Bạn đang đọc Họa Quốc – Tập 1: Quyển 2 – Chương 49
Dì Mai lại bưng chén nước kề sát môi Khương Trầm Ngư, mắt nàng đỏ vằn lên, cuối cùng đành há miệng. Dì Mai thuận thế dốc cả chén nước vào miệng nàng.
“Đúng rồi, như thế mới ngoan”. Đỗ Quyên cũng không úp úp mở mở, thẳng thắn giải thích: “Trên thế gian này có rất nhiều thứ vốn không độc, nhưng kết hợp với nhau lại có thể biến thành không an toàn. Trong bữa tiệc tối, ngoại trừ trong thức ăn ở bàn của ngươi và Giang Vãn Y là không bỏ một loại hương liệu tên là “Ngọc Lộ”, còn những người khác đều ít nhiều nếm phải nó, đặc biệt là Kỳ Úc hầu ăn nhiều nhất”.
Mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch, rất vất vả mới nói nên lời: “Có Ngọc Lộ, sẽ có Kim Phong, đúng không?”.
“Rất thông minh. Cái gọi là Kim Phong thực ra chính là mùi hương tỏa ra từ phần rễ của hoa súng”. Đỗ Quyên nhướng mày nói: “Kim Phong Ngọc Lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số[2]. Kỳ Úc hầu ăn Ngọc Lộ vào, lại ngửi mùi Kim Phong, e rằng muốn bỏ nhân gian mà đi…”.
[2] Xem chú thích ở tập một.
Kim Phong Ngọc Lộ hễ tương phùng.
Có lúc bi ai đến cùng cực, lại muốn bật cười.
Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên, nước mắt lại trào ra khỏi tròng mắt theo nụ cười mỉm đó, lặng lẽ rơi xuống.
Đây là lần thứ hai nàng nghe thấy câu nói liên quan đến Cơ Anh này, lần đầu tiên là ở Trình quốc, khi Di Thù mê hoặc Cơ Anh. Công tử và câu nói này thật có duyên… thật có duyên… thật có duyên…
Đầu óc nàng đã hoàn toàn đánh mất sự nhanh nhạy cơ trí thường ngày, nên đành nhắc đi nhắc lại phán đoán vô cớ này hết lần này đến lần khác.
Nàng ngồi đấy nhìn ngọn đèn, nghe tiếng người, liên tưởng đến nam tử áo trắng phấp phới đó, lại nhìn kỹ nữ nhân mỉm cười gần ngay trong gang tấc này, chỉ cảm thấy tất cả của tất cả đều không chân thực.
Không chân thực biết bao.
“Hãy giết ta đi!”. Khương Trầm Ngư nói khẽ bằng một giọng điệu bình tĩnh đến chết chóc.
Nụ cười trên gương mặt Đỗ Quyên nhạt dần, vẻ mặt phức tạp im lặng rất lâu, rồi mới trả lời: “Ngươi biết điều này là không thể”.
“Hãy giết ta đi!”. Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu, rồi lại chậm rãi thở ra, nói ra hai tiếng cuối cùng: “Tỉ tỉ”.
Giấy trắng.
Tiết Thái bất động hồi lâu.
Mưa tầm tã thấm ướt trang giấy trắng, nó không còn cứng cáp nữa mà mồm oặt rũ xuống.
“Thật… là… làm bộ làm tịch…”. Tiết Thái khẽ lầm bầm. Rõ ràng trước đó vẫn viết chữ, sau cùng lại đưa cho hắn một tờ giấy trắng, đúng là nếu luận về giả vờ giả vịt, làm bộ làm tịch thì trên đời này chẳng ai bì được với Cơ Anh.
Nhân lúc tứ phía hỗn loạn, Tiết Thái vo tròn tờ giấy bỏ vào trong tay áo, vuốt nước mưa trên mặt, quay người đi lẫn vào trong màn mưa, không lâu sau thì biến mất giữa biển người.
