét ngang nét dọc rối rít như một bức địa đồ, không phân biệt được chữ gì hết. Nàng nhìn lên hỏi mẹ :
– Bác ấy đang viết chữ gì vậy ? Sao mà khó đọc quá !
Hoàng Dung cười đáp :
– Đây là lối chữ triện cổ, khó đọc lắm, ngay như mẹ đây còn khó khăn , lúng túng huống chi là con, đọc sao ra nổi ?
Quách Phù vỗ tay nói lớn :
– Nếu mẫu thân mà đọc còn khó khăn thì cái thằng rợ Mông Cổ này làm sao mà đọc cho được ?
Hoắc Đô Vương tử nghe Quách Phù ngạo mình là thằng rợ Mông Cổ thì nổi giận và nghĩ bụng không biết Chu Tử Liễu đem loại chữ này ra thi thố để làm gì vậy ? Y bèn xáp lại, vung quạt quạt phẩy mấy cái vào người Chu Tử Liễu.
Thật ra Hoắc Đô đâu biết được rằng , cứ mỗi nét bút của thuật “Nhất Dương Chỉ” có thể phát huy lên tất cả sức mạnh trong người. Vì vậy cho nên mặc dù y cố sức quạt mạnh, nhưng đối với Chu Tử Liễu không hề bị ảnh hưởng. Ngoài ra, y quạt càng mạnh, thì họ Chu càng viết lanh lẹ và đẹp hơn là đằng khác. Trong lúc xuất kỳ bất ý, Chu Tử Liễu lanh tay viết luôn mấy chữ lên quạt của Hoắc Đô nữa.
Hoắc Đô vội vàng rút tay lại và hỏi lớn :
– Vì sao nhà ngươi lại viết chữ “võng” và chữ “lưới” trên quạt của ta như vậy ?
Chu Tử Liễu cười ha hả đáp :
– Ngu quá, đó là chữ “nhĩ” chứ đâu phải là chữ “võng” như mày nói !
Rồi thuận tay, ông viết thêm luôn một chữ khác nữa.
Hoắc Đô hỏi :
– Thế chữ này có phải là chữ ” nguyệt” là mặt trăng không ?
Chu Tử Liễu lắc đầu đáp :
– Không phải đâu ! Chữ đó là chữ “nãi nghĩa là thẹn đó
Hoắc Đô nổi nóng và thẹn thùng, vội vàng giằng quạt ra không cho viết nữa, nhưng Chu Tử Liễu cũng đã viết được hai chữ khác .
Hoắc Đô nổi nóng vùng mắng lớn :
– Đồ man rợ !
Chu Tử Liễu cất tiếng cười ha hả nói lớn :
– Phải, mi là đồ man rợ chứ còn ai nữa !
Bao nhiêu quần hùng dều oán hận quân Mông Cổ đã xâm lấn Trung Nguyên, giày xéo Hán tộc, ai ai cũng nuôi chí phục thù rửa hận, nên nay nghe Chu Tử Liễu mắng tên Hoắc Đô Vương tử Mông Cổ là đồ man rợ thì rất lấy làm hả hê, mát lòng mát dạ vô cùng.
Nãy giờ bị Chu Tử Liễu dùng thuật “chân, thảo, triện, lệ” trong “Thư pháp Nhất Dương Chỉ” ra áp đảo, Hoắc Đô không thể nào thi thố được tài năng sở trường nên trong lòng rất căm tức. Hắn nổi nóng dùng quạt đập liên tiếp vào khắp nơi trên người của Chu Tử Liễu quyết tâm hạ độc thủ.
Không ngờ y càng ra tay mạnh chừng nào thì càng lộ nhiều sơ hở để Chu Tử Liễu áp dụng thuật điểm huyệt theo “Nhất Dương chỉ pháp liên hoàn” . Bị trúng đòn, Hoắc Đô cảm thấy đầu óc choáng váng, mặt mũi tối tăm, hai tai nóng bừng rồi ngã ra ngất xỉu.
Hai anh em họ Võ thấy sư bá dùng thuật Nhất Dương chỉ hạ được Hoắc Đô Vương tử thì trong lòng hân hoan vô hạn, muốn chạy ào ra đấu trường để tung hô bác lên cao cho thiên hạ anh hùng trông rõ, đồng thời cũng là một dịp để ra oai với Quách Phù.
Nhưng hai người chưa kịp lại gần bỗng nghe Chu Tử Liễu la ối lên một tiếng thất thanh rồi ngã quay ra mặt đất. hai chân giãy lên đành đạch.
Thấy Chu Tử Liễu bất ngờ bị thương nặng, quần hùng thảy đều ngạc nhiên nhưng chưa biết nguyên nhân tại vì sao, nên khắp nơi đã nổi lên những lời bàn tán xôn xao náo nhiệt.
Nguyên trong khi thấy Hoắc Đô bị trúng đòn ngã lăn ra đất, Chu Tử Liễu động lòng từ tâm không muốn hạ độc thủ và bước lại gần phất tay áo để giải huyệt cho hắn. Khi được giải huyệt rồi, Hoắc Đô đã không biết cảm ơn mà còn manh tâm quyết hại Chu Tử Liễu bằng một đòn độc thủ hèn hạ. Hắn lập tức xoay cán quạt lại, hướng về phía Chu Tử Liễu rồi bấm nút kín khiến cho bốn cây đinh tẩm độc từ trong quạt bắn ra nhanh như tên lao thẳng vào mình họ Chu.
Cứ theo quy luật võ lâm thì khi kẻ nào đã bị thua, không được dùng ám khí để hại lén. Vì đinh ninh vào quy luật ấy nên Chu Tử Liễu đã đến gần giải huyệt cho Hoắc Đô mà không đề phòng trước. Khi vừa giải huyệt xong, họ Chu đứng quá gần Hoắc Đô cho nên lúc bốn mũi kim độc lao ra, Chu Tử Liễu không thể nào tránh né cho kịp. Trên bốn mũi độc đinh này có tẩm sẵn một loại nhựa của một giống côn trùng từ bên ngoài Tây Tạng, rất nguy hiểm nếu đã thấm vào máu. Vì vậy nên Chu Tử Liễu bị thuốc độc hành giãy giụa như hổ phải tên.
Nhận thấy Hoắc Đô dùng thủ đoạn hèn hạ ngầm hại người chiến thắng, quần hùng nhao nhao lên phản đối, lắm kẻ còn chỉ thẳng vào mặt y mắng lớn :
– Thật là đồ tiểu nhân vô liêm sỉ, đã thua rồi mà còn dùng ám khí hại người !
Hoắc Đô cười hềnh hệch đáp rất tự nhiên :
– Đó chỉ là phương pháp chuyển bại thành thắng chứ có lạ gì đâu mà la lối như vậy ? Nếu Chu huynh dùng ám khí hại Tiểu Vương này, chắc các vị cũng bằng lòng lắm chứ ? Hơn nữa, trước khi giao đấu không thấy nói rõ về điểm này bao giờ.
Quần hùng thấy y mặt dày mày dạn như thế, già miệng cãi chày cãi cối nên không ai thèm tranh luận nữa
Quách Tĩnh vội vàng bước lại bồng Chu Tử Liễu lên, thấy cả bốn mũi đinh độc ghim khắp chỗ xung quanh miệng, và mặt mày Chu Tử Liễu đã thất sắc, cười không ra cười, mếu không ra mếu nữa.
Biết loại đinh này có tẩm độc nặng lắm nên Quách Tĩnh dùng thuật điểm huyệt , điểm luôn vào các đại huyệt trên người Chu Tử Liễu khiến cho máu độc không thể chảy vào tim được nữa rồi quay sang hỏi Hoàng Dung :
– Bây giờ nên tính sao bây giờ ?
Hoàng Dung cúi đầu suy nghĩ :
– Muốn có thuốc giải độc thế nào cũng phải cầu đến Kim Luân Pháp Vương hay Hoắc Đô vương tử. Chỉ hai người này có thể trừ được độc dược, tuy nhiên, cầu được họ không phải là một chuyện dễ.
Vì còn đang do dự chưa biết dùng cách nào nên Hoàng Dung đứng lặng thinh không đáp. vẻ mặt đăm chiêu buồn buồn.
Ngư Nhân trông thấy sư đệ thọ độc nặng nề , trong lòng vừa lo vừa giân, liền xắn tay áo định chạy lại tấn công Hoắc Đô ngay.
Nhưng Hoàng Dung chợt nghĩ :
– Quân Mông Cổ đã thắng một trận rồi. Nếu để Ngư Nhân ra đấu, rủi thua thêm nữa thì hư việc lớn. Hơn nữa, sức ông này đâu có thể chọi được với Đạt Nhĩ Ma.
Nghĩ vậy, bà gọi lớn :
– Ngư huynh, xin hãy thong thả, đừng nóng nảy quá như thế !
Ngư Nhân dừng chân nhìn bà nói :
– Thưa, Hoàng Bang chủ có điều gi dạy bảo ?
Hoàng Dung nhỏ nhẹ nói :
– Xin đại huynh hãy thong thả, chúng ta cần bàn tính lại cho chu đáo trước khi hành động. Mình đã thua một keo rồi. Nếu keo này không trù liệu cho kỹ, rủi thua chúng lần nữa thì đại cuộc hỏng hết.
Ngư Nhân cho là Hoàng Dung nói có lý nên cố dằn tâm không xông ra gây sự nữa.
Hoắc Đô dùng ám khí hạ được Chu Tử Liễu rồi, tự cho là thắng thế, vênh mặt nhìn quanh bốn phía, hiu hiu tự đắc, tưởng như nơi đây không ai có thể đương cự cùng mình.
Đang hứng chí nhìn quanh khắp mặt quần hùng, chợt ngó ra mái hiên, thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ đang ngồi sánh vai nhau trò chuyện. Hai người vừa nói vừa bứt những lá cây xung quanh khẽ xoa lên mặt đất, không thèm để ý đến mọi sự xung quanh. Hoắc Đô sinh lòng ganh tỵ và cảm thấy chướng mắt , cơn giận dâng lên ngùn ngụt, cầm quạt trỏ hướng đó mắng lớn :
– Quân súc sinh vô liêm sỉ, nơi đây không phải là chỗ để tình tự trai gái. Muốn yên thân thì xéo đi cho khuất mắt ta ngay bây giờ.
Dương Quá từ khi gặp được Tiểu Long Nữ thì trong lòng hân hoan sung sướng tới cực độ. Đối với chàng, ngoài Tiểu Long Nữ ra không còn điều gì đáng quan tâm nữa. Vì vậy nên chàng mải mê chuyện trò cùng nàng mà không cần để ý đến trận đấu giữa Hoắc Đô và Chu Tử Liễu. Trong lúc này dù thiên hạ có giết nhau, trời nghiêng đất lở thì cả hai cũng chẳng quan tâm.
Dương Quá nghĩ :
– Bao nhiêu năm chung sống trong Cổ Mộ , Tiểu Long Nữ đã xem mình như ý trung nhân, dám cùng nhau sống chết, thật cũng đã chí tình. Hèn chi có một dạo nàng ngỏ ý hỏi muốn làm vợ mình có được chăng, nhưng vì câu hỏi này quá bất ngờ nên mình phân vân chưa biết đáp sao cho phải, do đó nàng nổi giân cất bước ra đi biệt tăm không tìm ra tông tích. Những tưởng bóng hồng đã mất theo ngàn mây cỏ nội, không bao giờ hội ngộ để giáp mặt trao lời. Ngờ đâu nàng vẫn nặng tình thương nhớ, chẳng nài ngàn dặm lặn lội tìm ta, chắc không ngoài mục đích hỏi lại câu hỏi :”có thể làm vợ ta được chăng ?” .Nhưng suy nghĩ cho kỹ, nàng là sư phụ mình,lẽ nào ta dám vượt vòng lễ giáo để đi lấy cô nương làm vợ ?
Trong thời gian cùng chung sống trong Cổ Mộ, không biết tình yêu nảy nở từ lúc nào, nhưng cả hai người đều cố dùng hết nghị lực để kìm hãm và che đậy. Mãi đến khi sắp từ biệt không ngờ cô nương lại bồng bột biểu lộ tâm sự thầm kín trong lòng đem diễn tả ra bằng một câu hỏi vừa ngây thơ, vừa chân thật,chẳng chút ngại ngùng,
Bao nhiêu những niềm suy tư che đậy trong lòng, Dương Quá đem ra thổ lộ hết cùng Tiểu Long Nữ.
Trước kia Tiểu Long Nữ đã khắc chế được thất tình lục dục , không bao giờ nghĩ đến yêu đương, và cũng không hề yêu ai. Lòng nàng khi nào cũng bình thản như mặt nước hồ thu không gợn sóng, chẳng bao giờ giận hay bực tức ai cả . Hơn nữa, trong Cổ Mộ đâu có ai có thể khiến cho nàng phải giận hờn hay nhung nhớ đâu.
Nhưng từ khi gặp Dương Quá , không hiểu tình yêu từ lúc nào đã nảy nở, càng khống chế, nó càng thêm bồng bột, muốn quên cũng không quên được, muốn rứt cũng rứt không ra. Đối với nàng, lúc này, càn khôn đều là nhỏ bé, chỉ có tình Dương Quá là lớn mà thôi.
Đang khát vọng tình yêu, nay bỗng gặp nhau nên Dương Quá chẳng cần xem thiên hạ ra gì, mà Tiểu Long Nữ cũng không nề hà lễ nghi của thế tục.Cả hai cùng một ý tưởng :
– Yêu nhau, nay mới được gặp nhau là thoả mãn lắm rồi, cần chi tới tiếng đời thị phi hơn thiệt. Mình chỉ làm theo ý mình, khách bàng quan không quan hệ lắm. Vì vậy nên mặc cho hàng ngàn người đang có mặt xung quanh đây., mặc cho cục diện căng thẳng đáu tranh một còn một mất , hai người vẫn thản nhiên kề vai sát má trò chuyện cho phỉ tình.
Mải mê với câu chuyện tâm tình, Dương Quá không nghe được những lời quát tháo vô lễ của Hoắc Đô Vương tử. Đối với tất cả mọi người khi đang ngụp trong bể tình ái thì đâu có kể gì nhân tình thế thái bên ngoài. Vì vậy nên mặc cho hắn hò hét, trợn mắt ra oai , Dương Quá và Tiểu Long Nữ vẫn không có một lời đáp lại.
Thấy hai người không thèm đếm xỉa tới lời nói của mình, Hoắc Đô càng bực tức hơn nữa, định xông tới đá cho mấy cái. Nhưng vừa lúc đó , Kim Luân Pháp Vương dùng tiếng Tây Tạng bảo :
– Hoắc Đô , con đã thắng được một keo rồi, hãy tiếp tục luôn keo khác đi thôi !
Nghe lời thầy nói, Hoắc Đô không dám cãi, chỉ nguýt Dương Quá một cái rồi nhìn khắp quần hùng lên tiếng :
– Tiểu Vương này đã thắng được keo đầu. Qua keo thứ hai sẽ do sư huynh Đạt Nhĩ Ma đảm nhận. Vậy bên đó xem ai có đủ tài năng xin đề cử ra tranh tài cao thấp.
Hoắc Đô tuyên bố vừa dứt câu, thì Đạt Nhĩ Ma vận áo cà sa màu đỏ, tay cầm một thứ binh khí lạ lùng, hùng dũng bước ra giữa đấu trường hiên ngang đợi đối thủ.
Mọi người chú ý vào món vũ khí của y thì thấy đó là một loại vũ khí mà Phật giáo thường gọi là “Kim cương giáng ma chữ” bề dài trên bốn thước, sức nặng ngàn cân, trên đầu có miệng loa ra, toàn thân bóng loáng như làm bằng vàng khối.
Đạt Nhĩ Ma nhìn hướng về phía quần hùng chào tay làm lễ mười cái rồi quay lại múa cây chày giáng ma chữ lên trời.
Cây chày Kim cương giáng ma chữ bị tung vút lên cao đụng phải nóc nhà khiến cho ngói gỗ xô xác nghe rào rào rồi từ trên nóc lao xuống cắm sâu vào lòng đất, ngập trên hai thước.
Với thân hình mảnh dẻ, cây gậy nặng nề mà chỉ tung nhẹ một cái đã có oai lực chừng ấy, quả là y có một công lực phi thường. Chỉ có một đòn ra oai dằn mặt của Đạt Nhĩ Ma đã khiến cho quần hùng kính nể.
Hoàng Dung nghĩ :
– Cứ như tài nghệ và sức lực của tên này thì Tỉnh ca thừa sức chế ngự. Nhưng nếu Tỉnh ca xuất trận , sau này ai có đủ sức chống lại Kim Luân Pháp Vương ? Thôi thì dù sao ta cũng liều một phen thử xem sao !
Nghĩ vậy, bà vung cây gậy trúc đả cẩu xông ra tiếp chiến.
Quách Tĩnh trông thấy thất kinh, vội đưa tay ra ngăn cản :
– Bà đang còn yếu lắm, không nên liều lĩnh. Không thể nào đánh với hắn được đâu.
Bị chồng ngăn cản, Hoàng Dung suy nghĩ :
– Nếu phen này thua nữa thì nguy hiểm lắm. Nhưng thấy bọn chúng khinh thường quá không thể nào chịu nổi.
Trong khi bà đang lưỡng lự chưa biết nên giải quyết thế nào thì Ngư Nhân, đệ tử của Nhất Đăng đại sư bước lại nói :
– Thưa Hoàng Bang chủ, để tôi ra chiến đấu cùng tên ác tăng này để rửa hận cho sư đệ tôi và đồng đạo võ lâm Trung Nguyên.
Không còn cách nào để từ chối, Hoàng Dung đành gắng gượng nhận lời, nhưng bà dặn thêm :
– Xin sư huynh hãy cẩn thận cho lắm kẻo …
Bà chưa nói hết câu thì hai anh em họ Võ đã mang cặp thiết tương ( cây chèo bằng sắt ) dâng lên. Ngư Nhân cầm lấy rồi tung người ra giữa trung quân, hai mắt toả hào quang, tay vung tít đồi thiết tương lộng gió ào ào.
Đạt Nhĩ Ma vội cầm chày đưa lên đỡ.
Chèo sắt giáng xuống , chày vàng hất lên, hai món vũ khí chạm nhau nghe xoảng một tiếng chát tai khiến quần hùng thất sắc. Cả hai đối thủ đều thối lui mấy bước , hổ khẩu đều toét , máu chảy đầm đìa.
Cả hai đều ngán tài và sức lực của nhau nên chẳng ai dám xem thường đối phương, đứng cách xa nhau mấy bước trợn mắt nhìn nhau trừng trừng.
Đạt Nhĩ Ma dùng tiếng Mông Cổ chủi thề, Ngư Nhân cũng dùng tiếng Đại lý chủi ại.
Một chặp sau, cả hai lại xông vào vòng chiến nữa.
Trận đấu diễn ra vô cùng ác liệt, dùng toàn những thế độc quyết hạ nhau chứ không khinh thường và cười cợt như trận đấu trước giữa Chu Tử Liễu và Hoắc Đô.
Hồi 35
DƯƠNG QUÁ TRỔ TÀI
Ngày còn hầu hạ dưới trướng sư phụ Nhất Đăng, Ngư nhân còn mãng biệt danh là “điểm thương ngư ẩn” ngày ngày dùng đôi chèo sắt bơi thuyền đi ngược dòng sông. Mặc dù luồng nước chảy ngược như thác lũ nhưng ông vẫn xem thường, hai tay chèo đưa con thuyền vượt sóng vùn vụt, như một động cơ, không thấy gì là mệt nhọc,
Cũng nhờ cái sức mạnh như cọp ấy mà ông được Nhất đăng đại sư yêu mến vô cùng, bản chất thẳng thắn và cương trực , không phải như Chu Tử Liễu chỉ chuyên về thơ phú văn chương, ông là biểu hiện của sức mạnh, nên trong trận này giao chiến cùng Đạt Nhĩ Ma quả thật là xứng tài vừa sức.
Xưa nay, Đạt Nhĩ Ma tự cho mình là người dõng lược vô cùng, không ngờ ngày nay gặp phải vị thần dõng lược của Đại lý cũng vô cùng mạnh mẽ, cho nên cả hai cảm thấy cùng phấn khởi, hăng say tấn công tới tấp, không ai chịu nhường ai cả.
Trong keo đầu giữa Chu Tử Liễu và Hoắc Đô thì trong trận đấu có phát ra luồng gió mạnh, khiến quần hùng phải tránh xa, thì nay trong trận đấu này tuy không có luồng gió nhưng không ai dám đứng gần và cũng đều đưa tay bịt tai lại vì cũng không ai chịu nổi với những tiếng binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc.
Dưới ánh sáng của muôn vàn ngọn đuốc, cầy chày Kim cương của Đạt Nhĩ Ma quay tít như rồng vàng uốn khúc tung hoành giữa không trung , trong lúc đôi chèo sắt của Ngư Nhân như hai làn khói mờ bao quyện lấy xung quanh khi ẩn, khi hiện vô cùng ảo diệu.
Hai người càng đánh càng hăng trận đấu mỗi lúc một căng thẳng , ác liệt khiến cho quần hùng phải nín thở và hồi hộp để theo dõi từng giây phút . Từ xưa tới nay, chưa có một trận đấu nào xứng sức và ác liệt như trận đấu này.
Bỗng trong đám đông có người buột miệng nói rằng :
– Không biết xưa kia Dực Đức dạ chiến cùng Mạnh Khởi có được hào hứng và kịch liệt như trận đấu này không nhỉ ?
Quách Tĩnh và Hoàng Dung theo dõi, tinh thần căng thẳng, mồ hôi ướt cả mình. Quách Tĩnh hỏi vợ :
– Bà thử xem bên ta có hy vọng thắng được không ?
Hoàng Dung nói :
– Chưa thể đoán ngay bây giờ được đâu ?
Thật ra trong thâm tâm Quách Tĩnh cũng biết rõ là lúc này chưa thê nào đoán ra được thắng bại về tay ai, tuy nhiên ông cứ hỏi Hoàng Dung và hy vọng bà sẽ trả lời là Ngư Nhân thắng cho đỡ hồi hộp.
Trận đấu kéo dài thêm vài chục hiệp nữa nhưng sức lực hai người vẫn không giảm sút, tinh thần còn có vẻ hăng hơn trước nữa.
Ngư Nhân vừa đánh vừa gầm gừ, có lúc hò lên như bò kêu, cọp rống.
Đạt nhĩ Ma lấy làm lạ hỏi :
– Mi nói cái gì thế ?
Vì Đạt Nhĩ Ma hỏi bằng tiếng Tây Tạng nên Ngư Nhân nghe không hiểu gì hết, bèn hỏi lại :
– Mi hỏi cái gì vậy ?
Đạt Nhĩ Ma cũng không hiểu tiếng Trung Nguyên .Hai người hỏi qua hỏi lại, một chặp sau nổi đoá chửi nhau ầm ỹ. Chửi đã rồi xuất hết tất cả các đòn hiểm độc để cố gắng chiếm phần thắng lợi.
Đấu trường bây giờ đã mở rộng chứ không ở trong phạm vi hẹp như trước nữa. Gặp lúc chiến đấu quá ác liệt gay go, hai người đuổi nhau chạy khắp nơi, bao nhiêu bàn ghế đổ gãy lung tung, chén bát bể văng tung tứ phía. Cả một toà đại sảnh và một hoa viên mênh mông đã biến thành thao trường, lắm lúc khiến những người đứng xem phải lanh chân chạy ra xa để khỏi phải mang hoạ bất ngờ vì tên bay đạn lạc.
Nghe tiếng binh khí chạm nhau mỗi lúc một lớn,Kim Luân Pháp Vương hé mắt ra nhìn , trong lòng lo ngại :
– Nếu cứ để đấu mãi như thế này , dù Đạt Nhĩ Ma có thắng ắt cũng phải trọng thương.
Suy nghĩ xong, ông ta dự định cất tiếng gọi đệ tử, nhưng thấy hai bên đang dấu hăng quá nên lại thôi đi.
Hai người quyết chiến càng lúc càng dữ dội, càng quyết liệt không khác gì hai con cọp giành mồi. Hai món binh khí xoắn tít vào nhau như cặp mãng xà đang quyện lấy nhau và quay tít, nhìn không kịp.
Dưới ánh đuốc, bóng chày vàng của Đạt Nhĩ Ma loé ra chói mắt trông tựa như một con kim xà. Đôi mái chèo sắt của Ngư Nhân vờn lên như cặp thuông luồng đen , trông rất ngoạn mục.
Trong lúc đang hăng say chiến đấu, bỗng choeng một tiếng rùng rợn, và cả hai cùng thét lên một tiếng vì hoảng hốt. Quần hùng nhìn kỹ thì một mái chèo đã bị cây Kim Cương đập gãy làm hai khúc văng bổng lên cao, lộn luôn mấy vòng rồi nhắm phía Tiểu Long Nữ đang ngồi bay tới.
Tiểu Long Nữ đang mải mê chuyện trò cùng Dương Quá không để ý. Thình lình khúc chèo văng tới xắng xuống đất, chạm phải mấy ngón chân cuả nàng.
Nàng giật mình la ối một tiếng , rồi đứng dậy , đưa tay bóp chân miệng xuýt xoa.
Dương Quá vội hỏi :
– Cô nương bị thương chỗ nào ? Có đau lắm không ?
Tiểu Long Nữ nhăn mặt đưa tay chỉ xuống chân, xuýt xoa mãi.
Dương Quá thấy vậy tức sôi lên, quay lại phía đấu trường cố tìm xem kẻ nào đã ném thanh sắt này trúng chân cô nương bị thương. Ngay trong khi đó, Ngư nhân đang cầm một nửa mái chèo cãi lý cùng Đạt Nhĩ Ma :
– Tôi đâu có thua, dù sao tôi cũng còn có một mái chèo và thừa sức tiếp tục chiến đấu.
Đạt Nhĩ Ma lắc đầu lia lịa :
– Không được, vũ khí gãy rồi thì cũng tính như là đã thua, cãi lý làm chi nữa.
Đạt Nhĩ Ma biết địch thủ là tay lợi hại , nếu để trận đấu kéo dài, chưa chắc mình đã thắng nổi nên hắn cố tình già miệng để giành phần thắng cho xong.
Hoắc Đô Vương tử cũng thừa dịp chạy lại hô lớn :
– Như thế trong ba keo, thì chúng tôi đã thắng hai rồi. Vậy chức Minh Chủ võ lâm phải thuộc về sư phụ tôi. Các ngươi không thể …
Hắn nói chưa dứt lời thì Dương Quá đã sấn tới trước mặt Ngư Nhân sừng sộ bảo :
– Chúng ta vô can vô cớ, tại sao ngươi dám dùng mái chèo sắt ném trúng chân cô nương ta làm bị thương hả ?
Ngư nhân ngạc nhiên ấp úng đáp :
– Tôi .. tôi … đâu có …
Nhưng Dương Quá đã nạt lớn :
– CHính vũ khí của ngươi đã làm cô nương ta bị thương nơi ngón chân đấy. Biết điều thì lại xin lỗi ngay lập tức.
Ngư Nhân trông thấy Dương Quá còn trẻ tuổi, cho rằng “ngựa con chưa biết sợ cọp nên làm thinh không cãi lại.
Dương Quá điên tiết, xông lại giật đôi chèo, tay kéo Ngư nhân, miệng bảo :
– Muốn sống thì phải lại xin lỗi ngay, nếu không sẽ mất mạng ngay bây giờ.
Hoắc Đô thấy thằng bé chưa bao nhiêu tuổi đầu đã tới xen vào làm rộn chuyện của mình thì nổi nóng mắng lớn :
– Đồ ranh con, đứng có hỗn láo mà mất mạng !
Dương Quá hươi cây chèo hỏi lại :
– Súc sinh, mày bảo ai là ranh con hả ?
Rồi chàng cười lớn nói :
– Thằng chó chết mà dám bảo mình là ranh con,hay quá nhỉ ?
Chư vị anh hùng đứng ngoài nhìn vào, thảy đều buồn cười nên cùng cười lớn. Tuy nhiên khi trông thấy Hoắc Đô hầm hầm sấn tới thì biết việc không xong. Ai nấy có ý lo giùm tính mạng Dương Quá .
Hoắc Đô cầm cây quạt lại định bước tới đánh xuống đầu Dương Qua.
Hầu hết những người đến dự tiệc đều là những người có tinh thần nghĩa hiệp, nên khi thấy Hoắc Đô vung quạt định hại Dương Qua, ai nấy thảy đều tái mặt bất bình nhao nhao la lớn :
– Này tên mọi kia , đừng ỷ lớn hiếp người, không được đâu.
Quách Tĩnh xông lại , đinh đưa tay giật cây quạt trong tay Hoắc Đô.
Nhưng Dương Quá đã nhanh như điện chớp, cúi đầu hạ thân mình xuống một chút chui qua vòng tay của Hoắc Đô rồi thừa cơ vung cây chèo gãy, theo tư thế “hồi mã bổng” trong “đả cẩu bổng pháp” xắng mạnh vào ống quyển của hắn.
bị một đòn bất ngờ vào ống chân, Hoắc Đô Vương tử đau quá điếng cả người . Cũng may y được công phu luyện tập khá cao, nếu như kẻ nào khác thì tất đã phải té nhào xuống đất ôm chân rên rỉ rồi. Lập tức y nhịn đau, vận dụng nội công tung mình lên cao, lùi ra sau hơn năm thước, bặm môi nhịn đau, đứng không nói nên lời.
Quách Tĩnh vội hỏi Dương Quá :
– Qua nhi , có sao không ?
Dương Quá tươi cười đáp lại :
– Thưa bá phụ,con chẳng hề gì, nhưng trái lại con đã cho tên này nếm “đả cẩu bổng pháp” của Hồng lão tiền bối rồi,chắc cùng thấm thía lắm.
Quách Tĩnh ngạc nhiên quá hỏi lại :
– Làm sao con biết được thế đó ? Ai dạy cho con vậy ?
Dương Quá tìm lời tráo trở :
– Có khó gì đâu, chính con nhìn theo lối đánh của Lỗ Bang chủ vừa đấu cùng hắn mà học lỏm được đấy ạ.
Quách Tĩnh vốn là người thật thà và chất phác, nghe Dương Quá trả lời như vậy đã tin ngay và nghĩ bụng :
– ồ , thằng bé này thông minh quá cỡ. Trên đời này chưa chắc có được kẻ nào thông minh hơn nó.
Hoắc Đô bị một đòn vào ống chân đau điếng hồn, tuy nhiên hắn vẫn đinh ninh trong lúc mình vô ý không đề phòng mới bị đánh trúng chứ không thể tin một thiếu nên chưa đầy hai mươi tuổi như Dương Quá mà đã có võ công cao siêu như vậy. Y cho rằng trong lúc này, vấn đề quan trọng nhất là tranh ngôi Minh chủ võ lâm, còn chuyện chấp nệ trẻ nít chưa cần thiết lắm, nên bỏ qua không thèm nói nữa….
Bỏ Dương Quá đứng đó, Hoắc Đô lại gần bảo Quách Tĩnh :
– Kính thưa Quách đại hiệp, cứ theo hai trận đấu vừa rồi, bên tôi đã thắng hết, như thế thì theo lời ước hẹn , ngôi Minh chủ Võ lâm phải thuộc về sư phụ tôi là Kim Luân Pháp Vương rồi. Nhờ Quách đại hiệp công bố với quần hùng được rõ. Kể từ nay ngôi minh chủ võ lâm đã thuộc về tay sư phụ tôi Kim Luân Pháp Vương . Vậy có ai chưa bằng lòng hoặc phản đối nữa không ?
Y nói chưa dứt lời, Dương Quá đã phi thân đến sát một bên vung quyền đánh luôn hai đường liên tiếp , một đòn vào lưng, một đòn vào đùi, rồi thét lớn :
– Ta không bằng lòng, ta phản đối đó !
Bị đánh hai đòn bất ngờ vào lưng và đùi đau quá, Hoắc Đô la “ối” một tiếng rồi đứng nhăn mặt xuýt xoa rên rỉ.
Toàn thể anh hùng xung quanh thích chí cười ầm cả lên . Thật không ai có thể ngờ một cậu bé lại bạo gan ương ngạnh như thế, và cũng không ngờ một người như Hoắc Đô lại nếm luôn mấy đòn liên tiếp một cách quá ư dễ dàng.
Bị đánh luôn hai lần nữa, phen này Hoắc Đô không dằn lòng nhẫn nhịn nữa, tuy nhiên hắn vẫn chưa tin Dương Quá có bản lãnh cao siêu nên nghĩ bụng :
– Thằng bé này thật hỗn xược, phen này ta phải cho nếm một bạt tai cho biết thân. Chỉ cần một bạt tai của ta, mi cũng đủ về chầu tiên tổ.
Nghĩ vậy, y thuận tay tát luôn Dương Quá thật mạnh.
Quách Tĩnh thừa rõ bên Tây Tạng có một lối tát tay rất đặc biệt, gồm có cả cương lẫn nhu, vô cùng lợi hại, nếu gặp sắt cũng phải vỡ, gặp bùn cũng phải nhô. Đó là thuật “Tích hoa chưởng” của phái võ Tây Tạng, Dương Quá chắc không thể nào chịu đựng nổi. Vì vậy nên ông xông lại, nắm hai bàn tay Hoắc Đô ngỏ lời năn nỉ :
– Trẻ nít cạn nghĩ và có hành động dại khờ nông nổi.Xin điện hạ bỏ qua đừng chấp nệ nó làm gì cho mệt óc.
Bị Quách Tĩnh khoá hết tay chân không làm gì được, Hoắc Đô tức giận vô cùng, vội cố sức vùng cho thoát khỏi vòng kiềm chế của ông.
Ngay khi đó, Dương Quá cầm nửa khúc chèo sắt chạy lại đánh thêm một đòn vào đùi hắn và mắng lớn :
– Thằng man di súc sinh, đừng hỗn láo để bận lòng người bề trên của ta !
Quách Tĩnh vội nạt lớn :
– Qua nhi ! Con không được vô lễ !
Toàn thể anh hùng hào kiệt thích chí cười ầm rộ cả lên.
Bọn tuỳ tùng Mông Cổ thấy ba người đang giằng co, đồng hét lớn :
– Tại sao hai người lại xáp đánh một người như vậy ? Như thế đâu còn lẽ công bằng nữa. Nơi đây là nơi thí võ tranh tài cao thấp chứ có phải cuộc đánh lộn đâu mà kéo nhau hùa lại như vậy, không thấy nhục sao ?
Quách Tĩnh sực nhớ , lại thấy mình làm không đúng, vội vàng bỏ Hoắc Đô ra.
Hoàng Dung đứng phía sau để ý theo dõi, thấy Dương Quá xuất thủ đòn nào cũng đúng theo quy tắc của “Đả cẩu bổng pháp” nên nghĩ thầm trong bụng :
– Không biết Dương Quá đã được ai truyền dạy “Đả cẩu bổng pháp” mà có vẻ tinh thục như vậy kìa ? Chẳng lẽ chỉ nhìn lén trong lúc ta dạy cho Lỗ Hữu Cước mà đã thông thạo đến mức này hay sao ? Nếu vậy thì nó thật là thông minh xuất chúng , hay lắm !
Theo nhận xét của bà thì Dương Quá có thừa sức chiến đấu cùng Hoắc Đô nên bà cất tiếng gọi lớn :
– Xin mời Quách đại hiệp lên đây, mặc cho đôi bên tranh tài cao thấp, đừng nên can thiệp vào làm gì cả !
Nghe Hoàng Dung nói, Quách Tĩnh đoán vợ đã có mưu kế gì hay nên nghe theo, bước lại đứng bên cạnh bà.
Hoắc Đô nổi nóng vung tay múa chân đấm đá loạn xạ trên người Dương Qua, nhưng chàng đã trổ thuật khinh công tránh né tài tình khiến cho Hoắc Đô không đánh trúng đòn nào hết.
Sau khi để Hoắc Đô đánh gió một hồi, Dương Quá từ từ nói :
– Ta đánh vai mi đây !
Miệng nói, vừa dứt câu, thì tay chàng đã đập trúng vào vai y một mái chèo. Chàng nói tiếp luôn :
– Xem chừng trúng đùi đây này !
Và tiếp theo đó, Hoắc Đô lại lãnh thêm một chèo vào đùi ngay.. . Rồi cứ như vậy, nói trước đánh sau, nhưng nói đâu đánh trúng phong phóc. Hoắc Đô mặc dù được báo trước nhưng cũng không thể nào tránh kịp.
Hoắc Đô không dùng quyền cước nữa vì thấy không công hiệu với Dương Quá . Y bèn dùng quạt vụt túi bụi vào người chàng.
Nhưng Dương Quá lẹ làng tránh né và đỡ gạt tất cả, không để một đòn nào trúng mình. Nhưng cứ sau một cái gạt là chàng điểm một đòn trả lại vào đùi hay vào lưng Hoắc Đô ngay.
Quần hùng đứng ngoài nhìn vào thấy Dương Quá đánh trúng liên tiếp, nhưng chàng chỉ dụng ý đánh lấy có chứ không có ý hạ độc thủ, thành thử các đòn không có gì là nguy hiểm hay đau đớn cả.
Hai người quần nhau kẻ tới người lui chập chờn trong đại sảnh, có khi ra tận ngoài hoa viên, khiến cho bao nhiêu người đứng xem thảy đều thích thú như đang xem một trận múa rồi chứ không phải là một trận quyết đấu.
Một cảnh tượng đáng buồn cười nhất là Dương Quá thì ăn mặc quần áo rách rưới như xơ mướp, còn Hoắc Đô thì áo mão cân đai vô cùng sang trọng , rõ ràng là hai thái cực. Dương Quá thì trẻ măng như một thư sinh, còn Hoắc Đô thì uy nghi đường bệ như một viên đại tướng.
Dương Quá thì nhẹ nhàng nhảy nhanh như vượn, còn Hoắc Đô thì hùng hổ như cọp săn mồi, hai bên cứ quấn nhau mãi chưa ai hơn ai. Khách bàng quan đứng xem ai cũng thầm ước trận đấu cứ kéo dài mãi để xem cho thoả thích.
Bên cạnh đó, Ngư Nhân và Đạt Nhĩ Ma đã thủ sẵn binh khí trong tay, người nào người nấy hầm hầm trợn mắt nhìn đối thủ, chực xông vào tái đấu, nhưng ngặt vì chưa có lệnh trên, nên cả hai cùng phải đứng yên chờ đợi không động thủ được,
Đạt Nhĩ Ma đứng hoài chờ thấy Hoắc Đô đánh mãi không hạ thủ được một đứa thiếu niên thì trong lòng bực dọc vô cùng . Nay lại thấy địch thủ của mình vỗ tay reo hò tán thưởng có bề thích thú thì nổi nóng cất tiếng chửi bâng quơ. Nhưng vì y chửi bằng tiếng Tây Tạng líu lo, Ngư Nhân không nghe được, nên dùng bút hươi lên không khí mấy chữ :
– “Mi chửi ta thì gió thổi bay lên trời”
Hoắc Đô đem hết tài năng múa quạt ra tấn công nhưng mãi không trúng được Dương Quá một đòn nào.
Y tức giận lắm, nhưng không biết tính sao hơn. Cuối cùng y nghĩ ra một kế, xếp quạt bỏ chạy, định lừa Dương Quá đuổi theo sẽ quay trở lại đâm một nhát vào huyệt “Hoàn khiêu”
Đây là một thuật điểm huyệt vô cùng lợi hại . Nếu đối phương bị điểm trúng đùi tất nhiên sẽ phải quỵ xuống và không thể cất bước đi nổi nữa, toàn thân sẽ bị tê liệt ngay.
Dương Quá tuy còn trẻ tuổi, nhưng kinh nghiệm chiến đấu khá nhiều,hơn nữa, con người chàng vốn thông minh ranh mãnh , cho nên thấy đối thủ đang đánh tự nhiên bỏ chạy, biết ngay là có gian kế chi đây, nên chàng lại không đuổi theo, chỉ cười và nói lớn :
– Sá gì cái trò trẻ con ấy mà cũng định mang ra lừa ta được sao ? Nãy giờ ăn đòn khá nhiều rồi, nếu biết lẽ thì phải chịu thua phứt đi cho rồi.
Nếu so về sức mạnh thì Dương Quá không thể bằng Hoắc Đô, nhưng về tài lanh lẹ, mánh lới thì Hoắc Đô không thể nào bì được với Dương Qua.
Quần hùng nghe Dương Quá nói đều thích chí cười rộ lên.
Hoắc Đô thấy mưu kế của mình bị khám phá rồi, chẳng biết tính sao, tinh thần có phần rối loạn, e rằng trước mặt hào kiệt thiên hạ mà bị thua về tay một thiếu niên thì còn mặt mũi nào nữa. Trí óc hoang mang, lòng mất tự tin, y không dám tấn công nữa, chỉ đánh cầm chừng chờ thời cơ mà thôi.
Hoàng Dung theo dõi trận đấu, lúc bấy giờ mới vỡ lẽ ra rằng Dương Quá đã được cao nhân truyền võ nghệ, bản lĩnh phi thường, ít kẻ dám sánh. Tuy nhiên, nếu thế trận giằng dai, Dương Quá thiếu kinh nghiệm sẽ bị Hoắc Đô dùng ý chí hãm hại thì bỏ phí mất một dịp may hiếm có.
Nghĩ thế, Hoàng Dung cất tiếng gọi lớn :
– Qua nhi ! Giữa con và điện hạ nên xử hoà đi là hơn, đừng kéo dài làm gì nữa !
Nghe Hoàng Dung bảo, Dương Quá dừng tay lại bảo Hoắc Đô :
– Sao, mi muốn nghỉ hay muốn đánh nữa ? Có gan tiếp tục không ?
Hoắc Đô vốn là tay xảo quyệt, mưu mô cũng giảo hoạt lắm nên nghĩ bụng :
– Dù sao mình cũng đã thắng hai keo rồi, bây giờ kéo dài trận này làm gì nữa cho thêm rắc rối !
Nghĩ vậy , y trả lời :
– Này tiểu súc sanh, nếu nhà ngươi nhận thua và bằng lòng suy tôn sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương làm Minh chủ võ lâm, thì ta còn kéo dài trận đánh làm chi nữa ?
Vừa nghe hắn tuyên bố, tất cả anh hùng hào kiệt đều nhao nhao phản đối kịch liệt.
Thấy vậy, Hoắc Đô lớn tiếng phân bua :
– – Trước khi đấu, hai bên đã cam kết “Trong ba keo, ai thắng hai là được cuộc ” . Điều kiện đã quá rõ ràng, bây giờ tại sao các vị đã vội quên lời ước hẹn mà phản đối tôi như vậy ?
Từ trong đám đông có người quát lớn :
– Đừng có xảo ngôn, mi thắng chúng ta chỗ nào ? Chính mi bị người đánh ngã rồi, đến khi người ta lẫy lòng nhân từ đến giải cứu cho thì mi lại cắn trộm, dùng ám khí hại ngầm. Như thế là thắng hay sao ? Còn keo thứ hai, thì khí giới người ta bị gãy, nhưng người ta vẫn còn đủ sức tiếp tục thi đấu, tại sao mi lại già mồm bảo người ta thua. Trước đó có ai đặt điều kiện là hễ bị hỏng khí giới là phải thua đâu ? Như vậy mà mi dám bảo là thắng luôn hai trận, thật không biết ngượng mồm !
Dương Quá cướp lời nói trước :
– Thôi xin đừng tranh chấp làm gì cho mệt. Còn lão hoà thượng già kia có tài cán gì đặc biệt mà dám huênh hoang đòi làm bá chủ thiên hạ ? Thấp kém nhỏ tuổi như tôi mà cũng không phục , huống chi là các hào kiệt võ lâm!…..
Hoắc Đô đỏ mặt tía tai quát lớn :
– Đồ ranh con, đừng lớn tiếng . Hãy gọi sư phụ mi ra đây giao chiến cùng ta cho biết tài cao thấp !
Dương Quá ngước mặt lên trời cười ha hả rồi đáp :
– Như sư phụ ta mới đáng mặt Minh chủ võ lâm chứ như lão hoà thượng sư phụ mi có tài cán gì mà hòng ? Còn phần mi thì kém quá, ai cũng thấy rõ rồi, xin đừng lớn lối.
Hoắc Đô trợn mắt nói :
– Sư phụ mi là ai đâu ? Hãy mời ra đây xem thử.
Dương Quá trả lời :
– Theo lời hẹn ước từ trước, thì cuộc đấu tài tranh ngôi Minh chủ hôm nay, chỉ có đệ tử thay mặt sư phụ ra đấu với nhau mà thôi có phải không ?
Hoắc Đô đáp :
– Quả đúng như vậy.Chính ta đây thay mặt sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương tranh tài và đã thắng luôn hai keo rồi, như thế thì ngôi Minh chủ phải về tay sư phụ ta chứ còn giông dài gì nữa ?
Dương Quá bèn chuyển qua lẽ cãi khác :
– Nãy giờ mi thắng phái khác chứ có thắng phái của ta đâu mà hòng giành ngôi Minh chủ. Trong võ lâm có biết bao nhiêu là môn phái chứ nào phải chỉ có một mà thôi đâu !
Hoắc Đô ngạc nhiên hỏi :
– ủa, mi ở môn phái khác sao ? Vậy sư phụ mi là ai hả ?
Dương Quá cười lớn rồi vỗ tay reo lên :
– Trời ơi ! Sao có hạng người ngu ngốc quá như thế này nhỉ ? Sư phụ ta tức là người đã dạy ta nên tài để đấu cùng mi và ta cũng chưa hề thua mi bao giờ. Việc gì mà phải hỏi ?
Anh hùng hào kiệt nghe Dương Quá nói vòng vo để trêu chọc Hoắc Đô, thảy đều tức cười, không ai bảo ai, toàn thể đều cười reo để tán thưởng.
Dương Quá nghiêm giọng bảo :
– Bây giờ đến phiên ta ra điều kiện . Chúng ta hãy đấu cùng nhau ba keo. Nếu bọn mi thắng ta hai keo , ta sẽ bằng lòng nhận lão hoà thượng già kia làm Minh chủ võ lâm . Trái lại, nếu ta thắng , mi phải tôn sư phụ ta làm Minh chủ, như thế mi có bằng lòng không ?
Nghe Dương Quá nói, toàn thể quần hùng ai cũng đinh ninh sư phụ chàng cũng là một bậc tiền bối có tên tuổi trong võ lâm. Hôm nay, Kim Luân Pháp Vương đang tranh ngôi Minh chủ cùng Hồng Thất Công Bắc Cái, nếu thêm một vị thứ ba có đủ tài đức để đại diện cho Hán tộc tranh tài cùng bọn Mông Cổ thì còn gì hay bằng.
Vì vậy nên mọi người đồng thanh nháo nhào nói :
– Hay lắm ! Tiểu anh hùng nói có lý lắm. Hoắc Đô phải thắng được tiểu anh hùng thì mới mong nói tới chuyện tranh ngôi Minh chủ võ lâm. Nếu không thì đừng hòng. Võ lâm Trung nguyên ta hiếm gì Bắc đẩu tài cao, bọn người không nên vội xem người bằng nửa con mắt như vậy !
Hoắc Đô suy nghĩ :
– Bên bọn chúng ta đã có hai tay giỏi nhất, và bên đó đã có hai đứa nếm mùi thất bại rồi, còn ai đáng ngại nữa. Tuy nhiên ta cũng cần đề phòng kẻo bị tụi nó ỷ đông, áp dụng chiến thuật xa luân chiến thì bất tiện cho phe mình lắm. Nếu thắng tên này, đứa khác lại nhảy ra, rồi cứ thế mãi thì biết chừng nào mới xong việc ?
Nghĩ ngợi một lúc, y cất tiếng hỏi lại :
– Nếu quý tôn sư muốn ra tranh tài cũng được, và đề nghị của tiểu huynh cũng có lý lắm. Tuy nhiên, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ rất nhiều, chưa chắc đã tụ họp đông đủ nơi đây hôm nay. Nếu trong trận đấu sắp tới , chúng ta giải quyết xong rồi, nay mai có những kẻ vắng mặt ngày hôm nay đến đòi thử tài thử sức nữa, chừng ấy biết bao giờ mới giải quyết xong ?
Dương Quá nhìn thẳng vào mặt hắn, hiên ngang đáp :
– Nếu là người khác ra tranh đoạt ngôi Minh chủ, ta không bao giờ ra tranh chấp. Nhưng nếu là lão hoà thượng sư phụ ngươi thì ta quyết tranh cho tới kỳ cùng !
Hoắc Đô thừa dịp hỏi vặn lại :
– Nhưng quý tôn sư là ai, hãy giới thiệu ra xem thử ! Hay là tiểu huynh đệ đóng vai tranh hộ người ta mà thôi ?
Dương Quá cười ha hả đáp :
– Sư phụ ta đang đứng ngay trước mặt ngươi mà ngươi không thấy hay sao ? Để ta kêu sư phụ ta ra cho ngươi xem mặt nhé !
Nói xong, Dương Quá quay lại gọi :
– Cô nương ơi, cô nương ! Bọn chúng đòi được yết kiến cô nương, mời cô nương ra đây cho bọn chúng được gặp !
Tiểu Long Nữ đằng hắng một tiếng , đứng thẳng người nhìn Hoắc Đô , khẽ gật đầu chào.
Thật là câu chuyện không ai có thể ngờ trước được , Bao nhiêu anh hùng hào kịêt thảy đều ngạc nhiên, vừa buồn cười, vừa suy nghĩ :
– Nàng này xem ra còn trẻ măng, không hơn tuổi Dương Quá là bao nhiêu mà chẳng lẽ lại là sư phụ y hay sao ?Có lẽ Dương Quá kiếm cớ để đùa nghịch cùng Hoắc Đô chăng ?
Trong số đông chỉ có Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình và Hách Đại Thông là công nhận Dương Quá nói thật mà thôi
Hoàng Dung thấy Dương Quá bản lãnh cao cường, trong bụng đã đinh ninh là thế nào cũng do một dị nhân truyền dạy võ công. Hôm nay thấy chàng bảo sư phụ là một cô gái trẻ măng, xinh đẹp, hình dáng lả lướt mảnh mai như Tiểu Long Nữ thì ngạc nhiên hết sức . Bà cứ phân vân không biết Tiểu Long Nữ có tài chi đặc biệt mà được Dương Quá tôn làm sư phụ.
Còn Hoắc Đô Vương tử thì tức đến đỏ bừng mặt , trợn mắt thét lớn :
– Thằng oắt con, mi ranh mãnh vừa vừa chứ. Mi nên biết rằng hôm nay đại hội quần hùng tranh ngôi Minh chủ võ lâm, đồng thời bàn nhiều việc quan trọng chứ không phải là một cơ hội để bọn chăn trâu, chăn bò , quần manh áo túm như bọn mi giỡn cợt đâu nhé ! Muốn bảo toàn được mạng sống thì hãy cút đi cho khuất mắt ta.
Dương Quá cười dài nói :
– Mi hãy xem lại và nhận xét cho kỹ nhé. Sư phụ mi đã già lại đen , nói năng líu lo như vượn kêu, khỉ réo ai mà hiểu được ? Như thế mà mi cho là xứng đáng. Còn sư phụ ta thì xinh đẹp, thanh tao, mi lại bảo rằng không xứng đáng. Chẳng lẽ bậc Minh chủ võ lâm lại cần phải chọn những người mặt như trôn chảo, đầu trọc như gáo dừa, da nhăn mắt lõm như lão thầy chùa kia mới được sao ?
Tiểu Long Nữ xưa nay chưa từng tiếp xúc với đời, nên không có một ý thức nào khác. Nay thấy Dương Quá đem mình ra so sánh , lại khen mình xinh đẹp thì thích chí nhoẻn miệng cười .
Nàng hé môi cười tươi như hoa hồng mới nở, đẹp như ngọc san hô, khiến cho toàn thể quần hùng thảy đều xúc động và ai ai cũng công nhận vẻ đẹp của nàng quả thật là nghiêng nước, khuynh thành không bút mực nào tả xiết được.
Mọi người thấy Dương Quá cứ gan lỳ châm chọc Hoắc Đô thảy đều vừa ý. Nhưng những bậc lão thành lại có ý lo ngại, vì sợ Hoắc Đô nổi nóng giết mất Dương Quá đi chăng ?
Lúc bấy giờ, Hoắc Đô không còn nhẫn nại được nữa. Hắn gầm lên một tiếng vang trời rồi quát lớn :
– Chính thằng ranh con này gây hoạ trước, xin chư vị anh hùng tha lỗi cho tiểu đệ hạ sát hắn cho rồi, nếu cứ để kéo dài mãi thì chẳng còn thể thống gì nữa!
Nói xong, y cầm quạt đập vào huyệt Thiên linh cái của Dương Qua.
Dương Quá nào có chịu thua, trợn mắt thét lại :
– Xin chư vị anh hùng niệm tình thứ lỗi cho phép tiểu sinh hạ sát tên Hung nô này. Quả nhiên hắn cố tâm gây hoạ trước chứ không phải lỗi tại nơi tôi. ở đời có khi nào chim chích lại đi trêu chọc bồ nông ?
Mọi người khoái chí khi nghe Dương Quá nói câu này. Tiêng cười la reo hò vang lên náo động cả một góc trời. Ngay lúc ấy, Dương Quá đã múa tít cây chèo gãy, vừa đỡ, vừa tấn công tới tấp.
Hoắc Đô thận trọng né tránh. Tay y cầm quạt cứ lừa cho Dương Quá chống đỡ rồi thừa cơ vận dụng hết công lực vào tay trái tung chưởng đánh tạt vào Thái dương chàng .
Đây là thuật “Thập thành lực” một bí quyết về chưởng pháp vô cùng kỳ diệu và lợi hại. Dù cứng rắn như sắt đá mà bị chưởng lực này đánh trúng thì cũng nát bể ngay.
Nhưng Dương Quá tinh ý và lanh lẹ phi thường. Khi nghe tiếng gió lộng ào ào thốc mạnh vào Thái dương, chàng nhảy sang một bên tránh né, đồng thời cầm chiếc bàn vuông tung lên chống đỡ. Chỉ nghe “ầm” một tiếng vang trời, cả chiếc bàn vuông bằng gỗ lim đã bị chưởng lực đánh nát tan thành muôn mảnh.
Thấy khí thế và chưởng lực của Hoắc Đô vô cùng hùng hậu, quần hùng thảy đều khiếp sợ, lo giùm cho tính mạng của Dương Qua.
Dùng chưởng không kết quả, Hoắc Đô nổi đoá tung người bay lên không, dùng cước phóng luôn mấy đạp liên tiếp .
Mặc dù có học qua “Đả cẩu bổng pháp” nhưng dù sao cũng chỉ là học lỏm, hơn nữa tập luyện chưa thành thục nên Dương Quá có nhiều chỗ sơ hở. Không bao lâu, chàng bị Hoắc Đô tấn công tới tấp và dồn vào một chỗ, chống đỡ có phần chậm chạp hơn trước.
Hoàng Dung thấy Dương Quá biết nhiều phép lạ trong “Đả cẩu bổng pháp” nhưng vì chưa thuần thục, hơn nữa dùng cây chèo gãy không hợp với thuật đánh bổng nên không được thuận tay, đánh đỡ có phần lúng túng.
Thấy đối phương quyền cước lanh lẹ phi thường, Dương Quá không dám khinh địch. Chàng cố đem hết những thế mà trước kia Hồng Thất Công đã truyền dạy cho, phối hợp với các bí quyết mà Hoàng Dung đã dạy cho Lỗ Hữu Cước đem ra áp dụng. Thuật đánh đỡ đã tinh diệu, thêm nhiều bí quyết kỳ ảo vô cùng, từ ngôn trường đến ngôn đoản phối hợp chặt chẽ, cho nên mỗi một đòn của Dương Quá đánh ra mãnh liệt và lợi hại vô cùng, nhiều khi khiến cho Hoắc Đô phải bối rối…
Hoàng Dung cầm gậy trúc xông vào giữa trận đấu nói lớn :
– Xin đôi bên tạm dừng tay, tôi có chuyện muốn nói !
Thấy hai người vừa đứng yên, bà quay sang ngó Dương Quá bảo :
– Muốn đánh chó thì phải dùng gậy đánh chó chứ.
Nói rồi, bà trao cây bổng cho chàng, miệng nói lớn :
– Đây này, ta cho mượn tạm.Khi nào hạ nó xong thì phải trả lại ngay nhé !
Nguyên cây Đả cẩu bổng là báu vật của Cái Bang, chỉ một mình Bang chủ là có quyền sử dụng mà thôi. Vì vậy nên Hoàng Dung phải tuyên bố là cho Dương Quá tạm mượn để quần hùng và nhất là các vị chức sắc trong Cái Bang khỏi thắc mắc và chất vấn lôi thôi .
Dương Quá được cây bổng thì mừng rỡ quá sức, vội vàng đưa hai tay đón nhận . Hoàng Dung trao bổng cho chàng, thuận miệng bảo nhỏ :
– Nhớ buộc hắn phải đưa thuốc giải độc nhé !
Khi Chu Tử Liễu đánh với Hoắc Đô bị ám khí của hắn rồi, Dương Quá đang mải mê nói chuyện cùng Tiểu Long Nữ nên không hề hay biết. Nay nghe Hoàng Dung bảo, chàng chẳng hiểu gì hết, định lên tiếng hỏi thuốc giải độc gì, để dùng vào việc chi, nhưng chàng chưa kịp hỏi thì Hoắc Đô đã dùng quạt tấn công liến tiếp.
Dương Quá vung bổng gạt phăng cây quạt, rồi thuân thế đâm mạnh vào ngực Hoắc Đô.
Cây bổng đã vừa tầm thước, cầm xứng tay, hơn nữa lại hợp với các bí quyết trong “Đả cẩu bổng pháp” , cho nên Dương Quá thấy phấn khởi và đánh đỡ rất linh động , công lực do đó tăng lên gấp bội phần.
Hoắc Đô tung chưởng đập mạnh vào Thái Dương của Dương Qua. Chàng trầm mình né tránh , rồi thuận đà phóng bổng đâm thẳng vào dưới rốn của hắn nhưng Hoắc Đô cũng lanh lẹ bước qua một bên né được.
Vừa thoát khỏi một đòn yếu huyệt “Quản nguyên”, Hoắc Đô vô cùng kinh hãi, không ngờ đối phương lại rất thành thạo về môn điểm huyệt , nghĩ thầm :
– Thằng bé này võ công cao cường,bản lãnh cao siêu lắm, không thể khinh thường nó được. Trước đây mình cũng tưởng hắn là tay mơ, giờ mới biết là tay đáng nể, có lẽ không thua gì mình đâu !
Suy nghĩ như vậy, hắn cẩn thận bước lùi ra sau, dùng quạt che kín trước bụng thủ thế.
Dương Quá nói lớn :
– Này, hãy thong thả nói chuyện đã. Cứ đánh nhau như thế này mãi thì chán quá. Cần phải có một giải gì đánh cuộc cùng nhau cho vui chứ !
Hoắc Đô đáp ngay :
– Được lắm, nếu mi thắng được ta, ta sẽ cúi đầu gọi mi bằng “ông nội” ba lần liên tiếp .
Dương Quá giả bộ không nghe, ngơ ngác hỏi lại :
– Sao, gọi bằng gì ?
Mọi người xung quanh ai cũng hiểu rõ dụng ý giả vờ ngờ nghệch của Dương Qua. Nhưng Hoắc Đô vốn là người Mông Cổ chất phác, đâu hiểu được những thâm ý xảo quyệt và trẻ con ấy của Dương Quá , nên thấy chàng hỏi lại, hắn lại đáp lớn :
– Kêu là “ông nội” !
Dương Quá nhắc lại theo giọng cười đùa , kẻ cả của kẻ bề trên :
– Ông nội hả ? Hay quá, khá quá, cháu tôi khá lắm ! Hà hà …
Lúc bấy giờ Hoắc Đô mới biết mình bị mắc lừa chú bé nên đỏ mặt tía tai vì ngượng ngập, tay phải cầm quạt, tay trái vung chưởng đánh ra một lượt , khiến cho gió lộng ầm ầm tấn công Dương Quá dồn dập .
Dương Quá bình tĩnh đánh đỡ rồi lớn tiếng nói :
– Bây giờ thì tới phiên ta ra điều kiện . Nếu mày thua ta thì phải trao thuốc giải độc ngay đấy nhé !
Hoắc Đô nói :
– Ranh con, đừng lớn lối. Đời nào ta lại thua một thằng như mi mà hòng như vậy hả ?
Dương Quá múa tít cây bổng tấn công Hoắc Đô tới tấp.
Lại nhắc đến hai anh em họ Võ và Quách Phù . Khi Dương Quá và Tiểu Long Nữ dắt nhau ra ngoài tình tự, cả ba cũng đã quên lãng câu chuyện xích mích không nói tới nữa. Không dè một chặp sau, Dương Quá tự nhiên xông vào sanh sự cùng Hoắc Đô . Hai anh em họ Võ thấy vậy thảy đều mừng rỡ , vì hai người đinh ninh thế nào Dương Quá cũng bị Hoắc Đô giết chết phen này. Thật là nhờ tay giặc giết chết một tay kình địch lợi hại, cũng là một điều may mắn cho bọn họ.
Nhưng thực tế đã khiến cho ba người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác . Tài nghệ của Dương Quá đối với Hoắc Đô cũng tương đương, kẻ tám lượng, người nửa cân. Lắm lúc, Hoắc Đô cũng phải lúng túng và nếu không lanh tay đánh đỡ thì có thể mất mạng như chơi.
Sau này, thấy Hoàng Dung lấy cây Đả cẩu bổng giao cho Dương Quá thì Võ Đôn Nho thất vọng than thầm :
– Khổ quá, trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng ? Một tình địch lợi hại dường này thì ta tranh sao nổi ?
Nhưng Võ Tu Văn chủ quan hơn , nghĩ bụng :
– Thằng này bất quá cũng liếng láo vài keo đầu mà thôi, trước sau rồi thì cũng bị Hoắc Đô hạ sát mà thôi. Hắn có tài giỏi thế nào cũng không thể hơn được Chu Tử Liễu bá bá cơ mà !
Riêng Quách Phù, nàng lại có ý tưởng khác.Khi nghe anh em họ Võ nói dèm, nàng nghĩ trách sao cha mẹ mình quá vội vã, nỡ đem một đứa con gái xinh như mộng, đẹp như hoa gả cho một tên bất tài khố rách áo ôm, trông chẳng khác gì một tên ăn mày. Việc này hệ trọng tới chung thân đời mình, thế nào cũng phải phản đối kịch liệt, chẳng lẽ mình chịu sống trăm năm với một kẻ như thế này ư ?
Nhưng trận quyết đấu cùng Hoắc Đô , thấy Dương Quá trổ tài khiến cho Hoắc Đô phải nhiều phen lúng túng tránh né, thì Quách Phù lại suy nghĩ và tự trách :
– Cha mẹ mình cao kiến, nhìn xa trông rộng thật. Quả nhiên ta chỉ là ếch ngồi đáy giếng, xem trời bằng vung, không có kinh nghiệm ở đời, chỉ biết đánh giá anh hùng bằng tấm áo bên ngoài mà thôi. Thế mới biết cha mẹ ta được thiên hạ nhận xét là anh tài, chọn người tài ba quả nhiên vô cùng tuyệt diệu. Có gặp những trường hợp như thế này ., mình mới thấy cảm phục cặp mắt tinh đời của bậc phụ mẫu. Như ta đây chỉ chuộng cái mã bề ngoài, suốt đời sống trong tơ lụa gấm vóc giàu sang nên cho dù có mắt cũng như người mù, có thấy đâu ra chân giá trị của kẻ anh hùng hào kiệt.Suýt chút nữa ta đã hiểu lầm một đấng trượng phu tài ba xuất chúng, chỉ biết nhận xét qua bộ cánh bên ngoài. Cha mẹ nhìn xa, thấy rộng cho nên nhân duyên là chuyện hệ trọng , từ đây cha mẹ đặt đâu, ta cứ ngồi đấy là xong !
Quách Phù cùng hai anh em họ Võ cứ suy tư mỗi người theo một dòng tư tưởng riêng của mình, thì giữa đấu trường, Hoắc Đô và Dương Quá càng lúc càng đưa ra nhiều đòn quyết tử, vô cùng ác liệt quyết chiến cùng nhau.
Thấy Dương Quá đã dần dần đuối sức, Hoắc Đô trong bụng mừng thầm và cố vận dụng hết công lực vào cây quạt và song chưởng, đem hết tài năng ra tấn công liên tiếp.
Nhiều ngón quạt đập mạnh quá làm cho không khí xung quanh phải rung động vì sức gió quá mạnh. Nhiều ngọn chưởng tạt ra gió lộng ầm ầm như núi lở, đá lăn khiến không ít quần hùng hoảng sợ, phải tránh ra xa.
Dương Quá cố đem hết tinh thần, sử dụng tất cả những ngón kỳ diệu nhất trong “Đả cẩu bổng pháp” ra ứng phó. Tuy nhiên, do vừa mới học sơ qua, và một phần chỉ là học lỏm, ít dịp rèn luyện, chưa thành thạo bao nhiêu nên chàng chưa vận dụng được tới cảnh giới tuyệt diệu của các tuyệt chiêu trong Đả cẩu bổng pháp. Do đó, chàng thỉnh thoảng bị Hoắc Đô tấn công, chỉ lo đỡ gạt , vừa đỡ chưởng, vừa đỡ quạt của hắn, tư thế có phần luống cuống. Thấy vậy, hai anh em họ Võ cùng mắng nhỏ :
– Đồ khốn nạn, không biết xét mình, tài nghệ chưa bao nhiêu mà đã phách lối.Phen này cho mày chết đáng đời.
Quách Phù nghe nói cự liền :
– Chính con người đó thừa can đảm và dõng lược mới có gan ra gánh vác việc đời, lo việc lớn cho quốc gia dân tộc, đâu phải như ai cứ ăn no ngủ kỹ, ngồi mát ăn bát vàng, chỉ đợi thiên hạ làm sẵn cho mình thừa hưởng. Những hạng người này mới đáng chết và cũng đáng cho thiên hạ phỉ nhổ !
