Đọc truyện Khai Thị Quyển 1- Hòa Thượng Tuyên Hóa FULL – Chương 24: Nỗi Bất Hạnh Của Cửa Phật
Nỗi Bất Hạnh của Cửa PhậtTới lúc chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật…!Mật đến chỗ rơi vào địa ngục vẫn còn mật.Tôi vừa nói cho quý-vị nghe công án của gốc cây đó, quý-vị không tin cũng chẳng sao.
Bây giờ chúng ta thảo luận đến vấn đề sau đây, tuyệt đối không thể không tin được.Tại sao con người phải học Phật-pháp? Ðộng cơ tối thượng không ngoài ý muốn “ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử.” Song chẳng may nhiều người có chí thoát đường mê nhưng lại đi vào đường mê.Theo Phật-giáo vì muốn thoát luân hồi nhưng bởi chẳng cẩn thận nên rất dễ rớt vào mê hồn trận.
Nếu không biết khéo dùng trạchpháp-nhãn, sáng suốt mà lựa Pháp, thì dễ bị những thứ tà tri tà kiến làm mê hoặc, rồi đi làm những việc không nên làm.Thí dụ như muốn ly khổ đắc lạc, song lỡ xẩy chân rơi vào cửa địa ngục.
Lại còn những chuyện tệ hại hơn nữa, tức là trong Phậtgiáo Mật-tông có kẻ dạy phương pháp gọi là Song Tu Pháp.
Họ nói chỉ cần niệm thần chú gì gì đó, trai, gái cùng nhau tu pháp”Hoan Hỷ Thiền.” Còn nói đó là pháp cao nhất, không những thỏa mãn được lòng dâm dục, mà còn có thể tức khắc thành Phật.
Song, thành Phật đâu phải dễ dàng như vậy! Nếu không cắt đứt lòng dâm dục, mà thành Phật, thì rất là vô lý.
Trong thiên hạ không có đạo lý nào như vậy cả.Ðời nay, đa số con người đều tham tu cho mau cho chóng, thích đi đường tắt.
Hễ nghe nói có phương pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc, rồi rớt vào lưới ma, tới lúc chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật…!mật đến chỗ rơi vào địa ngục vẫn còn mật.Kiếp Sau Muốn Làm “Liên-Thể-Anh”Ðồng tính luyến ái là trái ngược lại với đạo lý trời đất; hoàn toàn sai với luân thường.Ý kiến tôi vừa phát biểu không phải thái quá hay nguyền rủa ai đâu.
Trong Phật-giáo thật sự có những hành vi bại hoại tổn đức như vậy.
Do đó Phật-giáo mới không hưng thịnh được.Chuyện nầy mình sẽ không bàn tới nữa, song còn vấn đề nghiêm trọng hơn, nó liên quan đến toàn nhân loại, không thể không đề cập tới.
Ðó là chuyện đồng tính luyến ái càng ngày càng nhiều.
Cũng như ở Nữu Ước (New York) và Cựu Kim Sơn (SanFrancisco) có tới hơn mười vạn kẻ đồng tính luyến ái.
Thậm chí có nhiều nhà chức trách công khai nhận rằng mình là đồng tính luyến ái và tán thành chuyện này; lại còn hô hào xã hội chấp nhận sự kết hôn giữa những kẻ đồng tính luyến ái ấy.
Chúng ta phải biết rằng đồng tính luyến ái là trái ngược lại lý tự nhiên, ngược lại với luân thường đạo lý.
Trào lưu nầy là do yêu ma quỷ quái khơi động; như châm dầu vào lửa, khiến con người sớm đọa địa ngục.Vừa rồi tôi nói tới sự yêu đương ngu si của nam nữ, họ thề rằng: “Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu.
Tại địa, nguyện vi liên lý chi.” Nghĩa là trên trời thì nguyện làm đôi uyên ương.
Dưới đất thì nguyện làm cây liền cành.
Trai gái kết hôn là chuyện thông thường, nên cổ nhân có câu: “Nam nữ chi sự nhân chi đại luân” nghĩa rằng chuyện nam nữ là chuyện luân thường của loài người.
Nếu mình muốn đi thuận với con đường sinh tử thì mình kết hôn, sinh con, điều đó chẳng đi ngược lại với trời đất.
Song nếu mình đồng tính luyến ái là trái ngược lại với đạo lý trời đất; hoàn toàn sai với luân thường.