Mà cùng lúc đó trong Tây viện, hai người ngồi im lặng đối diện nhau, không ai chịu lên tiếng trước.
Bỗng một người vội vã mở cửa chạy vào, hoảng hốt nói: “Phu nhân phu nhân, không hay rồi, không hay rồi!”.
Đỗ Quyên khẽ cau mày: “Chuyện gì”.
“Đông viện bị cháy, thành chủ đã tự mình xông vào biển lửa cứu người”.
Đỗ Quyên “hừ” một tiếng: “Biết ngay là y sẽ làm thế. Dì Mai, dì đi xem, dì biết phải làm thế nào rồi chứ?”.
“Vâng”. Dì Mai cùng với người đó mau chóng rời đi. Cứ thế, trong căn phòng chỉ còn lại hai người: Khương Trầm Ngư và Đỗ Quyên. Đỗ Quyên xoắn một món tóc, cười rất tươi: “Từ lúc nào muội biết đến sự tồn tại của ta?”.
“Mười tuổi”.
“Làm sao biết được?”. Trên gương mặt Đỗ Quyên thoáng chút mỉa mai: “Chuyện xấu xa như thế, lệnh tôn không thể nói thẳng cho muội nghe được, đặc biệt có cả… vị Khương Họa Nguyệt kia”.
Đáy mắt Khương Trầm Ngư nổi lên chút mơ hồ – Đúng thế, rốt cuộc làm sao mà nàng biết được? Thực ra, chẳng phải là… luôn không hay biết gì sao?
Tuy những dấu vết đó tản mát trong những mảnh ký ức, nhưng nàng thực sự chưa từng sắp xếp và phân tích chúng. Chỉ là loáng thoáng biết rằng, phụ thân có bí mật, mà bí mật đó, ông không chỉ giấu ba huynh muội nàng, giấu mẫu thân, mà còn giấu tất cả mọi người…
Mùng một Tết năm nàng lên mười.
Quản gia mang đến một bồn hoa lan, nói là không biết ai đã đặt ở ngoài cửa, nhìn đẹp mắt, lại nhớ ra phu nhân yêu hoa, cho nên mới bưng vào dâng lên. Đương nhiên là mẫu thân rất vui vẻ, cảm thấy trời ban báu vật, coi đó là điềm lành. Nhưng đêm đó khi chuyển bồn cho cây hoa, lại đào được một vật từ trong bọc đất, đó là một hòn đá vô cùng bình thường, phía trên vẽ hai con mắt.
Mẫu thân nhìn thấy tấm tắc kêu lạ, nhưng khi đưa cho phụ thân xem, phụ thân bất ngờ biến sắc.
Đêm đó, đèn trong thư phòng sáng cả đêm, rất nhiều ám vệ ra ra vào vào, bóng dáng phụ thân hắt trên giấy dán cửa sổ đi đi lại lại. Trực giác mách bảo với Khương Trầm Ngư rằng, có chuyện gì đó đã xảy ra. Nhưng phụ thân vẫn luôn thần thần bí bí như thế, vì vậy nên nàng cũng không nghĩ ngợi gì nhiều.
Từ đó về sau, mùng một Tết năm nào bên ngoài cửa phủ cũng xuất hiện một bồn hoa lan, mà người tặng hoa mãi vẫn không lộ diện. Nhắc đến chuyện này, dĩ nhiên mẫu thân nàng chỉ coi đó là một giai thoại, còn thái độ của phụ thân mỗi lần như vậy đều có gì đó gượng gạo.
Chắc chắn ông biết người tặng hoa là ai.
Hơn nữa, ông còn không định nói cho mẫu thân biết đáp án.
Vì thế, Khương Họa Nguyệt còn nói đùa, không chừng phụ thân có tình nhân ở bên ngoài, nên mùng một Tết mỗi năm vị tiểu thiếp đó đều sốt sắng tặng quà cho đại nương. Khương Hiếu Thành tỏ vẻ đồng ý với kết luận này. Nhưng Khương Trầm Ngư lại không cho rằng như vậy.