Nghe Quách Phù nói, như kim châm vào ruột, anh em họ Võ tức mình nhưng mắc cỡ không dám nói lại, chỉ đứng yên, mặt mày đỏ lên vì xấu hổ.
Khi ấy, Dương Quá đã bị đối phương dồn vào thế bí, lắm khi tưởng là đã trúng đòn . Nếu trúng phải những đòn của Hoắc Đô thì không gãy cẳng thì cũng mang thương tật nặng nề.
Trong lúc trận đấu thập phần nguy cấp, chàng đưa mắt liếc sang một bên, thấy Tiểu Long Nữ đã bước lại gần, mắt chăm chú theo dõi trận đấu, hình như khuyên nhủ chàng yên tâm, lúc nào cũng có nàng ở bên để yểm trợ.
Dương Quá bèn trổ thần lực vụt mạnh một bổng , khiến cho Hoắc Đô phải tháo lui, rồi thừa dịp tung mình nhảy vút ra sau lưng Tiểu Long Nữ.
Hoắc Đô nổi nóng gầm lên như cọp rống :
– Mày đừng hòng thoát khỏi tay tao !
Miệng thét, chân phóng đi vun vút, quyết hạ sát Dương Quá cho bằng được.
Tiểu Long Nữ chờ cho hắn lướt qua , vừa khỏi, nàng bỗng dùng ngón chân cái khẽ húc vào huyệt “Côn luân” ở bên phải của Hoắc Đô và điểm luôn vào huyệt “Dũng tuyền” ở gót bên trái nữa.
Vừa trông thấy nàng chuyển gót sen điểm nhẹ tới, Hoắc Đô đã biết nguy rồi. Nếu là kẻ khác thì khó có thể tránh né cho kịp, nhưng Hoắc Đô vốn là một người nhiều kinh nghiệm chiến đấu, trong lúc bất ngờ, hắn vẫn giữ được bình tĩnh . Y nhận thấy tiến cũng bị mà thoái cũng gặp đòn, Hoắc Đô bèn đánh liều tung mình lên cao để né tránh.
Dương Quá đã liệu trước phản ứng của đối phương, cho nên không chờ cho Hoắc Đô đặt chân xuống đất, chàng đã dùng bổng quét ngang trên đấu hắn một đòn rất mạnh.
Hoắc Đô lật đật tung quạt đỡ được rồi nhảy phóc ra xa, mắt gườm gườm nhìn Tiểu Long Nữ trong lòng hoảng sợ nghĩ thầm :
-Tại sao võ lâm Trung nguyên có nhiều nhân tài lắm vậy ? Chỉ có hai đứa trai gái này cũng đã ngán xương lắm rồi !
Dương Quá thừa thắng thế, tung bổng tấn công liền.
Vì vừa mất tinh thần qua một đòn của Tiểu Long Nữ. Hoắc Đô lúng túng đỡ gạt trong ba hiệp đầu. Nhưng đến hiệp thứ tư thì y đã lấy lại được bình tĩnh, bắt đầu dồn Dương Quá về thế thủ. Qua hiệp thứ năm thì hắn bắt đầu phản kích tới tấp .
Hoàng Dung theo dõi trận đấu, thấy Dương Quá không nhớ được khẩu quyết chiêu thứ tư trong “Đả cẩu bổng pháp” nên bà buột miệng nhắc luôn :
– “Bổng hồi lược địa thì diệu thủ, Hoành đả song ngao mạc hồi đầu” ( nghĩa là : lẹ làng rút bổng để chiếm đất, rồi đánh tạt ngang đầu chó , chớ bước lùi )
Đây là một trong các phép lạ trong “Đả cẩu bổng pháp” , Dương Quá có học rồi nhưng trong lúc chiến đấu lúng túng quên mất hết cả. Nay nghe Hoàng Dung mách nước, chàng bỗng nhớ lại ngay, lập tức múa bổng tấn công theo thế ây, không bước lùi ra sau nữa.
Thật không ngờ phép đánh quái lạ ấy lại quá ư tinh diệu , kỳ quái như vậy. Cây quạt trong tay Hoắc Đô đang hùng dũng quét ngang dưới đất, bỗng chạm trúng đường bổng, suýt nữa sút khỏi tay bay mất.
Hoắc Đô kinh hãi vội vàng nắm chặt cán quạt rồi bước ngang sang một bên tránh né, không dám khinh thường xông xáo như trước nữa.
Thấy địch thủ tránh né, Hoàng Dung bèn nhắc thêm một câu khác :
– ” Cẩu cấp khiêu tường như hà đả. Kích cầu dồn hề, tý cầu vỹ ” ( nghĩa là : Khi chó nhảy qua tường, nên đánh vào chân hơn là đánh vào đuôi nó )
Đây là một thế khẩu truyền trong Cái Bang về phép đả cẩu, truyền từ đời Bang chủ này sang đời bang chủ khác . Người ngoài không học tới, nghe qua, dù tài giỏi đến đâu cũng không thể lãnh hội nổi. Chỉ có những ngừoi đã luyện tập qua rồi mới hội ý được. Mọi người đứng ngoài xem, thấy Hoàng Dung đọc những câu lạ, có xen vào những chữ “cẩu” , thì cũng ngờ rằng là bà đang mắng nhiếc Hoắc Đô là đồ chó má, chứ có ngờ đâu bà đọc khẩu quyết để mách nước cho Dương Qua.
Những khẩu quyết này , nếu không phải là người sắp kế vị chức Bang chủ thì không bao giờ được học tới. Nhưng Dương Quá đã được Hồng Thất Công dạy qua rồi , hơn nữa đây là một cuộc so tài vô cùng hệ trọng cho đại cuộc đôi bên, cho nên Hoàng Dung chẳng nề hà quy luật của Cái Bang để làm hỏng việc lớn của nước nhà, nen mới đem khẩu quyết ra đọc bày vẽ cho Dương Quá đánh với Hoắc Đô Vương tử.
Dương Quá vốn là tay thông minh, lanh lẹ tuyệt vời. Chỉ thoáng nghe qua đã hiểu ngay và ghi nhớ được liền, cho nên chàng trổ hết tài năng đánh đúng theo tư thế đã được mách nước, khiến cho Hoắc Đô luống cuống chống đỡ không kịp nữa.
Tiếp luôn mấy hiệp nữa, Hoắc Đô đã lộ vẻ thua sút rõ rệt, đang tìm cách lẩn trốn.
Quần hùng trông thấy vậy reo hò vang dậy dể giúp cho Dương Quá phấn khởi thêm lên.
Hoắc Đô dùng quạt đánh mạnh mấy cái liên tiếp vào người Dương Quá rồi la lớn :
– Hãy khoan, dừng tay lại nói chuyện đã.
Dương Quá định bộ, nhìn hắn cười lớn hỏi :
– Sao, đã chịu thua rồi chứ ?
Hoắc Đô nghiêm giọng bảo :
– Này, ta hỏi đây . Nhà ngươi bảo quyết tranh đấu giật ngôi Minh chủ võ lâm cho sư phụ ngươi, tại sao lại dùng toàn “Đả cẩu bổng pháp” của Hồng Thất Công mà chiến đấu cùng ta như thế ? Nếu đấu cho phe Hồng Thất Công thì bên đó đã bại hai keo rồi, chuyện gì ta phải tốn công chiến đấu nữa !
Hoàng Dung nhận thấy lời nói của hắn cũng có lý, muốn dùng lời hùng biện để lấn át, cãi ẩu cho phe mình. Nhưng bà chưa kịp lên tiếng thì Dương Quá đã nói :
– Cháu nói, ông nghe cũng có lý lắm. “Đả cẩu bổng pháp” này vốn là thuật bí truyền của Hồng Thất Công. Nếu hôm nay, “nội”đem ra để tranh đấu, khiến cho cháu bị thua thì cháu ấm ức cũng phải. Nhưng cháu há quên rồi sao ? Trong khi nội chỉ dùng một thế võ mượn tạm của người ta mà cháu đã thất điên bát đảo rồi, nếu nội dùng võ công của chíng tông bổn môn do sư phụ truyền dạy, thì cháu đã về chầu ông bà bên Mông Cổ từ lâu rồi còn chi nữa ?
Hoắc Đô nổi nóng, trợn mắt lên gần rách, thét lớn :
– Thằng con nít , tuổi mi đáng làm em út ta, sao cả gan xấc xược xưng ông nội với ta.
Dương Quá mỉm cười giải thích :
– Phàm con người từ Vương tử đến khanh tướng, ai cũng phải lấy hai chữ “thành tín” làm đầu . Không giữ được chữ tín thì con người không còn giá trị nữa. Khi nãy, cháu đã hứa là nếu kém sức thì tôn ta làm ông nội mà. Sở dĩ ta xưng hô như vậy là để giữ chữ tín cho cháu mà thôi. Tại sao cháu vừa nói đã nuốt lời ngay như vậy. Thật quả là quân chó ngựa chứ nào có phải là con người hào kiệt đâu ? Nếu cháu kém tư cách như thế , thì ông nội cũng chẳng thèm nhìn cháu làm gì nữa cho mang tiếng xấu lây.
Hoắc Đô thấy Dương Quá giải thích như vậy cũng có lý, không biết đối đáp ra sao, chỉ làm thinh, mặt mày đau khổ tím đen bầm cả lên.
Dương Quá khẽ liếc mắt nhìn Tiểu Long Nữ và nghĩ bụng :
– Cũng may thằng mọi này nhắc đến , nếu không ta cũng quên lửng mất rồi. Nếu trong trân này, ta chỉ áp dụng thuật “Đả cẩu bổng pháp” thì làm sao có dịp phát huy được các thế võ ảo diệu trong võ công của cô nương. Không khéo cô nương lại cho rằng Dương Quá này đã theo người ta mà quên cả gốc gác của mình đi chăng ?
Thật ra lúc này, Tiểu Long Nữ chỉ mải mê theo dõi sắc diện xinh tươi, thân thể cường tráng của Dương Quá mà quên đi tất cả mọi chuyệ. Ngay tới câu chuyện thắng bại cũng không màng, và Hoàng Dung đọc khẩu quyết mách nước cho Dương Quá nàng cũng không lưu ý tới.
Khi nghe Dương Quá đáp như vậy, Hoắc Đô thầm nghĩ :
– Sở dĩ mi cầm cự được và kéo dài trận đấu như vậy là nhờ sự tinh diệu của “Đả cẩu bổng pháp” mà thôi. Nếu không có môn võ công này, chỉ trong mười hiệp, ta sẽ hạ sát mi ngay !
Nghĩ vậy, y mỉm cười nói :
– Nếu là như vậy, ta xin lãnh giáo võ công của quý phái một phen.
Khi còn trong Cổ Mộ, Dương Quá chuyên học môn đánh gươm nhiều nhất, nên hôm nay chàng quyết đem sở trường của mình ra để thi thố cùng Hoắc Đô.
Dương Quá quay về phía quần hùng lớn tiếng hỏi :
– Có vị nào mang sẵn gươm, xin vui lòng cho tiểu sinh mượn tạm.
Trong số hàng ngàn người có mặt hôm nay đang đứng xung quanh, có hơn hai trăm người đeo gươm. Khi nghe Dương Quá hỏi, ai nấy cũng đều tuốt gươm ra khỏi vỏ đồng thanh nói :
– Có đây, có đây !
Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị là hai vị đại hiệp kiếm khách, được Vương Trùng Dương rèn luyện , thấm nhuần ý thức yêu nước thương nòi. Vì vậy nên trong dịp này, cả hai đều hăng hái có lòng muốn giúp cho Dương Quá .
Đành rằng trước kia, khi Dương Quá gây sự chống đối với Toàn Chân giáo nên hai người có ý chán ghét chàng, nhưng hiện nay thấy Dương Quá có lòng nhiệt thành ra gánh vác công việc của nước nhà , làm rạng danh cho dân tộc, giống nòi, nên việc tư thù tạm gác sang một bên để cùng chung sức giúp nước nhà cùng chàng.
Tôn Bất Nhị là người có võ công tương đối thua sút nhất trong Toàn Chân thất tử nên Vương Trùng Dương đem thanh gươm quý báu nhất để tặng cho bà để bù đắp chỗ yếu điểm.
Khi thấy Dương Quá hỏi mượn gươm để chống giặc, Tôn Bất Nhị sốt sắng lẹ làng nâng thanh kiếm báu, nước thép xanh lè, hào quang sáng rực, hơi lạnh toả cả ra ngoài, khẽ nói :
– Xin tiểu huynh đệ dùng tạm thanh gươm này cũng được !
Dương Quá liếc thấy ánh gươm sáng loà thì biết ngay là thanh bảo kiếm, nếu dùng để đánh với Hoắc Đô thì tiện lợi vô cùng. Nhưng khi nhìn qua chiếc đạo bào rộng thùng thình của Tôn Bất Nhị, Dương Quá bỗng nhớ lại ngày nào ở Trùng Dương Cung bị người nhục mạ, lại thêm cái cảnh Tôn bà bị Hách Đại Thông hạ sát, máu me đầm đìa cả người, thì chàng cảm thấy máu hận bốc lên ngụt đầu, làm lơ không thèm nhận thanh kiếm quý ấy, và quay sang một bên nhận thanh gươm tầm thường của một đồ đệ Cái Bang . Đây là một thanh gươm rèn tầm thường bằng thép đen đủi xấu xí.
Chàng vừa nắm lấy thanh kiếm, vừa ân cần nói với người ấy :
– Đại ca vui lòng cho tiểu đệ mượn tạm một chặp nhé !
Tôn Bất Nhị bị Dương Quá đối xử khiếm nhã trước mặt bao nhiêu anh hùng thiên hạ, mặc dù là người tu hành nhưng trong lòng bà cũng cảm thấy xốn xang, khó chịu, toan ngỏ lời oán trách , nhưng sau đó bà chợt nghĩ lại :
– Tánh tình hắn còn trẻ con nông nổi, ta không nên trách móc làm gì, nhất là trong lúc này. Mọi việc tranh chấp dù ít, dù nhiều thảy đều có lợi cho quân địch.
Suy nghĩ như vậy, bà lẳng lặng rút lui vào đám đông biến mất.
Dương Quá thật ra cũng vì tánh con nít ương ngạnh cố chấp, phải chi lúc này , chàng ôn hoà đối xử phải chăng để nối lại tình giao hảo cùng Toàn Chân giáo thì hay biết mấy ?
Hoắc Đô thấy Dương Quá từ chối một thanh bảo kiếm để lấy một thanh gươm tầm thường thô kệch thì nghĩ bụng :
– Có lẽ y tự hào về bản lĩnh cao siêu của mình, không cần đến báu kiếm cũng hạ được ta nên mới làm như vậy. Âu đây cũng là một chuyện may mắn cho ta !
Nghĩ vậy, y vội dùng cây quạt vung lên định thách thức Dương Quá quyết đấu.
Không chờ cho y hé môi, Dương Quá đã chĩa mũi kiếm vào cây quạt, chỗ Chu Tử Liễu ghi bốn chữ khi trước rồi cười lớn bảo :
– Ai cũng biết nhà ngươi là đồ man di mọi rợ, cần chi phải trương quạt ra để khoe bảng hiệu nữa ?
Hoắc Đô nghe Dương Quá nhạo báng, đỏ mặt hổ thẹn nhưng không biết đáp sao, chỉ hứ lên một tiếng rồi xếp cây quạt lại, điểm ngay vào trọng huyệt nơi vai chàng, đồng thời tung chưởng tấn công ngay một lúc.
Từ ngày sống trong Cổ Mộ, Dương Quá đã chịu khó kiên trì học hết những môn ảo diệu nhất của Cổ Mộ phái rồi. Trong khi Lâm Triều Anh sáng chế ra “Ngọc nữ tâm kinh” , thì kiếm pháp của bà còn có phần điêu luyện hơn cả kiếm pháp của Trùng Dương Cung. Nhưng Dương Quá đã học thêm được những bí quyết của Cửu Âm Chân Kinh và đem phối hợp cả hai môn võ công tuyệt đỉnh này dung hoà khiến cho kiếm pháp của chàng biến ảo phi thường, tưởng trên thế gian này không có một kẻ nào có thể theo kịp.
Khi Lâm Triều Anh sáng chế và phối hợp kiếm pháp rồi, bà không hề rời khỏi Cổ Mộ, chỉ đem những chiêu thức thần bí đó truyền lại cho Liễu Hoàn. Sau này, Liễu Hoàn truyền lại cho Tiểu Long Nữ. Cả ba đều chưa khi nào đặt chân lên chốn giang hồ võ lâm nên thiên hạ chưa một ai hay và thưởng thức kiếm pháp của Cổ Mộ phái ở Chung Nam Sơn.
Trong số đệ tử của Cổ Mộ có Lý Mạc Sầu đã xuất thân giang hồ.Nàng là sư tỷ của Tiểu Long Nữ, tuy nhiên do thấy tính nết của nàng không được đoan trang, không nhân hậu cho nên sư phụ không chịu truyền hết tất cả những môn tuyệt đỉnh của kiếm pháp Cổ Mộ phái cho.
Khi Dương Quá trổ tài đem các ngón đánh và đỡ theo lối Cổ Mộ phái ra biểu diễn thì toàn thể quần hùng đều trầm trồ khen ngợi là hay và tinh diệu vô cùng, tuy nhiên trừ Tiểu Long Nữ ra, không ai có thể hiểu kiếm pháp này bắt nguồn từ đâu.
Kiếm pháp này do một người đàn bà sáng tạo ra, và sau đó truyền lại cho hai đời nữ đệ tử, cả thảy đều thuộc phái yếu cho nên trong lối đánh đỡ, khai triển không có vẻ hùng mạnh, chỉ mềm mại lả lướt và đẹp mắt mà thôi.. Sau này , Tiểu Long Nữ đem truyền lại cho Dương Qua. Tuy là đàn ông, nhưng Dương Quá cũng đã quen lối đánh của sư phụ và chàng múa kiếm cũng uyển chuyển lắm.
Trong những phút nhàn rỗi, Dương Quá đã đem tất cả những điều đã học hỏi được với đủ các tư thế căn bản, đem tự biên thành những thế khác nhau riêng biệt và thích hợp với con người và sức lực của chàng, cho nên lối đánh đỡ của chàng vừa hùng dũng, vừa bay bướm, mỗi khi múa ra linh động bay bổng vô cùng.
Cứ kể về sự lanh lẹ thần tốc thì trong các đường kiếm của Cổ Mộ phái, thật trên đời chưa có môn phái nào hơn.
Dương Quá đứng trước đại sảnh, biểu diễn những đường kiếm loang loáng, khi chém bên tả, khi vớt bên hữu, ánh kiếm bao phủ khắp toàn thân như hoa lê, trong phút chốc chỉ thấy đầy trời toàn ánh kiếm bay , không còn thấy bóng người đâu nữa. Tiếng gươm chém không khí như gió xé, rít lên những tiếng vi vu rùng rợn cả người, lộng thành trận gió làm phất phơ tà áo của bao người đứng xung quanh, khiến cho ai nấy thấy đều phải lắc đầu lè lưỡi, thầm khen kiếm pháp tinh diệu vô cùng.
Lối múa quạt của Hoắc Đô cũng vô cùng thần tốc. Đây là món trọng kỹ trong các môn võ từ bên Tây Tạng, lối đánh vừa mềm mại, vừa nguy hiểm. Tuy nhiên, các đường kiếm của Dương Quá quá ư mãnh liệt, khiến cho Hoắc Đô không thi thố tài năng được. Hơn nữa, mỗi khi quạt ra lại để lộ ra mấy chữ “man di” của Chu Tử Liễu đã đề lúc trước, khiến quần hùng reo cười chế nhạo, cho nên y đành xếp quạt lại để đánh. Vì vậy cho nên cây quạt trong tay Hoắc Đô Vương tử cũng trở nên vô dụng, chẳng thi thố được gì.
Lúc ấy Quách Phù và cả hai anh em họ Võ cũng trố mắt nhìn mê man, không ai thốt lên được tiếng nào nữa.
Toàn thể quần hùng ai nấy đều sững sờ mừng rỡ, nhất là Quách Tĩnh có lẽ là người sung sướng nhất, ông nghĩ rằng :
– Huynh đệ ta đã có một đứa con trai tài ba quán chúng, võ nghệ tuyệt luân như thế này, cũng đủ an ủi , được ngậm cười nơi chín suối.
Ông đăm đăm nhìn theo Dương Qua, cố ôn lại những chuỗi ngày khi trước và mối cảm tình thắm thiết giữa hai gia đình họ Quách và họ Dương khi xưa.
Hoàng Dung liếc mắt nhìn sang, thấy Quách Tĩnh tươi cười hân hoan thì đã đoán biết được phần nào tâm tư của chồng rồi. Bà đưa tay vuốt nhẹ nhẹ lên tay chồng ngỏ ý thông cảm và chia vui cùng ông.
Hồi 36
QUYẾT CHIẾN THÂY TRÒ KIM LUÂN PHÁP VƯƠNG
Hoắc Đô đưa mắt nhìn Dương Quá biểu diễn những đường gươm kỳ diệu, đẹp như tung hoa trước gió, chập chờn như chớp giật lúc mưa đông, cũng tự nhận là mình còn kém xa, trong thâm tâm lo lắng suy nghĩ :
– Không ngờ hôm nay lại gặp thằng oắt con tuổi nhỏ tài cao lung lạc, chịu bề thua sút một cách nhục nhã như thế này ! Từ nay về sau còn xưng danh cùng ai được nữa để hòng xây dựng cơ đồ Vương bá nữa !
Trong lúc đang ngẩn ngơ đưa mắt nhìn theo đường gươm của Dương Quá phô diễn, bất thình lình thấy một lưỡi gươm phóng mạnh về phía hông mình ba nhát liên tiếp. Hoắc Đô thất kinh hồn vía, vội vã phi thân nhảy lùi ra đằng sau mấy bước rồi xoè quạt ra chống đỡ.
Giằng co được chừng ba hiệp, Hoắc Đô chợt nghĩ :
– Xem tài nghệ hắn có vẻ cao cường lắm, nếu cứ để giằng co mãi thì sẽ bất lợi cho mình, âu là ta dùng ám khí hại hắn cho rồi.
Dự định như vậy, Hoắc Đô bất thình lình hét lên một tiếng như sấm động, xoè quạt ra quạt liên tiếp không ngừng, áp dụng thuật “cuông phong lôi công” để mở đường cho cuộc tấn công Dương Qua.
Cứ tay phải quạt lia lịa, tay trái dùng tay áo rộng phất lên từng hồi tạo thành một trận cuồng phong đánh thốc về phía Dương Quá như bão táp, đồng thời, những phi tiễn trong tay áo phóng ra liên tiếp. Thuật ném ám khí này là điều cấm kỵ trong võ lâm, môn phái nào cũng phản đối, nhất là trong khi đang tranh đấu cũng những người trẻ tuổi dưới tay mình. Nhưng đối với Hoắc Đô trong lúc này, điều cần thiết nhất là giành được thắng lợi về mình, còn câu chuyện danh dự hay quy tắc võ lâm hắn không cần đếm xỉa đến. Không nói riêng gì về phi tiễn, mà nếu có cách ám toán nào nguy hiểm hơn , cho dù hèn hạ y cũng không nài hà.
Nhưng lạ một điều là mặc dù gió thổi, sấm động, phi tiễn lao ra vun vút nhưng Dương Quá vẫn bình thản đứng yên một chỗ, vung gươm che hết thân mình, biến thành một làn hào quang sáng loà bao bọc hết châu thân, dù cho múc nước tạt vào cũng khó mà ướt nổi. Những đường kiếm tung ra như chớp giật, cản hết bao nhiêu luồng quái phong và phi tiễn. Tuy lưỡi kiếm luân chuyển vun vút như mây, nhưng thái độ của chàng tỏ ra rất nhàn nhã chứ không hề tỏ ra cuống quít hay hấp tấp. Đó là thuật “Mỹ nữ kiếm pháp” trong “Ngọc nữ tâm kinh” .
Có một điều đẹp mắt nhất là làn kiếm cuốn gió thổi tung những mảnh áo rách phất phơ như muôn ngàn cánh bướm, lắm lúc bay phần phật như những bầy ếch trắng đang nhảy nhót đùa trăng.
Trong nháy mắt, Dương Quá đã áp dụng thuật “Mỹ nữ kiếm pháp” hoá giải thuật “Cuồng phong lôi công” và ám tiễn của Hoắc Đô.
Thấy mưu kế của mình bất thành, Hoắc Đô lồng lộn như nổi cơn điên,đánh liều xông tới vung rộng cánh quạt tấn công dồn dập như một con hổ đói đang bắt mồi, với các thế võ ngày càng ác liệt và công lực ngày càng tăng thêm.
Dương Quá thì trái lại, dần dần đã giảm sút sức tấn công.
Là những tay kiệt liệt trong giang hồ, kinh nghiệm có thừa nên Hoàng Dung , Quách Tĩnh vô cùng lo lắng khi thấy Dương Quá đã yếu sức dần dần. Cả hai không biết làm sao, chỉ biết đứng xuýt xoa, nhăn mặt giùm cho chàng.
Trong khi ấy, ngoài việc dùng quyền cước, Hoắc Đô còn áp dụng thuật “tất phong phi sa” thổi thành trận cuông phong, bốc tung thành đám cát bụi mờ mịt , bao vây xung quanh.
Vợ chồng Quách Tĩnh không hẹn mà cùng hô lớn :
– Nguy quá, nguy quá …
Ngay trong lúc đó, Dương Quá vung gươm loé lên và hét lớn :
-Hãy cẩn thận , xem ám khí của ta đây !
Hoắc Đô đã dùng ám khí hại Chu Tử Liễu, nay nghe Dương Quá hô to như vậy cũng giật mình lo ngại. Y đoán thế nào trong lưỡi gươm cũng chứa sẵn ám khí như cây quạt của mình.
Liệu đoán như thế nên y hơi trầm mình, cẩn thận đề phòng.
Dương Quá thừa dịp ấy, tung người bay bổng lên cao, vung gươm đập mạnh vào người Hoắc Đô, nhưng chàng chỉ đập bằng bề sống chứ không phải là đập bằng bề lưỡi.
Bị một đòn đau điếng người, nhưng không thấy ám khí đâu hết, Hoắc Đô nổi giận thét lớn :
– Thằng oắt con, chỉ phách lối.
Dương Quá trợn mắt hỏi lại :
– Thằng mọi, mày mắng ai thế hả ?
Hoắc Đô lặng thinh không đáp, áp dung thuật “Tất phong phi sa” thổi cát bụi mù mịt lên như cũ.
Dương Quá vung tay trái lên rồi dặn lại lần nữa :
– Ta phóng ám khí đây này, báo trước cho mà liệu hồn !
Hoắc Đô vội vàng lách mình sang bên phải, ngay lúc đó Dương Quá vung lứõi gươm từ tay phải chém sạt ngang qua một nhát, mũi gươm rạch luôn mấy lần vải , làm cho đứt tung cả dây thắt lưng của Hoắc Đô.
Tất cả quần hùng đứng ngoài cùng ồ lên một tiếng tỏ ý tiếc nuối, nhiều người lên tiếng :
– Uổng quá, sao không ghim luôn giữa ngực hắn cho rồi. Tiếc thật, chỉ còn một ly nữa mà thôi.
Bọn Mông Cổ thấy Hoắc Đô bị Dương Quá đâm rách áo thì người nào cũng tỏ vẻ thẹn thùng, lo sợ và bực tức.
Bị một đòn suýt chết, Hoắc Đô thấy lạnh cả xương sống, từ đó không dám khinh thường tấn công nữa.
Dương Quá hô tiếp :
– Bây giờ ta phóng ám khí đây nhé. Nói thật đấy, không phải đùa đâu.
Hoắc Đô cúi đầu né tránh nhưng không thấy gì hết, y vừa thẹn vừa tức tối thét lớn :
– Quân khốn kiếp, mi …
Nói chưa dứt câu, đã thấy hai luồng sáng bạc loé lên chập chờn trước mắt. Không còn cách nào khác để né tránh, Hoắc Đô chỉ còn biết nhảy vọt lên cao để tránh né, may ra thoát khỏi. Nhưng cũng đã muộn rồi. Y cảm thấy hai bên đùi tê buốt, nhưng ám khí có vẻ không có gì ác độc cả, nên tuy bị trúng cả nhưng không lấy làm đau đớn lắm.
Hoắc Đô điên tiết, định dùng độc đinh phóng lại để hạ sát Dương Quá cho rồi. Y chuẩn bị mấy mũi tên sắt như loại đã dùng để ném hại Chu Tử Liễu rồi dịnh vung quạt phóng ra.
Trong khi ấy, Dương Quá đã cười khanh khách và nói lớn :
– Này, cậu Vương tử, ta rất tiếc một người như ngươi, có đầy triển vọng mà ngày nay đành cam chiu bỏ mạng ở chốn Kinh Tử Quan này, kể ra cũng đáng phàn nàn lắm. Bây giờ mi đã sắp đến giờ chết rồi, còn định phóng đinh độc làm gì nữa, ta đâu có sợ !
Nghe nói dứt câu, quả nhiên Hoắc Đô cảm thấy hai bên đùi đã dần dần tê buốt, không chịu nổi nữa. Đau quá, không chịu nổi, y cầm cây quạt xoa nhẹ vào hai vết thương và có cảm giác như chất độc đang chạy rầm rập trong mạch máu, chuyển lên tim, tay chân bủn rủn, y la “ối” một tiếng, mặt mày tái mét, rồi ngã lăn ra đất, ngất xỉu tức thời.
Nguyên món ám khí mà Dương Quá dùng để phóng ra là “ngọc phong châm”, một món bảo bối chân truyền của phái Cổ Mộ. Cây ki này nhỏ hơn sợi tóc, có tẩm nọc độc của loài ong trắng. Khi phóng ra không thấy đau đớn lắm. Nhưng sau đó , khi nọc ong đi vào máu thì cả người tê tái và ngất xỉu ngay tức khắc. Dù một cây cũng đủ bất tỉnh , huống chi Hoắc Đô lại bị trúng luôn mấy cây liên tiếp thì làm sao mà gượng cho nổi.
Quần hùng đứng ngoài trông vào thấy Hoắc Đô tự nhiên té ra bất tỉnh thì ngạc nhiên vô cùng vì không một ai trông thấy chàng đánh một đòn gì hay phóng ra một món ám khí nào hết. Như vậy không hiểu chàng hạ đối phương bằng cách nào ?
Trong khi mọi người đang ngẩn ngơ chưa tìm ra duyên cớ thì Đạt Nhĩ Ma vội chạy lại bồng Hoắc Đô đem đặt vào lòng sư phụ Kim Luân Pháp Vương rồi quay lại trừng mắt bảo Dương Quá :
– Này tên súc sinh, ta quyết thi tài cùng mi phen này.
Dương Quá nghe không hiểu, chàng đoán là Đạt Nhĩ Ma có ý khiêu chiến với mình, liền chắp tay nói :
– Bạch đại đức, việc gì mà đại đức nóng tính nói thế,tiểu sinh đây đâu có dám.
Đạt Nhĩ Ma không nói tiếp, vung chày Kim Cương đập mạnh một đòn, sức mạnh như di sơn đảo hải.
Dương Quá bình tĩnh bước ra sau hai bước, khiến cây chày đánh hụt phớt qua một cái vụt. Đạt Nhĩ Ma thuận tay đẩy luôn một thế, đấm mũi chày vào ngực Dương Qua.
Bị một đòn tấn công bất ngờ, Dương Quá dùng gươm đánh vụt chày ra rồi tung mình nhảy vọt lên cao né tránh.
Không đợi chàng rơi xuống, Đạt Nhĩ Ma trợn mắt, phồng miệng thét lớn :
– Mày có bay lên tận trời xanh cũng không thoát khỏi.
Miệng hét, chân y phóng tới, quyết đuổi theo cho bằng được.
Dương Quá đang bay lơ lửng trên không , thấy y tấn công gấp quá, không tiện đặt chân xuống đất, bèn liều mình từ trên cao xông xuống níu lấy đầu chày của Đạt Nhĩ Ma mà giật mạnh.
Nếu sức lực tương đương, thì trong tư thế như thế này, Dương Quá đoạt chày dễ như chơi. Nhưng vì sức lực Đạt Nhĩ Ma mạnh hơn Dương Quá nhiều nên chàng không thể nào giật nổi. Thấy không giật được, Dương Quá vội cắm đầu chạy thẳng.
Mặc dầu không đoạt được khí giới của đối phương, Dương Quá đã né được ngọn đòn ác hiểm của Đạt Nhĩ Ma và chạy thoát được. Quần hùng ai nấy đều thở phào, mừng giùm cho chàng…
Nhìn thấy Dương Quá bản lãnh khinh công cao tuyệt, võ công cao cường, Đạt Nhĩ Ma hỏi lớn :
– Này tiểu tử, ta xem mi bản lãnh cũng khá, vậy sư phụ của mi là ai vậy hả ?
Đạt Nhĩ Ma nói bằng tiếng Tây Tạng nên Dương Quá nghe chẳng hiểu gì cả. Chàng tự nghĩ :
– Có lẽ hắn chửi mình đây chứ gì ! Hắn chửi mình thì mình cũng dùng lời ấy chửi lại cho bõ ghét !
Chàng nhái y hệt như câu nói của Đạt Nhĩ Ma vừa nói. Vốn là con người thông minh tuyệt đỉnh cho nên tuy chỉ nghe qua mà chàng cũng đã nhớ rõ và nói lại đúng y như vậy, không sai một từ nào cả.
Đạt Nhĩ Ma lắng tai nghe xong, tưởng Dương Quá muốn hỏi thăm sư phụ mình là ai nên đáp ngay, tất nhiên là vẫn bằng tiếng Tây Tạng :
– Sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương. Ta là một đại hoà thượng , tại sao mi lại gọi là tiểu tử hả ?
Dương Quá nghe nói cũng chẳng hiểu gì cả. Chàng tin rằng lần này hắn cũng chửi mình nữa, nên cứ theo kiểu cũ, nhái y lời ấy để chửi lại. Chàng nghe ở tai, nhắc lại nơi miệng không khác nào một cái máy thu và phát thanh, không hề sai một tiếng nhỏ.
Đạt Nhĩ Ma nghe xong, lạ lùng hết sức, ngó quanh ngó quất xem chẳng có ai khác, bụng phân vân suy nghĩ :
– Rõ ràng thằng bé này đáp lại chứ còn ai khác lạ nữa đâu ? Không hiểu tại sao hắn cỡ chừng ấy tuổi mà cũng đã tự xưng là Đại hoà thượng ? Mà vì sao hắn cũng nhận sư phụ ta Kim Luân Pháp Vương là sư phụ hắn ?
Không giải đáp được, hắn ngó thẳng Dương Qua, ôn tồn bảo :
– Ta là đệ tử đứng bậc nhất của sư phụ Kim Luân Pháp Vương , còn ngươi là đệ tử thứ mấy hả ?
Dương Quá cũng nhắc lại y nguyên câu ấy.
Đạt Nhĩ Ma nghe nói kinh hãi rụng rời, không biết tính sao, chỉ đứng ngẩn người ra suy nghĩ mãi, không biết phải làm sao.
Nguyên những người tu hành đạo phái Lạt Ma bên Tây Tạng khi nào cũng tin tưởng mãnh liệt vào thuyết luân hồi. Họ tin rằng con người tuy chết nhưng linh hồn không tan và có thể đầu thai qua kiếp sau để làm người trở lại. Tất cả người trong môn phái này ai ai cũng tin như vậy.
Ngày xưa, khi Kim Luân Pháp Vương còn trẻ, ông ta đã thu nhận một đệ tử. Nhưng khi vừa tới hai mươi tuổi, người ấy chẳng may chết sớm. Tuy Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ma chưa được gặp mặt người ấy, nhưng cả hai cũng đã nghe sư phụ nhắc nhở tới luôn.
Trong buổi tiếp xúc hôm nay, Đạt Nhĩ Ma thấy Dương Quá nói tiếng Tây Tạng quá rành, thì hắn nghĩ có thể người đệ tử khi trước của sư phụ mình đầu thai vào chăng , vì dù sao, người Trung nguyên không bao giờ nói tiếng Tây Tạng rành như thế được cả.
Đoán như thế nên trong bụng y đã e dè.Đứng suy nghiệm một lúc, nhìn sững Dương Quá rồi bỗng nhiên vứt cây chày vàng xuống đất, cúi đầu nhắm Dương Quá làm lễ như tế sao.
Dương Quá trông thấy lấy làm lạ và ngẩn ngơ suy nghĩ :
– Lão này chửi mình đã đời, bị mình chửi lại, nay đã chịu thua nên lạy ta để xin lỗi chứ gì ?
Toàn thể quần hùng càng ngạc nhiên hơn nữa. Vì không ai có thể biết hai người đối đáp với nhau những gì mà bỗng nhiên Đạt Nhĩ Ma lại lạy Dương Quá như vậy.
Duy chỉ có Kim Luân Pháp Vương thì đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện. Ông ta theo dõi câu chuyện giữa hai người và cũng hiểu rõ nội tình học trò mình nên biết rằng Đạt Nhĩ Ma vì quá trực tính nên đã hiểu lầm như vậy.
Ông ta bèn dùng tiếng Tây Tạng bảo lớn :
– Đạt Nhĩ Ma, thằng bé đó không phải là sư huynh của con đầu thai lên đâu ! Con đừng e dè gì hết, cứ thật tình giáp chiến với hắn đi.
Đạt Nhĩ Ma kinh ngạc nói :
– Bẩm sư phụ, theo sự nhận xét của con, thì tiểu tử này nhất định phải do sư huynh con tái sinh nên mới có bản lãnh cao siêu trong khi đang còn quá trẻ tuổi. Hơn nữa, hắn là người Hán nhưng nói tiếng Tây Tạng quá rõ ràng.
Kim Luân Pháp Vương bảo :
– Không phải đâu, sư huynh con có võ công cao cường hơn nhiều. Tài nghệ của tiểu tử này kém xa, chưa bằng nổi con thì làm sao gọi là sư huynh con được ?
Đạt Nhĩ Ma chưa dám quả quyết, còn dùng giằng chưa chịu nghe lời thầy.
Kim Luân Pháp Vương thấy vậy bèn thúc giục :
– Con phải nghe lời thầy dạy, không nên quá thực thà do dự nữa. Con cứ đấu với nó qua vài ba hiệp thì tự khắc biết ngay sự thực mà. Đừng quá tin bậy mà làm hư hỏng việc lớn đó !
Xưa nay Đạt Nhĩ Ma tuyệt đối phục tùng mọi ý kiến của sư phụ. Bất cứ lời nào của sư phụ phán dạy, hắn xem như là lời phán của thần linh, cứ cúi đầu làm theo, không bao giờ cãi lại. Hôm nay tuy trong lòng còn phân vân nghi hoặc, nhưng nghe Kim Luân Pháp Vương đã dạy như vậy , y phải tin rằng người này không phải là sư huynh của mình đầu thai, cần vâng lời quyết đấu để biết rõ hư thực.
Trong lòng đã có chủ ý, y đưa tay phân bua cùng Dương Quá :
– Bây giờ hai ta cứ việc đấu thử vài hiệp xem ai hơn ai kém !
Trông thấy đối phương nói chuyện tuy líu lo nhưng có vẻ trịnh trọng, ôn tồn hơn trước, chẳng biết hắn nói gì, tuy nhiên Dương Quá cũng cứ lặp lại y nguyên câu ấy.
Thấy chàng cũng bảo vậy, biết chàng đã đồng y nên Đạt Nhĩ Ma nói tiếp :
– Xin người anh em nhẹ tay với nhau thôi nhé !
Quách Phù đứng trên đại sảnh, thấy hai người đối đáp với nhau những câu nói líu lo, chẳng hiểu gì hết, nên vội vàng đến bên mẹ hỏi :
– Mẫu thân, hai người đó nói với nhau cái gì vậy ?
Hoàng Dung biết rõ rằng Dương Quá chỉ nhái lại những câu nói của Đạt Nhĩ Ma đã nói, nhưng không hiểu nguyên nhân vì sao mà Đạt Nhĩ Ma lại chắp tay làm lễ với chàng như thế. Nghe Quách Phù hỏi, bà cũng gượng đáp cho qua chuyện :
– Họ chỉ đùa với nhau thôi mà .
Tại thao trường, Đạt Nhĩ Ma bắt đầu dùng chày kim cương tấn công Dương Quá bằng những đòn mạnh như búa bổ.
Dương Quá phải dùng sức lanh lẹ né nhiều hơn là dùng gươm đỡ gạt.
Tuy vâng lời sư phụ ra chiến đấu, nhưng Đạt Nhĩ Ma vẫn chưa bỏ lòng tin của mình. Trong lúc đang xáp chiến, hắn vẫn có mặc cảm tự ti và luôn nghĩ bụng :
– Dù sao sư huynh ta cũng đã được truyền dạy lâu ngày, nên võ công có lẽ phải hơn mình nhiều lắm. Có lẽ anh ấy thương tình tương nhượng cho mình mà thôi.
Bị ám ảnh bởi đức tin “Dương Quá là sư huynh tái thế” cho nên trong lòng Đạt Nhĩ Ma e dè, chỉ đánh cầm chừng chứ chưa dám mạnh tay chiến đấu.
Dương Quá đoán biết đối phương chỉ dùng thế thủ chứ không tấn công. Chàng thừa dịp đó vũ lộng hết tất cả các tinh hoa trong Ngọc nữ tâm kinh kiếm pháp, múa kiếm loang loáng, đánh Đông, chém Tây vùn vụt, có khi uyển chuyển như vũ nữ đang múa bông, có khi lẹ làng xoay tròn như chong chóng, khiến cho bao kẻ đứng ngoài càng xem càng tỏ lòng kính phục.
Đạt Nhĩ Ma tuy giữ thế thủ nhưng hết sức thận trọng,chú ý từng đường đi nước bước. Kim Luân Pháp Vương bực mình quá sức, cất tiếng bảo :
– Đạt Nhĩ Ma, thầy đã bảo hắn không phải là sư huynh con đâu, con chớ ngại, cứ việc tấn công mạnh lên đi !
Thật ra tài nghệ của Đạt Nhĩ Ma cao diệu hơn Dương Quá nhiều nhưng vì trong lòng e ngại nên mười phần chỉ đánh được năm. Trái lại, Dương Quá tuy kém sút hơn, nhưng nhờ trong lòng nhiều tin tưởng và phấn khởi nên càng đấu càng thắng thế hơn.
Kim Luân Pháp Vương thấy Dương Quá càng đánh càng thắng thế, trái lại Đạt Nhĩ Ma càng đánh càng lui vào thế thủ thì nổi giận, vùng quát lớn :
– Đạt Nhĩ Ma, phải tấn công ngay lập tức !
Tiếng quát của Kim Luân Pháp Vương vang lên như sấm khiến cho bao nhiêu người nghe phải ù tai, và Đạt Nhĩ Ma nghe nói không dám e dè nữa, phải đưa cây chày kim cương ra phản công tới tấp.
Trong lúc Đạt Nhĩ Ma tấn công Dương Quá chỉ còn cách chống đỡ, không sao có cách xoay xở nữa. Một chặp sau, chàng đã lúng túng, phút nguy biến đã gần rõ rệt.
Dương Quá càng lúng túng , Đạt Nhĩ Ma càng vụt mạnh hơn nữa. Cây chày kim cương đã nặng nề, mà sức vụt càng mạnh thêm, khiến cho Dương Quá vừa vung gươm ra đỡ bị vụt mạnh quá toét cả hổ khẩu, thanh gươm gãy đôi văng mất, chỉ còn chiếc cán trong tay.
Đạt Nhĩ Ma mừng quá hô lớn :
– Ta đã thắng rồi !
Nói xong, hắn cầm cây chày lùi lại năm bước. Theo quy luật phái Lạt Ma trong khi đối thủ rơi vũ khí hay ngã ngựa cần phải tạm ngưng chứ không được bức chiến.
Nhưng Dương Quá cũng nói bằng tiếng Tây Tạng :
– Ta đã thắng rồi !
Nghe nói, Đạt Nhĩ Ma ngạc nhiên hết sức, hắn nghĩ bụng :
– Hắn thắng chỗ nào mà cũng dám tuyên bố như vậy nhỉ ?
Còn đang phân vân, chưa tìm ra được nguyên cớ thì Dương Quá đã chắp tay tung mình phi thân nhảy vụt đến trước mặt.
Nguyên trọng khi còn ở Cổ Mộ, Dương Quá được Tiểu Long Nữ dạy cho thuật “chính tước phi thường” ( nghĩa là : một chim sẻ bay nhảy) chỉ dùng hai bàn tay, vận dụng chưởng lực tung ra cũng cầm chân được hàng tám chục con chim sẻ không ra lọt.
Đây là chưởng pháp độc nhất vô nhị của Lâm Triều Anh sáng chế ra. Dùng chưởng này , dù chỉ hai tay không , nhưng sức mạnh và nguy hiểm có khi còn hơn cả dùng gươm giáo hay vũ khí sắc bén.
Thấy Dương Quá đánh liều dùng tay không xông vào tấn công, Đạt Nhĩ Ma vũ lộng cây chày vàng phát ra tiếng vu vu đập mạnh vào người chàng, nhưng lạ một nỗi là hắn đập không biết bao nhiêu lần mà không trúng được lần nào cả. Dương Quá đã dùng tài lanh lẹ né tránh hết. Lắm lúc hình như cây chày Kim cương còn như bị Dương Quá lấy mất.
Thế là một người có vũ khí, một người tay không, cuộc chiến đấu ngày càng quyết liệt. Kẻ có chày đập tả hữu như một vòi voi, kẻ tay không chụp tả hất hữu không khác gì mãnh hổ vồ mồi, thật là một trận đấu độc nhất vô nhị, thế gian chưa từng có.
Nhờ bền gan luyện tập trên giường hàn ngọc và nhảy nhót suốt ngày này sang ngày khác trong Cổ Mộ nên khing công của Dương Quá đã đạt đến mức tuyệt diệu, lúc đem ra sử dụng chính xác vô cùng , cho nên Đạt Nhĩ Ma dù đã cố gắng hết sức cũng không làm sao đánh trúng được Dương Quá đòn nào.
Tiểu Long Nữ đứng cạnh đó theo dõi, thấy Dương Quá đánh hoài không thắng được bèn thò tay vào trong bọc rút ra một đôi bao tay dệt bằng bạch kim tung cho Dương Qua, miệng nói :
– Qua nhi ! Hãy cầm lấy mà dùng !
Đôi bao tay bạch kim này dệt rất mềm mại, xinh xắn, nhưng chất bạch kim vô cùng chắc chắn, có thể chịu đựng được các loại bảo kiếm hay vũ khí hạng nặng.
Vừa trông thấy đôi bao tay tung lên sáng ngời, Hách Đại Thông đã khiếp sợ đến run người lên.Khi còn ở tại Trùng Dương Cung, chính Tiểu Long Nữ đã dùng đôi bao tay này để bẻ gãy trường kiếm của ông, khiến ông chút nữa phải tự sát mà chết. Hôm nay vừa trông thấy vật cũ, lòng ông đã xao xuyến vì quá cảm xúc.
Tiếp được đôi bao tay, Dương Quá bước lùi ra sau hai bước , mang bao tay vào đành hoàng rồi lấy đà nhảy vụt ra phía trước, áp dụng quyền thuật “mỹ nữ quyền” của phái Cổ Mộ ra để đối phó cùng Đạt Nhĩ Ma.
Thuật đánh quyền này có vẻ lả lướt, nhẹ nhàng uyển chuyền như người mỹ nữ đang múa lượn, có khi mềm mại như cô gái du tiên. Từ cái vung tay cho tới ngọn cước lúc nào cũng bay bướm như ong vờn hoa, lúc dồn dập mau vun vút, khi nghiêm nghị đoan trang, mỗi lúc một vẻ khác nhau, mỗi vẻ có một cái đẹp riêng.
Bao nhiêu anh hùng hào kiệt đứng ngoài thấy vậy đều lấy làm thán phục và ai cũng đều công nhận là cho dù một người con gái cũng chưa chắc có được một dáng điệu mềm mại ẻo lả như của Dương Quá trong lúc này.
Bỗng nhiên Dương Quá đổi ngay thế đánh chuyển sang thế “Hồng Ngọc đánh trống” , hai tay chàng vung về phía trước mặt. Khi Đạt Nhĩ Ma đưa chày ra đỡ, chàng chuyển ngay thành thế “Vung lửa đi đêm”, thừa lúc xuất kỳ bất ý, xáp vào sát người Đạt Nhĩ Ma,
Đạt Nhĩ Ma vung chày định dập xuống, nhưng Dương Quá đã theo thế “Ném ngọc qua lầu” dùng cả hai tay chộp vào người Đạt Nhĩ Ma tung bổng lên không trung.
Đạt Nhĩ Ma không ngờ đối phương lại mạo hiểm và lanh lẹ đến dường ấy nên sinh ra lúng túng , vội vàng nhảy sang một bên né tránh, nhưng Dương Quá đã dùng thế “Văn cơ về Hán” dùng hai tay giữ lại.
Đạt Nhĩ Ma cố sức vẫy vùng, nhưng không sút ra được, phần vì do hai bao tay bằng bạch kim có sức hút mãnh liệt nên hai bên giằng co quyết liệt.
Cố sức vẫy vùng bốn phía để đoạt lại cây chày, từ Đông sang Tây, từ trái qua phải. Đạt Nhĩ Ma cảm thấy toàn thân mệt nhoài, hơi thở hổn hển như trâu rống.
Kim Luân Pháp Vương thấy Đạt Nhĩ Ma không phải thua tài kém sức mà chỉ vì tâm thần bất định, hoảng hốt mà sinh ra lúng túng, bị đối phương uy hiếp nên nhắc lớn :
– Tại sao con không dùng phép “Vô thượng đại lực” mà tấn công ?
Đạt Nhĩ Ma nghe mách nước, mừng rỡ “dạ” lớn một tiếng rồi theo lời sư phụ giật phăng được vũ khí, liền lập tức múa cây chày kim cương vụt tới tấp.
Lúc đang còn cầm chày bằng một tay mà sức mạnh đã ghê hồn, huống chi bây giờ, Đạt Nhĩ Ma dùng cả hai tay và vận dụng gân sức cả hai dồn vào cây chày nên gió lộng vù vù, thật là thần sầu, quỷ khốc.
Nguyên phép “Vô thượng đại lực” này mới xem qua thì rất đơn giản vì chung quy chỉ có mấy đường ngang tám gậy, đường dọc tám gậy, rồi từ mười sáu gậy ấy phối hợp thành những chiêu thế khác, cấu tạo thành vô số đòn khác, biến hoá phi thường, có khi kín đáo như có khiên che chở, có khi hùng hổ như sư tử vồ mồi. Dương Quá chỉ còn cách né gạt để khỏi phải trúng đòn chứ không còn sức đâu để đánh đỡ hay tấn công lại nữa.
Ngư Nhân đứng ngoài nhìn theo cuộc đấu, trong lòng vẫn không phục Đạt Nhĩ Ma, vì thật ra ông chỉ bị gãy mái chèo chứ chưa thua sút một đòn nào cả. Ông quyết tâm chờ đợi cơ hội để xông ra đấu thêm keo nữa quyết định hơn thua cùng Đạt Nhĩ Ma mới hả dạ.
Lúc này thấy Đạt Nhĩ Ma dùng phép “Vô thượng đại lực” để áp đảo Dương Qua, thì ông mới giật mình tự nghĩ :
– Xem thế thì hắn quả nhiên là tài giỏi và dũng lược hơn mình thật. Nếu khi nãy mà chưa thua thì bây giờ cũng phải chịu thua vì làm sao mà chịu được với lối tấn công lợi hại như thế này !
Đạt Nhĩ Ma càng múa gậy tấn công , thì Dương Quá càng phải trổ tài né tránh. Cây chày kim cương múa lên quá mau, lộng gió làm tắt phụt hết bốn ngọn đuốc thắp trong đại sảnh.
Dương Quá đem hết tâm thần nhảy lẹ như con sóc, lo tránh những đòn như trời giáng của Đạt Nhĩ Ma chứ không còn lòng dạ nào để trả đòn nữa. Xung quanh đấu trường, từ đại sảnh đến ngoài hoa viên, quần hùng lẳng lặng theo dõi trận đấu, người nào người nấy đều hổi hộp lo lắng như một đàn chim non đang đứng trước một con diều hâu hung tợn. Còn phía Mông Cổ thì tiếng reo hò cổ vũ vang dậy, tên nào tên nấy cũng lộ vẻ hân hoan khoái chí lắm.
Dương Quá nhận thấy “Mỹ nữ quyền pháp” của mình không đủ hiệu lực để chống lại địch thủ nên chàng suy nghĩ cách khác để phản công.
“Vô thượng đại lực” của Đạt Nhĩ Ma ngày càng gia tăng áp lực, người hầm hầm như cọp dữ, chày vung lên sầm sập như núi lở đá lăn. Lúc bấy giờ, Đạt Nhĩ Ma đã hăng tiết, không còn e dè lo ngại gì về việc “sư huynh tái sinh”, chỉ còn cố tâm làm sao giết cho bằng được Dương Quá mới hài lòng. Thấy Dương Quá thối lui vào một góc nhà, hắn trợn mắt vung chày chận đường thét lớn :
– Mày mất mạng phen này rồi tiểu tử ạ !
Miệng hét, hai tay vung chày đập xuống một đòn như trời giáng.
Trong lúc thập tử nhất sinh ấy, Dương Quá chỉ có cách tung người qua đầu để né tránh.
Thế nhảy vọt này là một thế vô cùng kỳ diệu trong Cửu Âm Chân Kinh , do Vương Trùng Dương đã ghi rõ trên đỉnh toà nhà đá trong Cổ Mộ. Trong lúc nhàn rỗi, Dương Quá thường chú tâm luyện tập một mình. Vì không có ai giảng dạy hay có đối thủ để thí nghiệm hay thử thách cho nên tuy học được đã lâu nhưng chưa bao giờ chàng biết được kết quả ra sao. Hôm nay, trong lúc thập tử nhất sinh,thập phần nguy hiểm, chàng đánh liều đưa ra áp dụng cầu may, không ngờ lại kiến hiệu đến như vậy, và chàng đã tránh thoát ngọn đòn quái ác của Đạt Nhĩ Ma một cách dễ dàng. Bao nhiêu anh hùng chứng kiến trận đấu thảy đều thất kinh và thán phục lối khinh công kỳ diệu của chàng trai trẻ tuổi này.
Trong lúc ấy, Quách Tĩnh không ngờ rằng Dương Quá có thể tránh được ngọn đòn ấy, nên ông nghĩ nếu như chậm trễ, ngọn chày kim cương sẽ đập nát óc chàng ngay lập tức. Vì vậy ông vội vàng tung người nhảy ra phía sau lưng Đạt Nhĩ Ma, đưa tay định chộp lấy cây chày kim cương cứu nguy cho cháu.
Nhưng khi ông vừa cất nhấc chân nhảy ra, bỗng thoáng có một bóng áo đỏ đứng sừng sững chắn ngang trước mặt, dùng chưởng lực tấn công mình, không cho tiếp viện Dương Qua.
Người đó chính là Kim Luân Pháp Vương.
Quách Tĩnh hoảng hốt, vội dùng thế “Kiến Long Tại Điền” , một thế kỳ diệu trong mười tám thế “Giáng Long Thập Bát Chưởng” đánh lại.
Cả hai đều là tay quái kiệt võ lâm, tài cao,công lực siêu phàm cho nên thế chưởng xuất ra hùng mạnh không sao tả xiết.
Hai chưởng chạm nhau nghe một tiếng vang trời. Quách Tĩnh thối lui hai bước, còn Kim Luân Pháp Vương thì vẫn đứng yên vị.
Tuy về công lực, thì Kim Luân Pháp Vương có phần thâm hậu hơn Quách Tĩnh , nhưng về chưởng lực thì Quách Tĩnh lợi hại hơn một bậc và lanh lẹ hơn nhiều .
Sở dĩ Quách Tĩnh thối lui hai bước , không phải là vì sút kèm mà chính vì quá cẩn thận, muốn lùi lại để thủ thế, đề phòng đối phương đánh tiếp đòn khác. Nhưng Kim Luân Pháp Vương thấy vậy, tưởng rằng Quách Tĩnh không đủ sức chịu đựng ngọn đòn của mình nên toan xông tới tấn công luôn một đòn nữa. Không ngờ ông ta cảm thấy trong ruột bị đau nhói, hình như đã bị nội thương nên sợ hãi, thất kinh không dám động thủ, vẫn đứng yên thủ thế.
Mới tung ra một đòn đầu, chưa biết ai thắng ai bại, tuy nhiên cả hai đều trông thấy Dương Quá đã thoát khỏi ngọn đòn của Đạt Nhĩ Ma dễ như bỡn rồi. Quách Tĩnh trong lòng mừng vô hạn, còn Kim Luân Pháp Vương hối tiếc thấy học trò mình đã lỡ mất một dịp may.
Cả hai không tấn công nhau nữa, mà cùng về vị trí cũ tiếp tục theo dõi trận đấu.
Đạt Nhĩ Ma đinh ninh thế nào ngọn đòn này cũng kết liễu tính mạng Dương Quá rồi, không ngờ chàng lẹ làng tung mình né tránh dễ dàng , và xem ngọn chày trong tay mình không ra gì cả, thì lòng bực tức không tả xiết….
Sau khi thấy áp dụng lối né tránh của Cửu Âm Chân Kinh đã có hiệu lực, Dương Quá cứ nhởn nhơ như thế mà thoát hết mọi ngọn đòn của đối phương một cách dễ dàng.
Hoàng Dung trông thấy lối tránh né của Dương Quá như vậy thì ngạc nhiên quá, vội quay sang hỏi Quách Tĩnh :
– Tại sao Dương Quá nó lại biết các thế võ trong Cửu Âm Chân Kinh ? Ông đã dạy nó hồi nào thế ?
Sở dĩ bà hỏi chồng như vậy là bà nghĩ trong lúc đưa Dương Quá lên Chung Nam Sơn, có thể là Quách Tĩnh đã nghĩ đến tình cố cựu cùng cha hắn là Dương Khang ngày xưa, nên đã đem Cửu Âm Chân Kinh mà truyền dạy lại cho Dương Quá chăng ?
Nhưng Quách Tĩnh lắc đầu đáp :
– Không, tôi có dạy hắn bao giờ đâu ? Nếu tôi có dạy thì đã nói rõ cho bà biết rõ từ lâu rồi chứ !
Hoàng Dung nghe nói vậy thì nín thinh ngay vì bà biết chồng mình không bao giờ nói dối cả.
Bà chăm chú nhìn Dương Quá nhảy nhót như chim én tránh đòn của Đạt Nhĩ Ma,. Trong những lúc nguy hiểm,chàng áp dụng các phép trong Cửu Âm Chân Kinh mà thoát được dễ dàng. Tuy vậy, vì luyện tập chưa được tinh tế cho lắm nên nếu để kéo dài thì thế nào cũng để thua ngay.
Hoàng Dung nghĩ :
– Thằng bé Dương Quá này thông minh và tài lắm. Chẳng qua vì không được học tới nơi, tới chốn mà thôi. Nếu hắn học ta trong thời gian chỉ cần nửa năm, ta sẽ truyền hết thuật “Đả cẩu bổng pháp” và “Cửu Âm chân kinh” cho chu đáo, thì hạng những lão hoà thượng này nó có xem vào đâu .
Trong lúc đang phân vân nghĩ ngợi luyến tiếc, Hoàng Dung bỗng thấy thoáng một bóng …
( Xin lỗi các bạn, truyện bị mất hai trang. Bạn nào có thì xin bổ sung hộ . Cảm ơn nhiều )
… nghị, Hoàng Dung mừng rỡ quay sang nói với Quách Tĩnh :
– Dương Quá quả nhiên là một thiên tài xuất chúng, tài nghệ phi thường. Ngày còn niên thiếu, ông đã có được bản lãnh của nó như lúc này chưa ?
Quách Tĩnh cũng hớn hở gật đầu, công nhận và chịu rằng khi mình bằng tuổi ấy thì không có được tài nghệ như Dương Quá bây giờ.
Trong thuật “Di hồn đại pháp” thì căn bản là sự cảm ứng của tinh thần để chống đối phương. Nếu đối phương giữ được tinh thần trong suốt, không hề bị ngoại cảnh hay điều gì bên ngoài chi phối , thì thuật này không có hiệu lực lắm. Cũng như đêm tối chỉ có tác dụng nhiều với những người nhút nhát hay sợ ma. Trong lúc này, Đạt Nhĩ Ma vẫn còn nghi ngại Dương Quá là Đại sư huynh của mình tái sinh đầu thai lại, nên trong lòng đã kinh nghi sẵn, điều đó thuật di hồn này có tác dụng hơn. Âu cũng là một dịp rất may để Dương Quá cứu vãn tình thế lúc này.
Trong khi Đạt Nhĩ Ma mê mê như người trong mộng, ngây người đứng yên một chỗ nhìn sửng sốt đối phương, thì Dương Quá dùng các thế trong “mỹ nữ quyền pháp” để biểu diễn. Có khi chàng đi theo bộ pháp “Bộ bộ sinh liên” ( cứ mỗi bộ sinh một bông hoa sen ) với những dáng điệu vô cùng uyển chuyển , ẻo lả , thướt tha, làm cho Đạt Nhĩ Ma càng tê tái tâm thần hơn nữa.
Mọi người xung quanh thảy đều buồn cười, nhưng cũng rất thán phục.
Quách Phù ngạc nhiên quá ,chẳng hiểu vì sao, liền đập tay mẹ hỏi :
– Mẫu thân, anh Dương Quá sao có lắm tài như vậy ? Mẫu thân cũng am hiểu những thế này mà không chịu dạy cho con à !
Hoàng Dung mỉm cười, xoa đầu Quách Phù đáp :
– Đó là thuật di hồn. Nếu con học được phép này thì nổi danh thiên hạ thực đó. Nhưng trái lại, cũng sẽ có những hậu quả vô cùng tai hại. Phàm sinh con gái trong gia đình khuê các phải lo giữ gìn sao cho vẹn câu hiếu thuận cùng cha mẹ. Khi con lớn lên, lại phải theo chồng. Chừng ấy, bổn phận của con là rất nặng nề là phải làm tròn vai trò của một người nội tướng, quán xuyến được bao quát những điều thờ chồng nuôi con, phụng dưỡng gia đình nhà chồng . Nếu người nội tướng giỏi thì gia đình thịnh, nếu ngừoi nội tướng kém thì gia đình chồng sẽ suy. Bao nhiêu nhiệm vụ đó đã nặng nề lắm rồi. Con còn ham học võ công cho giỏi để làm chi nữa hả ? Con đọc sách đã nhiều, xưa nay có người đàn bà nào giỏi võ công mà khiến cho gia đình hưng thịnh được đâu mà ham lắm vậy !
Quách Phù cãi lại :
– Nếu mẹ dạy như vậy thì phụ nữ chúng con không nên tham gia trong việc binh đao hay sao ?
Hoàng Dung đáp :
– Phải rồi, trời đất sinh người con gái cũng như các loại hoa xinh cỏ lạ, chỉ để tô điểm cho vườn cây xinh tươi chứ có phải là để thay thế cho các cây ăn trái được đâu ? Phàm cây ăn trái không có hoa xinh thì lại có trái ngon nuôi sống, còn cây có hoa đẹp thì bao giờ lại có được trái ngon. Mỗi người có một biệt tài, mỗi thứ có một công dụng riêng. Việc gươm đao trận mạc chẳng qua là vạn bất đắc dĩ phải dùng tới. Vì vậy , ngày xưa, khi Khổng Phu Tử sang thăm nước Vệ, vua Linh Công có hỏi thăm về binh thư trận mạc, ngài không hề trả lời, chỉ nói là :”Tôi chưa học tới” ,Còn đức Mạnh Tử sang nước Lương, vua Huệ Vương có hỏi những biện pháp làm lợi cho nước, thì ngài chỉ khuyên nhà vua dùng nhân nghĩa để thu phục nhân tâm. Nếu vua chỉ nghĩ tới lợi thì, toàn dân cũng chỉ mong về lợi thì đất nước sẽ rối beng về tranh chấp lợi quyền, làm sao mà cường thịnh được… Ngay như Khổng, Mạnh là hai bậc thánh nhân ngày trước cũng chỉ dạy người về đạo đức để kết hợp và thu phục nhân tâm chứ không bao giờ lấy binh đao làm cứu cánh cả. Cũng vì vậy mà thiên hạ khi nào cũng trọng văn hơn võ. Có gì quý báu đâu mà con ao ước lắm vậy ?
Nói dứt lời, Hoàng Dung chỉ tay xuống đấu trường nói thêm :
– Con cứ nhìn xem anh Dương Quá của con đang thắng hay bại, và việc thắng bại đó cũng vô cùng gay go, đánh giá cả mạng sống của con người , nguy hiểm lắm, không nên ham chuộng làm gì !
Quách Phù đưa mắt nhìn theo tay mẹ chỉ, trông thấy Dương Quá cười thì Đạt Nhĩ Ma cũng cười theo, mà Dương Quá làm nghiêm thì Đạt Nhĩ Ma cũng nghiêm nghị theo một chặp.
Quách Phù trông thấy, ngạc nhiên quá tự nghĩ :
– Thuật di hồn sao mà lợi hại quá như thế này. Nếu mình không được học thì cũng nên đến gần xem tận mắt cho biết mới được.
Nghĩ vậy, nàng dợm chân muốn phóng đi, nhưng Hoàng Dung đã nắm tay kéo lại, bắt nằm gục trong lòng, trong phút chốc, Quách Phù đã ngủ mê man trong lòng mẹ.
Tại thao trường lúc này, Dương Quá đã dùng thuật “di hồn” khống chế hoàn toàn Đạt Nhĩ Ma từ cử chỉ nhỏ. Chàng xuất hai chiêu “Tây Thi ôm bụng” rồi tiếp theo thế “Đông Thi nhăn mặt”. Đạt Nhĩ Ma nhìn theo và cũng bắt chước diễn lại không sai một chút nào cả.