Quả báo là mình sẽ sinh ra làm liên-thể-anh, hai đứa trẻ sinh ra tay chân dính liền nhau.
Hiện tại trên thế giới xuất hiện rất nhiều đứa trẻ như vậy.
Trong tương lai không xa sẽ còn xuất hiện nhiều thú vật thân thể dính liền như thế.
Bởi vì những người nầy đã làm chuyện yêu quái, những chuyện thấp hèn, hạ tiện, cho nên sẽ đọa làm súc vật.Do đó nếu quý-vị chưa học Phật, nên ở ngoài đời không giữ qui củ, làm bừa bãi, thì không có gì lạ.
Còn nếu quý-vị học Phật rồi, thì cần phải hiểu sâu xa đạo lý nhân quả, đừng phạm tội lỗi.
Phải hết sức cẩn thận, thật cẩn thận.Tham Thiền: Tham Thiền Trước Nhất Cần Xây Nền TảngNền không vững, nhà sẽ lung lay, Gió thổi thì ngã, mưa to liền sập.Người học Phật có kẻ thích tham thiền, có người thích học Kinh, thuyết Pháp, nghiên cứu Luật Tông, Mật-tông hay Tịnh-độ Tông.
Bất luận là thích tông phái nào, quý-vị cần kiên tâm trì chí, dụng công tu hành thì mới thành tựu.Nếu không chuyên tâm nhất chí thì học gì cũng như không.
Mình tham thiền hai ngày rưỡi lại nghĩ muốn niệm Phật, niệm Phật nửa ngày lại muốn học Luật, học Luật chưa bao lâu lại muốn học Mật; mục tiêu rối loạn không chuyên nhất được.
Tại sao mình không thể chuyên nhất? Tại vì mình còn hướng ngoại truy cầu.
Chân đạp hai chiếc thuyền cùng một lúc, không biết đi lên Giang Bắc tốt hay đi xuống Giang Nam hay? Vì vậy, cả một đời vẫn cứ lầm lẫn.Vì thế tham thiền lúc nào cũng phải tinh tấn, một giây cũng không được làm biếng, tham cho tới lúc:Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.Nghĩa là:Núi cùng, sông bặt, tưởng hết đường,Tàng liễu, hoa giăng, hiện thôn trang.Tức là mình sẽ thấy một bầu trời khác, sẽ thấy được sự diệu thú thiên nhiên vô cùng.
Nhưng mình cần phải tham thiền đến cực điểm, đến chỗ “đăng phong tạo cực” nghĩa là lên tới đỉnh cao nhất, đạt tới chỗ tột bực thì mới có một chút hy vọng; nhưng hy vọng đó cũng không nhiều lắm.
Tuy có một chút hy vọng nhưng mình cũng đừng chấp đắm vào hy vọng đó.
Nếu không mình sẽ tạo thêm sự phiền toái, tức là chấp vào cái không có ý nghĩa gì cả.
Tham thiền là phải chân thật mà dụng công.Trước hết cả mình phải biết luyện cho chân biết nghe lời, không làm loạn cũng không làm đau.
Làm thế nào để chân không còn đau nữa? Có thần chú nào niệm cho chân hết đau? Hoặc giả là mình phải uống thứ thuốc gì đó thì chân sẽ bớt đau.
Không phải thế đâu! Mình cần phải trải qua cơn đau nhức đó một thời gian, dần dần chân mình mới chịu nghe lời mà hết đau.
Nếu mình không nhẫn nại được cái đau, vừa mới đau lại đổi chân, thì cái chân vĩnh viễn sẽ không bao giờ chịu nghe lời mình; bởi vì mình đã chìu chuộng nó quá mức.
Khi chân đau mình phải dọa nó như dọa con nít.
Nếu cha mẹ thương không cho con chịu khổ, thì tương lai những đứa đó không cách gì chịu đựng được khổ.
Cái chân cũng như con nít vậy, mình sợ nó đau nhức thì lúc nào nó cũng đau nhức.
Lúc chân đau tất nhiên mình thấy đau, lúc chân không đau, mình cũng thấy nhức nhối là bởi vì mình đã tập cho nó có một thói quen xấu.Mình phải luyện cho cái chân, cái lưng biết nghe mình; để chúng không còn đau không còn nhức; rồi thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều nghe lời mình cả, sáu căn nầy không còn chạy ra ngoài mà truy cầu nữa.
