Hồng Lâu Mộng

Chương 73: Lâm Đại Ngọc mở thi xã Đào Hoa


Đọc truyện Hồng Lâu Mộng – Chương 73: Lâm Đại Ngọc mở thi xã Đào Hoa

Lâm Đại Ngọc mở thi xã Đào Hoa

Sử Tương Vân điền tiểu từ Liễu Nhứ

Giả Liễn thủ linh ở viện Lê Hương suối bảy ngày đêm, có sư và thầy cúng tụng niệm. Giả mẫu gọi hắn sang, bảo không cho đưa linh cữu vào trong gia miếu. Giả Liễn không làm sao được, đành phải nói với sư Thời Giác điểm một cái huyệt, đào đất để chôn ở phía trên mộ của chị Bạ Hôm đưa ma, chỉ có những người trong họ cùng vợ chồng Vương Tín, mẹ con họ Vưu mà thôi.

Phượng Thư không nhìn đến việc gì, mặc cho Giả Liễn lo liệu. Lại gần đến ngày cuối năm, ngoài những việc lặl vặt, còn có việc Lâm Chí Hiếu khai danh sách đến trình: cộng tất cả có tám người hầu đã hai mươi lăm tuổi chưa có vợ, chờ xem a hoàn nào ở trong nhà đáng cho ra lấy chồng, sẽ gán ghép cho họ.

Phượng Thư xem xong, đến hỏi Giả mẫu và Vương phu nhân. Mọi người cùng bàn bạc. Tuy có mấy chị đáng gả chồng, nhưng mỗi người lại có duyên cớ riêng. Một là Uyên Ương thề không chịu đi. Từ đó đến nay, nhất định chưa chịu nói chuyện với Bảo Ngọc, và cũng không chịu trang điểm gì. Mọi người thấy cô la kiên gan như thế, cũng không tiện ép. Hai là Hổ Phách hiện đương ốm, nên lần này chưa thể đi được. Ba là Thái Vân vì gần đây phải xa rời Giả Hoàn, cũng đâm ra ốm lơ ốm lửng. Chỉ có mấy a hoàn lớn tuổi làm việc nặng trong phòng Phượng Thư và Lý Hoàn là cho ra thôi. Còn nữa đều chưa đến tuổi, nên cho phép bọn người hầu ra ngoài mà hỏi lấy vợ.

Lâu nay Phượng Thư ốm, Lý Hoàn và Thám Xuân phải trông nom việc nhà, không được nhàn rỗi, lại gặp lúc năm hết tết đến, việc vặt nhiều quá, nên không ai nghĩ gì đến việc mở thi xã cả.

Sang tháng trọng xuân có dịp rảnh rang đây! Nhưng khốn nỗi Bảo Ngọc nhân việc Liễu Tương Liên bỏ đi tu, rồi đến việc chị Ba tự vẫn, chị Hai nuốt vàng sống tự tử, lại thêm con Năm Liễu sau đêm bị giam, bệnh càng thêm nặng, hết chuyện này đến chuyện nọ, việc nọ chưa xong đã dồn đến việc kia, đâm ra buồn giận vẩn vơ, làm cho vẻ mặt ngẩn ngơ, nói năng lảm nhảm, như là người mắc bệnh thần kinh vậy. Bọn Tập Nhân sợ quá nhưng không dám trình Giả mẫu, chỉ tìm hết cách vui đùa cho cậu ta khuây khỏa.

Một hôm trời vừa rạng sáng, nghe thấy ngoài nhà có tiếng cười đùa không ngớt. Tập Nhân cười bảo: “Cậu ra ngăn họ lại. Tình Văn và Xạ Nguyệt đương cù Phương Quan ở ngoài kia đấy”. Bảo Ngọc nghe nói, khoác cái áo dài đi ra xem, thấy ba người còn để chăn nệm bừa bãi, áo ngoài cũng chưa mặc. Tình Văn chỉ mặc áo lót lụa xanh Hàng Châu, quần lót lụa đỏ, đầu tóc rũ rượi, đương cưỡi lên người Phương Quan. Xạ Nguyệt thì mặc cái yếm lụa đỏ, ngoài khoác một cái áo cũ, đương chọc nách Phương Quan, Phương Quan thì nằm ngửa ở trên giường, mặc áo lót hoa quần đỏ, tất xanh, hai chân giẫy giụa đương cười sặc sụa thở không ra hơi. Bảo Ngọc cười nói:

– Hai chị lớn bắt nạt một cô bé! Để tôi cùng đến chọc các chị xem.