Dương Quá lại diễn chiêu “Tào Thực cắt mũi”, một tay đưa lên giữ mũi, một tay đánh liên hồi vào mặt mình không ngớt. Thế này diễn ra theo câu chuyện vợ của Tào Thực tên là Lệnh, khi chồng chết, nàng Lệnh tự cắt bỏ mũi đi, tỏ ý chí quyết tâm thủ tiết chờ chồng, không bao giờ đi lấy chồng khác.
Lúc biểu diễn thì Dương Quá chỉ giả bộ đánh hờ vào mũi mình, nhưng Đạt Nhĩ Ma làm theo thì thật hết sức mạnh. Phải biết công lực của y mạnh đến mức nào, một cái tát nặng có đến trăm cân không ít. Vì vậy nên khi tát tới cái thứ mười hai, Đạt Nhĩ Ma đau quá không chịu nổi, té lăn ra đất, bất tỉnh.
Bao nhiêu anh hùng hảo hán đứng xung quanh trông thấy Đạt Nhĩ Ma ngất xỉu, thảy đều mừng rỡ đồng thanh hò lớn :
– Bên ta thắng tiếp keo thứ hai rồi. Như vậy ngôi Minh chủ nhất định phải thuộc về phe ta. Bên đó còn có ai tài giỏi thì xin ra đấu tiếp cho rồi.
Ngay lúc bấy giờ có hai tên võ sĩ Mông Cổ xông ra bồng Đạt Nhĩ Ma đem vào trong chữa thuốc.
Kim Luân Pháp Vương thấy đồ đệ của mình bị một thiếu niên đánh bại không phải vì tài nghệ mà vì một phương pháp mờ ám, nên trong lòng ông ta vừa buồn, vừa bực tức, ông ngồi trên ghế gọi lớn :
– Tiểu tử, sư phụ mi là ai ?
Kim Luân Pháp Vương là một tay lỗi lạc, học rộng hiểu nhiều nên ông ta dùng tiếng Hán nói rất rõ ràng.
Dương Quá đưa tay chỉ vào Tiểu Long Nữ đáp lớn :
– Vị này là sư phụ của tôi đấy. Ông xem thử sư phụ tôi có xứng đáng làm Minh chủ Võ lâm hay không ?
Kim Luân Pháp Vương nhìn theo, thấy Tiểu Long Nữ là một thiếu nữ xinh đẹp ẻo lả, thân hình mảnh mai, nét mặt trẻ măng, có khi còn trẻ hơn cả Dương Quá nữa, thì trong lòng nghi hoặc nghĩ thầm :
– Bọn Trung Nguyên các ngươi lắm mưu, nhiều kế, xảo quyệt vô cùng, nhưng không thể qua mặt ta nổi đâu !…..
Vì thắc mắc ấy nên ông ta không nói gì, tung mình nhảy xuống đấu trường, rút trong bọc ta một chiếc vòng đúc bằng vàng khối.
Chiếc vòng tuy bằng vàng khối nhưng trong ruột lại rỗng, có đựng chín cái hột bằng trái đào, cho nên mỗi khi rung lên, các trái này chuyển động phát ra những âm thanh nghe vô cùng rùng rợn. Đối phương chưa chiến đầu, chỉ cần nghe những tiếng này cũng đã mất tinh thần rồi.
Tay cầm vòng vàng, Kim Luân Pháp Vương khoan thai bước lại trước mặt Tiểu Long Nữ cất tiếng hỏi :
– Có phải cô nương muốn làm Minh Chủ võ lâm không ? Nếu quả thực như vậy, cô chỉ cần đấu với tôi mười hiệp. Nếu qua được mười hiệp, cô cự nổi với chiếc vòng vàng nảy của tôi thì tôi bằng lòng tôn cô nương làm Minh chủ võ lâm ngay.
Dương Quá gạt ngang nói lớn :
– Lệ ước đã đặt ra rồi. Bên tôi thắng luôn hai trận thì ngôi ấy phải thuộc về phe chúng tôi chứ. Chính bên ông đã ra điều kiện lại đi nuốt lời, xem ra sao được !
Tiểu Long Nữ vốn là người hiền lành chất phác. Nàng không biết Kim Luân Pháp Vương là ai và cũng không hề biết ông ta là người có công phu võ nghệ trùm đời, khiến cho bao nhiêu anh hùng võ lâm phải kiêng nể. Ngoài ta, nàng cũng không hiểu chức Minh chủ võ lâm là chức vị gì, đặt ra để làm chi nữa. Nàng chỉ thấy Kim Luân Pháp Vương hỏi với giọng hách dịch,thách đấu với mình trong mười hiệp với chiếc vòng vàng này thì thản nhiên đáp lại ngay :
– ừ , nếu ông muốn thử sức thì cứ đấu xem sao.
Kim Luân Pháp Vương hỏi lại :
– Cô nương đã nghe kỹ và bằng lòng đấu thử rồi đấy chứ ?
Tiểu Long Nữ điềm nhiên đáp :
– Hễ bằng lòng là đấu thử, còn không thì thôi, có gì đâu mà hỏi mãi !
Từ bé Tiểu Long Nữ đã luyện được thần sắc thản nhiên trước mọi việc, bất kỳ giận hơn hay vui mừng cũng không hề để lộ ra mặt. Vì vậy nên lúc trả lời Kim Luân Pháp Vương , nàng vẫn giữ một thái độ bình thường như không có chuyện gì xảy ra hết.
Bao nhiêu anh hùng Trung NGuyên nghe nàng đối đáp như vậy thì mỗi người có một cách nghĩ khác nhau.
Có kẻ thì nghĩ rằng :
– Cô này có lẽ là một tiên nữ cho nên mới dạy cho Dương Quá biết pháp thuật lạ mê hoặc Đạt Nhĩ Ma . Lúc này Kim Luân Pháp Vương cũng muốn dùng pháp thuật để phục thù cho đệ tử đây.
Có người thì lại nghĩ khác :
– Nàng này đẹp như tiên nữ giáng trần. Có lẽ, Kim Luân Pháp Vương cũng xiêu lòng với vẻ đẹp của nàng , nên đưa vòng vàng ra loè để thách đấu cùng nàng. Nếu quả thật ông ta muốn tranh tài cao thấp thì cứ đấu cùng Dương Quá là người thắng trận chứ cớ gì lại đi khiên chiến nữ sư phụ ?
Vì có những ý kiến dự đoán trái ngược nên trong đại sảnh và dưới đấu trường vang lên những tiếng bàn tán qua lại như giữa đám chợ đông.
Chính Kim Luân Pháp Vương cũng nghi ngờ Tiểu Long Nữ có nhiều phép thuật, nên ông ta đề phòng, niệm chú bằng tiếng Tây Tạng.
Ông ta đọc những câu chú trong bài “mật tôn chú” , đoạn “hàng yêu phục ma”.
Dương Quá đứng gần đấy, nghe Kim Luân Pháp Vương đọc chú, không hiểu gì hết . Nhưng chàng đoán có lẽ ông hoà thượng này cố tình mằng chửi cô nương mình nên chàng cố tâm học hết các câu chú không sai một chữ nào.
Đọc xong mấy câu thần chú, Kim Luân Pháp Vương quát lớn :
– Tiểu tử, hãy tránh ra cho ta quyết đấu.
Dương Quá nghiêm mặt nói :
– Đánh nhau một ngày một đánh, chuyện chi phải chộn rộn lắm thế nhỉ ? Hãy nghe ta đọc đây này !
Nói xong, chàng đọc lại những câu thần chú vừa rồi không sai một mảy may. Khi ấy Đạt Nhĩ Ma vừa tỉnh dậy, trừng mắt nhìn thấy sư phụ mình đang cầm vòng vàng định đấu cùng bên địch thủ, còn Dương Quá đang đọc những câu chú quyết trong “mật tôn chân ngôn” trong đoạn “hàng yêu phục ma” , hắn ngạc nhiên quá, nghĩ thầm trong bụng :
– Lạ quá, chú này là một điều pháp bí mật của phái Tây Tạng, không bao giờ truyền ra cho người khác phái. Tại sao tiểu tử này lại thuộc như vậy. Như thế quả nhiên y là đại sư huynh mình tái sinh rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Nếu không phải đại sư huynh thì làm sao lại thuộc làu làu như vậy được ? Sư phụ ta trong lúc nóng nảy không nghĩ tới việc này, ta cần phải can gián người hổi tâm mới được.
Nghĩ như vậy, y nhảy xổ ra, phục trước mặt Kim Luân Pháp Vương, lạy luôn bốn lạy, thưa lớn :
– Bẩm sư phụ, theo con nhận xét, nhất định người này là sư huynh của con đầu thai rồi. Xin sư phụ hãy dung thứ cho y.
Kim Luân Pháp Vương nghe nói nổi đoá, thét lớn :
– Đừng có nói sàm. Sao hôm nay con mê muội làm vậy ?
Đạt Nhĩ Ma lại phủ phục làm lễ lần nữa và thưa tiếp với một giọng vô cùng thành khẩn :
– Xin sư phụ xét lại. Con quả quyết chuyện này ngàn lần không sai đâu. Mong sư phụ chấp nhận lời cầu khẩn của con, kẻo sau này lại hối hận .
Kim Luân Pháp Vương thấy y không chịu tuân lời, còn lằng nhằng cản trở thì nổi nóng, đưa tay chộp lấy lưng Đạt Nhĩ Ma vứt ra xa mấy trượng.
Đạt Nhĩ Ma nặng có trên trăm cân, thế mà Kim Luân Pháp Vương chỉ khẽ nắm lưng ném nhẹ đã bay đi như người ra ném một con gà nhỏ, không lộ vẻ gì mệt nhọc cả.
Quần hùng đã chứng kiến Đạt Nhĩ Ma chiến đấu cùng Ngư Nhân, sức khoẻ như hùm thiêng, thế mà lúc này, Kim Luân Pháp Vương chỉ khẽ ra tay nhấc bổng y lên như một con ếch, cũng đủ thất kinh và đoán rằng sức lực của ông ta ít ra cũng mạnh gấp mười lần Đạt Nhĩ Ma.
Vì vậy nên người nào cũng lo ngại dùm cho Tiểu Long Nữ, với thân hình mảnh mai ẻo lả, làm sao nàng chống đỡ lại được với ông ta.
Bọn Mông Cổ đã thừa biết Kim Luân Pháp Vương sức mạnh địch muôn người,dõng lược đánh nổi chín trâu. Tiểu Long Nữ dù có phép tà thuật hay bùa ngải gì cho lắm cũng chưa phải là đối thủ của ông ta được. Vì vậy cho nên bọn chúng chủ quan xem thường, hiu hiu tự đắc, cùng nhau bấu véo đùa cợt cho qua thì giờ.
Dương Quá đọc xong mấy câu thần chú bằng tiếng Tây Tạng rồi chạy lại bên Tiểu Long Nữ thấp giọng nói thầm :
– Lão hoà thượng này vô cùng lợi hại, cô nương cần lưu tâm cẩn thận cho lắm đấy nhé !
Kim Luân Pháp Vương lắng tai nghe Dương Quá đọc hết mấy câu thần chú không sai một mảy may cũng phải buộc lòng khen thầm là một người thông minh xuất chúng, nhưng ông ta mỉm cười ngó chàng :
– Cậu bé giỏi lắm , đáng khen đấy. Nhưng ráng mà liệu hồn đấy nhé !
Nhưng Dương Quá nào có chịu sút, đáp lại ngay :
– Hoà thượng hãy cố giữ mình đấy nhé. Phải coi chừng cẩn thận.
Kim Luân Pháp Vương trợn mắt hỏi :
– Mi bảo ta phải coi chừng cái gì ?
Dương Quá đáp :
– Hôm nay ra đua tài cùng sư phụ tôi, hoà thượng cần coi chừng cẩn thận. Vì sư phụ tôi là bồ tát tái sinh, am hiểu việc trên trời, dưới đất, có biệt tài phục hổ hàng long. Như vậy cho nên tôi bảo trước để cho hoà thượng biết mà đề phòng cho lắm !
Dương Quá thừa biết Kim Luân Pháp Vương là tay lợi hại phi thường nên cố bày chuyện đặt điều lung lạc lung tung, mong áp đảo tinh thần đối phương phần nào để có thể lợi cho sư phụ mình trong cuộc chiến này.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương là một tay kiệt liệt trên đời, đệ nhất võ công trên xứ Tây Tạng và Mông Cổ, tài kiêm văn võ, thường ngày ông vẫn than thầm là chưa bao giờ gặp được đối thủ cho xứng đáng. Vì vậy nên không bao giờ ông ta lại đi tin những điều mộng mị viển vông.
Khi nghe Dương Quá nói, ông “hừ” một tiếng rồi nghiêm mặt bảo :
– Cứ đua tài một vài hiệp rồi sẽ biết nhau, cần gì phải căn dặn trước làm gì cho bận óc hả ?
Nói xong, ông ta quay sang hỏi Tiểu Long Nữ :
– Thế nào, cô nương chuyên dùng loại binh khí gì, cứ lấy ra đi là vừa !
Tiểu Long Nữ điềm nhiên rút trong bọc ra một vuông lụa trắng tinh như tuyết, phất lên một cái, chiếc khăn theo gió bay phấp phới, ở đầu khăn có cột một quả cầu tròn màu vàng. Trong lòng quả cầu trống rỗng nên mỗi lúc vung lên, gió lộng vào quả cầu rít lên những tiếng vu vu như sáo diều.
Dương Quá đem đôi bao tay bằng bạch kim trao lại cho Tiểu Long Nữ rồi đứng lui ra đằng sau xem.
Toàn thể quần hùng đứng xem, vừa trông thấy hai món vũ khí lạ đời của hai bên đưa ra thì ai nấy đều lấy làm lạ lùng hết sức. Người nào cũng băn khoăn tự hỏi không biết hình thái hai món vũ khí này dài ngắn, nặng nhẹ khác nhau một trời một vực, hỏi họ sẽ làm sao để chiến đấu ? …
Hồi 37
ĐẠI CHIẾN KIM LUÂN PHÁP VƯƠNG
Cái vòng vàng do Kim Luân Pháp Vương sử dụng có nhiều tác dụng phi thường mà các anh hùng Trung Nguyên chưa mấy kẻ được rõ. Vòng này có tính chất hút kim khí, cho nên bất luận gươm , giáo, kích, côn, búa, chuỳ hay loại binh khí nào làm bằng kim khí đến gần đều sẽ bị chiếc vòng này hút mạnh khỏi tay.
Vì vậy nên bao nhiêu đấu thủ tầm thường xưa nay chưa đấu cùng ông qua ba hiệp đã bị cái vòng vàng này hút mất vũ khí.
Xưa nau Kim Luân Pháp Vương nổi tiếng là võ lâm đệ nhất cao thủ, ít khi ông ta dùng đến vũ khí để đánh với ai, nhưng cũng không kẻ nào đương cự nổi. Thế mà hôm nay, ông đã đem binh khí tuỳ thân ra sử dụng, và Tiểu Long Nữ chỉ dùng một vuông lụa mỏng thì làm sao có thể đương cự được nổi ? Vì vậy nên trong trận này, ông ta có thể bảo Tiểu Long Nữ không thể chống cự quá mười hiệp cũng không phải là điều nói ngoa vậy.
Từ ngày rời Tây Tạng sang Trung Quốc, Kim Luân Pháp Vương chưa hề gặp một đối thủ nào có thể chống cự quá ba hiệp. Lần này tuy xem thường Tiểu Long Nữ nhưng ông ta vẫn cẩn thận đề phòng vì trông thấy đệ tử của nàng là Dương Quá quả là một tay lợi hại và có nhiều mánh khoé bất ngờ.
Hai người vừa nhìn nhau thì Tiểu Long Nữ đã tung khăn lụa ra tấn công trước.
Kim Luân Pháp Vương không biết đây là vũ khí của tà ma hay tiên thánh, liền đưa tay chộp lấy liền.
Thấy tấm lụa trắng vô cùng uyển chuyển và linh động,Kim Luân Pháp Vương đoán trước là sẽ có nhiều sự biến hoá ly kỳ nên trong lòng đã có ý thận trọng, miệng lâm râm đọc thần chú trấn áp đủ năm phương tứ hướng trên đầu, đề phòng thật chặt chẽ.
Tiếng leng keng từ quả cầu vòng buộc nơi đầu giải lụa trắng phát ra những tiếng như tiếng chuông thu hồn, nghe rợn cả gáy và tiếng lụa rít gió vo vo đánh mạnh vào huyệt “trung chữ” nơi cánh tay của Kim Luân Pháp Vương .
Kim Luân Pháp Vương lẹ làng như chớp nhoáng, phi thân sang một bên rồi đưa tay lên đón bắt nữa.
Tiểu Long Nữ khẽ xoay tay một vòng , trái cầu tròn lộn qua rồi lao mạnh tới đánh thẳng vào hổ khẩu của Kim Luân Pháp Vương, ngay huyệt “hợp cốc” .
Kim Luân Pháp Vương vận dụng chưởng lực đánh trả lại rồi dùng hai ngón tay như hai gọng kìm sắt, kẹp chặt lại.
Tiểu Long Nữ tiến tới hai bước, tung vòng cầu vào ngay huyệt “khúc trạch” nơi bả vai Kim Luân Pháp Vương nhưng ông ta đã đề phòng tràn qua một bên né khỏi.
Thế là liên tiếp ba đòn của Tiểu Long Nữ thảy đều bị Kim Luân Pháp Vương phá giải hết. Dương Quá đứng ngoài nhìn trận đấu, miệng đếm lia lịa :
– Một, hai, ba, bốn, năm ….
Đến đây, chàng hô lớn :
– Đã được năm hiệp rồi đấy nhé. Nếu chưa ai thủ thắng được thì tính hoà đấy nhé !
Thật ra Kim Luân Pháp Vương có thách thức Tiểu Long Nữ đấu luôn mười hiệp, nhưng vừa đánh đến ba hiệp thì Dương Quá đã đếm đến năm rồi để trận đấu mau kết thúc, vì chàng ngại sư phụ mình không đủ sức đương cự cùng Kim Luân Pháp Vương. Trong trường hợp này chỉ còn cách ăn gian cho xong chuyện rồi sau đó sẽ tính mưu kế khác.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương là bậc võ sư thượng thặng, ông ta không cần đối đáp hay cãi lẫy cùng Dương Quá . Khi thấy Tiểu Long Nữ đã tấn công đủ ba chiêu, ông ta bắt đầu tấn công lại.
Kim Luân Pháp Vương vừa vung tay lên, Tiểu Long Nữ đã nghe tiếng leng keng rít lên rợn người, từng loạt hào quang chói loà lấp lánh thốc mạnh vào mặt khíên cho tâm thần rối loạn, không nhận định được đâu là Kim Luân Pháp Vương, đâu là chiếc vòng vàng để tránh né hay chống cự nữa.
Thấy tình thế trở nên nguy ngập không có lối thoát, Tiểu Long Nữ chỉ còn cách tung mình vút lên không trung để tránh khỏi ảnh hưởng của chiếc vòng vàng rồi tung sợi lụa trắng, phóng quả cầu nhắm ngay huyệt “phong trì” của Kim Luân Pháp Vương .
Mặc dầu là một lối tránh né để thoát thân, đồng thời cũng là một đòn tấn công hiểm hóc, vì huyệt “phong trì” nằm ở ngay phía sau lưng con người, vồn là một huyệt trọng yếu, nếu đối thủ không né tránh kịp thời thì tính mạng không còn. Ngoài ra, nếu lôi thôi thì cả hai bên đều càng nguy ngập hơn nữa.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương nào phải là tay vừa. Khi vừa trông thấy dáng điệu của Tiểu Long Nữ, ông đã đoán trước được và cúi rạp mình xuống đất để né tránh. Vừa thoát khỏi, ông ta đã lăn qua một vòng, đứng thẳng dậy tấn công liền.
Nhân khi Kim Luân Pháp Vương lăn mình, Tiểu Long Nữ nhảy phóc ra sau hơn một trượng để né tránh, nhưng ác thay, mặc dù đã đi xa, nhưng tiếng vòng vàng leng keng vẫn như xé vào màng tai, cứ liên tiếp đuổi theo như mũi tên đang tìm tới đích. Tiểu Long Nữ càng lùi, vòng vàng càng tiến tới không rời một ly, một tấc.
Trong hoàn cảnh thập tử, nhất sinh, Tiểu Long Nữ mặt mày tái xanh tái xám, chỉ còn cách vận dụng khinh công để lẩn tránh mà thôi. Nàng luôn luôn như cánh bướm nhảy nhót khắp nơi, tránh né, nhưng chiếc vòng vàng vẫn không buông tha, cứ một mực bám riết như bóng với hình.
Dương Quá đứng ngoài cứ lớn tiếng đếm mãi :
– Sáu, bảy, tám, chín, mười …
Khi đếm đến mười rồi, chàng nhảy xổ ra đấu trường thét lớn :
– Đủ rồi, theo lời ước hẹn, chỉ đấu trong vòng mười hiệp, sao đủ số rồi, ông lạ nuốt lời, cứ ép cô nương tôi đấu mãi thế ?
Trong lúc cùng nhau giao đấu, Kim Luân Pháp Vương đã lượng được khả năng của Tiểu Long Nữ rồi. Nếu cứ bình thường chiến đấu, ông ta có thể thắng được nàng rồi. Ngặt một nỗi là tên tiểu tử Dương Quá cứ hò đếm bên ngoài, phá rối làm ông tức muốn lộn ruột, nhưng không làm được chi, ông ta định bụng :
– Mặc kệ hắn ! Để cho nó nói gì thì nói, ta thanh toán con bé này trước rồi sẽ nói chuyện với hắn sau cũng được, không hơi đâu đi lý sự với cái thằng già mồm này !
Nghĩ như vậy, ông ta tung vòng, phất tay áo đập mạnh tới .
Dương Quá đứng ngoài vẫn luôn miệng đếm lớn :
– Mười một, mười hai, mười ba, mười bốn …
Nhưng chàng không ngừng chú ý đến cuộc chiến giữa hai người đang diễn ra như thế nào.
Bị đánh đòn thứ hai, Tiểu Long Nữ đã thấy ngán và rung động cả người rồi. Bây giờ tới đòn thứ ba thì còn hơi sức đâu mà chống đỡ nữa. Nàng chỉ còn áp dụng thuật khinh công kỳ diệu của phái Cổ Mộ , ẩn hiện vô chừng để lẩn tránh, đồng thời tung giải lụa trắng phóng quả cầu vi vu tấn công lại để hộ thân.
Vuông lụa trắng như dòng sương mù màu trắng đục, khi dài, khi ngắn, khi uốn lượn, cuộn khúc như sóng cồn. Quả cầu vòng xen kẽ với ánh vàng của chiếc vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương khiến anh hùng đứng xung quanh nhìn sững.
Tiếng leng keng của chiếc vòng vàng hoà lẫn với tiếng vi vu của giải lụa bạch và tiếng động của quả khí cầu, khi bổng, khi trầm, lúc nhạt, lúc khoan, không khác gì một bản nhạc “vũ lân” , vừa êm tai, nhưng cũng vừa rùng rợn.
Mọi người đứng xem thảy đều hồi hộp lo lắng giùm cho tính mạng của nàng thiếu nữ xinh đẹp.
Từ ngày thơ ấu, Tiểu Long Nữ đã có khiếu ham thích âm nhạc. Trong khi nhàn rỗi, trong Cổ Mộ, nàng được bà LIễu Hoàn và sư bá dạy cho phép đánh đàn, nhờ đó nàng rất sành nghe nhạc điệu. Vì vậy, khi luyện tới phép phóng chiếc cầu, nàng nghiên cứu biến những tiếng động trong quả cầu thành những nhạc điệu , khi nào múa, các tiéng động đó phát ra đúng theo kỳ âm pháp của đàn. Với môn vũ khí này, trong võ lâm đã có thêm một điệu nhạc tân kỳ nữa.
Trong khi bị Kim Luân Pháp Vương đàn áp, Tiểu Long Nữ không thể công khai chính diện chống đối, mà chỉ tung cầu ra để tìm cách né tránh. Tuy nhiên, mỗi lần quả cầu tung ra đều có một điệu nhạc phổ kèm theo, nghe rất thâm trầm, khi dồn dập, khi hùng tráng, khi rời rạc mê ly. Bao nhiêu anh hùng đứng xem thảy đều kích động theo điệu nhạc kỳ lạ này.
Thuật khinh công của Cổ Mộ phái tuy cao siêu, nhưng trong võ lâm, không phải là hoàn toàn vô địch. Kim Luân Pháp Vương cũng vận dụng tài khinh công thượng thặng để đuổi theo truy kích, nếu là chốn đồng bằng rộng rãi thì có lẽ trận chiến đã kết thúc rồi, nhưng nhờ nơi đây địa thế chật hẹp, bàn ghế vướng chân vướng tay, Tiểu Long Nữ khéo léo lợi dụng địa hình địa thế ấy để tránh né và ẩn nấp kéo dài trận đấu nên chưa đến nỗi bị thất bại. Nhờ sống trong Cổ Mộ chật hẹp đã quen với lối đi vướng vít nên nàng đã nhanh chân lướt mình qua các cột nhà , hẻm hóc trong sảnh mà tránh thoát được tất cả các đòn ác hiểm của Kim Luân Pháp Vương .
Đuổi mãi đến mệt nhừ mà không bắt được Tiểu Long Nữ , hơn nữa, nghe tiếng nhạc thoát ra từ quả cầu nghe có âm điệu hay hay, Kim Luân Pháp Vương cũng thấy có hứng thú, bèn dừng chân lại, lắng tai nghe rồi cùng vung chiếc vòng vàng kêu leng keng, phát ra những âm điệu cũng khá nhịp nhàng.
Một trận đấu xô xát như vũ bão, trong phút chốc đã biến thành một cuộc hoà nhạc. Những tiếng vi vu, êm ái thanh tao từ trong giải lụa và trái cầu phát ra, hoà lẫn với tiếng leng keng chói ráy như đinh tai từ chiếc vòng vàng vang lên từng điệu nhịp nhàng và kéo dài không ngớt.
Hoàng Dung và Quách Tĩnh cùng nghe tiếng âm điệu này, bỗng chợt nhớ lại ngày nào trên Đào Hoa Đảo, cả ba vị kiệt liệt võ lâm là Hồng Thất Công , Âu Dương Phong và Hoàng Dược Sư đã dùng âm thanh của các nhạc cụ như đàn, tiêu,… kịch đấu với nhau. Nghĩ tới đó, hai ông bà bỗng cùng thở dài than rằng :
– Thật mới ngày nào đây, mà giờ này nghĩ lại , hình như đã xa vời như bao nhiêu thế kỷ. Trong trận đấu này, hai người tuy nội lực cũng khá, nhưng so với ba vị Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái ngày xưa vẫn còn thua kém nhiều lắm…..
Trong lúc đó, Dương Quá vẫn không dừng đếm, chàng cứ oang oang tiếp tục đếm luôn miệng ” một trăm, một trăm sáu, một trăm tám,…. ” Tức thì Kim Luân Pháp Vương lại khởi thế công sát phạt nữa.
Tiểu Long Nữ tự xét mình yếu hơn nên không dám công nhiên tiếp chiêu, chỉ dùng khinh công để lẩn tránh. Kim Luân Pháp Vương dù tấn công ồ ạt nhưng cũng vẫn chưa đánh trúng được đòn nào.
Quách Phù bấy giờ đang ngủ trong lòng mẹ, bị tiếng leng keng của chiếc vòng vàng làm cho tỉnh giấc. Nàng ngáp dài, vươn vai ngồi dậy, nét mặt buồn buồn , kế đó, nàng dùng hai tay bịt tai lại vì tiếng leng keng dội lên nghe khó chịu lắm.
Kim Luân Pháp Vương vừa đánh vừa suy nghĩ :
– Ta mang danh đệ nhất cao thủ Tây Tạng, nay chỉ đánh với một đứa con gái chưa được bao nhiêu tuổi mà mất đến cả ngày không thắng được thì còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ và các tay hào kiệt võ lâm nữa. Cần phải giải quyết ngay trận đấu, nếu không cứ để giằng dai, dù sau có thắng được cũng không còn vẻ vang nữa !
Nghĩ vậy, ông ta tung chiếc vòng tấn công sang bên tả, rồi bỗng đổi hướng đập sang bên hữu, cố sức hạ thủ cho gấp mới nghe.
Tiểu Long Nữ tận lực chống đỡ, nhưng trong lúc này Kim Luân Pháp Vương tấn công theo lối ngũ hành, phát chưởng lực ra bao vây khắp các mặt không phía nào sơ hở, từ đấu đến chân, lúc nào cũng bị tấn công tới tấp.
Tiến lùi không xong, quay sang tả hữu cũng không thoát được, Tiểu Long Nữ đâm liều. Nàng dùng giải lụa trắng múa tít thành một vòng tròn như một tràng hoa trắng che phía dưới chân rồi tung người vọt lên trên không .
Kim Luân Pháp Vương thừa thế chộp trúng giải lụa. Nếu là khí giới thường thì nhất định Kim Luân Pháp Vương chiêm đoạt ngay. Nhưng ngại vì giải lụa vừa dịu, vừa mềm, trong khi Kim Luân Pháp Vương cố sức kéo lại thì nó bỗng mềm nhũn ra như giấy ướt , không thể nào giật được nữa.
Kim Luân Pháp Vương nổi nóng, giật mạnh một cái, miệng hét :
– Lần này nhất định phải được !
Nhưng Tiểu Long Nữ vẫn thoát thân như thường.
Mọi người đang lo ngại nàng bị tóm được, nên thảy đều vui mừng khi thấy nàng thoát khỏi. Tuy nhiên , Kim Luân Pháp Vương vẫn bám riết, không chịu rời nàng một bước, quyết tâm đuổi theo mãi.
Tiểu Long Nữ hoảng hốt , vội cúi đầu lòn xuống phía dưới nách ông ta chạy ra phía sau trốn thoát. Lập tức Kim Luân Pháp Vương quay người lại như chớp, đưa hai tay chộp nữa.
Tiểu Long Nữ không dám tung chiếc khăn lụa có vòng cầu chống đỡ mà chỉ dùng khinh công nhảy vọt lên cao trốn tránh.
Chộp trật mấy cái liên tiếp, Kim Luân Pháp Vương nổi đoá hét lớn :
– Mày giỏi dùng thuật khinh công thì ta cũng có phép trị !
Thét xong, ông ta vung chiếc vòng đập xuống . Tiếng leng keng từ chiếc vòng phát ra như tiếng thét của tử thần, khiến cho Tiểu Long Nữ lạnh gáy , toát mồ hôi , hết đường trốn tránh vì quá cận kề.
Quần hùng trông thấy hoảng quá, có kẻ không dám mở mắt để nhìn cảnh tượng sắp xảy ra.
Trước tình thế quá nguy cấp, Dương Quá không chịu được nữa, bất thình lình chàng giật ngay chiếc chày vàng trong tay Đạt Nhĩ Ma xông lại phang mạnh vào chiếc vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương . Một tiếng “choeng” đinh tai nhức óc vừa nổi lên, cái vòng vàng bị rơi xuống đất.
Vì nhát đập quá mạnh, cả hổ khẩu của Dương Quá đã bị toét ra, chảy máu đầm đề.
Tiểu Long Nữ thấy chiếc vòng vàng ác hại đã rơi trên mặt đất thì biết nguy cơ đã qua đi, nàng vội vàng tung giải lụa có cầu vồng ra rồi nhảy lên nấp bên cột trụ trên nóc đại sảnh để đề phòng Kim Luân Pháp Vương dung “Ngũ đỉnh khai sơn chưởng” tấn công nữa.
Trong lúc đang tràn trề hy vọng sẽ hạ được đối phương, bất ngờ bị Dương Quá tấn công phá rối khiến cho đòn bị hụt và rơi cả vũ khí, nên Kim Luân Pháp Vương nộ khí xung thiên, gầm lên như cọp dữ. Xưa nay, chưa khi nào ông ta bị ai làm như vậy. Tức thì ông ta tập trung chưởng lực vào tay phải, tung một đòn như thiên lôi bổ ngay mình Dương Qua. Vì hai người chi cách nhau một trượng nên Dương Quá không tài nào né tránh nổi. Chàng đinh ninh thể nào cũng mất mạng dưới ngọn đòn ấy.
Quách Tĩnh đang đứng ngoài theo dõi, thấy Kim Luân Pháp Vương bực tức mặt mày bầm đen thì biết thế nào ông ta cũng sẽ tung ra một đòn ác liệt,. Khi trông thấy Kim Luân Pháp Vương vung chưởng đập tới, Quách Tĩnh chỉ kịp kêu một tiếng “nguy quá” rồi tung “Giáng Long Thập Bát Chưởng ” ra ngăn cản ngay.
Nhờ chưởng lực của Quách Tĩnh mà Dương Quá thoát được đại nạn. Chàng nương thế “Phi long tại thiên” nhảy vọt lên cao rồi nhắm ngay đầu Kim Luân Pháp Vương giáng xuống một chưởng.
Nếu chỉ có một xáp một như thế thì như khi bình thường, Kim Luân Pháp Vương cũng có thể hạ được Dương Quá dễ dàng. Nhưng lần này vì bận tâm chống đỡ cùng Quách Tĩnh , trước sức tấn công ồ ạt như sóng cồn của Giáng Long Thập Bát Chưởng , Kim Luân Pháp Vương không thể nào sơ hở được, chỉ “hự” lên một tiếng, nghiêng mình né tránh đường chưởng của Dương Quá rồi chú ý đến chiến đấu cùng Quách Tĩnh .
Đây là trận đấu thứ nhì của hai vị đại võ sư trong võ lâm. Quách Tĩnh luôn luôn biến động, khi lao mình lên cao, khi sà ngang sát đất, tấn công ồ ạt, còn Kim Luân Pháp Vương không xê dịch nửa bước, bám lấy vị trí cũ mà chống đỡ.
Quách Tĩnh thấy không tiện đương nhiên giao đấu cùng Kim Luân Pháp Vương nên chỉ tấn công mấy đòn rồi bỗng chuyển sang thế thủ.
Bị Dương Quá đánh hụt mấy đòn liên tiếp, nên Kim Luân Pháp Vương cũng ngán. Vì vậy nên mặc dù Quách Tĩnh lùi ra sau để giữ thế thủ, ông ta cũng không dám xông tới bức chiến. Hai người chỉ đứng yên vị trí đánh nhau cầm chừng.
Hai tay đại võ sư quyết đấu được độ vài mươi hiệp, Kim Luân Pháp Vương có tiến lên vài bước, nhưng bỗng nghĩ thầm :
– Ta không nên khinh địch bước vào trọng địa, nếu đối phương cho người ra tiếp cứu thì nguy to.
Nghĩ vậy, ông ta vận dụng công lực đứng nguyên một chỗ, mím môi ngậm miệng ra sức chiến đấu chứ không tấn công như trước nữa.
Dương Quá cúi xuống nhặt chiếc vòng vàng đang nằm dưới đất, chạy lại chỗ Tiểu Long Nữ hỏi nhỏ :
– Sao, cô nương có hề chi không ?
Tiểu Long Nữ mỉm cười lắc đầu tỏ ý bình yên.
Dương Quá mừng quá, cầm tay nàng siết mạnh, tỏ ý cảm thông cùng Tiểu Long Nữ.
Sau đó, Dương Quá đem chiếc vòng vàng mắc lên đầu chày kim cương, và hô lớn trước mặt bọn Mông Cổ :
– Hỡi các người trong bọn Mông Cổ hãy lắng tai nghe đây; Cả hai thứ binh khí tuỳ thân của hai tên cao thủ nhất trong đám các người xứ Mông Cổ đã lọt vào tay ta rồi. Như vậy còn mặt mũi nào đi tranh chức Minh Chủ võ lâm nữa. Nếu các ngươi có chút danh dự thì hãy cút đi cho rồi.
Bọn võ sĩ Mông Cổ không bằng lòng, nhao nhao phản đối :
– Đâu được, bên ngươi, cô gái này đã thua trước đến nỗi hai người xáp lại đấu một và cuối cùng thì chú mày cũng gần bỏ mạng, nếu không có ông già họ Quách kia cứu ứng kịp thời. Thử hỏi xem, ba người đánh một mà gọi là thắng sao cho phải. Như thế mà không biết xấu, mà còn đi rêu rao lên nữa. Cái vòng vàng kia của Kim Luân Pháp Vương đã vứt đi rồi, mi lượm mót chứ mi đã đoạt được hồi nào ?
Một người khác trong bọn họ la lớn :
– Nếu có anh hùng thì hãy đấu một chọi một xem thế nào ?
Tiếp tới có kẻ nói thêm :
– Ê, ở đây không thể hùa nhau để kéo bè đánh lén như thế. Có gan thì hãy ra đấu lại xem nào ?
Một tên khác vừa cười, vừa nói nhạo thêm :
– Thầy đánh thua, chạy như chuột nhắt mà trò thì đi rêu rao nói dóc, thật không biết ngượng mồm.
Tiếng hò hét, ồn ào vang lên như vỡ chợ, nhưng họ nói toàn tiếng Mông Cổ nên quần hùng không ai nghe hiểu gì ráo.
Đối với các anh hùng có mặt hôm nay, ai nấy cũng đều công nhận là nếu so với tài lực của Tiểu Long Nữ còn kém xa Kim Luân Pháp Vương . Nhưng nếu đem chức Minh Chủ võ lâm mà nhường cho ngưòi Mông Cổ thì nhất định không thể được vì nhiều lẽ :
1. Võ lâm anh hùng Trung Nguyên sẽ bị mất thể diện. Hơn nữa, nơi đây chưa phải đã tập trung đông đủ hết anh hùng Trung Nguyên.
2. Nếu nhường chức Minh Chủ cho người Mông Cổ thì sẽ làm nhục ý chí của tất cả những lực lượng yêu nước đang quýết tâm chiến đấu với quân Mông Cổ.
Cả bọn anh hùng hào kiệt Trung Nguyên thấy bọn võ sĩ Mông Cổ hò hét la rống om sòm thảy đều nổi nóng, cùng đứng phăng cả dậy, xông lại hỏi :
– Này bọn man di mọi rợ xâm lược, bọn bay muốn đánh nhau hay không mà có những thái độ hỗn xược như vậy hả ?….
Dương Quá để chiếc vòng trên đầu chày kim cương vác lại trước mặt Kim Luân Pháp Vương trợn mắt hỏi lớn :
– Này, phen này nhà ngươi đã nhận thua chưa, xin cứ nói toẹt ra cho thiên hạ nghe một chút xem sao nào ? Đấu với người ta mà để mất vũ khí rành rành trước mặt mà bây giờ còn già họng cãi bướng hay sao ?
Nói xong. chàng nhìn quần hùng phân bua với một giọng hài hước mỉa mai :
– Có đời nào để cho người ta giật mất vũ khí trên tay mà lại đòi làm Minh Chủ võ lâm như vậy . Như thế mà không biết ngượng. Tôi như các người thì về chùa mà gõ mõ cho kêu, thỉnh chuông cho bền để tìm xôi chuối cho đỡ lòng còn hơn.
Lúc ấy, Kim Luân Pháp Vương ngồi lặng thinh để vận công và định thần, sức mạnh vững bền như núi Thái Sơn . Với công lực của ông ta, khi đã vận dụng đầy đủ thì dù rừng gươm biển giáo cũng không sờn, hàng vạn người cũng không di chuyển nổi. Ông ta định chịu đựng trong giây lát, đến khi nào mọi người kiệt sức không chịu nổi nữa sẽ lần lượt hạ từng người một.
Vì bận phải vận dụng nội lực nên tuy tai nghe Dương Quá nói mà Kim Luân Pháp Vương cũng không thể trả lời, vì hễ chỉ mở miệng ra nói là công lực sẽ theo tiếng nói mà thoát đi hết.
Dương Quá cũng thừa hiểu như thế nên chàng nghĩ thầm :
– Nếu ta để hắn vận dụng nội lực đầy đủ thì có khác nào đưa đầu cho hắn chặt ? Chi bằng tìm cách phá giải trước đi là xong.
Nghĩ vậy, chàng nói lớn cho mọi người cùng nghe :
– Xin toàn thể anh hùng hảo hán Trung Nguyên và Mông Cổ hãy nghe ta nói đây! Trước mặt chư vị anh hùng, tôi xin hỏi lại Kim Luân Pháp Vương ba lần, nếu ông ta không trả lời thì xem như là đã mặc nhiên thừa nhận là chịu thua đấy nhé !
Nói rao xong rồi ., Dương Quá quay lại nhìn Kim Luân Pháp Vương hỏi lớn :
– Ngài đã chịu thua rồi phải không ?
Thấy ông ta làm thinh, chàng hỏi tiếp :
– Ngài hết tham vọng giành ngôi Minh chủ võ lâm rồi đấy chứ ?
Thấy Kim Luân Pháp Vương vẫn làm thinh, Dương Quá hỏi câu cuối :
– Có lẽ ngài quá ngượng nên không tiện trả lời phải không ? Không sao đâu, việc lặng thinh của ngài là đã mặc nhiên thừa nhận rồi đó !
Lúc ấy Kim Luân Pháp Vương đã vận dụng nội công được tám thành, nên ông ta cố tâm nín thinh để cho đầy đủ mười thành thì sẽ nói chuyện luôn thể.
Nhưng Dương Quá đã lanh lẹ đoán ra thâm ý đó của Kim Luân Pháp Vương, cướp lời nói tiếp :
– Hay lắm, một khi ngài đã nín thinh không đáp và đã mặc nhiên thừa nhận là thua rồi, chúng tôi hứa là không bao giờ gây khó dễ gì cả. Ngài cũng như các chư vị đồ đệ cứ ung dung ra về,chúng tôi xin chịu trách nhiệm về sự an ninh của toàn thể quý vị trong phạm vi hai chục dặm trong vùng này.
Nói xong, chàng cầm chiếc vòng và chiếc chày vàng trao cho Quách Tĩnh , lễ phép thưa :
– Thưa Quách đại hiệp, đây là chiến lợi phẩm ta tịch thu được của địch trong cuộc tranh tài hôm nay. Xin Đại hiệp hãy cất giữ làm kỷ niệm cho võ lâm Trung Nguyên.
Kim Luân Pháp Vương nghe tới đây tức quá, dằn tâm không nổi nữa, thở phào ra một tiếng, bao nhiêu công lực vận dụng tới đây đã theo hơi thở thoát đi mất hết.
Ông ta tức quá, mặt mày đỏ như gấc, muốn ra tranh tài đánh nữa thì lại ngại có Quách Tĩnh không phải là tay vừa, huống chi trong tay không còn binh khí và bên quần hùng Trung Nguyên số lượng đông hơn phe mình đến mười lần thì làm sao đương cự cho nổi.
Nghĩ vậy, ông ta cố dằn tâm, đáp bằng một giọng khàn khàn vì quá tức tối :
– Bọn Trung Nguyên các người quả thật tinh quái và xảo quyệt hết sức, lại có dã tâm ỷ đông hiếp người cô thế, như vậy đâu có đáng mặt anh hùng ?
Nói xong, ông ta phát ống tay áo ra lệnh cho các võ sĩ Mông Cổ rồi bảo lớn :
– Thôi, anh em Mông Cổ chúng ta quay về thôi !
Ra lệnh cho thuộc hạ xong, Kim Luân Pháp Vương quay lại chào Quách Tĩnh rồi nói lớn:
– Thưa Quách Tĩnh đại hiệp và Hoàng Bang chủ, hôm nay chúng tôi hân hạnh được hầu liệt vị đôi ba đường gọi là làm lễ sơ kiến. Vậy xin tạm biệt và hẹn gặp lại vào một dịp khác.
Nói xong, ông ta nghiêm giọng nói hằn từng tiếng một :
– Thiên địa tuần hoàn, nước non còn đó, bọn hèn này thế nào cũng có dịp tái ngộ cùng chư vị anh hùng !
Quách Tĩnh vốn là người thuần hậu trọng nghĩa, thấy đối phương ăn nói lễ độ, khiêm tốn, vội vàng chắp tay chào nói :
– Đại sư quả là tay võ công tuyệt luân, khiến cho chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ. Trước khi từ giã, xin hoàn lại các món binh khí của quý hiền đồ và đại sư !
Nói xong, ông đưa hai tay cầm chiếc vòng vàng và chày kim cương đưa ra trao cho Kim Luân Pháp Vương.
Nhưng Dương Quá đã thét lớn :
– Ôi , một người như Kim Luân Pháp Vương chẳng lẽ lại mặt dày mày dạn đến nỗi đi tiếp nhận lại các vật này hay sao ?
Quách Tĩnh nghiêm mặt bảo :
– Dương Quá con ! Con không nên quá thất lễ cùng người lớn tuổi !
Kim Luân Pháp Vương lặng thinh quay mình bước ra khỏi cửa không nói lại một lời.
Dương Quá nói theo :
– Đệ tử của ngài là Hoắc Đô đã bị trúng Ngọc Phong Châm của tôi, nếu không có thuốc giải độc thì tôi xin biếu lại này.
Nhưng Kim Luân Pháp Vương tự cho mình là có đủ y pháp thần thông trị được mọi chứng độc nên vẫn lặng thinh không nói, lặng lẽ bước cho mau.
Ra khỏi cửa, ông ta cúi đầu đi thẳng .
Hoàng Dung nhìn Chu Tử Liễu, thấy hai mắt nhắm thiêm thiếp, hơi thở đều đều như người ngủ say thì lo lắng suy nghĩ :
– Ông này bị trúng độc , nếu không tìm được thần y thì có lẽ không sao cứu thoát được. Mình muốn điều đình cùng lão hoà thượng lấy thuốc giải độc trao đổi với nhau, nhưng lão lại tự ái quá thì đành chịu vậy, phải tìm phương kế khác thôi.
Bà thở dài nhìn Chu Tử Liễu, thần sắc chẳng được vui.
Lúc đó, từ đại sảnh cho đến ngoài hoa viên đâu đâu cũng vang lên những lời bàn tán ca ngợi của quần hùng, tiếng reo hò như sấm động. Ai nấy đều hân hoan khi thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã chíên thắng được thầy trò Kim Luân Pháp Vương một cách vô cùng oanh liệt.
Hàng trăm người xúm lại bao quanh hai người mà ca tụng.
Có người bảo :
– Dương Quá dùng chày của Đạt Nhĩ Ma đánh rơi vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương, quả thật là dùng gậy ông đập lưng ông. Nếu không có thứ binh khí nặng nề như chày kim cương thì chắc không thể nào đánh rơi nổi chiếc vòng vàng !
Có người thì trầm trồ về tài di hồn đại pháp của Dương Quá . Chính nhờ cái thuật ấy mà chàng đã chế phục được Đạt Nhĩ Ma một cách dễ dàng.
Có người khen Tiểu Long Nữ có thuật khinh công rất là tuyệt diệu, khiến cho bao nhiêu đòn của Kim Luân Pháp Vương đều trở thành vô dụng.
Kẻ bàn qua, người tán lại một câu, tiếng nói ầm ầm như tiếng chợ đông.
Lục trang chủ ra lệnh cho tráng đinh thết tiệc ăn mừng chiến thắng.
Từ nhỏ đến nay, Dương Quá bị người đời ruồng bỏ, sống cô độc một mình trong cảnh quạnh hiu. Hôm nay, bỗng nhiên lập được công lớn giữa ngàn tai mắt võ lâm , ai ai cũng trầm trồ khen ngợi , nên chàng hân hoan sung sướng vô cùng.
Còn Tiểu Long Nữ xưa nay vốn sống cách biệt với thê giới bên ngoài, không hề bị tinh cảm chi phối và cũng không hiểu chi tình tiết trong xã hội . Nàng chỉ nhìn nơi Dương Quá , thấy chàng hân hoan sung sướng thì mình cũng cảm thấy hạnh phúc lây. Tình cảm của nàng hiện nay hoàn toàn phụ thuộc nơi tình cảm của Dương Quá vậy.
Trong khi dự tiệc, Hoàng Dung mời Tiểu Long Nữ ngồi bên cạnh mình, vui vẻ nói chuyện từ vấn đề này sang vấn đề khác , đậm đà thắm thiết như tình cảm ruột thịt.
Tiểu Long Nữ nhìn lại Dương Quá , thấy chàng ngồi cạnh Quách Tĩnh và Ngư Nhân dằng phía cuối phòng, bèn đưa tay vẫy và gọi lớn :
– Qua nhi, sao không qua đây ngồi cạnh ta cho có bạn, ngồi chi xa quá vậy ?
Dương Quá vốn đã thạo đời và biết lễ nghi phong tục, không nhận lối trai gái chung chạ, ngừoi phải chăng thì ăn ở cũng phải đứng đắn, riêng biệt. Vì vậy nên chàng đã dụng ý lại ngồi bên Quách Tĩnh để tránh sự quyến luyến trước công chúng , thiên hạ không tốt.
Không ngờ Tiểu Long Nữ lại không để ý đến khía cạnh ấy, buộc chàng phải tới ngồi gần bên mình.
Nghe nàng gọi, Dương Quá bẽn lẽn nhìn lại, mặt đỏ gay vì mắc cỡ, ngó nhìn mọi người xung quanh rồi nhìn nàng mỉm cười khẽ lắc đầu mấy cái rồi ngồi yên chỗ cũ.
Tiểu Long Nữ bực mình gọi lớn :
– Qua nhi, sao không lại đây ngồi với ta ?
Dương Quá trả lời :
– Cô nương để tôi ngồi cạnh Quách bá bá xem người có điều chi dạy bảo chăng ?
Tiểu Long Nữ cau mày gắt nói :
– Ta yêu cầu Qua nhi lập tức lại đây ngồi với ta ngay bây giờ !
Dương Quá thấy mặt nàng đã lộ vẻ tức giận, bực dọc, mắt trừng, môi mím và nói dằn từng tiếng thì biết nàng đã giận tới cực điểm rồi, thầm nghĩ :
– Ngày ta đi tìm cô nương, thấy Lục Vô Song hao hao giống nàng mà ta đã không nào thiên khổ vạn nan để theo đuổi mãi. Huống chi ngày nay đã được gặp lại cô nương rồi, tại sao không vượt qua các nghi lễ tầm thường để làm vừa lòng nàng. Đối với ta hiện nay, cô nương là tất cả lẽ sống, bao nhiêu vịêc khác có ý nghĩa gì đâu ? Nếu ta câu nệ tiểu tiết không tuân theo ý nàng, nàng nổi giận bỏ đi lần nữa thì biết đâu mà tìm ?
Nghĩ vậy, chàng đứng dậy chạy lại chỗ Tiểu Long Nữ…
Hoàng Dung thấy thái độ của hai người có vẻ đặc biệt khác thường, đã có bụng nghi ngờ, muốn dò xét xem sao, tuy nhiên bà vẫn sai tráng đinh thu dọn chỗ ngồi cho Dương Quá .
Ngồi xong, Hoàng Dung quay sang hỏi Dương Quá :
– Qua nhi, con học võ công của ai mà giỏi như vậy?
Dương Quá chỉ vào Tiểu Long Nữ đáp :
– Thưa bá mẫu, đây là sư phụ con, bá mẫu không tin lời con hay sao ?
Hoàng Dung thừa biết Dương Quá là ngưòi lắm cơ trí, trái lại Tiểu Long Nữ thì thật thà chất phác, nghĩ sao nói vậy nên không bao giờ khách sáo, nên bà quay sang hỏi Tiểu Long Nữ :
– Hiền muội,có phải chính em đã truyền dạy võ công cho Qua nhi không ?
Tiểu Long Nữ vui vẻ đáp, trong câu nói bao hàm cả sự hãnh diện :
– Thưa, quả đúng là như vậy. Em dạy như vậy, phu nhân xem có được hay không ?
Hoàng Dung nức nở khen vùi :
– Ô, hiền muội khá lắm. Vậy hiền muội học võ công của ai thế ?
Tiểu Long Nữ đáp :
– Dạ, sư phụ em đã khuất bóng lâu rồi.
Hoàng Dung hỏi thêm :
– Vậy tôn sư danh hiệu là gì ?
Tiểu Long Nữ đáp :
– Em chỉ biết sư phụ là sư phụ, còn tên họ của người thì thật tình là em cũng không biết ?
Thật ra, việc không biết tên họ của người dạy võ công cho mình chỉ là việc thường tình trong võ lâm, không có gì uý kỵ cả. Nhưng sở dĩ, Tiểu Long Nữ không muốn nói lộ ra vì nàng nghĩ sư phụ mình chẳng qua là một người a hoàn của Lâm Triều Anh , nếu giới thiệu cái tên Liễu Hoàn cũng không tốt đẹp gì nên nàng mới tìm cách nói trá đi như vậy .
Trong tiệc rượu hôm nay, tất cả mọi người thảy đều hướng về Dương Qua, Tiểu Long Nữ và Hoàng Dung, ai ai cũng hết lời khen ngợi ,ca tụng và mời mọc uống rượu,vì họ xem cặp này là những người có công lớn nhất trong việc đuổi đánh thầy trò Kim Luân Pháp Vương, giải nạn lớn cho võ lâm Trung nguyên.
Phần Quách Phù thì từ trước tới nay, khi nào cũng được mọi người thiết tha coi trọng, vồn vã tiếp đãi. Hôm nay thấy mình bị thiên hạ bỏ rơi, chẳng ai hỏi tới thì trong bụng đã ấm ức thầm, mặc dù anh em họ Võ đã đua nhau ân cần mời mọc ca tụng đủ điều nhưng nàng vẫn không được vui. Nhìn qua bên cạnh thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ được mọi người tha thiết săn đón mời mọc ân cần, nghĩ lại phận mình bị lãng quên, Quách Phù chán ngán tủi thân, nói với anh em họ Võ :
– Tiệc này đâu phải dành cho chúng mình, hơn nữa mình cũng không biết uống rượu, ngồi đây mãi cũng vô ích . Chúng ta hãy bước ra ngoài hứng gió giải trí đi !
Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn cũng đang ngượng ngập và cảm thấy bẽ mặt cùng Dương Quá nên lấn cấn chưa biết đi hay ở. Nay được Quách Phù đề nghị thì có khác chi là được quạt vào lòng, vui vẻ tán thành ngay. Cả ba người cùng đứng dậy bước ra ngoài.
Nhưng mới đi được mấy bước , Quách Tĩnh đã gọi :
– Phù nhi, đi đâu đấy, lại đây cha bảo !
Quách Phù nhìn vào thấy cha đã đến ngồi bên bàn mẹ bao giờ rồi, tay đang rót rượu và miệng nói vui vẻ lắm.
Nàng vội chạy lại hỏi :
– Cha, mẹ …
Nói xong, nàng dựa người vào bên cạnh mẹ.
Quách Tĩnh tươi cười nói với Hoàng Dung :
– Xưa nay bà có thành kiến cùng Dương Qua, cho nó là đưa kém tài, thiếu tư cách không có bản lãnh thua sút con bà Quách Phù. Hôm nay, trước mặt quần hùng bà cũng thấy rõ khí tiết và tài nghệ của Qua nhi như thế nào rồi. Vậy bà đã công nhận là sự nhận xét của mình từ trước đến nay là sai lạc cả không ?
Hoàng Dung vui vẻ gật đầu :
– Thật tôi vụng về lẩm cẩm quá, có mắt cũng như không. Hôm nay được chứng kiến cháu nó có biệt tài và khí khái, tôi mừng hết sức.
Quách Tĩnh thâý vợ cũng đồng ý khen Dương Quá thì đoán là Hoàng Dung đã mặc nhiên tán thành việc mình đề nghị hứa hôn Quách Phù cùng Dương Quá hôm nọ rồi. Ông mừng quá vội hướng về phía Tiểu Long Nữ hỏi :
– Thưa Long cô nương, nhân tiện hôm nay tôi muốn nói để cô nương được biết , phụ thân của Dương Quá , đồ đệ yêu quý của cô nương, trước kia với tôi giao du như ruột thịt ,hai gia đình “Dương, Quách” đã mấy đời thân thiện cùng nhau. Hai vợ chồng tôi hiếm hoi chỉ sanh hạ được một cháu gái, mặt mày cũng không đến nỗi xấu, võ công cũng không tệ lắm …
Thấy Quách Tĩnh thật thà quá và đã nói toẹt chuyện ra như vậy, Hoàng Dung bèn cười lớn ngắt lời ông :
– Này, ông khen con gái mình như vậy, không sợ Long muội chê cười chúng ta hợm mình hay sao ?
Quách Tĩnh cười nói :
– Thâm tâm chúng ta đã định đem con gái gả cho Dương Qua, đệ tử yêu của cô nương. Nhưng ngặt nỗi là hiện nay cha mẹ của Dương Quá thảy đều đã qua đời, thì người thay mặt chỉ có cô nương , vì lẽ thầy cũng ngang quyền cha mẹ. Vậy xin cô nương đồng ý đứng ra tác thành duyên nợ cho hai đứa nó. Nhân bữa tiệc hôm nay, có đầy đủ anh hùng thiên hạ, tôi muốn nhờ một vị nào cao niên, nhiều đức độ, có lòng thương tưởng , đứng ra làm mai mối để chọn ngày lành tháng tốt làm lễ đính hôn cho hai con trẻ. Vậy cô nương có bằng lòng hay chăng ?
Theo tục lệ Trung nguyên, thì vấn đề hôn nhân khi nào cũng phải có mai mối trước và được cha mẹ đôi bên ưng thuận mới được, chứ đôi trai gái dù yêu nhau cũng không thể tự tiện lựa chọn , Sở dĩ Quách Tĩnh đưa ra đề nghị này là tuân theo ý muốn của cha là Quách Khiếu Thiên và cha của Dương Khang là Dương Thiết Tâm ngày trước. Hai vị này đã hứa hôn cùng nhau ngày khi còn mang thai Quách Tĩnh và Dương Khang trong bụng. Nhưng vì Quách Tĩnh và Dương Khang đều là con trai cho nên chỉ kết nghĩa kim lan, thành anh em với nhau. Ngày nay, Quách Tĩnh muốn hứa hôn cho Quách Phù cùng với Dương Quá để giữ lời ước hẹn cũ của cha mẹ đôi bên ngày xưa.
Nói dứt lời, Quách Tĩnh nhìn con gái và Dương Quá mỉm cười, trong bụng đinh ninh thế nào Tiểu Long Nữ cũng đồng ý mà tán thành ngay.
Quách Phù xâú hổ quá, không biết nói sao, chỉ biết úp mặt vào lòng mẹ.
Tiểu Long Nữ nghe nói xong, mặt đã đổi sắc, chưa biết nên trả lời ra sao thì Dương Quá đã đứng dậy, bước hướng tới chỗ Quách Tĩnh và Hoàng Dung, vái mỗi người một cái và thưa lớn :
– Công ơn dưỡng dục của Quách bá bá và Quách bá mẫu nặng như non cao, biển cả, con chưa có dịp đền đáp. Con tự thấy gia thế, thân phận mình hèn kém, tài đức còn kém cỏi, phận con không thể nào cùng sánh với Quách tiểu thơ là một trang thiên kim tiểu thư, tài sắc vẹn toàn…
Quách Tĩnh nghe nói hết sức ngỡ ngàng. Lúc đứng ra công bố ý kiến của mình, ông đinh ninh vợ chồng mình tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, con gái mình vừa đẹp, vừa có tài, có thể nói trên thế gian ít người sánh kịp, chỉ cần mở lời ra thì Dương Quá sẽ mừng rỡ nhận lời ngay, đâu có ngờ hôm nay nó đứng ra cự tuyệt như vậy …
Một chặp sau, ông lại nghĩ tiếp :
– Có lẽ nó còn trẻ người non dạ, chỉ từ chối lấy lệ đây chăng ?
Nghĩ vậy, ông cười lớn, an ủi :
– Qua con, gia đình con và gia đình bác nào phải là nơi xa lạ gì mà có điều cách biệt như vậy. Đây là việc trăm năm, không nên lấy làm xấu hổ.
Dương Quá quỳ xuống đập đầu lạy mấy cái rồi thưa tiếp :
– Thưa bá bá, bá bá cũng như cha cháu, muôn sai khiến điều gì, dù là bước qua đao kiếm, nhảy vào lửa đỏ cháu cũng không bao giờ từ nan. Nhưng về việc hôn nhân này thì cháu không thể nào tuân lệnh được !
Quách Tĩnh thấy Dương Quá trịnh trọng làm lễ và thưa rõ ràng quả quyết như vậy thì ngạc nhiên vô cùng, chưa biết giải quyết ra sao, chỉ quay lại nhìn Hoàng Dung để dò ý kiến vợ.
Hoàng Dung nghĩ bực mình vì chồng quá chủ quan và ngay thẳng, không chịu thăm dò ý kiến chúng nó trước khi tuyên bố . Nay ông đã nói trắng ra trước mặt thiên hạ đến nỗi bị nó từ chối, thiệt là mất mặt vô cùng. Bà thấy như đang ngồi trên chông và thầm trách Quách Tĩnh :
– Dù con mình có chửa hoang cũng không đến nông nỗi như ông vậy !
Nhìn lại Tiểu Long Nữ và Dương Qua, bà có cảm nghĩ :
– A, hai đứa này đã có tình ý với nhau, qua mắt ta sao nổi. Bên ngoài bay mượn tiếng thầy trò để rồi bên trong lại làm điều thương luân , bại lý. Nếu là kẻ như vậy thì đâu xứng đáng gì nữa mà còn làm cao hả ?
Theo cổ tục Trung nguyên hồi nhà Tống, quan hệ giữa thầy và trò cũng như cha mẹ và con cái, nếu sinh chuyện bậy bạ thì sẽ bị trừng phạt theo trọng tội loạn luân.
Trong bụng đã bực bội, vừa tức tối, vưa hổ thẹn, Hoàng Dung bèn đỡ lời cho chồng, quay lại hỏi Dương Quá :
– Qua con, Tiểu Long Nữ cô nương có phải là sư phụ của con không ?
Dương Quá lễ phép đáp :
– Thưa bá mẫu, đúng thế !
Hoàng Dung hỏi :
– Vậy là con đã làm lễ bái sư trước khi học chứ ?
Dương Quá ngạc nhiên hỏi lại :
– Chẳng hay vì sao bá mẫu lại hỏi con điều này ?
Miệng thì trả lời, nhưng đôi mắt liếc nhìn Tiểu Long Nữ, cả hai đều trìu mến nhìn nhau, chứng tỏ một niềm yêu thương đậm đà tha thiết.
Không riêng gì Hoàng Dung, mà tất cả mọi ngừoi trong tiệc thảy đều trông thấy và ai ai cũng công nhận mối quan hệ của hai người này quả thật có điều chi mờ ám.
Hoàng Dung bèn quay sang nói với chồng :
– Tỉnh ca, Quách Phù của chúng ta hãy còn nhỏ tuổi, việc hôn nhân không lẽ nào lại làm hấp tấp đến như vậy. Hôm nay là đại hội anh hùng yến, hãy giành thời gian để bàn chuyện quốc gia đại sự, còn chuyện hôn nhân của con , xin hãy gác lại khi khác sẽ nói tới cũng được.
Quách Tĩnh thấy ý kiến của vợ rất hay và ông cũng công nhận không nên nghĩ việc riêng trước công việc chung của đất nước, ông nhìn Tiểu Long Nữ nói :
– Long cô nương, hôm nay chúng ta nên nói chuyện chung về đại cuộc, vấn đề hôn nhân của bọn trẻ thì để khi khác vậy !
Không ngờ Tiểu Long Nữ quá thật thà, nàng lắc đầu nói :
– Tôi đã có ý định làm vợ Dương Quá từ lâu. Có lẽ anh ấy không thể nhận lấy con gái của ngài nữa đâu .
Câu nói tuy bất ngờ nhưng quá rõ ràng ràng mạch, từ trong đến ngoài, từ trên xuống dứoi trong tiệc mọi người đều nghe rõ. Quách Tĩnh có cảm giác như mình đã nghe lầm, vì không khi nào ông ngờ được một chuyện quá lạ lùng và đột ngột như vậy được. Trước mặt mọi người, họ đã công khai âu yếm nhau, tưởng như thế đã quá lắm rồi, đâu ngờ rằng ….
Quách Tĩnh ngượng ngập hỏi lại :
– ủa, nó không phải là học trò của cô sao ?
Tiểu Long Nữ hé miệng cười tươi như hoa anh đào mới nở, nói :
– Anh ấy là học trò của tôi chứ còn ai nữa. Lúc đầu tôi dạy võ công cho anh ấy, và sau này thành tài , võ nghệ anh ấy cũng đã ngang với tôi , lúc bấy giờ tôi có lòng thương anh ấy, trước đây tôi cứ ngờ là ….
Nàng ngập ngừng một lát rồi nói luôn :
– Tôi cứ ngờ là anh ấy không yêu tôi và không muốn nhận tôi làm vợ nên tôi buồn rầu bỏ đi một thời gian khá lâu. Trong thời gian xa cách , cả hai chúng tôi đều thương nhớ tha thiết tới nhau. Bây giờ gặp lại, tôi hiểu anh ấy cũng một lòng yêu thương tôi, vì vậy nên tôi … nên tôi ….
Hàng ngàn cặp mắt trong tiệc đang chăm chú theo dõi, trong đại sảnh không một tiếng người. Ai ai cũng ngạc nhiên khi nghe Tiểu Long Nữ thành tâm thổ lộ tâm tình, và cũng thầm nghĩ :
– Lạ quá, con người trông xinh đẹp như hằng nga, mặt mày lanh lợi như thế mà sao lại chất phác đến thế này cơ chứ ? Dù rằng trai gái yêu nhau thắm thiết là chuyện thường tình trên thế gian không ai tránh khỏi con đường tình ái. Tại sao nàng lại đem đầu đuôi , gốc ngọn , kẽ tóc chân tơ ra khai báo cùng vợ chồng Quách Tĩnh là người không có liên hệ gì với tình yêu của nàng ?
Sở dĩ Tiểu Long Nữ là ngừoi chân thật, hơn nữa, vì chưa bao giờ tiếp xúc, giao thiệp với đời nên nàng không ngần ngại, e dè giữ gìn gì hết. Hôm nay thấy cần nói ra để cho mọi người nghe, hiểu ý mình và cũng nói để Dương Quá biết nên nàng nói chứ không hề câu chấp gì hết.
