Đọc truyện Khúc Cầu Hồn – Chương 14
“Chẳng có gì.” Hunt đứng dưới tầng hầm trong nhà David Wilson. John Yoakum thất vọng đứng bên cạnh anh. Hai bóng đèn xoáy vào chiếc gá đèn sét rỉ được bắt ốc vào kèo nhà trơ gỗ; cái lò sưởi đen vẫn nguội lạnh ở góc xa. Hunt kéo lê một chân xuống nền nhà, một đám mốc và bụi bặm bốc lên rồi lắng xuống. Không khí trong phòng vương mùi đất cát và xi-măng ẩm ướt.
“Ông đợi cái gì thế?” Yoakum hỏi.
Hunt nhìn vào trong khoảng không gian lửng thấp hẹp ở dưới phòng khách và phía sau nhà. “Một tia hy vọng may mắn. Chỉ một lần.”
“Chẳng có cái gì gọi là may mắn, tốt hoặc xấu.”
“Nói điều đó cho Tiffany ấy.”
Đã mười lăm giờ trôi qua từ lúc kẻ nào đó chưa rõ danh tính lôi cô bé này vào xe, và họ cũng chưa đi tới đâu trong nỗ lực tìm kiếm cô. Họ đã xem xét từng góc của căn nhà và vườn tược, nhưng cũng chưa tìm được manh mối nào. Hunt đập mạnh tay vào thành gỗ trơ của cầu thang dưới tầng hầm, bụi rớt xuống tung tóe. “Tôi phải kiểm tra cậu con trai tôi.”
Hunt nói. “Tôi quên nói với nó là tôi sẽ về trễ.”
“Gọi nó đi.”
Hunt lắc đầu. “Nó không nhấc máy.”
“Tệ vậy à?”
“Tôi không muốn nói về chuyện này.”
“Ông muốn tôi làm gì bây giờ?” Yoakum hỏi.
Hunt chỉ lên trên cầu thang. “Thu dọn. Đóng cửa. Tôi sẽ gặp ông ở đồn trong vòng nửa tiếng nữa.”
“Và khi nào chúng ta đến đấy?”
“Chúng ta sẽ làm việc từ mọi ngóc ngách. Cầu nguyện một chút may mắn.” Hunt đặt một ngón tay lên mặt Yoakum.
“Và ông đừng có nói gì.”
Yoakum giơ hai tay. “Chuyện gì?”
“Không nói một tiếng.”
Ở bên ngoài, Hunt thấy số đông hàng xóm tụ tập ở vỉa hè. Hai cảnh sát mặc đồng phục giữ họ ở một khoảng cách xa, nhưng ông phải đi qua đám đông để đến nơi đậu xe. Ông đến gần xe thì một người đàn ông gầy trông giận dữ hỏi: “Chuyện này có liên quan gì đến Tiffany Shore?” Ông ta lớn tiếng. “Không một ai nói cho chúng tôi bất cứ điều gì.” Hunt đi quá người đàn ông, và người đó chỉ tay về hướng nhà Wilson, nói to hơn. “Ông ấy có liên quan gì không?”
Chút xíu nữa Hunt dừng lại, nhưng ông không dừng.
Chẳng điều gì ông nói ra có thể làm cho tình hình bớt căng thẳng đi.
Vào bên trong ô tô, ông vặn điều hoà lên mức cao nhất và lèo lái ra khỏi đám đông. Ông cần phải tạt qua nhà, kiểm tra cậu con trai, nhưng rồi anh lại lang thang dọc theo rìa ngoài cùng thị trấn, sau đó nhìn xuống con đường dài, dốc đứng, dẫn đến nhà Katherine Merrimon. Cảnh sát Taylor mở cửa trước khi ông gõ. Cô có vẻ cảnh giác cao độ, hai môi mím chặt. Hunt để ý tay của cô đặt trên bao súng. Cô bớt căng thẳng khi biết người đến nhà là ai, sau đó bước ra hàng hiên và đóng cửa lại sau lưng.
Hunt gật đầu. “Có dấu hiệu gì không?”
“Về anh nhóc à? Không. Còn cái gã chết tiệt Ken Holloway, thì có đấy.”
“Chuyện gì vậy?”
“Gã ta tìm kiếm Johnny. Trông gã rất bực, mặt đỏ ửng lên, lải nhải mãi về cây đàn piano bị phá hỏng. Cây đàn Steiman hay Steibeck gì đó.”