Nói xong trèo lên giường cù Tình Văn, Tình Văn buồn quá, cười rồi bỏ Phương Quan ra, đến cào nhau với Bảo Ngọc. Phương Quan được thể đè Tình Văn xuống cù.

Tập Nhân trông thấy bốn người vật lộn nhau, thật buồn cười liền nói: “Cẩn thận kẻo bị lạnh đấy”.

Chợt Bích Nguyệt đến hỏi:

– Chiều hôm qua mợ tôi bỏ quên cái khăn lụa ở đây, không biết bây giờ có còn không?

Xuân Yến vội đáp:

– Có. Tôi nhặt được ở dưới đất, không biết là của ai, vừa đem giặt và phơi chưa khô đâu.

Bích Nguyệt thấy bốn người đương quằn quại với nhau, cười nói:

– Ở bên các chị vui vẻ quá, vừa mới sáng ra, đã họp nhau cười đùa như thế.

Bảo Ngọc cười nói:

– Bên các cô cũng nhiều người, sao lại không đùa?

– Bên ấy mợ tôi không đùa, nên hai dì tôi và cô Cầm cũng phải chịu. Nay cô Cầm lại sang ở bên cụ, thành ra càng vắng. Đến mùa đông năm sau, hai dì tôi sẽ về nhà, thì lại càng buồn hơn! Cậu thử xem ở bên cô Bảo chỉ một mình chị Hương Lăng ra về, mà cứ như là thiếu đi mất mấy người, làm cô Tương Vân cũng trơ trọi một mình.

Lúc đó Tương Vân sai Thúy Lũ đến nói: “Mời cậu Hai sang ngay để xem thơ hay”. Bảo Ngọc vội rửa mặt, chải đầu rồi đi. Đến nơi, thấy Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Bảo Cầm, Thám Xuân đều ở cả đấy, đương cầm một bài thơ xem. Thấy Bảo Ngọc đến, mọi người đều cười nói:

– Bây giờ cậu mới dậy à? Thi xã của chúng ta đã tan đi một năm nay, không có người đứng ra dựng lại. Nay đang vào tiết đầu xuân, muôn vật đổi mới, đáng nên hăng hái dựng lại mới phải.

Tương Vân cười nói:

– Trước thi xã của chúng ta mở vào mùa thu nên không phát đạt. Bây giờ muôn vật vui tươi dưới trời xuân, chúng ta sửa soạn mở lại thi xã, thế nào cũng sẽ thịnh vượng. Vả chàng bài thơ “Đào hoa” này lại hay, vậy nên đổi “Hải đường xã” làm “Đào hoa xã ” mới đúng.

Bảo Ngọc gật gù nói: “Được lắm”. Rồi đòi lấy bài thơ để xem. Mọi người đều nói:

– Bây giờ chúng ta hãy sang thăm vị Đạo Hương lão nông rồi cùng bàn cho xong việc mở lại thi xã.

Nói xong, họ đứng dậy đi sang Đạo Hương thôn. Bảo Ngọc vừa đi vừa xem, thì thấy thơ viết:

Hoa đào nọ ngoài rèm gió liệng,

Người trong rèm sớm biếng điểm trang.

Trong ngoài chừng độ tấc gang,

Người đây hoa đấy lại càng gần thêm.

Gió muốn thổi cho rèm lại mở,

Hoa muốn nhòm rèm cứ đứng ngay.

Ngoài rèm hoa vẫn nở đầy,

Mà trong rèm lại người gầy hơn hoa.

Hoa cũng biết xót xa ai đó,

Đứng ngoài rèm nhờ gió hỏi han.

Gió luồn hoa đã đầy sân,

Ngoài sân hoa những tần ngần nhớ ai?

Sân rêu bám phía ngoài khép cửa,

Bóng chiều về người tựa lan can.

Tựa lan nhìn gió lệ tràn,

Quần hồng rón rén dạo vườn hoa chơi.

Kìa hoa lá tơi bời trên dưới,

Hoa ửng hồng, lá rọi màu xanh.

Khói tuôn phủ kín muôn cành,

Bóng lờ mờ thắm, in quanh vách lầu.

Mặt trời chói nát nhàu chăn gấm,

Gối san hồ giấc ấm vừa tan.

Gái hầu dâng chậu kim bồn,

Chè hương ấm giọng phấn son lạnh mùi.

Này người đẹp hoa tươi là thế,

Sao hoa tươi mà lệ vẫn rơi?

Đem hoa ví với lệ người,

Lệ tuôn lã chã hoa cười lả tơi.

Xem hoa mai lệ vơi vơi cạn,

Lệ cạn rồi xuân chán hoa buồn,

Hoa buồn người cũng héo hon,


Hoa bay, người lả, chiều hôm còn gì?

