Kafka bên bờ biển

Chương 21-22


Bạn đang đọc Kafka bên bờ biển: Chương 21-22


Chương 21
ĐIÊU KHẮC GIA KOICHI TAMURA BỊ ĐM CHẾT
(Được phát hiện trên sàn xưởng tượng, giữa một vũng máu)
Chiều ngày 30, người ta tìm thấy nhà điêu khắc nổi tiếng thế giới Koichi Tamura chết tại nhà mình ở Nogata, quận Nakano. Người phát hiện ra thi thể ông là một bà giúp việc. Ông Tamura được tìm thấy trong tư thế nằm sấp, trần truồng, mình đầy máu. Có những dấu hiệu vật lộn và người ta cho rằng đây là một vụ án mạng. Hung khí, được tìm thấy bên cạnh xác chết, là một con dao bếp.
Cảnh sát ước đoán thời gian chết là tối 28 và vì ông Tamura sống một mình nên mãi đến hai hôm sau, thi thể mới được phát hiện. Ông Tamura bị nhiều vết thương sâu ở ngực do bị đâm bằng con dao nhọn pha thịt và có thể tin rằng ông gần như đã chết ngay vì mất quá nhiều máu từ những vết thương ở tim và phổi. Nhiều xương sườn cũng bị gẫy, có vẻ như do bị những cú đập rất mạnh. Cảnh sát không thông báo gì về việc có tìm thấy dấu tay hay bất cứ vật gì sót lại ở hiện trường hay không. Xem ra cũng không có nhân chứng nào mục kích tội ác.
Vì trong nhà không bị xáo lộn và không có đồ vật đáng giá nào, kể cả một ví tiền nằm gần đó, bị lấy đi, nên cảnh sát cho rằng đây là một cuộc báo thù cá nhân. Nhà ông Tamura ở một khu dân cư yên tĩnh, nhưng không có ai nghe thấy gì vào thời điểm xảy ra vụ án mạng, và những người hàng xóm đều bàng hoàng khi biết tin này. Ông Tamura sống kín đáo, ít có quan hệ với láng giềng, và không ai nhận thấy điều gì khác thường vào quãng thời gian xảy ra sự ện này.
Ông Tamura ở với con trai mười lăm tuổi, nhưng theo bà giúp việc, thì khoảng mươi hôm nay không thấy cậu ta ở nhà. Cậu bé cũng vắng mặt ở trường trung học và cảnh sát đang dò tìm tung tích cậu ta.
Ngoài ra, ông Tamura còn có một văn phòng và một xưởng làm việc ở cạnh nhà [7] và theo cô thư ký của ông ta, thì cho đến trước hôm bị giết, ông ta vẫn đang làm dở một bức tượng mới như bình thường. Vào ngày xảy ra chuyện, cô có việc cần xin ý ến ông, nhưng lần nào gọi điện thoại đến cũng chỉ thấy máy nhắn tự động.
Ông Tamura sinh ở Kokubunji, Tokyo. Ông theo học Khoa Điêu khắc của Trường Đại học Mỹ Thuật Tokyo và từ khi còn là sinh viên đã hoàn thành nhiều tác phẩm cách tân làm xôn xao giới mỹ thuật. Chủ đề chính của ông là tiềm thức con người và những tác phẩm điêu khắc của ông, với một phong cách độc đáo thách thức cái cổ truyền, được hoan nghênh trên trường quốc tế. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông, một xê-ri lớn mang tên “Mê Cung”, với một trí tưởng tượng phóng khoáng, khảo sát cái đẹp và cảm hứng tìm thấy nơóc nghách ngoằn ngoèo của mê cung. Ông hiện là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Đại học Mỹ Thuật và cách đây hai năm, Bảo tàng Mỹ thuật Hiện đại ở New York đã tổ chức một cuộc triển lãm tác phẩm của ông.
Tôi ngừng đọc ở đoạn này. Có một hình chụp cổng trước nhà chúng tôi và một ảnh chân dung cha tôi hồi trẻ, khiến trang báo đượm vẻ thê thảm. Tôi gập đôi tờ báo, đặt lên bàn. Vẫn ngồi trên giường, tôi không nói gì, chỉ ép đầu ngón tay lên mí mắt. Một tiếng thình thịch, theo một nhịp đều đặn, vang rền trong tai tôi. Tôi ráng lắc đầu thật mạnh để xua nó đi mà không được.
Tôi đang ở phòng riêng của mình trong thư viện. Đã bảy giờ tối. Oshima và tôi vừa đóng cửa và cách đây một lúc, Miss Saeki đã lái chiếc Volkswagen Golf về nhà. Giờ chỉ còn tôi và Oshima trong thư viện. Và cái tiếng thình thịch khó chịu ấy trong tai tôi.
“Số báo này cách đây hai hôm rồi. Bài này được đăng khi cậu còn ở căn lều trên núi. Khi mình đọc, mình liền nghĩ có thể ông Koichi Tamura này là cha cậu cũng nên. Rất nhiều chi tiết phù hợp. Lẽ ra mình phải đưa cậu xem từ hôm qua, nhưng mình muốn đợi cho cậu ổn định chỗ ở đã.”
Tôi gật đầu, ngón tay vẫn ép trên mí mắt.
“Em không giết ông, anh biết đấy.”
“Mình biết,” Oshima nói. “Hôm xảy ra vụ án mạng, cậu đang ở thư viện này, đọc đến tận tối. Cậu ắt không đủ thì giờ để quay về Tokyo, giết cha cậu, rồi trở lại Takamatsu. Việc đó là bất khả.”
Nhưng tôi thì không dám chắc thế. Tôi nhẩm tính và thấy ra rằng cha tôi bị giết vào đúng cái đêm tôi tỉnh dậy với chiếc sơ mi đầy máu.
“Nhưng nói là cảnh sát đang ếm tìm cậu với tư cách là một nhân chứng quan trọng.”
Tôi gật đầu.
“Nếu cậu đến gặp cảnh sát và chứng minh cậu có một bằng chứng ngoại phạm vững chắc, thì mọi chuyện sẽ bội phần dễ dàng hơn là cứ vòng vo tránh né họ. Dĩ nhiên, mình sẽ làm chứng cho cậu.”
“Nhưng nếu em làm thế, họ sẽ đưa em trở về Tokyo.”
“Mình chắc thế. Mình muốn nói, dù sao cũng phải học nốt trung học – đó là nghĩa vụ mà. Ở tuổi này, cậu không thể đi bất cứ nơi nào cậu muốn được. Theo đúng luật, cậu vẫn cần có người giám hộ.”
Tôi lắc đầu.
“Em không muốn phải giải thích chuyện gì với bất kỳ ai. Và em không muốn trở về nhà ở Tokyo.”
Im lặng một lúc, Oshima đăm đăm nhìn tôi. “Đó là một điều cậu sẽ phải tự quyết định lấy,” cuối cùng, anh nói, giọng bình tĩnh. “Mình nghĩ cậu có quyền sống theo bất cứ cách nào cậu muốn. Dù cậu mười lăm hay năm mươi tuổi thì có gì quan trọng. Nhưng khốn thay, xã hội lại không đồng ý thế. Vậy cứ cho rằng cậu không muốn giải thích chuyện gì với bất kỳ ai đi. Cậu sẽ luôn luôn phải trốn tránh cảnh sát và xã hội. Cuộc đời cậu sẽ rất gay go. Cậu mới mười lăm tuổi đầu, còn cả cuộc đời ở trước mặt. Cậu thấy thế có ổn không?”
Tôi không nói gì.
Oshima cầm tờ báo lên, đọc lướt lại bài báo một lần nữa. “Theo bài này, cậu là người thân duy nhất của cha cậu.”
