Bạn đang đọc Hoàng Cung Dậy Sóng: Chương 6: Bức màn bí mật
Tịch dương đỏ rực như lửa, khép nép chìm dần sau dãy núi. Bóng tối dang rộng vòng tay khổng lồ của mình, từ từ ôm trọn cả bầu trời. Vầng trăng bạc treo cao lơ lửng, điểm xuyến lung linh. Trời vẫn còn chút ánh sáng của ban ngày. Phải rồi, vì giờ chỉ mới là chiều tối.
Từng đoàn cung tì và thái giám bước nhanh về phía phòng của Dương phi, trên mặt thoáng nét buồn rười rượi. Ắt hẳn là phải có chuyện gì. Sứ giả bước đến, không nén được tò mò hỏi một cung tì:
– Có chuyện gì xảy ra mà các ngươi tư dung buồn bã vậy, lại còn kéo nhau đến phòng của Dương phi?
Ả cung tì hơi ái ngại:
– Sứ giả thứ tội… e rằng… chuyện này nô tì không thể nói.
Sứ giả bực mình lớn tiếng:
– Ta muốn ngươi nói thì ngươi phải nói! Có chuyện gì?
– Dạ… – Ả cung tì ấp úng.
– Nói nhanh lên!
– Dạ… Dương phi nương nương, người đã…
– Thế nào? – Sứ giả quát.
– Có lẽ vì nghe Ngô Tiệp dư nói mình có liên quan đến chuyện hạ độc sứ giả nên Dương phi đã thắt cổ tự tử!
Sứ giả sửng sốt như không tin vào những gì mình nghe thấy:
– Ngươi nói cái gì? Tự tử?
– Dạ… dạ đúng! Lúc nãy người của phòng trang sức mang trâm cài đến cho Dương phi và… đã phát hiện nên…
Sứ giả có vẻ sợ sệt:
– Sao lại như vậy, chỉ vì chuyện đó mà Dương phi thắt cổ tự tử?
Tiếng ả cung tì lí nhí trong cổ họng:
– Nô tì không rõ.
Sứ giả hất hàm, gạt đi vẻ thàng thốt trên gương mặt:
– Thôi được rồi, ngươi đi đi, không có chuyện của ngươi nữa.
– Dạ vâng!
Người cung tì bước vào hàng ngũ, tiếp tục đi đến phòng của Dương phi. Sứ giả định bụng không đến nhưng dù sao ở trong hoàng cung của Lê triều, làm vậy cũng không phải phép. Ông mạnh dạn đến chia buồn cùng hoàng thượng. Ngài bế thái tử Lê Nghi Dân, khóe mắt lưng tròng nước. Quanh đó vẫn vang lên những tiếng khóc sụt sùi. Dương phi nằm im trên giường, dưới cổ vẫn còn một vết hằn đỏ.
– Quả thật tôi lấy làm thương tiếc cho Dương phi, đang sống yên lành lại phải… – Sứ giả lên tiếng, đưa mắt nhìn hoàng thượng.
Hoàng thượng buông tiếng thở dài, cố nén đau khổ:
– Mọi việc chưa hẳn đã đến đường cùng, sao nàng ấy lại làm chuyện dại dột như thế?
– Có lẽ Dương phi vì sợ tội mà tự sát. Người chết không thể sống lại, hoàng thượng đừng quá đau buồn!
– Lúc còn sống, Dương phi luôn thống lãnh hậu cung bằng tất cả trách nhiệm của mình, bây giờ cho dù có làm chuyện gì sai trái, trẫm cũng sẽ nương tình xử nhẹ, vậy mà… – Hoàng thượng ngậm ngùi, tình cảnh ấy thật khiến người ta chua xót.
– Số kiếp do trời định, Dương phi tạ thế là do duyên hồng trần đã mãn, chúng ta cũng không thể nào cãi lại được.
Hoàng thượng quay sang sứ giả, ánh mắt đầy nghi hoặc:
– Sứ giả, ngài… đã bao giờ gặp ma chưa?
Lại gì nữa đây. Câu nói lạ lùng của hoàng thượng làm sứ giả khó hiểu.