Bởi vì, một nam nhân giống như phụ thân nàng, nếu thực lòng muốn nạp thiếp bên ngoài, thì người thiếp đó tuyệt đối sẽ không có cơ hội xuất hiện trước mặt mẫu thân nàng với bất cứ hình thức hay cách thức nào; chứ đừng nói là sau lần đầu tặng quà bị phụ thân biết được, còn có lần thứ hai.
Về sau, khi bắt đầu học y thuật với Giang Vãn Y, lúc tra cứu tư liệu nàng vô tình phát hiện ra sự kỳ lạ của các thành phần dược liệu có mùi rất thơm mà Khương Họa Nguyệt uống, bao gồm hạt cải dầu và hoa cà tím. Theo “Bản thảo cương mục”, hạt cải dầu sắc cùng với sinh địa, bạch thược, đương quy và xuyên khung, uống vào sẽ có tác dụng triệt sản. Cũng tức là sẽ dẫn đến chứng vô sinh. Mà hoa cà tím cũng là thuốc tránh thai.
Tại sao trong phương thuốc chữa vô sinh của Họa Nguyệt, lại có vị thuốc dẫn đến chứng không thể đậu thai?
Phát hiện điểm kỳ lạ này, Khương Trầm Ngư còn chưa kịp tiếp tục tra cứu kỹ hơn thì đã gặp chuyện ở Hồi thành.
Hôm nay, khi nhìn thấy hoa lan trong dịch trạm, trong tâm trí nàng hơi xao động nhưng vẫn chưa liên hệ ba sự kiện với nhau. Nhưng khi Đỗ Quyên nắm tay nàng, nói tặng hoa cho nàng, thì nàng đã bắt đầu lờ mờ cảm thấy có gì đó không đúng. Đến khi đánh cờ, phát hiện nụ cười thẹn thùng của Đỗ Quyên rất quen thuộc vì nàng ta giống mẫu thân của mình đến ba phần thì phong ấn lâu ngày cuối cùng đã ầm ầm sụp đổ, ào ào lao ra, đó chính là lời nguyền rủa đối với vận mệnh, sự mỉa mai đối với gia tộc…
Nếu như, Đỗ Quyên chính là người tặng hoa đó;
Nếu như, Đỗ Quyên và phụ thân luôn ngầm liên hệ, vậy thì đó là mối quan hệ như thế nào mới có thể khiến phụ thân ngầm cho phép nàng ta tặng hoa cho mẫu thân hàng năm? Mới tiết lộ tin tức cơ mật Di Phi cũng ở trên thuyền đi sứ cho nàng ta? Và phải là tình cảm như thế nào thì mới khiến cho nàng ta tặng hoa cho phu nhân của hữu tướng hàng năm? Khiến nàng ta khi nhắc đến mẫu thân, lại đầy vẻ khao khát và tình cảm?
Một khả năng nào đó nổi lên trong đầu nàng…
“Tỉ tỉ?”
Khương Trầm Ngư thốt ra hai tiếng ấy bằng tâm trạng tuyệt vọng nhất cùng phong thái bình tĩnh nhất. Trong âm điệu có ba phần thăm dò bảy phần cầu nguyện. Đáng tiếc kết cuộc cuối cùng là…
Đỗ Quyên không hề phủ nhận.
Tại sao…
Tại sao lại để suy nghĩ hoang đường nhất này của nàng trở thành sự thực? Tại sao lại để nàng biết trước đáp án, rồi lại đi đoán lý do? Giống như giờ này phút này, khi biết rõ thân phận thực sự của Đỗ Quyên rồi, cảm giác nghi hoặc mơ hồ trong đầu Khương Trầm Ngư đã biến thành một lưỡi dao cứng như thép, mỗi câu hỏi đều là một vết thương:
Tại sao Đỗ Quyên lại là tỉ tỉ của nàng?