“Steinway.”
“À, nó đó. Cục đá ném qua cửa sổ cũng văng trúng vào cây đàn piano.” Taylor cười. “Tôi nghĩ có lẽ nó đắt giá lắm.”
Một cái gì đó kéo căng mồm thám tử Hunt. “Có thể. Gã ấy có làm phiền cô gì không?”
“Có chứ. Bắt đầu gào thét đòi gặp bà mẹ cậu bé khi tôi từ chối không cho gã vào bên trong. Tôi nói gã bình tĩnh, gã nói gã sẽ làm cho tôi bị sa thải.” Hunt cảm nhận được nỗi bực dọc của cô. “Tôi nói cho anh nghe, nếu cậu con trai đó có mặt ở đây, tôi nghĩ cậu ta sẽ bị ăn đòn.”
“Bao lâu rồi?” Hunt thoáng nhìn ra đường.
“Khoảng chừng một giờ. Gã nói gã sẽ trở lại với luật sư của gã.”
“Cô không nói đùa chứ?”
Cô nhún vai. “Gã muốn vào nhà và bằng mọi giá phải vào.”
“Nếu gã trở lại,” Hunt nói, “và nếu gã bịa ra lý do này nọ, tôi sẽ nhốt gã.”
“Thật vậy sao?”
“Tôi không thể để gã dọa nạt nhân chứng hoặc gây rối loạn cuộc điều tra của tôi.”
“Và đó là lý do duy nhất?”
Hunt trầm ngâm, nhìn căn nhà phía đằng sau. Ông ngửi được mùi mục nát của viền nóc và vách áp tường, thấy những vết rách ở lưới cửa sổ, những vạch nứt nẻ ở các ô cửa kính. Ông nhớ căn nhà bà Katherine sinh sống khi con gái Alyssa bị bắt cóc, nhớ đôi mắt tối thẫm và niềm tin đứt ruột rằng Chúa sẽ mang trả lại cho bà đứa con gái mất tích. Bà thường cầu nguyện bên cạnh cửa sổ hướng về hướng nam, ánh sáng trinh nguyên trên da thịt hoàn hảo khiến bà nhìn như một thiên thần. Và Ken Holloway luôn có mặt trong suốt thời gian đó, cười với bà, chu cấp tiền bạc cho bà. Chuyện đó chỉ kéo dài một tháng. Một khi bà bị nghiền nát thành cát bụi, gã sẽ buông tha bà như con kên kên. Bây giờ thì bà tàn tạ tả tơi. Hunt chắc chắn biết rõ kẻ làm bà tả tơi.
“Tôi ghét gã ấy,” Hunt nói, đôi mắt ông dõi về cõi xa xăm. “Tôi ghét hắn tới mức tôi có thể giết hắn.”
Taylor liếc đi chỗ khác. “Không thể nào tin tôi vừa nghe câu nói đó.”
Hunt cảm nhận hai vai mình vươn lên cao, máu chạy rần rần trên mặt. “Thôi quên chuyện đó đi.”
Taylor nhìn chằm chằm vào ông. “Anh có chắc không?”
“Chắc.”
“Anh chắc như vậy?”
“Ừ đúng. Chắc như vậy.”
“Tốt lắm.” Cô gật đầu.
Ông nhìn ra con đường và nói, “Chắc gã đang đùa giỡn với tôi.”
Chiếc Escalade màu trắng của Ken Holloway chạy chậm trên đường, bỗng một bánh xe lăn xuống rãnh nước khi chiếc xe rẽ vào con đường dẫn vào nhà. Trong giây phút, chiếc xe chết máy; rồi tiếng máy rú lên và bánh xe phóng lên khỏi rãnh. Một mảng đất đen ngòm ở cạnh rãnh nước. Những tảng bùn và cỏ đeo dính trên lườn xe phía bên phải. Qua cửa sổ, Hunt có thể thấy khuôn mặt Holloway: cằm nghiêm nghị, mặt đỏ ửng. Ngồi cạnh ông ta là người đàn ông nhìn cam phận mà Hunt nhớ đã từng gặp đôi lần ở tòa án, một luật sư gì đó. Khuôn mặt gã bóng nhợt và ẩm ướt. Gã ta kéo gạt cần mở cửa xuống xe, sau đó ghê tởm nhìn mọi thứ bên ngoài: căn nhà, bùn sình và cớm. Bộ dạng của gã lúc ra khỏi xe là hình ảnh đĩ thoã nhất Hunt từng chứng kiến.