Tiếng quyên bỗng gọi xuân đi,

Rèm này lặng lẽ trăng kia lờ mờ!

Bảo Ngọc xem xong, chẳng khen ngợi gì, ra vẻ ngẩn ngơ, rơm rớm nước mắt. Nhưng sợ người ta trông thấy, nên vội lau đi… Rồi lại hỏi:

– Bài này các chị lấy được ở đâu?

Bảo Cầm cười nói:

– Anh thử đoán xem ai làm nào?

– Chắc là bài của Tiêu Tương Tử 1 rồi.

– Bài này của em làm đấy!

– Tôi không tin! Giọng thơ này không giống của cô một tí nào.

– Thế là anh học hãy còn kém. Chẳng lẽ bài nào ông Đỗ Công Bộ cũng có những câu như: “Khóm cúc tuôn rơi dòng lệ cũ” hay sao? Nhiều bài cũng có những câu như “Mưa mai nở nụ hồng” “Cành lau lướt gió giải xanh dài” chứ.

– Đã đành thế rồi. Nhưng tôi chắc là chị Bảo không khi nào cho cô làm những câu buồn rầu như thế? Cô vẫn có tài làm được, chỉ không chịu làm đó thôi. Chứ không phải như cô Lâm gặp nhiều nghịch cảnh, nên hay có những lời ai oán.

Mọi người nghe nói đều cười. Lúc đến Đạo Hương thôn, họ đưa thơ ra, Lý Hoàn xem xong, khen ngợi không ngớt. Mọi người bàn định việc mở thi xã: ngày mai là mồng hai tháng ba, sẽ mở thi xã, đổi tên “Hải đường xã” làm “Đào hoa xã”. Đại Ngọc làm chủ.

Hôm sau ăn cơm xong, mọi người đến họp cả ở quán Tiêu Tương để định ra đầu bài. Đại Ngọc nói:

– Chúng ta làm bài thơ hoa đào hạn một trăm vần.

Bảo Thoa nói:

– Không được. Xưa nay thơ hoa đào nhiều lắm rồi, làm nữa sẽ trùng và cũng không được bằng bài cổ phong của chị đâu. Phải ra đầu bài khác.

Đương nói thì có người vào trình:

– Bà mợ sang chơi, mời các cô đến chào.

Mọi người đều đến chào vợ Vương Tử Đằng, rồi ngồi hầu chuyện. Ăn cơm xong, họ lại theo bà ấy vào vườn, ngoạn cảnh một lượt, đến bữa cơm chiều xong, vào lúc lên đèn mới về.

Hôm sau là ngày sinh nhật Thám Xuân. Nguyên Xuân sai hai viên Thái giám đưa đến cho mấy thứ đồ chơi. Mọi người đều có đồ lễ mừng thọ, không phải nói kỹ. Ăn cơm xong, Thám Xuân mặc lễ phục đi chào các nơi.

Đại Ngọc cười bảo mọi người:

– Lần này thi xã của chúng ta mở không khéo chọn ngày, lại quên hẳn hai hôm nay là sinh nhật của cô ấy. Tuy không bày tiệc hát xướng gì, nhưng thế nào cũng phải cùng với cô ấy sang bên cụ và bà Hai vui chơi một ngày. Như thế thì còn được lúc nào rỗi nữa?

Vì thế lại hoãn đến ngày mồng năm.

Hôm đó, bọn chị em hầu xong cơm sáng ở trong phòng, thì có thư của Giả Chính gửi về. Bảo Ngọc hỏi thăm sức khỏe xong, mở bức thư ra đọc cho Giả mẫu nghe. Đoạn trên là những lời thăm hỏi và nói đến tháng sáu sẽ được phép về Kinh. Còn thư riêng gửi về nhà nói việc lặt vặt thì đã có Giả Liễn và Vương phu nhân mở xem. Mọi người nghe nói độ tháng sáu, tháng bảy Giả Chính sẽ về Kinh, đều vui mừng khôn xiết. Ngay hôm đó Vương Tử Đằng lại có việc gả cháu gái cho con trai Bảo Ninh hầu, chọn đến tháng năm cho cưới, Phượng Thư lại bận xếp đặt công việc, thường phải đi vắng dăm ba ngày. Hôm đó, vợ Vương Tử Đằng lại sang đón Phượng Thư và các cháu trai cháu gái sang vui chơi một hôm. Giả mẫu và Vương phu nhân cho Bảo Ngọc, Thám Xuân, Đại Ngọc, Bảo Thoa cùng đi với Phượng Thự Mọi người không dám trái lời, đành phải về buồng sửa soạn ăn mặc để đi. Năm người đi chơi một ngày, đến lúc lên đèn mới về.