– Hoàng thượng, ý ngài là…
– Nếu một người chết trong oan ức, chắc chắn sẽ quay về tìm kẻ gây ra nỗi oan của mình mà báo thù.
Sứ giả lấm lét:
– Ngài… nói chuyện này với bổn sứ để làm gì?
– Không có gì! Trẫm chỉ nói bâng quơ vậy thôi!
Sứ giả dù chẳng biết hàm ý bên trong đó là sao, nhưng ông cũng phần nào thấy bớt căng thẳng.
– Ngài định khi nào mai táng cho Dương phi?
– Có lẽ là ngày mai! – Hoàng thượng lay bước, giọng trầm xuống. – Cả nước sẽ phải chịu quốc tang trong ba ngày.
Sứ giả bước ra cửa, nhưng vẫn ngoái đầu nhìn lại một lần nữa. Các phi tần và cung tì quỳ bên giường Dương phi, khóc than ai oán. Thấy cảnh ấy, đột nhiên sứ giả ớn lạnh cả sống lưng, nhất là khi nhìn vào gương mặt đầy thống khổ của Dương phi, như muốn bày giải một điều gì.
Ông trở về phòng, đóng sầm cánh cửa lại ngồi khuỵu xuống. Chưa bao giờ ông có cảm giác này – một nỗi ám ảnh. Không phải vì ông thương hại Dương phi, mà vì ông sợ cái mà hoàng thượng nói – hồn ma. Chỉ mới trưa nay, khi Ngự thiện phòng sắp sửa bị hành quyết, ông chẳng có chút sợ sệt nào. Vậy mà giờ đây, khi một người đã thật sự lìa đời… Khuôn mặt Dương phi, nó như hiện ra lồ lộ trước mắt, với vết hằn đỏ dưới cổ, một vẻ mặt dữ tợn, cay đắng. Ông cố cắn răn lắc đầu qua lại để không nhớ, nhưng nó không buôn tha ông. Cực chẳng đã, ông phải mở cửa phòng để ra vườn thượng uyển giải khuây. Bước chân nặng nề, và bóng trăng mờ ảo trên mặt hồ. Một hạt nước nhỏ rơi xuống, mặt nước tụ lại như muốn nuốt chửng bóng trăng. Giờ này có lẽ mọi người đều đang ở phòng của Dương phi và một vài nơi lân cận đó. Đèn lồng được thắp sáng khắp nơi nhưng sứ giả vẫn có cảm giác rờn rợn. Đêm nay vắng hơn mọi đêm, chỉ nghe thấy tiếng lá rơi xào xạc. Đôi ba cấm vệ quân và thái giám bước trong im lặng, rồi cũng dần khuất sau bóng tối. Đi được một lúc, sứ giả mới nhận ra mình đã ra khỏi vườn thượng uyển tự lúc nào. Có thứ gì đó rơi trên vai ông. Sứ giả quay phắt người lại, thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra đó chỉ là một chiếc lá. Rồi đột nhiên có tiếng động lạ vang lên từng hồi sau lưng, nhè nhẹ và đều đặn như tiếng giã điếu cày. Sứ giả toát mồ hôi, hai tay lạnh buốt lấy hết can đảm quay người lại, nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài một cái bóng đen mờ ảo rồi thập thò biến mất ngay sau đó. Sứ giả hơi run, bước đi như không định hướng và rồi cuối cùng đặt chân vào chánh điện. Nơi này càng vắng vẻ hơn nữa, và dù sự nghiêm trang, tráng lệ cũng không làm ông bớt đi nỗi sợ. Nghe nói nơi này trước đây đã từng bức tử nhiều cung tì, vì thế hàng loạt các giai thoại huyễn hoặc được đặt ra. Sứ giả cũng biết, nhưng bản thân ông cũng không hiểu tại sao mình lại có can đảm đến đây, có lẽ vì đây là nơi xảy ra vụ đầu độc đêm đó.
– Có ai ở đây không? – Sứ giả hỏi với ánh mắt chờ đợi. – Tôi vừa thấy có người đi vào đây, làm ơn trả lời đi!