“Em có mẹ và một chị gái,” tôi giải thích, “nhưng hai người bỏ nh từ lâu rồi và em không biết hiện họ ở đâu. Ngay cả nếu em biết, thật tình em cũng không chắc họ có về chịu tang hay không.”
“Chà, nếu cậu không ở đó, không biết ai sẽ lo liệu mọi chuyện. Nào là đám tang, nào là công việc làm ăn của cha cậu.”
“Như trong báo nói, cha em có một cô thư ký văn phòng, lo toan mọi sự. Cô biết công việc của ông, nên em tin chắc cô ấy có thể xử lý tốt. Em chẳng muốn gì trong những cái ông để lại cho em. Ngôi nhà, đất đai và mọi thứ khác, họ có thể thanh lý những cái đó theo bất cứ cách nào họ muốn.”
Cái duy nhất tôi thừa kế từ ông mà tôi không thể khước từ, tôi nghĩ thầm, đó là ADN của tôi.
“Hãy cải chính nếu như mình nói sai,” Oshima nói, “nhưng hình như cậu không buồn lắm về chuyện cha cậu bị giết.”
“Không, em có buồn chứ. Dù sao ông cũng là cha em mà. Song điều em thực sự tiếc là ông không chết sớm hơn. Em biết điều này nói ra thật là nh khủng.”
Oshima lắc đầu. “Không sao. Hơn lúc nào hết, cậu có quyền trung thực với chính mình.”
“Vậy, em nghĩ…” Giọng tôi trở nên yếu ớt, thiếu sức thuyết phục. Không biết hướng vào đâu, những lời tôi nói rơi tõm vào khoảng trống. Oshima tiến lại, ngồi xuống cạnh tôi.
“Đủ mọi chuyện đang xảy đến với em,” tôi mở đầu. “Một số do tự em chọn, một số thì không, nhưng giờ em không còn phân biệt rảnh rẽ được nữa. Điều em muốn nói là, dường như là mọi sự đã được định trước – rằng em đang đi theo một con đường do một người nào khác đã vạch sẵn cho em. Cho dù em có cố gắng suy nghĩ đến đâu để hiểu cho ra, cũng vô ích. Trên thực tế, em càng cố, thì lại càng mất đi ý thề bản thân, càng không hiểu mình là ai nữa. Cứ như em đang chệch xa khỏi quĩ-đạo-bản-ngã của mình và điều đó thật sự là đau đớn. Hơn thế nữa, nó còn làm em sợ. Mới chỉ nghĩ đến đã thấy chợn.”
Oshima đặt tay lên vai tôi và tôi cảm thấy hơi ấm của bàn tay ấy. “Cứ cho là tất cả những lựa chọn, tất cả những cố gắng của em đều phí hoài đi nữa, thì em vẫn là em, chứ không phải bất kỳ ai khác. Và em đang tiến tới với tư cách là bản thân mình. Vậy nên hãy vô tư đi.”
Tôi ngẩng đầu lên nhìn anh. Giọng anh thật thuyết phục. “Tại sao anh nghĩ thế?”
“Bởi vì trong đó có yếu tố mỉa mai.”
“Mỉa mai?”
Oshima nhìn sâu vào mắt tôi. “Nghe này, Kafka. Những gì em đang trải qua đều là môtíp của nhiều bi kịch Hy Lạp. Con người ta không chọn số phận, mà số phận chọn con người. Đó là thế giới quan cơ bản của kịch Hy Lạp. Và chất bi kịch – theo Aristotle – mỉa mai thay, lại không bắt nguồn từ những nhược điểm của các nhân vật chính, mà từ những phẩm chất tốt của họ. Em có hiểu anh muốn nói gì không? Người ta bị kéo sâu vào bi kịch không phải bởi những khuyết điểm mà bởi những đức tính của mình. Vở Oedipus làm vua của Sophocles là một thí dụ lớn. Oedipus ngụp vào bi kịch không phải vì chàng lười biếng hay ngu ngốc, mà chính vì lòng dũng cảm và trung thực của chàng. Từ đó nảy ra một chất mỉa mai tất yếu.”
“Vậy là tình thế không lối thoát.”
“Cái đó còn tùy,” Oshima nói. “Đôi khi là thế đấy. Nhưng sự mỉa mai làm cho con người sâu sắc hơn, giúp họ trưởng thành. Đó là cửa vào sự cứu rỗi ở một bình diện cao hơn, vào một nơi ta có thể tìm thấy một thứ hy vọng phổ quát hơn. Vì thế bây giờ, người ta vẫn thích đọc bi kịch Hy Lạp, vì thế mà nó vẫn được coi là nh điển mẫu gốc. Mình đang tự lặp lại, nhưng quả vậy, mọi thứ trên đời đều là ẩn dụ. Thực tế, người ta không giết cha mình và ngủ với mẹ mình, phải không nào? Nói cách khác, chúng ta chấp nhận sự mỉa mai thông qua một thủ pháp gọi là ẩn dụ. Và qua đó, chúng ta trưởng thành và trở nên những con người sâu sắc hơn.”
Tôi không nói gì. Tôi đang quá mải suy nghĩ về tình thế của chính mình.
“Có bao nhiêu người biết em đang ở Takamatsu?” Oshima hỏi.
Tôi lắc đầu. “Em đến đây là tự ý mình, nên em nghĩ chẳng ai khác biết được.”
“Vậy thì tốt nhất là em cứ tạm ẩn ở thư viện một thời gian. Đừng ra làm việc ở khu tiếp tân. Anh không tin là cảnh sát có thể mò ra dấu tích của em, nhưng nếu tình hình gay go, em vẫn có thể trốn về căn nhà gỗ ở Kochi.”
Tôi nhìn Oshima. “Nếu em không gặp anh thì không biết em sẽ xoay xở ra sao. Chẳng có ai khác có thể giúp em.”
Oshima mỉm cười. Anh cất tay khỏi vai tôi và đăm đăm nhìn vào bàn tay ấy. “Cái đó không đúng. Mình dám chắc rằng nếu không gặp mình, cậu sẽ tìm thấy một đường đi khác. Mình không biết tại sao, nhưng mình tin chắc vậy. Mình thực sự cảm thấy như thế về cậu.” Anh đứng dậy, đến bàn giấy cầm một tờ báo khác mang lại cho tôi “Tiện thể, bài này đăng trong số ra hôm a. Mình nhớ kỹ vì chuyện này thật dị thường. Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng nó diễn ra ở gần nhà cậu.”
MƯA CÁ
2.000 cá mòi và cá thu từ trên trời rơi xuống

khu buôn bán Quận Nakano
Khoảng 6 giờ tối hôm 29, cư dân khối X quận Nakano bàng hoàng khi 2.000 con cá mòi và cá thu từ trên trời trút xuống như mưa. Hai bà nội trợ đang mua hàng ở chợ đã bị thương nhẹ ở mặt bởi cá rơi sượt qua, ngoài ra không ai khác bị tổn thương nặng. Vào lúc xảy ra sự kiện này, trời đang nắng, quang mây, lặng gió. Phần lớn cá đều còn sống, giãy đành đạch trên đường.
Tôi đọc xong đoạn tin và đưa trả tờ báo cho Oshima. Phóng viên đưa ra một số suy đoán có thể là nguyên nhân gây ra sự ện nhưng tất cả đều thiếu sức thuyết phục. Cảnh sát điều tra theo hướng liên quan đến trộm cắp hoặc có kẻ đùa dai. Nha Khí tượng thông báo hiện không có bất cứ điều ện khí quyển nào có thể dẫn đến một cơn mưa cả. Còn người phát ngôn của Bộ Nông-Lâm-Ngư nghiệp thì vấn chưa bình luận gì.
“Cậu có nghĩ ra tại sao lại xảy ra chuyện lạ ấy không?” Oshima hỏi tôi.
Tôi lắc đầu. Chịu.