Dương Quá nghe Tiểu Long Nữ thành thật thổ lộ chân tình thì trong lòng rất cảm động. Chàng liếc mắt nhìn qua mọi người thấy ai ai cũng chú ý nghe nhưng có nhiều người bĩu môi ra vẻ khinh miệt cô nương mình, cho rằng nàng quá thật thà, ngu độn, ăn nói thiếu giữ gìn. Chàng bực mình nghĩ thầm :
– Cô nương ta nghĩ sao nói vậy, đâu có phải tụi gian manh vô loại như các người. Chúng mày chẳng qua là bọn người thấy ăn thì tìm tới, thấy khó thì bỏ đi, hay đâu chúc đó, miệng nói nghĩa nhân nhưng lòng hiểm độc hơn lang sói. Như vậy mà cũng vác xác tới đây để dự Anh hùng yến .
Nghĩ như vậy, chàng chán nản đến nói nhỏ với Tiểu Long Nữ :
– Cô nương, chúng ta đi thôi, ở lại nơi đây có ích gì đâu ?
Tiểu Long Nữ hân hoan nói :
– Phải đấy, chúng ta đi thôi !
Hai người bảo nhau xong rồi cùng len lỏi bước ra đại sảnh .
Thật ra trong số người dự anh hùng yến hôm nay, Tiểu Long Nữ chẳng ngó ngàng tới ai ngoài Dương Quá là người bạn tri kỷ mà thôi.
Thấy hành động quá ư kỳ quặc của hai người, Quách Tĩnh , Hoàng Dung cùng ngó nhau chứ không biết nói gì cả. Thật ra từ xưa tới nay, hai người chưa bao giờ chứng kiến cảnh nào ương gàn kỳ cục như vậy cả. Thật không ngờ lại có những hành động quái dị như thế !
Hoàng Dung cất tiếng nói theo :
– Long cô nương, hiện nay cô nương đang là Võ lâm minh chủ, bao nhiêu anh hùng trong thiên hạ đều trông chờ vào cô nương, tại sao lại bỏ đi một cách quá ư đột ngột như vậy ? Xin cô nương hãy suy nghĩ lại, đừng để phụ lòng các anh hùng hào kiệt nơi đây !
Tiểu Long Nữ quay đầu lại nhìn Hoàng Dung cười nói :
– Xưa nay tôi không thích danh tước chức vị gì đâu. Minh chủ với cả Minh tớ, đối với tôi không có gì quan hệ hết, xin chớ dây dưa tới tôi làm chi. Nếu phu nhân muốn, tôi xin nhường lại liền.
Hoàng Dung đáp :
– Không được đâu. Nếu cô nương không muốn thì xin nhường lại cho Hồng Thất Công lão tiền bối, vì người mới xứng đáng với chức vị này.
Tiểu Long Nữ lắc đầu nói :
– Xin bà tuỳ tiện thu xếp thế nào được thì thôi, chứ tôi chẳng biết gì hết đâu !
Nói xong, nàng dắt tay Dương Quá rảo bước ra ngoài rồi chạy như bay biến mất.
Ngay lúc đó, một bóng đen thoáng qua vù vù, một người đã phi thân xông tới cản lộ.
Dương Quá nhìn lại biết kẻ đó là Triệu Chí Kính, đạo sĩ của Toàn Chân giáo. Chàng chưa kịp hỏi gì thì Triệu Chí Kính đã mắng lớn :
– Dương Quá súc sinh, mày là đứa bỏ tổ phản tông, đâu phải là hạng người đáng sống trên thế gian này nữa. Hôm nay mày lại công khai làm chuyện loạn luân như loài cầm thú, bêu xấu giữa võ lâm, ta không thể nào tha thứ cho mày được nữa !
Dương Quá không muốn gây chuyện lôi thôi cùng hắn tại chốn này nên cố dằn tâm bảo :
– Hãy tránh đường cho ta đi !
Triệu Chí Kính trợn mắt quát lớn :
– Đi đâu được , hãy nghe đây. Này Doãn sư đệ, sư đệ hãy lên đây kể lại câu chuyện chúng mình bất ngờ gặp hai đứa nó trần truồng trên núi Chung Nam, đã trần truồng ăn nằm với nhau như thế nào, hãy kể lại cho mọi người cùng biết !
Doãn Chí Bình đứng dậy giơ bàn tay trái lên .
Mọi ngưòi để ý nhìn thấy cả ngón tay út và ngón tay vô dang của Doãn Chí Bình đã bị chặt cụt mất rồi, mà mặt mày y tái mét đang đứng lặng thinh run run nên chẳng ai hiểu gì hết. Người nào người nấy cũng nghĩ bụng :
– Trong việc này thế nào cũng có điều chi kỳ bí đây !
Nguyên trước đây tại Chung Nam Sơn, Tiểu Long Nữ và Dương Quá thoát y luyện Ngọc Nữ tâm kinh trong bụi hoa hồng, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình tình cờ đến ngay lúc ấy. Dương Quá đã buộc Triệu Chí Kính phải tuyên thệ giữ kín chuyện này mới tha chết cho hắn. Không ngờ hôm nay tại chốn đông đảo quần hùng thiên hạ này, hắn lại đem câu chuyện này nói toẹt ra, lại thêm điều vu khống để làm nhục hai người. Dương Quá giận quá,quát lớn :
– Mi đã cam đoan thề không bao giờ nói chuyện này cho kẻ thứ năm biết, tại sao hôm nay lại nuốt lời như vậy hả ?
Triệu Chí Kính cười lớn đáp :
– Ta đâu có quên lời thề cũ. Mi cũng nhớ ta cam đoan không đem chuyện này nói lại với người thứ năm biết . Nhưng hôm nay, trước mặt quần hùng thiên hạ, hàng trăm hàng ngàn người là một vấn đề khác hẳn đi rồi. Ta đâu có nói với người thứ năm, mà nói với hàng ngàn người cơ mà. Hơn nữa bọn bay đã làm bậy thì bọn ta có quyền bảy tỏ trước mọi người chứ !
Sự thật và câu chuyện mà Triệu Chí Kính vạch ra đêm nay hoàn toàn khác xa nhau. Đêm đó, Triệu Chí Kính gặp hai người loã thể nấp mỗi người một nơi trong rừng hoa hồng để luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh, một môn võ công thượng thừa trong Cổ Mộ phái. Chính y đã thừa rõ việc này. Hôm nay, Triệu Chí Kính cố tình nói qua lối khác không ngoài mục đích hạ nhục và chôn vùi danh dự của Dương Quá và Tiểu Long Nữ .
Tiểu Long Nữ bỗng nghĩ lại đêm nào bản thân mình đã bị một người nào đó làm điều ô nhục, không biết có phải là Dương Quá hay không, khiến nàng tức giận đến trảo cả máu miệng. Hôm nay, chính miệng hắn lại thêu dệt để nói xấu mình trước mặt quần hùng nữa thì trong lòng ức quá, không dằn tâm được chỉ thẳng vào mặt hắn nói lớn :
– Mi còn dám mở mồm nói chuyện bậy bạ nữa hay sao ?
Miệng thì nói, nhưng nàng vận nội công vào ngón tay, điểm vào huyệt theo thuật điểm huyệt trong Ngọc Nữ Tâm Kinh , phát ra vô hình vô tích, nhưng hiệu nghiệm vô cùng.
Triệu Chí Kính cảm thấy nguy cơ vội đưa tay ra đỡ gạt nhưng không thể được, bị điểm ngay vào huyệt đạo nơi bả vai.
Lúc đầu chưa thấy đau đớn chi, y xem thường, cười nhạt khinh khỉnh nói :
– Cô này định làm gì đấy ? Hay lại muốn giở trò bậy bạ như cái đêm nào trên Chung Nam sơn nữa sao ? Ta …
Nhưng hắn chưa thốt hết câu thì bỗng đôi mắt trợn ngược, té sấp trên mặt đất, nằm giãy tê tê.
Triệu Chí Kính đã bị trọng thương rồi.
Tôn Bất Nhị và Hách Đại Thông thấy sư điệt bị trọng thương vội vàng đỡ dậy.
Triệu Chí Kính đôi mắt nhắm nghiền, mồm hộc máu tươi đầy đất. Toàn thân lả đi như người say rượu.
Tôn Bất Nhị cười gằn nói :
– Phái Cổ Mộ muốn gấy hấn cùng Toàn Chân giáo hay chăng ?
Nói xong, bà ta tuốt kiếm ra định xông tới đánh với Tiểu Long Nữ .
Quách Tĩnh từ trên đại sảnh lao vút xuống đứng giữa can ngăn :
– Chúng ta thường dặn nhau, anh em cùng trong nhà không nên đánh nhau. Cớ sao hôm nay quý vị lại hành động như vậy ?
Nói xong, ông nhìn Dương Quá nói :
– Qua con, cả hai đều là tôn sư con cả, con nên mời cả hai vị vào bên trong bàn chuyện ổn thoả với nhau đi.
Tiểu Long Nữ từ nhỏ tới lớn sống trong Cổ Mộ với một nếp sống hồn nhiên mộc mạc, không bao giờ động chạm đến bên ngoài nên ít khi nếm phải các thủ đoạn điêu ngoa quỷ quyệt của người đời. Nay gặp liên tiếp mấy chuyện, trong lòng nàng chán ngán quá, không chịu nổi nữa. Nàng quay sang bảo Dương Quá :
– Qua nhi, chúng ta nên đi cho khuất mắt để khỏi phải nhìn thấy bọn đểu giả này nữa !
Dương Quá gật đầu, nắm tay nàng cùng bước đi ra ngõ.
Tôn Bất Nhị vung trường kiếm thét lớn :
– Chúng bay đánh người bị trọng thương rồi, định vứt lại đây để chạy trốn chăng ?
Thấy hai bên lại xô xát, Quách Tĩnh nghiêm giọng dằn từng tiếng một bảo Dương Quá :
– Qua con, nếu con biết điều thì nên ở lại giải quyết cho ổn thoả. Nếu không, ta không còn nể tình nữa đâu. Con có biết tại sao tên con lại đặt là “Qua”không ? Luôn tiện ta cũng giải thích cho mà biết. Chữ “Qua” tức là “Quá” gọi theo lối miền bắc đấy ! Quá có nghĩa là “Lỗi”, con đã hiểu rõ căn nguyên chưa ?
Nghe nói tới đây, trong lòng Dương Quá thấy sôi lên một niềm uất hận. Chàng thầm nhớ lại cuộc sống điêu linh phiêu bạt từ ngày còn bé. Chưa bao nhiêu tuổi đầu đã nếm mùi khổ đau đắng cay . Bây giờ Quách Tĩnh giải thích khiến chàng thầm nghĩ :
– Ông ta muốn đưa tên ta ra giải thích lúc này chắc là để làm nhục ta đây ! Ta cố dò xét xem sự thật ra sao rồi sẽ tuỳ cơ ứng biến !
Nghĩ vậy, chàng dừng lại để nói chuyện cùng Quách Tĩnh và trong thâm tâm muốn nhân dịp này để tìm ra nguồn gốc của song thân mình và tìm ra nguyên nhân cái chết của cha chàng khi trước. Suốt thời gian qua chàng vẫn cố tâm tìm hiểu, nhưng sự việc vẫn bị bao phủ trong màn đen bí mật…
Hồi 38
TRÊN ĐƯỜNG VỀ GẶP LẠI KIM LUÂN PHÁP VƯƠNG
Quách Tĩnh lúc nào cũng xem Dương Quá như con cháu trong nhà. Khi thấy chàng trổ tài trước mặt quần hùng vì nghĩa lớn thì oong thương yêu chàng như con ruột của mình.
Cũng do tình thương ấy mà ông không ngần ngại tỏ ý định gả Quách Phù cho chàng để thực hiện theo phương châm “Dâu hiền hơn gái, rể thảo hơn trai ” . Không ngờ Dương Quá lại gạt đi và nguyên nhân sự từ chối này lại xuất phát từ một hành động loạn luân giữa hai thầy trò nam nữ. Vì vậy ,ông nhắc lại chuyện cũ, nghiêm giọng quở trách :
– Sở dĩ trước khi mẹ con từ trần, người có nói lại cho ta chuyện này nên ta mới hiểu chữ “Qua” tức là “Quá” như ta đã nói.
Dương Quá nhớ lại lờ mờ trong ký ức, ngày mình còn thơ ấu, thỉnh thoảng mẫu thân cũng có nêu lại câu chuyện này nhưng khi ấy còn nhỏ tuổi quá, ngây thơ, chỉ nghe thoáng qua rồi quên mất chứ không hiểu được rành mạch
Nghĩ vậy, chàng ngước mắt lên nhìn Quách Tĩnh nói :
– Thưa Quách bá phụ, hay là bây giờ gọi bằng cách khác được không ?
Quách Tĩnh nói :
– Qua con, tên của con là do mẹ con đích thân đặt cho, không thể gọi khác được. Hơn nữa, nó cũng sẽ thường xuyên nhắc nhở con không nên gặp phải những sai lầm đáng tiếc trong cuộc đời đó !
Dương Quá nổi tức không dằn được nữa, cãi lại :
– Như thế thì Quách bá bá cho rằng một khi người ta có lỗi thì không bao giờ có thể sửa chữa được hay sao ?
Quách Tĩnh đổi giọng ôn tồn, hoà nhã nói :
– Qua con, con người ta trong đời ai tránh được mắc phải lỗi lầm. Khi có lỗi mà biết sửa đồi thì còn gì quý hoá bằng. Xưa nay thánh hiền vẫn khuyên chúng ta có từng ấy mà thôi. Con đã hiểu như vậy, tạo sao đối với sư phụ lại không tôn trọng, còn giở những trò hèn hạ như thế ?
Dương Quá cãi lại :
– Con có lỗi, con tự khắc sẽ sửa, có chuyện gì liên quan tới y ?
Chàng trỏ tay vào Triệu Chí Kính và nói tiếp :
– Chính hắn đã đánh đập hành hạ tôi đủ điều, làm sao tôi có thể nhận hắn làm thầy được ? Còn đối với cô nương tôi, trên biết thương dưới, chúng tôi đối xử với nhau quang minh chính đại, không điều gì trái với lương tâm, có Trời cao soi xét. Tôi hết lòng kính mến yêu thương cô nương tôi, như thế có gì gọi là lỗi lầm đâu ?
Dương Quá biện luận từ lời nói sang sảng rành mạch, nghe qua rất có lý. Quách Tĩnh không biết nói gì hơn để bắt bẻ nữa. Hơn nữa, ông vốn là người chất phác, không ưa mồm mép thì làm sao cãi lại được với Dương Qua. Huống chi việc bất chính của chàng và Tiểu Long Nữ cũng chưa có gì chứng minh rành mạch để đưa ra buộc tội chàng được.
Hoàng Dung bước lại gần nhẹ nhàng nói dỗ dành :
– Qua con, hai bác vì thương yêu cháu nên mới có lời khuyên can, con nên hiểu rõ điều đó nhé !
Nghe Hoàng Dung nói lời lẽ dịu dàng, mềm mỏng, đối xử với mình, Dương Quá thấy cõi lòng xao xuyến, cảm động, thấp giọng nói :
– Quách bá bá rất tốt đối với cháu, cháu biết rõ điều này chứ !
Nói tới đây, chàng xúc động quá, nước mắt trào ra dàn giụa.
Hoàng Dung lại ôn tồn an ủi thêm :
– Bác thương cháu nên muốn đưa điều hơn thiệt, lẽ phải trái để bày tỏ cùng cháu. Cháu không nên hiểu lầm bác, tội nghiệp nghe !
Thấy Dương Quá lặng thinh không nói gì, bà ôn tồn nói thêm :
– Thế ra cháu vẫn không nhận thấy lỗi lầm của mình hay sao. Chẳng lẽ bác lại đi vu khống cho cháu à ?
Nghe tới đây, Dương Quá thấy bực trong lòng, suy nghĩ :
– Ông bà có lòng tốt với tôi, lẽ dĩ nhiên là tôi phải đáp lại bằng hành động biết ơn, nhưng ép tôi làm một chuyện khác thì không khi nào tôi cam chịu đâu !
Nghĩ vậy, chàng căm tức đứng mím môi lặng thinh không nói nữa.
Hoàng Dung bèn nói thẳng ra :
– Được lắm, cháu đã muốn nói thẳng thì bác cũng nói luôn ra đây. Nghe xong, cháu đừng có loanh quanh chối cãi nữa nhé ! Long cô nương đây là bậc tôn sư của cháu, cháu phải xem người như bậc cha mẹ, tại sao lại có tư tình nam nữ, như vậy xem sao được ?
Thật ra trong khuôn khổ lễ nghi thì Tiểu Long Nữ chưa hiểu rõ ràng về quy tắc “thầy, trò” cho lắm, chỉ biết một cách mờ mịt mà thôi. Còn Dương Quá thì đâu phải ngu đần gì mà không hiểu được vấn đề này. Tuy nhiên, chàng thường nghĩ rằng :
– Cô nương dạy ta võ công, ta cần phải kính trọng người như dạy chữ nghĩa văn chương, vì dù sao một chữ cũng là thầy, một đường võ cũng là thầy, đời nào ta có mơ ước đi lấy nàng làm vợ. Ta tự xét lại hành động của mình xưa nay chưa bao giờ có điều chi vượt ngoài vòng lễ giáo, quá nghĩa thầy trò cả. Không hiểu tại sao những người này cứ nằng nặc buộc cho ta cái tội loạn luân đến như vậy ? Ta không làm bậy mà họ cũng không tin, cứ gán cho ta là kẻ phạm lỗi, biết tính sao đây. Thôi, họ đã gán như vậy thì ta cứ nhận bừa cho xong, khỏi phải tranh luận lôi thôi. Lòng ta tự biết việc của ta làm, và có trời đất soi xét lòng ta là đủ lắm rồi !
Nghĩ xong, chàng quả quyết đáp :
– Long cô nương chỉ dạy võ công chứ không dạy sách vở văn chương, có luật lệ nào cấm tôi lấy nàng làm vợ ? Hai bác có kề gươm vào cổ thì tôi vẫn công nhận Long cô nương là vợ của tôi mà thôi !
Câu trả lời đột ngột của Dương Quá khiến cho bao nhiêu người nghe thảy đều kinh ngạc, ai ai cũng nhìn nhau, chép miệng lắc đầu, không nói gì hết.
Cũng có những người lớn tuổi đạo mạo than rằng :
– Nước nhà đã đến hồi suy nhược, bị quân Mông Cổ xâm lăng gần hết, vỏn vẹn chỉ còn một giải đất miền Nam này, nay lai thêm chuyện gái trai bậy bạ,thầy trò loạn luân như thế này thì còn mong gì cất đầu lên được, khôi phục lại mảnh đất thân yêu miền Bắc đang nằm trong tay địch. Có thể rồi đây miếng đất nhỏ phương Nam này cũng sẽ lọt vào tay chúng. Thế hệ thanh niên chỉ mải mê câu chuyện tửu sắc vô luân thì còn ai chịu hy sinh tính toán điều đại sự cho nước nhà . Trai như thế, gái như thế, hễ quân Mông Cổ đem chút vàng bạc, vinh hoa ra nhử, thì dù cho có quật mồ ông cha lên để nộp cho chúng, họ cũng chẳng từ nan!
Xưa nay Quách Tĩnh vốn trọng chữ luân lý, kính mến sư phụ như cha mình . Nay thấy Dương Quá mở miệng thốt lên những lời nói vô luân, đồi phong bại tục, thì máu giận nổi lên đùng đùng. Ông muốn nắm cổ Dương Quá và Tiểu Long Nữ quăng phứt ra ngoài cửa sổ như một con vật đáng kinh tởm để khỏi làm bẩn mắt mọi ngừoi.
Tiểu Long Nữ hoảng sợ, muốn phi thân lánh trốn nhưng không kịp nữa, Quách Tĩnh đã túm được tóc nàng quăng luôn ra cách đó mấy trượng . Đoạn ông quay lại phía Dương Quá điểm ngay vào huyệt “Thiên Đột” rồi mắng rằng :
– Thằng súc sinh, thật ta không ngờ mày lại mở miệng thốt ra những lời vô luân thối tha như vậy !
Dương Quá bị điểm huyệt, hơi sức không còn nữa , nhưng vẫn cố cãi :
– Cô ấy yêu tôi, tôi yêu lại là chuyện thường , có hại tới ai đâu. Quách bá phụ muốn giết thì cứ giết chứ cháu không thể nào thay đổi ý kiến được đâu !
Quách Tĩnh trợn mắt hét lớn :
– Nếu mày mà là con đẻ của ta thì ta đã bóp cổ chết từ lâu rồi chứ không để nói tới giờ này nữa đâu !
Dương Quá vẫn gượng nói cố :
– Tôi cũng xét là không có lỗi gì hết. Vì tôi không hại ai, cũng không can hệ đến công việc của một người nào khác thì chuyện gì lại bắt tội tôi.
Những lời này thốt ra từ miệng Dương Quá nghe rang rảng, tất cả anh hùng đều nghe rõ mồn một. Có lắm người xúm lại bàn tán riêng :
– Cặp trai gái này yêu thương nhau như vậy, tại sao lại không tìm một nơi hoang vu xa lạ, non nước xa xôi để cùng nhau kết tóc hưởng trọn hạnh phúc , lại dẫn thân chi đến những chốn này để cho thiên hạ cười chê, đạo lý buộc tội ?
Nghe Dương Quá nói như vậy, Quách Tĩnh đưa chưởng lên cao thét lớn :
– Dương Quá , mày cũng đã biết thừa tính ta rồi. Thà ta giết mày còn hơn là để mày nói và làm những điều tồi bại như vậy. Mày nghĩ sao ?
Dương Quá thầm nghĩ, nếu không thận trọng lời nói trong lúc này thì mất mạng như chơi. Thường nhật, chàng là một người giảo hoạt tráo trở vô cùng, nhưng không hiểu sao lúc này lại nảy sinh gàn bướng. Mặc dù biết như vậy nhưng vẫn nói càn :
– Tôi tự xét lương tâm không làm diều chi có lỗi. Còn bá bá muốn giết hay muốn tha thì tuỳ lượng bá bá !
Quách Tĩnh không dằn được nữa, đưa tay phải lên cao , vận chưởng lực định đập vào thiên linh cái Dương Quá cho rồi .
Quần hùng đứng xung quanh thảy đều thất kinh, ai ai cũng đinh ninh là thế nào Dương Quá cũng bị đập vỡ sọ mà chết. Lắm người không nỡ nhìn, nhắm tịt mắt lại.
Khi đinh đánh xuống, Quách Tĩnh nhìn vào mặt Dương Qua, thấy chàng mím môi nhắm mắt cam tâm chịu đòn, giống hệt nghĩa đệ mình Dương Khang ngày nào như tạc thì ông bỗng thở dài không đành dạ, rút tay lại ,thở dài bảo :
– Dương Quá con hãy suy xét hành động như vậy có đáng mặt nam nhi hay không ?
Nói xong, ông buồn buồn bước về bàn tiệc , ngồi lặng thinh không nói gì nữa.
Tiểu Long Nữ đứng ngoài vẫy tay gọi Dương Quá :
– Qua nhi, thôi chúng ta đi cho rồi . Không hơi đâu lý luận mãi với mấy ông già ngang như cua ấy được .
Dương Quá nghe nàng bảo, thấy chữ ngang như cua của Tiểu Long Nữ diễn tả rất hợp ý mình , bèn lồm cồm bò dậy, nắm tay nàng cũng đi về phía trang viện, tìm con ngựa ốm đang ăn cỏ gần đâu đó rồi cả hai cũng nhảy lên cưỡi.
Toàn thể anh hùng cùng đưa mắt nhìn theo , kẻ phục tài, người khinh bỉ, có kẻ thì xuýt xoa thương hại, mỗi người suy nghĩ và nhận xét theo một cách khác nhau.
Ngựa chạy gập ghềnh được một quãng xa thì trời vừa tối. Dương Qua, Tiểu Long Nữ cùng bước xuống đi bộ dắt ngựa theo sau vì đường xá vừa đen tối, vừa gập ghềnh khó đi. Nhờ công phu luyện tập nhiều,cả hai đều có cặp mắt nhìn trong đêm tối rõ như ban ngày cho nên bước đi cũng không có khó khắn vất vả mấy. Cả hai sánh vai nhau cùng nhẹ bước trên con đường đá sạn, không nói một lời, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Kể từ khi gặp được nhau, chưa chuyện trò được mấy chốc đã phải đánh nhau, có khi gần mất mạng. Hết đánh nhau thì lại tới hổi tranh luận gay go, ai cũng đè ép mình làm nên tội lỗi. Trong thời gian rất ngắn mà đã tiếp xúc không biết bao nhiêu là hạng người, vương tôn công tử có, cao tăng đạo sĩ có, anh hùng hào kiệt có, chúa ăn mày và bọn hành khất ,… thành phần nào cũng có. Thế nhưng không có kẻ nào thành thực và trung tín cho đúng cái ý nghĩa của nó. Họ chỉ bám lấy cái hư danh bên ngoài để vơ lấy danh lợi, và rốt cuộc ai ai cũng dối mình, khách sáo để dối cả đời. Trong xã hội không thấy gì tinh tuý mà chỉ toàn là cảnh trái tai gai mắt, quả đúng với hai chữ “tục luỵ” không sai !
Suy nghĩ miên man, không bao lâu hai người đã đi tới một gốc cây tùng khá lớn . Cả hai cùng ngồi lại nghỉ chân, thả cho con ngựa đi lại tự do gặm cỏ .
Gió đêm thổi nhè nhẹ xung quanh tĩnh mịch không một bóng người , chẳng một tiếng động . Vì mỏi mệt,cả hai cùng tựa vào gốc tùng ngủ quên lúc nào không biết.
Bỗng tiếng ngựa hý vang rân, hai người chợt tỉnh giấc thì vầng thái dương đã lên cao lắm rồi.
Hai người cũng nhìn nhau mỉm cười. Qua một đêm ngủ ngon giữa chốn núi rừng hoang vu thanh tịnh, không vướng mùi tục luỵ, không mảy may lo chuyện đời, cả hai cùng cảm thấy trong tâm hồn thư thái , chẳng còn tý buồn lo .
Dương Quá hỏi :
– Cô nương, bây giờ chúng ta nên đi về đâu ?
Tiểu Long Nữ trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi ngước mắt lên đáp :
– Thôi , chúng ta hãy về Cổ Mộ trước đã.
Sở dĩ nàng bảo thế là vì nàng đã đắn đo suy nghĩ kỹ.
Kể từ lúc hạ sơn , đặt gót chân qua không biết bao nhiêu làng mạc thị trấn mà người ta gọi là chốn phồn hoa đô hội, nhưng đâu đâu cũng chỉ gặp những chuyện bận tâm buồn phiền, không chỗ nào thanh cao như như Cổ Mộ.
Nàng tự nghĩ :
– Gọi là chốn phồn hoa đô hội nhưng tại sao có những người quá giàu sang phú quý, món ngon vật lạ bỏ đi không hết, nhưng trái lại có những người đầu tắt mặt tối mà vẫn không có bữa cháo no lòng. Có kẻ mập mập như trâu trương, một bước ra đường là võng kiệu, kẻ hầu người hạ, có người thì ốm tong chỉ còn bộ xương bọc da, không đủ miếng cơm manh áo.Cùng sinh ra con người, xã hội lại đặt ra những điều quy định trói buộc người hèn hạ ngu dại, suốt đời chỉ đóng vai trò nô bộc nuôi thân. CHi bằng hãy trở lại Cổ Mộ, tháng ngày tiêu dao với rừng núi , ung dung tự tại, khỏi phải đụng chạm với những gì rắc rối phiền toái ở đời !
Nghĩ lại nhà Tống,từ khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn sáng nghiệp, được đức Thế Tông nhà Chu truyền ngôi, đã trải qua cả thảy chín đời nối nghiệp,tính đến nay đã được đến một trăm sáu mười lăm năm, suốt thời gian ấy, biết bao nhiêu là kẻ hưởng ơn vua, lộc nước , mũ cao áo dài, thế mà từ khi Mông Cổ xâm chiếm hết một nửa giang sơn gấm vóc , nào có kẻ nào đứng lên dựng cờ kháng Mông đương nhiên chống lại giặc ? Nếu có chăng, chỉ có một vài môn phái mượn danh Tống chống Mông, thống nhất san hà, để lập nên môn nọ phái kia, ăn trên ngồi trước. Ngay như Quách Tĩnh xưng là đại hiệp, Hoàng Dung là chúa ăn mày, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có công nghiệp thực tế gì với núi sông.
Dương Quá thấy Tiểu Long Nữ trầm ngâm lo lắng thì đoán rằng :
– Có lẽ cô nương mình muốn trở về sống lại với cảnh đời thiên nhiên trong sạch, lánh xa thế tục con người, để khỏi trông thấy những chuyện trái tai gai mắt cười gượng khóc thầm của nhân thế.
Nghĩ thế rồi, chàng tự nhủ :
– Còn riêng ta, cũng không mong gì hơn là được sống mãn đời trong Cổ Mộ với con người thực dạ yêu ta. Từ khi ta rời Cổ Mộ dấn thân vào cuộc đời chỉ gặp toàn những chuyện giả dối và ngán nhất là những lý thuyết cổ điển về những luân lý lỗi thời và câu chấp, luôn ràng buộc con người một cách vô lý và bất công.
Lòng nghĩ mông lung, nhưng chân vẫn bước đi đều đều. Cả hai đi bộ một chặp rồi cùng lên ngựa cho sải nước kiệu chạy về hướng Bắc.
Trên đường đi xa, hai người mải chuyện trò, nhắc lại những chuyện vui trong dĩ vãng hoặc kể lại những mẩu chuyện trong lúc xa nhau, nhớ nhung và gặp lại nhau.
Trong hành trình chỉ có hai người và con ngựa, trên có trời, dưới có đất, nhưng hai người vẫn xưng hô theo đúng lễ phép, nghĩa là lúc nào Dương Quá cũng gọi Tiểu Long Nữ là cô nương, mà Tiểu Long Nữ vẫn gọi Dương Quá là Qua nhi hay anh Qua chứ không bao giờ dùng danh từ nào khác nữa.
Đi mãi, mặt trời đã đứng bóng. Hai người bắt đầu bàn lại về võ công của thầy trò Kim Luân Pháp Vương.
Khi bàn tới thầy trò Kim Luân Pháp Vương, cả hai người trầm trồ khen ngợi ông ta đã đạt tới cảnh giới “siêu quần tuyệt luân” , trên thiên hạ không ai sánh kịp.
Trong khi đang chuyện trò, Tiểu Long Nữ bỗng nhớ lại một chuyện rồi vội kêu với Dương Quá :
– Qua này, chương cuối cùng của Ngọc Nữ Tâm Kinh còn một đoạn cuối cùng đã lâu quá chúng mình không luyện tập rồi, bây giờ Qua còn nhớ không ?
Dương Quá đáp :
– Cũng còn nhớ, nhưng mấy lúc nay tôi tập chỗ ấy có vẻ hững hờ sao ấy, không thấy hứng thú tí nào cả. Hay là vì chỉ tập một mình nên buồn tẻ như vậy chăng ?
Tiểu Long Nữ nói :
– Chính ta cũng không nhớ hết được. Nhưng hôm qua khi chiến đấu cùng lão đạo cô đó mấy đường, thấy kiếm pháp của bà ta , đối chiếu lại mới thấy phần luyện tập của mình có chỗ không đúng lắm !
Dương Quá sốt sắng hỏi :
– A, phải rồi, hôm qua thấy lão bà Tôn Bất Nhị múa mấy đường kiếm pháp giống như đoạn cuối trong Ngọc Nữ Tâm Kinh.Họ là ngưòi của Toàn Chân giáo mà còn thạo biết mấy ngón này, huống chi là mình lại không lo luyện cho chu đáo .
Nguyên trước kia sư tổ của phái Cổ Mộ là Lâm Triều Anh đối với Vương Trùng Dương giáo chủ Toàn Chân giáo có một mối tình rất tha thiết. Trong khi sống trong Cổ Mộ, soạn ra Ngọc Nữ Tâm Kinh , Lâm Triều Anh luôn luôn tưởng nhớ tới Vương Trùng Dương, vì vậy cho nên trong đoạn chót của thiên võ công này, bà có sáng chế ra một đoạn “song vũ”, nghĩa là một trai một gái cùng nhau song đấu. Trong khi ấy, bà vẫn nuôi hy vọng sau này hai ngưòi kết hợp thành vợ chồng sẽ cùng tập pho võ công này để sát cánh cùng nhau chống lại bao nhiêu tay võ công kỳ tài trong thiên hạ . Vì vậy nên chương này gồm có tất cả các thế võ cao siêu nhất của Trùng Dương Cung , pha trộn với những đường gươm bí truyền trong Ngọc Nữ Tâm Kinh. Cứ hai người cùng nhau sát vai chiến đấu thì một người đánh một người đỡ, phối hợp cả thế thủ lẫn thế công , khiến cho địch thủ dù tài ba đến đâu cũng không tài nào chống lại nổi.
Ngay sau đó, Dương Quá và Tiểu Long Nữ mỗi ngưòi bẻ một nhánh đào cùng nhau luyện lối đánh “song vũ” . Tiểu Long Nữ đánh theo Ngọc Nữ Tâm Kinh, còn Dương Quá đánh theo kiếm pháp Toàn Chân giáo.
Nhưng lạ một điều là hai người đánh võ có vẻ quá rời rạc, không ăn khớp vào đâu hết.
Tiểu Long Nữ nói :
– Có lẽ chúng ta đã quên lý thuyết nên tập không thấy hào hứng chút nào cả. Để lúc trở về Cổ Mộ xem lại các bài khắc trên vách đá để học cho thật thuần rồi mới cùng múa xem sao!
Dương Quá chưa kịp đáp, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập. Một con ngựa phi vút tới nơi rồi thoáng một cái đã bay vút qua rất lẹ ….
Đó là một con ngựa màu lông đỏ như máu, trên lưng, một nữ lang cỡi mặc y phục cũng màu hồng. Vừa trông thoáng qua cả người và ngựa đã biến dạng trong đám cát bụi mù mịt đàng xa như một ánh lửa đỏ đang tắt dần trên không.
Dương Quá nghĩ bụng:
– Con thần mã này chính là Tiểu-Hồng mã của Hoàng-Dung đây rồi.
Vì không muốn gặp lại vợ chồng Quách-Tỉnh và những người trong gia đình của ông ta nên Dương Quá bèn bàn cùng Tiểu-Long-Nữ:
– Con ngựa hồng vừa rồi chính là bảo câu tiểu hồng mã của Hoàng-Dung. Không hiểu tại sao có người cỡi tới chốn này, hay là để tìm kiếm bọn mình chăng? Tốt hơn là chúng mình tìm cách lánh mặt để khỏi phải gặp họ. Cô nương có bằng lòng chăng?
Lúc bấy giờ Tiểu-Long-Nữ chỉ đóng vai thầy dạy võ nghệ còn bao nhiêu việc khác đều do theo ý kiến của Dương Quá cả. Vì vậy nên đề nghị này được nàng tán thành ngay. Cả hai dẹp ngay chuyện luyện kiếm đi xuyên vào rừng rậm để tránh mặt những người trong gia đình Quách, Hoàng có thể đuổi theo tìm kiếm.
Hai người đang vẩn vơ giữa rừng xanh, bỗng nghe văng vẳng có tiếng chuông thu không của một ngôi chùa nào gần đây.
Tiểu-Long-Nữ mừng rỡ nói:
– May quá, phía đàng kia có tiếng chuông chùa, chắc đêm nay chúng ta khỏi nằm rừng rồi đấy. Vậy nên tìm lẹ lên kẻo trời sắp tối rồi.
Dương Quá cười nói:
– Cô chán cảnh phồn hoa rộn rịp, muốn ẩn thân vào chốn cô tịch hoang vu, há lại ngại chuyện ngủ rừng nằm núi hay sao?
Tiểu-Long-Nữ nói:
– Rừng núi là chốn dung thân của cọp beo rắn rết. chúng mình không nên tranh chỗ với chúng làm gì. Ngoài ra chúng ta cũng không nên khiến cho chúng nghi kỵ rằng mình là bọn thợ rừng săn bắn phá hại bọn chúng.
Dương Quá lại cười dòn hơn:
– Nếu vậy thì chùa là nơi trú ngụ của các nhà sư, chúng mình cũng không nên làm bận rộn làm gì. Mình không nên làm mất cảnh thanh tịch của Phật đường, huống chi sự hiện diện của Cô nương có thể khiến cho một vài vị sư kém đường tu nghĩ tới chuyện phá giới, hoặc biết đâu cũng có vài vị ni cô, vì Dương Quá này mà để tóc trở về trần tục.
Tiểu-Long-Nữ thấy ý kiến này cũng ngồ ngộ nên cười xòa rồi hỏi:
– Thế ra cậu muốn ngủ rừng hay sao? Ngủ rừng có thú vị chi mà ao ước. Mà hễ ao ước thì có ngay chứ có khó chi đâu. Bọn chúng ta đang đứng tại trung tâm rừng già đây mà. Hèn chi mấy ông sư Tây-Tạng thảy đều ngán cậu là tay láu cá thật quả không sai.
Cô nương quả thật Mán rừng về thành thị, nên chả hiểu gì hết thảy. Đố cô nương có đoán được vì sao tôi đề nghị ngủ rừng đêm nay không?
Tiểu-Long-Nữ nói:
– Có lẽ cậu muốn tìm một vài cặp nhung nai hay phô trương tài bắn cọp chứ gì?
Dương Quá cười nói:
– Không đúng rồi. Nếu Cô nương đáp được, em nguyện cõng Cô nương từ đây về tận Cổ mộ, dù phải đi hàng tháng hay hàng tuần cũng không bao giờ than thở.
Tiểu-Long-Nữ nói:
– Chịu thôi ai mà đoán được thâm tâm của anh chàng láu cá!
Dương Quá cũng cười lớn nói đùa lại;
– Người ta láu cá còn hơn những kẻ hay hờn mát và nhõng nhẽo.
Tiểu-Long-Nữ nói:
– Người ta hay hờn mát là bản chất của người ta. Còn nhõng nhẽo cũng là quyền tự do của con người, biết vậy sao còn đi tìm người ta làm gì? Này, hãy coi chừng đàng này vẫn còn uy quyền của một vị sư phụ, nghĩa là lúc cần có thể dùng roi để dạy chú học trò vô lễ đây nhé.
Dương Quá nói:
– Làm thầy cũng sướng thiệt, đối với học trò có thể sử dụng được hai quyền.
Tiểu-Long-Nữ đỏ mặt hỏi:
– Quyền chi vậy, kể ta nghe thử xem chú láu cá?
Dương Quá cười cười đáp:
– Cô nương chịu nhận tôi là Sư phụ thì tôi mới giải thích.
Tiểu-Long-Nữ nói:
– Sao lại đòi làm sư-phụ? Người bắt bẻ những cái sai của mình mà lại đòi làm sư phụ.
Dương Quá đáp:
– Cô nương há quên câu “nhất tự vi sự” rồi sao? Thánh nhân còn công nhận nguyên tắc một chức cũng thầy, nửa chữ cũng thầy, huống chi tôi dạy cho Cô nương thêm được một lẽ khôn ngoan ở đời, lại không đáng gọi là thầy hay sao?
Tiểu-Long-Nữ gật đầu nói:
– ừ, thôi giảng đi, nếu xuôi nghĩa ta nhận là sư phụ, nếu không xuôi sẽ bị phạt đấy nhé. Làm thầy có hai quyền gì mà vinh hạnh lắm vậy?
Dương Quá nói:
– Này nhé: người đời thường nói “yêu thương thì cho roi cho vọt” khi cô nương yêu thương tôi Cô nương mới đánh. Nhưng lòng tôi tin rằng một người đẹp như cô nương thì dù đánh mạnh cũng không thấy đau.
Tiểu-Long-Nữ hỏi:
– Còn chuyện thứ hai ra sao?
Dương Quá giải thích tiếp:
– Quyền thứ hai thì trái lại. Phàm ghét thì cứ để mặc. Khi cô nương ghét tôi thì cô nương cho tôi được chơi. Chơi thích thật, nhưng cũng hại lắm, nếu quá say mê thì có thể hỏng cả cuộc đời phải như vậy không? Chịu chưa?
Tiểu-Long-Nữ lắc đầu nói:
– Trước kia, khi còn sống trong Cổ-mộ, cậu chỉ xảo quyệt một phần, nhưng từ khi lìa khỏi Cổ-mộ, mức xảo quyệt và láu cá của cậu đã tăng lên gấp trăm phần. Thế mới biết trường đời là chỗ dạy khôn dạy láu cá và dạy ba xạo cả.
Dương Quá thừa biết Tiểu-Long-Nữ bản chất rất ghét tánh láu cá và dối trá như ghét của dơ, nên vội vàng bào chữa bằng cách pha trò:
– Thôi trăm chuyện xin Cô nương đại xá cho để vui vẻ cùng nhau. Nếu Cô nương nổi nóng lại tách bước ra đi phen nữa thì chim trời cá nước biết đâu em tìm. Chung quy cũng khổ cái thân em mà thôi.
Tiểu-Long-Nữ nghiêm giọng hỏi:
– Nếu cậu không nói nguyên nhân vì sao cậu thích ngủ rừng thì trời sập ta cũng không cho cậu đi theo hay là cùng đi với cậu nữa đâu.
Dương Quá thích chí cười hề hà và nói cù lần:
– Có khó chi đâu mà không tìm ra nguyên nhân. Chẳng qua… là vì… như thế cả…
Tiểu-Long-Nữ gay gắt hỏi:
– Là gì nữa? Trời đã tối rồi còn đứng đó mà kê với cà. Mau mau giải thích để rồi còn tìm nơi trú ngụ chứ, chẳng lẽ cứ đứng đóng trò giữa rừng già như thế mãi sao?
Dương Quá nín cười chậm rãi đáp:
– Em muốn sống trong cảnh thiên nhiên của núi rừng để tìm chân lý của tình yêu. Có chi mà Cô nương lại nóng nảy lắm vậy.
Tiểu-Long-Nữ nói gằn lại gay gắt hơn:
– Chân lý tình yêu đâu cần phải tìm kiếm trong rừng già này. Cậu đã tiếp xúc với cuộc đời giả dối quá nhiều, nên ý nghĩ có nhiều chuyện rắc rối phức tạp, lúc nào cũng bao hàm những chuyện xa xôi xảo quyệt. Biết như thế này ta cứ sống yên thân trong Cổ mộ, đâu có hoại công đi tìm những cái bực mình vào thân nữa.
Nói xong, nàng quay mình định chạy.
Nhưng Dương Quá đã nắn lấy tay nàng kéo lại năn nỉ:
– Xin Cô nương đừng bỏ em bơ vơ một mình lẻ bóng nơi góc biển chân trời như xưa nữa, tội nghiệp mà.
Tiểu-Long-Nữ giật tay ra nói:
– Thôi, cứ buông tôi ra cho yên thân. Tôi đi đâu mặc kệ thân tôi. Chỉ có cái lý do vì sao thích ngủ rừng mà không nói. Như vậy làm sao gọi là tình thày trò bè bạn nữa chứ?
Tuy giật ta, nhưng nàng không kéo về hẳn lại đặt trên vai Dương-Qua. Chợt để ý đến cử chỉ ấy, nàng tự trách mình:
– Chính ta cũng lẩn thẩn thật. Đã giật tay rồi còn đặt trên vai hắn, thì làm sao hắn không lớn mình được?
Trong khi ấy cả hai cùng đứng lặng yên trong rừng thẳm, không nói năng một lời nào, mỗi người đeo đuổi một cảm nghĩ khác nhau.
Tiểu-Long-Nữ băn khoăn suy nghĩ tự trách mình không dứt khoát thái độ để cho Dương Quá đùa cợt, xem như người cùng vai vế chứ không còn thái độ trọng vọng của một người đệ tử đối với Sư phụ như những ngày trước nữa.
Phần Dương Quá cũng tự trách mình sao không có đủ can đảm và nghị lực để bày tỏ tình yêu mà cứ bày chuyện viển vông như vấn đề ngủ trong rừng để giằng co cãi lẫy nữa. Dù sao nơi đây cũng chỉ có hai người có ai xen vào đâu mà hòng e lệ nữa.
Suy nghĩ tới đó, chàng quả quyết, vỗ nhẹ vai Tiểu-Long-Nữ nói:
– Bây giờ xin cô nương vui lòng cho phép tôi trình bày lý do vì sao muốn ngủ lại trong rừng nhé.
Tiểu-Long-Nữ đáp:
– Thì cứ nói ra đi xem nào. Ta cũng đang chờ nghe có chừng ấy thôi. Việc gì mà phải xin phép tắc lắm chuyện thế?
Dương Quá nghiêm giọng nói tiếp:
– Tuy ngày còn nhỏ tôi có học và nghe được nhiều câu ca dao bóng bẩy. Nhưng khi còn sống trong Cổ mộ tôi chẳng hề quan tâm hay hiểu tý gì về ý nghĩa của các câu ấy. Nhưng kể từ ngày xa cách Cô nương vì lòng mong tưởng nhớ thương, và sau khi trải qua nhiều gian nan nguy hiểm cùng nhau tôi mới thấm thía đến ý nghĩa xa xôi bóng bẩy nhưng rất thâm thúy của các câu ấy, đại khái như hai câu này:
“Yêu nhau chẳng nại chiếu giường,
Chỉ cần mảnh lá che sương cũng tình”.
Vì vậy tôi mong muốn sao đêm nay thực hiện thử, giữa chốn rừng hoang thâm u này, chúng ta hãy ngủ thử một đêm để xem kẻ đặt ra câu ca trên có sành về tâm lý Nam Nữ hay không?
Nói tới đây, Dương Quá hứng chí cất tiếng cười rang rảng, âm thanh vang vội trong rừng vắng khiến mấy con chim đang ngủ trên cành cây gần bên giật mình thức dậy dập dình kêu quang quác như tỏ lời oán trách hai người đi phá đám cảnh yên tĩnh của chúng.
Tiểu-Long-Nữ nói:
– Đó, cũng vì mình muốn tìm chân lý mà làm động chạm đến cuộc sống êm đềm của bao con chim rừng trong tổ ấm. Chúng ta không nên vì thú riêng của mình mà phạm tới tự do của bao sinh vật khác mà đắc tội. Thôi, hãy cố đi về phía trước xem có nhà ai xin tạm nghỉ đỡ một đêm vậy.
Hai người mò mẫm giắt nhau đi trong đêm tối. Một chập sau thấy phía trước xa thấp thoáng ánh đèn le lói. Cả hai mừng rỡ và chắc rằng có ánh lửa tất nhiên phải có nhà người ở.
Khi tới nơi thì thấy rằng nơi đây là một xóm nhỏ, rải rác có đôi nóc nhà của những người thợ rừng hay thợ săn. Dương Quá bước vào một nhà nhỏ ở đầu thôn xin tá túc. Khi được chủ nhà nhận lời rồi, chàng chạy ra sau rửa mặt mày sạch sẽ rồi trèo lên một chõng nhỏ nơi nhà cầu. Còn Tiểu-Long-Nữ tạm nằm trên chiếc võng mắc ngoài mái hiên.
Mặc dù cả hai đinh ninh sau này sẽ cùng nhau kết nghĩa vợ chồng nhưng trong khi còn trôi nổi đó đây, vẫn giữ theo nếp sống như ngày nào còn trong Cổ mộ. Dù sao cả hai cũng đã vui mừng và yên tâm về câu chuyện trăm năm, và từ đây chỉ chuyên lo trau dồi về võ nghệ mà thôi, khỏi bận lòng điều chi nữa.
Ngủ qua đêm ấy hai người sáng sớm thức dậy trả tiền trọ cho chủ nhà. Trước khi đi chủ nhà đem dọn mấy củ khoai cho hai người lót dạ. Trong khi đang ăn, Tiểu-Long-Nữ bảo Dương-Qua:
– Phen này chúng ta cứ theo đại lộ màđi, khỏi cần đi theo đường mòn làm chi cho vất vả nhé.
Hai người sánh vai nhau đi mãi tới trưa vừa gặp một thị trấn khá náo nhiệt đông đúc.
Dương Quá đem Tiểu-Long-Nữ vào một khách trọ lớn để ăn cơm.
Khi vừa bước khỏi thang lầu, cả hai đều giật mình trông thấy Hoàng-Dung cùng hai anh em họ Võ đang ngồi ăn uống nơi một chiếc bàn phía trong.
Dương Quá nghĩ rằng, chẳng lẽ quen nhau mà lại đi lánh mặt.
Vì vậy nên chàng tự nhiên bước lại trước mặt Hoàng-Dung chào hỏi:
– Chẳng hay Quách Bá Mẫu sang đây có chuyện chi cần thiết?
Hoàng-Dung rầu rầu đáp:
– Con có thấy Quách-Phù đi ngang qua đây không?
Dương Quá ngạc nhiên đáp:
– Thưa không ạ. Con tưởng Quách tiểu thư lúc nào cũng ở cạnh Quách Bá-Mẫu chứ tại sao lại mất tích như vậy?
Hoàng-Dung chưa kịp trả lời, bỗng nghe từ phía dưới có tiếng chân người bước đi rầm rập, tiếp tới có mấy người cao lớn đi vào. Nhìn kỹ người đi đầu chính là Kim-Luân Pháp-Vương chứ không ai xa lạ.
Dương Quá lẹ làng ra hiệu cho Hoàng-Dung đừng nói và bước mau lại phía Tiểu-Long-Nữ khẽ bảo:
– Cô nương hãy quay mặt vào phía kia cho bọn chúng đừng trông thấy phiền phức.
Nhưng đã muộn rồi, Kim-Luân Pháp-Vương, mắt sáng như điện, ngay từ lúc mới bước vào quan sát quanh một vòng đã nhận diện ra tất cả mọi người không sót một ai.
Vừa trông thấy xong, ông ta cười hề hề rồi kéo ghế ngồi lại một bàn cách đó không xa.
Dương Quá giả bộ không trông thấy, ngồi ngay mặt đi hướng khác.
Nhưng bỗng nhiên Hoàng-Dung nghẹn ngào cất tiếng gọi:
– Phù nhi, con đi đâu khiến mẹ tìm mãi không ra.
Chàng quay đầu nhìn lại thì thấy quả nhiên Quách-Phù đang ngồi cùng bàn với bọn Kim-Luân. Nàng sửng sốt nhìn mẹ nhưng không dám bỏ chỗ chạy lại.
Nguyên từ khi bị thảm bại Kim-Luân Pháp-Vương bực tức bỏ ra đi, trong bụng đinh ninh thế nào cũng tìm cơ hội chuyển bại thành thắng.
Không ngờ Hoắc-Đô Vương-Tử bị trúng ngọc phong châm vết thương càng sưng nhẩy lên, hành hạ mãi không thuốc nào chữa được. Vì vậy nên qua mấy hôm sau các thầy trò vẫn còn quanh quẩn mãi gần Lục-gia-trang.
Rủi thay hôm ấy Quách-Phù cỡi con Tiểu hồng mã đi dạo bỗng tình cờ gặp lại Kim-Luân Pháp-Vương, không khác nào gà tìm tới miệng chồn.
Kim-Luân đời nào bỏ qua một dịp may hiếm có nên thừa cơ hội Quách-Phù đi một mình, ông bắt ngay để làm con tin. Công con Tiểu hồng mã vốn loại ngựa thần, khôn ngoan đúng mức, nên khi tiểu chủ bị bắt rồi, nó phi ngay về trang trại đứng ngay cổng hý vang để báo tin bất thường.
Quách-Tỉnh biết con mình lâm nạn nên vội phân bổ người đi khắp tứ phương tìm kiếm.
Mặc dù đang có mang gần ngày, nhưng vì tình mẹ thương con quá nặng Hoàng-Dung không thể ở nhà, vội cỡi con Tiểu-Hồng-mã đi tìm con. Giữa đường bà gặp hai anh em nhà họ Võ, đưa nhau vào khách sạn ăn cơm kể gặp Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ rồi tình cờ run rủi gặp Kim-Luân Pháp-Vương cũng dẫn Quách-Phù đi vào luôn.
Vừa thấy mặt con gái yêu, Hoàng-Dung mừng mừng tủi tủi vội cất tiếng kêu. Nhưng khi thấy Quách-Phù chỉ nhìn lên chứ không đáp và không chạy lại, bà đã biết rõ con mình đang bị địch quản thúc. Vốn người nhiều mưu trí, nên Hoàng-Dung điềm tĩnh ngồi chống tay trên bàn cố tìm cách giải thoát cho con gái, khỏi tay bọn ác tăng Mông-cổ.
Trong lúc bà đang phân vân đắn đo tìm kế, hai tay gõ chiếc đũa trên mặt bàn thì Kim-Luân bỗng cất tiếng gọi lớn:
– Hoàng bang-chúa, nàng này có phải là lệnh ái hay không. Hôm nào đấu võ nơi Lục gia trang, tôi để ý tháy nàng đứng bên cạnh Hoàng Bang-chúa, mặt mày vô cùng xinh đẹp.
Hoàng-Dung làm thinh thở dài không đáp lại.
Võ-tu-Văn đứng lên đáp lời:
– Tôi không ngờ một người như ông, dù sao cũng một vị Pháp vương Tây-Tạng, lại đi ra tay bắt cóc con gái người ta, thật không biết thẹn.
Hình như không cần đếm xỉa tới những lời trách móc của Võ-tu-Văn Kim-Luân lớn tiếng nói cùng Hoàng-Dung:
– Thưa bang chúa, xin người vui lòng cho người giải độc hộ cho Hoắc-Đô Vương-Tử để chúng có dịp thử lại tài nghệ xem bên nào cao thấp. Chừng ấy mới sáng tỏ kẻ nào xứng đáng giữ ngôi Minh chủ Võ-Lâm.
Nghe lão nói xong, Hoàng-Dung chỉ “hừ” một tiếng chứ không trả lời.
Võ-tu-Văn lại nói:
Trước hết xin ông hãy giao trả Quách Cô nương lại cho chúng tôi. Sau đó chúng tôi sẽ xin giao thuốc giải độc cứu Vương-Tử, còn chuyện tỷ thí tranh tài cao thấp sau này sẽ bàn lại cũng không muộn, Hoàng-Dung liếc mặt nhìn Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ trong dạ băn khoăn suy nghĩ:
– Thuốc giải độc chỉ có hai người kia mới có. Nhưng kông biết họ có bằng lòng cho giúp nếu Kim-Luân nhận lời đề nghị của Tu-Văn hay không.
Nhưng Kim-Luân cười khà khà đáp lại:
– Thuốc độc thì ai lại không có. Nếu đàng ấy không giao ra thì ta cũng có thuốc độc để khiến cho gái cưng của người cũng nếm thử cho biết mùi. Nếu bên ấy giao thuốc thì ta sẽ chữa cho cô bé này khỏi đau khổ. Còn câu chuyện trao trả người đâu có thể đơn giản như thế được.
Hoàng-Dung nhìn qua sắc diện con gái biết Quách-Phù chưa bị thuốc độc, tuy nhiên tình mẫu tử vô cùng sâu đậm, bà không thể nào ngồi yên trong khi con gái mình còn đang ở trong tay quân địch. Bà cố tìm mưu kế nhưng nghĩ mãi chưa ra.
Vừa lúc đó nhà hàng bưng đồ ăn ra dọn không biết bao nhiêu là món ngon vật lạ. Bọn Kim-Luân ung dung đánh chén, riêng Quách-Phù không ăn chỉ ngồi lặng yên nhìn mẹ mà rưng rưng hai hàng nước mắt.
Trước cảnh tượng đau lòng ấy, Hoàng-Dung cũng nước mắt chạy quanh, lòng đau như cắt. Và cũng trong lúc ấy bà cảm thấy trong bụng quặn đau từng cơn dữ dội. Thật là phước bất trùng lai họa vô đơn chí! Có lẽ vì đi ngựa nhiều nên bị động thai.
Ăn uống xong, Kim-Luân chạy lại gần Hoàng-Dung nói:
– Kính mời Hoàng Bang chúa hãy đi theo chúng tôi.
Hoàng-Dung nghe nói hoảng kinh nghĩ bụng:
– Tại sao hắn mời ta đi? Đã bắt cóc con gái ta, nay hắn còn muốn bắt ta đi nữa sao? Một mình ta, lại lên cơn đau bụng làm sao chống cự bây giờ. Còn hai anh em họ Võ thì võ nghệ còn non kém đối với Kim-Luân đâu có nghĩa lý gì.
Nghĩ tới đây Hoàng-Dung hoảng sợ lộ ra nét mặt tái xanh.
Kim-Luân nhìn bà nói tiếp:
– Xin Hoàng-Bang chúa đừng lo sợ, Hoàng-Bang chúa là người có địa vị quan trọng trong Võ lâm Trung nguyên, không bao giờ chúng tôi dám bạc đãi cùng Bang chúa đâu. Miễn sau khi chúng ta bàn cãi xong câu chuyện Minh-chủ Võ-Lâm rồi, thì có xin đưa Bang-chúa trở về Nam ngay.
Nguyên từ khi bước vào trong tiệm, trông thấy Hoàng-Dung ngồi đó Kim-Luân lòng mừng vô hạn nghĩ thầm rằng:
– Thật rõ ràng là may mắn hết sức. Mụ này có một địa vị quá ư quan trọng trong võ lâm Trung-nguyên. Chỉ cần bắt cóc được mụ thì bao nhiêu anh hùng Trung quốc thảy đầu khoanh tay không dám bạo động chừng ấy ta muốn chi không được. Được mụ này còn quan trọng gấp mấy mươi lần cô Quách-Phù.
Hai anh em họ Võ thấy Kim-Luân bức sách và nhục mạ sư phụ mình thì trong lòng căm tức vô hồi, nhưng xét lại bọn mình chưa phải là đối thủ của hắn. Hơn nữa trước mặt hai người ý trung nhân là Quách Phù đang ngồi nét hoa ủ đột, khiến cho hai anh em càng thêm bối rối.
Tuy nhiên vì sĩ diện hai anh em cũng phải đứng lên tuốt kiếm định xông ra liều mạng.
Nhưng Hoàng-Dung vội bảo nhỏ:
– Không được đâu, hãy vượt qua cửa sổ, chạy gấp về báo tin cho sư phụ biết. Các con không đánh lại hắn đâu.
Hai anh em họ Võ lấm lét nhìn sau không ai dám nhảy ra trước, sau lại lén nhìn Quách-Phù, mãi hồi lâu mới chạy ra khỏi quán.
Hoàng-Dung bực mình lẩm bẩm:
– Thứ gì mà hèn nhát và chậm chạp quá rùa, cứ như thế thì biết chừng nào đi về tới nơi để báo tin cho kịp.
Không ngờ hai người vừa bước ra khỏi cửa, Kim-Luân chỉ phóng ra một cái đưa tay tóm ngay lại cặp hai bên hông như diều hâu cặp đôi gà giò.
Hai anh em hoảng kinh vội buông gươm để khỏi đâm trúng vào người nhau.
Kim-Luân nhấc bổng hai người lên ném tung ra ngoài xa hơn mấy trượng miệng quát:
– Thứ vô dụng này, đừng hòng làm vướng chân bản Sư.
Quăng hai anh em họ Võ xong, Kim Luân quay sang phía Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ bảo lớn:
– Chúng bây không phải bà con giòng họ chỉ với Hoằng-Bang chủ và Quách-Tỉnh, hãy đi cho rồi, không nên chen tay vào công việc của ta.
Thật ra không phải Kim-Luân có thiện ý gì với bọn Tiểu-Long-Nữ nhưng y muốn dùng thủ đoạn ly gián để phân tán lực lượng của đối phương. Ông cũng khôn ranh mà biết rằng:
– Trong ba người Hoàng-Dung, Dương-Qua, và Tiểu-Long-Nữ, nếu đấu một sáp một thì không thể bằng mình, nhưng nếu cả ba cùng hợp sức chống lại thì e mình khó thoát tay bọn chúng chứ không mong gì bắt cóc Hoàng-Dung.
Kim-Luân muốn dùng mưu cơ này mở lối thoát cho Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ thoát đi cho rồi. Còn Hoàng-Dung hiện nay có mang gần ngày, chỉ trong mấy hiệp ông cũng có thể áp đảo được ngay không khó.
Tiểu-Long-Nữ lúc này chỉ mong sao sớm về tới Cổ-mộ để cùng Dương Quá sống cuộc đời bình thản vô tư và tránh hết những cái gì trái tai gai mắt của xã hội loài người cho nên nàng quay sang bảo Dương-Qua:
– Lão Trọc này cũng vô cùng lợi hại, không hơi đâu mình trêu tay cho mất công. Thôi chúng ta đi đi cho rồi.
Thấy Dương Quá do dự, nàng thúc thêm:
– Hơi đâu ách giữa đàng đem mang vào cổ. Chúng mình về Cổ-mộ càng sớm càng hay.
Dương Quá đáp:
– Xin Cô-nương chờ em tính tiền ăn rồi sẽ hay.
Trả tiền xong, Dương Quá đứng lên cùng đi ra.
Bước chân xuống thang lầu chàng nghĩ bụng:
– Chuyến nầy về tới Cổ-mộ, chắc không bao giờ ta gặp lại Quách Bá-mẫu.
Nghĩ xong, chàng lấm lét đưa mắt nhìn Hoàng-Dung.
Chàng trông thấy Hoàng-Dung một tay ôm bụng dưới, một tay vỗ ngực, mặt mày nhăn nhó, mồ hôi hột chảy ròng ròng, có lẽ đang lên cơn đau lắm.
Xưa nay Dương Quá có tánh thích làm theo ý mình hơn nữa trong quyết quản có sẵn giòng máu hiệp nghĩa, nay trông thấy tình cảnh Hoàng-Dung như vậy chàng bỗng nghĩ:
– Tuy Quách Bá-mẫu không bằng lòng cho ta yêu Long Cô-Nương là vì theo đạo lý cổ hủ của Trung-nguyên, điều đó ta không thể trách bà được. Ngày nay thấy Quách Bá-mẫu đang bị nạn mà ta nỡ nào làm ngơ bỏ đi sao đành. Xem bản lãnh lão này ta không đấu lại, nhưng ta cũng có thể đi báo tin cùng Quách bá bá tới để giải cứu kịp thời. Như vậy có lẽ đắc sách hơn.
Nghĩ xong chàng đưa mắt láy Hoàng-Dung tỏ ý kiến ấy. Hoàng-Dung gật đầu tỏ vẻ ưng ý.
Chàng liền giắt Tiểu-Long-Nữ khoan thai đi xuống thang lầu.
Bỗng một tên Võ sĩ Mông-Cổ nhảy xổ tới trước mặt Hoàng-Dung trợn mắt thét lớn:
– Này, hãy đứng dậy đi ngay.
Nói xong hắn chộp vai bà lôi đi như một tên tử tội.
Suốt mười năm nay giữ ngôi vị Bang-Chúa Cái-Bang, Hoàng-Dung dù có bị sa cơ cũng không khi nào chịu để cho một tên vũ phu man rợn làm nhục như thế được. Cho nên khi tên Mông-Cổ vừa đưa cánh tay thô lỗ đầu lộng ra chộp lấy vai, bà né sang một bên, dùng vạt áo lót tay rồi nắm cánh tay hắn vặn trái một cái xách bổng lên ném tuốt qua cửa sổ như một gói giẻ rách. Tên võ sĩ Mông-Cổ bị ném té dài trên mặt đất, mặt mày đầy máu, nửa chết nửa sống không còn cục cựa nữa.
Bao nhiêu quan khách trên lầu theo dõi sự việc thấy hai bên lúc đầu đấu khẩu kết tới tên Võ sĩ Mông-Cổ bị tóm cổ quăng tuốt khỏi lầu thì ai nấy đều hốt hoảng đứng lên nhốn nháo cả lên.
Kim-Luân Pháp-Vương trông thấy cười nhạt nói:
– Hoàng Bang-chúa quả là tay võ nghệ tuyệt luân.
Nói xong lão vận nội công trầm trầm bước tới. Hoàng-Dung biết trước thế nào hắn cũng dùng đòn độc hạ mình nên bước lùi sau thủ thế chống cự lại.
Dương Quá đang bước xuống lầu, bỗng thấy tiếng khách hàng xôn xao nhốn nháo thì biết rằng bọn Mông-Cổ đang làm nhục Hoàng-Dung. Máu anh hùng trong tim chàng sôi lên sùng sục không chịu được nữa, chàng bèn quay lại, quên cả hiểm nguy chết sống, rút thanh gươm trong lưng Võ-Đôn-Nho đâm thẳng vào lưng Kim-Luân, miệng mắng lớn:
– Quân mọi rợ, thừa lúc người ta đau bệnh cô thế mà bức sát thì đâu phải anh hùng. Sao mi không biết nhục?
Kim-Luân quả là tay võ nghệ tuyệt luân; mặc dù không quay đầu nhìn lại nhưng cũng đoán biết được làn gươm, chỉ cần kim chặt mạnh nghe “choang” một tiếng lớn, thanh gươm Dương Quá gãy hai rơi xuống đất.
Dương Quá cảm thấy cả cánh tay tê buốt do sự đụng chạm này, vội vàng phóng mình ra sau mấy bước để tránh đòn thủ thế.
Kim-Luân nhìn chàng mắng lớn:
– Súc sinh, tài nghệ của mi còn non kém lắm chưa đủ tranh đấu cùng ta đâu. Hãy chịu khó về tập luyện thêm một vài năm nữa rồi sẽ tính tới chuyện ăn thua. Nếu bây giờ liều mạng vào đây sẽ bỏ mạng dưới chiếc vòng vàng của ta, chừng ấy trách ta sao không nói trước.
Thật ra, trong thâm tâm Kim-Luân Pháp-Vương ghét Tiểu-Long-Nữ và Dương Quá như điếu đổ vì Dương Quá đã đánh chiếc vòng vàng và làm mất ngôi Minh-chủ của ông trước hàng ngàn anh hùng Trung-nguyên. Tuy nhiên lúc này Kim-Luân Pháp-Vương phải giả ơn giả nghĩa dùng đủ mọi lẽ phải chăng để Dương Quá đi cho rồi vì chính ông không muốn đâú với hai địch thủ trong khi chưa bắt được Hoàng-Dung chắc chắn. Cứ một việc này cũng đủ chứng tỏ Kim-Luân Pháp-Vương là một lợi hại, ngoài bản lĩnh kinh người, cũng có mọi thủ đoạn của người mưu sĩ, chứ không phải là loại vũ phu chỉ chuyên dùng sức mạnh hiếp người.