Bảo Ngọc về đến viện Di Hồng, nằm nghỉ một lát, Tập Nhân nhân dịp này khuyên Bảo Ngọc nên để ý nghĩ lại, lúc rỗi phải mang sách ra xem để chuẩn bị trước. Bảo Ngọc tính đốt tay nói:

– Còn sớm chán.

– Xem sách còn là việc thứ hai. Đến bấy giờ dù cậu có thuộc sách đi nữa, nhưng chữ viết của cậu thì ở đâu?

– Ngày thường tôi cũng viết được khá đấy, chẳng lẽ chị không cất đi à?

– Sao lại không cất? Hôm nọ cậu đi vắng, tôi lục cả ra, đếm cẩn thận tất cả mới có năm trăm sáu mươi mấy bài. Có lẽ nào ròng rã hai ba năm trời, mới được có mấy tờ ấy à? Cứ ý tôi thì, bắt đầu từ ngày mai, cậu hãy hồi tâm lại, mỗi ngày phải viết thêm mấy tờ, tuy không nhất định ngày nào cũng có, nhưng cậu phải làm sao cho dễ coi mới được.

Bảo Ngọc nghe nói, tự mình soát lại một lượt, thì thực không thể nào đắp điếm cho qua được, liền nói:

– Bắt đầu từ ngày mai, mỗi ngày tôi phải viết một trăm chữ mới được.

Nói xong đi ngủ. Hôm sau trở dậy, rửa mặt gội đầu xong, Bảo Ngọc liền ngồi viết chữ ở dưới cửa sổ. Giả mẫu không thấy Bảo Ngọc đến, tưởng là ốm, liền sai người sang hỏi. Bảo Ngọc đến chào Giả mẫu, nói:

– Vì cháu bận viết tập, nên đến hầu muộn.

Giả mẫu nghe nói xiết đỗi vui mừng, dặn dò:

– Từ nay cháu cứ chăm chỉ viết chữ đọc sách, không phải sang hầu ta cũng được. Cháu đến trình với mẹ cháu biết.

Bảo Ngọc nghe nói, sang trình Vương phu nhân biết.

Vương phu nhân nói:

– Lúc ra trận mới mài giáo thì còn ăn thua gì. Bây giờ cuống lên, ngày nào cũng đọc đọc viết viết, thì liệu được bao nhiêu? Khéo cứ dồn dập mãi lại sinh ốm đấy thôi.

Bảo Ngọc đáp:

– Không sao đâu.

Giả mẫu cũng sợ Bảo Ngọc sinh ốm. Bảo Thoa, Thám Xuân đều cười nói:

– Xin cụ đừng lo, sách thì các cháu không thể đọc hộ được anh ấy, nhưng chữ thì các cháu có thể viết hộ được. Mỗi ngày chúng cháu mỗi người viết hộ anh ấy một bài, để đắp điếm cho qua lúc này là xong. Một là để ông khỏi giận, hai là anh ấy cũng không đến nỗi dồn dập sinh ra ốm.

Giả mẫu nghe nói gật đầu cười.

Đại Ngọc nghe nói Giả Chính sắp về, thế nào cũng hỏi đến việc học hành của Bảo Ngọc, nhưng mấy lâu nay Bảo Ngọc vẫn lêu lổng, chắc khi hỏi đến sẽ bị quở phạt. Vì thế, Đại Ngọc ra vẻ uể oải không nhắc đến việc mở thi xã và cũng không rủ rê việc gì nữa. Thám Xuân và Bảo Thoa mỗi ngày viết một bài chữ chân phương đưa cho Bảo Ngọc. Chính Bảo Ngọc hàng ngày cũng cố gắng viết đến hai, ba trăm chữ. Đến cuối tháng ba, dồn cả số chữ lại đã được rất nhiều. Hôm đó tính ra nếu được thêm năm chục bài nữa, thì cũng đắp điếm được rồi. Ngờ đâu Tử Quyên đến, đưa cho một cuộn. Báo Ngọc mở ra xem, thấy cuộn giấy viết lối chữ nhỏ của họ Chung và họ Vương 2 bằng thứ giấy trơn giống hệt như lối chữ của mình. Bảo Ngọc mừng quá, vái Tử Quyên một cái, rồi đến tận nơi tạ Ơn. Sau đó Tương Vân, Bảo Cầm cũng viết mấy bài đưa đến. Dồn lại, tuy không viết đủ số nhưng cũng có thể nhể nhóa được rồi. Bảo Ngọc đã yên tâm. Lại đem những sách cần phải đọc, ôn lại mấy lần.