“Ngay hôm sau ngày cha cậu bị giết, gần nơi xảy ra vụ án mạng, hai nghìn cá mòi và cá thu rơi từ trên trời xuống. Chỉ là sự trùng hợp thôi ư?”
“Em chắc thế.”
“Báo còn đăng tin là cùng ngày hôm ấy, ở khu nghỉ chân Fujigawa trên xa lộ Tomei, giữa đêm khuya, một đống đỉa đã từ trên trời ụp xuống một khoảng nhỏ hẹp, gây ra mấy vụ đụng xe nhẹ. Nghe nói đỉa rất lớn. Không ai giải thích được tại sao lại có cơn mưa đỉa đó. Đó là một đêm sáng trời, quang mây. Cả vụ này, cậu cũng không hiểu
Một lần nữa tôi lại lắc đầu.
Oshima gập tờ báo lại và nói “Có nghĩa chúng ta đứng trước một thực tế: một chuỗi sự ện kỳ lạ, không thể giải thích được đang nối tiếp nhau diễn ra. Có thể đó chỉ là một loạt những trùng hợp, nhưng nó vẫn khiến mình thắc mắc. Ở đây có một cái gì mình không nêu ra cụ thể được.”
“Có thể đó là một ẩn dụ chăng?” tôi đánh bạo gợi ý.
“Cũng có thể… Nhưng mưa cá mòi và cá thu, mưa đỉa là cái thứ ẩn dụ ám chỉ gì chứ?”
Trong im lặng, tôi cố tìm cách diễn đạt thành lời cái điều mà bao lâu nay tôi không nói ra được. “Anh biết không? Mấy năm trước đây, cha em có một lời tiên đoán về em.”
“Một lời tiên đoán?”
“Điều này, em chưa từng nói với ai bao giờ. Em nghĩ hẳn sẽ chả ai tin em.”
Oshima không nói gì. Tuy nhiên, sự im lặng của anh lại động viên tôi.
“Một lời nguyền rủa thì đúng hơn là một tiên đoán. Cha em nhắc đi nhắc lại với em điều đó không biết bao nhiêu lần. Như thể ông muốn khắc từng chữ vào óc em vậy.” Tôi hít một hơi thật sâu và ôn lại lần nữa những gì tôi cần nói ra. Thực ra tôi đâu cần phải ôn lại – bao giờ nó chả ở đấy, ong ong trong đầu tôi, cho dù tôi có ểm tra lại hay không. Nhưng tôi cần phải cân nhắc từng chữ một lần nữa. Và đây là điều tôi nói: “Một ngày a, mày sẽ giết cha mày và ngủ với mẹ mày, cha em nói thế đấy.”
Một khi đã nói ra, diễn đạt cái ý đó thành lời cụ thể, tôi bỗng cảm thấy lòng mình trống huơ trống hoác. Và bên trong cái khoảng trống đó, tim tôi đập rộn với một âm thanh m khí và rỗng.
Sắc mặt không chút thay đổi, Oshima nhìn tôi hồi lâu.
“Vậy là ông nói một ngày nào đó, chính tay cậu sẽ giết cha và ngủ với mẹ.”
Tôi gật lia lịa.
“Y hệt lời tiên đoán với Oedipus. Mình nghĩ cậu biết chứ?”
Tôi gật đầu. “Nhưng chưa hết. Ông còn đưa thêm vào đó một chi tiết phụ. Em có một chị gái hơn em sáu tuổi và cha em nói em sẽ ngủ với cả chị ấy.”
“Cha cậu nói với cậu thế thật sao?”
“Vâng. Dạo ấy, em còn đang học cấp một và còn chưa hiểu ra từ “ngủ” đó nghĩa là thế nào. Mãi đến mấy năm sau, em mới vỡ ra.”
Oshima không nói gì.
“Cha em bảo không cách chi em thoát được cái mệnh đó. Lời tiên đoán đó giống như một cơ chế định giờ được gá trong gien của em và không có gì có thể hóa giải được. Em sẽ phải giết cha em và ngủ với cả mẹ em lẫn chị em.”
Oshima vẫn lặng thinh một lúc nữa như thể đang tra vấn, xem xét từng chữ một trong những lời tôi vừa nói để tìm ra đầu mối dẫn tới chìa khoá của điều bí hiểm này. “Tại sao cha cậu lại đi nói với cậu một điều gớm ghiếc như thế cơ chứ?” cuối cùng anh hỏi.
“Em không biết. Ông không hề giải thích thêm,” tôi lắc đầu nói. “Có thể ông muốn trả thù vợ và con gái đã bông. Muốn trừng phạt họ, chắc thế. Thông qua em.”
“Dù như thế có nghĩa là làm cậu tổn thương?”
Tôi gật đầu. “Đối với cha em, có lẽ em chả hơn gì một bức tượng của ông ấy. Một thứ mà ông ấy có thể tạo ra hay đập vỡ tùy theo ông thấy có thích hợp hay không.”
“Thật lả một cách nghĩ kỳ quái,” Oshima nói.
“Ở nhà chúng em, mọi thứ đều kỳ quái. Và khi mà mọi thứ đều kỳ quái, thì rốt cuộc, cái gì bình thường đâm ra có vẻ quái dị. Em đã biết điều đó từ lâu, nhưng em chỉ là một đứa bé. Em còn biết đi đâu khác?”
“Mình đã được xem tác phẩm của cha cậu một số lần,” Oshima nói. “Ông là một điêu khắc gia tuyệt vời. Tượng của ông độc đáo, khiêu khích, đầy uy lực. Không thỏa hiệp, mình muốn dùng chữ ấy. Rành là nghệ thuật đích thực.”
“Có thể là thé. Nhưng những đầu thừa đuôi thẹo sót lại từ những sáng tác ấy, ông rải ra khắp nhà như một thứ thuốc độc, không trốn đâu cho thoát được. Cha em làm ô nhiễm tất cả những gì ông đụng vào, làm tổn thương tất cả những ai ở quanh ông. Em không biết có phải ông cố tình làm thế hay không. Có thể là ông phải làm thế. Có thể đó là một phần bản chất của ông. Dù sao mặc lòng, em vẫn có cảm giác là ông gắn bó với một cái gì rất khác thường. Anh có hiểu em muốn nói gì không?”
“Mình nghĩ là có,” Oshima nói. “Một cái gì vượt khỏi phạm vi cái thiện và cái ác. Có thể gọi nó là nguồn sức mạnh.”
“Và cái đó chiếm nửa phần gien của em. Có lẽ vì thế mà mẹ em bỏ em lại. Có thể bà muốn đoạn tuyệt với em vì em sinh ra từ cái nguồn dễ sợ ấy. Vì em đãị ô nhiễm.”
Oshima khẽ ấn đầu ngón tay vào thái dương, ngẫm nghĩ. Anh lim dim mắt nhìn tôi. “Liệu có khả năng ông ấy không phải là cha đẻ của cậu không?”
Tôi lắc đầu. “Cách đây mấy năm, cha con em đã làm xét nghiệm ở một bệnh viện. Người ta đã lấy mẫu máu hai cha con để ểm tra ADN. Không thể nghi ngờ về điểm này – trăm phần trăm, đó là cha sinh học của em. Họ đã cho em xem kết quả xét nghiệm.”
“Ông ấy quả là rất cẩn thận.”
“Em đồ rằng ông ấy muốn em biết mình là một trong những tác phẩm do ông sáng tạo. Một cái gì ông đã hoàn thành và ký tên.”
Những ngón tay của Oshima vẫn áp trên tháidương. “Nhưng lời tiên đoán của cha cậu vẫn chưa ứng nghiệm, phải không nào? Cậu không giết cha cậu. Khi điều đó xảy ra, cậu đang ở đây, tại Takamatsu. Một kẻ khác đã giết ông ở Tokyo.”