Câu nói của Kim-Luân vừa có vẻ bề trên ngạo mạn, lại có vẻ khuyên răn nữa. Dương Quá nghe nói tươi cười bảo:
– Pháp-Vương cũng không nên quá khách khí và lưu tâm tới tiểu sinh lắm như vậy. Học được thành tài như Pháp-Vương đâu phải chuyện dễ, mà cũng không phải vấn đề một vài năm mà được. Tuy nhiên, Hoàng Bang-chúa đối với tiểu sinh có công lao dưỡng nuôi từ tấm bé, hôm nay mà bị tai nạn, không thể nào tiểu sinh lại đành lòng bỏ đi cho được. Nếu lúc này Bà không đau bụng thì võ công của Pháp-Vương chưa chắc đã thắng được bà đâu. Nếu Pháp-Vương không tin xin cứ chờ một vài ngày, Bà khỏe mạnh rồi sẽ biết.
Trong khi thốt ra câu này, Dương Quá muốn khích khí Kim-Luân Pháp-Vương. Nếu ông ta có tinh thần thượng võ chắc không mặt mũi nào đi bức sách Hoàng-Dung nữa.
Nhưng trong thâm tâm Kim-Luân thì nghĩ khác. Ông ta sợ cả ba người Hoàng-Dung, Tiểu-Long-Nữ
và Dương Quá cùng tấn công mình thì không thể nào chống lại nổi, vì vậy nên cố tình tìm cách nói cho cặp trẻ đi cho rồi. Không ngờ nghe Dương Quá nói vậy, lão chú ý xem lại Hoàng-Dung thấy quả thật sắc khí bà bơ phờ, mặt mày tái xanh đang đứng nhăn nhó thì biết là bà đang đau thật, nên nghĩ thầm:
– Nếu con người đầu não đã mang bệnh thì hai đứa kia đâu có nghĩa gì mà phải sợ.
Nghĩ xong, ông bĩu môi bảo:
– Thế ra bọn bay cũng muốn ở lại đây chiến đấu phải không?
Ngay lúc đó, Tiểu-Long-Nữ đang đứng tại cầu thang chờ Dương-Qua, thấy Kim-Luân Pháp-Vương đang ngăn trở chàng thì nói với lên:
– Này lão Hòa-thượng, hãy tránh đường cho người ta đi, sao gây khó dễ như vậy?
Kim-Luân nhìn xuống hai mặt lộ xung quanh, vung tay đánh xuống một chưởng mạnh như trời giáng. Với lợi thế từ trên đánh xuống lão chắc chắn thế nào Tiểu-Long-Nữ cũng bị bể đầu ngay, hoặc có giỏi nó cũng phải nhào lăng xuống tầng dưới gãy tay hay cụt cẳng. Thấy đối phương từ trên cao giáng xuống một đòn lén, nàng vận dụng khinh công thượng thặng của phái Cổ-mộ tung người bay vọt lên trên, lòn qua đường chưởng lực, đứng ngay cạnh Kim-Luân. Trong khi thân hình nàng đang bay lơ lửng qua đầu: Kim-Luân thừa dịp đánh theo một đòn quét mạnh vào chân, nhưng cũng trật luôn. Kim-Luân phải buộc miệng khen thầm:
– Con Bé này khinh công tuyệt diệu, ta cũng không sánh kịp tài lanh lẹ của hắn.
Dương Quá trao lưỡi gươm của Võ-Tu-Văn bỏ rơi trên sàn lầu và nói khẽ:
– Lão Hòa-thượng này vô lễ và khinh thường thiên hạ quá chúng ta hãy cùng nhau cho nó một trận nên thân.
Bỗng nghe tiếng leng keng vang lên. Kim-Luân rút trong bọc một chiếc vòng khác, kích tấc y như cái vòng vàng hôm trước, chỉ khác một điều là chiếc vòng này đen nhánh như huyền.
Nguyên Kim-Luân Pháp-Vương xử dụng cả thảy năm chiếc vòng làm bằng đủ loại kim khí vàng, bạc, đồng, sắc và chì. Khi nào gặp tay lợi hại ông tung hết năm chiếc một lần, nhưng gặp tay tầm thường thì chỉ cần dùng một hay hai chiếc mà thôi.
Xưa nay chỉ một chiếc vòng vàng, Kim-Luân đã hạ sát không biết bao nhiêu là anh hùng cao thủ võ lâm. Do đó, ông được thiên hạ suy tôn biệt danh là Kim-Luân Pháp-Vương cũng vì lẽ đó (nghĩa là ông vua có biệt tài dùng vòng vàng), bốn chiếc vòng khác bằng bạc, đồng, chì và sắt, chưa thấy ông đem ra sử dụng khi nào.
Trong khi tranh tài tại Lục-Trang-Viện, chiếc vòng vàng đã bị Dương Quá dùng chày kim cương đánh rơi và méo mó chưa thể chữa lại được nên hôm nay Kim-Luân mới mang chiếc vòng sắt ra giao chiến.
Trong tay nắm sẵn chiếc vòng đen, Kim-Luân hướng về hai người rồi nhìn Hoàng-Dung hỏi lớn:
– Thưa Hoàng Bang-chủ, ngài có bằng lòng chiến đấu hay không?
Kim-Luân biết Hoàng-Dung tuy bị bệnh nhưng ngại bà cũng còn đủ sức chống đỡ và gây rắc rối cho mình nên mới dùng lời nói khích Lão muốn trịnh trọng nêu chữ “Hoàng Bang-chủ” ra để nhắc khéo Hoàng-Dung nhớ rằng: nếu không đầy đủ sức khỏe, đừng đánh gượng làm gì, rủi bị thất bại mang tiếng xấu với đời và làm ô danh Chúa tể của Cái-Bang. Nếu Hoàng-Dung hội ý không đánh, thì còn hai người Dương Quá Tiểu-Long-Nữ sẽ dễ thủ thắng hơn.
Nhưng Dương Quá đã cướp lời nói:
– Hoàng Bang-chúa đâu thèm đánh cùng ngươi mà hòng hỏi lại.
Nói xong chàng quay sang phía Hoàng-Dung thưa lớn:
– Xin Quách bá-mẫu cứ tự ý đưa em Phù về nhà đi, cho thằng Trọc ngã mặn này, cứ để cho con xử trí.
Thật ra Dương Quá cũng thừa hiểu dù cả hai người, mình và Tiểu-Long-Nữ cũng không đấu lại Kim-Luân, cho nên chàng muốn Hoàng-Dung đem Quách-Phù để báo tin cho Quách-Tỉnh biết, còn mình và Tiểu-Long-Nữ ở lại cầm cự trong thời gian rồi cũng tìm cách chuồn luôn cho tiện.
Nói xong, chàng vung tròn cây trường kiếm như một vòng bạch quang lóe lên, xong vào tấn công Kim-Luân. Tiểu-Long-Nữ cũng múa gươm tiếp sức.
Kim-Luân Pháp-Vương tung chiếc vòng đen ra chống cự lại với hai đường gươm lợi hại. Vì thân hình to lớn dềnh dàng, dụng võ trong nhà có nhiều bàn ghế đồ đạc vướng víu tay chân nên Kim-Luân xoay trở có phần khó khăn. Ông vừa múa móc đánh đỡ, vừa tung cước đá bay các bàn ghế dồn dập vào một xó cho rộng chỗ để hoạt động hơn.
Dương Quá vừa đánh vừa suy nghĩ:
– Kể về dòng lực thì mi thắng ta, nhưng tính theo mưu mô thì ta có thể hơn mi lắm. Phen này ta thử cho mi nếm mùi thủ đoạn của tuổi trẻ và ngã mặn một chuyến cho đã đời.
Trong khi hai bên quyết đấu, Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ nhờ thân hình bé nhỏ, nhẹ nhàng lẩn tránh lanh như cặp sóc khi bay sang Đông lúc phóng sang Tây, cùng tấn công tới tấp, Kim-Luân thân hình to lớn thêm chỗ đấu chật hẹp xoay trở có phần khó khăn nên chống đỡ cũng chật vật.
Dương Quá vừa né vừa đâm vừa nhảy nhót xung quanh, vớ được thứ gì trên bàn, bất cứ bình mắm, xì dầu, lọ tương, bình rượu hoặc bát thị cũng đem ném tưới vào người Kim-Luân. Mặc dù giỏi tránh né, nhưng các thức ăn, mắm muói văng tung tóe không tài nào tránh cho xuể. Thành thử không bao lâu, từ đầu tới chân Kim-Luân chỗ nào cũng bê bết cả tương, mắm, dầu mỡ các thứ. Dương Quá luôn mồm nói thêm:
– Xin thành tâm cung phụng cho Hòa-thượng những món ăn mặn của thế gian để ra sức giúp quân Mông-Cổ xâm lược giết dân vô tội của chúng tôi.
Kim-Luân giận không thể tả, trợn mắt bậm môi cố bám theo Dương Quá để đánh.
Nhưng khi hắn quay sang Dương Quá thì làn gươm của Tiểu-Long-Nữ loang loáng tấn công liền, buộc lòng phải xoay lại chống đỡ.
Dương Quá rảnh tay liếng thoắng chế nhạo:
– à, nhà sư này có lẽ lâu ngày không gần phụ nữ nên dẻo dai và bền sức lắm. Từ trước tới nay tôi cũng gặp nhiều nhà Sư, miệng thì niệm Phật nhưng sức lực lại đem vung phí khắp nơi, vì vậy nên đấu chỉ vài hiệp mà đã thở dốc như bò rống. Những bọn nhà Sư ấy, dầu giết chết cũng đáng đời lắm lắm. Trong thời buổi loạn ly này, biết bao nhiêu người khoác áo nhà Sư nhưng lúc thử thách mới rõ chỉ là bề ngoài mà thôi.
Tiểu-Long-Nữ cũng góp ý thêm:
– Sư chính hay tà, việc ấy ta không biết, ta chỉ tìm bọn nhà Sư chuyên đánh giặc mướn cho bọn Mông-cổ xâm-lược mà thôi.
Lúc ấy Hoàng-Dung đã lại bên bàn đưa tay giắt Quách-Phù trở lại chốn cũ. Trong khi ấy thì bên Mông-Cổ cũng có mấy tên cao thủ như Hoắc-Đô đang bị độc ngọc phong châm, nằm rên la trăn trở, Đạt-nhĩ-Ma bị thuật di hồn chưa hóa giải còn ngơ ngác như kẻ mất trí ngoài ra một số võ sĩ hầu cận thì bản lãnh không bao nhiêu nên Bà đưa Quách-Phù đi không bị trở ngại. Nhìn tháy xương một tên bị bà nắm quăng qua cửa lầu lúc nãy, không còn tên nào dám hó hé cản ngăn.
Dương Quá trông thấy Hoàng-Dung đã giắt được Quách-Phù về ngồi chỗ cũ bèn lên tiếng nói:
– Quách bá-mẫu nên về ngay đi, tại sao còn chần chờ mãi như vậy?
Hoàng-Dung liếc mắt thấy hai người tuy nhờ sức lanh lẹ nhảy tránh được tuy nhiên lực lượng giữa đôi bên còn chênh lệch quá nhiều, nếu trận đấu kéo dài mà Kim-Luân dùng độc thủ, đôi trai gái sẽ thất bại ngay. Vì vậy nên bà nghĩ thầm:
– Họ còn trẻ tuổi nhưng không ngại gian nguy xả thân cứu mẹ con ta, thì ta là người lớn lẽ nào bỏ họ mà đi sao đành.
Vì vậy nên bà đứng ngoài hiên nhìn cuộc đấu, không bỏ đi.
Anh em họ Võ thấy vậy giục:
– Xin bá-mẫu hãy trọng lấy quý thể mau mau đem Cô Phù lánh khỏi chốn này sớm chừng nào hay chừng ấy. Nếu lỡ ra có…
Hoàng-Dung bực mình gắt:
– Làm người phải hiểu chữ nghĩa. Đã học võ phải có tánh khí nghĩa hiệp, nếu không thì biết võ làm chi? Như thế không còn xứng đáng sống trên cõi đời nữa. Các con hãy xem anh Dương Quá còn trẻ tuổi mà hào khí phi thường, gan liều nghĩa lớn, sao không theo đó mà bắt chước, chỉ bo bo giữ lấy phần lợi cho mình. Các con còn kém xa quá.
Thấy Hoàng-Dung chỉnh khéo và xem thường bọn mình, hai anh em họ Võ hổ thẹn nín thinh.
Quách-Phù bẻ một chân bàn khá lớn rồi đưa mắt bảo hai anh em họ Võ:
– Chúng ta nên xông vào tiếp chiến đánh cho hắn một trận.
Hoàng-Dung đưa tay cản lại nói:
– Tài cán con còn thấp kém lắm, xông vào sẽ mất mạng mà thôi.
Quách-Phù tuy tuân lời mẹ nhưng trong bụng vẫn không tin vì nàng nhìn xem Tiểu-Long-Nữ và Dương Quá đánh đỡ cũng không có ngọn đòn nào kỳ diệu lắm. Nhưng Quách-Phù đâu biết Tiểu-Long-Nữ và Dương Quá tài nghệ hơn nàng có mười lần, trong lúc này cả hai đang vận dụng hết những ngón tuyệt kỷ trong Ngọc-nữ Tâm-kinh ra chống đỡ lại những đòn ác liệt của Kim-Luân.
Kim-Luân Pháp-Vương bị bao nhiêu bàn ghế do Dương Quá đẩy ra ngổn ngang khắp phòng trở ngại, thấy hai người nhảy nhót thoăn thoắt né tránh như đôi chim cắt thì căm tức vô cùng. Ông bèn vận dụng công lực vào cặp chân xuống tấn như đôi chày sắt dẫm mạnh trên số bàn ghế gãy nghe răng rắc. Bước chân ông bước tới đâu, bàn ghế bị đạp nhẹp xuống thành những mảnh gỗ vụn. Không bao lâu tất cả số bàn ghế chỉ còn là đống gỗ vụn, lẫn lộn với số ly chén văng khắp nơi thành thử trong phòng không còn bừa bãi như trước, đấu trường trở nên dễ xoay trở hơn.
Kim-Luân Pháp-Vương bắt đầu trổ tài tấn công mãnh liệt. Tiểu-Long-Nữ và Dương Quá buộc lòng phải đâu lưng vào nhau để chống đỡ vừa bảo vệ lẫn nhau.
Hai người bèn áp dụng phương pháp “song-vũ” ra đánh. Hễ Dương Quá chém trên thì Tiểu-Long-Nữ tấn công phía dưới, hễ người này thủ thì người nọ tấn công ngay, theo đúng phương thức đã dạy trong đoạn chót của Ngọc-nữ Tâm-kinh mà hai người vừa luyện xong trong thời gian gần đây.
Kim-Luân Pháp-Vương thấy hai người bỗng nhiên đổi thế đánh bình tĩnh chiến đấu có quy củ không còn hấp tấp như trước mà những đòn đưa ra ngón nào cũng vô cùng ác liệt, nếu không khéo tránh né sẽ bị mất mạng như không. Xung quanh ông lúc nào cũng có một màn gươm vô cùng chặt chẽ phủ vây từ trên xuống dưới. Ông bèn nhảy sang bên trái tung cước đạp Tiểu-Long-Nữ một đòn rồi tung vòng đen định tròng vào cổ Dương Quá giật tới.
Dương Quá sụp đầu xuống phía trước, cầm gươm chĩa thẳng ra rồi lao mạnh về phía trước ngay vào bụng đối thủ.
Lưỡi gươm ghim ngay vào giữa ngực Kim-Luân, nhưng lạ quá hình bên trong có mang sẵn giáp sắt nên lưỡi gươm vừa chạm vào bị trượt qua một bên.
Thấy đâm không thủng được bụng địch thủ, Dương Quá vội nhảy lùi ra phía sau để né đòn. Nhưng Kim-Luân đã hự lên một tiếng, tung cái vòng tròn ra xoay tít trên đầu chàng rồi từ từ ép xuống nặng như tảng đá ngàn cân, còn hai tay rảnh không thì Kim-Luân vung ra túm lấy Tiểu-Long-Nữ lẹ như chớp giật.
Cùng một lúc vừa tung vòng đè người, vừa phóng tay chộp đối phương đây là một thế đánh vô cùng thần diệu xưa nay chưa hề thấy.
Thấy cả hai đang lâm nguy, Hoàng-Dung thất kinh định nhảy xông vào tiếp chiến để giải thoát, nhưng Dương Quá đã lẹ làng tránh sang một bên rồi quay ngược lưỡi gươm đâm thẳng vào lưng Kim Luân, khiến lão phải quay mình nhảy vọt qua một bên, không chộp được Tiểu-Long-Nữ. Đây là một thế kỳ áo “Vây Tề cứu Triệu” trong Ngọc-nữ Tâm-kinh, giúp Dương Quá vừa tránh được đến mình, vừa giải thoát cho đồng bọn. Thế này phối hợp với thế “én hồng đớp mồi”, lao mình là trên mặt đất để đâm địch, là một thế lợi hại của Toàn-Chân phái.
Bị đòn bất ngờ, Kim-Luân kêu “à” một tiếng, nhảy qua một bên, đưa mắt nhìn theo chiếc vòng đen đang xoay tít còn đang lơ lửng trên không trung.
Thấy chiếc vòng đen quay tít phát ra những tiếng vu vu ghê rợn ập ngay đầu mình, Dương Quá không chút ngán sợ, đưa thế “bạch hồng kình thiên” (nghĩa là cầu vòng trắng vắt ngang trời) của Toàn-Chân phái ra phá.
Bị đánh bất ngờ, chiếc vòng sắc vẫn xoay tít đảo lại về hướng Kim-Luân, luôn luôn phát ra gió vù vù nhắm ngay đầu chủ chộp xuống.
Quách-Phù đứng ngoài nhìn thấy thích chí quá vỗ tay hoan hô om sòm.
Sở dĩ Kim-Luân Pháp-Vương quá chủ quan, tin tưởng vào tài nghệ của mình, đinh ninh một đòn này có thể hạ sát được cả hai địch thủ nên mới mạo hiểm quăng vũ khí ra đánh, chỉ còn hai tay không mà thôi. Không ngờ bị Dương Quá đập lại quá mạnh, chiếc vòng phản chủ quay lại tấn công ông suýt nữa bị nguy biến tới thân.
Kim-Luân điên tiết, vận dụng công lực vào cách tay nắm chiếc vòng sắc ném mạnh một cái. Cái ném nào quá ư mãnh liệt, sức nặng ngót ngàn cân, khiến chiếc vòng quay tít mau quá, các viên đạn bên trong không, kịp phát ra tiếng kêu leng keng mà chỉ nghe rít “vút” một cái như chiếc đĩa bay.
Dương Quá vội vàng đưa gươm đỡ bật lại một cái, nghe choeng thật lớn, cây gươm cong vòng như một cánh cung rơi ngay xuống đất.
Thấy đối phương đã mất vũ khí, Kim-Luân xông tới vung hai tay định bắt sống. Tiểu-Long-Nữ thấy Dương Quá bị nguy, bèn xoay người lại vung ra một đường gươm. Nhát gươm bay không có vẻ hấp tấp, chỉ tà tà như chiếc hoa rơi, tư thái của nàng vô cùng khoáng đạt, đứng xa nhìn vào không khác nào một nàng tiên. Đây là một trong những tuyệt thế trong đời của Ngọc-nữ Tâm-kinh.
Hoàng-Dung cũng như Quách-Phù trông thấy phải cùng luôn miệng khen lớn:
– Tuyệt quá, đẹp quá, đường gươm kỳ ảo này thật tuyệt vời có một không hai.
Kim-Luân Pháp-Vương buộc lòng phải nắm thật chặt chiếc vòng sắc để chống đỡ lại đường gươm kỳ ảo lợi hại của Tiểu-Long-Nữ.
Dương Quá nhân cơ hội này, cúi xuống lượm thanh gươm lên và thoát qua tai nạn.
Tuy thoát chết rồi, nhưng Dương Quá vẫn không mất bình tĩnh chút nào. Chàng đứng yên suy nghĩ:
– Vừa rồi chúng ta chỉ đánh theo Ngọc-Nữ Tâm-Kinh kiếm pháp thành thử không thắng nổi nó. Bây giờ cần phải thay đổi chiến thuật bằng cách phối hợp giữa hai lối kiếm pháp. Ta thì đánh theo Toàn chân phái còn Cô-nương thì theo các thuật trong Ngọc-Nữ Tâm-Kinh, may ra mới áp đảo được lão Hòa-thượng này.
Suy nghĩ xong tự cho là hữu lý nên chàng gọi lớn:
– Cô nương, chúng mình mãi lo luyện tập mà quên hết việc quan trọng. Bây giờ tôi đã trực nhớ lại rồi. Từ lúc này cô tấn công theo thuật “lãng tích thiên nhai” đi nhé?
Tiểu-Long-Nữ đang băn khoăn chưa biết nên đối phó bằng cách nào, bỗng nghe Dương Quá nhắc tới bốn chữ “lãng tích yên nhai” thì sực nhớ lại như ánh chớp trong đêm đông, nàng yên chí vung rộng đường kiếm đánh đúng theo phương thức đã dạy trong đoạn chót của Ngọc-Nữ Tâm-Kinh.
Còn Dương Quá thì bình tĩnh áp dụng theo đúng kiếm pháp của Toàn-chân phái.
Lúc bấy giờ hai người mới bắt đầu thực hiện đúng đắn phép “song kiếm hợp bích”. Hai đường gươm thi đua nhau múa loang loáng như điện nháng, lanh lẹ và nguy hiểm phi thường, khiến cho Kim-Luân Pháp-Vương phải đem hết sức lực đỡ gạt mà cũng không xuể, phải nhảy lùi ra sau mấy bước.
Hồi 39
BÀY THẠCH TRẬN VÂY KHỐN KIM LUÂN
Hai đường gươm xuống qua rất mạnh, nhưng nhờ có mã giáp sắt hộ thân nên mũi kiếm chỉ trượt qua đứt sơ sơ, tuy có ra máu nhưng không nguy hiểm mấy.
Mặc dù không bị trọng thương nhưng Kim-Luân Pháp-Vương cũng đã kinh hồn hoảng vía vì hai đường gươm ấy, lật đật nhào lộn ra sau tránh các đòn khác, đang dồn dập phóng mạnh vào người ông.
Dương Quá thừa thế reo to:
– Cô nương, lúc bấy giờ nen đánh theo thế “nguyệt hạ hoa tiền” (dưới trăng trước hoa) thì hơn.
Miệng hò reo, tay vung gươm lia lịa chém trên đâm dưới vun vút, đứng ngoài nhìn vào không khác chi một luồng bạch tuyết đang bao vây cả thân hình Kim-Luân.
Lúc bấy giờ lưỡi gươm của Tiểu-Long-Nữ cũng rít lên xào xạt, xé gió ào ào lộng lên kết thành những đốm trắng linh động, không khác nào muôn ngàn đóa bạch hoa đang bay trước gió, có lúc uốn khúc như hàng đàn rắn bạc, làm cho Kim-Luân hoa cả mặt không còn biết nơi nào né tránh nữa. Ngay chỗ địch thủ đứng cũng không phân biệt được rõ ràng, thì làm sao còn chống cự cho được. Vì vậy e phải lùi ra sau múa vòng chống đỡ cầm chừng, thái độ vô cùng lúng túng.
Thấy địch thủ đang lùi dần để tìm một lối thoát, Dương Quá lại thét lớn:
– Bây giờ nên theo thế “thanh ẩm tiểu chước” (vừa rót uống) để tấn công thì vừa.
Nói vừa dứt lời, chàng chống gươm như người đang say rượu còn Tiểu-Long-Nữ lại quay ngược mũi gươm lên tựa như người đang bưng ly rượu để uống vậy.
Kim-Luân trông thấy hai người vừa đánh vừa đỡ ăn khớp cùng nhau chặt chẽ không khác gì hai người máy, mà đường gươm nào cũng rất lợi hại, vừa kỳ ảo vừa biến hóa phi thường không thể nào chống đỡ cho kịp thì trong lòng đã hoảng sợ, nghĩ bụng:
– Trời đất mênh mông, anh tài phát sinh ngày càng lắm. Hai người còn trẻ măng mà kiếm pháp lợi hại dường này, thật bên Tây Tạng chưa có ai bì kịp. Không ngờ đất Trung-nguyên lại lắm nhân tài như thế. Xưa nay ta chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung, không chịu mở mắt nhìn hết anh hùng trên thiên hạ. Bây giờ sáng mắt ra thì kể cũng hơi muộn.
Thật ra, với tài nghệ của Kim-Luân Pháp-Vương, có thể gọi được là thiên hạ vô địch. Ngay như cả hai người Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ cùng hiệp sức chiến đấu cũng không thắng nổi. Tuy nhiên nhờ cả hai đã biết khéo léo áp dụng kiếm pháp “song kiếm hợp bích” của bà Lâm-Triều-Anh sáng chế nên ông mới chịu thua sút và tránh đỡ không kịp. Kiếm pháp này tưởng trên thế gian cũng chưa có môn phái nào cao siêu bằng.
Theo kiếm pháp này, cứ mỗi chiêu số phải có một đường thuận và một đường nghịch cho trai đánh gái đỡ, hoặc gái đánh trai đỡ ăn khớp lạ thường, đối phương không thể nào dự đoán trước được. Hơn nữa, mỗi thế đều có đặc một cái tên vô cùng bóng bẩy khả ái như “cầm sắc tương hòa” (sắc cầm cùng hòa tấu), “tùng hạ đối địch” (đánh cờ dưới bóng cây tùng), “tảo tuyết phanh trà” (quét tuyết mở trà) hay “tri biện điệu hạc” (giặc hạc bên hồ). Tên gọi càng êm tai thì lối đánh đỡ càng đẹp mắt bấy nhiêu.
Nguyên Lâm-Triều-Anh là một bậc thiên tài, âm thạo cả cầm kỳ thi họa, từ ngày bị thất tình vì Vương-Trùng-Dương trở về ẩn thân trong Cổ-mộ đài đã đem hết tài năng sở trường ra sáng chế nên pho võ công này. Thật ra, Lâm-Triều-Anh biên soạn và sáng chế ra không ngoài mục đích tiêu khiển để quên những nỗi buồn lắng đọng trong tâm tư. Chính bà cũng không ngờ rằng kiếm thuật này, mười năm sau đã giúp cho một đôi nam nữ thiếu niên của phái Cổ-mộ đã áp đảo được một cường địch lợi hại nhất võ lâm hiện thời.
Có một điểm đặc biệt là, cũng đồng thời song đấu, nhưng phải là một đôi nam nữ đang yêu nhau tha thiết, có thể sống chết cùng nhau thì cuộc đấu mới thêm phần lợi hại và tuyệt diệu, diễn tả được tất cả sự huyền diệu của cặp thư hùng. Lúc đầu vì chưa hiểu hết những sự thâm thúy của kiếm thuật, hai người tập luyện có vẻ hời hợt ít hứng thú, nhưng khi gặp một kình địch lợi hại, càng đẩy càng thấy những cái hay ho tuyệt diệu của các thế kiếm đã dạy.
Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ là đôi bạn tình mới bắt đầu yêu thương nhau tuy chưa chung chăn gối, nhưng hai tâm hồn như một, cùng hòa hợp một niềm rung cảm như nhau, không khác nào Lâm-Triều-Anh trong lúc đang cảm xúc ngồi soạn thảo ra Ngọc-nữ Tâm-kinh. Cho nên cả hai càng đấu càng nhớ thêm kiếm quyết, càng đánh càng thông suốt thêm những cái tinh diệu của đường gươm, không khác gì người xe tơ đã gỡ dần ra sợi rối.
Hoàng-Dung đứng ngoài nhìn xem trận đấu, vừa chú ý theo dõi thái độ của hai người. Bà thấy Tiểu-Long-Nữ đôi má đỏ hây hây, chốc chốc nhoẻn một nụ cười e lệ liếc sang. Dương Quá thì mắt đưa mày liếc mỗi cử chỉ đều quan tâm tới dáng điệu và cảm xúc của người yêu, hình như lúc nào cũng muốn chứng tỏ cho cô nương mình biết rằng, dù cho biển cạn non mòn, gươm dao kề cổ cũng không quên nàng.
– Mặc dù chống cự với một cường địch vô cùng hung ác, nhưng hai người vẫn không hề nao núng và luôn luôn giữ một thái độ dịu dàng của một trai gái đang biển hạn non thề, bất chấp cả đến thiên hạ.
Hình ảnh của hai người khiến cho Hoàng-Dung chợt nhớ lại hồi nào mình cùng Quách-Tỉnh quen nhau, yêu nhau rồi cùng sánh nhau bao nhiêu năm trường trên cuộc đời gian nguy gió bụi. Bao nhiêu đó cũng đủ sưởi ấm được cõi lòng bà đang chua xót vì hoàn cảnh đang lâm nguy của thực tại.
Nhờ phúc chí tâm linh, Dương Quá cùng Tiểu-Long-Nữ càng đấu càng nhớ ra những thế hay và cùng sáng chế ra lắm thế kỳ diệu ác liệt hơn nữa, khiến Kim-Luân Pháp-Vương đánh đỡ gần muốn đứt hơi.
Bị dồn vào thế bí, lúc bấy giờ Kim-Luân Pháp-Vương mới hối tiếc:
– Phải chi lúc nãy ta đừng dẫm nát các bàn ghế thì bây giờ đã có nơi ẩn nấp thuận tiện rồi. Thôi, không còn cách nào hơn là tìm cách nhảy theo cầu thang xuống phía dưới thoát nạn cho rồi.
Nghĩ vậy rồi ông lùi dần lại phía cầu thang. Khi tới nơi, ông vừa đánh vừa bước xuống từng bước một.
Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ tự nhiên được chiếm ưu thế từ trên đánh xuống. Cả hai cùng có một ý nghĩ:
– Chuyến này chúng ta đã có thể trục xuất mày ra khỏi khách sạn cho mà xem.
Hoàng-Dung đứng nhìn trận đấu, thấy Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ đã khéo phối hợp lối đánh “song kiếm hợp bích” trong ngọc nữ-tâm kinh đuổi được Kim-Luân Pháp-Vương thì trong lòng rất mừng. Nhưng khi thấy lão tìm cách rút lui dần thì bà ngại rằng, nếu để hắn thoát khỏi và tìm được cách đối phó thì nguy hiểm lắm. Phải chi hai người cố gắng diệt được hắn thì quân Mông-Cổ không khác nào rắn đã mất đầu đỡ được một gánh nặng cho anh hùng Trung-nguyên và đỡ được hậu họa.
Vì vậy nên bà vội nói vọng xuống cho hai người cùng nghe:
– Qua nhi, trừ cỏ phải bứng sạch gốc, không nên để sau này nó mọc lại thì nguy hiểm lắm nhé.
Dương Quá cũng muốn làm theo lời dạy của Hoàng-Dung. Nhưng có một điều đáng tiếc là khi sáng chế ra kiếm pháp này, Bà Lâm-Triều-Anh chỉ có dụng ý phô trương những ngón lợi hại của võ công mình chứ không có ý sát hại ai. Vì vậy nên hai người chỉ có thể làm cho đối phương lúng túng chịu thua chứ không có những đòn hiểm yếu hạ sát được địch thủ.
Kim-Luân càng ngày càng bị áp lực của hai đường kiếm, vừa đánh vừa rút lui, trong bụng lo lắng không thoát khỏi chết. Gần tới đất, ông co gio đạp mạnh gãy luôn ba nấc thang rồi phóng luôn xuống đất.
Dương Quá muốn nhảy theo nhưng không kịp.
Đặt chân xuống đất, Kim-Luân đưa chiếc vòng ra thủ thế phía trước rồi nói lớn:
– Hôm nay được nếm mùi võ công của Trung-nguyên, tôi rất lấy làm thán phục. Vậy xin liệt vị vui lòng cho biết môn kiếm kỳ diệu này mệnh danh là chi?
Dương Quá vừa cười vừa đáp lại với giọng đùa cợt:
– Võ nghệ Trung-nguyên chỉ có hai môn võ tuyệt tác, ấy là “dùng bổng đánh chó” và “dùng gươm đâm lừa”.
Kim-Luân nghe lạ tai quá, lập lại:
– Dùng gươm đâm lừa! Môn võ công có cái tên cũng ngồ ngộ nhỉ?
Dương Quá ngước mặt cười to và nói luôn:
– Lừa trọc ấy chứ còn thứ nào nữa? Ngộ lắm phải không?
Lúc bấy giờ Kim-Luân mới biết ra là chàng mượn cớ để mắng mình, xem như đồ lừa đồ chó! Tụi này không bao nhiêu tuổi mà xấc láo thật!
Nghĩ đến đây, Kim-Luân giận điên lên mắng lớn:
– Súc sinh miệng còn hôi sữa. Một ngày gần đây ta sẽ cho mi nếm đòn của ta.
Nói xong ông tung vòng kêu leng keng rồi phi thân biết mất.
Dương Quá có biết đâu rằng chỉ vì những phút bồng bột nóng nổi nói những câu châm biếm móc họng đến nỗi gây thành thù hận. Về sau biết bao nhiêu thù hận liên tiếp xảy ra nguyên do cũng vì hậu quả của lối đối xử vô lễ ngày hôm nay.
Thấy Kim-Luân Pháp-Vương chỉ nhún vai một cái đã bay đi mất dạng thì biết rằng muốn đuổi theo cũng không kịp nữa nên quay mình trở lại lên lầu.
Lúc bấy giờ Đạt-nhĩ-Ma đang ôm Hoắc-Đô ngồi trên lầu cạnh bàn ăn trông thấy Dương Quá xách kiếm bước vào đứng ngay dậy hỏi nhỏ:
– Sao, tiểu huynh định hạ sát anh em tôi chăng?
Xưa nay Dương Quá có tánh ưa đùa cợt ngạo nghễ người lớn hơn, chứ không có ác ý hay muốn sát hại người. Nay thấy tình cảnh hai người đang ở trong vòng nguy biến đáng thương hại thì lòng không nỡ, nên quay sang thưa cùng Hoàng-Dung:
– Thưa Quách Bá Mẫu, ý con muốn tha bọn này, bá mẫu có bằng lòng chăng?
Hoàng-Dung gật đầu tán thành.
Dương Quá rút trong người ra một cái ống nhỏ đặt vào vết thương của Hoắc-Đô cho hút hết nọc ong ra rồi đưa thuốc bảo xoa vào chỗ ấy.
Hoắc-Đô và Đạt-nhĩ-Ma mừng quá vội dùng tiếng Mông-cổ tỏ lòng cám ơn. Sau đó, Hoắc-Đô vội lấy ra một gói thuốc bột trao cho Dương Quá mà nói rằng:
– Vị tiền bối hôm nọ múa bút bị mấy mũi đinh độc của tôi chắc nay chưa hết. Xin cứ dùng thuốc này mà thoa tự nhiên khỏi ngay.
Xong đâu đấy, Đạt-nhĩ-Ma nghiêng mình tạ ơn Dương Quá một lần nữa rồi cõng sư đệ lên lung bước ra khỏi khách sạn.
Quả nhiên y có sức khỏe như thần, tuy cõng một người to lớn trên lưng nhưng bước đi không thấy tỏ ý gì là nặng nhọc hay lán cấn.
Cả bọn võ sĩ Mông-cổ cũng lẳng lặng theo hai người bước xuống lầu.
Dương Quá cầm gói thuốc giải độc trước mặt Hoàng-Dung rồi lễ phép thưa rằng:
– Kính thưa Quách Bá-mẫu, cháu xin gửi thuốc chữa cho Chu lão tiền bối và kính lời từ biệt. Cháu nhờ Bá-mẫu chuyển lời của cháu kính thăm Quách bá bá.
Hoàng-Dung hỏi:
– Cháu định đi đâu bây giờ?
Dương Quá đáp nho nhỏ:
– Thưa bá mẫu, cháu định cùng Cô nương đây tìm nơi hoang vắng xa xôi ẩn dật, nguyện không bao giờ chung đụng với đời để làm hại đến thanh danh của bá mẫu.
Hoàng-Dung suy nghĩ:
– Dương Quá không nệ tử sanh, liều mình giải cứu mẹ con ta thì ơn này rất trọng. Nay vì tuổi trẻ để cho chữ tình làm mê muội mai một cuộc đời anh kiệt. Ta lẽ nào làm ngơ mà không tìm cách giác ngộ được nó ra khỏi bến mê?
Nghĩ xong bà nói lớn:
– Đi một ngày một đi, làm chi mà tội thế cháu? Hôm nay là ngày đoàn tụ vui mừng của bác cháu và anh em trong gia đình. Vậy cháu hãy ráng ở lại với bác một vài hôm rồi sẽ đi không muộn.
Thấy Hoàng-Dung đã lùng lời lẽ thắm thiết để lưu mình, chẳng lẽ chối từ mãi, nên đành phải nhận lời.
Hoàng-Dung lấy tiền ra bồi thường cho khách sạn về chi phí ăn uống cùng những đồ đạc bàn ghế bị hư hao trong cuộc chiến đấu vừa qua, rồi bảo dọn phòng nơi quán trọ gần đó tạm nghỉ.
Cơm chiều vừa xong, bà sai Quách-Phù và hai anh em họ Võ mời Tiểu-Long-Nữ sang trò chuyện.
Khi Tiểu-Long-Nữ vừa tới bà tươi cười nói:
– Tôi có vật này, muốn tặng Cô em để lưu làm kỷ niệm của buổi gặp gỡ hôm nay.
Tiểu-Long-Nữ hỏi:
– Bà có lòng thương tặng món gì vậy?
Hoàng-Dung kéo Tiểu-Long-Nữ lại sát bên mình, lấy lược chải tóc cho nàng như một người em gái.
Mái tóc nhung của nàng xõa xuống ngang vai óng ánh như tơ trông vừa ngây thơ vừa ngộ nghĩnh.
Sau khi chải chuốt xong xuôi bới tóc gọn gàng, bà lấy một chiếc trâm bằng vàng đem cài lên mái tóc của nàng rồi nói:
– Chị muốn tặng cô em chiếc trâm này dùng để cài tóc nhé.
Chiếc trâm này là một món bảo vật quý giá vô cùng. Toàn thân giống như một cành hoa hòa chạm trổ rất tinh xảo, có những đóa hoa hàm tiêu dính ở đầu trâm, khiến ai mới trông qua cũng phải trầm trồ là mỹ thuật. Càng xem lâu càng thấy những cái quý giá trong nét chạm và lối trình bày.
Chiếc trâm này nguyên lai do phụ thân Bà là Hoàng-Dược-Sư, Chúa đảo Đào-Hoa, chuyên môn sưu tầm những bảo vật của thiên hạ, sau này lựa những viên ngọc thật quý và vàng ròng đem chạm thành chiếc trâm này cho con gái. Xem thế cũng đủ biết trâm này giá trị là dường nào.
Từ lúc nhỏ, Tiểu-Long-Nữ chỉ cài bằng nữ trang tầm thường, bằng sừng hoặc xương hoặc kết bằng cỏ. Nay được Hoàng-Dung tặng một chiếc trâm bằng vàng dát ngọc quý báu thì mừng lắm, cám ơn luôn mồm.
Sau khi cài trâm trên tóc nàng rồi, Hoàng-Dung thủ thỉ nói chuyện luôn mồm ra chiều tương đắc lắm.
Qua những câu chuyện hàn huyên, Hoàng-Dung nhận thấy Tiểu-Long-Nữ bản chất thành thật, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy và cuộc đời chẳng có một tý kinh nghiệm nào hết. Mặt nàng tươi như hoa phù dung buổi sáng, thân hình óng ả kiều diễm, càng ngó càng đẹp.
Thấy nàng quá xinh, Hoàng-Dung suy nghĩ:
– Nếu như nàng cùng Dương Quá không có nghĩa thầy trò, hai đứa lấy nhau quả xứng đôi vừa lứa, gái sắc trai tài, thế gian chắc không đôi nào sánh kịp.
Suy nghĩ xong bà dịu giọng hỏi nhỏ:
– Này cô em, quả em có thật tình yêu thương Dương Quá hay chỉ nói đùa cho vừa lòng nó?
Tiểu-Long-Nữ cười tươi như hoa và nói:
– Dạ thương thật chứ. Nhưng tại sao bà lại hỏi như vậy, chẳng hay có điều gì can hệ chăng?
Nghe Tiểu-Long-Nữ trả lời một cách thẳng thắn và hồn nhiên. Hoàng-Dung bỗng chạnh lòng nhớ lại ngày còn niên thiếu. Hồi ấy bà và Quách-Tỉnh yêu thương nhau tha thiết, nhưng cha mình lại không chịu gả cho chàng, ngoài ra bọn Giang nam Thất quái, sư phụ của Quách-Tỉnh cũng không bằng, lòng họ xem nàng là yêu nữ và buộc Quách-Tỉnh phải xa lánh nhất thiết không cho gần mình. Cả hai người phải trải qua trăm cay ngàn đắng, vào tử ra sinh, nhưng rốt cuộc rồi cũng lấy nhau làm chồng vợ có con có cái cho tới ngày nay.
Liên hệ tới cặp này bà suy nghĩ:
– Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ đã thật tình yêu nhau tha thiết, có khác nào chúng mình xưa kia. Vậy thì mình nỡ nào đi chia rẽ họ cho đành lòng. Ngặt một nỗi là hai đứa đã mang danh thày trò quá rõ rệt trên dưới phân minh, nếu để xảy ra chuyện bướm ong bậy bạ sao khỏi mang tiếng loạn luân. Cả hai đều tài nghệ tuyệt vời, tương lai đầy hứa hẹn, nếu vương phải tội lỗi này thì cũng như chôn cả cuộc đời rồi còn mặt mũi nào nhìn anh hùng trong thiên hạ nữa.
Suy đi nghĩ lại xong, bất giác Bà chiếp miệng thở dài não ruột, rồi quay sang Tiểu-Long-Nữ nhỏ nhẹ nói:
– Long cô-nương này, em còn thiếu kinh nghiệm chưa hiểu việc đời mấy. Chị dù sao cũng đã từng trải hơn nhiều, tuy không tài chỉ hơn em nhưng cũng có thể thấy được nhiều chuyện lạ, cái hay thì theo, cái bậy nên tránh. Sở dĩ con người hơn được thú vật là vì biết điều phải trái và không để ái tình làm ngu muội. Nếu làm người mà mải mê theo tình ái quên cả lý chí thì thiên hạ cho là “thú tính” nghĩa là không hơn chi loài súc vật. Chị chỉ ngại rằng, nếu sau này em lấy Dương Quá sẽ bị thiên hạ chê cười khinh khi và không ai thèm nhìn tới mặt hai người nữa đấy.
Tiểu-Long-Nữ nghe nói đã buồn lòng, nhưng vẫn cười gượng đáp:
– Thiên hạ nhìn hay không, đối với chúng tôi có can hại gì đâu.
Nghe nói như vậy, Hoàng-Dung suy nghĩ:
– Cô bé này không phải hạng muốn xem thường dư luận, nhưng có lẽ từ bé chí lớn, sống trong Cổ-mộ, không giao thiệp với xã hội bên ngoài, chỉ chuyên về võ nghệ nhưng không am hiểu mấy về lễ nghi, đạo đức. Cũng như ngày nay, tại các nhà trường, mấy thầy giáo chỉ chú trọng dạy viết chữ thật đẹp, làm văn cho thật hay, chứ mấy ai lưu tâm tới chuyện luân thường đạo lý, đào luyện đạo đức cho con em? Thật đáng ngán thay cho những hạng thày giáo chỉ nhắm về bát gạo nồi cơm. Nếu thiên hạ chỉ toàn những hạng như thế này thì xã hội còn nhiều sự đảo lộn xấu xa hơn nữa.
Suy nghĩ xong bà nói tiếp:
– Cô em không cần tới họ đã đành, nhưng còn Dương Quá chẳng lẽ cũng như thế sao?
Tiểu-Long-Nữ đáp:
– Xin bà chị chớ lo điều đó. Nay mai hai chúng em sẽ trở về Cổ-mộ, sống ẩn tích mai danh, xa rời xã hội loài người, có cần gặp gỡ hay tiếp xúc với ai nữa đâu?
Hoàng-Dung giả bộ ngơ ngác hỏi tiếp:
– Thế ra một khi đã về Cổ-mộ rồi cả hai sẽ vĩnh viễn ly khai với xã hội loài người hay sao?
Tiểu-Long-Nữ quả quyết đáp:
– Dạ đúng như vậy. Bà chị cũng thừa hiểu trong xã hội không biết bao nhiêu là hạng người điêu ngoa xảo trá, tiếp xúc với họ chỉ thêm bực mình mà thôi.
Nàng vừa nói vừa lăng xăng đi đi lại lại trong phòng hình như để cởi mở bớt những nỗi bực trí đang tràn ngập trong tâm hồn.
Hoàng-Dung bắt đầu gợi lại câu chuyện:
Dương Quá sống cuộc đời phiêu bạt từ thuở bé, nay đây mai đó không khác nào cánh chim trời tung mây lướt gió.
Tiểu-Long-Nữ cười xòa đáp với giọng đầy tin tưởng:
– Bà chị không cần phải lo nghĩ về điểm đó. Một khi đã có em bên cạnh tự nhiên anh ấy sẽ thấy yêu đời, quên cả bao nhiêu cảnh xảo trá phiền phức bên ngoài ngay. Chừng ấy em chắc chắn anh ấy không buồn chán đâu.
Hoàng-Dung thở dài than nhỏ:
– Lòng người đâu phải sắt đá mà cứ mãi mãi trơ trơ đến muôn đời không thay đổi. Chị ngại rằng trong thời gian ba năm Dương Quá chưa buồn chán, nhưng sau đó khi cuộc đời vắng lạnh trong Cổ-mộ đã thấy buồn tẻ, thế nào y cũng nhớ lại những cảnh phồn hoa vui vẻ ngoài đời, chừng ấy, em có đủ sức giữ chân y nữa hay không? Chừng ấy, em sẽ đóng vai một góa phụ sống với chuỗi ngày vò võ một thân một bóng trong rừng sâu, và trong những phút cô độc, suy nghĩ lại những lời hôm nay, em sẽ thấy chị là kẻ sành đời, có tài đoán trước được mọi việc. Chừng ấy dù có hối tiếc thì cũng đã muộn rồi. Chi bằng ngay bây giờ, khi bàn tay chưa nhúng phải chàm, em nên đắn đo suy nghĩ lại trước khi hành động.
Nói tới đây bà đổi lại giọng thân mật hơn trước:
– Tục ngữ có nói: “Đàn ông năm bảy tấm lòng, lòng yêu thương vợ, lòng yêu người ngoài”. Một khi hoa đã biết bướm thì dù ai có mãnh lực gì đi nữa cũng không thể nào giữ mãi không cho bướm rời hoa đâu nhé.
Nghe Hoàng-Dung nói, dần dần thấy cũng có lý. Tiểu-Long-Nữ đứng lặng yên cắn môi suy nghĩ, bao nhiêu ý nghĩ trái ngược nhau đã bắt đầu tranh chấp và gây sóng gió trong lòng nàng. Một chập sau nàng mới nói:
– Vậy để em tìm cách dò xét ý tứ Dương Quá xem sao?
Nói xong nàng lẳng lặng bước lanh ra ngoài.
Hoàng-Dung đưa mắt nhìn theo miệng lẩm bẩm khen vùi:
– Con người như nàng quả nhiên xinh đẹp, mặt như hoa phù dung, thân hình mảnh mai như cành liễu yếu. Dáng bước đi không khác gì nàng tiên đang lả lướt bên cánh hoa soi hình dưới bóng nguyệt! Một con người dễ thương như thế này đáng lẽ phải được hưởng chữ hạnh phúc hoàn toàn mới phải. Vì chữ luân lý và lễ nghĩa ta buộc lòng xen vào, làm phá vỡ cuộc tình duyên của hai đứa thật cũng quá tội. Nhưng thôi, thà rằng cực lòng trước để khỏi đau lòng sau.
Nghĩ tới đây bà bỗng chợt nghĩ:
– Tánh nàng thiệt tình như đếm, không biết sẽ dùng lời lẽ chi để dò ý Dương Quá đây? Ta phải rình nghe cho biết.
Nghĩ xong bà rón rén bước lại cạnh phòng Dương-Qua, áp tai vào vách tường nghe thử.
Lúc ấy phía trong, Tiểu-Long-Nữ đã hỏi Dương-Qua:
– Này Qua nhi, hiện tôi cũng nhận rằng cậu hết tình yêu thương tôi. Nhưng một thời gian qua, mối tình này sẽ chán chê rồi phai lạt đi, chừng ấy cậu sẽ nghĩ sao nhỉ?
Bỗng nhiên thấy Cô nương có ý nghĩ lạ đời như vậy, Dương Quá lạ lùng vô cùng không biết nguyên nhân vì đâu, nhưng cũng đáp:
– Tại sao cô nương bỗng cố ý tưởng khác đời như thế? Hễ yêu nhau thì yêu mãi cho tới khi đầu bạc răng long, chứ đâu có chuyện nửa chừng rồi chán nản được.
Câu trả lời này khiến cho Tiểu-Long-Nữ cảm động đến ứa lệ, nàng bồi hồi đứng lặng một hồi rồi nói tiếp:
– Được vậy thì có gì hơn. Tôi chỉ sợ nói thì dễ nhưng không giữ được thủy chung đó thôi.
Nói xong nàng rút chiếc trâm trên đầu xuống móc lên tường rồi bảo nhỏ:
– Khuya rồi, chúng ta ngủ đi, sáng sẽ hay.
Dương Quá nói:
– Vừa rồi nghe Quách bá-mẫu nói đêm nay Cô nương cùng ngủ chung phòng với mẹ con bà, còn tôi ngủ với anh em nhà họ Võ, thế sao cô nương lại về đây để ngủ?
Tiểu-Long-Nữ gay gắt đáp:
– Mặc kệ! Ai lại để cho hai người đàn ông lạ hoắc ngủ chung trong phòng cậu cho được. Ta cứ ngủ đây chứ không đi đâu hết có sao không?
Nàng nói xong thổi ngay ngọn đèn.
– Té ra Triệu-chí-Kính đã nói đúng sự thật. Thì ra hai thầy trò hắn đã bậy bạ cùng nhau lâu rồi. Thôi, trai gái nó ngủ chung phòng nói chuyện nhảm nhí ta hơi đâu nghe ngóng cho mệt và mất thể giá.
Nghĩ xong bà định cất bước đi nơi khác. Nhưng bỗng nhiên trong phòng có tiếng mở cửa kêu kẹt một cái. Bà liền nán lại lắng tai nghe nữa.
Tiếng kẹt đó là do Dương Quá mở cửa cho gió thổi vào trong phòng. ánh trăng từ cánh cửa lùa vào trong phòng trông rõ hết mọi vật. Bà định thần nhìn lại thì thấy Tiểu-Long-Nữ nằm trên chiếc võng treo tận nóc nhà, còn Dương Quá thì nằm trên giường kê phía đàng xa. Té ra mặc dù hai người cùng ngủ một phòng nhưng vẫn phân biệt và giữ đúng lễ nghi khuôn phép, không có điều gì tà dạy.
Hoàng-Dung làm thinh, chấp tay sau đích thủng thẳng bước đi ra ngoài, trong lòng phân vân quyết làm sao cho đúng tâm trạng và hành động của cặp này.
Khi bà về tới phòng ngủ bỗng gặp Quách-Phù và hai anh em họ Võ cũng vừa đi lại.
Bà bèn bảo nhỏ:
– Tu-Văn, Đôn-Nho, hai con nên về phòng mà ngủ, không cần phải tới phòng Dương Quá nữa nhé.
Hai anh em họ Võ cuối đầu tuân lệnh.
Quách-Phù ngạc nhiên hỏi:
– Vì sao thế mẫu thân?
Hoàng-Dung chỉ trả lời suông một câu:
– Việc không can hệ tới con, chớ hỏi vô ích.
Võ-Tu-Văn đứng gần hơn, nghe nói chế nhạo với một giọng vừa pha trò vừa mỉa mai.
– Có gì mà không hiểu? Bọn này trò không ra trò, thầy chẳng nên thầy, lúc nào cũng có thể ăn chung ngủ lộn, có khác chi đồ súc vật đâu?
Hoàng-Dung hừ một tiếng rồi nghiêm giọng bảo nhỏ:
– Ta cấm không được có những lời lẽ như thế nữa.
Võ-Đôn-Nho nói thêm:
– Nước này mà Sư mẫu còn bên chúng làm chi nữa. Đối với những hạng người vô liêm sỉ, thiếu luân thường như chúng nó, con không thèm trò chuyện cho uổng miệng.
Quách-Phù gạt ngang hỏi:
– Thôi đừng nói nữa. Dù sao họ cũng có công cứu mạng chúng ta. Phải xem họ như những người có ơn lớn và cư xử cho phải phép. Còn chuyện riêng của họ làm sao mặc kệ, chúng ta không nên đinh dự vào mà phê phán. Để có trời đất chừng trị.
Võ-Tu-Văn bỉu bôi ra vẻ anh hùng:
– Ân nghĩa làm chi với bọn người vô luân. Thà để tôi chết về tay của Pháp-Vương Mông-Cổ còn hơn bắt phải chịu ơn cái thằng súc sinh ấy.
Hoàng-Dung không bằng lòng bảo nhỏ:
– Thôi chớ khá lắm lời, hãy đi ngủ cho rồi.
Câu chuyện đối đáp giữa Hoàng-Dung và ba người, trong phòng Dương Quá và Tiểu-Long-Nữ nghe rõ mồn một, không sót một câu.
Ngay từ lúc nhỏ, Dương Quá và hai anh em họ Võ đã đối với nhau không hạp ý, và lúc nào chàng cũng xem hai người như hạng tiểu nhân dưới tay, nên tuy nghe nói xấu mình, vẫn không thèm chấp nhặt. Nhưng Tiểu-Long-Nữ thì trái lại. Nàng luôn luôn thắc mắc tự hỏi:
– Tại sao ta cùng Dương Quá yêu nhau mà họ lại tỏ ý khinh miệt và oán ghét như thế ấy. Tại sao họ dám bảo chúng ta như đồ súc vật?
Nàng suy nghĩ mãi không tìm ra nguyên nhân, và đêm ấy cứ chập chờn mãi không ngủ được.
Đêm càng khuya, tư bề càng tịch mịch. Tiếng dế dun kêu ri ri hòa lẫn với tiếng gió đưa cành lá ngoài hè thành một âm thanh não ruột, càng nghe càng buồn thêm. Tiểu-Long-Nữ trằn trọc mãi không ngủ được, bèn gọi Dương Quá dậy nói:
– Qua-nhi, ta có câu chuyện muốn hỏi ý kiến cậu. Nên thành thực trả lời cho ta nhé. Đừng nói dối mà đắc tội đấy.
Đang ngủ mơ màng bị đánh thức dậy, Dương Quá vội hỏi ngay:
– Chuyện gì Cô nương cứ hỏi, không khi nào tôi có điều gì man trá đối với cô nương đâu.
(Xin lỗi bạn đọc, truyện bị thiếu 2 trang)
Nghĩ tới đây, chàng đau đớn quá ngất xỉu trên đất.
Một chặp sau, chợt tỉnh dậy, tâm thần thác loạn, Dương Quá lồng lộng như ác thú bị thương, xô cửa ầm ầm, miệng kêu thảm thiết:
– Cô nương, cô nương ơi!
Vừa nghe kêu, tiểu nhị vội chạy vào hỏi tự sự. Vừa trông thấy tên Tiểu-nhị, Dương Quá mếu máo hỏi:
– Cô gái áo trắng đã đi ra từ lúc nào và đi ngõ nào rồi. Chú có biết xin làm ơn chỉ dùm.
Tiểu-nhị nào biết ất giáp chi, chỉ đứng lặng thinh, không đáp được.
Lòng rối như tơ vò, Dương Quá nghĩ bụng:
– Nếu chuyến này không tìm ra thì ngàn đời xa cách mãi.
Nghĩ xong, chàng đi xâm xui ra chuồng ngựa dắt ngựa ra, leo vội lên lưng phóng càn về hướng Bắc.
Khi ấy Quách-Phù vừa thức dậy từ trong bước ra, thấy Dương Quá phi ngựa chạy đi vội gọi lớn:
– Dương ca ca, đi đâu sớm vậy. Có chuyện gì gấp rút thế?
Dương Quá không thèm nghe cũng không buồn đáp lại, giơ roi cho ngựa phi mau như gió thổi, chỉ trong nháy mắt đã vượt ra ngoài hai mươi dặm rồi.
Ngồi trên mình ngựa chạy bất kể phương hướng. Dương Quá kêu gọi như một người tuyệt vọng:
– Cô nương ơi, cô nương! Cô nương đi ngã nào rồi?
Thấy bóng nữ lang nào mặc áo trắng chàng cũng tưởng là Tiểu-Long-Nữ vội vàng chạy tới ngay, khi tới gần nhìn lại không phải. Rồi chàng lại lủi thủi bỏ đi nơi khác.
Lầm lũi chạy thêm một quãng nữa bỗng gặp Kim-Luân Pháp-Vương và bọn tùy tùng đang cỡi ngựa đi về hướng Tây.
Kim-Luân Pháp-Vương nhìn thấy Dương Quá một người một ngựa chạy như điên không có định hướng, thì ngạc nhiên lắm, vội vàng quay ngựa chạy qua chận đầu.
Trong khi ấy Dương Quá không một tấc sắc trong tay, lại gặp đại cường địch đón đầu, thật vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên vì đang bận tâm tìm kiếm Tiểu-Long-Nữ không có, chàng bất chấp mọi việc nào khác, và dù thần chết đứng kề bên lưng cũng không thèm đếm xỉa.
Thấy Kim-Luân Pháp-Vương giục ngựa lại chận đường, Dương Quá đã không lẩn tránh lại còn dừng lại hỏi lớn:
– Này, ông có gặp Sư phụ tôi đi về hướng này hay không?
Kim-Luân Pháp-Vương thấy Dương Quá không lánh mặt mình đã cho một chuyện lạ lùng, nay thấy chàng hỏi như vậy lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bèn đáp lại:
– Không gặp. Vậy cô ấy không đi cùng lối với người sao?
Vốn là tay thông minh xuất chúng, nên sau mấy câu nói chuyện, Dương Quá chợt tỉnh ngộ và nhận xét ngay cục diện đã xảy ra như thế nào rồi. Chàng bỗng nghĩ bụng:
– Mình tới đây, trong tay không có binh khí tùy thân, tại sao còn đứng lại nộp mạng cho nó?
Kim-Luân Pháp-Vương thì mừng rỡ nghĩ:
– Nó tới đây một mình, ta không thừa dịp bắt cổ đi, còn chờ khi nào nữa chứ?
Ông bèn xông tới, đưa tay chộp lấy. Ngay khi đó Dương Quá đã cho ngựa bước lùi ra sau nên chộp không trúng.
Kim-Luân bèn thúc ngựa tiến thêm lên cố bắt cho được.
Lời tục có nói “đường dài biết sức ngựa, nước loạn biết trung thần! Trong lúc này mới biết con ngựa ốm của Dương Quá là một thần mã.
Vừa thấy Kim-Luân phi tới trước thì nó đã tung bốn vó nhảy vụt qua đầu rồi phi thân phóng xa gần mười trượng mới đặt chân xuống đất lao vút tới như tên bắn. Kim-Luân tuy có ngựa cũng khá hay nhưng cũng không tài nào đuổi theo kịp nữa.
Chạy theo một chặp nhưng không theo kịp, Kim-Luân nghĩ bụng:
– Thầy trò nó đã thất lạc rã rời, ta cần chi phải đuổi theo cho nhọc sức.
Bỗng nhiên ông nghĩ thêm chuyện khác:
– Hắn còn đây, có lẽ mẹ con Hoàng Bang-Chủ cũng còn lẩn quẩn đâu đây chứ chưa đi xa. Chi bằng ta quay lại đi tìm cầu may xem sao.
Nghĩ xong, ông dẫn bọn tùy tùng quay trở lại.
Dương Quá phi ngựa như bay, chạy hơn hai chục dặm mà không thấy bóng dáng Tiểu-Long-Nữ đâu hết.
Trong lòng nôn nóng hơn lửa đốt, chàng phi ngựa chạy tán loạn, mấy lần suýt té nhà xuống ngựa.
Chàng ôm chặt lấy cổ ngựa, miệng la lớn như nói trong mơ:
– Cô nương ơi, nỡ lòng nào bỏ tôi cho đành? Tôi đã làm gì nên tội mà Cô nương lại đối xử tình tệ như vậy, Cô nương ơi?
Tiếng chàng kêu thật bi ai tha thiết, miệng thì la mà hai hàng nước mắt chảy ra không ngớt.
La một chập mệt quá, chàng ôm cổ ngựa suy nghĩ:
– Hay là tại mình bảo nếu chán Cổ-mộ thì cùng ra ngoài, nên Cô nương cho mình là người không chung thủy nên tức bực ra đi lần nữa chăng?
Nghĩ vậy, chàng lau nước mắt rồi tự nhủ:
– Cô nương nhất định trở về Cổ-mộ chứ không đâu xa. Ta cứ trở về tự nhiên sẽ gặp ngay.
Nghĩ xong chàng giục ngựa nhắm hướng về Cổ-mộ chạy như gió cuốn.
Đường về phương Bắc xa cách nghìn trùng, nhưng trong lòng nôn nóng gặp lại người yêu, nên Dương Quá bền chí cho ngựa chạy mãi mà không thấy ngán.
Để đỡ buồn, chàng ngồi trên mình ngựa hát nghêu ngao.
Vừa đi vừa hát, không bao lâu đã đúng ngọ. Lúc bấy giờ trong bụng Dương Quá đã thấy đói. Chàng dừng ngựa ghé lại cái quán nhỏ bên đường mua vài tô mì ăn đỡ dạ.
Khi ăn xong, thò tay vào túi thấy không còn một xu nhỏ. Dương Quá vừa lo vừa thẹn không biết tính làm sao đây. Cuối cùng chàng đánh liều chờ khi chủ tiệm vô ý nhảy phóc lên ngựa chạy như tên bắn.
Vừa chạy chàng vừa nghe văng vẳng tiếng chủ tiệm chưởi bới om cả lên. Dương Quá nghĩ thầm:
– Họ chửi cũng đáng lắm.
Chạy mãi mặt trời đã xế bóng và ánh tà dương cũng dần dần sắp tắt. Phía trước mặt là một khu rừng cây cối rậm rạp, có vẻ vắng vẻ hoang vu.
Khi đến cạnh ven rừng, bỗng nhiên từ bên trong có tiếng bình khí chạm nhau leng keng rang rảng, xen vào là tiếng quát tháo om sòm.
Lạ quá, chàng vội giục ngựa tới gần, lắng tai nghe ngóng.
Rõ ràng là tiếng nói của Quách-Phù và Kim-Luân Pháp-Vương.
Dương Quá đoán chắc thế nào cũng có việc không lành xảy ra cho mẹ con Hoàng-Dung rồi.
Chàng liền buộc ngựa vào gốc cây, len lén bước vào, nhón gót nghểnh cổ nhìn vào. Cách đó hơn mười trượng, ngay phía trước mặt dưới mấy cây cổ thụ cành lá sum suê, hai mẹ con Hoàng-Dung và anh em họ Võ đang chống đối cùng Kim-Luân Pháp-Vương, cạnh nhiều đống đá chập chồng lởm chởm.
Hai anh em họ Võ đã bị thương, mình mẩy đầm đìa cả máu. Hoàng-Dung đầu tóc bơ phờ, quần áo, xốc xếch, tinh thần bối rối trông thấy rõ ràng.
Dương Quá nghĩ bụng:
– Nếu cục diện kéo dài, bốn người này nếu không bị bắt sống, nhất định cũng phải tán mạng dưới chiếc vòng ác nghiệt của Kim-Luân.
Chàng nghĩ thêm:
– Không có cô-nương, nếu một mình ta nhảy vào chẳng những không đối lại hắn mà nhiều khi còn phải nguy hiểm là khác nữa. Tuy nhiên, trông thấy người quen bị nạn thì cũng không thể làm ngơ cho được.
Trong lúc đang phân vân suy nghĩ chưa biết nên làm gì, thì Kim-Luân đã vung vòng sắt tấn công kịch liệt.
Hoàng-Dung không dám chống đỡ, vội nhảy lùi ra trốn sau một đống đá gần bên.
Dương Quá nhìn thấy lấy làm lạ vô cùng. Anh chú ý thử Quách-Phù và hai anh em họ Võ làm gì. Khi thấy Kim-Luân Pháp-Vương tung vòng ra đánh, thì cả ba ngồi xuống nấp vào các mô đá chập chùng nhấp nhô.
Bọn Đạt-nhĩ-Ma cùng đứng vây vòng tròn xung quanh đó chứ không chịu xông vào để bắt.
Cứ nhìn thần sắc Quách-Phù và hai anh em họ Võ thì thấy cả ba đều có vẻ tin tưởng và yên chí ở phía sau các đống đá ấy lắm.
Dương Quá ngạc nhiên vô cùng. Chàng không thể tưởng tượng được những chồng đá tầm thường như thế kia mà lại có phép mầu nhiệm ngăn cản Kim-Luân Pháp-Vương không xâm phạm tới bọn Hoàng-Dung và khiến Bà đã chuyển nguy thành yên.
Suy nghĩ một chập chàng bỗng chợt nhớ ra:
– à, hay là “loạn thạch trận” đây chăng? Như vậy sao anh em họ Võ không nhân cơ hội nầy tẩu thoát đi cho rồi?