Bảo Ngọc đang lúc gắng công học hành, thì một giải ven bể có nước dâng, nhân dân bị nạn ngập lụt, quan địa phương tâu lên, vua truyền chỉ xuống cho Giả Chính tiện đường đến đấy tra xét và phát chẩn. Như thế tính ra phải đến cuối mùa đông mới về Kinh được, Bảo Ngọc biết tin lại gác chuyện đọc sách viết chữ, rồi cứ chơi tràn như cũ.

Nhân gặp buổi cuối xuân, Tương Vân ngồi buồn, trông thấy hoa liễu phấp phới, liền làm một bài tiểu từ, theo điệu “Như mộnglệnh”.

Nào phải nhung thêu mới rắc;

Rèm cuốn nửa chừng thơm sặc.

Tay tiên nhặt đem về,

Quyên khóc yến hờn cũng mặc.

Giữ chặt! Giữ chặt!

Đừng để xuân đi nơi khác.

° ° °

Phải chăng là bức nhung thêu 3

Hương mù lơ lửng nhường treo nửa rèm.

Tay này thoăn thoắt nhặt xem,


Làm cho quyên khóc yến ghen suốt ngày.

Thôi thôi ta giữ chặt tay,

Chúa xuân khéo lại đi ngay đó mà!

Làm xong, Tương Vân rất là đắc ý, lấy tờ giấy viết ra, đưa cho Bảo Thoa xem, rồi lại đi tìm Đại Ngọc, Đại Ngọc xem xong, cười nói:

– Hay đấy! Vừa mới vừa lý thú.

– Mấy lần thi xã của chúng ta chưa làm từ. Ngày mai chị cho mở thi xã làm từ, chẳng mới hay sao?

Đại Ngọc cao hứng nói:

– Cô nói phải đấy. Hôm nay gặp lúc đẹp trời, sao chúng ta không làm ngay.

– Cũng được.

Nói xong Đại Ngọc bảo sắm sửa mấy món ăn, rồi sai người đi mời các nơi.

Đại Ngọc, Tương Vân đã nghĩ sẵn đầu bài là “liễu nhứ” (bông hoa liễu) và hạn phải theo mấy điệu từ, viết xong dán lên tường. Mọi người đến xem thì thấy: Đầu bài là “liễu nhứ” hạn phải theo mấy tiểu điệu đã định trước. Rồi họ đều xem bài từ của Tương Vân, cùng nhau khen ngợi một lúc.

Bảo Ngọc cười nói:

– Lối từ này tôi làm xoàng lắm, nhưng cũng phải nói nhảm vậy.

Rồi mọi người đến gắp thăm. Bảo Thoa gấp được điệu “Lâm giang tiên”; Bảo Cầm gắp được điệu “Tây giang nguyệt”; Thám Xuân gắp được điệu “Nam kha từ”; Đại Ngọc gắp được điệu “Đường đa lệnh”; Bảo Ngọc gắp được điệu “Điệp luyến hoa”; Tử Quyên đốt một nén “Mộng điềm hương”. Mọi người bắt đầu suy nghĩ làm từ.

Một lúc Đại Ngọc làm xong và viết ra. Rồi đến Bảo Cầm cũng vội viết luôn. Bảo Thoa cười nói:

– Tôi cũng làm xong rồi, chờ xem của các chị đã, rồi đến của tôi.

Thám Xuân cười nói:

– Sao hương hôm nay cháy nhanh thế? Tôi mới làm được nửa bài.

Lại hỏi Bảo Ngọc:

– Anh đã làm xong chưa?

Bảo Ngọc tuy đã làm được một ít, vì tự xét là không hay, lại xóa cả đi để làm bài khác; nhưng quay lại nhìn thì hương đã cháy hết. Bọn Lý Hoàn cười nói:

– Chú Bảo lại thua rồi. Còn cô Tiêu Khách thế nào?

Thám Xuân nghe nói, liền viết ra. Mọi người đến xem trên giấy, chỉ mới được nửa bài theo điệu “Nam kha từ”:

Dây đâu treo lơ lửng,

Sợi khéo rủ lòng thòng.

Buộc buộc xe xe cũng khó lòng,

Thôi đành chia các ngả nam bắc tây đông!

Trơ đây những sợi lòng thòng,

Kéo về buộc lại khó lòng lắm thay!

Liều cho nam bắc đông tây

Chia lìa các ngả thì đây cũng đành.

Lý Hoàn cười nói:

– Cũng hay đấy. Sao không làm nốt đi?