Tôi lặng lẽ xòe hai bàn tay ra trước mặt và nhìn trân trân vào đó. Đôi bày tay đã dính đầy máu trong đêm tối. “Về điểm này, em không dám chắc lắm,” tôi nói với anh.
Và tôi lần lượt kể cho anh nghe tất cả. Chuyện tôi bị bất tỉnh trên đường về khách sạn. Chuyện tôi tỉnh lại trong khu rừng đằng sau miếu thờ, và chiếc sơ mi đẫm máu ai đó. Chuyện gột máu trong nhà vệ sinh. Cả việc mấy giờ liền bị xóa hẳn trong trí nhớ của tôi. Để khỏi mất thì giờ tôi bỏ qua đoạn tôi qua đêm ở chỗ Sakura. Oshima thỉnh thoảng hỏi một đôi câu và sắp xếp các chi tiết vào bộ nhớ trong đầu. Nhưng anh không phát biểu ý ến gì.
“Em không hiểu làm sao người em lại đầy máu như thế, mà cũng chẳng biết là máu của ai nữa. Quãng thời gian ấy là một khoảng trống,” tôi nói. “Nhưng có thể em đã giết cha em bằng chính tay mình, chứ không phải theo nghĩa ẩn dụ. Em thật sự có cảm giác là mình đã làm việc đó. Như anh đã nói, hôm ấy em ở Takamatsu – rành là em không đi Tokyo. Nhưng trách nhiệm bắt đầu từ trong mơ, phải không nào?”
Oshima gật đầu. “Thơ của Yeats.”
“Vậy có thể em đã giết cha em qua một giấc mơ,” tôi nói. “Có thể em đã đi đến Tokyo thông qua kênh đặc biệt của chiêm bao và đã giết ông.”
“Đó là cảm nghĩ của cậu và cậu cho đó là thật, nhưng sẽ không có ai thẩm vấn cậu về trách nhiệm trong mơ đâu. Chắc chắn cảnh sát sẽ không làm thế. Không ai có thể ở hai nơi cùng một lúc. Đó là một sự thật khoa học đã được Einstein chứng minh và pháp luật chấp nhận nguyên lý ấy.”
“Nhưng em đâu có nói chuyện khoa học hay pháp luật ở đây.”
“Kafka,” Oshima. “điều cậu nói chỉ là một giả thuyết. Một giả thuyết táo bạo và siêu thực đáng được chuyển thành kịch bản phim khoa học viễn tưởng.”
“Tất nhiên, đó chỉ là giả thuyết. Em biết thế. Em nghĩ chắc chẳng ai tin nổi một điều ngớ ngẩn đến như vậy. Nhưng sinh thời, cha em thường nói không có phản chứng nhằm bác bỏ một lý thuyết, thì khoa học sẽ không bao giờ tiến bộ. Lý thuyết là một bãi chiến trường trong đầu, đó là câu ưa thích của ông. Và ngay lúc này, em không thể nghĩ ra phản chứng nào để bác bỏ giả thuyết của mình.”

Oshima im lặng. Và tôi thì không nghĩ ra điều gì khác để nói.
“Dù sao đi nữa,” cuối cùng Oshima nói, “chính vì thế mà cậu bỏ nhà đến Shikoku. Để trốn khỏi lời nguyền của cha cậu.”
Tôi gật đầu và chỉ tờ báo gập tư. “Nhưng xem chừng chẳng có cách nào trốn thoát.”
Khoảng cách sẽ không giải quyết được gì hết, cái thằng tên Quạ nói thế.
“Vậy rành là cậu cần một nơi ẩn náu,” Oshima nói: “Ngoài ra, mình chả còn biết nói gì hơn.”
Tôi chợt nhận ra mình mệt biết bao. Tôi ngả người dựa vào Oshima và anh quàng tay ôm vai tôi.
Tôi gục mặt vào bộ ngực phẳng của anh. “Oshima, em không muốn làm những điều đó. Em không muốn giết cha em. Hoặc ngủ với mẹ em và chị gái em.”
“Dĩ nhiên là thế,” anh đáp, đưa tay vuốt mái tóc húi cua ngắn của tôi. “Làm sao em có thể muốn vậy được?”
“Kể cả trong mơ cũng không.”
“Cũng như trong ẩn dụ,” Oshima nối lời. “Hay trong ngụ ngôn, hay một tương suy.” Anh dừng một lát rồi tiếp. “Nếu em không phiền, anh sẽ ở lại với em đêm nay. Anh có thể ngủ trên ghế.”
Nhưng tôi khước từ. Tôi bảo anh là tôi muốn được một mình.
Oshima vuốt lại mớ tóc rủ xuống trán. Sau một chút do dự, anh nói, “Mình biết mình chỉ là một con ái nam ái nữ rách nát vô vọng và nếu đó là điều làm cậu e ngại thì…”
“Không,” tôi nói, “tuyệt nhiên không phải thế. Em chỉ cần được một mình ít lâu để suy nghĩ thôi. Quá nhiều điều đã xảy ra cùng một lúc. Có vậy thôi.”
Oshima ghi một số điện thoại trên một tập giấy nhắn. “Nửa đêm, nếu cậu cảm thấy muốn trò chuyện với ai, thì gọi số này. Đừng ngần ngại nhé. Mình tỉnh ngủ lắm.”
Tôi cảm ơn anh.
Đêm ấy, tôi đã thấy một con ma.
Chương 22
Chiếc xe tải cho Nakata quá giang tới Kobe, ngay sau năm giờ sáng. Ngoài trời đã sáng, nhưng nhà kho vẫn đóng cửa nên chưa thể dỡ hàng được. Họ đậu xe trong một con phố rộng gần cảng và ngủ đỡ một giấc. Gã tài xế trẻ nằm dài trên ghế sau, nơi gã vẫn thường ngả lưng, và chẳng mấy chốc đã ngáy như sấm. Tiếng ngáy của gã đôi khi làm Nakata thức giấc, song lần nào lão cũng ngủ lại ngon lành. Mất ngủ là một hiện tượng xa lạ đối với Nakata.
Trước tám giờ một chút, gã lái xe ngồi dậy, ngoác miệng ngáp thật to. “Này, ông có đói không, ông nội?”. Gã đang cạo mặt bằng một cái dao cạo điện, dùng kính chiếu hậu làm gương.
“Nhắc đến mới nhớ, phải, Nakata có hơi đói.”
“Vậy ta hãy đi ếm tí gì lót dạ đi.”
Từ lúc rời Fujigawa cho đến lúc tới Kobe, phần lớn thời gian Nakata chỉ ngủ. gã tài xế trẻ hầu như cũng im lặng suốt, chỉ vừa lái vừa nghe một chương trình phát thanh khuya. Thi thoảng, gã hát theo đài những bài Nakata chưa từng nghe bao giờ. Lão thậm chí không chắc những bài đó có phải bằng tiếng Nhật hay không, vì lão hầu như không hiểu lời ca nói gì, họa hoằn mới nghe rõ một chữ. Lão lấy trong túi bố ra gói cơm nắm và sô-cô-la, quà của các cô gái ở Shinjuku, chia cho gã.
Gã này hút thuốc lá liên tục, điếu này nối điếu a, nói rằng điều đó giúp ình tỉnh táo, thành thử khi tới Kobe, quần áo của Nakata đã sực mùi khói thuốc.Tay xách túi và ô, Nakata khệ nệ xuống xe.
“Ông nên để những thứ này trong xe thì hơn,” gã tài nói. “Chúng ta sẽ không đi xa và ăn xong một cái là về ngay thôi mà.”
“Vâng, cậu nói chí phải, cơ mà Nakata này mang nó theo thì yên tâm hơn.”