Hunt bước xuống sân và Taylor sát cánh bên cạnh ông. Gã ta mặc chiếc quần jeans mới tinh, chiếc áo sơ mi màu hồng sơ vin, đôi ủng của gã đi còn đắt tiền hơn cây súng của Hunt. Gã to lớn, phải hơn một tạ nhiều. Trông gã đầy giận dữ và đe doạn khi lôi cổ ông luật sư qua đống bùn. “Nói với họ,” gã chỉ tay, chiếc vòng bằng đồng lúc lắc trên cổ tay. “Nói với họ trình tự mọi chuyện như thế nào.”
Ông luật sư giũ thẳng áo vest. Da mặt ông ta láng bóng, móng tay được cắt kỹ lưỡng, và giọng nói gắng gượng. “Tôi cũng không rõ tại sao tôi có mặt ở đây,” ông luật sư nói. “Tôi đã giải thích cho ông…”
Holloway cắt ngang lời nói. “Ông là luật sư của tôi. Tôi đã trả tiền cho ông. Bây giờ, nói với họ.”
Ông luật sư hết nhìn Holloway lại nhìn sang viên cảnh sát. Ông kéo dài cổ tay áo như khi đang ở ngoài tòa án.
“Holloway là chủ nhân của mảnh đất này. Ông ấy muốn được ra vào tự do trong mảnh đất của ông ấy.”
“Đòi hỏi quyền ra vào,” Holloway ngắt lời. “Nó là nhà của tôi.”
Hunt giữ giọng bình tĩnh. “Lúc nãy khi tôi ở đây, ông nói ông là khách của căn nhà này.”
“Nói cho đúng nghĩa. Tôi là chủ sở hữu của nó.”
“Nhưng bà Katherine Merrimon là người thuê nhà hợp pháp.”
“Ông Holloway lấy của bà ta một đô-la mỗi tháng,” ông luật sư nói. “Khó mà nói bà ta là người thuê nhà.”
“Thuê nhà là thuê nhà,” Hunt nói, nhìn thẳng vào mắt ông luật sư. “Ông biết điều ấy mà.”
“Cho dù vậy, ông ta có quyền xem xét căn nhà.”
“Vào lúc thích hợp và có giấy thông báo,” Taylor sửa lại lời. “Không phải giữa đêm. Nếu ông ta muốn gọi điện cho bà Merrimon, ông ta vẫn có thể gọi cho bà ấy.”
“Bà ta không trả lời điện thoại,” ông luật sư nói.
Holloway bước tới trước. “Tôi muốn gặp anh nhóc tì đó. Nó làm hư cả một tài sản tư nhân có giá trị và cần phải chịu trách nhiệm về việc làm đó. Tôi chỉ muốn nói chuyện với nó.”
“Thật vậy sao?” Hunt không thể giấu đi sự không ưa và kinh tởm.
“Dĩ nhiên rồi. Còn điều gì nữa?”
“Và nếu tôi nói với ông thằng bé không có mặt ở đây?” Hunt hỏi, bước lên phía trước cho đến khi khoảng cách giữa hai người đàn ông chỉ vừa đủ hai mét. Ông biết Holloway là kẻ dễ nổi nóng. Biết rõ. Bây giờ ông muốn thấy nó.
Kiên nhẫn để thấy nó.
Hai mắt Holloway nghiến chặt, và Hunt nhận thấy sự rạn nứt đầu tiên trong cái vỏ bên ngoài. Gã đàn ông này không thích bị dồn ép, không thích bị thách đố, do đó Hunt nghiêng người gần hơn. Ông chứng tỏ cho Holloway thấy sự khinh mạn trong đôi mắt mình, và thấy gã cắn mồi. Ngay vào phút chót, ông luật sư cũng nhận ra chuyện gì sắp xảy ra. Ông ta mở miệng:
“Ông Holloway… ”
“Anh có biết tôi là ai không?” Holloway giơ ngón tay lên và đặt thẳng vào ngực của Hunt. Và chỉ cần bao nhiêu đó. Chỉ một chuyển động êm ái và tinh tế, Hunt nắm lấy cổ tay gã, xoay người gã lại, bẻ quặt cánh tay của hắn ra đằng sau tít lên bả vai. Holloway bước tới trước để giảm bớt áp lực, và Hunt vẫn giữ nhịp điệu. Ông lôi Holloway đến chiếc Escalade và nén mặt ông ta xuống nắp capô chiếc xe.