Bảo Ngọc thấy hương cháy hết rồi, đành bỏ bút xuống, xin thua, chứ không chịu miễn cưỡng làm chiếu lệ, rồi đến xem nửa bài của Thám Xuân. Thấy chưa làm xong, Bảo Ngọc cao hứng, cầm bút viết tiếp:

Rơi xuống chàng đứng tiếc,

Bay về thiếp biết thôi.

Tiết muộn màng oanh bướm bùi ngùi,

Sang xuân dù gặp, đã cách một năm rồi.

Tiếc chi cái phận lênh đênh,

Bay về mình biết cho mình đấy thôi.

Oanh buồn bướm mệt lắm rồi,

Xuân sau dù gặp cũng ngoài một năm!

Mọi người cười nói:

– Chính bài của mình không làm nổi lại đi làm hộ người. Dù có hay cũng không đáng kể.

Sau đó xem đến bài của Đại Ngọc là một khúc “Đường đa lệnh”.

Bãi hoa phấn rơi tràn,

Lầu yến hương đã tàn.

Quả cầu bay nối tiếp từng đoàn,

Xiêu dạt khác chi người mệnh bạc.

Còn chi ân ái đoàn loan.

Cây cỏ cũng biết sầu,

Tuổi xuân đến bạc đầu,

Thương kiếp này ai biết ai đâu.

Theo hẳn gió đông xuân cũng mặc,

Thôi đi thẳng, ở chi lâu!


Phấn rơi nào bãi trăm hoa,

Nào lầu yến tử hương mà còn đâu?

Hàng đoàn hàng đội theo nhau,

Kìa ai thả những quả cầu này đây?

Mỏng manh trôi dạt thân này,

Uổng công gắn bó thiệt ngày phong lưu!

Cỏ cây âu cũng rầu rầu,

Tuổi xanh âu cũng bạc đầu đến nơi.

Kiếp này thôi thế thì thôi,

Ai người nâng lấy ai người bỏ rơi!

Gió đông đành gả cho rồi.

Đi thì đi hẳn đoái hoài làm chi!

Mọi người xem xong đều gật đầu thở dài:

– Bài này làm buồn quá, nhưng rất hay.

Lại xem bài “Tây giang nguyệt” của Bảo Cầm:

Vườn Hán lầu hồng lác đác,

Đê Tùy sắc lục mênh mông.

Sự nghiệp ba xuân gặp gió đông,

Hoa mai vừng nguyệt cũng là không.

Mấy chỗ hoa rơi đỏ ối,

Nhà ai rèm tuyết hương nồng.

Giang nam, giang bắc cảnh cùng chung,

Luống để người xa chạnh lòng!

Lơ thơ vườn Hán buồn thay,

Đê Tùy man mác hoa bay ngàn trùng.

Việc xuân giả mặc gió đông,

Trăng hoa là một giấc nồng đấy thôi.

Mấy nơi hoa rụng sân ngoài?

Nhà ai rèm tuyết đượm mùi hương thơm.

Cùng chung một cảnh bắc nam,

Mà người ly biệt buồn càng buồn thêm!

Mọi người đều cười nói:

– Bài này thanh điệu rất là bi tráng. Hai câu “mấy chỗ” và “nhà ai ” rất hay.

Bảo Thoa cười nói:

– Nhưng vẫn không khỏi buồn chán. Tôi nghĩ bông hoa liễu vẫn là một thứ mỏng manh không bám vào đâu, nhưng cứ ý tôi, phải nói cho nó tốt thì mới thoát được sáo cũ. Vì thế tôi tạm đặt một bài, chưa chắc đã hợp được ý chị em.

Mọi người cười:

– Đừng nói nhũn quá, chắc là hay hẳn, hãy để cho chúng tôi thưởng thức.

Đây là một bài theo hiệu “Lâm giang tiên”.

Bạch ngọc trước thềm xuân biết múa,

Gió đông khéo cuốn đều đều!

Trước thềm xuân biết múa may,

Gió đông cuốn rải hoa này khắp nơi.

Tương Vân cười nói ngay:

– Câu “Gió đông khéo cuốn đều đều” hay quá! Một câu này cũng đã hơn hẳn người ta rồi.

Ong bướm hàng đàn lượn dập dìu,

Nỡ để bụi thơm vùi dập.

Bao phen dòng nước trôi theo,

Muôn sợi tơ mành nào khác trước.

Hợp tan mặc bước gieo neo,

Xuân chớ cười ta giống treo leo.

Nhờ gió đưa lên mãi,

Trên mây ngất ngưởng trèo.

Bướm ong nhao nhác bay hoài,

Đâu theo dòng nước? Đâu vùi bụi thơm?

Muôn dây nghìn sợi vẹn toàn,

Cũng đành khi hợp khi tan tha hồ!