Không bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp làm cho xoay chuyển.
Không bị lục căn, lục trần chuyển động thì đó chính là biết dụng công.
Cho nên nói:Nhãn quán hình sắc nội vô hữu.Nhĩ thính trần sự tâm bất tri.Nghĩa là:Mắt thấy hình sắc nhưng lòng chẳng màng.Tai nghe âm thanh song tâm chẳng biết.Mình phải thường hồi quang phản chiếu.
Ðừng truy cầu những điều bên ngoài, luôn luôn trụ vào pháp môn căn bản, tức là tham thoại đầu “Ai là người niệm Phật?” Tức là làm sao nắm được gốc, đừng chạy theo ngọn.
Ðối với những vấn đề chi tiết nhỏ nhặt, đừng nên để tâm âu lo, như vậy thì từ từ sẽ hiểu thấu mọi sự.Lúc tu thiền, khi chưa biết tập luyện làm sao để ngồi kiết già hay bán già cho thật vững vàng thì đừng nên ham học làm sao tham thiền.
Bởi vì nền tảng chưa vững chắc cơ mà! Do đó, trước tiên phải xây nền tảng thiệt tốt rồi mới tham thiền.Như tuần đầu tiên, mình phải san bằng mặt đất.
Xây nhà, trước hết phải dọn sạch đất đai, đạp bằng nó ra.Vào tuần thứ hai thì phải đặt móng.
Xây móng cần tốn nhiều công phu; tức là mình phải tu hạnh nhẫn nại: chịu đau, chịu đói, chịu khát, chịu rét; bất kỳ hoàn cảnh gì mình cũng phải chịu đựng.
Tuy đây là việc tốn công tốn sức, song nó là việc tất yếu phải làm.
Ðất cần được đạp bằng, móng cần xây cho chắc thì nhà dựng lên mới kiên cố.
Nếu gió thổi, nhà sập hay mưa tạt, nhà rã thì tức là móng đặt không chắc chắn, nền xây chẳng vững vàng vậy.Ðến tuần thứ ba thì có thể dựng cột, trụ, bắt kèo, khung cột, mái chèo.Qua tuần thứ tư, thì xây tường, bắt cửa, đóng cửa sổ, lợp ngói.
Ðó là thứ tự xây nhà: Ta không thể “Cuốc một phát mà đào thành giếng” được.
Không việc gì làm mà thành công tức khắc.Tham thiền hay niệm Phật cũng vậy; học Giáo, tu Mật, tập Luật đều như vậy cả.
Tức là phải hết sức chuyên tâm chú ý.
Tâm phải thành khẩn, đừng tham muốn thứ cao siêu xa vời, đừng nghe người ta nói Mật-tông tốt, thì chạy theo Mật-tông.
Ðừng dại mà mê muội, tới lúc chết vẫn không tỉnh ngộ.
Không chấp nhận những bằng chứng trước mắt, thì thật là mình mê quá độ.
Mật, mật rồi chẳng biết do đâu, bổng chết mất.
Thật là bí mật.
Do đó mật thì đúng là mê.
(Hai chữ này, tiếng Tàu phát âm giống nhau) Ủ Hết sức mê muội.Quý-vị học Phật cần phải nghiên cứu chân lý đừng nên nghe theo một cách mù quáng.
Mình cần phải: “Thân cận hữu đức, viễn ly hương nhân.” Nghĩa rằng cần phải gần gũi những bậc đức độ và xa lánh những kẻ tà ác.
Kẻ xấu ác là thứ chuyên lừa người.
Người có đức độ thì không gạt ai cả.
Kẻ vô đức thì luôn dùng những thủ đoạn xảo trá; thì làm sao có đức được.
Chỉ có những ai không lừa bịp thì càng ngày công đức càng nhiều; lúc đó đức hạnh mới tồn tại được.
Quý-vị phải quan sát và phán xét người khác ở khía cạnh nầy.
Ðừng nhìn vẻ bên ngoài mà nói rằng: “Ôi! Tôi thấy anh chàng đó rất đức độ, thật là một vị thiện-tri-thức.” Thực ra chẳng xác thực, bởi vì quý-vị phải rõ thân thế anh chàng đó ra sao? Hiểu rõ thì mới đáng kể.Trong thời mạt pháp con người đều phạm chứng bệnh thông thường là hay nói những chuyện xa vời, lấy lỗ tai thay cho con mắt, nghe người khác nói tốt là chạy theo liền.