Tại sao tỉ tỉ của nàng lại bị mù?
Tại sao phụ thân chưa bao giờ nhận đứa con gái này?
Tại sao nàng ta lại được gả cho Vệ Ngọc Hành, giờ lại ngồi bày ván cờ ở đây?
Nàng ta muốn gì? Hay là, phụ thân… muốn gì?
Từng lý do trong đó, Khương Trầm Ngư không phải không thể nghĩ ra, mà là không dám. Nàng không dám nghĩ.
Nàng chỉ có thể sững sờ ngây ngốc nhìn Đỗ Quyên gần trong gang tấc, bờ môi run rẩy, ánh mắt lấp lánh lệ, một từ cũng không thốt nên nổi.
Nàng câm lặng, còn Đỗ Quyên lại lên tiếng: “Buồn sao? Trầm Ngư?”.
Khương Trầm Ngư không lắc nổi đầu.
“Đau lòng sao? Trầm Ngư?”.
Khương Trầm Ngư không nén nổi lòng.
Đỗ Quyên cười nhạt, giọng nói mảnh như tơ, từng chút từng chút đan vào nhau, mềm mại khẽ khàng, nhưng rất chắc nịch: “Phát hiện mình vô duyên vô cớ có thêm một tỉ tỉ; phát hiện người trong lòng mình tính mạng như chỉ mành treo chuông; phát hiện một âm mưu tày trời thực ra đã bắt đầu được giăng bẫy, chuẩn bị, nung nấu từ rất nhiều năm trước; phát hiện cái thế giới mà ngươi tưởng rằng hạnh phúc, vui vẻ sung sướng thực ra là giả… phát hiện ra tất cả, ngươi có muốn khóc không?”.
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, không chịu trả lời.
Đỗ Quyên liền tự mình nói tiếp; “Nhưng so với kẻ không biết gì, hưởng phú quý trong mộng là ngươi, ta mới là kẻ có tư cách nhất, có lý do nhất để khóc chứ. Bởi vì, ta là kẻ bị hy sinh, bị vứt bỏ, bị tước đoạt quyền được hạnh phúc rồi lại phải cam tâm tình nguyện để cho người khác lợi dụng…”.
Cuối cùng Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói mềm mỏng: “Ta… có thể không nghe được không? Ta… không muốn nghe”.
Trong thoáng chốc, mặt Đỗ Quyên sầm lại, nghiến răng nói: “Ngươi dựa vào cái gì mà có thể không nghe? Đây là vận mệnh của ta cũng là vận mệnh của Khương gia, ngươi, Khương Trầm Ngư, dựa vào cái gì mà không nghe?”.
Câu nói này giống như một cái bạt tai, đập mạnh vào mắt Khương Trầm Ngư, cả người nàng chao đảo, im lặng trở lại.
Thế là, chuyện cũ thối nát trong chớp mắt đã làm vết sẹo vỡ toác, chất dịch tanh tưởi màu đen tràn ra khắp nơi, mưa rơi sấm giật bên ngoài cửa sổ, rõ ràng là mùa hạ tháng tám oi bức, nhưng đêm nay lại lạnh đến thấu linh hồn.
Ngày hai mươi tư tháng sáu của mười tám năm về trước, trong nhà của hữu tướng Khương Trọng, Khương phu nhân sau cơn giày vò đau đớn suốt ba ngày trời, cuối cùng đã sinh hạ một cô con gái, nhưng Khương Trọng còn chưa kịp được hưởng niềm vui có con gái cưng đã phát hiện đứa bé này bị mù bẩm sinh.
Sau khi cửa phòng sinh đóng im ỉm suốt một canh giờ, Khương Trọng mới mở cửa bước ra, tuyên bố với bên ngoài con gái vừa chào đời đặt tên là Họa Nguyệt.