Kim-Luân Pháp-Vương cứ đánh mãi nhưng không hạ được hai mẹ con Hoàng-Dung. Còn bao nhiêu bọn võ sĩ Mông-Cổ hễ tên nào hại dân đều bị Quách-Phù đâm chết hết cả. Kim-Luân đoán chắc trong đống đá ngổn ngang này thế nào cũng có điều huyền bí hay Hoàng-Dung đã bố trí mưu thần chước quỷ chi đây. Muốn khỏi lầm mẹo địch, cần phải thận trọng xem xét cho kỹ rồi mới hành động được, lần này làm sao cũng phải tóm cổ cả bọn cho hết mới xong.
Mặc dù không xông ra trận địa, nhưng Kim-Luân vốn là một kẻ nhiều mưu lược, ý nghĩ rằng:
– Mặc dù chúng có chỗ lánh thân, nhưng thân chung không khác gì chim lòng cá chậu, không thể nào trốn thoát đi đâu cho được. Mình cứ bình tĩnh xem xét thật kỹ để hiểu rõ những bí ẩn của nơi này rồi tấn công luôn.
Nghĩ xong cho là đắc sách, Kim-Luân ra lệnh cho đồng bọn rút lui ra sau, và chính bản thân ông cũng lùi xa trận địa mấy trượng.
Bọn Đạt-Nhĩ-Ma và tu võ sĩ Mông-Cổ lùi ra xa hơn, đứng phía sau Pháp-Vương chờ lệnh.
Đứng ngoài nhìn vào Kim-Luân Pháp-Vương suy nghĩ:
– Nếu đây là một trận đồ thì nhất định phải bố trí theo hình “thái cực” biến hóa theo “lưỡng nghi” và “ngũ hành bát quái”. Chi bằng ta áp dụng theo phương thức “ngũ hành tương khắc” để phá thì nhất định phải thành công.
Suy nghĩ lại một chặp ông nhìn lại lần nữa, xem hai bên tả chi và hữu dực lại thấy biến hóa khác rồi, thật là kỳ khu, nên ông không biết tính sau cứ đứng nhìn trân như tượng gỗ.
Dương Quá đứng đàng xa chú mục nhìn theo, thấy Kim-Luân đứng đờ người suy nghĩ. Bỗng nhiên trong ánh mắt của ông lóe lên luồng hào quang sáng rực, hình như ông vừa tìm được cách phá trận này rồi.
Bỗng nhiên Kim-Luân nhún mình phi thân vào giữa trận, đưa tay chộp Quách-Phù kéo ra.
Hoàng-Dung và anh em họ võ kinh hồn hoảng vía, vì ai ai cũng đinh ninh Quách-Phù thế nào cũng bị hạ. Muốn xông ra cứu thì nguy hiểm tới tánh mạng ngay, còn làm ngơ không cứu, thì tình mẫu tử phải cắt đứt phen này.
Thật ra trong lúc chưa nghĩ được cách phá trận, Kim-Luân bèn giả bộ đứng đờ người ra nhìn sững, mục đích đánh lừa mọi người.
Quách-Phù tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, thấy y đứng nhìn sững, tưởng không nguy hiểm nên mon men ra ngoài bìa trận để theo dõi hành động ra sao. Bất ngờ Kim-Luân triển thi khinh công tối thượng, phóng mình lại bắt nàng không thể nào thoát khỏi. Nắm được Quách-Phù rồi. Kim-Luân đã điểm huyệt ngay. Nhưng y dụng ý điểm vào huyệt khiến cho nàng bị tê liệt cả người nhưng vẫn biết đau đớn và kêu la, khiến cho Hoàng-Dung nóng lòng xông ra cho y bắt luôn thể.
Quả nhiên nghe tiếng con gái la khóc, Hoàng-Dung quá đau lòng không thể nào dằn được, bèn phi thân nhảy ra khỏi trận, ôm lấy Quách-Phù, định nhảy trở vào trận đá.
Mừng quá, Kim-Luân lập tức tung vòng sắt ra đập tới. Lúc ấy Dương Quá đứng ngoài theo dõi thấy Hoàng-Dung vì nóng lòng mắc kế Kim-Luân, trong bụng đã hoảng hốt muốn la lên nhưng không còn kịp nữa. Khi Hoàng-Dung vừa dợm chân nhảy vào thì chiếc vòng sắt đã tung lên và đập tới như núi sập. Dương Quá lập tức phi thân tới ngay vừa lúc chiếc vòng đánh xuống.
Vì trong tay không có sẵn võ khí, Dương Quá bèn cúi xuống bê một tảng đá to tướng, sức nặng non ngàn cân, ném mạnh vào chiếc vòng, nghe choang một tiếng điếc ráy. Chiếc vòng bị táng quá mạnh, sút khỏi tay Kim-Luân rơi xuống đất, Hoàng-Dung thừa cơ hội bồng Quách-Phù nhảy vào trận loạn thạch.
Kim-Luân thấy Dương Quá lại xuất hiện, bất ngờ đánh rơi vũ khí mình thì nổi giận, nhưng mỉm cười bảo:
– Hay lắm, hôm nay lại gặp chú mi. Như thế khỏi nhọc công tìm đâu xa nữa.
Thật ra lần này tay không xông vào vòng chiến, chẳng qua cũng vì lòng nghĩa hiệp, chứ thật tình Dương Quá đâu có muốn, và chàng cũng chẳng thiết một việc gì hết. Khi đã đứng vào thạch trận, chàng bỗng giật mình suy nghĩ:
– Phen này lâm trận, tức nhiên đã đem thân vào cõi chết. Thôi còn hy vọng nào được tái ngộ cùng Cô nương nữa.
Thấy Dương Quá đột nhiên cứu được hai mẹ con mình, Hoàng-Dung chép miệng than nhỏ:
– Qua con, đây là lần thứ mấy, con đã liều thân cứu mạng của ta và em Phù?
Dương Quá thưa:
– Sao bá mẫu lại nói chỉ lời đó. Chẳng qua là bổn phận của con đó thôi, có gì mà ơn đức. Nếu gặp bá mẫu bi nạn mà làm ngơ thì còn đâu là khí tiết của con người hiệp nghĩa.
Hoàng-Dung than tiếp:
– Sao con giàu lòng hiệp nghĩa thế. Mà sao cha con thì… trái lại? Nói tới đây bà bỗng nín bặt.
Dương Quá cảm động hỏi qua giọng nói run run:
– Thưa bá mẫu, lúc sanh tiền cha con như thế nào? Người có làm hại những ai, và hại nhiều lắm không?
Hoàng-Dung lắc đầu nói:
– Bảo hai nhiều thì khong đúng đâu, nếu con thích nghe bác sẽ kể lại cho.
Nhưng nói tới đây, bà bỗng rú lên thật lớn:
– Con xem chừng, hãy nấp vào đống đá, lão Hòa-thượng Kim-Luân đang đánh lén kia kìa.
Dương Quá nghe theo ngồi ngay xuống phía sau một đống đá.
Ngồi yên, chàng nhìn lại trận đá thấy huyền bí lạ lùng, trong lòng hết sức thán phục bèn hỏi Hoàng-Dung:
– Bá mẫu, như thế này thì tài trí của bá-mẫu thật thiên hạ ít kẻ dám bì.
Hoàng-Dung chỉ mỉm cười không đáp, bà cúi xuống giải huyệt cho Quách-Phù. Được mẹ giải huyệt xong, Quách-Phù nói:
– Anh biết không? Trận pháp này mẹ em học của ông ngoại em đấy anh có nghe nói về ông ngoại của em chưa?
Khi còn ở Đào-Hoa đảo, Dương Quá cũng có biết qua Hoàng Dược-sư và chứng kiến tài lực siêu phàm của ông. Ngặt vì lúc ấy hãy còn quá nhỏ nên chàng biết và nhớ chuyện chi. Bây giờ nghe hỏi chàng có vẻ tiếc rẻ nói nhỏ:
– Đời tôi chỉ mong được gặp lại lão trượng. Nếu không thật cũng uổng một đời thanh niên.
Chàng nói vừa dứt lời, thì Kim-Luân Pháp-Vương đã phóng tới, vung vòng sắt tấn công mãnh liệt.
Trong tay không có sẵn binh khí, Dương Quá vội mượn cây gậy trúc “đả cẩu của Hoàng-Dung để ứng chiến.
Chàng áp dụng theo phép “loạn đả tàn vân” múa tít cây gậy trúc như gió táp mưa sa khắp người như có một đám tường vân bao phủ.
Hai người đang đánh nhau độ vài chục hiệp bỗng nhiên đá chạy cát bay ầm ầm như động đất. Kim-Luân sợ hãi vội vàng tung mình nhảy ra khỏi trận.
Hoàng-Dung bảo con gái và hai anh em họ Võ khiên đá bày lại trận, rồi gọi Dương Quá lại gần hỏi nhỏ:
– Ai đã dạy con phép đánh theo thuật đả cẩu bổng đấy?
Dương Quá bèn đem câu chuyện gặp gỡ Hồng-Thất-Công trên Hoa-Sơn, khi chứng kiến cuộc tranh tài giữa Tây độc và Bắc-Cái, được hai người truyền dạy võ nghệ như thế nào thảy đều tường thuật tỷ mỷ không thiếu một chi tiêts, duy có chuyện Hồng-Thất-Công đã chết chàng chưa thuật lại vì sợ khiến bà đau lòng trong lúc này có hại cho sức khỏe.
Nghe thuật lại mọi việc, Hoàng-Dung thở dài nói:
– Được như con thật là thế gian hãn hữu. Trên đời có mấy ai gặp những trường hợp may mắn lạ lùng như thế?
Hình như chợt nghĩ ra điều gì, bà bỗng nói lớn:
– Qua con, con đã có tài thông minh lanh lẹ như vậy, nhân hôm nay chúng ta sẽ nhờ cái tài của con mà thoát được đại nạn nơi đây. Dương Quá thấy bà nói mà nét mặt tươi hẳn lên, thì chàng vẫn giả bộ ngơ ngác hỏi lại:
– Nếu Bá mẫu được đầy đủ sức khỏe thì hai bác cháu mình hợp sức cũng có thể đánh bại được lão này. Khổ nỗi lúc này Bá mẫu chưa được khỏe lắm, nên để cháu đi tìm Quách Bá phụ tới giải cứu nhé…?
Hoàng-Dung đáp:
– Không được đâu, ta đang đau, đâu phải cảm nóng đâu mà có thể hết ngay trong chốc lát. Hiện nay Bá phụ con đang ở xa, mà cô nương của con cũng đang ở phương nào không biết, làm sao tìm ra ngay cho được. Chi bằng ta có một mẹo hay, để chỉ cho con biết thì có lợi thực tế hơn. Vậy để bác nói nhỏ cháu nghe nhé?
Dương Quá đáp:
– Có mẹo gì hay, xin bá mẫu cứ nói, nếu làm được, cháu không dám từ thác một việc gì hết.
Hoàng-Dung từ tốn nói:
– Nguyên loạn thạch trận này do phụ thân ta dạy lại, tuy chỉ có chừng ấy đống đá, nhưng sức biến hóa kỳ ảo khôn lường nổi. Bây giờ cháu cứ nghe theo những điều do bác chỉ lại thì thế nào cũng dành phần thắng lợi về mình.
Dương Quá nghe nói nghĩ thầm trong bụng:
– Học lực của Hoàng Đạo-chúa thật vô cùng cao rộng, thế gian ai ai cũng phải phục. Hôm nay ta lại học thêm một tuyệt kỷ của Võ lâm.
Hoàng-Dung kể tiếp:
– Hồng Sư-phụ của ta chỉ truyền cho con mấy thế cơ bản trong đả cẩu bổng pháp, và sau này, tuy con ngồi trên cây học lén được một mớ nữa nhưng chưa đầy đủ đâu. Hơn nữa đấy chỉ là những phép lạ chứ không phải là phương thế ra áp dụng lúc chiến đấu. Nhân tiện hôm nay Bác muốn dạy lại cho cháu tất cả diệu pháp tinh vi của pháp thụat đả cẩu, vậy cháu có bằng lòng không?
Dương Quá tuy mừng không chỗ để, nhưng vẫn giả vờ thoái thác nói rằng:
– Phép đả cẩu chỉ ai truyền từ Bang-chủ qua Bang-chủ của Cái-Bang. Tuy Bá-mẫu có lòng thương tưởng, cháu rất đội ơn, nhưng cháu chỉ sợ như thế sẽ có lỗi với quy luật Cái-Bang đi chăng?
Hoàng-Dung thừa biết chàng chối từ lấy lệ, bèn cười bảo:
– Thôi, cháu khỏi cần khách sáo nữa. Phép đả cẩu bổng này, tuy là thuật pháp trấn môn của Cái-Bang, tuy nhiên sư-phụ ta đã đem truyền cho cháu hết ba phần. Cháu nấp trên cây học lóm được hai phần nữa. Nay ta dạy thêm cho cháu ba phần. Còn lại ba phần nữa đủ mười, sau này, nhờ tài lanh lẹ trí thông minh, cháu cũng có thể suy nghiệm mà tìm ra cho hết những bí quyết của nó được.
Theo quy luật Cái-Bang, phép này không thể truyền lại cho một ai ngoài vị Bang-Chủ kế vị. Tuy nhiên trong hoàn cảnh này chúng ta cũng cần phải quyền biện mới được. Nếu ta câu chấp không truyền lại cho cháu, rủi ta chết đi có phải đả cẩu bổng pháp sẽ bị thất truyền đi chăng?
Dương Quá mừng quá sụp xuống lạy luôn hai lạy rồi thưa:
– Giá khi cháu còn bé mà Quách Bá-Mẫu dạy cho cháu một vài tuyệt nghệ thì lúc này cháu tiến bộ biết mấy? Mà Bác cũng được tiếng tốt nữa.
Hoàng-Dung mỉm cười hỏi:
– Đến nay cháu có còn oán hận bác nữa không?
Dương Quá đáp:
– Có khi nào cháu lại dám oán bá-mẫu.
Hoàng-Dung lần lượt đem hết các bí quyết đánh đỡ trong đả cẩu bổng pháp ra giảng giải và dạy lại cho Dương-Qua.
Kim-Luân Pháp-Vương, đứng ngoài loạn thạch trận nhìn vào, thấy Hoàng-Dung và Dương Quá chuyện trò nho nhỏ, sau đó, bà cầm cây gậy trúc đưa ngang đưa dọc, thỉnh thoảng lại cười xòa, hình như tin tưởng vào phép biến hóa của thạch trận không đếm xỉa gì tới mình cả.
Càng nghĩ, Kim-Luân càng tấm tức. Ông bèn cố ý theo dõi và chờ xem hành động của họ ra sao để tìm biện pháp đối phó.
Hoàng-Dung và Dương Quá được rảnh tay ngồi bàn bạc, thảo luận kỹ càng về một pháp trong đả cẩu bổng pháp, từ giờ Thìn qua giờ Tỵ đã bầy đủ mọi thế không còn sót một đường nào.
Kim-Luân đứng ngoài theo dõi, không biết hai người đang làm gì, ông trông thấy Hoàng-Dung cứ nói nho nhỏ, nét mặt nghiêm nghị, hình như đang giảng giải một võ thuật gì đây. Còn Dương Quá trái lại thì tươi tỉnh và đem hết tinh thần, chăm chú nghe. Thấy vậy, Kim-Luân e ngại suy nghĩ:
– Có lẽ họ truyền thụ cho nhau những ngón gì hay để hại ta chứ gì. Phen này nếu chiến đấu lại ta cần phải thận trọng cho lắm mới được.
Dương Quá ôn lại những đoạn sau và hỏi thêm vài điểm khúc chiếc. Hỏi tới đâu, Hoàng-Dung giảng giải thêm rất rành mạch. Khi thấy chàng không còn gì thắc mắc nữa, Hoàng-Dung khen lớn:
– Cháu thật là thông minh đúng mức. Ngay trí nhớ của bác cũng phải thua sút cháu nhiều. Bây giờ cháu đã đủ sức kềm chế và thắng được Kim-Luân rồi. Vậy cháu hãy ra dụ hắn vào đây đánh bắt cho rồi.
Dương Quá lạ lùng hỏi:
– Làm sao bắt hắn được, mà Bá mẫu lại bảo cháu như thế?
Hoàng-Dung từ tốn giải thích:
– Có khó chi điều đấy. Lúc bấy giờ hai bác cháu mình cùng quyết đấu thì hắn chống cự sao nổi. Chúng ta đã hơn tài mà còn vượt hẳn lão ấy về mưu chước và địa thế nữa.
Bây giờ, bác dạy cho cháu biết qua về sự mầu nhiệm và biến hóa của trận loạn thạch. Vậy cháu hãy nghe và chú ý nhớ kỹ ba mươi sáu chước biến hóa của trận đồ nhé.
Nói xong bà lièn chỉ vẽ cho Dương Quá thế nào là Thanh-Long biến sang Bạch-hổ, và huyền võ trở thành Châu-tước.
Nguyên trận loạn thạch này chế biến theo đúng cách thức và phương pháp của Gia-Cát Võ hầu. Khi ông vào đất Tây-xuyên đã lập trận bày trên bờ sông để lừa Đại-Tướng Đông-Ngô là Lục-Tốn. Hôm nay Hoàng-Dung cũng theo nguyên tắc ấy để chống lại Kim-Luân Pháp-Vương. Mặc dù sắp đặt hấp tấp nhưng quy tắc không sai chút nào, vì vậy nên Kim-Luân lo sợ không dám xông vào chỉ đứng ngoài lừa thế theo dõi năm người đang ẩn trong trận, cách xa nhau như hai thế giới.
Với ba mươi sáu phép biến hóa vô cùng tinh diệu khiến cho một người thông minh như Dương Quá mà nghe giảng hai lần cũng chỉ có thể nhớ được hai chục phép mà thôi.
Lúc bấy giờ trời đã xế chiều, ánh mặt trời gần chen sau núi. Kim-Luân đứng ngoài thách đố các người đánh nhau. Hoàng-Dung bảo Dương-Qua:
– Tuy cháu mới học được hai chục thế, nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để vây bắt Kim-Luân rồi. Vậy cháu hãy chờ đây, bác ra ngoài này dụ lão vào đây cho cháu nhé. Cháu cứ theo đúng phép biến hóa của đồ trận mà vây bắt hắn.
Dương Quá mừng rỡ nói:
– Bá-mẫu, sau này về đảo Đào hoa, có thì giờ rồi, bá-mẫu hãy dạy tiếp cho cháu những thế chưa thạo nhé. Việc dẫn dụ Kim-Luân, xin để mặc cháu.
Hoàng-Dung cười xòa bảo:
– ồ, nếu cháu bằng lòng theo bác về Đào hoa đảo, chẳng những bác dạy cho những chỗ thiếu mà ngoài ra còn nhiều phép ly kỳ hơn nữa. Thời gian gần đây cháu đã hai lần xả thân cứu mạng bác và em Phù thì khi về đảo không khi nào bác nỡ lạnh nhạt với cháu như ngày trước nữa đâu. Cháu cứ tin nơi lòng bác.
Nghe Hoàng-Dung an ủi mấy câu, Dương Quá cởi mở tấc lòng, trong lúc này, giá Hoàng-Dung bảo chàng nhảy vào lửa, chàng cũng không từ chối.
Riêng anh em họ Võ thì chửi thầm trong bụng:
– Thằng súc sinh báo đời, sao không chạy theo con yêu nữ cho rồi còn quay lại làm chi nữa phá rối chúng ta mãi như vậy?
Võ-Tu-Văn, nghe hai người nói chuyện cùng nhau bỗng nói bông lông một mình:
– Phàm người còn nhỏ, điều căn bản và quan hệ nhất là văn chương chữ nghĩa, cần phải lấy đó mà làm căn bản cho việc lập thân về sau, nếu không cần chữ nghĩa mà chỉ lo việc kiếm đao thì cũng có thể sẽ chết về nghiệp lao kiếm.
Đôn-Nho dèm thêm:
– Xưa kia, Quan-Vân-Trường là bậc võ nghệ tuyệt luân của đời nhà Hán, rốt cuộc rồi cũng bị chém bêu đầu. Khỏe mạnh như hạng Võ rồi cùng phải tự cắt đầu trên bến Ô-Giang, làm cho người yêu là Ngu-Cơ phải vì mình mà tử tiết. Trông gương người đời xưa, anh em chúng ta xem thường việc học Võ cũng phải.
Quách-Phù thấy hai anh em nhà này cứ tìm lời châm biếm đay nghiến Dương Quá thì tức giận quá bèn hỏi lại:
– Các anh xưng như vậy, thế đến nay hai anh đã đọc văn chương tới mức nào rồi?
Tu-Văn đáp:
– Tam giáo, Cửu-Lưu, Bách gia Chư tử sách nào cũng đã học rồi.
Quách-Phù khinh khỉnh nói:
– Thứ học mót mà cũng nói. Phận mình sút kém thì cam chịu cho rồi, chuyện gì cứ đâm thọc, châm biếm người ta mãi vậy?
Trong khi ấy, Dương Quá đã xách gậy trúc nhảy ra khỏi trận gọi Kim-Luân Pháp-Vương bảo:
– Pháp-Vương, người có dám cùng ta đấu chơi ba trăm hiệp hay không?
Hồi 40
NỮ LANG THANH Y CỨU DƯƠNG QUÁ
Kim-Luân Pháp-Vương đang đứng ngoài trông ngóng vào thạch trận suy nghĩ một mình. Bỗng nghe Dương Quá gọi lớn và xách bổng nhảy ra khỏi trận thách đấu thì ông đáp ngay:
– Ta sẵn sàng chờ mi đây.
Vừa nói dứt lời, ông đã vung chiếc vòng đen tiếng reo leng keng nhảy lại, trong lòng suy nghĩ:
– Nếu Dương Quá đánh chẳng lại ta, nhảy trở lại vào trận thì làm sao đuổi theo được. Chi bằng ta phải tìm cách chận đứng hắn trước.
Nghĩ xong, ông chỉ đánh hờ đòn rồi bước lùi ra sau nhử Dương Quá tiến tới. Khi hai người tránh xa loạn thạch trận được hơn hai trượng, Kim Luân lao mình nhảy vút tới chận ngay phía sau lưng không cho Dương Quá trở vào trận được nữa.
Nhưng lúc này, Dương Quá đã tiến bộ hơn chứ không kém sút như trước nữa.
Sau khi đã am thạo tất cả những bí quyết trong đả cẩu bổng pháp, cây gậy trúc trong tay Dương Quá vũ lộng vù vù như rồng thiêng uốn khúc kỳ ảo biến hóa phi thường, khiến Kim-Luân chỉ còn cách đỡ gạt mà đã tối tăm mặt mày rồi.
Trong lúc lúng túng, Kim-Luân bỗng bị trúng một gậy bên đùi trái.
Nhờ công phu luyện tập lâu năm nên gậy này không thể làm ông bị thương, nhưng cũng đau nhói tận xương tủy. Kim-Luân phải xuýt xoa một hồi lâu mới bớt.
Sau khi nếm một đòn, Kim-Luân không còn dám khinh thường nữa, luôn luôn tung vòng sắt ra tấn công kịch liệt, mong chiếm thế thượng phong.
Thật mỉa mai thay, đường đường một đại võ sư, danh vang thiên hạ nay chỉ đấu với một thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi mà không dám sơ hở phút nào, tới lui xông xáo không nổi. Kim-Luân vừa thẹn vừa giận thật xưa nay chưa khi nào ông gặp một địch thủ lợi hại dường ấy.
Dương Quá cố áp dụng theo đúng bí quyết của đả cẩu bổng pháp, tuy nhiên vì mới học tập luyện chưa được thuần thục lắm, nên không thể nào tránh hết những sơ hở, và cũng vì đó nên chàng chưa dồn được Kim-Luân vào thế bí được.
Hoàng-Dung đứng trong trận nhìn ra thấy vậy bèn nhắc khéo:
– Hãy đưa thế chữ “phong” ra áp dụng.
Dương Quá sực nhớ lại hai chân nhảy lìa khi qua đông lúc sang Tây, không tiến không lùi, chiến chiếc vòng sắt trở thành vô hiệu lực vì khinh thân chàng kỳ diệu quá.
Kim-Luân Pháp-Vương thấy chàng di động nhiều quá thì mừng thầm và nghĩ bụng:
– Cho mi nhảy nhót cho đã sức. Dù tài giỏi đến đâu, nhảy nhiều lắm rồi cũng phải bét chứ. Chừng ấy ta chẳng cần nhọc sức cũng có thể chộp được dễ dàng.
Nhưng ông có ngờ đâu Dương Quá luôn luôn nhảy nhót theo hình chữ thổ lệch, cứ mỗi lúc lùi ra sau một chút thì lại kéo sang một bên. Kim-Luân mãi mê sấn tới đuổi theo mà quên cả phương hướng, đến khi bước chân vấp phải mô đá mới giật mình chợt nghĩ:
– Ta đã đi lạc vào trong thạch trận rồi sao?
Thật ra, Dương Quá đã nghe lời Hoàng-Dung, lừa ông tiến sâu vào cửa kỳ môn của trận loạn thạch. Khi thấy đối thủ bước vào rồi, Dương Quá chỉ cần thối lui mấy bước, thế trận đã biến hóa ngay, bao nhiêu phương vị đều đổi thay hết, Kim-Luân càng lùi ra bao nhiêu thì trái lại càng đi sâu vào giữa trận bấy nhiêu. Trong trận lúc này tự nhiên tiền biến thành hậu, và hậu đã trở thành tiền. Đến lúc biết mình đã sa cơ, Kim-Luân càng thêm phần hoảng sợ, nhưng biết giải quyết bằng cách nào hơn nữa.
Khi ấy, Hoàng-Dung lanh lảnh ra hiệu lệnh:
– Chu tước tiến về thanh long, Quẻ tôn chuyển sang quẻ Ly, Bất phương trở thành Qui-phương cho mau.
Quách-Phù và hai anh em họ Võ, cứ theo khẩu hiệu của bà, tự khuân những tảng đá đem trấn các nơi, làm bịt lối và vây chặt Kim-Luân vào giữa.
Kim-Luân sợ hãi rụng rời, chỉ nắm chặt chiếc giòng sắt trong tay đưa mắt nhìn khắp bốn phía để nhận lại phương hướng.
Ngay lúc ấy, Dương-Qua, múa tít cây gậy trúc xông vào giáp chiến.
Đối với Kim-Luân, những đòn đả cẩu không có gì đáng sợ. Nhưng lạ một nỗi hai chân ông hình như bị những ống đá bày loạn xạ hút phải mấy lần suýt té vì đứng không vững và bước chẳng ngay đường nữa.
Ông gượng gạo chống đỡ lấy lệ. Xung quanh hình như có không biết cơ man nào là địch thủ đang lâm le chiếm đoạt vũ khí, nếu sơ ý một tý sẽ nhào bất tử ngay.
Trong lúc thập phần nguy biến, ông chẳng biết tính sao, bèn hét lên một tiếng vang trời rồi dẫm bừa trên các đống đá mà chạy càn không kể phương hướng nữa.
Nhưng thế trận biến đổi vô cùng phức tạp, không thể nào chạy được. Càng chạy càng thấy những đống đá ngang dọc bao phủ khắp nơi và sau cùng tâm thần mê loạn, cứ chạy loanh quanh trong trận, và bị giam hãm trong một bức thành đá vô cùng kiên cố.
Trong khi thần hồn nát thần tính tay chân rã rời, bao nhiêu sáng suốt bay hết, Kim-Luân suy nghĩ:
– Thôi phen này nguy hiểm quá, biết làm sao thoát khỏi nơi này được? Có lẽ phải bó tay chờ chết mà thôi.
Đang khi còn than thầm trong bụng, bỗng Dương Quá lại xuất hiện theo tư thế “vạch cỏ tìm rắn, phang mạnh một gậy phía hạ bàn. Giá Kim-Luân không lanh mắt nhảy vọt lên né tránh thì có lẽ đã gảy tiện ống chân rồi.
Trong lúc thập phần nguy biến Kim-Luân đâm liều, vung chiếc vòng loan tròn dưới chân để tránh đỡ đồng thời bặm môi phóng mạnh ra phía trước, húc đầu vào ngực Dương Quá tấn công.
Dương Quá khẽ lách mình qua một bên né tránh. Hai người cùng nhau tranh đấu không bao lâu đã trên hai chục hiệp. Bỗng nhiên trong trận trời đất tối tăm mù mịt, gió lộng ào ào, phi xa tẩu thạch, xung quanh tiếng rít lên từng hồi rùng rợn, như quỷ khóc ma hờn, âm khí vô cùng rùng rợn.
Nếu không phải là một tay nhiều kinh nghiệm và gan liều như Kim-Luân Pháp-Vương, thì bao nhiêu đó cũng khiến cho phải ngất đi vì khiếp đảm. Nhưng Kim-Luân là một kẻ tu hành, tinh thần lúc nào cũng được bình tĩnh, nên dù trong trận có thay đổi cũng không đến nỗi nào. Ông định thần nhìn lại xung quanh, rồi vận dụng nội công vào hai bàn chân đánh mạnh thêm mấy tảng đá tung bổng lên trời hơn mấy trượng. Khi mấy tản đá tung lên cao thì mây đen tan hết, gió lạnh cũng yên ngay.
Hoàng-Dung và đồng bọn kinh hãi vô cùng, vội vàng đưa nhau nấp vào chỗ khác để tránh khỏi bị đá văng đè trúng.
Giá lúc này, Kim-Luân biết thừa cơ nhảy luôn ra trận thì dễ như chơi. Nhưng vì ông muốn thừa dịp tấn công nên không chịu rút lui mà còn đưa tay chộp lấy Hoàng-Dung.
Tức thì Dương Quá điểm mạch phía sau lưng để giải cứu cho Bà. Hoàng-Dung muốn lùi ra sau để tránh nhưng bỗng nghe có tiếng rít từ không trung lao xuống. Bà lại sợ đá rơi trúng phải nên đánh liều nhảy tới tóm chặt tay Kim-Luân.
Kim-Luân phải buột miệng khen lớn:
– Chà, tài lắm, và can đảm lắm.
Nói vừa dứt lời ông tung chưởng đánh mạnh vào ngực Hoàng-Dung. Nếu là lúc thường thì đòn này đối với Hoàng-Dung không có nghĩa lý gì hết. Nhưng mặt lúc này bà có thai nghén gần ngày, sức khỏe giảm sút quá nhiều nên không gượng nổi, bị té nhào ra đất.
Thấy Hoàng-Dung bị đánh nhào, Dương Quá thất kinh, không còn kể gì hết, vội vàng nhảy chồm lại ôm chặt lấy cặp giò Kim-Luân vật lộn. Hai người cùng ngã lăn ra đất vật nhau túi bụi. Nhưng Kim-Luân khỏe hơn Dương Quá gấp mấy lần, nên vừa nhào xuống đã gượng dậy được ngay và tiếp theo một đấm khiến chàng văng ngược ra xa như bó giẻ.
Trong lúc đang bực mình, Kim-Luân đưa chân hất mạnh một tản đá nặng độ vài trăm cân, định xáng vào đầu Dương-Qua. Nhưng vì trong lúc hấp tấp, vích quá mạnh tản đá lộn ngược ra sau rồi rơi thẳng đứng xuống, nhằm ngay đầu Kim-Luân đang lồm cồm chờ dậy.
Bị khối đá gần hai trăm cân rơi trúng đầu, Kim-Luân đau quá nằm vật ra bất tỉnh. Giá người tầm thường thì cũng đủ bể sọ rồi. Nhưng Kim-Luân nhờ tập luyện công phu nội công vững vàng, chỉ bị ngất xỉu mà thôi.
Ba người chủ chốt trong trận đều bất tỉnh nằm liệt, cho nên thạch trận cũng vỡ tan ngay.
Đạt-nhĩ-Ma và bọn võ sĩ Mông-Cổ đứng ngoài trận trông thấy các người nhào lăng bất tỉnh thì hồn vía không còn. Huống bên cạnh còn lại Quách-Phù và hai anh em họ Võ đều thuộc phe địch, nên bọn này lo sợ cho tánh mạng Kim-Luân, vội vàng xông vào để giải cứu.
Với sức khỏe như sư tử của Đạt-nhĩ-Ma lại thêm một số đông tùy tùng Mông-Cổ vạm vỡ giúp đỡ, Quách-Phù và hai anh em họ Võ không làm sao chống cự lại nổi. Vì vậy nên cả hai bên mạnh ai nấy lo giải cứu người phe mình.
Bỗng nhiên Kim-Luân Pháp-Vương lồm cồm tỉnh dậy, ném chiếc vòng sắt xuống đất nghe leng keng rùng rợn cả người. Sau đó, ông ngửa mắt lên trời cười ngất.
Tiếng cười của Kim-Luân Pháp-Vương bao hàm cả niềm bi thương và uất hận.
Bọn người hai phe nghe cười đều ngạc nhiên, trố mắt đứng nhìn, cười xong Kim-Luân nhìn trời than rằng:
– Bình sinh ta chưa khi nào bị ngất xỉu bao giờ. Hôm nay chính tự ta lại đả thương ta, nghĩ cũng đáng buồn cười thật. Nhưng cũng đáng căm hận thật.
Nói xong, ông đưa tay túm lấy chân Hoàng-Dung kéo xềnh xệch về phía mình. Dương Quá tuy bị thương nặng nơi ngực vừa mới tỉnh dậy nhưng thấy Hoàng-Dung bị bắt và kéo trên đất như một con vật thì uất hận vô cùng, cố gượng tung gậy đả cẩu ra đánh mạnh. Nhưng không ngờ chàng mới bị thương lại dùng sức quá độ nên gượng không nổi nữa ngã vật ra sau, mồm hộc ra một đống máu tươi.
Hoàng-Dung buồn rầu nói:
– Qua con, không nên cố sức lắm có hại. Việc ta làm ta có gan chịu đựng, con nên bảo vệ lấy sức khỏe, liều mạng chẳng ích chi trong lúc này.
Quách-Phù, vung gươm nhảy lại định bảo vệ cho mẫu thân.
Dương Quá khẽ bảo:
– Phù muội, đừng liều mạng làm gì, hãy đi tìm Quách Bá-Bá mau lên.
Mặc dù tự biết sức yếu tài hèn, nhưng tình mẫu tử quá đậm đà, khi nào nàng nỡ bỏ chạy đi trong lúc mẹ mình đang ở trong tay địch.
Kim-Luân chỉ khẽ chiếc vòng sắc nghe leng keng mấy tiếng thanh trường kiếm của Quách-Phù đã bị đánh văng vào rừng xa lắc.
Kim-Luân định gạt Quách-Phù qua một bên để bắt Hoàng-Dung bỗng có tiếng lảnh lót của một cô gái nạt lớn:
– Hãy khoan, thong thả đã.
Ngay lúc đó từ trong rừng tối một cô gái mặc áo xanh phi thân bay lại lanh như điện chớp.
Kim-Luân định thần nhìn kỹ thấy cô gái thanh y mặt mày xấu xa gớm ghiếc, có lẽ xưa nay chưa có người đàn bà nào xấu xa ghê tởm hơn nữa. Mặt cô ta nửa giống người nửa giống quỷ. Từ bé tới lớn Kim-Luân chưa hề gặp người nào như thế.
Ông hất hàm hỏi lớn:
– Này, cô là ai?
Cô ta điềm nhiên ko trả lời, cúi xuống nhặt lấy mấy tảng đá đặt chắn ngang giữa Hoàng Dung và Kim luân, và hỏi lại:
– Ngài có phải là Kim Luân Pháp Vương bên Tây Tạng ạ?
Tuy mặt mày gớm ghiếc như quỷ dạ xoa nhưng giọng trong như ngọc, dịu dàng ấm áp vô cùng khiến cho Kim Luân nghe qua đã có cảm tình ngay, và hỏi lại:
-Vâng, đúng lắm. Còn cô nương là ai mà bần tăng chưa hề quen biết.
Cô gái thản nhiên đáp:
– Tôi chỉ là đứa bé nơi chốn hoang vu thon dã đâu đáng được giới thiệu ra hôm nay, dù ngài có biết cũn chẳng ích chi đâu.
Miệng nói ta càng sắp một tảng đá thật dài nằm ngay trước mặt. Khi ấy ánh dương đã gác non đoài, chim rừng đã rủ nhau về tổ, gió núi thổi lộng ào ào, nhiều hiện tượng nổi lên hình như động rừng và thoáng như có beo kêu, cọp rống. Thấy hành động cô gái có vẻ khác thường, Kim luân pháp vương hỏi:
– Này cô bé, cô định làm gì đó? Xin cứ để yên các tảng đá, đừng di chuyển đi nơi khác.
Người con gái như ko đếm xỉa tới lời của Kim Luân, chỉ lẩm bẩm 1 mình:
– Phương “Mộc giao” biến sang “Kim Long”…
Quách Phù và 2 anh em họ Võ ngạc nhiên tự hỏi:
-ủa, sao nàng này nói giống y như sư mẫu đã ra lệnh đáp trận loạn thạch vậy nhỉ?
Nghe nàng ra lệnh, tự nhiên cả ba thảy ríu ríu tuân lệnh khiêng đá đặt theo các vị trí đã định. Sau khi vận chuyển mấy phiến đá mà trận pháp đã hoàn toàn biến đổi. Đang chơ vơ vắng lạnh như cảnh rừng hoang, bỗng nhiên trong trận đã có đằng đằng sát khí. Theo dõi tình hình bỗng nhiên có sự thay đổi quá ư đột ngột, Kim Luân vừa giật mình, vừa hoảng sợ vội vàng quát lớn:
– Con bé không được phá rối công chuyện nơi đây. Muốn sống cút ngay lập tức.
Nhưng ng con gái áo xanh vẫn thản nhiên như ko hề nghe tiếng, rồi trầm trầm ra lệnh:
– “Tâm nguyệt hồ” chuyển lại phương vị ” phòng nguyệt thố” .
Rồi nói tiếp:
– ” Nữ thổ bức” tiến sang ” thất hỏa chư” !
Đây là những khẩu lệnh di chuyển phương vị trong nhị thập bát tú của trận bát quái loạn thạch. Những thế này, nếu ko phải là tay tinh tường về thiên văn am thạo ngũ hành thì làm sao mà bố trí cho đúng được?
Thấy nữ lang ra lệnh giống như Hoàng Dung, nên cả ba người Quách phù và 2 anh em họ Võ tin tưởng và tuân lệnh theo răm rắp. Không bao lâu trận loạn thạch đã chuyển động và sát khí phát ra ngùn ngụt, vân vụ lờ mờ, bao vây Kim Luân vào chính giữa. Vừa rồi Kim Luân bị viên đá lớn chọi vào đầu kế bị mấy đòn vào lưng khá nặng, nếu ko phải là tay nội công tinh thục thì ko thể nào đứng vững được nữa. Vì thế nên ông ta rất e dè bảo vệ thân thể ko còn xông xáo như trước đây nữa. Ông chỉ thận trọng đứng ẩn mình sau mấy đống đá lớn. cố tìm cách phá trận. Tuy nhiên ông vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh, vì ông biết rằng, rộn ràng trong lúc này là nguy tới tánh mạng như chơi. Chừng ấy ko bắt được Hoàng Dung mà chính bản thân mình sẽ bị chừng tóm cổ. Ngó trước thấy Hoàng Dung nằm mê man trên mặt đất, nếu cần, chỉ bước tới 2 bước là bắt được ngay. Nhưng lúc này Kim Luân ko còn bụng dạ nào nữa, chỉ lo tìm lối thoát thân mà thôi. Ông bèn tung chiếc vòng sắt ra tấn công Võ tu Văn để y hoảng sợ tránh né rồi tìm thế thoát thân. Tu Văn đã bị thương, toàn thân ê ẩm như dần. Lúc này chàng chỉ dùng sức khẽ gạt sơ một cái thì chiếc vòng sắt cũng đủ lìa tay Kim Luân văng đi nơi khác liền. Nhưng vì diện mạo Kim Luân quá ư hùng dũng, hơn nữa Tu Văn ko khác nào con chim đã bị tên, cho nên Kim Luân chỉ cần đưa vòng ra là chàng lẫn trốn ngay.
Thấy vậy, Kim Luan tự nghĩ than thầm:
– Nếu bỏ thoát cơ hội này ta biết chừng nào gặp được dịp tốt. Có lẽ Hoàng Thiên còn phù hộ cho Đại Tống nên khiến ta bại phen này. Than ôi, anh hùng hào kiệt Trung Nguyên càng ngày càng nhiều, toàn là những hạng trai gái mới lớn lên tương lai rực rỡ, bọn hào kiệt Mông Cổ thật ko xứng vào đâu hết.
Nghĩ xong, ông vuốt ngực thở dài rồi quay đầu bỏ chạy. Nhưng chạy chưa mấy bước bỗng nhiên chiếc vòng sắt đã rời tay rơi xuống đất kêu leng keng, và Kim Luân loạng choạng mấy cái rồi ngã sấp phía trước. Đạt nhĩ Ma thấy vậy hoảng hốt vội gọi lớn:
– Sư phụ, sư phụ làm sao thế?
Y vừa gọi vừa chạy lại đỡ Kim Luân dậy và nói gấp:
– Sư phụ có hề chi ko? Tại sao như vậy?
Kim Luân đưa tay vỗ trán thều thào nói:
Tiếc quá, thật đáng tiếc phải bỏ lỡ dịp này. Thôi chúng mình trốn thoát chỗ này đi thôi.
Vì quá kiệt sức nên Kim Luân bị ngất xỉu luôn chặp nữa. Một tên võ sĩ Mông cổ dắt ngựa xáp lại gần, nhưng Kim Luân mệt quá ko còn đủ sức leo lên mình ngựa.. Đạt nhỉ Ma vội vàng bồng sư phụ đặt lên mình ngựa, rồi cả bọn kéo nhau đi về hướng Đông.
Sau khi sắp lại trận thế giải nguy cho bọn Hoàng Dung rồi, nữ lang thanh y vội vàng chạy lại gần Dương Qua. Thấy chàng nhắm mắt nằm mê man ko hay biết gì hết, nàng bèn nắm tay xem mạch và vạch áo tìm thương tích. Đêm đã khuya, tuy nhiên nhờ cặp mắt luyện nhìn trong đêm tối rất tinh vi, nên nào áo xanh trông thấy Dương Quá bị trúng một chưởng nơi ngực, hai mắt trợn ngược, hơi thở khò khè như lợn cắt tiết. Xem xong nàng chép miệng nói:
– Nặng lắm, thương tích nặng vô cùng.
Lúc này Dương Quá đang mê chợt tỉnh. Chàng thấy một cặp mắt sáng quắt mà dịu hiền đang âu yếu chiếu thẳng vào mặt mình đầy vẻ trìu mến thương yêu, thì tưởng rằng đâu là Tiểu long Nữ. Bất giác chàng đưa hai tay ôm lấy cổ nàng miệng rên rỉ:
– Cô nương ơi, Dương Quá đã bị thương nặng lắm. Tại sao cô nương nở bỏ em như vậy?
Bị chàng ôm cổ bất ngờ, nữ lang thanh y vừa thẹn vừa thương hại vội vàng gỡ mạnh tay ra. Bị nàng hất tay quá mạnh, Dương Quá đau quá chịu ko nổi nhăn mặt than lớn:
– Trời ơi! đau quá, sao cô nương nỡ đánh em như vậy?
Nàng áo xanh dịu giọng nói nhỏ:
– Tôi đâu phải cô nương của anh, xin hãy buông cổ tôi ra.
Dương Quá nhìn sững vào đôi mắt dịu hiền sáng quắt của nàng và rên khẻ:
– Cô nương ơi! Dương Quá đang thương nhớ cô nương mà bị bệnh. Cô nương hãy che chở cho em và đừng hất hủi em tội nghiệp nhé.
Cô áo xanh phải phân trần thêm:
– Anh nhìn sai rồi, tôi đây, chứ ko phải cô nương của anh đâu?
Trong khi trời tối quá, nên Dương Quá ko còn trông thấy rõ nét mặt xấu xí của nàng mà chỉ thấy đôi mắt sáng quắt đầy vẻ dịu hiền thiết tha, giống hệt đôi mắt đẹp của Tiểu long Nữ, nên chàng cố giữ lấy tay nàng miệng năn nỉ.
– Đúng rồi, cô nương đừng giấu tôi làm chi nữa. Cô nương còn hờn giận Dương Quá sao?
Bị chàng trai níu kéo cô gái áo xanh thẹn đỏ mặt và toàn thân cảm thấy nóng rực, như có một luồng điện lạ chuyền vào sưởi ấm. Nàng muốn để tay lại thì thẹn, mà giằng ra thì luyến tiếc, vì vậy nàng cứ ngỡ ngàng đứng yên một chỗ ko cử động hay nói nên lời nào. Một chập sau, Dương Quá định thần nhìn kỹ lại thấy ko phải Tiểu long Nữ, thì đã thất vọng bèn buông tay ra rồi ngã vật xuống, ngất xỉu luôn…
Nàng hãi kinh quay về phía sau, thấy hai anh em họ Võ và Quách-Phù đang lo lắng lăng xăng chạy chữa cho Hoàng-Dung, tuyệt nhiên không một người nào quan tâm đến Dương Quá hết.
Thấy vậy nàng chép miệng than rằng:
– Thương thế trầm trọng quá, nếu không kíp chạy chữa tận tình e không qua khỏi. Nếu ta câu chấp không cứu chữa chàng đúng theo bí quyết của sư phụ đã dạy thì nguy hiểm lắm. Trong lúc quá nguy nan cũng cần sư quyền biến, hơi đâu câu chấp câu “nam nữ thụ thụ bất thân”.
Than xong, nàng do dự một chút rồi đứng thẳng dậy, bồng Dương Quá bước ra khỏi thạch trận.
Thật ra Quách-Phù không đến nỗi thờ ơ với Dương-Qua. Nhưng ngặt vì mẹ nàng là Hoàng-Dung bị Kim-Luân đánh mấy đòn khá nặng đang bất tình không khác gì Dương-Qua, vì vậy nên mẫu tử tinh thâm nàng phải lo lắng cho mẹ trước. Còn hai anh em họ Võ, thì lẽ cố nhiên không bao giờ quan tâm tới Dương Quá mà họ xem như một tình địch đáng ghét. Nếu Dương Quá chết đi họ vui mừng là khác nữa.
Nữ lang thanh y bồng Dương Quá ra khỏi rừng đến chỗ con ngựa ốm đang đứng gặm cỏ. Thấy chủ mình bị nạn, con ngựa hí lên lớn thật rồi bứt giây chạy lại bên cạnh, hai chân đâm liền hồi trên mặt đất tỏ vẻ băn khoăn trìu mến. Cô gái áo xanh đặt Dương Quá trên lưng ngựa, rồi ngại việc trai gái, nàng không leo lên ngồi chung, mà chỉ đi bộ tay giắt con ngựa chầm chậm, để khỏi làm kinh động tới người bệnh.
Dương Quá nằm trên lưng ngựa khi tỉnh khi mê. Chàng mơ màng hình như kẻ đi trước giắt ngựa là Tiểu-Long-Nữ nên luôn miệng gọi “cô nương”, nhưng trong chốc lát lại mê ngay, thân hình giá lạnh như băng.
Hết mê tới tỉnh, trên hành trình diễn đi diễn lại không biết bao nhiêu lần.
Sau cùng Dương Quá nghe thoảng qua một mùi thơm nhẹ nhàng dễ chịu khiến cho đầu óc sáng suốt dần và ngũ quan tứ chi cũng thấy khoan khoái thơi thới dần dần. Chàng bèn từ từ mở mắt nhìn quanh. Một khung cảnh lạ hường khiến chàng vô cùng kinh ngạc và tự hỏi:
– Tại sao ta được nằm trên chiếc giường như thế này nhỉ?
Thấy trong người lân lân nhẹ nhõm, chàng muốn chống tay ngồi dậy nhưng vì tay chân đau mỏi như dần, không thể nào ngồi dậy nổi.
Chàng đưa mắt nhìn về phía cửa sổ thấy một nàng áo xanh đang ngồi cạnh bàn, tay cầm bút hình như đang hý hoáy viết chi đó, nhưng vì nàng quay lưng ra phía chàng nằm nên không nhìn thấy mặt và chẳng hiểu nàng đang làm chi.
Tuy nhiên cứ nhìn tấm lưng ong thon thon mảnh mai xinh xắn, chiếc cổ tròn trịa trắng ngần, chàng cũng có thể đoán ra kẻ này rất xinh đẹp, nếu không phải một hoa khôi, ít cũng một tiểu thư con nhà khuê các.
Nhìn lại căn nhà thấy vách đất, mái lợp cỏ, kiến trúc rất sơ sài nhưng trông lối bài trí thật thanh tao trang nhã.
Nơi tường phía đông, có treo một bức ảnh của một thiếu nữ đang hái hoa, hai bên có mấy bức họa sơn thủy rất đẹp.
Trên tường phía Tây có treo một bức liễn chữ viết rất đẹp và hai bên có hai câu đối khác kèm theo.
Trên bức giữa vì chữ nhỏ và tháu quá chàng không đọc được, còn hai câu hai bên có viết:
“Nhứt đẳng nhân, trung thần hiến tử”
“Lưỡng kiện sư, độc thư cánh diều”.
Tạm dịch: Con hiếu tôi trung danh tột bực,
Đi cày đọc sách há thua ai.
Đọc xong câu đối, Dương Quá ngạc nhiên suy nghĩ:
– Chưa biết chủ nhân nhà này là ai nhưng cứ theo khí tiết trong hai câu này theo nhất định cũng là bậc cao nhân ẩn sĩ. Thật không có gì vinh dự cho bằng một người dân trung với nước, một người con hiếu với phu mẫu, còn có gì thanh cao bằng đọc sách và tự do cho bằng cày ruộng. Biết bao nhiêu kẻ lầu son vách tía, chức phận cao sang nhưng anh em chửi bới lẫn nhau, đối với người trên thì nịnh nọt, đối với kẻ dưới lại khinh khi, xem người nửa mắt!
Bỗng nhiên chàng liên tưởng tới cảnh đời trung hiếu, canh độc thật là thanh cao, khí tiết!
Trong khi chàng đang suy nghĩ miên man bỗng đâu đó bốc lên uyển chuyển nhẹ nhàng, tỏa một mùi hương thơm ngào ngạt, rõ ràng là mùi trầm hương quý giá.
Dương Quá lại suy nghĩ:
– Té ra xưa nay bao nhiêu tao nhân mặc khách mỗi khi gảy đàn đọc sách đều xông trầm để tỏ lòng thanh cao và tưởng nhớ lại các bậc thánh hiền ngày xưa. Thật chẳng bù với những bọn phàm phu tục tử bao nhiêu sách đem ra gói đồ, và hòa nhạc trong một chỗ sặc đầy mùi rượu thịt.
Rồi chàng nghĩ tiếp:
– Tuy nhiên sách hay đàn cũng có nhiều hạng, và tùy theo sở thích của mỗi người mà đánh giá nhân phẩm của họ. Trong thời buổi loạn lỵ không hiếm chi người cố đọc sách để mưu cầu chút lợi danh hoặc tìm phương kế để hãm hại người khác, làm đường tiến thân cho riêng mình. Còn nhạc thì không hiếm chi loại nhạc dâm ô hoặc những điệu đàn ủy mị vong quốc. Nếu bạ sách nào cũng đọc, bạ bản nào cũng đàn thì có lẽ còn hại hơn những người không bao giờ biết đánh đàn đọc sách nữa.
Suy nghĩ vơ vẩn về lối bài trí trong phòng, Dương Quá sực nhớ lại chuyện riêng mình và ngẫm nghĩ:
– Ta nhớ kỹ đang đánh cùng Kim-Luân Pháp-Vương trong loạn thạch trận tại giữa rừng, bị thương ngất xỉu rồi, thế tại sao lại về được nơi đây? Hay là cô gái áo xanh kia đã cứu ta và đem lên ngựa chở mình về đây chăng?
Trong khi đang trầm ngâm suy nghĩ chưa biết ra sao, bỗng thấy cô gái xoay mình, trông hình dáng thật vô tình thanh tao xinh đẹp.
Trong căn phòng nhỏ mùi trầm hương tỏa ra ngào ngạt, trái hẳn với cái không khí chết chóc sát hại lẫn nhau ngoài thạch trận, khiến Dương Quá chép miệng than nhỏ:
– Chỉ trong một vòm trời mà đã phân biệt hẳn thành hai thế giới khác nhau.
Chàng dự đoán có lẽ nàng áo xanh đang mãng suy tư theo ý văn hay câu sách nên mặc dù đã tỉnh vẫn nằm im không cử động và cất tiếng hỏi e làm phiền tới nàng chăng? Chàng nằm vắt tay lên trán nín thinh. Trong phòng vắng lặng như tờ, dù con ruồi bay qua cũng nghe tiếng đập cánh.
Chàng ngẫm nghĩ:
– Nàng cùng ta không quen biết họ hàng chi, chẳng hiểu vì sao lại đối xử tốt cùng ta như thế ấy?
Thình lình chàng gọi lớn:
– Chị ơi, có phải chị đã có lòng tốt ra tay cứu giúp cho tôi không, thật quý hóa quá.
Nghe chàng hỏi, người con gái vẫn không ngước lên, tay cứ viết mà miệng đáp nho nhỏ:
– Chính anh đã có lòng nghĩa hiệp xả thân cứu người, vì vậy nếu tôi có cứu được anh cũng không có gì đáng kể.
Dương Quá nói nhỏ như để phân trần:
– Quách Bá-mẫu đối với tôi có công dày nuôi dưỡng. Vì vậy nên khi bà lâm nạn, bổn phận tôi là phải xả thân cứu Bà để đáp lại một phần nào ăn đức cũ. Nhưng cô nương, quả thật là… là…
Nhưng người con gái đã cắt lời chàng:
– Tôi đâu nói tới chuyện Quách Bá-mẫu mà chỉ nhắc lại câu chuyện xưa kia anh cứu Lục-vô-Song.
Đã lâu ngày, ba tiếng Lục-vô-Song hầu như đã xóa nhòa trong ký ức Dương-Qua, nay bỗng nhiên được nàng nhắc lại Dương Quá vội hỏi:
– à, hiện nay cô Lục-vô-Song vẫn còn mạnh giỏi chứ. Vết thương của nàng đã lành hết chưa?
Cô gái tươi cười đáp:
– Cảm ơn anh, nàng đã lành mạnh hẳn rồi. Anh có nhớ tới nàng hay không?
Thấy cô ta có vẻ thân mật hẳn rồi với Lục-Vô-Song Dương Quá hỏi lại:
– Giữa cô và Lục-vô-Song có họ hàng hay bè bạn hay không?
Cô gái nghe chàng nói mỉm cười và suy nghĩ:
– Cái anh chàng này cũng kỳ lạ lắm, ai ai cũng xưng chị với cô, lúc mê sảng thì lại gọi người ta là cô nương mãi. Mình đâu có già bao nhiêu mà chàng cứ xưng hô theo lối ấy mãi?
Nghĩ xong nàng cười nụ hỏi chàng:
– Sao anh không gọi tôi bằng cô nương nữa đi?
Nghe nàng hỏi, Dương Quá thẹn đỏ mặt và đoán có lẽ trong khi mê sảng hay mơ tới cô nương, cho nên trước mặt mình ai ai cũng là cô nương hết.
Chàng lén nhìn lên một tý rồi nghĩ thêm:
– Cô nàng cũng hay bắt bẻ và nhõng nhẽo lắm, không muốn mình gọi chị hay cô thì muốn mình gọi bằng chị đây cho vừa ý?
Nghĩ thế nhưng không nói ra, chàng chỉ khẽ đáp:
– Trong lúc đau yếu; nếu có điều gì không phải xin chị vui ông châm chước cho.
Nàng cười lớn và đáp:
– Có chi đâu mà lỗi với phải. Thôi xin cứ nằm yên cho chóng mạnh, để rồi còn đi tìm cô nương chứ.
Dương Quá lắng tai nghe nàng nói một giọng hết sức ngọt ngào êm ái nghĩ bụng:
– Từ xưa tới nay ta chưa hề tiếp xúc với một cô gái nào nói năng êm dịu bằng nàng này. Lục-vô-Song không được hoạt bát, chỉ đóng vai cô vợ hay ghen là giỏi. Quách-Phù nói năng hoạt bát nhưng lại có cánh tay hay nhõng nhẽo. Gia-Luật-Yên là người Mông Cổ, miệng nói có duyên, nhưng giọng nói ồ ề lại có lúc the thé nghe gắt quá, đây chỉ là giọng của loài đàn bà sát phu. Hoàng-nhan-Bình nói năng cũng thanh nhã nhưng thân hình lại thô kệch. Cô-nương Tiểu-Long-Nữ lúc đầu thờ ơ lạnh nhạt không đếm xỉa tới tình ta. Sau này tuy có tỏ ý yêu thương nặng lời thề thốt, nhưng không hiểu bỗng vì sao lại trái chứng như những hạng cực đoan rồi bỏ ta đi biền biệt?
Còn cô gái áo xanh này thì được cả thanh lẫn dáng điệu, tiếng nói êm dịu thân hình khá xinh, tánh ý có vẻ đoan trang duyên dáng, nhưng rất tiếc không hiểu diện mạo ra sao? Có lạ một điều là tại sao nàng biết rõ ta cần tĩnh dưỡng cho mạnh để rồi đi tìm Cô nương?
Suy nghĩ mãi, tánh tò mò thúc đẩy khiến chàng không nín được nữa. Trong khi cô gái mãi mê viết, chàng vùng gọi lớn:
– Chị ơi, xin chị vui lòng cho biết rõ tên họ để tiện xưng hô.
Nàng vẫn cặm cụi viết không ngừng nhìn lên, miệng nói:
– Xin để cho tôi viết xong đã, mà hỏi có ích chi đâu?
Dương Quá trách:
– Thật cô khinh tôi quá nên không thèm cho tôi biết tên cũng không cho thấy mặt. Tôi tuy quê mùa dốt nát nhưng cũng là kẻ biết ơn nghĩa chút ít. Trong lúc hoạn nạn gặp nhau, tôi mong sự quen biết này sẽ lưu lại nhiều kỷ niệm êm đẹp về sau, và xin chị đừng cho đó chỉ là cuộc gặp gỡ qua đường rồi quên lãng mất.
Nàng đáp:
– Tên tôi chẳng đẹp gì, mà mặt mày tôi càng xấu xa hơn nữa, không nên xem anh à.
Dương Quá cãi:
– Tôi biết rồi. Chính chị muốn đeo mặt nạ cho xấu đi chứ kỳ thiệt diện mạo củ chị phải hoa nhường nguyệt thẹn.
Nàng cười đáp:
– Nếu trời cho tôi được hoa nhường nguyệt thẹn, hay xinh tươi như Cô-nương của anh, thì việc gì tôi phải dùng mặt nạ mà che đi.
Dương Quá ngạc nhiên hỏi:
– ủa, sao chị biết Cô-nương tôi xinh đẹp. Chị gặp cô ấy tại chỗ nào thế?
Nàng đáp:
– Tôi làm gì có hân hạnh gặp cô ấy. Nhưng trong khi anh mê man lúc nào cũng mơ tới cô ấy. Vì vậy tôi đoán một người con gái phải hết sức xinh đẹp mới được người ta thiết tha thương nhớ đến thế. Nàng phải đẹp lắm để lúc tỉnh anh không quên, lúc mê anh mơ tới hoài.
Dương Quá thờ thẫn nói:
– Nếu chị gặp cô nương tôi, chắc chắn chị phải khen là xinh đẹp.
Nàng cười dòn:
– Đã hẳn thế rồi.
Nói xong nàng cặm cụi viết nữa.
Dương Quá hỏi nữa:
– Cô vẽ gì đấy?
Nàng đáp:
– Tôi đâu biết vẽ. Tôi đang tập viết đấy mà!
Dương Quá cười nói:
– Thôi, xin chị đừng khiêm nhường thái quá. Cứ xem lối múa bút của chị tôi cũng đoán biết tài viết của chị như thế nào rồi.
Cô gái cười ngoặc ngoẽo nói:
– Thật sao, anh nói sao mà tài lắm vậy? Hay là anh ngạo tôi đó?
Dương Quá đáp:
– Có gì lạ đâu. Cứ xem mặt đoán được tài người. Thân hình chị đẹp đẽ mảnh mai, thì nhất định nét chữ của chị cũng phải bay bướm và sắc sảo lắm. Chị có cho tôi xem các tác phẩm vừa rồi có được hay không?
Nàng áo xanh đáp:
– Xin thú thật chữ tôi vụng về xấu xí lắm. Tôi đang chờ khi nào anh khỏi sẽ nhờ anh chỉ thêm đây mà. Hôm nay tôi còn đang tô theo dấu chữ phóng bằng son đỏ chứ đã viết được một mình đâu.
Nghe nàng nói, Dương Quá thấy hổ thẹn và tự nghĩ:
– Khi còn trên đào hoa đảo giá mình nghe lời Hoàng-Dung tập chữ nghĩa cho khá thì bây giờ cũng có dịp phô trương với người. Tài nghệ mình không đầy lá mít thì còn mong gì dạy lại ai nữa.
Trong lòng chàng đang phân vân tự trách, bỗng nhiên thấy ruột quặn đau. Dương Quá vội vàng nín hơi vận dụng nội công cho khí huyết chuyển động chống lại cơn đau, rồi chợp ngủ từ lúc nào không hay biết.
Đến khi giật mình chợt tỉnh thì trời đã tối rồi. Cô nàng áo xanh đang loay hoay lo dọn cơm cho chàng ăn.
Chàng gượng ngồi lại bàn ăn, thấy không có cá thịt mà đơn sơ chỉ có mấy đĩa rau tươi, đậu phụng và mấy trứng vịt luộc, tuy nhiên mùi gạo đồng mới gặt, mùi hương thơm ngát, chén bát sạch sẽ tươm tất và gặp lúc đang đói bụng, nên ăn rất ngon lành.
Chàng ăn luôn một hơi bốn năm bát lớn, miệng khen:
– Cơm sốt canh nóng, rau tươi và được bàn tay cô nương nấu nên ăn thật ngon miệng.
Vì có mang nạ da người bên ngoài nên không thể nào đoán được nét mặt của nàng áo xanh cảm xúc ra sao. Tuy nhiên cứ xem qua đôi mắt sáng rực và chớp lia lịa của nàng, Dương Quá cũng đoán được nàng đang vui vẻ lắm.
Qua ngày hôm sau, thương tích của Dương Quá đã giảm hết bảy tám phần. Nàng áo xanh bèn nhắc ghế lại ngồi cạnh giường, lấy kim chỉ vá lại những mảnh áo rách cho chàng.
Vá xong các lỗ rách, nàng cầm lên ngắm nghía rồi cười nói:
– Mặt mày anh trông sáng sủa như thế kia, tại sao ăn mặc áo rách rưới như vậy?
Nói xong, chẳng cần Dương Quá trả lời, nàng chạy luôn vào buồng đem ra một cuộn vải xanh, ướm cắt cho chàng một cái áo mới để thay đổi.
Nhìn nữ lang thanh y nói năng dịu hiền, thái độ thanh nhã từ tốn tuổi chỉ vào khoản mười tám mười chín, nhưng đối với mình hết sức ân cần chu đáo, không khác nào bà chị hiền săn sóc cho đứa em cưng. Từ nhỏ sớm mồ côi cha mẹ, Dương Quá cảm thấy cuộc đời cô độc không ai âu yếm chăm nom, đến nay thấy nàng áo xanh tận tình chăm sóc mình, nên Dương Quá cảm động quá, nhỏ nhẹ nói:
– Chị đối với em tốt quá, em biết lấy gì bồi đáp lại cho xứng đáng với tấm thạnh tình này?
Nàng mỉm cười đáp:
– Một mảnh áo vải đâu có gì đáng kể. Biết quên tánh mạng mình, xả thân cứu người khác, đó mới là một hành động đáng kính và đáng quý chứ.
Dương Quá không biết nói gì hơn, chỉ nhìn nàng, trong lòng thấy dìu dịu và hân hoan khôn tả.
Suốt buổi sáng, trong phòng vắng lặng như tờ, mãi tới trưa, cơm nước vừa xong, nàng áo xanh lại tới bàn cặm cụi viết nữa.
Dương Quá tò mò muốn biết nàng viết những gì, nhưng hỏi đã nhiều lần nàng vẫn không chịu nói thật.
Cứ mỗi bận viết xong, nàng chăm chú xem lại, và sau một hồi thẫn thờ suy nghĩ, hình như không vừa ý nên vò nát vứt đi. Hết viết rồi xem, hết xem lại vẽ, sau hình như quá chán nàng khẽ thở dài, dẹp đi không viết nữa và hỏi Dương-Qua:
– Anh thích ăn món gì cứ nói thật, tôi sẽ mua về nấu cho mà dùng nhé. Dương Quá cảm động quá vội đáp:
– ối, ăn uống thề nào cũng được, miễn no bụng thì thôi, cô đừng quan tâm đến chuyện ấy làm gì cho mệt trí.
Nàng đáp:
– Có chi mà mệt. Anh muốn ăn chi cứ nói nhé, chúng ta đừng quá khách sáo không hay và mất vẻ thân mật đi.
Thấy nàng thật tình cùng mình nên Dương Quá cười bảo:
– Lâu ngày không được ăn xôi cũng thèm thèm. Nếu chị có nếp thổi ít xôi ăn chắc thú vị lắm.
Nàng cười xòa hỏi:
– Tưởng gì chứ xôi thì dễ lắm. Nhưng anh thích xôi ăn với đậu hay với đường?
Dương Quá đáp:
– Xôi nào cũng được, miễn có ăn thì thôi, đậu cũng ngon mà đường cũng tốt.
Chiều ấy, Dương Quá được ăn xôi và tráng miệng bằng chè đậu nấu đường. Đặc biệt là món xôi kèm thêm thịt nướng. Lâu ngày ăn lạ miệng Dương Quá thấy ngon lạ lùng, vừa ăn vừa khen không ngớt.
Thấy chàng ăn uống thật tình, cô gái khen:
– Tình cờ mà tánh anh lại hạp với tánh tôi quá.
Dương Quá ngạc nhiên hỏi:
– Hạp nơi chỗ nào?
Nàng đáp:
– Tôi vốn sanh trưởng tại Hồ châu, xứ này có nếp ngon nên nấu xôi dẻo và thơm nhất hạng. Tôi thích ăn xôi nên thỉnh thoảng lại nấu một bữa ăn trừ cơm.