Gã nhíu mày. “Thế nào cũng được. Mấy lại cháu đâu có phải mang vác nó. Tùy ông thôi.”
“Cám ơn cậu.”
“Tiện thể xin nói để ông biết tên cháu là Hoshino. Viết giống như tên cựu huấn luyện viên của đội Chunichi Dragons ấy. Nhưng cháu không phải là bà con họ hàng gì với ông ta đâu.”
“Cậu Hoshino ư? Rất hân hạnh. Tên lão là Nakata.”
“Cái đó thì cháu biết rồi. Đi nào,” Hoshino nói.
Gã thông thạo khu này và sải bước dọc con phố khiến Nakata gần như phải chạy lon ton mới theo kịp. Cuối cùng họ vào một tiệm ăn nhỏ ở một ngõ hẻm, ngồi cùng các lái xe tải khác và các công nhân bốc dỡ ở bến tàu. Không thấy một chiếc cà vạt nào. Tất cả đều lặng lẽ xúc lấy xúc để món điểm tâm của mình như thể đang đổ đầy bình xăng của xe. Cửa hàng đầy những tiếng thìa bát lách cách, tiếng cô hầu bàn hô truyền xuống nhà bếp tên các món thực khách gọi, tiếng đọc bản tin sáng từ một chiếc tivi đặt trong góc.
Hoshino chỉ tờ thực đơn dán trên tường. “Ông nội thích món gì thì cứ gọi. Ở đây vừa rẻ vừa ngon.”
“Được, Nakata nói và theo lời gã, nhìn trân trân vào bảng thực đơn cho đến khi lão nhớbiết đọc. “Xin lỗi cậu Hoshino, Nakata này không được sáng dạ và không biết đọc.”
“Thật thế không?” Hoshino ngạc nhiên hỏi. “Không biết đọc? Thời buổi này đó là chuyện hiếm. Nhưng không sao. Cháu chọn cá nướng với trứng ốp-lết, ông cũng thế nhé?”
“Nghe hay đấy. Cá nướng với ốp-lết là một trong những món ưa thích của Nakata này.”
“Tốt.”
“Lão cũng rất thích lươn.”
“Thế à? Cháu cũng thích lươn. Nhưng lươn không phải là món lót dạ buổi sáng.”
“Đúng. Mấy lại tối qua, Nakata này vừa ăn lươn rồi, cậu Hagita đã đãi lão.”
“Tốt,” Hoshino lại tán thưởng. “Hai cá nướng với ốp-lết!” gã gọi to cho cô hầu bàn. “Một cho nhiều cơm vào nhé!”
“Hai cá nướng với ốp-lết, một nhiều cơm!” cô hầu bàn lớn tiếng hô truyền vào nhà bếp.
“Không biết đọc có phiền không ông nội?” Hoshino hỏi.
“Có chứ, đôi khi lão đến khổ vì không biết đọc. chừng nào còn ở quận Nakano trong Tokyo thì còn không đến nỗi tệ, nhưng nếu đi đâu khác như bây giờ thì rất gay.”
“Cháu đoán thế. Kobe cách Tokyo xa lắm.”
“Nakata này không biết đâu là Bắc, đâu là Nam, chỉ biết bên nào là trái, bên nào là phải, nên dễ bị lạc lắm. Lão lại không biết mua vé nữa.”
“Thế mà ông đi đến tận đây được, thật không thể tin nổi.”
“Có nhiều người tốt sẵn lòng giúp lão. Cậu cũng ở trong số đó, cậu Hoshino. Lão không biết cám ơn cậu thế nào cho vừa.”
“Dù sao, không biết đọc cũng thật là gay. Ông cháu tuy lẫn cẫn nhưng vẫn đọc được tốt.”

“Lão thuộc loại đần đặc biệt.”
“Gia đình ông ai cũng thế sao?”
“Không. Anh trai lão là chưởng buồng ở một sở gọi là Itô-tru, còn em trai lão làm việc ở Bộ Xương mại.”
“Oao!” Hoshino nói. “Toàn trí thức cả. Vậy chỉ có mình ông là hơi ‘nghiêng’ thôi à?”
“Phải, chỉ có Nakata này bị tai nạn và không sáng dạ thôi. Vì thế mà mọi người luôn dặn lão đừng có ra ngoài nhiều kẻo gây rắc rối cho anh trai, em trai, cháu trai cháu gái lão.”
“Phải, cháu chắc hầu hết đều thấy bối rối khi có một người như ông thình lình xuất hiện.”
“Những cái đó thì lão không hiểu, nhưng lão biết rằng chừng nào còn ở trong quận Nakano thì lão không lạc. Ngài Tỉnh trưởng giúp đỡ lão và lão hòa hợp với bọn mèo. Mỗi tháng lão cắt tóc một lần và thi thoảng, lão ăn một chầu lươn. Nhưng sau chuyện Johnnie Walker, Nakata này không thể ở lại quận Nakano nữa.”
“Johnnie Walker?”
“Phải. Hắn ta đi ủng, đội một cái mũ đen cao thành, mặc áo đuôi tôm và cầm can. Hắn ta bắt mèo gom lại để lấy hồn bọn nó.”
“Thôi nào…” Hoshino nói. “Cháu nghe kể lể dài dòng sốt ruột lắm. tóm lại, đã xảy ra chuyện gì khiến ông phải bỏ Nakano mà đ
“Đúng. Lão đi khỏi Nakano.”
“Vậy ông đi đâu?”
“Nakata chưa biết. Nhưng sau khi tới đây, lão biết là phải qua một cái cầu. Một cái cầu lớn gần đây.”
“À, vậy ông đi Shikoku.”
“Cậu Hoshino, lão xin lỗi, lão mù tịt về địa lý. Đi qua cầu là đến Shikoku à?”
“Phải. Nếu ông nói cây cầu to gần đây, thì đó là cầu ra đảo Shikoku. Thực ra là có những ba cái cơ. Một cái từ Kobe qua đảo Awaji dẫn đến Tokushima. Một cái ở mé dưới Kurashi bắc sang Sakaide. Và một cái nữa nối Onomichi với Imabari. Kể ra chỉ một cây cầu cũng đủ chán, cơ mà các nhà chính trị cứ chõ mũi vào, thành thử có những ba cái. Thật điển hình là những dự án lấy tiền Nhà nước để giành phiếu bầu!”
Hoshino đổ chút xíu nước lên mặt bàn bằng nhựa, lấy đầu ngón tay vẽ phác bản đồ Nhật Bản, chỉ ba cây cầu nối Honshu với Shikoku.
“Ba cái cầu ấy có to thật không?” Nakata hỏi.
“To tổ bố.”
“Thật à? Dù sao Nakata này cũng sẽ đi qua một cái. Có lẽ là cái nào gần nhất. Sau đó, lão sẽ nghĩ ra phải làm gì.”
“Có nghĩa là ông không có bạn bè, bà con gì ở nơi ông đang nhằm đến?”
“Không, Nakata này chẳng quen biết ai ở đó cả.”
“Ông chỉ qua cầu đến Shikoku rồi lại đi tiếp đến một n?”
“Đúng thế.”
“Và ông không biết nơi khác đó là ở đâu?”
“Hoàn toàn không. Cơ mà cứ đến đó rồi khắc biết, lão nghĩ thế.”
“Chu cha!” Hoshino nói. Gã vuốt tóc, chỉnh lại cái bím đuôi ngựa rồi đội chiếc mũ cầu thủ Chunichi Dragons lên đầu.
Thức ăn bưng ra, họ bắt đầu ăn.
“Ốp-lết ngon đấy chứ ông?” Hoshino hỏi.
“Vâng, rất ngon. Vị của nó khác với món ốp-lết lão vẫn ăn ở Nakano.”
“Là vì nó được làm theo ểu Kansai. Khác hẳn cái thứ bèn bẹt vô vị giả danh ốp-lết ở Tokyo.”