Đừng cười là giống chơ vơ,

Mây xanh lên vút ta nhờ gió đông.

Mọi người vỗ bàn khen hay, đều nói:

– Thực là nói trái đi rất khéo! Bài này chắc là hơn cả. Giọng điệu trìu mến buồn rầu, phải nhường cho Tiêu Tương tử; tình tứ vui vẻ thùy mỵ, lại là cô Chầm Hà; còn Tiểu Tiết (Bảo Cầm) và Tiêu Khách thì hôm nay thi hỏng, phải chịu phạt rồi.

Bảo Cầm cười nói:

– Cố nhiên chúng tôi xin chịu phạt. Nhưng không biết người nộp quyển trắng phải phạt thế nào?

Lý Hoàn nói:

– Chớ vội, nhất định phải phạt thật nặng để làm nề nếp cho lần sau.

Nói chưa dứt lời, thì trên ngọn trúc ngoài cửa sổ có một tiếng động, như là cánh cửa sổ rơi. Mọi người đều giật mình. A hoàn chạy ra nghe bọn hầu nhỏ ở ngoài rèm nói:

– Có một cái diều con bướm lớn, mắc ở trên ngọn trúc.


Các a hoàn cười nói:

– Cái diều đẹp quá, không biết của nhà ai thả đứt dây bay lại đây. Chúng ta lấy xuống đi.

Bảo Ngọc ra xem, cười nói:

– Tôi nhận ra cái diều này rồi. Đó là cô Kiều Yên ở dinh bác Cả bên kia thả đấy. Lấy xuống mang trả cho cô ấy.

Tử Quyên cười nói:

– Có lẽ nào thiên hạ không ai có, chỉ một cô ấy có cái diều như thế? Tôi không kể, hãy lấy xuống đã.

Thám Xuân cười nói:

– Chị Tử Quyên hẹp hòi quá. Chúng ta ai cũng có rồi, lại đi lấy của người ta, không sợ mang tiếng à?

Đại Ngọc cười nói:

– Phải đấy. Mang diều của chúng ta ra đây thả cho hết cái đen đủi đi.

Tử Quyên vội sai bọn a hoàn cầm cái diều ra cửa vườn giao cho bà già đi trực nhật, dặn có ai đến hỏi,sẽ trả người ta.

Bọn a hoàn chỉ chờ nghe nói thả diều, liền ba chân bốn cẳng chạy ngay đi lấy cái diều mỹ nhân đến. Rồi đứa bắc cái đồn cao; đứa buộc cái gạc ba vào cần; đứa thì thả. Bọn Bảo Thoa đứng ở trước cửa, sai a hoàn tìm chỗ đất rộng ở ngoài sân thả lên. Bảo Cầm cười nói:

– Cái diều ấy của chị không bằng cái diều Phượng Hoàn vẫy cánh của chị Ba đẹp hơn.

Bảo Thoa cười nói: “Đúng đấy”. Nhân quay lại cười bảo Thúy Mặc:

– Cô về lấy cái diều của nhà cô mang đến đây mà thả.

Bảo Ngọc cũng cao hứng, bảo đứa hầu nhỏ:

– Về nhà đem cái diều con cá của già Lại Đại cho hôm trước đến đây.

Đứa hầu nhỏ đi một lúc, về người không, cười nói:

– Hôm qua chị Tình Vãn đem thả đã mất rồi.

Bảo Ngọc nói:

– Tôi chưa được thả lần nào.

Thám Xuân cười nói:

– Nhưng mà chị ấy cũng đã thả cho anh hết vận đen là được rồi.

Bảo Ngọc nói:

– Thôi về lấy cái diều con cua ra đây vậy.

Hầu nhỏ đi một lúc rồi cùng mấy người khiêng một cái diều hình mỹ nhân và cả cuộn dây đến, nói:

– Chị Tập Nhân bảo: cái diều con cua hôm qua đã cho cậu Ba rồi. Cái diều này là của già Lâm mới đem cho đây, thả cái này vậy.

Bảo Ngọc xem kỹ một lúc, thấy cái diều mỹ nhân làm rất khéo, trong bụng rất thích, liền bảo thả lên.

Bấy giờ diều của Thám Xuân cũng đã mang đến. Thúy Mặc cùng mấy a hoàn đương thả ở trên sườn núi. Bảo Cầm sai a hoàn thả một cái diều con dơi. Bảo Thoa cũng cho thả một cái diều kết hình bảy con nhạn. Chỉ có cái diều mỹ nhân của Bảo Ngọc thả không lên được. Bảo Ngọc bảo bọn a hoàn không biết thả, tự mình ra thả một lúc lâu, diều chỉ lên cao bằng nóc nhà, rồi lại rơi xuống. Bảo Ngọc tức quá toát cả mồ hôi trán ra. Mọi người đều cười. Bảo Ngọc vứt ngay xuống đất trỏ vào cái diều, nói:

– Nếu mày không phải là diều mỹ nhân thì ta giậm một cái nát ra rồi.