Nghe nàng nhắc lại Hồ-Châu, Dương Quá bỗng sực nhớ lại ngày nào Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung có đấu với Lý-mạc-Thu tại xứ này, và sau đó gặp Âu-Dương-Phong. Không biết cô gái này là ai, thế nào cũng có gặp qua một lần, và nhất định thế nào nàng cũng biết mình nhưng nghĩ hoài không tìm ra tông tích.
Ăn uống xong, thừa dịp lúc nàng lo thu xếp chén đĩa mang xuống bếp rửa, Dương Quá bước ngang qua bàn, hết xem mảnh giấy thử nàng ta viết gì. Ngại nàng lên bất ngờ, chàng vội lấy đại một tờ bỏ vào túi đem về giường xem lại.
Ngồi trên giường mở mảnh giấy ra xem, chàng rất ngạc nhiên thấy chỉ vỏn vẹn tám chữ:
Ký kiến quân tử, vân hồ bất hỉ”
(Nghĩa là: Đã gặp người quân tử, có chi vui hơn).
Xem lại hai ba lần, Dương Quá suy nghĩ:
Lạ nhỉ! Đây là một câu trong kinh Thi, nhưng không biết cô ta định nói gì, hay có dụng ý chi đây. Quân tử này là ai? có lẽ là mình chăng?
Suy nghĩ mãi không ra, chàng bèn lại bàn lấy thêm mấy tờ nữa, nhưng tờ nào cũng vỏn vẹn có tám chữ như vậy mà thôi.
Không biết dụng ý của nàng thế nào, Dương Quá cứ ngồi lặng thinh suy nghĩ mãi.
Bỗng có người đi lên, Dương Quá lật đật vò nát mấy mảnh giấy rồi vội nhét vào túi cất dấu.
Nàng cũng lượm tất cả các mảnh giấy còn trên bàn và rơi dưới đất đem đốt đi.
Trong lúc nàng đốt giấy ngoài hiên, thì trong giường Dương Quá suy nghĩ mãi:
– Đã gặp người Quân tử! Quân tử này là ai đây? Hay là nàng muốn nó là mình. Nhưng cũng vô lý thật. Nàng đã nói chuyện với ta câu nào đâu mà nhận định như vậy được. Nếu không thì cũng vô lý. Vì tại chốn này, ngoài ta ra thì không còn một kẻ thứ ba nào nữa.
Lòng vẩn vơ suy nghĩ chàng thấy người con gái lại trở vào, đến bàn tắt phụt ngọn đèn dầu rồi lững thững đến cạnh cửa sổ ngắm nhìn ánh trăng.
Trăng lên cao. ánh trăng xuyên qua cánh cửa mở hé hé, nhìn trông như một giải lụa bạch trải từ ngoài hiên vào trong phòng.
Cảnh vật đẹp đẽ nên thơ làm sao! Chợt Dương Quá gọi lớn:
– Chị này.
Nhưng nữ lang điềm nhiên như không hay biết bỏ đứng dậy rồi lững thững bước ra ngoài hiên.
Một chặp sau, từ bên ngoài, một giọng tiên sầu lảnh lót réo rắt trong đêm thâu, vọng từ không gian vô tận, lọt qua song cửa, khiến cho tâm hồn Dương Quá lâng lâng nửa mê nửa tỉnh.
Chàng suy nghĩ:
– Xưa kia ta gặp nàng cầm ống tiêu đánh cùng Lý Mạc Sầu, nhưng tưởng nàng chỉ có tài múa tiêu chứ ko ngờ nàng lại có biệt tài thổi tiêu hay như vậy?
Khi còn sống trong cổ mộ, Dương Quá đã được Tiểu long Nữ dạy cho đánh đàn vì vậy nên chàng cũng hiểu qua 1 ít về âm điệu của nhạc khí. Hôm nay ngồi lắng nghe nàng áo xanh thổi bài ” Vô xạ thương” theo điệu “kù úc” nguyên văn như sau:
” Chim bỉ kỳ úc,
Lục trúc y y
Hữu phỉ quân tử
Như thiết như tha
Như trác như ma”
Đay là 5 câu trich trong đoạn Kinh thi đại ý nói “nhìn 1 bãi sông kỳ trúc xanh tươi đẹp, khen thay cho ng quân tử đức thẳng như ngọc phải năng giũa năng mài. Và muốn gầy dựng nên nghiệp mai sau, việc đầu tiên của ng quân tử là phải gầy đựng nên vợ chồng”
Tiếng tiêu réo rắt cao vút từng mây, khi trầm trầm như lặng tận đáy biển, khi thoảng qua như ngọn gió thu, dồn dập như sấm gào sóng vỗ.
Tiếng tiêu không phải để rửa sầu cho ng lữ khách, mà hình như nhắc ai rằng ngọc lành em đang treo giá, chỉ mong ng quân tử đừng quá hững hờ!
Nghe tiếng tiêu dìu dặt, Dương Quá cảm thấy hứng thú, bèn đứng dậy vói tay lên tường lấy cây đàn bảy dây đã mắc sẵn, so dây thử phiếm rồi tiện tay khảy luôn 1 bài hoà theo đúng âm diệu của tiếng tiêu đang vũ lộng từ mấy tần mây.
Tiêu đàn cùng hoà nhịp , như đôi chim loan cùng gáy, như đôi uyên ương cùng kêu, Rõ ràng ng thục nữ muốn mượn tiếng tiêu gợi lòng quân tử đang lấy dây tơ đáp lại mối thâm tình.
Trong lúc hai bên cùng hoà điệu réo rắt, bỗng nhiên từ bên ngoài tiếng tiêu im bặt. Dương Quá trong phòng cũng ngừng hẵn tiếng đàn, Chàng ngẫm nghĩ:
– Cô nàng mượn tiếng tiêu bày giãi nỗi lòng. Nay thấy mình dùng tiếng đàn đáp lại nên nàng tạm thấy phỉ nguyền, không thổi nữa chăng?
Khi tiếng đàn lẫn giọng tiêu cùng ngừng tấu, im lặng lại bao trùm cả không gian, căn phòng không trở lại nét hoang tịch cô liêu và khu rừng cũng đắm chìm trong hư vô trầm mình dưới ánh trăng bàn bạc.
Nhưng chờ mãi không thấy nàng về chàng nằm mãi 1 mình nóng lòng trong đợi, trằn trọc thâu canh. Mảnh trăng le lói cứ rọ sáng trần gian, và từng tiếng côn trùng rả rít vang lên xé màn đêm tịch mịch…
Dương Quá bực trí nghĩ vẫn vơ và cứ phe phẩy mãi chiếc quạt mo đưởi muỗi.
Đêm khuya lắm, chàng thiếp đi hồi nào không biết.
Bình minh bừng lên, tiếng oanh vàng đã ríu rít ngoài hiên làm chàng chợt tỉnh giấc, vội đưa mắt nhìn ánh chiêu dương đang bao phủ khắp quanh nhà, từng đợt gió ban mai thoảng qua, làm tâm hồn thêm khoái sảng.
Dương Quá lẩm bẩm:
– ồ, không ngờ đêm qua mình ngủ 1 giấc ngon quá.
Rửa mặt xong, chàng lấy chiếc mawt nạ da người đeo vào. Cô gái áo xanh vừa bưng thức ăn điểm tâm lên, trông thấy, lúc đàu hơi bỡ ngỡ, nhưng một lát nàng nghĩ:
– Định nhát ai mà đeo cái thư nợ ấy vào mặt như vậy?
Tuy hỏi vậy, nhưng trong thâm tâm nàng đoán rằng Dương Quá định mang mặt nạ như nàng, để rồi sau này buộc phải gỡ của mình trước rồi mới gỡ của chàng sau. Kể như thế cũng thủ đoạn đấy chứ. Nhưng tánh ta đâu dễ cho kẻ khác bắt bí được.
Hai người cùng ăn xong, nàng thu dọn chén bát, bưng mâm ra ngoài, và suốt ngày ấy 2 người ko nói với nhau 1 câu chuyện gì hết.
Dương Quá cảm thấy trong lòng áy náy và suy nghĩ “Hay là nàng giận lây ta chăng? Tại sao ta có thể gây buồn phiền hờn giận cho ng ơn nhu thế được. Chiều nay phải xin lỗi nàng mới phải.”
Chiều tối, nàng thu dọn chén dĩa của bữa cơm tối xong, hình như dự tính bỏ đi đâu đấy. Dương Quá vội vàng ân cần nói:
– Cô nương thổi tiêu hay quá, xin cho nghe thêm vài khúc nữa được chăng?
Nàng ngập ngừng 1 chút rồi đáp ngay:
– Nếu anh muốn thì cũng được vậy.
Nói xong, nàng đặt mâm chén bát xuống bàn, đi lấy chiếc tiêu bằng ngọc đem ra rồi lại ngồi ngay bên giường Dương Quá thổi.
Nghe giọng điệu vừa trỗi lên, Dương Quá gật gù trầm trồ và hỏi:
– Đây có phải là điệu “nghênh tiên” không?
Nàng vừa thổi vừa gật đầ, và tiếng cứ lảnh lót vọng ra như nỉ non như ai oán. Dù có mặt nạ, nhưng cứ theo âm điệu mê ly của tiếng tiêu, ai cũng có thể đoán được bên sau chiếc mặt nạ có một khuôn mặt xinh xắn tuyệt vời, không thua chi nàng Lộng Ngọc hay Tây Thi tiên tử.
Nàng mải mê sau nắn từng ngoán tay trên ống tiêu, theo đúng cung bậc tuyệt vời, chàng thì lắng tai nghe đê mê, mắt đắm đuối nhìn những ngón tay thon thon trắng nuột như búp măng nhảy tung tăng trên ống ngọc, tâm hồn như chìm đắm trong 1 khung cảnh thần tiên. Lúc bấy giờ trăng đã lên cao, chênh chếch rọi vào nhà sáng rõ như tấm lụa bạch giăng ngang…
Thình lình cô gái áo xanh buông tiêu trợn mắt kêu “ồ” một tiếng đày vẻ kinh ngạc!
Thấy thái độ nàng bỗng nhiên thay đổi quá đột ngột từ mê ly đến rùng rợn thì Dương Quá thắc mawc chưa hiểu vì sao? Chàng quay đầu nhìn theo phía nàng đang dán mắt trân trối, thì thấy trên tường có in đành rành 3 chiếc bàn tay máu đỏ nhu son.
3 bàn bay lại in hẳn trên cao, nếu không phải hạng có khinh công cao kỳ thì không thể nào vói lên để in tới được.
Chàng ngạc nhiên tự hỏi:
– Tại sao trăng sáng như ban ngày mà lại xảy ra hiện tượng lạ lùng dường ấy?
Dương Quá lạ lùng hỏi nàng:
Chị biết ai đã in các bàn tay này không?
Cô gái rầu rầu đáp nhỏ:
– Anh ko hiểu kẻ ấy là Xích luyện Tiên tử sao?
Dương Quá trố mắt hỏi:
– Lý Mạc Sầu à, chết chửa! Vậy hắn tới từ lúc nào vậy?
Nàng đáp luôn:
– Không biết. Nhưng một khi bà đã in dấu ba bàn tay máu là ngụ ý báo trước sẽ giết đủ ba mạng trong nhà này.
Dương Quá hiểu tường tận, nhưng buột miệng hỏi :
– Ba người sao? ai vậy? Tại sao lại ba người?
Nàng điềm nhiêm đáp:
– Quả đúng vậy. Cứ in 3 bàn tay máu là sẽ có ba người chết.
Dương Quá hỏi:
– Trong nhà này, trừ 2 chúng ta ra còn người thứ ba nào nữa?
Nàng chưa kịp đáp, bỗng từ ngoài có tiếng con gái vọng vào:
– Người thứ ba là tôi đây.
Ngay lúc đó từ ngoài mái hiên một ng con gái mặc áo màu hoàng yến vừa bước vào. Ng này mới trông qua thấy thân hình mảnh dẻ.. Dương Quá nhìn kỹ rõ ràng con ng quen thuộc cũ: ” Lục vô Song”.
Lục vô Song tươi cười nhìn chàng hỏi:
– Anh ngốc của em ơi, tại sao bị thương nặng như vậy?
Ngại sự hiềm nghi của nàng áo xanh, Dương Quá dùng giọng nghiêm chỉnh đáp:
– à, té ra là chị dâu của tôi. Chị dâu đi đâu bấy lâu nay mà biệt tin như vậy?
Chàng cố dùng 2 chữ ” chị dâu” để giới thiệu cho nàng áo xanh biết giữa 2 người ko hề có chuyện tà tâm, tình ái.
Lục vô Song quay sang nàng áo xanh nói lớn:
– Này dì, vừa tiếp được thư dì, tôi đã vội đến ngay đây để dì bớt chờ mong.
Rồi ngó Dương Qua, nàng nói tiếp:
– Còn chú ngốc, vì sao mà bị thương như vậy?
Dương Quá chưa kịp trả lời, nàng áo xanh đã đưa tay chỉ 3 dấu bàn tay màu đỏ chói in trên tường trước mặt.
Lục vô Song vừa nhìn thấy đã” ối” lên một tiếng hãi hùng như trẻ nhỏ đi đường gặp ma, mặt mày tái mét. Đến đây, Lục vô Song hồi tưởng lại ngày còn thơ ấu, Lý Mạc Sầu cũng từng in vết tay máu trên tường nhà ở Lăng Hồ thuộc phủ Hồ Châu và ngay đêm đó Lý Mạc Sầu đã hạ sát toàn gia ko chừa 1 con vật nào, kể cả gà chó.. Nghĩ tới cảnh rùng rợn đẫm máu ấy, nàng sụt sùi muốn troà nước mắt. Nghĩ đi nghĩ lại 1 chập bỗng nhiên nàng đưa tay giật phăng chiếc mặt nạ trên 2 người quăng mất và nói lớn:
– Trong khi đang lâm vào tình trạng nguy biến, thần chết cận kề mà ko biết lo toan giải nguy cơ, cứ lo đeo thứ này vào để nhát ai vậy?
Khi chiếc mặt nạ vừa rớt xuống. Dương Quá liếc nhìn thiếu nữa áo xanh thấy mặt mày nàng vô cùng xinh đẹp, nước da trắng như tuyết, mũi dọc dừa, đôi mắt đen láy, vừa có duyên vừa đằm thắm, tuy sánh với Tiểu long Nữ ko nổi, nhưng cũng là một hạng quốc sắc thiên hương, trên thiên hạ hiếm ng bì nổi.
Cô gái áo xanh, vốn là em họ của Lục vô Song tên gọi Trình Anh. Trước kia Trình Anh bị Lý Mạc Sầu bắt cóc suýt nữa nguy tới tính mạng, thời may được chúa đảo Đào Hoa là Hoàng dược Sư cứu thoát. Nguyên thân phụ của Hoàng Dung là Hoàng dược Sư về già bèn đi chu du khắp thiên hạ để thưởng thức cho hết những cảnh đẹp của hoá công, lấy bốn bể làm nhà, khi lên rừng khi dạo núi, lê gót khắp sông hồ, cũng có khi về tận hương thôn viếng thăm những ngôi chùa cổ kính. Khi gặp Trình Anh bị bàn tay độc thủ của Lý Mạc Sầu, ông ra tay giải cứu rồi thương tình mang về Đào Hoa đảo làm đồ đệ. Thấy nàng xinh đẹp ngoan ngoãn thông minh, nên ông thương yêu không khác gì con gái là Hoàng Dung.
Tuy Trình Anh không thông minh bằng Hoàng Dung nhưng lanh lẹ và khôn ngoan cũng hiếm người bì kịp. Hoàng dược Sư bèn đem truyền thụ nhiều môn võ công thượng thặng và chỉ dạy cách bày binh bố trận nữa. Sau một năm trời học tập, thấy bãn lãnh cũng kha khá, Trình Anh bèn xin phép ông hạ sơn tìm người em cô cậu là Lục Vô Song đã lưu lạc từ thuở bé. Sau khi gặp nhau, Lục vô Song và Trình Anh bèn đưa nhau vào cạnh ven rừng lập nên một ngôi nhà nhỏ xinh xinh, tạm trú qua ngày tháng đồng thời cũng để chạy chữa vết thương trong khi cùng đấu với Lý Mạc Sầu trong quán độ nọ. ít lâu sau Lục vô Song đi theo một người bạn gái ngao du ở cánh rừng bên cạnh rồi mãi không thấy trở về. Trình Anh đi tìm, bất ngờ lại gặp Hoàng Dung đang bị Kim Luân Pháp Vương áp đảo trong trạn loạn thạch. Nhờ trước kia được sư phụ dạy cho những bí quyết lập trận ngũ hành, nên Trình Anh đã trổ tài thiếp lập lại trận loạn thạch, biến nguy thành an, đuổi Khi Luân cứu được mẹ con Hoàng Dung và Dương Quá đem về đây cứu chữa. Âu cũng là một chuyện nhân quả do con tạo đã xếp bày.. Giá trước khi Dương Quá ko giải cứu cho Vô Song thì chuyến này đời nào Trình Anh lại chịu cứu chàng và tận tâm chạy chữa! Thế rồi cả ba người ngồi quây quần trên giường bàn về chuyện Lý Mạc Sầu. Sau khi nhắc lại gốc tích ngày xưa, ba người mới rằng xưa kia người nào cũng có sống trên Đào Hoa đảo và Hồ Châu. Sở dĩ Lý Mạc Sầu bị đui một con mắt và vì con chim hoả điêu của Dương Quá mổ trúng. Sau này vì dám chống đối cùng Hoàng dược Sư nên bị Trình Anh đánh cho bốn bạt tai thật mạnh. Còn Lục vô Song thì bị Lý Mạc Sầu buộc tội phản sư môn và ăn cắp cuốn ” Ngũ độc kỳ thư”.
Thế là cả ba đều là những kẻ tử thù của Xích luyện Tiên Tử. Hôm nay gặp nhau lại, tất nhiên phải tận diệt, việc trả thù không thể nào tránh thoát nữa. Sở dĩ Lý Mạc Sầu gặp Dương Quá bị trọng thương nơi đây như ko chịu giết ngay mà còn giả ơn, giả nghĩa ra dấu hiệu bàn tay máu cảnh cáo trước khi hạ sát vì nàng nghĩ rằng:” Dương Quá đang bị trọng thương ko còn chiến đấu nổi nữa. Lục vô Song với Trình Anh bản lãnh còn non nớt, đối với ta đâu có nghĩa lý gì. Chi bằng ta cứ đương nhiên hành động như trước khia cho ra vẻ anh hùng nghĩa hiệp. Dù sao ba người cũng không thể nào trốn thoát được nổi nữa. Như thế thù xưa đã rửa mà hành động của mình lại có vẻ cao thượng và kể cả hơn.
Trình Anh lo ngại nói:
– Tôi nhớ lại ngày trước hắn vào giết phá nhà chị ngay lúc ban ngày. Lần này có lẽ hắn cũng đến trong buổi sớm mai, vào khoảng cuối giờ mão mà thôi. Hay hơn là chúng ta lợi dụng con ngựa của Dương ca chạy hay cùng nhau tẩu thoát trước cho rồi.
Lục vô Song lắc đầu nói:
– Làm sao được, trong khi anh ngốc đang đau nặng, ko đi được đâu.
Dương Quá than nhỏ:
– Cỡi ngựa mà còn ko đủ sức thì làm sao có thể đánh nhau được nữa. Phen này có lẽ khó thoát khỏi tay Lý Mạc Sầu.
Lục vô Song đề nghị:
– Hay là em chịu khó cõng Dương huynh chạy về một phía, còn chị thì tìm cách đánh lừa dụ nó đuổi theo đường khác. Như vậy may ra cứu được mạng anh chàng. Trong ba đứa mình chắc nó ít quan tâm đến chị, nên nếu rủi bị bắt chắc có lẽ cũng không đến nỗi nào đâu. Chứ em và Dương huynh mà bị bắt thì đừng hòng còn sống sót với Lý Mạc Sầu
Thế là 2 chị em cứ bàn qua tán lại, ai cũng muốn lãnh phần hy sinh chận giặc và nhường cho người kia đem Dương Quá đi trốn. Thấy hai người tuy ít tuổi nhưng có thâm tình cùng mình, Dương Quá cảm động vô cùng và nghĩ bụng:
– Họ tuy nhỏ nhưng nghĩa khí lớn nên trong lúc thập tử nhất sinh mới tranh nhau mạo hiểm vì mình. Như vậy dù ta phải chết vì tay Lý Mạc Sầu cũng vui dạ, nỡ nào để phiền tới 2 ng mà tìm phương trốn thoát.
Khi ấy Lục vô Song nhìn Dương Quá nói:
– Anh ngốc ơi, sao anh lặng thinh như vậy? Bây giờ anh muốn tôi hay em tôi cõng anh, xin cứ nói thật ra xem sao? Mau lên chứ sắp xếp không còn kịp nữa đấy.
Dương Quá đang ngập ngừng chưa đáp thì Trình Anh đã cướp lời:
– Chị này kỳ quá, lúc này mà còn gọi anh ấy là chàng Ngốc mãi, không sợ anh buồn lòng sao?
Lục vô Song xì một tiếng đáp:
– Dì đã dùng thư từ tỏ ý cùng chàng nên cứ bênh chầm chập. Ta đã biết rõ lắm rồi. Anh Ngốc là người của dì đấy chứ ai có tranh mất đi đâu? Vậy bây giờ dì nhận cõng anh ấy trốn đi nhá.
Trình Anh mắc cỡ hai má ửng hồng, sau mới nói được mấy lời chữa thẹn:
– Anh ấy đã gọi chị là chị dâu, thì bổn phận của chị dâu phải cứu em chứ còn đùa cho ai nữa? Xưa kia Quan Công phò nhị tẩu quá ngũ quan, thì ngày nay nhất tẩu không phò Dương thúc thúc lánh nạn được hay sao?
Lục vô Song nghe Trình Anh nói câu này thẹn quá, mặt mày đỏ như gấc. Nàng dùng tay đẩy mạnh Trình Anh ra xa, nhưng nàng đã lanh chân né được. Cảnh tượng giữa ba người trong phòng lúc này có vẻ hồn nhiên vui nhộn chứ ko có gì là nặng nề nguy hiểm hết. Hai cô gái cứ đùa nhau cười khúc khích mãi, khiến Dương Quá thầm nghĩ:
– Bất tiện quá, nếu để Trình cô nương đem ta đi thì Lục vô Song sẽ nguy khốn, trái lại nếu để Lục cô nương đem ta trốn thì Trình Anh làm sao khỏi chết vì Lý Mạc Sầu? Đằng nào cũng có một nàng hy sinh vì mình. Như thế không được đâu.
Nghĩ vậy chàng cất tiếng nói:
– Hai cô đối với toi tốt quá, ơn này tôi không dám quên. Vậy bây giờ hai cô cứ tìm đường thoát thân đi, để một mình tôi ở lại đối địch cùng hắn. Lý Mạc Sầu cùng sư phụ tôi vốn có tình đồng môn, chẳng lẻ y lại ko nghĩ tình sư muội mà giết tôi hay sao?
Nghe chàng nói, Lục vô Song lắc đầu gạt ngay:
– Tôi ko trốn đi đâu hết.
Dương Quá biết cả hai đều có lòng khí khái, nhất định ko người nào bằng lòng bỏ mình lại để thoát thân một mình nên nghiêm giọng nói:
– Thôi, đã thế thì chúng ta cùng ở lại hết, hoặc cùng chạy trốn một lần luôn thể. Nếu hắn đuổi theo, chúng ta sẽ quay lại cùng chiến đấu, sống chết tuỳ số mạng, có chi mà lo.
Lục vô Song tán thành ngay:
– Hay lắm, hay lắm, thà chết cùng nhau còn hơn là sống riêng một mình.
Trình Anh trầm ngâm một lúc rồi đáp:
– Không tiện đâu, Lý Mạc Sầu chạy mau như gió, mình ko thể nào chạy thoát khỏi tay nó. Nếu bỏ đi, rủi nó bắt gặp dọc đường thì thật là bất tiện, chi bằng chúng ta cứ dưỡng sức nơi đây, chờ nó tới. Như thế thì mình khỏe mà chờ người mệt, chẳng lợi hơn sao?
Dương Quá vỗ tay khen vùi:
– Cô có kiến hay lắm. Cô có tài về ngũ hành độn pháp, ngay Kim Luân Pháp Vương mà còn thua huống hồ chi Lý Mạc Sầu.
Hồi 41
LẠI GẶP NHAU
Câu nói của Dương Quá làm cho 2 nàng thấy rõ ràng trước mặt một đường đối phó rất kiến hiệu. Cả 2 bằng lòng ở lại đối phó chứ ko đi đâu hết.
Trình Anh nói:
– Trận loạn thạch mà Quách phu nhân đã bày ra giúp cho tôi dựa theo mà bổ cứu nhưng chỗ cần thiết. Chứ nếu một mình tôi mà đem ra bày thì ko làm nổi. Tuy nhiên chúng ta cũng cứ làm thử xem sao? ơn trời phù hộ tới đâu hay tới đó. Bây giờ chị giúp em một tay nhé.
Thế rồi cả 2 nàng đi tìm cuốc xẻng chạy ra khỏi căn nhà, cùng đào đá súc đất làm theo sơ đồ của Trình Anh phát hoạ. Hì hục không bao lâu, tiếng gà đã bắt đầu gáy sáng. Hai người mồ hôi nhễ nhãi, quần áo lấm lem, nhưng thế trận cũng đã bày xong rồi. Trong qua đã thấy huyền diệu lạ thường không khác gì trận loạn thạch của Hoàng Dung hôm nọ.
Xem qua ngắm lại một chặp, Trình Anh nghĩ bụng:
– Tài hiểu biết của Hoàng Dung hơn mình gấp bội, nhưng nếu có bà ở đây, xem trận này, chắc cũng phục ta ít nhiều chứ chẳng không đâu.
Bụng nghĩ thế, nhưng bên ngoài vẫn điềm nhiêm ko dám thố lộ cho Dương Quá và Lục vô Song biết vì ngại 2 người chê cười mình là ng tự cao tự đại.
Dưới ánh trăng sáng rõ, Lục vô Song nhìn thấy vẻ mặt của Trình Anh có vẻ tự mãn và vui vẻ thì cũng mừng thầm, tuy nhiên nàng cảm thấy e ngại cho mình, nên vội bước vào nhà lục bọc lấy ra một cuốn sách, cầm giao cho Dương Quá và nói:
– Cậu Ngốc, hãy xem , đây là cuốn Ngũ độc kỳ thư của sư phụ tôi đấy. Dương Quá thấy cuốn sách ấy bao bằng một cái bìa đỏ như màu huyết. Chàng đang ngẫm nghĩ chưa nói gì thì Lục vô Song nói tiếp:
– Tôi nói dối cùng sư phụ là bọn Cái Bang đã cướp mất cuốn sách này mất rồi. Nay muốn khỏi trở về tay bà ấy, thì anh nên đọc xong rồi đem đốt đi cho xong chuyện…
Dương Quá thấy nàng buồn, cũng ko nói gì hơn, chỉ gật đầu rồi đưa tay nhận
cuốn sách. Lục vô Song lại lấy trong bọc ra một vuông lụa rồi dặn nhỏ Dương
Qua: Nếu chẳng may bị sa vào tay Lý Mạc Sầu, thì khi nào hắn định giết anh,
hãy trao tấm lụa này cho hắn may ra khỏi chết.” Dương Quá cầm tấm lụa xem kỹ,
thấy một mặt tơ sù lông chứ ko được láng như lụa dệt trong nước. Có lẽ đay là
một thứ lụa của nước ngoài. Trên mặt lụa có thêu một đoá bông hồng rất đẹp,
nhưng bông hồng bị cắt làm đôi, chỉ còn vỏn vẹn có một nữa mà thôi.
Dương Quá ko chịu nhận, vì chẳng hiểu đây là vật gì. Chàng trả lại cho Vô
Song và nói: -Vật chi đây, tôi ko hiểu gì hết.
Lục vô song đáp: Nhờ anh trao vật này cho Lý Mạc Sầu, được ko?
Dương Quá gật đàu, đưa tay tiếp nhận rồi để bên gối cạnh đầu giường.
Lục vô Sông ko chịu. Nàng lấy miếng lụa rồi vạch áo Dương Quá nhét vào
bụng. Khi tay nàng chạm vào thịt của Dương Qua, nàng bỗng có cảm giác khác
hẳn, trong ng thấy nóng bừng bừng những cảm giác hồi 2 người “tiếp cốt” trên
quãng đường Quan Thiểm, cùng chung chăn chung gối, bỗng gợi lại trong ký ức
nàng, khiến nàng cảm thấy cõi lòng dào dạt, và tim đập mạnh. Nhưng vì hoàn
cảnh bất tiện, nàng ko còn cách nào hơn là đắm đuối nhìn chàng rồi từ từ bước
ra khỏi cửa. Chờ một chặp cho sóng lòng lắng dịu, Dương Quá mở cuốn Ngũ độc
kỳ thư ra xem, thấy sách cũ quá, bao nhiêu tranh dính với nhau và giấy đã ngã
màu vàng sậm. Trong các tờ đầu, sách có chép nhiều phương thuốc khắc chế và
trừ các loại thứ độc, chế ra hơi độc, và luyện thuốc chữa độc kể cả nọc rắn
nữa.
Xem hết cuốn sách từ đầu chí cuối, Dương Quá chép miệng than thầm:
Mẹ ta đã chết vì nọc rắn. Giá lúc trước ta xem được sách này thì mẹ ta ko
bị chết, và ngày nay ta đâu đến nỗi trở thành một đứa con mồ côi mồ cút, tứ
cố vô thân như thế này. Càng nghĩ càng chua xót cho thân phận mình, chàng cảm
xúc quá, sục sùi khóc, nước mắt rơi xuống làm nhoè cả mấy trang giấy cũ. Bỗng
có tiếng kẹt nơi cửa, Dương Quá giật mình ngó lên. Trình Anh bước vào, mặt
mày tiều tuỵ, hai gò má hãy còn ngấn lệ đến gần giường, rút trong bọc ra một
miếng lụa đưa cho chàng và bảo nhỏ:
Anh hãy giữ kỹ tấm lụa này. Khi nào bị Lý Mạc Sầu bắt anh chỉ cần đưa
mảnh lụa này ra thì tự nhiên thoát nạn. Dương Quá ngạc nhiên thấy miếng lụa
này giống hệt như nửa mảnh của Lục vô Song vừa trao cho mình. Tuy ngạc nhiên,
nhưng chàng cũng cầm lấy. Trình Anh hình như bẽn lẽn lắm, bèn ghé miệng gần
tai chàng dặn nhỏ:” Chàng đừng nói cho chị tôi biết chuyện này nhé.” Nói dứt
lời, nàng đi thẳng ra ngoài. Dương Quá lấy hai mảnh lụa của 2 người vừa giao
cho mình đem ướm thử thì đây chỉ là một miếng xé làm đôi. Nhìn 2 mảnh lụa
gấm, chàng bâng khuâng dự đoán:” Một mảnh bông hồng thêu trên lụa gấm, mảnh
lụa lại xé làm đôi do mỗi người giữ một nửa. Khi 2 người cầm giao cho mình
thì ai cũng có vẻ bẽn lẽn và căn dặn mình ko nên cho người kia biết. Lạ một
nổi là họ cam đoan khi đưa mảnh lụa gấm cho Lý Mạc Sầu thì nhất định ko bị
giết? Như vậy là sao? Thật là kỳ dị và vô cùng bí mật. Chàng cứ ngồi lặng yên
trên giường suy nghĩ mãi, bỗng đâu tiếng gà đã gáy tan canh, ngoài trời ánh
bình minh đã bắt đầu le lói. Sau tiếng gà gáy lại có tiếng tiêu của ai văng
vẳng lên khiến Dương Quá suy nghĩ:
Chắc nàng Trình Anh đã bài trí xong bố trận địa, nên mới đem tiêu ra thổi
giải sầu đây chăng?
Chàng lắng tai nghe kỹ thì đó là bài ” lưu ba”, tiếng tiêu nghe mềm mại
uyển chuyển, nhưng bên trong ko có tý gì sầu bi, hình như kể thổi tiêu ko gợn
tí ưu phiền. Lập tức chàng cũng lấy cây thất huyền cầm ra hoà theo, tiếng
tiêu hoà lẫn giọng đàn hợp thành một nhạc điệu mê ly, khi thoảng qua như gió
lướt, khi dồn dập như sóng ba đào. Người sành âm điệu nghe tiếng tiêu đàn hoà
điệu cũng phải tấm tắc khen thầm, 2 kẻ tri âm, càng hoà càng thêm hứng thú.
Lục vô Song đang ngồi trong các mô đất trong thổ trận, lắng tai nghe em cùng
Dương Quá hoà tấu. Mặt trời đã lên dần, phương Đông đỏ rực như nhuộm màu, Lục
vô Song nghĩ bụng:
-Lát nữa đây Lý Mạc Sầu sẽ tới, mạng ta ắt ko còn, nhờ vuông lụa gấm
Dương Quá và em ta sẽ sống sót được. Âu cũng là một niềm an ủi cho ta nếu Lý
Lý Mạc Sầu nhìn thấy kỹ vật cũ mà tha cho 2 người.
Bản tính của Lục vô Song xưa nay hay ganh tỵ, thế mà đối với cô em Trình
Anh nàng lại hết lòng hy sinh nhường nhịn, lúc nào cũng mong cho em được cùng
Dương Quá kết duyên chồng vợ, còn nàng dù có thác cũng vui lòng, không lời
oán trách. Nàng đang suy nghĩ viển vông, bỗng có tiếng động từ phía ngoài,
nàng ngước mặt nhìn ra phía thổ trận thì có một bóng thoáng qua, một đạo cô
mặc bào trắng, tay cầm phất trần đứng sừng sững tà áo theo gió mai thổi tung
phần phật.
Lục vô Song ” ồ” lên một tiếng khẽ rồi từ từ rút trường kiếm đứng dậy.
Lúc ấy Dương Quá đang mãi mê trong cuộc hoà đàn. Tiếng tiêu hoà lẫn giọng đàn
khi bổng khi trầm như suối reo như nước chảy, bỗng nhiên giọng tiêu nín bặt,
vì Trình Anh bị tiếng đàn của chàng cám dỗ, phải dừng tiếng tiêu lắng nghe.
Ngoài tiếng đàn, nàng ko còn biết đến việc gì khác nữa. Vì vậy mà khi Lục vô
Song” ồ” lớn và đứng dậy tiếp chiến, nàng cũng ko ngờ hay biết.
Lý Mạc Sầu vừa đến cũng hấp dẫn vì tiếng đàn, đứng lặng yên lắng tai
nghe, không cử động. Ngày còn son trẻ, Lý Mạc Sầu đã từng cùng người yêu là
Lục Triển Nguyên hoà nhạc với những âm điệu tương tợ, cho nên ngày nay mỗi
khi nghe tiếng tiêu tiếng đàn trong nhạc điệu” lưu ba” thì nàng cũng cảm thấy
tâm hồn say sưa ngây ngất và hồi tưởng lại những thú say sưa của mười năm cũ đã khiến cho con tim rào rạt bao niềm yêu thương của buổi hoa niên.Tiếng đàn quả có một mãnh lực vô cùng huyền diệu, người đang vui nghe đàn, thấy tâm hồn thư thái hân hoan, người đang buồn nghe tiếng đàn lại sinh ra sầu đau yếu thế. Lý Mạc Sầu đang chán đời, nên khi nghe tiếng đàn ko cầm được cảm xúc,
bỗng ôm mặt oà lên khóc mùi. Quả là một điều ngoài sức tưởng tượng của Lục vô
Song. Nàng ko ngờ một con người háo sát, xem mạng người không bằng con vật
như Lý Mạc Sầu lại bị tiếng thất huyền cầm của Dương Quá lôi cuốn đến nổi
khóc nức nở như vậy. Lý Mạc Sầu tới đây ko ngoài mục đích tìm kẻ thù để hạ
sát, không ngờ bị tiếng tiêu giọng đàn lôi cuốn, nàng trở thành như người
sương phụ trông chồng, mãng ngóng trông không thấy chồng đâu đành phải khóc
lớn để trút bớt nỗi ưu tư đang dồn dập trong lòng. Thái độ của Lý Mạc Sầu
khiến Lục vô Song liên tưởng tới phận mình cũng cảm thấy lòng đau như cắt.
Lý Mạc Sầu cứ khóc, Dương Quá cùng Trình Anh cùng trỗi khúc” hành vân”
rồi sang ” lưu thủy”, nghe như tiếng ngọc reo, sắt, vàng va chạm. Thình lình
Lý Mạc Sầu nín im ko khóc nữa và cất tiếng ca:
– Vấn thế gian,
Tình thị hà vật
Trực giáo sinh tử tương hứa
Thiên Nam địa bắc song phi khách
Lão si kỷ hồi hàn thử
Hoan lạc thú
Ly biệt khổ
Tựu trung canh hữu si nhi nữ
Quân ưng hữu ngữ
Diểu vạn bạch từng vân,
Thiên Sơn một tuyết,
Trích ảnh hướng thuỳ khứ”
Tạm dịch:
” Hỏi thế gian
Tình ái là gì nhỉ?
Sống chết một lời hứa luỵ
Nam bắc phân chia hai đàng
Mưa dầm nắng dãi quan san
Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau
Chung qui một kiếp tình sầu
Khi vui gang tấc
Ngàn sầu biệt ly
Biết cùng ai biết ai
Biết nói gì?
Chỉ trông mây núi, người đi không về”
Tiếng đàn giọng tiêu đang hợp tấu những bản đầy hoan lạc, đôi trai gái
đang mãi mê trong giấc mộng mê ly, ko ngờ Lý Mạc Sầu lai xen vào những lời ca
ngâm vô cùng bi đát, với giọng sầu bi ai oán khiến cho cung điệuvà ý nghĩa
trái hẳn với khúc nhạc Lưu ba thu thuỷ. Giọng hát của Lý Mạc Sầu cũng hấp dẫn
được Trình Anh, khiến nàng cũng chuyển theo âm điệu ấy. Dương Quá không thể
cưỡng được cũng nắn giây so phiếm hoà theo. Lý Mạc Sầu càng hát giọng càng
cao vút, khiến cho Dương Quá cảm xúc quá không còn theo được nữa. Chàng buộc
miệng nói lớn:
Em hãy tấu những khúc vui tươi chứ ko nên tấu những bản nhạc ai bi sầu
não quá. buồn quá ko chịu được. Trình anh nghe nói ngừng tiêu tìm lại âm điệu
cho thích hợp. Vừa nghe tiếng tiêu nín bặt, Lý Mạc Sầu mỉm cười hãnh diện và
nghĩ thầm:
Thấy chưa, khi cô nương đã ra tay thì dù chúng bây có vui cũng hoá ra
buồn, và hễ buồn thì cứ khoanh tay ngồi đó cho ta nắm cổ đem đi cho rồi,
khỏi phải nhọc công phí sức. Suy nghĩ xong, nàng cảm thấy trong lòng cũng vui
vui và hát những khúc hào hứng hơn trước. Dương Quá so giây nắng phiếm đàn
những bài hát vui tươi như ngọc reo, đẹp như hoa nở, êm dịu như oanh hót, và
Trình Anh cũng thổi những điệu khác, bao nhiêu khúc tiêu sầu đều không còn
nữa. Thấy 2 người tấu lại những khúc hoan lạc như cũ, Lý Mạc Sầu nổi nóng cất
tiếng hát vang, như hò như hét, nghe chát cả màng tai. Dương Quá bị âm thanh
hỗn loạn làm rối trí không đàn được mà Trình Anh cũng ngưng bặt tiếng tiêu.
Cả 2 cùng hồi hộp chờ giờ phút quyết liệt.
Trong bọn có Lục vô Song là kém nhất. Nàng ko biết vì sao Lý sư phụ đang
khóc bỗng cất tiếng hát. Sau khi nghe hát nửa chừng nàng dự đoán:
-Có lẽ bà định dùng giọng hát vừa khóc vừa cười để lung lạc tinh thần đối
phương dây chăng?
Cuối cùng thấy Dương Quá và Trình Anh cố sức hoà tấu mà ko át nổi giọng
ca của Lý Mạc Sầu, Lục vô Song lại nghĩ khác:
-Có lẽ sư phụ thấy thổ trận quá ư lợi hại, muốn dùng lời ca làm thác loạn
tinh thần kẻ địch, khiến cho 2 người ko còn tinh thần chiến đấu, lơ là việc
phòng thủ để thừa cơ xông vào hay chăng?
Rồi nàng lại tự trách:
-Tiếc rằng ta còn kém quá, âm nhạc lại chẳng biết tý gì để giúp được 2 ng
trong muôn một.
Lý Mạc Sầu thấy đã dùng thủ đoạn ” bi hoan kinh cụ” mà ko khắc phục nổi
đối phương, bèn chuyển dần ra ” sân si” để mê hoặc. Quả nhiên trong khi nàng
dùng tiếng hò như ra lệnh, tiếng hét như thét vào tai khiến cho 2 người mất
hẳn bình tĩnh, cả Dương Quá và Trình Anh đều ko thể nào chủ động được nhịp
điệu. Thế là tiếng tiêu loạn vận, tiếng đàn ngang giây. Dương Quá cố chăm chú
tập trung ý chí để so lại giây lựa phiếm. Lý Mạc Sầu thừa dịp này tiến tới
sát vách, tung một chưởng dập bể tấm vách nhảy vào nhà. Trình Anh bày thổ
trận cốt để án ngữ hai chữ Đông Tây là hai cửa chính ra vào căn nhà, chứ ko
nghĩ tới việc đề phòng vách hậu. Khi thấy Lý Mạc Sầu tung chưởng phá vách
xông vào nhà cả hai nàng đều nhất tề rút kiếm xông vào tiếp vận cho Dương
Qua. Thấy Lý Mạc Sầu phá vách xông vào, Dương Quá giật mình hãi sợ nhưng vì
còn đau nặng ko chống đỡ nổi, chàng suy nghĩ:
– Thôi đành liều vậy chứ sao. Trời sanh mỗi ng đều có số mạng hơi nào lo
lắng cho nhọc trí.
Nghĩ xong chàng điềm nhiên ngồi trên giường so giây đàn bản ” Đào yêu”
Tiếng đàn chàng gãy nghe rõ ràng như giọng hát, cung điệu tha thiết, ý tứ dồi
dào, từ đường tơ phát ra những thanh âm véo von réo rắt như giọng oanh reo:
” Đào chi yêu yêu
Thược thược kỳ hoa
Chi tử vu qui
Kỳ nghi gia thất”
Tạm dịch:
Hoa đào thắm sắc
Thược được mỹ miều
Ai đi, tìm lấy chữ yêu
Xây niềm hạnh phúc, vui chiều vu qui”
Đó là bài” từ” phỏ theo đàn để hoà tấu trong khi trai gái kết hôn. Chàng đánh
liều với thần chết và đàn. Vừa đàn vừa suy nghĩ:
-Nếu phen này thoát chết, ta nguyền tìm Tiểu long Nữ quay về cổ mộ vui
với nếp sống trong rừng xanh sớm hôm chuông mỏ ngày thánh sắt cầm tiêu dao tự
toại. Cảnh sống như vậy kể ra cũng thần tiên lắm rồi.
Xúc động tâm linh, tiếng đàn chàng đang gãy bỗng nhiên đổi giọng hình như
có lẫn tiếng chuông mõ đâu đây, khiến cho kẻ đứng ngoài có cảm giác hình như
đây là đêm hợp cẩn của đôi trai tài gái sắc và chinhs nhạc công đang tấu
khúc” Yến hỉ tân hôn” ( hãy vui duyên mới)
Lý Mạc Sầu nhìn thấy Dương Quá bình tỉnh đàng hoàng, vui vẻ ngồi gãy đàn,
hình như ko có việc gì đã xãy ra, và cũng ko hề lưu tâm tới mình là kẻ đại
thù đang đứng ngay trước mặt. Vì vậy bỗng nhiên Lý Mạc Sầu cảm phục lòng can đảm
của chàng tuổi trẻ, rồi say mê với nhịp đàn mê ly, ngây ngất với vẻ mặt xinh
trai của chàng, nên trong lòng nàng cũng cảm thấy một mối yêu đương dào dạt
như đang bừng dậy trong lòng.
Dương Quá càng hân hoan, tiếng đàn càng tươi, khiến bao nhiêu nét u buồn
giận dữ trên mặt Lý Mạc Sầu bỗng nhiên biến hết. và nàng đã biến thành 1 bạn
tri âm của cây thất huyền cầm. Lục vô Song đứng ngoài trông thấy cảnh tượng
bỗng nhiên biến đổi một cách quá lạ kỳ thì cất tiêngs thưa để xin lỗi, mà
cũng vậy để giảng hoà:
-Kính thưa sư phụ, cuốn Ngũ độc kỳ thư do bọn Cái bang cướp mất chưa tìm
ra được.
Dương Quá tay trái nhấn trên phím đàn, tay phải cầm cuốn Ngũ độc kỳ thư
trao cho Lý Mạc Sầu, miệng nói:
-Hoàng bang chủ là ng trượng nghĩa, thấy sách này chép những tà thuật hại
ng nên cấm trong Cái bang ko cho ai đọc lấy chữ nào, và sai tôi trao lại cho
cô hôm nay đây.
Lý Mạc Sầu run run mở ra xem thấy ko rách một tờ, ko hư 1 chữ. Bấy giờ
nàng mới tin rằng kỷ luật của Cái bang quả thật nghiêm mình và hành động của
Cái Bang là chính đại, y như thiên hạ đồn xưa nay. Mối hờn căm của nàng đối
với 3 ng đã giảm hết bảy phần. Ngay lúc đó, Dương Quá lại lấy trong bọc ra
một gói nhỏ trải ra hai mảnh lụa gấm trên bàn và nói tiếp:
-Xin cô nhận lấy 2 thứ này nữa là được việc.
Lý Mạc Sầu mặt đi, cầm cây phất trần khều hai miếng gấm lại, rồi đưa tay
ra lượm. Trong lòng nàng lúc nầy đang rào rạt nhiều nỗi niềm bí ẩn. Trình
Anh, Lục vô Song hai ng cùng nhìn nhau, gượng đỏ mặt trong lòng thầm trách:
” Thế mà giấu mãi, ko ngờ cũng say mê chàng như tôi”
Cả hai chị em cô cũng đều mê Dương Qua, nhưng chưa ai dám thó lọ tâm
tình. Nay bị Dương Quá đem phơi bày ra giữa thanh thiên bạch nhật, có bằng cớ
rõ ràng cả hai, nên ng nọ nhìn ng kia lườm nguýt nhau, nhưng mắt cô nào cũng
tràn đầy vẻ yêu thương. Trong căn nhà lúc này thật đượm màu gió trăng, tình
tự, ko có gì cà oán thù, chém giết như lúc ban sơ bị Lý Mạc Sầu phá phách. Trình
Anh và Lục vô Song tuốt gươm định chống. Dương Quá lúc này lại gảy khúc” Đào
yêu” nghe rất vui tai xứng ý.
Bỗng nhiên Lý Mạc Sầu xé làm ba tư mảnh gấm, rồi nói:
Chuyện này đã qua rồi, đừng nói đến làm chi !
Nàng tung những mảnh gấm vụn bay toả ra, như vườn hoa lệ gặp cơn gió bay
rơi xuống.
Dương Quá nhìn lên, nghe “phạch” một tiếng. Một dây đờn bị đứt lúc đó. Lý
Lý Mạc Sầu cất tiếng nói:
-Dương Qua, ta muốn giết mi lúc này, dễ như trở bàn tay, nhưng mi đã bị
thương, ta ko nỡ đến võ nghệ hạ sát, vì chết như thế mi sẽ ko phục ta !
Nàng vừa dứt tiếng là nghe” phựt phựt” cả năm dây đờn đều đứt cả!
Lý Mạc Sầu mỉm cười , nói:
-Lúc này ta cho phép bọn bay cứ thoả thích vui đùa, rồi để lát nữa ta sẽ
cho ba đứa chụm đầu lại cùng khóc.
Trên mặt đàn lúc này chỉ còn trơ lại một dậy, Dương Quá tuy đờn thạo
nhưng gảy sao được nữa.
Lý Mạc Sầu giục: Gảy đi, dù thế nào cũng phải gảy đi, để tạ lòng tri kỷ
trước khi về âm phủ. Dương Quá đưa tay bầp bành, chỉ nghe được 2 tiếng ” tiên
ông” Lý Mạc Sầu nói tiếp”: Tiên ông hay tục khách chi chăng nữa, ta cũng giết
mi trước. Thật lạ! Nàng vừa dứt câu là dây đàn cũng dứt nốt.
Nàng vung phất trần định đập vào đầu Lục vô Song.. Trình Anh thấy thế liền
giơ gươm lên gạt đỡ định liều chết với Lý Mạc Sầu. Dương Quá biết tánh mạng
mình chưa đến ngày tận số, nên cất tiếng vừa cười vừa nói:
-Ba chúng ta được chết chung một ngày giờ với nhau, còn hơn cô ta sống lẻ
loi một mình trên thế gian!
Đoạn chàng cất tiếng gọi lớn: – Hai nàng lại cả đây để cùng tôi chết một
chổ.
Trình Anh và Lục vô Song chạy lại đứng gần Dương Qua. Dương Quá tay trái
nắm Trình Anh, tay phải đỡ Lục vô Song và nói: Ba đứa mình cùng chết như vậy,
được xuống suối vàng thiệt là vui vẻ. Cần gì phải chống với con ác phụ chi
cho dơ dáy.”
Lục vô Song cười nói: -Chú ngốc nói mà phải đấy. Bây giờ chúng ta thử làm
anh em Lưu bị, thực hiện lời thề: ” Nguyện đồng tử, bất nguyện đồng sanh” xem
sao!
Trình Anh cũng tươi cười, rồi hai chị em dang tay ôm lấy Dương Qua. Ba
tâm hồn lúc này như thư thái, ko còn lo sợ gì cả.
Riêng Dương Quá thấy ng ấm hẳn lên, hình như được bồi thêm sinh lực.
Chàng thầm tiếc: “giá được Long cô nương cùng ở đây nữa thì hay!”. Tuy nghĩ vậy, mà bề ngoài chàng làm ra vẻ âu yếm, thân mật với Trình Anh và Lục vô Song. Mặt của Lý Mạc Sầu lúc này lạnh như tiền, nàng thầm nghỉ:
– Tui này nói có lý lắm. Yêu nhau mà được chết bên nhau, còn sung sướng gấp trăm lần sống cô độc trên thế gian.
– Ta quyết làm cho chúng bây trước khi chết phải đau khổ ko thể để cho chúng bây thoả mãn với cái chết đó.
Nghĩ vậy, nàng dùng phất trần phát nhẹ một cái rồi hát.
– Hỡi thế gian!
Chữ tình là lụy..!
Tiếng hát nghe sao buồn như tiếng cú kêu đêm, thảm như hồn ma bơ vơ ngoài nghĩa địa, nhiều lúc tiếng nấc của nàng như đứt ruột gan, ko khác gì tiếng khóc của ng đàn bà khi thấy xác chồng bỏ vào hòm, như tiếng oan hồn gào trong cảnh khuya rừng vắng.
Dương Quá và hai cô gái đang chung vai sát cánh âu yếm nhau để chờ chết, bỗng nghe đến tiếng hát ai cũng buồn rười rượi. Tuy nhiên, Dương Quá bản lĩnh cao hơn, chàng cố nén buồn cười đắc ý. Trình Anh và Lục vô Song khi nghe tiếng hát lòng buồn rười rượi, và mắt dầm dề ngấn lệ. Tiếng hát Lý Mạc Sầu mỗi lúc một buồn, gợi những âm thanh áo não, như gợi vào lòng ng một cái gì xót xa, oán hận. Ngay như Dương Quá là kẻ có được con tim cứng rắn, cũng ko sao chịu nổi nhịp điệu, và dòng lệ rướm rướm chảy. Lý Mạc Sầu dụng ý làm cho ba ng đau khổ trước khi chết, cho nên nàng đợi đến khi nào ba con tim kia mềm nhũn, nàng sẽ vung phất trần kết liễu con con ” Ma tình ấy”. Trong lúc đó tiếng hát của Lý Mạc Sầu, bỗng nghe có tiếng cười lanh lảnh từ ngoài vọng vào. Tiếng đó, một ng vừa vỗ tay vừa hát. Tiếng hát nghe rõ là tiếng của đàn bà còn ít tuổi, đặc biệt là nhịp và giọng rất đúng điệu, chẳng khác một ca nhi:
– Bói xem chồng có yêu ta ko nào?
Thầy rằng: hai má hồng đào,
Lộn chồng, chồng đánh lộn nhào suốt đêm.
ối chao nào muốn chồng hiền
Lấy chồng, chồng dữ, là tiên trên trời.
Tiếng hát nghe lảnh lót, giọng rất lẳng lơ, lãng mạn, làm át cả giọng bi ai, sầu thảm của Lý Mạc Sầu. Vừa lúc người ấy bước ra cửa, mọi ng nhìn ra, thì đó là một cô gái đầu tóc bù xù, đôi mắt tròn to như mắt sư tử, hăm hở cười như một con đười ươi, tay cầm bó đuốc vung ve, vung vẩy. Người hình dáng kỳ quái, mà lại vượt qua thổ trận đi vào giữa nhà, Lý Mạc Sầu quá kinh ngạc thầm nghỉ:
-Con nầy có lẽ là cùng bọn với 3 đứa trong nhà nầy chăng? Nếu ko phải, sao hắn biết lối vượt vào được kỳ môn độn giáp của thổ trận.
Nghĩ như thế, Lý Mạc Sầu tự nhủ:
– Câu hát đúng là người lẳng lơ, đâu phải con nhà lễ giáo, còn mặt mũi xấu như Chung vô Diệm ai thèm lấy mà gọi lộn chồng chứ!
Nàng tự nhủ xong định cất tiếng mắng, thì Trình Anh đã lẹ miệng nói trước:
– Sư muội ơi! Người này định hại chúng tôi, xin sư muội cứu cho.
Cô gái đầu bù, mắt lồi nầy chính là học trò của Hoàng dược Sư có biệt hiệu là “cô ngốc”. Nghe Trình Anh yêu cầu, cô đầu bù ko nói, lại tiếp tục vỗ tay hát:
– Trên trời sao mọc lung linh.
Dưới trời sương trắng mông mênh trải đường!
ối chao! Tài nghệ phi thường,
Chống trời, trời đổ tuyết sương lạnh lùng…
Lý Mạc Sầu định cất tiếng hát sầu thảm, để áp đảo những câu hát vui, lãng mạn đang lảnh lót. Nhưng ko hiểu tại sao, tâm trí Lý Mạc Sầu rối loạn như tơ vò, ko còn nhớ một câu hát nào, mà chính lòng nào bối rối, chứ ko có chút gì sầu não, nên ko tài nào hát những câu buồn theo ý định. Thông minh đến đâu mà lúc ruột gan rối loạn, thì ko thể nào phản ứng được những ngoại cảm, dù chỉ là một câu hát, chứ đừng nói đến mưu lược cao xa! Lý Mạc Sầu thấy mình ko áp đảo được giọng lãng mạn, đùa cợt của cô gái kỳ quặc, mà còn Dương Qua, và hai cô gái kia cũng nhởn nhơ trước mặt.
Nàng giận lắm nghỉ thầm:
– Ta hãy kết liễu đời con quỉ nầy trước, rồi tính ba mạng kia chả muộn gì.
Nghỉ thế nàng đưa phất trần đến đạp cho tan xác cô Ngốc.
Nguyên trước khi Hoàng dược Sư có giết lầm một để tử yêu quý của ông là Khúc linh Phong, sau lão hối hận, đem cô gái của Linh Phong là cô Ngốc về nuôi. Hoàng dược Sư tự thề: Ta phải dốc túi dạy cho con bé nên người. Nhưng ác thay! Cô ngốc thấy cha chết, nên quá sợ hãi, thường nhớ rồi sinh ra bệnh loạn óc, tinh thần ko còn minh mẫn nữa, cho nên Hoàng dược Sư dạy bảo công phu, nhưng đối với nàng cũng như ” nước đổ lá môn”..
Hoàng dược Sư cố công dạy nàng hơn mười năm, mà cô Ngốc chỉ học được có ba phép”tát bằng tay” và ba cách”đánh tréo” bằng đuốc. Lão nhận thấy nàng quá khùng, nên ko dạy nhiều chỉ luyện kỹ sáu đòn độc, cũng đáng sợ rồi. Cô ngốc thấy Lý Mạc Sầu giơ phất trần đập vào đầu mình, cô ko hề để ý , chỉ dùng bó đuốc đánh tréo một đòn. Ngọc đuốc phất tréo hai cái, mà cả phòng chuyển động, Lý Mạc Sầu quá kinh hãi thầm nghĩ
– Con nhỏ này mà lại có sức mạnh thế nầy ư?
Nghĩ thế, nàng nhảy sang một bên, đă phất trần đập tạt ngang vào thái dương cô Ngốc. Cô Ngốc cúi đầu xuống, liền đánh lên một đòn tréo nữa, chớp mắt, bó đuốc đâm thẳng vào ngực Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu quá sợ, vội dùng phép chuyển thân” thất tinh bộ” mới tránh được. Thừa thắng cô Ngốc dùng tay trái tạt sang những đòn mạnh như vũ bão.
Lý Mạc Sầu đưa phất trần gạt, sợ lửa ở cây đuốc cháy, nhưng đánh bằng quyền cước ko tài nào đỡ được cái tát tai mạnh như núi sụp, Lý Mạc Sầu hoảng hốt, nhảy qua lỗ tường trống chạy thoát thân. Vừa nhảy qua lỗ hổng đã bị một đòn tê cả người, làm cho Lý Mạc Sầu sợ hãi. Thật ra cô Ngốc chỉ có ba đòn vỏn vẹn đầu tiên là lợi hại, cũng như Trình giảo Kim chỉ đánh ba búa đầu là mạnh, nếu có ai chịu nổi ba búa, thì búa thứ tư chỉ là phủi bụi. Cô ngốc cũng vậy từ phép đánh tát tay và đánh tréo bằng đuốc, chỉ có ba đòn đầu tiên mới đánh kinh sợ, nhưng đến đòn thứ tư cũng như trò chơi trẻ nít.
Lý Mạc Sầu mới bị hai đòn đã sợ bỏ chạy, tưởng đay cũng là một vinh dự cho Hoàng dược Sư. Lý Mạc Sầu chợt thấy bên trong chỗ tường thủng, có một lão râu daìi chấm rố, bận áo bào xanh đang ngồi khảy đàn trên ghế. Ông lão này chính là Hoàng dược Sư, chúa đảo Đào Hoa, người đã cứu Trình Anh trước đây.
Lý Mạc Sầu là tay tinh tế, nên khi giao chiến, mà vẫn trông thấy xa tứ phía, tai nghe tám phương, phòng hờ sợ địch đánh bất ngờ. Nàng tự nghĩ:
– Tại sao Hoàng dược Sư vào trong nhà này lúc nào mà ta ko hay.
Nghĩ như thế nàng rùng mình sơ hãi, miệng lẩm bẩm:
– Nếu lão dùng ám khí giết ta, dễ như trở bàn tay! Quái thật! Sao lão lại quân tử đến thế?
Trong khi đánh với cô Ngốc, Lý Mạc Sầu sơ Dương Quá và đồng bọn xông vào vòng chiến, nên tay đánh và miệng vẫn hát những âm điệu buồn rầu để mê hoặc ba người. Khi nàng quay nhìn thấy ông già, đang dạo đàn, nàng vội ngừng ko hát nữa. Tiếng đàn Hoàng dược Sư khảy văng vẳng những câu mà nàng đã hát để mê hoặc bọn Dương Qua. Nhưng giọng đàn còn thảm thiết, bi ai gấp trăm lần giọng hát của nàng. Thấy vậy nàng liều mạng đứng lại nghe. Lý Mạc Sầu thắc mắc:
– Hoàng dược Sư là một tôn sư trong một võ phái, không ngờ âm nhạc lại tài tình như thế này.
Khúc đàn đang dạo, những âm hát do Lý Mạc Sầu sáng tác, cho nên tâm linh nàng, lúc này quá cảm xúc, nàng còn say mê bằng mười bọn Dương Qua, nên đi ko dứt, chỉ đứng đờ ng ra mà nghe. Hoàng dược Sư biết ý Lý Mạc Sầu, từ trước đến giờ đã từng nhúng tay vào việc ác, nên ông định ” hôm nay phải dùng nhạc, trừ mạng mày cho rồi”. Nghĩ như thế, Hoàng dược Sư phối hợp cả tiếng ngọc tiêu của lão và tiếng đờn tranh của Âu dương Phong cùng với tiếng sáo của Hồng thất Công thành một nhạc điệu rồi gảy trên đường tơ.
Lý Mạc Sầu nghe đến đây, lòng nao nao ko thể nào kiềm chế được nữa. Hoàng dược Sư thấy Lý Mạc Sầu đang say mê nghe, lão tay đàn, miệng hát, khi thì lại thảm thiết, lúc lại vui vẻ chợt biến ra như giận dữ, khi cao khi thấp, làm cho người nghe lúc vui lúc buồn rồi dồn dập quá như điên như dại.
Hoàng dược Sư đoán:
– Mi nghe hết khúc này, tự nhiên sẽ biến thành con điên.
Cô ngốc giờ mới thấy Dương Qua, dưới ánh sáng của đèn đuốc nàng thấy chàng giống Dương Khang như hai giọt nước. Cô ngốc tính hay sợ ma, nhất là nàng đã chứng kiến trong cảnh chết thê thảm của Dương Khang ở miếu đường Gia hưng Vương nên nàng ko lúc nào quên được. Chợt thấy Dương Quá ngồi trên ghế, nàng cho là hồn của Dương Khang hiện lên, nên nhảy thót một cái run lẩy bẩy, lập bập:
– A..! Anh, anh! Anh…! Dương..! Anh đừng! Có hại tôi! Ôi tôi ko phải là ng giết anh! Anh đừng hại tôi.
Hoàng dược Sư lúc này đang mê say, cao hứng gảy những tiếng đàn nghe như oán, như hờn, như than như khóc. Bổng nhiên cô Ngốc nói làm náo động cả lên, rồi tiếp theo đàn lại đứt một dây.
Cô ngốc chạy lại sau lưng Hoàng dược Sư kêu lên:
– ái..! có ma.. ! ma hiện lên.. ! sư phụ ơi! . hồn Dương huynh hiện lên kia kìa.!
Nhờ cô hội đó Lý Mạc Sầu bình tĩnh lại. Nàng dương phất trần phẩy tắt ngọn đèn, rồi lủi qua vách trống tẩu thoát.
Hoàng dược Sư lỡ mất cơ hội, ám hại Lý Mạc Sầu bằng âm nhạc, nhưng ông vẫn ko đuổi theo.
Còn cô Ngốc càng gào to:
– Sư phụ ơi! Ma dữ lắm..! Cứu!..Cứu con sư phụ ơi!
Trình Anh vỗi vã thắp đèn, rồi chạy lại sụp lạy trước mặt Hoàng dược Sư, và kể sự tình Lục vô Song và Dương Quá cho lão nghe.
Hoàng dược Sư quắc mắt nhìn cô Ngốc la lớn:
-Nín im đi!
Lão quay sang nhìn Dương Quá nói:
– Nó biết mặt thân phụ cháu, mà cháu giống ba cháu như đúc hèn chi nó lầm là phải!
Dương Quá nằm trên giường ngẩng đầu lên nói:
-Xin đạo sư tha lỗi cho, vì cháu bị thương nên ko thi lễ được.
Hoàng dược Sư vui vẻ đáp:
– Cháu thật đáng khen! còn nhỏ mà đã có lòng hào hiệp xả thân mình để cứu ng khác.
Nguyên trước đây, Hoàng dược Sư có gặp con gái mình là Hoàng Dung kể hết đầu đuôi cho ông nghe nguyên do, nên công việc xảy ra trước đây ông đã tường tận.
Sau khi nghe Trình Anh cứu Dương Quá đem đi nơi khác, Hoàng dược Sư vội vàng đem cô Ngốc đi tìm kiếm chàng. May sao đúng lúc.
Hoàng dược Sư lấy viên linh đơn đưa cho Dương Quá uống và vận nội lực giúp chàng chóng bình phục.
Dương Quá uống xong mấy viên thuốc và được Hoàng dược Sư vận công giúp sức, cảm thấy toàng thân nóng ran, bớt đau.
Hoàng dược Sư thấy da thịt Dương Quá nổi mụn và dựt, lão vội vàng dùng thuốc thoa bóp trên da và nắm lấy đầu xương cửa chàng. Chỉ độ ba tiếng đồng hồ, thì Dương Quá trở lại khoan khoái hơn trước. Chàng ngủ thiếp đi lúc nào ko biết.
Sáng hôm sau, khi chàng thức dậy đã thấy Hoàng dược Sư ngồi trên đầu giường. Chàng vội vàng tụt xuống giường thi lễ.
Hoàng dược Sư đõ chàng dậy, vui vẻ nói:
– Cháu có biết trên khắp giang hồ người đời gọi ta là gì ko?
Vì còn bệnh nên chàng cất tiếng run run nói:
– Dạ cháu có nghe ng ta gọi bác là Hoàng dược Sư chúa đảo Đào Hoa.
Hoàng dược Sư lại hỏi:
– Còn tên chi nữa?
Dương Quá toan đáp “Đông Tà”, nhưng chàng kịp nghĩ lại:
– Nếu mình gọi” Đông Tà” sợ phật ý ông chăng?
Chàng ko dám gọi nhưng anh lại nghĩ tên “Đông Tà” người đời vẫn thường gọi có chi mình phải sợ, chàng bạo dạn đáp:
– Còn danh hiệu của bác là “Đông Tà”
Hoàng dược Sư cười khà khà có vẻ đắc chí nói:
– Cháu nói đúng đấy.
Bỗng đôi mắt ông sáng quắc lên, hình như nhớ lại một chuyện gì, ông cất tiếng sang sảng nói:
-Ta nghe ng đời đồn con võ công thâm hậu; chỉ vì con có tình ko chánh đáng muốn lấy cô thầy của con làm vợ phải ko? Có đúng như lời đồn ko? Hay ng ta đồn bậy.