Hai người lặng lẽ thưởng thức bữa sáng gồm có ốp-lết, cá thu muối nướng, xúp trai miso, củ cải đỏ ngâm, rau dền ướp gia vị, rong biển. vét sạch không sót một hạt cơm. Nakata nhai thật kỹ, mỗi miếng đúng ba mươi hai lần trước khi nuốt, thành thử khá lâu mới xong bữa.
“Đủ chưa, ông nội Nakata?”
“Đã đời. Còn cậu thế nào, cậu Hoshino?”
“Cả cháu cũng no căng. Đả một bữa điểm tâm ngon lành như thế này, tinh thần lên phơi phới, phải không ông?”
“Phải, nhất định rồi.”
“Thế nào? Có toa-lét cái không?”
“Cậu nhắc, lão mới thấy mót.
“Vậy thì đi đi. Nhà vệ sinh đằng a kìa.”
“Còn cậu, cậu Hoshino?”
“Cháu đi sau. Cháu nhẩn nha tí đã.”
“Cám ơn. Nakata này đi tháo bụng một cái đây.”
“Này, đừng nói to thế. Mọi người còn đang ăn a kìa.”
“Xin lỗi, Nakata này chẳng sáng dạ tí nào.”
“Không sao. Ông cứ đi đi.”
“Tiện thể, lão đánh răng luôn, có được không?”
“Được. Ông đi đi. Chúng ta còn thời gian mà. Ông muốn làm gì thì làm. Cơ mà cháu nghĩ ông chẳng cần mang cái ô này theo làm gì. Ông chỉ đi cầu thôi mà, phải không nào?”
“Thôi được. Lão để cái ô này lại.”
Khi Nakata quay về, Hoshino đã thanh toán xong xuôi.
“Cậu Hoshino, lão có tiền mà, chí ít cũng xin cậu để lão trả bữa điểm tâm này.”
Hoshino lắc đầu. “Có gì đâu, cháu còn nợ ông khối. Hồi ấy cháu phá lắm.”
“Lão hiểu. Cơ mà lão đâu phải là ông của cậu.”
“Đó là vấn đề của cháu, vậy nên ông đừng băn khoăn. Không tranh cãi nữa, được không? Cứ để cháu đãi ông.”
Nghĩ một lúc, Nakata quyết định chấp nhận lòng hào hiệp của gã lái xe. “Vậy thì cám ơn cậu nhiều. Quả là một bữa ăn tuyệt vời.”
“Dào, có mấy miếng cá thu với ốp-lết ở một tiệm ăn ba xu ấy mà. Đâu cần phải cúi đầu cảm ơn thế.”
“Cơ mà cậu biết đấy, cậu Hoshino, từ khi Nakata này rời Nakano, ai ai cũng đầy hảo tâm với lão đến nỗi lão hầu như chưa phải tiêu đồng nào.”
“Tuyệt,” Hoshino nói, thán phục.
Nakata nhờ một cô hầu bàn rót đầy trà nóng vào chiếc phích nhỏ của mình rồi thận trọng đặt nó trở lại trong túi bố. Quay trở về chỗ đậu xe, Hoshino hỏi, “Vậy còn chuyện đi Shikoku thế nào?”
“Dạ?” Nakata nói.

“Tại sao ông muốn đến đó?”
“Lão không biết.”
“Ông không có mục đích cụ thể, thậm chí không biết mình đến đâu, vậy mà ông vẫn muốn đi Shikoku?”
“Đúng thế. Nakata này phải đi qua một cây cầu to.”
“Sự thể sẽ sáng tỏ hơn khi ông sang đến bờ bên a, phải không?”
“Lão nghĩ vậy. Chừng nào chưa qua cầu, lão còn chưa biết gì hết.”
“Hmm,” Hoshino nói. “Vậy việc qua cầu là rất quan trọng.”
“Phải, việc đó quan trọng hơn bất cứ cái gì.”
“Đến là lạ,” Hoshino vừa nói vừa gãi đầu.
Vì phải lái xe đến kho để giao lô hàng đồ gỗ, Hoshino bảo Nakata cờ gã ở một công viên nhỏ gần cảng.
“Ông chớ có đi khỏi đây nhé!” Hoshino dặn. “Có một nhà vệ sinh ở đằng a và một vòi nước. Ông đã có mọi thứ ông cần. Ông mà lang thang đâu đó thì có thể không tìm thấy đường về đâu.”
“Lão hiểu. Lão không còn ở trong quận Nakano nữa.”
“Chính xác. Đây không phải là Nakano. Vậy hãy ngồi yên, cháu sẽ quay về rất sớm thôi.”
“Được. Lão sẽ ở nguyên đây.”
“Tốt. Giao hàng xong một cái là cháu sẽ về ngay.”
Nakata y theo lời dặn, không rời khỏi ghế, thậm chí đi vệ sinh cũng không. lão thấy việc ngồi gí một chỗ hồi lâu chả khó khăn gì. Thực tế, ngồi yên chính là chuyên môn của lão.
Từ chỗ lão ngồi, có thể thấy biển. Đã rất lâu rồi, lão không thấy biển. Hồi nhỏ, Nakata đã cùng gia đình đi nghỉ ở bờ biển bao lần, mặc quần bơi, vùng vẫy ở quanh bờ, lượm vỏ ốc khi nước triều xuống. Những kỷ niệm ấy nay đã nhạt nhòa, như chuyện xảy ra từ ếp trước. Từ đó đến nay, lão chưa một lần thấy lại biển, ít nhất thì theo trí nhớ của lão.
Sau cái sự ện kỳ lạ trên đồi Yamanashi, Nakata trở lại trường ở Tokyo. Cậu bé giờ đây đã bình phục về mặt thể chất, ý thức đã trở lại, nhưng bộ nhớ đã bị xóa sạch, không bao giờ phục hồi được khả năng đọc và viết nữa. Vì không đọc được sách giáo khoa, cậu không thể qua được bất kỳ đợt trắc nghiệm nào. Tất cả ến thức học được cho tới khi đó đều tan biến cũng như khả năng suy nghĩ trừu tượng. Tuy nhiên, nhà trường vẫn để cậu học đến hết cấp. Không theo dõi được những gì cô giáo giảng, cậu ngồi lặng lẽ ở một góc trong lớp. Khi cô giáo bảo làm gì, Nakata tuân thủ triệt để lời cô dặn đến từng chữ. Cậu không làm rầy ai, nên các thầy cô có khuynh hướng quên hẳn sự hiện diện của cậu. Cậu giống một vị “khách” dự thính hơn là một gánh nặng.
Chẳng bao lâu, người ta đâm quên rằng trước khi xảy ra tai nạn, cậu luôn luôn được điểm cao trong lớp. Nhưng giờ đây mọi hoạt động của trường đều không có cậu tham gia. Cậu không có bạn. Tuy nhiên, tất cả những cái đó không làm cậu buồn phiền. Thui thủi một mình có nghĩa là tha hồ chìm đắm trong thế giới riêng nhỏ bé của mình. Điều cuốn hút cậu nhất ở trường là chăm sóc đàn thỏ và dê của nhà trường, tưới tỉa các vạt hoa và quét dọn lớp. Một nụ cười luôn luôn nở trên môi, cậu làm những công việc đó không bao giờ biết mệt.