“Ông vừa hành hung một cảnh sát viên, ông Holloway. Ngay trước mặt nhân chứng.”
“Đó đâu phải là hành hung.”
“Hãy hỏi luật sư của ông.”
Holloway xoè phẳng một bàn tay trên chiếc xe và cố gắng đẩy mình đứng dậy. Hunt phải đè người lên gã, và nói một lần nữa như ông đã nói. “Và đó là chống đối người thi hành công vụ.” Cái còng được bung ra. Ông khóa cái còng vòng quanh cổ tay tròn đầy, phập thật chặt vòng thép, bóp mạnh nó cho đến tiếng click cuối cùng. Holloway vùng vằng kêu gào, và Hunt giật cánh tay còn lại bẻ quặt ra sau lưng. Ông dùng hết sức nặng ghì chặt người Holloway trên chiếc xe, và bóp chặt chiếc còng thép. “Đó là những cáo buộc nghiêm trọng, ông Holloway. Luật sư sẽ giải thích cho ông sau.”
Hunt lôi Holloway đứng thẳng. Sự ngạo mạn đã biến mất, nhưng sự giận dữ vẫn bừng bừng trên khuôn mặt gã. “Ông không được đụng đến tôi,” gã nói.
Hunt nắm sợi xích của chiếc còng, lôi gã Holloway vào chiếc xe của cảnh sát Taylor và mở cửa xe. Ông đặt một tay lên trên đầu Holloway. “Không có gì cá nhân ở đây cả,” ông nói, và nhét gã vào băng ghế đằng sau. Khi ông bắt gặp ánh mắt Taylor, không có nụ cười và sự hài hước trong giọng nói của ông. “Sĩ quan cảnh sát Taylor, cô làm ơn giải ông Holloway về đồn và tống giam ông ta!”
Taylor giữ khuôn mặt nghiêm trang, nhưng không giấu được cảm xúc. “Thưa vâng.” Hunt quan sát họ ra đi: chiếc xe tuần tiễu với khuôn mặt đỏ ửng của Holloway dính vào cửa kính, chiếc Cadillac to lớn với ông luật sư gà mái ngồi lái đằng sau vô-lăng bằng da. Họ leo lên ngọn đồi và biến mất khỏi tầm nhìn. Cơn tức giận nguôi ngoai, tia lửa của hài lòng nhen lên. Ông đứng một mình trong sân nhà, nghĩ đến bà Katherine, và sau đó trở vào nhà. Bên trong căn nhà, ông ép tai vào cánh cửa. Ông xoè những ngón tay trên gỗ đánh nhẵn và trong một giây phút tưởng tượng chính mình bước vào phòng. Bà ta vẫn nhỏ bé và xanh xao, vẫn nằm yên trên giường, nhưng bà sẽ mỉm cười, tay bà sẽ vươn lên.
Hunt liên tưởng giây phút đó trải dài ra như một dặm đường cát ấm, nhưng nó chỉ là vậy, trong một giây phút. Một ảo giác. Ông là viên cảnh sát thất bại trong việc mang đứa con gái của bà trở về nhà. Ông không thể nào thay đổi được sự thật cũng như bà ấy không thể quên con gái. Điều đó thật không công bằng.
Tay buông thõng xuống, ông bước vào phòng của Johnny. Cánh cửa mở và ngọn đèn nhỏ in dấu một vòng tròn vàng trên cái giường ngăn nắp cạnh bên. Căn phòng khác nhiều so với căn phòng của những cậu con trai. Quá trống trải. Hunt không thấy đồ chơi, trên tường không treo áp-phích phóng lớn. Một cuốn sách mở nằm úp trên giường. Nhiều cuốn dựng trên tủ áo, một hàng dài sách ép giữa hai cục gạch. Một tấm ảnh mẹ cậu, ba tấm ảnh của Alyssa. Hunt lật tấm ảnh gần nhất của cô bé lên. Cô bé cười mỉm, nụ cười bí hiểm. Tóc đen che phủ mắt phía bên trái, nhưng mắt phải hàm chứa một thứ ánh sáng; trông cô như thể cô biết một điều gì đặc biệt, như là cô đang chờ đợi ai đó đặt câu hỏi và nổ tung vì sự trông đợi. Nghị lực sống của cô bé làm Johnny dường như lạnh lẽo và cô đơn, và Hunt không biết có phải cậu ấy vẫn luôn như vậy. Hay cậu mới thay đổi gần đây?