Chạy theo như vậy tốt xấu thế nào không cần biết, thậm chí bị người ta lừa mà vẫn chưa tỉnh ngộ.
Học theo những điều mê tín tài sắc, phong thủy, bói toán, đều là những thứ hết sức đáng thương xót.Hôm nay tôi đọc báo thấy ở tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa Ðại Lục, có sáu đứa trẻ, trốn ra biển tự sát để thành tiên.
Ðó là lý do gì? Là bởi vì do những thứ tà thuyết làm mê hoặc lòng người.
Họ nói rằng nếu ai làm ác thì thành quỷ, làm tốt thì thành thần, thành tiên.
Thế nào là chuyện tốt? Là đừng có sợ chết.
Bởi vì ở nơi thôn xóm xa xăm, nhiều đứa trẻ rất là chân thật, chất phát, nên nghe thế chúng tin ngay.
Tin là người tốt thì không sợ chết, mà khi chết có thể thành tiên, nên sáu đứa trẻ nầy tự sát tập thể để mong thành tiên.
Chúng nghĩ rằng “Hồi xưa có tám ông tiên, đại khái là do tự sát tập thể.
Nay mình cần phải tự sát tập thể để thành sáu ông tiên, khỏi bị trôi trong lục đạo luân hồi.” Cho nên chúng tự sát tập thể để thành tiên.Chúng nó có thể thành tiên hay không? Tôi có thể chứng minh rằng chúng chẳng thành tiên.
Tại sao chúng chẳng thành tiên? Bởi vì chúng hết sức si mê.
Người thành tiên rất thông minh chẳng ngu si.
Chẳng vị tiên nào không hiểu chân lý, không biết phải trái đúng sai.
Làm thế nào chúng đồng thời tự sát như thế để thành tiên? Nếu như thành tiên quá dễ dàng như vậy thì sao đại chúng không mau tự sát để thành tiên cho rồi.
Ðây là chuyện không thể có được.
Những người nhà quê đó hết sức là đáng thương.
Ðui mù tin theo tà thuyết khiến bọn trẻ chết oan uổng.
Ðây là chuyện thật đáng thương xót.Bây giờ lại hỏi rằng vì sao mấy đứa nhỏ không sợ chết, lại muốn thành tiên? Là vì hoàn cảnh bức bách mà thành.
Thấy rằng đời sống con người cũng không hơn gì cái chết.
Làm người giống như khúc thịt biết đi thì có ý nghĩa gì đâu? Nên mới tìm đường giải thoát: cùng tự sát tập thể.
Sáu đứa trẻ đó viết trên giấy chữ “Tử” ngàn lần như vậy.
Ngày nào cũng viết chữ chết, chết, chết…!Từ sáng đến chiều cứ nghĩ đến chữ chết.
Bởi vậy những đứa trẻ nầy dại dột, bị chuyện mê tín dụ hoặc khiến quên mất hẳn mục tiêu lẫn phương hướng chính đáng.Là Phật-tử, chúng ta không nên mê tín mà phải trừ mê tín.
Thế nào là mê tín? Tức là hồ đồ, nghe theo những điều người ta nói mà không suy xét.
Người ta nói gì mình cũng tin cả, tin một cách mơ hồ, nên gọi là mê tín.
Mê tín chưa phải đáng sợ, đáng sợ nhất là tin cái điều mê, tin thứ ngoại đạo điên đảo.
Có những người tự cho mình là thông minh, song điều chánh thì không tin mà gặp điều giả là tin ngay, đó là mê trong mê.
Họ không nhận thức được chân lý, đem điều chân thật cho là giả dối, đem điều giả dối cho là chân thật.
Cũng như sáu đứa trẻ đó, vốn muốn chết để thành tiên.
Ðó là một phương pháp để lừa gạt người nhưng sáu đứa trẻ đó lại tin theo.
Nếu dạy chúng rằng tu hành mới thành tiên, e rằng chúng nó chẳng tin.
Bởi vậy trên thế giới rất nhiều kẻ đáng thương xót và vô số những chuyện đáng tiếc.
Một lời khó diễn bày hết được.Giảng tối ngày 28 tháng 11, năm 1982.