Cả ở nhà, cậu cũng bị quên đứt. Một khi biết rằng đứa con trai đầu của mình mất khả năng đọc chữ và không theo được bài giảng ở lớp, cha mẹ Nakata – vốn chỉ tập trung toàn tâm toàn ý vào việc học của con cái – liền bỏ rơi cậu và chuyển sự chú ý sang những đứa em. Không thể học tiếp lên trung học, cho nên vừa hết cấp sơ học, Nakata liền bị gửi về quê ngoại, tỉnh Nagano, ở với ông bà ngoại. Tại đây, cậu được đưa vào một trường nông nghiệp. Vì vẫn không biết đọc, cậu học rất vất vả, nhưng cậu yêu thích công việc đồng áng. Thậm chí lẽ ra cậu đã có thể trở thành một nông dân nếu như các bạn cùng lớp không hành hạ cậu đến thế. Chúng gây cho cậu những vết thương nặng (có lần rách cả tai) đến nỗi ông bà ngoại phải rút cậu khỏi trường và giữ cậu ở nhà để giúp công việc nhà. Nakata là một chú bé lặng lẽ, vâng lời, được ông bà ngoại rất thương yêu.
Chính vào thời gian này, cậu đã phát hiện ra là mình có khả năng nói chuyện với mèo. Ông bà cậu có nuôi mấy con mèo trong nhà và Nakata trở thành bạn thân của chúng. Thoạt đầu, cậu chỉ nói được một số từ, nhưng rồi cậu cố gắng trau dồi như thể học ngoại ngữ và chẳng bao lâu đã có thể nói chuyện dài dài với chúng. Hễ rảnh rỗi là cậu lại ra ngồi ngoài hiên, trò chuyện với mèo. Chúng dạy cho cậu nhiều điều về thiên nhiên và thế giới xung quanh. Thực tế, hầu hết những ến thức cơ bản về thế giới mà Nakata nắm được là do các bạn mèo của cậu dạy.
Năm mười lăm tuổi, cậu được gửi đến một công ty đồ gỗ gần nhà để học việc. Đó là một xưởng nhỏ chế tác các đồ gỗ thủ công thì đúng hơn một nhà máy. Bàn, ghế và tủ làm ra được chở bằng đường thủy đến Tokyo. Nakata đâm yêu công việc làm gỗ. Ông chủ rất mến cậu vì cậu rất khéo tay, không bao giờ bỏ sót một chi tiết nhỏ nào, tính tình trầm lặng ít nói và tuyệt không bao giờ kêu ca phàn nàn. Đọc bản vẽ hay bổ sung con số không phải là thế mạnh của cậu, nhưng ngoài những nhiệm vụ đó ra, cậu làm tốt tất cả những gì cậu bắt tay vào. Một khi đã nắm được các bước chế tác, cậu có thể lặp lại quy trình đó vô số lần không biết mệt. Sau hai năm học việc, cậu được vào làm chính thức.
Nakata làm ở đó đến khi ngoài năm mươi, không để xảy ra bất cứ sự cố nào, không một lần nghỉ ốm. Lão không uống rượu, không hút thuốc, không thức khuya, không ăn quá độ. Lão không bao giờ xem tivi và chỉ bật đài để nghe chương trình thể dục buổi sáng. Ngày lại ngày, lão chỉ ra công làm đồ gỗ. Ông bà và cha mẹ lão thay nhau qua đời. Mọi người đều mến lão, tuy nhiên lão không có ai là bạn thân thiết. Có lẽ đó cũng là tất nhiên thôi. Phần lớn, khi bắt chuyện với Nakata, chỉ sau mươi phút là không còn gì để nói nữa.
Tuy vậy, lão không bao giờ cảm thấy cô đơn hoặc bất hạnh. Lão không bao giờ cảm thấy thèm muốn tình dục hoặc thậm chí muốn có ai bên cạnh mình. Lão hiểu mình khác mọi người. Lão nghĩ bóng của lão đổ trên mặt đất nhạt hơn, nhẹ hơn bóng những người khác, mặc dầu không ai nhận thấy điều này. Duy nhất, chỉ có lũ mèo thực sự hiểu lão. Kỳ lạ thay, với chúng, lão không bao giờ cạn chuyện để nói.
Ông chủ công ty đồ gỗ qua đời khi Nakata năm mươi hai tuổi và sau đó ít lâu, xưởng đồ gỗ đóng cửa. Cái loại đồ gỗ cổ truyền màu đen ảm đạm ấy bán không chạy như trước nữa. Tất cả các nghệ nhân đều đã già và lớp trẻ không ai thiết học nghề này nữa. Xưởng gỗ, ban đầu ở giữa cánh đồng, nay bốn bề là những nhà mới xây và người ta bắt đầu kêu ca về tiếng ồn và khói khi đốt phoi bào. Con trai ông chủ làm việc trên tỉnh ột hãng kế toán, không muốn nối nghiệp cha, nên khi ông cụ vừa mất, là bán luôn tất cả ột người nh doanh bất động sản. Sau khi dỡ bỏ xưởng, khu đất đã san bằng được bán ột chủ thầu phát triển chung cư, người này xây trên đó một ngôi nhà sáu tầng. Tất cả các căn hộ ở đây, ngay hôm đầu rao bán, đã có người mua.
Thế là Nakata mất việc. Công ty có những khoản nợ lớn phải trả, nên lão chỉ được một số tiền hưu còm cõi. Sau đó lão không ếm được việc làm nào khác. Ai hơi đâu đi thuê một lão già ngoài năm mươi mù chữ, chỉ có độc một ngón nghề chế tác những đồ gỗ cổ mà chẳng ai cần đến nữa?
Nakata đã làm việc liên tục ở xưởng suốt ba mươi bảy năm trời không nghỉ lấy một ngày nên cũng có một số tiền tiết ệm kha khá ở bưu điện địa phương. Nói chung lão tiêu pha rất ít cho bản thân, cho nên dù không ếm được việc làm mới, lẽ ra lão cũng vẫn có thể an hưởng tuổi già bằng khoản tiền tiết ệm đó. Vì lão không biết đọc biết viết, một người em họ làm ở tòa thị chính giúp lão quản lý tài khoản ở bưu điện. Là một người tốt bụng nhưng thiếu nhạy bén với thời cuộc, người em họ này đã bị một tên mối lái nhà đất vô lương tâm lừa phỉnh đầu tư vào một dự án nhà cho thuê tại một khu thể thao mùa đông và cuối cùng đâm nợ lút đầu. Vào quãng thời gian Nakata mất việc, người em họ này biến mất cùng cả gia đình để trốn các chủ nợ. Hình như một số chủ nợ thuộc dạng mafia đã truy tìm ông ta. Không ai biết gia đình đó hiện ở đâu, hay thậm chí có còn sống hay không.
Khi Nakata nhờ một người quen đưa đến bưu điện để ểm tra số dư, lão phát hiện ra là chỉ còn mấy nghìn yen trong tài khoản. Cả món lương hưu được nhập thẳng vào tài khoản, cũng đã biến mất. Chỉ có thể nói là Nakata hết sức đen đủi – đã mất việc lại thêm trắng tay. Bà con họ hàng đều thương lão nhưng họ cũng đều lạ nạn nhân của vụ này do đã cho ông em họ trứ danh a vay tiền hoặc đem tài sản thế chấp giúp ông ta. Thành thử, không một ai có khả năng giúp Nakata trong cơn hoạn nạn.
Cuối cùng, một trong hai em trai Nakata, người kế ngay sau lão, quyết định đưa lão về Tokyo ở tạm với mình để tiện chăm nom. Ông có một ngôi nhà ở Nakano phân làm nhiều căn để cho những người độc thân thuê – phần thừa kế của ông từ tài sản của cha mẹ – và ông dành một căn cho anh trai. Ông cũng quản lý giúp khoản tiền không lớn lắm mà cha mẹ họ để lại cho Nakata theo di chúc và xoay xở xin được cho lão một trợ cấp của Tòa Thị chính Tokyo. Đó là tất cả những gì ông có thể làm cho Nakata. Tuy mù chữ, nhưng Nakata vẫn có thể tự mình lo liệu những nhu cầu thường nhật, và chừng nào tiền nhà không phải trả, lão có thể xoay xỏa đâu vào đấy.