Chỉ có vậy.
Hunt lắc đầu trước sự vô lý của thế giới. Chẳng có gì mơ hồ về việc chàng thiếu niên Johnny đã trưởng thành. Tang chứng ở tất cả mọi nơi: hành động và thái độ của cậu, trong căn phòng tường trống trơn và ngay cả những cuốn sách cậu giữ. Không cuốn sách nào dành cho lứa tuổi thiếu niên. Johnny có những sách về lịch sử và tôn giáo cổ đại, sách về những tập tục săn bắn của người Da đỏ. Một cuốn về truyền thuyết võ sĩ nặng khoảng một cân rưỡi. Hai cuốn về tôn giáo người Cherokee. Nhiều cuốn sách mượn của thư viện, đóng dấu với miếng giấy trắng bên gáy sách. Hunt cầm cuốn sách mở tung trên giường lên và thấy Johnny mượn cuốn sách mười bốn lần liên tục. Chưa bao giờ trả trễ hạn. Không một lần. Hunt mường tượng Johnny trên chiếc xe đạp, đi tám dặm đường mỗi chiều để xuất trình thẻ thư viện và ký tên vào nơi họ yêu cầu.
Ông xem xét tựa sách – Minh họa Lịch sử Quận Hạt Raven – sau đó nhìn vào trang đang mở dở dang. Phía bên phải là tấm ảnh đen trắng một người đứng tuổi trong bộ đồ vest thẳng nếp. Bộ râu trắng che trước cổ áo và cặp mắt của ông chứa nhiều nét cương nghị. Hàng ghi chú ở dưới: “John Pendleton Merrimon, Bác sĩ phẫu thuật và Theo chủ nghĩa bãi nô. Năm 1858.”
Hunt nhận ra người ấy là họ hàng của Johnny. Ông ta có cái nhìn giống bố của Johnny, và không giống cậu bé tí nào. Ông lật thêm vài trang, đặt cuốn sách trở lại trên giường, và không biết mẹ của Johnny đang đứng ở hành lang cho đến khi ông trở ra. Hai chân bà thò ra khỏi cái áo sơ mi không đủ che bọc thân thể bà, chân đi đất, một tay đè vào tường khi đôi vai của bà cắt một vòng ô-van nhỏ trong không khí. Đôi mắt của bà là vết thương không băng bó, giọng nói của bà bình lặng đến kinh ngạc. “Làm ơn làm giúp mẹ chuyện này, Johnny.” Một bàn tay xoay bắt ánh đèn vàng. “Nói với Alyssa mẹ muốn nói chuyện với em khi nó về.”
“Katherine…” Hunt ngừng lại, chưa rõ.
“Đừng cãi lời mẹ Johnny. Con bé lẽ ra phải về nhà giờ này.”
Bà quay đi, trượt một tay dọc theo bức tường và đóng cửa lại. Những chiếc lò xo nệm giường khua lạo xạo và sự yên lặng bao trùm căn nhà.
Trước khi Hunt đi khỏi, ông vặn đèn lên và kiểm soát các cánh cửa. Ở ngoài sân vườn, ông cố gắng tập trung. Vụ án Tiffany Shore và sự suy sụp của bố mẹ cô vẫn còn đó; gã khổng lồ với khuôn mặt sáp có thể hoặc chưa thể đi mất trong lúc này. Ông cần gặp anh con trai, lại còn gã Ken Holloway, và Johnny, ở đâu đó ngoài kia làm điều gì đó chỉ có Chúa mới biết. Hunt linh cảm được tất cả, một vòng xoáy, một sức nặng ngàn cân, nhưng ông gạt tất cả qua một bên và lấy cắp thêm một khoảnh khắc. Tất cả trước giờ chỉ có thế, và ông chiếm đoạt nó một cách ích kỷ. Ông đứng dưới màn đêm, bầu trời tối sầm, và ông nghĩ về Katherine Merrimon, về đôi mắt thâm tím và sự trống vắng của bà.
Không còn thứ gì khác quan trọng.