Dương Quá chắp tay thưa:
-Thưa bác!Đúng vậy! Mà cháu ko biết vì sao ng đời cứ cản trở việc đó. Nhưng con quyết định dù sao con vẫn ko đổi ý. Hoàng dược Sư nghe Dương Quá nói quả quyết như định đóng cột, liếc mắt nhìn chàng từ đầu đến chân, rồi ngửa mặt lên trời cười ha hả… Tiếng cười của ông như sấm sét, làm rung động cả không khí yên tỉnh, mái ngói đổ xuống lảng cảng.
Dương Quá thấy cử chỉ của ông, nổi giận nói:
– Sao bác lại cười ngặt nghẹo như vậy! Con tưởng bác là một ng thông minh nếu ko giải quyết việc này cho cháu thì thôi, sao bác lại cười?
Hoàng dược Sư cất tiếng khen lớn:
– Tốt lắm! Tốt ko thể tả! Không ngờ trên đời này lại có ng tốt như vậy!
Vừa nói , ông vừa quay mình đi ra khỏi cửa.
Dương Quá đưa mắt nhìn theo, lòng hối hận và đã quá lời, làm cho Hoàng dược Sư bỏ ra đi, nhưng sao vẫn vui vẻ thế..!
Hoàng dược Sư vốn từ trước đến nay là ng dọc ngang, ko một nơi nào ko đặt
chân đến, khắp thiên hạ ai cũng biết lão. Ông nhận thấy lễ giáo trong đời chỉ
là tuồng giả dối. Vì bọn được mệnh là vua và qua thì lại tham lam, nói một
đường làm một nẻo, miệng hô hào những câu yêu dân mến nước, nhưng rốt cuộc
đục khoét dân đến xương tuỷ. Bọn sĩ phu miệng hô trung thành, mà rồi làm việc
gian lận nịnh bợ. Những kẻ trí thức khoe mình đầy chữ nghĩa, thế mà chỉ biết
đi năn nỉ cầu xin tước lộc, để tự đại với thiên hạ là mình liêm khiết thanh
cao. Nhưng rồi bóc lột thằng nghèo đến trơ xương mà chúng vẫn rêu rao là
nhân nghĩa, nhân từ bác ai. Vì thế nên ông tự nhận biệt hiệu “Đông Tà” để răn
mình đừng làm bậy, và cũng gián tiếp khuyên đời, cứ nhận là “Tà” rồi sau
thành ” chính” mới là hay. Chứ còn tự hào là ” chính” mà sau trở thành “Tà”
thì ko sao chữa nổi. Bởi tính kỳ lạ ấy, mà đương thời ông ko vừa ý ai, ko
nhận ai là tri kỷ. Ngay như con gái và rể, ông cũng ko mấy vừa ý, tuy Hoàng
Dung được ng đời kêu là hiền thục và Quách Tĩnh đã nổi tiếng trung hậu và
chất phác.
Hoàng dược Sư được nghe thiên hạ nói đến Dương Qua, từ trước đến nay là
phản bội giáo phái, bạc nghĩa đối với thầy học và bạn bè. Nhưng nay ông được
gặp Dương Quá và đã trò chuyện với chàng, ông công nhận Dương Quá hơn đời ở
chỗ nghĩ sao nói vậy, rất hợp ý với ông, chứ ko dối trá che đậy như những ng
từ trước đến nay, ông đã từng tiếp xúc.
Cảnh rừng bát ngát, đồng cỏ xanh rì. Dược lão một mình đứng ngắm cỏ cây
đến chán, rồi mới bước đến dưới bóng mát ngồi nghỉ, nhìn đàn trâu, ngựa đang
gặm cỏ dưới mé rừng. Ông miên man nghĩ đến luật thừa trừ của tạo hoá, rồi
thầm nói:
-Con trâu có sừng như thế lại bớt mất hàm răng, con ngựa đủ hai hàm răng
lại ko có sừng. Còn con người ta cứ tự hào là thông minh ra giúp đời như
trâu, ngựa. Phần đông chỉ dùng cái thông minh để hại kẻ khác, phụng sự riêng
cho bản thân, gia đình. Rồi nếu ngày nào đó, họ được ng ta xu phù, họ trở nên
tự cao tự đại, tự thần thánh hoá lấy mình, yêu kẻ nịnh bợ, ghét kẻ thật thà,
xui nguyên giục bị, để thiên hạ chém giết lẫn nhau, gây tang tóc cho đời, thế
mà họ đâu có biết.
Nghĩ đến đây, Hoàng dược Sư thở dài lẩm bẩm:
-Có kẻ cho rằng:” Loài vật ở chung với nhau lâu ngày thân thiện, còn loài
ng sống chung với nhau lâu ngày sinh ra thù oán.” Câu lý luận ấy quả thật ko
sai. Chỉ vì loài ng cậy mình thông minh, và cũng đem cái thông minh ấy phụng
sự bản thân. Có lúc họ đi đến chỗ vị kỷ một cách độc ác! Ôi! Nguy thay! Ngắm
trời mây một lúc đã chán, Hoàng dược Sư đứng dậy quay gót trở về nhà.
Dương Quá bỗng thấy ông ta, vội ra đón chào, muốn tỏ lời xin lỗi. Nhưng
chưa kịp mở miệng thì Hoàng dược Sư đã cười bảo:
-Dương nhi! cháu ko cần trở về cổ mộ làm gì! Cháu có bằng lòng bái ta làm
sư phụ ko?
Dương Quá ko hiểu ý ngơ ngác hỏi lại:
-Để làm chi?
Hoàng dược Sư cười lớn:
-Để lấy vợ chứ còn chi nữa. Ngươi bái nhận ta làm sư phụ tức ko còn thừa
nhận Tiểu long Nữ là sư phụ nữa. Chừng ấy ngươi có thể kết duyên với Tiểu
long Nữ một cách danh chánh ngôn thuận.
Dương Quá nghĩ thầm:
” Sao pháp luật lại cấm trò ko được lấy thầy làm vợ? Ai đặt ra pháp luật
ấy?
Nghĩ như thế, Dương Quá bạo dạn đáp:
-Tôi muốn gọi cô ấy là sư phụ và lấy cô làm vợ là quyền riêng của tôi sao
xã hội lại cấm đoán tôi làm việc ấy? Vả lại, khi mà tình thân đến cực độ, yêu
thương nhau như một, thì họ sống chung như vợ chồng, hại gì cho xã hội chứ?
Hoàng dược Sư cười ha hả nói:
-ái! Mày ko có biệt hiệu Đông Tà, song tư tưởng của mày cũng chẳng kém
“Đông tà”, coi thiên hạ làm mặt trái, giả dối. Như thế thì mày rất hợp ý ta.
Ta sẽ tính mưu giúp cho mày.
Ông liền lấy thuốc ra thoa vết thương cho chàng và nói như van lơn:
-Bác muốn được gần cháu để truyền dạy các điều Y Bác” rồi sau này cháu
đem truyền lại cho kẻ khác. Bác muốn cho cái thuyết của bác sau này khỏi thất
truyền và cũng để cho đời biết lão”Đông tà” lại còn có thêm chàng Dương Qua
” tiểu tà” nữa. Cháu ko nhận là học trò là uổng lắm! Cháu nghĩ cho kỹ coi!
Dương Quá hiểu rõ Hoàng dược Sư là ng ngay thẳng, chứ ko hay bắt bẻ như
mọi ng khác, nên chàng vừa lòng lắm, vui vẻ nói:
-Cần gì làm thầy cho thêm phiền phức. Bác muốn dạy thì cứ dạy, con xin
thụ giáo.
Ngừng một lúc, Dương Quá lại nói:
-Hay là thế này: Tôi tuổi nhỏ, võ nghệ còn kém, vậy bác cứ dạy cho tôi,
rồi kết bạn vong niên với nhau có tiện hơn ko?
Hoàng dược Sư quắc mắt nói lớn:
-Vô lễ! Mày coi trời như cái vung nhưng xem ta cũng như thằng già ngoan
cố Châu bá Thông hả? Đừng trở giọng” cá mè một lứa” như thế!
Dương Quá bỡ ngỡ hỏi:
-Bẩm lão trượng, Châu bá Thông ngoan cố là ai? Cháu chưa biết?
Dược Sư liền kể chuyện Châu bá Thông kết bạn ” chí lan” với Quách Tĩnh .
Bấy giờ một già, một trẻ say sưa kể chuyện bàn luận thời thế, và võ nghệ. Hai
ng rất vừa lòng, hợp ý, đúng là cảnh:
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiều.
Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
nghĩa là:
Tri kỷ ngàn ly chưa thấy mấy.
Bạc tình nữa tiếng đã chán rồi.
Dương Quá lanh mồn, tính nến lại được Hoàng dược Sư thương mến, nên chàng
bàn việc gì cũng được lão hết lòng khen ngợi:
-Lý luận của cháu y hệt của bác.
Vì thế mới gặp lần đầu, Hoàng dược Sư đã coi như ng quen thân cũ. Lão ân
hận mình gặp thằng này hơi muộn. Tuy ngoài miệng lão chưa nhận Dương Quá là
bạn “vong niên” nhưng trong bụng ông đã có ý kiến làm bạn với Dương Quá là
đúng.
Tối đến lão sai Trình Anh kê thêm một cái giường nữa ở phòng Dương Quá để
lão nằm trò chuyện cho vui.
Mấy hôm sau Dương Quá hết bịnh, khoẻ mạnh như thường. Chàng với Hoàng
dược Sư như tình keo sơn, ko lúc nào rời nhau nữa bước.
Trước đây Hoàng dược Sư đã có ý định đưa cô Ngốc đi chu du phương Nam,
nhưng nay vì quyến luyến Dương Qua, nên ko còn nghĩ đến việc ngao du sơn thuỷ
nữa.
Trình Anh và Lục vô Song thấy Hoàng dược Sư quá mến Dương Quá ngày thì
đối ẩm bàn luận thời sự, đêm lại chong đèn giảng tập võ nghệ, nên hai người
cười thầm:
-Sao một già một trẻ lại có thể quyến luyến nhau như cặp vợ chồng mới
cưới vậy? Thế thì già trẻ ko phải là một duyên cớ làm cho ng ta có cảm giác
cách biệt sao?
Lúc hai ng đàm luận về văn chương, Dương Quá nhiều chữ ko biết, Hoàng
dược Sư lại chỉ vẽ rất rành rẽ, Dương Quá có tính mau nhớ, vì thế Hoàng dược
Sư càng mến coi như : ” bình sanh đệ nhất tri kỷ”.
Trong thời gian hai ng ở chung, Hoàng dược Sư đã dốc túi dạy cho Dương
Qua về võ thuật cũng như văn chương.
Tuy hai người chưa chính thức công nhận làm thầy trò, nhưng Hoàng dược Sư
coi như chàng là một đồ đệ trung tín nhất, nên dạy ko thiếu môn nào.
Ngoài việc học văn luyện võ, Dương Quá có một thắc mắc trong lòng: “Sao
cô Ngốc kia lại nhận mình là kẻ khác nhỉ. Tại sao nó lại nói với mình rằng:
-Không phải tôi giết anh đâu!
Chắc cô Ngốc ấy biết ng nào đã giết thân phụ ta! Nếu ta hỏi ng khác ắt họ tìm lời dối gạt, còn cô Ngốc này có lẽ thấy sao nói vậy.
Trưa hôm đó, sau khi cơm nước xong, mọi ng đi nghỉ cả. Dương Quá muốn làm quen với cô Ngốc gợi chuyện:
-Cô Ngốc ơi! Lại đây tôi cho cô một cái này đẹp lắm.
Cô Ngốc thấy chàng giống Dương Khang như đúc, nên lúc nào cũng ớn sợ.
Nghe chàng kêu, cô lắc đầu nói:
-Đẹp chi cũng mặc anh, tôi ko thèm coi đâu!
Chàng nhỏ nhẹ nói:
-Tôi có nhiều cái đẹp lắm! Cô ko coi à?
Cô Ngốc lắc đầu xua tay luôn miệng nói:
-Nhiều ít, đẹp đến đâu tôi cũng không coi cả?
Dương Quá liền nghĩ ra một trò vui. Chàng nhảy lộn đầu xuống đất chổng hai chân lên trời chạy đi chạy lại.
Cô Ngốc thấy thích quá vỗ tay reo hò:
-Chạy lại coi! Chạy coi..! Đúng rồi.
Hồi 42
CÔ NGỐC SAY GIỮA NGƯỜI HAY TRÊN ĐẢO ĐÀO HOA
Dương Quá thấy cô Ngốc cố chạy theo xem. Chàng bèn ra ngoài nhử cho cô Ngốc theo ra. Lúc đến giữa rừng, cách xa nhà, chàng nghĩ không đi nữa, đứng lên ngay ngắn rồi hỏi:
– Cô Ngốc! Xem tôi làm trò có hay không?
Cô Ngốc từ hồi nhỏ đến lớn thích xem người làm trò, nhiều khi cũng muốn làm trò. Ngặt vì mấy năm theo Hoàng Dược Sư lo tập võ công không bắt chước ai được trò gì. Nhiều lúc nàng muốn múa hát nhưng bị Hoàng Dược Sư rầy la.
Ngốc nghe Dương Quá hổi liền vỗ tay reo lên:
– Hay lắm! Người anh em làm trò hay ghê! Còn trò gì lạ mà vui nữa không?
Chính trước kia cô Ngốc gọi Dương Khang bằng anh nên lúc này nàng cũng gọi Dương Quá là anh em.
Dương Quá thò tay rút một chiếc khăn vung ra giao hẹn:
– Bây giờ ta chơi trò bịt mắt bắt dê, tôi bịt mắt cô bằng một chiếc khăn nầy, rồi tôi trốn quanh gần đây. Nếu cô bắt được tôi, cô hỏi gì tôi phải nói thật, còn tôi bắt được cô, tôi hỏi điều gì cô cũng không nói láo nghe chưa?
Cô Ngốc được trò chơi mừng quá, liến thoắng nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Anh bịt mắt em đi!
Dương Quá bịt mắt nàng xong, chàng chạy cách chừng mười bước liền gọi lớn:
– Tôi ở đây, lại bắt mau lên!
Cô Ngốc đưa hai tay ra trước sờ soạng chạy về phía có tiếng gọi.
Dương Quá là tay vỗ nghệ, tài khinh công có hạng của phái Cổ Mộ, nhảy lẹ như chim, biến hiện như chớp, như thế cô Ngốc bỏ khăn ra chưa chắc đã bắt được huống hồ hai mắt bị bịt kín.
Cô ta quờ quạng hết phía này đến phía khác. Dương Quá chạy gọi khắp nơi, làm cho cô Ngốc cứ xoay qua xoay lại mệt lả người.
Sau đó cô Ngốc sờ soạng đụng vào một gốc cây to té huỵch xuống. Dương Quá nhìn thấy trên trán nổi lên một xụ bướu như quả trứng.
Chàng sợ cô Ngốc đau rồi nổi cáu, xảy ra việc không hay cho mình nên ho lên mấy tiếng rồi ngồi im một chỗ. Cô Ngốc nghe tiếng ho gần bên, liền chạy lại ôm choàng lấy lưng chàng rồi kêu lên:
– Đây rồi! Chạy đàng nào cho khỏi!
Nói xong nàng trật khăn ra, cười nói:
– Thế này là em được cuộc rồi phải không?
Dương Quá nói:
– Đúng rồi! Tôi chịu thua, vậy cô hỏi gì thì hỏi đi.
Cô Ngốc lúc đó không biết hỏi gì, vì nàng thích được chơi, chớ có ý định hỏi gì đâu?
Cô Ngốc ngơ ngác nhìn trời đất mông lung một lúc lâu rồi hỏi:
– Anh ăn cơm chưa?
Dương Quá thấy cô Ngốc nghĩ cả giờ rồi hỏi một câu ngớ ngẩn như vậy, nhưng chàng không dám cười, liền nhỏ nhẹ đáp:
– Tôi ăn rồi.
Cô Ngốc gật đầu không nói nữa.
Dương Quá giục:
– Cô còn hỏi gì nữa không?
Cô Ngốc lắc đầu đáp:
– Không, giờ mình làm trò lại.
Dương Quá nói:
– Được, bây giờ đến lượt cô bịt mắt tôi.
Nghe thế, cô Ngốc liền lấy khăn bịt mắt Dương Quá lại rấy cẩn thận, rồi chạy trốn mất.
Thực là ngoài ý tưởng tượng của Dương Qua. Lúc này cô không ngốc chút nào cả! Cô gọi ở trước mặt rồi chạy sau lưng, tiếp nghe cô ho bên tả, mà thân cô lại vụt về bên hữu. Dương Quá không sao bắt được.
Chạy đuổi mãi không thể vớ được, Dương Quá giả vờ đụng vào một thân cây, cố ý cho miếng vải tụt xuống một chút, nhờ thế chàng nhìn thấy cô Ngốc đang đứng núp sau gốc cây, chàng xoay nơi khác hỏi:
– Cô ở đâu?
Dứt lời, chàng xoay mình vung tay ra túm được áo cô rồi cười nói:
– Bây giờ đến lượt tôi hỏi cô phải không?
Cô Ngốc gật đầu nói:
– Tôi ăn cơm rồi.
Dương Quá nghe nàng nói phì cười bảo:
-Tôi đâu có định hỏi cô ăn rồi hay chưa! Tôi hỏi câu khác kia.
Đoạn chàng ngọt ngào hỏi:
– Cha anh, mặt cha anh ra sao? Cái người mà cô thường nói giống tôi như đúc đó.
Cô Ngốc ngơ ngác đáp:
– à! Người đó hả, thế là anh Dương mà!
Dương Quá hỏi nhỏ, như dụ dỗ:
– Phải rồi, cái anh Dương mà cô đã thấy chết đó.
Cô Ngốc mặt mày tái ngắt, ngập ngừng nói:
– ồ! Nửa đêm hôm đó, có biết bao là chim quạ, chúng kêu thế nầy: “Qua… Qua… Qua!”. Chúng đậu đen hết trên các cành cây, trong khu rừng âm u thanh vắng, thấy khiếp sợ lắm!
Dương Quá sốt ruột quá, mà cô ta thì cứ nói dài dòng mãi, chàng bèn hỏi:
– Tôi muốn cô nói cái chết của anh Dương như thế nào, chớ đừng nói tiếng quạ kêu làm chi!
Cô Ngốc liền đáp:
– Nhưng cô nương cấm không cho nói! Mà anh Dương cũng không cho nói. Lúc đó anh Dương tát cô nương một cái rồi cười “hô hố”.
Nói đến đấy cô Ngốc giả tiếng cười trước khi chết của Dương Khang nghe rùng rợn
làm sao.
Dương Quá không hiểu được, liền gằn giọng hỏi:
– Cô nương đó là ai?
Cô Ngốc thản nhiên nói:
– Cô nương là cô nương chứ ai nữa?
Dương Quá tự nghĩ:
– Việc nầy ra phải bình tĩnh, mới khám phá ra được.
Nghĩ như thế chàng vội vã hỏi tiếp:
– Cô nương đó hiện giờ ở đâu?
Vừa dứt tiếng, bỗng nghe phía sau có người hỏi:
– Hai đứa bây chơi giỡn gì ở đây?
Nghe tiếng sư phụ, cô Ngốc vội vàng thưa:
– Dạ, anh Dương rủ con ra đây chơi trò bịt mắt bắt dê, tức là đứa trốn đứa bắt.
Dược Sư nghe xong cười thầm rồi nhìn Dương Qua. Trông thấy sắc mặt chàng, lão đoán biết Dương Quá đang suy nghĩ nhiều việc.
Dương Quá lòng đang nóng nảy, vì bị Hoàng Dược Sư phá mất cuộc điều tra riêng của chàng, nên chàng định nói mấy câu cho hả giận, nhưng chưa kịp nói đã nghe tiếng chân dồn dập từ phía ngoài bước vào.
Đó là Trình Anh và Lục Vô Song chạy đến, họ vừa chạy vừa thở hổn hển như người sắp chết muốn trăn trối điều gì.
– Sư… phụ… nó đấy.
Miệng nói ú ớ, tay chỉ ra sau ngọn núi phía Tây.
Dương Quá hỏi:
– Ai thế?
Trình Anh nói:
– Xích luyện tiên tử Lý Mạc Sầu chứ ai!
Dương Quá nghe tin Lý Mạc Sầu đã đến sau núi, kinh ngạc nghĩ thầm:
– Con bé thế mà to gan.
Chàng nhìn Hoàng Dược Sư định hỏi ý kiến.
Hoàng Dược Sư cười lớn bảo mọi người:
– Các con đi với thầy đến đó xem sao. Đã có lão đây, mấy con còn sợ gì nữa?
Cả bọn cùng đi về phía sau đồi núi hướng Tây.
Trình Anh nói nhỏ với Dương Qua:
– Lý Mạc Sầu đã không giết chúng mình trong căn nhà cổ, và hắn tự phụ không giết người bị thương. Phen này chắc hẳn kinh khủng lắm.
Dương Quá kinh hãi nói:
– Lần nầy Lý Mạc Sầu định giết ba đứa mình. May thay nếu không có Hoàng đảo chúa Đào Hoa đảo, thì chúng mình chỉ có nước tìm đường trốn cho sớm.
Trình Anh cười, gật đầu đồng ý.
Lục Vô Song nhìn Dương Quá nói mỉa mai:
– Đã từng tự phụ thông minh hơn người, tài ba ngang với chúa đảo, sao bây giờ hèn thế?
Dương Quá cười pha trò:
– Tôi là Ngốc mà! Cô mới là người thông minh chớ!
Vừa đi vừa chuyện trò, không bao lâu đã đến sau núi. Cả bọn đều bám sát theo Dược Sư.
Dưới bóng cây to rườm rà, có một căn nhà cỏ đã xiêu vẹo, cửa đóng kín, trên nóc có một tờ giấy bay phấp phới, trên mặt giấy có đề bón hàng chữ lớn, gồm có mười sáu chữ viết như sau:
Đào Hoa đảo chúa
Đệ tử tối đa
Dĩ ngũ địch nhất
Dĩ tiếu giang hồ.
dịch:
Đào Hoa đảo chúa
Rất đông học trò
Năm người đánh một
Thiên hạ cười cho.
Hoàng Dược Sư đọc xong bốn câu thơ cười khà khà rồi cúi xuống lượm hai viên sỏi đặt lên ngón tay cái, thổi một cái.
Hai viên sỏi bay vút vào đánh bật cả hai cánh cửa của căn nhà cỏ.
Thuật bắn đạn sỏi trên ngón tay là công phu độc nhất của chúa đảo Đào Hoa.
Trước đây Dương Quá đã được Quách Phù cho biết ông ngoại nàng có tài bắn đạn sỏi đến quỷ khiếp thần kinh. Nay chàng được thấy tận mắt, lòng rất khâm phục, tưởng tượng người đời chưa ai có.
Hai cánh cửa bị bắn toang ra. Cả bọn nhìn vào trong, thấy Lý Mạc Sầu đang ngồi nghiêm chỉnh, tay cầm phất trần, hai mắt nhắm nghiền như một hoà thượng ngồi niệm Phật.
Người nào chưa biết Lý Mạc Sầu, thấy như thế cũng cho nàng là người đạo đức. Có ngờ đâu nàng giết người không biết ghê tay, lòng độc hiểm hơn ma chúa, quỷ vương.
Lục Vô Song nghĩ đến mối thù Lý Mạc Sầu đã giết cha mẹ nàng mấy năm trước, nàng không thể làm ngơ được, liền rút trường kiếm ra lăm le trong tay, miệng thét lớn:
– Dì Trình, cô Ngốc! Khỏi cần đến đảo chúa, ba chúng ta tiến vào đi.
Cô Ngốc vỗ tay reo lên, rồi nói:
– Có tôi đây!
Lý Mạc Sầu hé mắt nhìn cử chỉ năm người, rồi thản nhiên nhắm mắt lại, ngồi nhập định, hình như coi thường cả năm người không có gì lưu ý đến.
Trình Anh nhìn Hoàng Dược Sư xin lệnh.
Hoàng lão than:
– Lão có nhiều đệ tử thật, nhưng rất tiếc là: Trần, Mai, Khúc, Lục, bốn đệ tử khá không có đứa nào ở đây. Nếu được một trong bốn đứa đó thì mi đâu có nhiều lời như vậy được.
Than xong, lão phẩy tay ra hiệu và nói:
– Chạy lẹ đi.
Cả bốn người chạy về căn nhà cỏ của Trình Anh. Cả bọn thấy Hoàng Dược Sư lo lắng nhiều và chiều đó không ăn cơm, hơn nữa ông lại đi ngủ sớm hơn mọi bữa, cho nên không hiểu ra sao.
Trình Anh tuy được bái nhận Hoàng Dược Sư làm sư phụ, nhưng nàng không biết chuyện trước đây lão đã đuổi học trò, nay thấy thế thầm nghĩ:
– Có lẽ Lý Mạc Sầu đã dùng bốn câu thơ để chọc tức sư phụ ta, cho nên sư phụ đã buồn như vậy.
Nghĩ như thế, nàng quá bực tức và tiếc mình võ nghệ còn kém quá, không thể làm vừa lòng sư phụ được, để cho Lý Mạc Sầu chọc tức thầy như vậy.
Thực ra Hoàng Dược Sư buồn nhớ đến ba người học trò có tài cao là: Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong và Khúc Linh Phong. Họ đều đã chết cả, chỉ còn có Lục Thừa Phong, hiện nay bị tàn phế. Nếu may còn được một trong bốn người đó thì Lý Mạc Sầu đâu dám lộng hành được.
Hoàng Dược Sư nghĩ đến câu “Năm người đánh một thiên hạ cười cho”. Biết Lý Mạc Sầu chê mình nên lão quá buồn rầu, vì việc trước đây lão đã nông nổi để cho học trò của lão đã bị mai một và tàn phế!
Lão tử nhụ: “Thiệt mình làm hại cho mình”.
Dương Quá đêm đó trằn trọc, thao thức mãi trên giường không ngủ được, vì chàng thắc mắc những lời nói của cô Ngốc, hành động tinh quái của Lý Mạc Sầu. Chàng thầm nghĩ:
– Như thế là Lý Mạc Sầu chê năm người đánh một, Nhưng hiện nay mình đã hết bịnh rồi thì cứ một mình đánh với Lý Mạc Sầu cũng được, để dẹp bớt tức khí cho chúa đảo Đào Hoa và rửa hận cho Lục Vô Song.
Chàng bèn rón rén bước xuống giường, sửa áo gọn gàng và ngồi xuống luyện thêm sức, bồi thêm tinh thần. Chàng quyết định phải tử chiến với Lý Mạc Sầu đêm nay.
Dương Quá vừa vận công một lúc, cảm thấy đôi mắt sáng lên, chân tay cứng như sắt, toàn thân da thịt như đồng. Miệng chàng gầm lên một tiếng rền cả một góc trời, như tiếng cọp rống trong hang, vang lên bốn hướng.
Lúc nầy Hoàng Dược Sư đã thức dậy, định thay áo, chợt thấy Dương Quá đang kuyện khí, rồi bỗng phát ra một tiếng lạ lùng, lão kinh ngạc về sức nội công của chàng, vừa mừng vừa sợ.
Tiếng thở của Dương Quá vang ra, làm cho Trình Anh, Lục Vô Song và cả bọn đều khủng khiếp. Lý Mạc Sầu ở bên kia nghe cũng phải giật mình. Nàng cho đấy là Hoàng Dược Sư đang thở hút khí lực của “Nam Tào, Bắc Đẩu”.
Nàng định chắc Hoàng Dược Sư không dám đánh mình, nên bỏ qua không đề phòng.
Dương Quá có sức mạnh như vậy, là chàng đã được luyện trên giường “Hàn ngọc”, lại học được bí quyết trong Cửu âm chân kinh và Ngọc Nữ tâm kinh nên lúc này nội lực tinh thần của chàng mới dồi dào như thế.
Đợi cho Dương Quá đứng lên, Hoàng Dược Sư hỏi:
– Dương Qua, cháu coi Lý Mạc Sầu lợi hại về thuật gì?
Dương Quá đáp:
– Theo cháu biết thì hắn có “Ngũ độc thần chưởng” và cây phất trần là lợi hại nhất.
Hoàng Dược Sư nói:
– Không lo gì, cháu có nội công mạnh như vậy, ta dạy cho cách phá nó dễ lắm.
Dương Quá nghe nói mừng quá, liền xụp xuống đất lạy như tế trời.
Trước kia tuy Dương Quá nhận Hoàng Dược Sư là tiền bối, nhưng chàng vẫn tự kiêu chưa phục vì chưa thấy lão có tài nghệ gì hơn chàng.
Nay nghe lão nói có phép đánh bại Lý Mạc Sầu, là một tay ngang dọc, coi thiên hạ trước mắt không ra gì, nên chàng lại cầu xin chỉ giáo.
Hoàng Dược Sư liền nâng chàng dậy và truyền phép nầy có thể chống với “Ngũ độc thần chưởng” của Lý Mạc Sầu.
Sau lão dạy cho chàng phép “Ngọc tiêu kiếm pháp” để chống với cây phất trần thần diệu.
Dương Quá hết sức chú ý nghe giảng cả hai thuật pháp, từ hình thức đến nội dung, chàng thấy phải cố sức rèn luyện từ một đến ba năm mới thành thạo được.
Chàng thấy thế bèn hỏi:
– Thư Hoàng lão, như thế nầy không có phép gì để hạ ngay Lý Mạc Sầu hay sao?
Hoàng Dược Sư thở dài than:
– Ba năm là bao. Thì giờ như thoi đưa không lâu đâu. Cháu mới có hăm mốt, hăm hai tuổi mà luyện được hai phép thuật trên là sớm lắm! Có người theo nghề võ đến ba, bốn mươi tuổi vẫn chưa biết gì cả. Cháu đừng hấp tấp!
Dương Quá nói:
– Việc làm của cháu đâu có phải “vị ngã”…, chẳng qua là “vị tha” cả.
Hoàng Dược Sư vỗ vai chàng và nói:
– Sau ba năm, cháu nên vì bác mà giết nó đi, như thế bác cảm ơn cháu nhiều lắm. Còn hiện nay lão bị tai nạn, đó là tội lão phải gánh. Vì trước đây, lão đã huỷ hoại những người học trò tốt, nên nay lão phải chịu luật “báo ứng” của trời đất.
Dương Quá nghe Hoàng Dược Sư nói hết tâm sự với mình, vội quỳ xuống bái lễ và kêu lên:
– Sư phụ!
Cả hai người đều thong minh, đã đoán được thâm ý của nhau.
Dương Quá nghĩ: Lão truyền cho mình võ thuật này là để rửa cái nhục bốn câu thơ của Lý Mạc Sầu, nhưng mình học là phải nhận lão làm thầy.
Hoàng Dược Sư nghĩ: Chàng đối với mọi người trong Cổ Mộ tình nghĩa nặng lắm, nên chàng không muốn nhận ai làm sư phụ thứ hai nữa!
Lão liền đưa tay nâng chàng lên và nói:
– Lúc nào cháu đánh với con yêu nữ ấy, thì cháu là đệ tử của bác, còn ngoài ra cháu với bác chỉ là “bạn vong niên”. Người anh em đã hiểu nhau rõ chưa?
Dương Quá vừa cười vừa nói:
– Thưa sư huynh, tiểu đệ được cho vào hạng bạn bè, kẻ tiểu sinh như đệ rất cảm động và được nhờ vả nhiều lắm!
Hoàng Dược Sư tươi cười nói:
– Anh em ta được hạnh ngộ thế này, là duyên nợ “ba sinh” từ kiếp trước đây.
Lúc này hai người cùng vui vẻ đàm đạo say sưa.
Tiếp đó, Hoàng Dược Sư giảng lại cái bí quyết về phép “bắn đạn bằng ngón tay” và “Ngọc tiêu kiếm pháp” dạy ôn lại rất tỉ mỉ.
Dương Quá thấy Hoàng Dược Sư quá kỹ lưỡng như vậy, chàng đoán có lẽ lão sắp xa mình chăng?
Nghĩ như thế, chàng liền hỏi:
– Sư huynh, đệ với sư huynh vừa mới quen nhau, rồi đây chia tay biết bao lâu lại được tái ngộ.
Hoàng Dược Sư nói:
– Sư đệ đã rõ, thôi từ đây phương trời đôi ngả, nhưng lòng dạ lúc nào cũng gần nhau là được. Nếu mai sau có điều gì ngăn trở tình duyên của sư đệ, là lão huynh này đến can thiệp ngay, dầu có xa muôn dặm huynh cũng đến.
Dương Quá nghe nói đúng với ước nguyện của chàng, nên cười nói tiếp:
– Người cản trở đó không phải ai xa lạ, nếu sư huynh can thiệp e bất tiện lắm không?
Hoàng Dược Sư hiểu ý nói:
– Xưa kia, chính nó cũng muốn chọn một người chồng vừa ý nó, sao lúc này nó lại muốn phá kẻ khác.
Ngẫm nghĩ một lúc, ông thò tay vào túi lấy giấy bút ra viết một phong thư giao cho Dương Quá rồi dặn:
– Nếu con gái lão còn cản trở, sư đệ cứ đưa bức thư này cho nó.
Dặn xong lão cười vang lên, rồi phảy tay bước ra khỏi cửa.
Chỉ trong nháy mắt tiếng cười đã xa tít ngoài mười trượng rồi biến mất, tựa như con thần long ra biển, không còn thấy tăm hơi.
Dương Quá đứng ngẩn người nhìn theo một hồi lâu, chàng quay vào nhà ôn lại những bí quyết võ thuật vừa được truyền thụ.
Không bao lâu trời đã sáng. Chàng nhìn lên bàn giấy thấy cây chân tuyến đao của Trình Anh để đó, chàng cầm lên ngắm nghía, thực là một con đao bén và tuyệt đẹp ít có.
Bỗng có tiếng động ở ngoài. Trình Anh mở cửa bước vào, tay cầm một chiếc áo màu xanh, nàng tủm tỉm cười nói với Dương Qua:
– Anh mặc thử chiếc áo này coi có vừa không nào!
Dương Quá cảm động quá, hai tay đỡ lấy chiếc áo.
Trong khi chàng đưa tay ra đỡ, tay Dương Quá và tay Trình Anh chạm sát vào nhau, như hai luồng điện bắt lại, cả hai người đều mắt liếc mày đưa, lòng đều rạo rực.
Chàng mở áo ra mặc thử, từ cổ đến gối đều vừa khít cả.
Dương Quá cảm động run giọng nói:
– Tôi…! Tôi đa tạ tấm lòng chiếu cố của Trình muội đối với tôi.
Trình Anh nhoẻn miệng cười với cặp mắt đầy yêu thương, tình tứ. Chợt nét mặt nàng buồn rầu, than:
– Lão sư phụ đi rồi! Biết bao giờ được hội ngộ.
Nàng cố tìm cớ để được ngồi lại nói chuyện với Dương Qua, nhưng chợt thấy màu áo tím lướt thướt ngoài cửa, nàng biết đó là Lục Vô Song. Nàng giận lắm, trách thầm:
– Con người gì mà tò mò đến thế, mình ở đâu là dòm nom đến đó.
Nàng liền quay ra.
Dương Quá ngắm cái áo mới thấy đường kim mũi chỉ rất khéo, chàng động lòng tự nhủ:
– Cô ta đối với mình như vợ với chồng, nhưng mình đã định có nơi chốn, không thể có nơi mới được nữa. Nếu mình quyến luyến mãi ở đây, chỉ thêm luyến ái và đưa sự đau khổ đến cho cô ta! Thôi mình phải thoát sớm đi là hơn.
Chàng nghĩ lại:
– Ta bỏ đi, Lý Mạc Sầu đến quấy phá, ai sẽ bênh vực cho nàng? Phải rồi, bây giờ mình đi ra sau núi xem tình hình Lý Mạc Sầu ra thế nào.
Chàng chạy ra phía sau núi đến căn nhà bữa qua, thấy chỉ có một đống tro tàn trên nền. Như vậy Lý Mạc Sầu đã đốt nhà đi rồi.
Chàng quay về với ý định:
– Chiều nay, mình viết thư từ biệt, để lại cho Trình Anh và Lục Vô Song rồi mình đi.
Tối hôm đó, Dương Quá cầm bút viết, ngồi trước đèn viết thư, nhưng mới viết được mấy hàng, bỗng nhiên tâm trí chàng quá cảm động, nghĩ đến Trình Anh và Lục Vô Song sẽ đau khổ biết chừng nào lúc ta bỏ ra đi.
Đầu óc chàng không nghĩ được một ý gì để chia tay, tay chàng cầm bút viết, mà bút rơI lúc nào không hay. Chàng đứng dậy, tóm mảnh giấy viết lỡ, vo tròn đút vào túi rồi lên giường nằm yên. Chàng cố nhắm mắt để ngủ.
Dương Quá đang nằm thiêm thiếp, bỗng nghe có tiếng gọi thất thanh bên ngoài:
– Cô… Ngốc ơi! Sao thế này…! Mau đây!
Dương Quá giật mình ngồi dậy, khoác áo chạy ra. Bên ngoài gió thổi ào ào, trời vừa sáng, chàng thấy Lục Vô Song mặt tái ngắt, đưa tay chỉ tấm phên trước cửa.
Dương Quá nhìn theo tay nàng cũng thất kinh, khi thấy bốn ngón tay máu tươi còn rành rành.
Đêm rồi, Lý Mạc Sầu đã đến đây, đoán biết Hoàng Dược Sư đã đi rồi, nên tính số người còn thêm cô Ngốc, cộng là bốn, vào số “bị giết”
Dương Quá và Lục Vô Song còn đứng tần ngần, chưa nói lên câu nào, thì Trình Anh đã chạy đến hỏi:
– Chị Vô Song nhìn thấy bao giờ thế?
Lục Vô Song ngơ ngác trả lời:
– Trời chưa sáng tôi đã thấy rồi.
Nói xong, Lục Vô Song hơi thẹn, hai má ửng hồng, vì nàng đã tự thú chuyện suốt đêm chờ đợi, nghe ngóng ngoài phòng Dương Qua.
Trình Anh giả vờ như không biết, nói tiếp:
– Mặt trời đã lên cao rồi, chúng mình lo bàn kế hoạch gì cho kịp thời đối phó với Lý Mạc Sầu, sớm muộn gì hắn cũng đến đây.
Ba người cùng đi vào nhà bàn tính.
Lục Vô Song nói:
– Hôm kia Lý Mạc Sầu bị cô Ngốc đánh mấy ngọn đuốc mà hắn không sợ sao?
Trình Anh nói tiếp:
– Thuật đánh đuốc của cô Ngốc lợi hại thật, nhưng đối với ai, chứ con Lý Mạc Sầu coi thường nên mới khinh dễ thế này.
Lục Vô Song nói pha trò:
– Được anh Ngốc nhà ta không bị thương thì cả hai Ngốc cùng hợp sức đánh Lý Mạc Sầu chắc Lý Mạc Sầu sợ lắm đấy.
Dương Quá cười nói:
– Đã một cô Ngốc lại thêm chú Ngốc nữa, thì làm ăn ra trò trống gì?
Trình Anh cười, nói:
– Thôi, bây giờ chúng mình phải lo sắp đặt cách chống lại với Lý Mạc Sầu, chứ sắp nguy rồi đấy, đừng pha trò gì nữa.
Lục Vô Song nói:
– Cả bốn người mình phối hợp lại, đánh cũng chưa chắc thắng được con ma cái đó!
Dương Quá nói:
– Biết thế, nhưng Lý Mạc Sầu đến là phải đánh dầu thắng hay bại.
Lục Vô Song hỏi:
– Anh đánh cách gì?
Dương Quá nói:
– Tôi định cách này: cô Ngốc và tôi ở phái chính diện ứng chiến, còn hai chị em cô đánh bên tả.
Trình Anh nói:
– Để em đi gọi cô Ngốc lại tập thử coi!
Trình Anh đến phòng cô Ngốc kêukhông thấy đâu cả, liền trở lại cho Dương Quá và Lục Vô Song hay. Cả ba người chạy ngược chạy xuôi đi kiếm.
Trình Anh chạy ra phía sau núi, thấy bên cạnh mô đá, cô Ngốc đang nằm im như đống sỏi. Nàng liền cúi xuống cởi áo cô Ngốc ra xem, thấy trên lưng còn in vết tay tím bầm. Nàng đoán biết cô bị “Ngũ độc thần chưởng” liền gọi Dương Quá và Lục Vô Song lại, và nàng lấy thuốc thánh “Cửu hoa ngọc lộ hoàn” thoa cho cô Ngốc.
Dương Quá chạy đến thấy vết thương cô Ngốc, chàng nhớ phép độc đã ghi trong “Ngũ độc kỳ thư”, chàng liền vận nội công tiếp sức vào các đường huyệt chính.
Chỉ trong giây lát cô Ngốc đã hồi tỉnh, nàng cười và nói:
– Không biết con đạo cô mắc dịch đó trói tôi bằng gì mà chặt thế này.
Lý Mạc Sầu đã dùng “Ngũ độc thần chưởng” đánh cô Ngốc bị thương, rồi dùng dây tơ trói lại, nhưng không dám hại mạng cô Ngốc vì Lý Mạc Sầu còn sợ Hoàng Dược Sư.
Lúc cô Ngốc tỉnh lại, Dương Qua, Trình Anh và Lục Vô Song lo mở dây trói mà không được. Nên ba người khiêng cô Ngốc vào nhà, đặt nằm trên giường rồi nhìn nhau lo lắng. Trong bốn người mà một người bị thương, rồi Lý Mạc Sầu đến đây, làm sao đánh cho được.
Dương Quá nhìn Trình Anh và Lục Vô Song nói:
– Thử lấy cây chân tuyến đao cắt dây xem có đứt không?
Nhưng khi đưa ra cắt sợi tơ vàng đứt, lưỡi dao vừa qua khỏi, sợi tơ đứt lại dính nguyên như cũ.
Lúc này cô Ngốc nằm trên giường giãy dụa, miệng kêu lên:
– Cắt dây cho tôi! Nó tung phất trần trói tôi đấy.
Dương Quá thầm nghĩ:
– Sợi dây vàng này đao gươm cắt không đứt, có lẽ nhờ thợ rèn thổi bễ, rồi dùng âm dương háo thổi cho chảy tan ra mới được.
Chàng liền hỏi:
– Gần đây có lò rèn nào không?
Trình Anh nói:
– Cách đây chừng bảy, tám dặm có nhà rèn.
Lục Vô Song tiếp lời:
– à hay anh phi ngựa sang bên đó kêu người thợ ấy.
Dương Quá nói:
– Không được, nếu tôi đi thì Lý Mạc Sầu trở lại đây rầy rà lắm. Chi bằng tôi bồng cô Ngốc ngồi phía trước, hai cô ngồi sau yên ngựa cùng đi đến đó tiện hơn.
Cả ba người đồng ý, Dương Quá bồng cô Ngốc lên trước yên ngựa, Lục Vô Song và Trình Anh nhảy lên ngồi sau yên.
Sau khi ngồi vững vàng trên yên ngựa, Dương Quá cười nói:
– Cái thằng Dương Quá nầy, không biết kiếp trước nó mắc cái nợ gì lớn của Tây Vương Mẫu, nên kiếp nầy nó phải gánh vác như vầy.
Lục Vô Song nói:
– Ngốc sao nay văn thơ dồi dào thế! Chắc nhị ngốc thành hai chứ gì?
Trình Anh nói:
– Đi mau, kẻo Lý Mạc Sầu nó đến là nguy.
Dương Quá cho ngựa chạy nhanh, và nói đùa:
– Có nguy thì cũng thằng Dương Quá gánh chịu chứ các cô lo gì! Thôi, tôi để cho cô Lý Mạc Sầu bắt tôi về làm đầy tớ, còn hơn đi với các cô đóng vai một ngựa ba yên thế này. Sức như Lữ Bố cũng phải một, còn nếu trung như Vân Trường thì cũng phải nản. Vì Vân Trường chỉ phò có hai chị, mà cái thằng Dương Quá nầy phải phò đến ba chị, thế mà người đời lại gọi nó là Ngốc mới khổ!
Ngựa chạy như bay, Trình Anh khen:
– Con ngựa của anh vừa khoẻ vừa lanh ghê. Thật đúng là “thiên lý mã”. Suy việc này ta thấy người nói thật đúng.
Lục Vô Song hỏi:
– Đúng cái gì! Đường dài mới biết sức ngựa, lúc nguy mới thấy lòng người. Đó là cảnh hôm nay, cho chị em mình thấy người và ngựa.
Dương Quá cười, nói:
– Thì hai người đã cho đóng vai “người ngựa” là quý quá!
Đường rừng lối hẹp, đất đá lô nhô, càng đi càng thấy âm u, quanh co mãi mới đến một căn nhà xiêu vẹo, than củi chất ngổn ngang trước sân, trên tường treo ba thanh gươm và tấm da thú. Cảnh vật đìu hiu, tỏ ra đây là căn nhà hoang trong rừng hẻo lánh.
Dương Quá cất tiếng gọi:
– Sư phó có ở nhà không?
Tiếng gọi của Dương Quá như vô hiệu. Cả bọn đều thất vọng.
Ba người chăm chú nhìn vào trong nhà một hồi lâu, chợt thấy một ông lão từ trong nhà bước ra, râu tóc bạc phơ, tuổi độ năm mươi, mình mặc áo da lạc đà, chân đi guốc sắt, mắt lem nhem, chân trái bị què, chống nạng liểng khiểng, hỏi:
– Khách có việc gì truyền dạy?
Dương Quá định tiếp lời, bỗng có tiếng chân ngựa dồn dập phía trước, liền đó có hai người ngồi trên lưng ngựa xông vào trước sân.
Đó là hai tên đầu mục Mông Cổ. Một trong hai tên có vẻ mặt vênh vang với bộ râu lồm xồm, cất tiếng hỏi lớn:
– Nhà nầy có phải là nhà của lão thợ rèn họ Phùng không?
Ông lão khập khễnh bước lại cúi đầu nói:
– Dạ, tôi đây!
Viên đầu mục lớn tiếng nói:
– Quan trên ra lệnh: nội trong ba ngày các thợ rèn trong huyện phải lên huyện đường để lo việc đúc khí giới. Nghe rõ chưa?
Ông lão ngập ngừng nói:
– Tôi tàn phế, già nua…
Tên đầu mục cầm roi ngựa quất vào đầu lão một cái, miệng la lớn:
– Im mồm, đừng nói dông dài, sáng mai mà không lên trình diện thì chớ trách.
Nói xong, cả hai quày ngựa cùng đồng bọn đi mất.
Lão thợ rèn đứng ngây người nhìn theo và thở dài, mặt buồn rười rượi.
Trình Anh thấy thấy tình cảnh của ông lão quá động lòng thương xót bèn thò tay vào túi, lấy ra hai chục lạng bạc để trên bàn và nói:
– Phùng sư phó, sư phó tuổi đã cao, lại thêm chân tàn phế, nếu lên trình diện với tụi Mông Cổ, không chết trước, cũng chết sau. Xin lão cầm tạm chỗ bạc này, trốn đi nơi khác lánh thân.
Ông lão run giọng, nói:
– Đa tạ lòng tốt của cô nương, tuổi tôi cũng đã già, chết sống không quan hệ, chỉ đáng thương mấy trăm vạn sinh linh ở Giang Nam phải lâm vào cảnh chém giết, tàn sát nay mai!
Dương Quá nghe nói, kinh ngạc hỏi:
– Sao lão biết? Vì sao vậy?
Ông già nói:
– Bọn Mông Cổ định bắt hết thợ rèn để đúc khí giới cho chúng chuẩn bị tiến đến xâm chiếm Giang Nam của nhà Đại Tống. Việc đó rõ ràng còn ai không biết.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh nghe lão nói, cả ba đều cho là đúng. Dương Quá toan hỏi tiếp, nhưng Phùng lão đã hỏi:
– Ba vị tính làm binh khí gì chăng?
Dương Quá nói:
– Ba anh em tôi đến nhờ Phùng sư phó có cách nào mở trói cho cô bạn của chúng tôi không.
Chàng vừa nói tay vừa chỉ vào cô Ngốc.
Lão Phùng chỉ tay vào cô Ngốc và nói:
– Việc này không khó lắm, để tôi đốt lò rồi đánh một con dao là cắt được.
Dương Quá vui vẻ nói:
– Nội ngày nay xong không?
Lão Phùng đáp:
– Nếu làm gấp chừng hai giờ thì xong.
Lão lo tiếp tục thổi bễ, nung sắt.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh đều sinh quán ở Giang Nam, tuy không phải con nhà quan quyền, phú quý, nhưng lúc nghe Phùng lão nói đến chuyện “sinh linh Giang Nam sắp lâm vào cảnh chém giết rùng rợn nay mai” ai cũng lo lắng cho những người thân thuộc mình.
Trong lúc ba người ngồi chăm chú nhìn Phùng sư phó nung thanh sắt thì cô Ngốc nằm trên giường, thỉnh thoảng giãy giụa đành đạch, kêu la:
Mở trói tay tôi chứ… Đau quá này!
Không bao lâu Phùng sư phó nung xong thanh sắt, đập thành hình con dao.
Phùng lão tuy già nhưng gân sức còn mạnh lắm nên đập những nhát búa như thần giáng mà không có mệt nhọc, khó khăn gì cả.
Trong nhà lúc nầy vang dội những tiếng đì đành làm chấn động cả khu rừng bên ngoài. Những bầy chim rừng tranh nhau bay, kêu ríu rít như để thi nhau phá tan cảnh rừng âm u tịch mịch.
Cô Ngốc lúc nầy quá sợ hãi, miệng không ngớt kêu la:
– Các người không mở trói cho tôi mà làm gì thế? Trời ơi, kinh quá!
Vì cô Ngốc nghe tiếng búa đe chát chúa và những tia sáng nhấp nhoáng khắp nhà nên quá sợ hãi.
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh thấy con dao đã thành hình, chỉ cần nung tráng nước thép nữa là xong, ba người vui vẻ khen. Lục Vô Song reo lên:
– Cô Ngốc ơi, sắp có cái mở trói cho cô rồi đấy, đừng la nữa!
Bỗng có giọng nói lanh lảnh ở phía sau nhà, tiếp đó có người hỏi:
– Rèn làm chi con dao to tướng thế, định dùng nó để làm phất trần chăng?
Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh kinh hãi quay lại, nhìn thấy Lý Mạc Sầu đang cầm phất trần đứng tần ngần ngoài cửa nhìn vào.
Dao quý rèn chưa xong mà địch đã đến bên lưng. Trình Anh và Lục Vô Song tuốt gươm thủ thế. Dương Quá cũng vớ lấy thanh sắt đứng chờ Lý Mạc Sầu xông vào thì đánh.
Lý Mạc Sầu cười khanh khách, nói:
Các người định dùng dao để chống cây phất trần của ta. Được rồi, các người cứ yên trí đi, ta ngồi đây chờ, khi nào xong dao sẽ đánh cũng không muộn gì.
Nói xong Lý Mạc Sầu ngồi trên đống củi trước cửa, thản nhiên coi Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh như không đáng ngại.
Dương Quá bực mình nói vọng ra:
– Nay nàng có đòn gì cứ đưa ra, chứ cây phất trần không ai sợ đâu.
Lý Mạc Sầu nhìn vào thấy cô Ngốc nằm trên giường, vẫn còn cử động như thường, thầm nghĩ:
– Con bé bị mình tát một cái như trời giáng đã thiệt mạng rồi sao vẫn còn sống nằm kia?
Nghĩ thế, Lý Mạc Sầu cười, rồi hỏi:
– Hoàng Dược Sư có trong nhà không?
Phùng sư phó nghe nói đến Hoàng Dược Sư, giật nẩy người nhìn Lý Mạc Sầu nhanh như chớp và cúi xuống nung lại con dao.
Trình Anh cất tiếng nói vọng ra:
– Người đã biết sư phụ không có ở đây, còn hỏi lôi thôi gì nữa? Nừu người biết sư phụ ta có ở đây, thì dẫu lớn mật đến đâu cũng chẳng dám mò đến.
Lý Mạc Sầu cười ha hả như nhạo báng, rồi thò tay vào túi lấy ra một tờ giấy trắng, miệng nói:
– Hoàng Dược Sư là một tay mạo danh lừa đời, cậy có nhiều đệ tử để đi hiếp đáp người khác, chớ tài gì. Trong bọn đệ tử của Dược Sư chỉ có một người đáng kể thôi.
Nói xong Lý Mạc Sầu lấy tờ giấy cài vào cây kim rồi phóng vào.
Cây kim bay vút vào cửa, cắm phập giữa cột nhà, Lý Mạc Sầu cất tiếng hỏi:
– Ta đưa bằng chứng cho đấy, khi nào Dược Sư về, tự đoán biết ai đã dùng “bửu bối” giết học trò giỏi của lão.
Đoạn nàng quay lại nói với Phùng sư phó:
– Lão thợ rèn, hãy nghỉ tay một chút, tôi làm phiền lão như thế này được không?
Phùng sư phó gượng đôi mắt đỏ ngầu nhìn lên tờ giấy có bốn câu thơ:
Đào Hoa đảo chúa
Đệ tử tối đa
Dĩ ngũ địch nhất
Dĩ tiếu giang hồ.
dịch:
Đào Hoa đảo chúa
Rất đông học trò
Năm người đánh một
Thiên hạ cười cho.
Phùng lão đọc xong bốn câu thơ, ngơ ngác.
Lý Mạc Sầu nói tiếp:
– Lão hiểu chưa?
Phùng lão nói:
– Hiểu rồi, có gì mà không hiểu.
Vừa nói lão vừa giơ kềm lên kẹp cả tờ giấy lẫn kim, giật xuống nhét vào lò lửa cháy vèo vèo.
Thấy thế Lý Mạc Sầu quá giận, cầm cây phất trần đứng phắt lên, định chạy xông vào đánh Phùng sư phó cho vỡ sọ ra.
Nhưng chạy được vài bước, Lý Mạc Sầu dừng chân ngay, vì nàng là người giang hồ lão luyện, thầm nghĩ:
– Một người trông rất kỳ dị, mà làm nghề thợ rèn, chắc gan dạ lắm mới dám ngang nhiên chọc tức mình như vậy!
Nàng bước lùi lại ngồi nguyên chỗ cũ, ôn tồn hỏi:
– Tôi nóng nảy quá nhỉ! Lão là ai thế?
Phùng lão cau mày đáp:
– Mi không trông thấy đây sao? Ta là lão thợ rèn, chớ còn là ai nữa?
Lý Mạc Sầu gắt gỏng hỏi:
– Tại sao lão lại đốt tờ giấy của tôi?
Tờ giấy viết không đúng thì đốt chớ sao?
Lý Mạc Sầu quá tức, hét lên:
– ông biết thế nào mà không đúng?
Phùng lão nghiêm giọng nói:
– Đào Hoa đảo chúa có tài năng biết cả việc trời đất; đệ tử của ngài mỗi người chỉ học được trong một phần trăm, phần ngàn nghệ thuật của ngài mà đã ngang dọc thiên hạ, thế thì trong đời ai còn dám chê ngài?
Lý Mạc Sầu cười rang rảng nói:
– ông lão ơi, như thế là ông đã lầm Hoàng Dược Sư rồi, vì Dược Sư chỉ có tài lừa đời. ông cũng như thiên hạ đời này, đều bị mắc lừa Hoàng Dược Sư cả!
Phùng sư phó vẫn bình tĩnh nói:
– Mi nói không đúng sự thật. Để ta kể cho mi nghe. Người đệ nhất đệ tử của ngài là Trần Huyền Phong, một tay da đồng, gan chì, xương sắt, gươm đao chém không thủng. Mi đã nghe danh ông ta chứ?
Miệng nói, Phùng lão vẫn trăn trở thanh sắt trong lửa.
Nghe nói đến Trần Huyền Phong, Lý Mạc Sầu sợ hãi. Còn Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh đều kinh ngạc thầm nghĩ:
– Một lão thợ rèn già nua, ở nơi rừng rú thế này mà biết được những tay anh hùng trong giới võ lâm, lạ thật?
Lý Mạc Sầu bỡ ngỡ hỏi:
– Hình như Trần Huyền Phong bị một đứa trẻ nít đâm chết, như thế thì giỏi cái gì?
Phùng lão điềm nhiên kể tiếp:
– Người đệ nhị đệ tử của Hoàng Dược Sư là Mai Siêu Phong có tài đi lẹ như gió, mi có biết không?
Lý Mạc Sầu tiếp lời:
– à phải rồi; người đó bị “Thất quái” ở Giang Nam đâm lủng hai mắt, rồi sau bị Âu Dương Phong đánh bể ruột đó phải không?
Phùng lão bồng ngây người buồn bã, khi nghe Lý Mạc Sầu nhắc đến chuyện bi đát của bạn đồng môn thuở xưa.
Qua một lúc, ông ta buông tiếng thở dài rồi nói:
– Có thể xảy ra việc đó à? Sao ta không hay? Nhưng người học trò thứ ba của ngài, chắc mi không lạ gì, đó là Khúc Linh Phong võ nghệ siêu quần. Nhất là thuật “tát tay” thì trong thiên hạ không có người địch nổi.
Lý Mạc Sầu không suy nghĩ liền đáp:
– Trong làng giang hồ, có kể chuyện Khúc Linh Phong. ông ấy leo vào Hoàng cung trộm báu vật, bị lính cận vệ bắt được đánh chết. Có phải ông ấy là Khúc Linh Phong có tài “tát tay” siêu quần tuyệt luân không?
Phùng lão giả lơ cúi vào lò lửa ho mấy tiếng, đôi mắt đẫm lệ rơi xuống thanh sắt đỏ, nghe “xèo xèo” hai luồng khói trắng bốc lên.
Lục Vô Song đứng chăm chú nhìn từng cử chỉ, lời nói của Phùng lão, thấy rõ nước mắt của lão trào ra. Lòng nàng nghĩ ngợi không hiểu vì sao? Chỉ thấy tay lão giưo cao lên và đập lưỡi búa xuống chan chát, miệng thở dài nghe não nuột.
Một lúc lâu Phùng lão mới nói:
– Môn đệ của Hoàng Dược Sư chúa đảo Đào Hoa có Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong, Khúc Linh Phong và Lục Thừa Phong, bốn người thuộc vào hàng đệ tử ưu hạng. Lục Thừa Phong là tay võ nghệ cao cường lại thông tính cả nhâm cầm độn toán, nếu mi gặp ông ta là mi không còn.
Lý Mạc Sầu cười kha khá, nói:
– ô! Nhâm cầm độn toán thì ăn nhằm gì. Có phải người ấy đã dựng một toà nhà ở bên Thái Hồ, gọi là “Quy vân trang” để đoán số cho khách giang hồ, sau bị người ta đốt cháy tiêu cả nhà cửa, từ đó đến nay không thấy ông ta đâu cả. Có lẽ đã bị chết thiêu rồi!
Phùng sư phó nghe đến đó giận lắm, la lên:
– Con đạo cô kia, không được nói bậy như thế. Các đệ tử của Hoàng Dược Sư đều là tay võ nghệ siêu quần. Nhắc đến người nào mi cũng nói là bị giết cả. Mi đừng khinh ta ở xó rừng nầy, không hiểu được thiên hạ đời nay cố kiếm lời xuyên tạc.
Lục Vô Song buồn bã nói với Phùng lão:
– ông muốn biết rõ sự việc đó để ba chúng tôi nói lại coi có đúng không?
Nói đến đó, Lục Vô Song đôi mắt ngấn lệ và nghẹn lời không nói được nữa.
Phùng lão đưa mắt nhìn Trình Anh rồi nói:
– Cô nương có thể cho tôi biết tin về các đệ tử của Hoàng Dược Sư không?
Trình Anh thấp giọng nói:
– Trong môn phái của Hoàng Dược Sư mấy năm nay không được hưng thịnh, và các người tài giỏi tản lạc, điêu linh hết cả. Tôi là kẻ sinh sau đẻ muộn, vừa mới được vào đảo Đào Hoa học ít lâu nay, không dám đem lời bênh vực cho sư phụ. Tôi thấy thẹn vô cùng. Như thế lão có quen với các người kể trên sao?
Phùng sư phó không đáp, chỉ trừng mắt nhìn Trình Anh hồi lâu, rồi có vẻ nghi ngờ hỏi:
– Gần đây chúa đảo có nhận thêm đệ tử nữa à?
Trình Anh thấy lão luôn luôn bênh vực cho sư phụ nàng, nên hết lòng kính mến, bèn kể thật:
– Gia sư tôi lúc nầy tuổi đã cao, ưa sống nơi tịch mịch, nên thu nhận tôi để ngài sai việc nhỏ mọn, còn nói học trò thì không đúng, vì tôi còn nhỏ chưa học được gì. Tôi không dám nhận là đệ tử của chúa đảo Đào Hoa.
Nghe đến đấy, Phùng sư phó đôi mắt hiền dịu lại,như có thâm tình đối với Trình Anh. Nhưng lão không nói gì nữa, chỉ cúi đầu đưa tay trở qua trở lại thanh sắt.
Trình Anh chợt thấy cặp nạng của lão, trên đầu có hình bán nguyệt giống y “Lạc anh chưởng pháp” của Hoàng Dược Sư. Nàng đoán được nguyên do liền hỏi:
– Tôi nhiều lúc nhàn rỗi được hầu chuyện với gia sư ở trên đảo Đào Hoa. Gia sư thường nhắc cho nghe về chuyện của mấy vị đệ tử như thế này: “Ngày tao đuổi các đệ tử đi khỏi đảo, chỉ có Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong là hai người đáng tội, vì chúng tự hại chúng. Còn ba người họ Khúc, họ Lục và họ Phùng đều bị tội oan. Đáng thương nhất là Phùng Mạc Phong tuổi còn nhỏ, không biết nay lưu lạc phương nào. Lúc nào nghĩ đến, lòng ta lại thương chúng đệ tử lúc ấy!”
Hoàng Dược Sư quả có ý thương học trò, nhưng ông rất kín đáo không bao giờ để lộ ra. Lúc này Trình Anh bịa chuyện để dò ý Phùng sư phó.
Lý Mạc Sầu đứng ngoài nhìn thấy hai người chuyện trò thân mật, rồi sau Phùng lão có vẻ buồn bực, nước mắt chảy tầm tã rơi xuống thanh sắt đang nung trong lò nghe “xèo xèo” bốc lên hơi trắng, Lý Mạc Sầu nghĩ thầm:
– Tụi nầy có chung sức nhau cũng không đi đến đâu, chỉ thêm có một thằng què, làm nên trò trống gì?
Nàng gọi lớn:
– Phùng Mạc Phong, ta có ý mừng cho sư huynh, sư muội nhà ngươi đã nhận được nhau.
Phùng sư phó đây chính là Phùng Mạc Phong. Khi còn ở trên đảo Đào Hoa, Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong, hai người đã lấy trộm “Cửu âm chân kinh” định trốn đi. Hoàng Dược Sư bắt được, lòng quá giận, bèn đánh què cẳng hai người, đuổi khỏi đảo. Cả Khúc Linh Phong và Lục Thừa Phong cũng bị trừng phạt như hai người kia. Chỉ có Phùng Mạc Phong tuổi còn nhỏ nên chỉ đánh què một cẳng, nhưng cũng bị đuổi ra khỏi đảo Đào Hoa.
Khi ra khỏi đảo, mỗi người lưu lạc mỗi nơi trên hai xứ Quan trung, Lục dương.
Phùng Mạc Phong lạc đến Lục dương học nghề rèn, sau khi thành nghề, tìm đến một thôn trang hẻo lánh hành nghề sinh sống. Phùng Mạc Phong tuy có võ nhưng đã gần ba chục năm nay chưa hề đánh nhau với ai, vì thế mà trong giới giang hồ chưa ai biết danh.
Ngày nay tình cờ nghe chuyện các sư huynh qua đời cả, còn sư phụ như bóng chim tăm cá. Tình thầy trò ân thâm nghĩa trọng, Phùng Mạc Phong tự nhủ:
– Dù sư phụ đối với ta tàn ác mặc lòng, bổn phận ta bao giờ cũng giữ nghĩa cho trọn đạo trời đất.
Vì vậy, nên khi nghe Trình Anh kể, Phùng Mạc Phong ruột đau như cắt, thương thầy nhớ bạn, xót xa trong lòng.
Dương Qua, Lục Vô Song thấy Phùng lão và Trình Anh nhận là sư huynh sư muội, tất cả đều vui mừng. Dương Quá thầm nghĩ:
– Lão nầy nếu đúng là Phùng Mạc Phong, đệ tử của Hoàng Dược Sư thì võ nghệ chắc hẳn phải là tay chọc trời khuấy nước chứ không vừa.
Lý Mạc Sầu ở ngoài cất tiếng lanh lảnh nói:
– Sư phụ nhà ngươi đã đuổi ngươi ra khỏi cửa mà vẫn còn quyến luyến thế kia à? Thôi ngươi để ta giết ba đứa này đi, đừng can thiệp nhé!
Phùng Mạc Phong bình tĩnh đáp:
– Ta tuy có học chút đỉnh võ nghệ, nhưng chưa có đánh ai lần nào. Vả lại nay đã bị tàn phế một chân như vầy, thì đánh đá chi mà nói.
Lý Mạc Sầu nói:
– Được rồi, không có can chi tới nhà ngươi, cứ để yên ta làm việc của ta.
Phùng Mạc Phong quắc mắt nói:
– Đâu có được, ta cấm ngươi không được động đến mấy người nầy.
Lý Mạc Sầu cả giận to tiếng:
– Ta thấy nhà ngươi tật nguyền, đã tha cho lại muốn lên mặt.
Phùng lão thản nhiên như không nghe, cứ cầm búa đập mạnh trên đe mãi.
Lý Mạc Sầu liền thách đố:
– Ta chấp cả bốn đứa đấy. Đứng lên hết đi, ta đưa về âm phủ cho rồi!
Phùng Mạc Phong ôn tồn đáp:
– Ta bỏ học đã ba mươi năm nay, không luyện tập gì cả, hôm nay thử ôn lại vài đường xem sao!