Hai người em trai rất ít tiếp xúc với lão. Họ gặp lão vài lần khi lão mới trở về Tokyo và chỉ thế thôi. Họ đã sống riêng biệt hơn ba mươi năm và cung cách sống của họ hoàn toàn khác. Cả hai đều không có tình cảm đặc biệt gì với lão, vả lại họ quá bận bịu với con đường hoạn lộ của mình, làm gì có thì giờ để chăm sóc một ông anh thiểu năng trí tuệ.
Nhưng sự đối đãi lạnh nhạt của các em trai không làm Nakata phiền lòng. Lão ở một mình đã quen và thực tế, lão lại căng thẳng khi người ta cố tỏ ra ân cần với lão. Lão cũng không hề nổi giận khi ông em họ phá tán món tiền dành dụm cả đời của lão. Cố nhiên, lão hiểu chuyện xảy ra như thế là đáng tiếc, nhưng cả vụ đó cũng không làm lão thất vọng. Nakata không có khái niệm gì về một “khu thể thao mùang”, cũng chả biết “đầu tư” nghĩa là gì, hoặc việc “vay nợ” phức tạp như thế nào. Lão sống trong một thế giới khoanh lại bởi một vốn từ vựng rất hạn chế.
Lão chỉ hiểu được ý nghĩa của một khoản tiền không quá năm nghìn yen. Quá mức ấy – mười nghìn, một trăm nghìn hay một triệu yen – đối với lão cũng thế cả mà thôi, chẳng khác gì nhau. Đều là “vô khối” tiền cả. Lão đã từng có tiền gửi tiết ệm, nhưng lão chẳng nhìn thấy nó bao giờ. Họ chỉ bảo lão: “Bác có từng này, từng này trong tài khoản”, và con số đó đối với lão hoàn toàn là một khái niệm trừu tượng. Cho nên khi nó biết hết, lão không hề có cảm giác là mình đã thực sự mất một cái gì.
Như vậy, Nakata sống một cuộc sống mãn nguyện trong căn hộ nhỏ do em trai dành cho, hàng tháng nhận trợ cấp, sử dụng chiếc thẻ đi xe buýt miễn phí, thường xuyên ra công viên trong khu chuyện gẫu với lũ mèo. Cái góc nhỏ ấy của quận Nakano trở thành thế giới mới của lão. Giống như chó và mèo, Nakata phân định lãnh thổ của mình, một đường ranh giới mà ngoại trừ trường hợp đặc biệt, lão không bao giờ mạo hiểm vượt qua. Chừng nào còn ở trong phạm vi lãnh thổ đó, lão còn cảm thấy an toàn và hài lòng. Không bất mãn, không giận dữ với cái gì. Không cảm thấy cô đơn, lo âu về tương lai, hoặc băn khoăn về cuộc sống khó khăn hay bất tiện. Ngày lại ngày, suốt hơn mười năm, cuộc đời lão cứ thế trôi, thong dong hưởng bất cứ cái gì đến với mình.
Cho tới ngày Johnnie Walker xuất hiện.
Đã nhiều năm Nakata không thấy biển, vì ở tỉnh Nagano cũng như quận Nakano, đều không có biển. Giờ đây, lần đầu tiên, lão nhận ra rằng mình đã quên bẵng biển lâu đến thế. Lão thậm chí không hề nghĩ đến nó suốt trong ngần ấy năm trời. Lão gật đầu lia lịa với chính mình, xác nhận sự thực ấy. Lão bỏ mũ, đưa tay xoa xoa cái đầu húi cua, đội mũ trở lại và đăm đăm nhìn ra biển. Lão chỉ biết về biển đến chừng này thôi: nó rất lớn, nó mặn vị muối và cá sống trong nó.
Lão ngồi đấy trên chiếc ghế băng, hít cái mùi thơm nồng của biển, nhìn những con hải âu lượn vòng trên đầu, hướng mắt ra những con tàu bỏ neo ngoài cảng. Lão ngắm hoài quang cảnh đó không biết mệt.
Thi thoảng một con hải âu trắng muốn sà xuống đậu trên lớp cỏ tươi đầu hạ của công viên. Cái mầu trắng trên nền xanh lục ấy thật đẹp. Nakata thử gọi con hải âu khi nó bước đi trên cỏ, nhưng nó không trả lời mà chỉ lạnh lùng nhìn lão. Quanh đây chẳng có con mèo nào. Những con vật duy nhất ở công viên lúc này là hải âu và chim sẻ. Trong khi lão nhấp từng ngụm nhỏ trà nóng từ chiếc phích, mưa bắt đầu lộp độp rơi và Nakata giương chiếc ô quý giá của mình lên.
Khi Hoshino quay về công viên trước mười hai giờ một chút, mưa đã tạnh. Gã thấy Nakata vẫn ngồi nguyên trên ghế băng y như lúc gã để lão lại đó, ô cụp lại, mắt nhìn ra biển. Hoshino đã đậu xe ở một chỗ nào đó và trở lại bằng taxi.
“Cháu xin lỗi đã để ông chờ lâu quá,” gã nói. Một chiếc túi nhựa cứ lủng lẳng từ nơi vai gã. “Cháu đã tưởng xong sớm hơn, nhưng lắm chuyện quá. Hình như kho hàng nào cũng có một thằng cha rách việc.”
“Nakata này không phiền đâu. Lão ngồi đây ngắm biển thôi mà.”
“Ừm,” Hoshino ậm ừ. Gã đưa mắt theo hướng nhìn của Nakata nhưng chỉ thấy một cầu tàu cũ kỹ xác xơ và váng dầu trên mặt nước.
“Đã lâu rồi lão chưa thấy biển.”
“Thật ư?”
“Lần cuối cùng là hồi còn học cấp một. Lão đếãi biển gọi là Enoshima.”
“Chắc là xa xưa lắm rồi nhỉ?”
“Hồi ấy, Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng. Bãi biển Enoshima đầy lính Mỹ.”
“Ông nói giỡn.”
“Không, lão không nói giỡn đâu.”
“Thôi nào,” Hoshino nói. “Nhật Bản không bao giờ bị Mỹ chiếm đóng.”
“Nakata này không biết rành rọt, nhưng Mỹ có những máy bay gọi là B-29. Chúng ném rất nhiều bom xuống Tokyo nên lão phải tản cư đến tỉnh Yamanashi, chính ở đấy, lão bị bệnh.”
“Thế à? Dù gì… Mà cháu đã bảo ông là cháu không thích những chuyện dài dòng văn tự. Thôi kệ, ta đi thôi. Việc giao hàng kéo dài hơn cháu tưởng, nếu ta cứ kề cà thì tối đến nơi bây giờ.”
“Chúng ta đi đâu?”
“Tất nhiên là đi Shikoku. Chúng ta sẽ qua cầu. Lúc nãy ông nói là ông đi Shikoku, phải không nào?”
“Vâng. Nhưng còn công việc của cậu thì sao?”
“Ông đừng lo. Khi cháu trở lại thì nó vẫn đấy, chạy đi đâu được. Cháu đã làm thêm bao nhiêu giờ và cháu đang nghĩ mình cũng nên nghỉ bù vài ngày. Nói thực tình, cháu cũng chưa bao giờ đến Shikoku. u cũng là dịp để xem nó ra sao. Mấy lại, ông không biết đọc, đúng không nào? Cho nên, có cháu đi cùng để giúp ông mua vé, có phải dễ dàng hơn nhiều không? Trừ phi ông không muốn cháu đi theo.”
“Không, có được cậu đi cùng thì Nakata này quá sướng.”
“Vậy thì ta cứế làm nhé. Cháu đã xem kỹ bảng giờ xe chạy. Nào, lên đường đi Shikoku!”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.