Đại Ngọc cười nói:

– Đó là vì dây trên đầu buộc không đúng. Đưa cho người ta đổi đi, sẽ thả được ngaỵ Hãy lấy một cái khác đem ra mà thả.

Bảo Ngọc sai người thuộc lại dây, lại sai đi lấy cái diều khác đến. Mọi người đều ngửa mặt lên nhìn mấy cái diều đương bay ở trên không.

Bọn a hoàn lại đưa các món ăn đến. Tử Quyên cười bảo Đại Ngọc:

– Lúc này thích lắm, cô lại mà thả đi.

Đại Ngọc lấy khăn lót tay nắm dây để thả, quả nhiên gió rất to, vừa buông cuộn dây ra, liền nghe thấy soạt một tiếng, tức thì dây hết. Đại Ngọc mời mọi người đến thả. Ai nấy đều nói:

– Chúng tôi ai cũng có cả, cô cứ thả trước đi.

Đại Ngọc nói:

– Thả cũng thú đấy, nhưng tôi không nỡ lòng nào.

Lý Hoàn nói:

– Thả diều cốt để vui, cho nên mới nói là thả cái đen đủi. Cô cứ thả nhiều, cho nó mang hết cả bệnh của cô đi mới được.

Tử Quyên nói:

– Cô tôi hẹp hòi quá, cả năm chẳng thả được mấy cái, nay lại bảo là đau lòng. Thôi, cô không thả thì tôi thả vậy.

Nói xong, liền giật lấy cái kéo tây nhỏ trong tay Tuyết Nhạn, cắt soạt một cái, đứt dây, nói:

– Cho mày đi, rồi mang tất cả các bệnh đi theo.

Cái diều vù vù theo gió bay lên. Lúc đầu trông thấy diều chỉ bằng quả trứng gà, chớp mắt chỉ còn một điểm đen bằng ngôi sao, sau không trông thấy gì cả. Mọi người đều ngẩng lên nói:

– Thích quá, thích quá!

Bảo Ngọc nói:

– Đáng tiếc! Không biết nó rơi vào đâu? Rơi vào nơi đông người, trẻ con nhặt được còn khá; bằng như rơi xuống nơi đồng không hoang vắng, không một bóng người, thật tôi cũng lấy làm âm thầm cho nó. Sực nhớ ra, giá ta thả thế này, mà cho hai cái đi theo làm bầu làm bạn thì hay.

Rồi cũng lấy kéo cắt dây cho nó bay đi.

Thám Xuân đương định cắt dây cái diều phượng hoàng của mình, chợt nhìn thấy một cái diều phượng hoàng đang bay lên trời, liền nói:

– Không biết cái kia của ai?

Mọi người đều nói:

– Cô cứ cắt cái của cô đi, xem nó quấn lại với nhau thế nào?

Nói xong, thấy cái diều phượng hoàng này dần dần bay sát lại chập vào cái diều phượng hoàng kia. Mọi người đương định rút dây lại, thấy cái diều kia cũng rút dây. Hai cái đương quấn với nhau, lại thấy một cái diều thật to, có chữ “Hỷ” long lanh, có cả sáo vang lên như tiếng chuông trên lưng chừng trời, bay dần sát lại. Mọi người nói:

– Để cho cái này quấn vào, hãy hượm kéo về. Cả ba cái quấn vào nhau mới thích.

Quả nhiên cái diều chữ “Hỷ” quấn vào hai diều phượng hoàng. Ba cái cứ đảo tít mù, đều đứt cả dây rồi vù vù bay đi cả. Mọi người đứng xem vỗ tay cười:

– Thú thật! Không biết cái diều chữ “Hỷ” là của nhà ai, lại đâm ngay vào?

Đại Ngọc nói:

– Diều của tôi đã thả rồi. Tôi mệt lắm, phải về nghỉ thôi.

Bảo Thoa nói:

– Đợi chúng tôi thả xong, cùng về một thể.

Xem chị xem thả xong rồi ai nấy mới về. Đại Ngọc về phòng mệt lừ người.

1      Tức Chung Do và Vương Hy Chi, người đời Tấn, có tiếng là chữ tốt.

2      Dưới các bài từ, chúng tôi đặt thêm thể lục bát để các bạn đọc thưởng thức.

3      Kinh để cầu bình an sống lâu.

_________________


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.