Không ai lên tiếng, sứ giả thừa biết sẽ như vậy. Nhưng nỗi sợ bản năng cứ thôi thúc ông tiếp tục hỏi:
– Ta không thích đùa như vậy! Nếu là tên nô tài nào thì mau bước ra, nếu không đừng trách ta nói với hoàng thượng để các ngươi bị ngũ mã phanh thây, bị xử lăng trì! Có ai không?
Đáp lại câu hỏi vẫn chỉ là sự im lặng. Sứ giả bần thần tiến thêm vài bước nữa. Ông có cảm giác như có ai đó đang nhìn mình. À! Mà không, có lẽ đấy chỉ là tưởng tượng từ sâu trong tiềm thức của một con người đang sợ. Có thứ gì đó lướt trong gió nghe vun vút. Tiếp theo là một cảm giác đau điếng ở cổ, nó chạy ngược lên và hội tụ ở đỉnh đầu. Sứ giả chỉ biết có vậy, và một khoảng đen u tối bao trùm lên mọi thứ, ông không còn nhìn thấy gì nữa, ông tách biệt hoàn toàn với thế giới thực tại. Trong vô thức, ông vẫn cảm nhận được tấm thân mình đang ngã xuống.
******
Một cơn gió lạnh thổi qua gáy. Sau bao nhiêu cơn mơ kéo đến, sứ giả choàng tỉnh giấc. Ông không biết mình đã ngất được bao lâu và vì sao lại ngất. Ông đưa tay dụi mắt. Nhưng trước mắt ông giờ đây chẳng có chút ánh sáng. Tiếng gió hú len lỏi vào các cành cây nghe thê lương, ảm đạm. Sứ giả mò mẫm trong bóng tối, nghĩ thầm chắc mắt mình có vấn đề. Nhưng ý nghĩ đó ngay lập tức bị bác bỏ khi ông nhận ra có một luồng sáng le lói chiếu vào. Dù luồng sáng ấy rất bé, không đủ để xua đi sự tối tăm, mờ mịt, nhưng nó cũng gieo rắc trong ông một niềm hi vọng. Một người phụ nữ lặng lẽ bước ra cùng với luồng sáng, mặc bộ quần áo dành cho các cung phi, mái tóc xỏa dài.
– Cho tôi hỏi, đây… – Sứ giả ấp úng. – Đây là đâu?
Người phụ nữ không trả lời, mái tóc che khuất gương mặt cô nên sứ giả không thể nhận ra đấy là ai.
– Làm ơn… làm ơn cho tôi biết… đây là đâu. – Sứ giả nài nỉ trong hoảng loạn.
Một cơn gió lạnh khác lại phớt qua, làm thổi bay những sợi tóc xõa dài kia. Gương mặt trắng bệch, không chút sinh khí với vết hằn đỏ dưới cổ. Sứ giả cười như mếu, hai chân có cảm giác mềm nhũn ra, không di chuyển nổi. Toàn thân gần như tê dại, ông chỉ biết ú ớ:
– Cô… cô là…
Một cái nhếch môi, ẩn giấu nụ cười lạnh lùng:
– Ông… không nhận ra tôi sao?
Sứ giả tưởng như mình sắp bị nghẹt thở:
– Dương… Dương… phi… tại sao…?
Giọng nói hòa lẫn tiếng cười man rợ:
– Tôi chết không được siêu thoát! Vì ông! Chỉ vì ông… mà tôi bị nghi ngờ là kẻ hạ độc, là một người thống lãnh hậu cung mà lại bị kẻ khác khinh nhờn, xem như tội nhân, tôi tự tử cũng vì không chịu được nỗi nhục này!
Sứ giả nuốt nước bọt cố lấy hết can đảm lên tiếng:
– Tôi đâu có nói là cô hạ độc… tôi… tôi cũng đâu muốn cô chết… là… là Ngô Tiệp dư… là cô ta mà, nếu cô muốn tìm thì hãy tìm Ngô Tiệp dư… đừng… đừng tìm tôi!
– Nhưng nếu không có kẻ dàn ra mọi chuyện. – Giọng nói kia đầy phẫn uất. – Thì Ngọc Dao sẽ không bắt tay vào điều tra. Từ lâu ả đã luôn muốn trừ khử tôi nên lần này… chính là cơ hội tốt nhất!
– Nhưng chuyện đó đâu… – Sứ giả lấm lét, mồ hôi tuôn ra như suối. – Đâu có liên quan gì tới tôi.
– Vậy tôi hỏi ông… ai là kẻ hạ độc?
– Tôi… sao tôi biết!
– Được! – Lại một nụ cười ma mị. – Chúng ta sẽ cùng đến gặp Diêm Vương Gia đối chứng, tới lúc đó… ông chẳng thể gian dối nửa lời.
– Cái gì? – Sứ giả hoảng hốt.
– Nơi này chính là ranh giới giữa dương gian và địa ngục, có muốn tôi trả ông về dương thế hay không là tùy quyền quyết định của ông. Chỉ một lúc nữa thôi, sứ giả của âm ty sẽ đến đây, tới lúc đó cả tôi và ông sẽ… – Câu nói bỏ lửng kèm theo ánh mắt tràn ngập hận thủ khiến sứ giả phát khiếp.
– Đừng… tôi… tôi vẫn chưa muốn chết, tôi không muốn xuống địa ngục, đừng…
– Vậy rốt cục… mọi chuyện là sao?
Sứ giả ậm ừ hồi lâu rồi lên tiếng:
– Thật ra… mọi kê hoạch đều do hoàng đế Minh triều khởi xướng, tôi chỉ thừa lệnh sắp đặt kế hoạch mà làm. Trước lúc yến tiệc sắp diễn ra, tôi… đã thoa sẵn Châu Hồn Tán ở đầu ngón tay và chuẩn bị cả một nắp bình rượu có chứa thuốc độc rồi…
– Rồi sao?
– Vì Châu Hồn Tán chỉ phát huy tác dụng khi ở trong trà và rượu nên lúc nâng chung trà lên uống, tôi đã chấm đầu ngón tay ấy vào đó, cố gắng uống cho kì hết để không sót lại manh mối gì. Đến khi màn diệu vũ được khai mở, tôi cố tình tỏ ra say mê một ả cung nữ để cô ta tiến lại gần, vô tình giúp tôi che tầm mắt mọi người. Đồng thời lúc đó ai cũng chỉ chăm chú xem múa, còn cô ta thì chỉ chăm chú vào ly rượu dâng lên miệng tôi, thừa dịp tôi đã…
– Đã tráo đổi nắp bình rượu?
– Đ… đúng! – Tôi đã giấu sẵn nó trong tay áo.
Dương phi cười khinh bỉ, lẳng lặng bước đến gần.
– Cô… cô đã hứa với tôi… cô sẽ tha cho tôi. Cô… cô… không được thất hứa… Tôi xin cô… chỉ cần cô đưa tôi về dương thế, tôi sẽ ngày ngày mời tăng ni đến tụng kinh niệm phật cho cô được siêu thoát, tôi sẽ thành tâm phúng điếu, tôi sẽ…
– Nói nhiều quá! – Dương phi cắt ngang, thần sắt bỗng trở nên bình thường, không còn dữ tợn như trước. – Tôi vốn không có khả năng bắt ông đi!
– Là… là sao? – Sứ giả hỏi, trong khi chưa hết sửng sốt thì Dương phi lên tiếng:
– Đơn giản vì tôi chưa chết.
– Vậy mọi chuyện là…
Ngay lúc đó, cái bóng tối u ám ban nãy đã lập tức bị xua đi, trả lại nguồn sáng rực rỡ. Đèn lồng được thắp lên. Sứ giả bàng hoàng khi nhìn thấy những tấm bình phong che ánh sáng được tháo xuống. Dương phi đứng đấy, hiện ra là một con người bằng xương bằng thịt, nhìn sứ giả mà chẳng nhịn được cười. Hoàng thượng ngự ở long ngai, gật gù tỏ vẻ hài lòng. Bên cạnh còn có Ngọc Dao, Thần phi, Bùi quý nhân, Nguyễn Trãi, quan thái y và các quan đại thần khác. Đây chẳng phải âm ty, cũng chẳng phải ranh giới địa ngục gì cả, mà là chánh điện. Sứ giả như chẳng tin nỗi vào mắt mình, hóa ra từ nãy đến giờ ông đang làm trò cười ọi người. Sỉ diện bị đánh mất, danh dự bị người ta coi thường, ông đứng lên nhìn hoàng thượng mà thẳng thừng:
– Các người… các người gài bẫy ta?
Hoàng thượng vẫn bình thản:
– Nếu không làm vậy thì sao biết được thực hư bên trong như thế nào? Huống hồ trưa nay ngài cũng nói là muốn biết sự thật, chúng tôi chỉ chiều ý ngài thôi!
Dương phi cũng tiếp lời:
– Ông đã dàn ra một vở kịch khiến hơn chục mạng người suýt nữa đầu lìa khỏi cổ. Chúng tôi chỉ muốn tìm lại sự công bằng. Đã có rất nhiều suy đoán được đặt ra, nhưng người tính không bằng trời tính. Ông cứ nghĩ tất cả đã hoàn hảo, song không ngờ rằng có một ít trà trong chung trà của ông đã rơi vào kẽ hở của bàn. Vì không thể khô nhanh chóng được nên cuối cùng nó vẫn bị phát hiện. Cũng nhờ Ngô Tiệp dư tùy cơ ứng biến, dùng kế dựng địa ngục giả mới khiến ông không đánh mà khai.
Hoàng thượng dõng dạc:
– Đất nước chúng tôi tuy nhỏ bé, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không để ngoại bang mượn cớ gây chiến. Sinh linh đầu tháng, máu chảy thành sông, đó là kết quả của những cuộc chiến vì sự ích kỉ của bậc đế vương. Nhắn lại với hoàng đế Minh triều các ngài, chúng tôi vẫn muốn hai quốc gia tiếp tục giữ vững nền hòa hiếu. Chúng tôi sẽ không làm khó dễ ngài, mong ngài nên biết lấy đại cuộc làm trọng. Chuyện hôm nay coi như là một bài học dành cho ngài.
Sứ giả ngượng đỏ cả mặt, nhưng vẫn cố gắng biện hộ:
– Các người muốn tìm ra sự thật thì tôi không nói, nhưng các người làm vậy chẳng khác gì sỉ nhục sứ thần.
Dương phi cũng chẳng nhịn:
– Đã làm chuyện sai trái, không những không hối lỗi mà còn chấp mê bất ngộ.
Nguyễn Trãi thấy vậy vội đỡ lời:
– Đã là người thì không ai là không phạm sai lầm, điều quan trọng là có biết sửa sai hay không. Việc ngài làm không chỉ trái với thiên đạo mà còn nghịch với nhân lí. Chúng tôi làm thế này là để ngài tự nhận ra khuyết điểm mà sửa chữa, so với việc chúng tôi thẳng thừng đứng ra chỉ trích ngài, cái nào tế nhị hơn?
Sứ giả im lặng hồi lâu, gương mặt cũng bớt phần phẫn nộ. Nguyễn Trãi tiếp:
– Muốn người ta không biết, trừ khi mình đừng làm. Nếu là sự thật thì sớm muộn gì cũng sẽ bị phơi bày. Chân lý này mong ngài hiểu.
– Trời không còn sớm nữa, ngài hãy về nghỉ ngơi để sáng ngày mai còn lên đường. – Hoàng thượng nói, vẻ thân thiện.
Sứ giả cúi đầu quay bước đi. Một cánh hoa rơi, lặng lẽ đậu trên vai ông. Tiết xuân cũng làm lòng người vơi bớt nỗi ưu tư. Nhân chi sơ tính bổn thiện, bản tính sứ giả không xấu, chẳng qua chỉ mù quán trong một lúc nhất thời. Đâu đó thoang thoảng trong không gian, ông vẫn cảm nhận được hương rượu nồng đượm hòa lẫn với tiếng đàn đêm khuya vắng.