“Thừa tướng phu nhân mong đợi đứa trẻ này đã lâu, nếu biết đứa trẻ mình hoài thai suốt mười tháng trời, đau đớn ròng rã ba ngày mới sinh hạ lại là một đứa bé mù, thì hẳn sẽ đau lòng biết bao nhiêu. Sinh con khó khăn, cơ thể suy nhược, khí tức yếu ớt, nếu tiếp tục bị kích thích, e là bà sẽ không chịu được cú sốc này mà qua đời. Cho nên, người vốn cực kỳ yêu vợ như thừa tướng đại nhân đã mua chuộc đám người hầu, bà đỡ có mặt hôm đó, đem đổi lấy một bé gái khỏe mạnh. Đứa bé mù bị đem cho một đôi vợ chồng câm điếc trong một thôn hẻo lánh nuôi. Còn đứa bé khỏe mạnh kia được giữ lại trong phủ, trở thành đại tiểu thư ngồi mát ăn bát vàng”. Giọng điệu của Đỗ Quyên rất bình tĩnh, thậm chí không hề có chút lên xuống nào, nhưng sự mỉa mai tràn ngập gương mặt: “Thừa tướng đại nhân yêu vợ ông ta làm sao, vì sự an nguy của vợ mà đến đứa con ruột cũng chẳng cần, thật khiến người ta xúc động. Tình yêu vĩ đại quá… chậc chậc chậc… ngươi không cảm động ư? Trầm Ngư? Hơi thở của ngươi sao lại gấp gáp như thế? Ngươi đang khóc sao? Thực ra ngươi đâu có gì phải khóc? Ta nghe nói không những ngươi khỏe mạnh mà còn rất xinh đẹp, không những xinh đẹp mà còn rất thông minh, không những thông minh, quan trọng nhất nhất là ngươi còn rất hiếu thuận. Thứ họ muốn chính là một đứa con gái như ngươi đấy. Ngươi là đứa con phù hợp với tất cả mọi điều kiện của Khương gia, cho nên, ngươi không bị đánh tráo, ngươi đâu cần phải khóc”.
Một tia chớp xé trời, soi rõ gương mặt trắng xanh lạnh lùng và méo mó của Đỗ Quyên. Nàng ta vừa cười tự trào như thế, vừa tiếp tục chậm rãi nói với giọng như nước không gợn sóng: “Thuở nhỏ, cha và mẹ nói với ta, trong núi có một nàng tiên hoa, người có duyên nếu gặp được nàng, cầu ước điều gì cũng sẽ thành sự thực. Cho nên, rõ ràng ta không nhìn thấy gì, nhưng ngày nào cũng chạy vào trong núi, ta luôn hy vọng có thể gặp được nàng tiên hoa ấy, cầu xin nàng chữa lành đôi mắt cho ta, chữa lành đôi tai cho cha, chữa lành cổ họng cho mẹ, để cả nhà chúng ta được khỏe mạnh, giống như những người bình thường khác. Ta cứ tìm mãi tìm mãi mà không thấy nàng tiên hoa, nhưng lại học được rất nhiều thứ, ví như có một số loài hoa phải trồng bằng những cách đặc biệt, có những loài hoa nhìn có vẻ an toàn nhưng thực ra là loài kịch độc. Ta học từng chút từng chút một, sờ mó từng chút từng chút một, cuối cùng, năm mười ba tuổi, chậu hoa lan lớn nhất ta trồng đã bắt đầu nở hoa. Cha mẹ bàn sẽ đem nó tặng cho vị đại ân nhân của họ, ta rất không nỡ nhưng họ vẫn đem đi. Tết đến, họ đi mấy chục dặm đường núi để tặng hoa, rồi lại đi mấy chục dặm đường núi để quay về, tâm trạng rất vui vẻ hào hứng, cảm thấy mình đã báo đáp được vị đại ân nhân đó. Nhưng ngày hôm sau, khi ta còn chưa tỉnh ngủ, đã ngửi thấy mùi máu tanh vấy khắp mọi nơi… Ngươi đang nín thở sao? Ngươi cũng đoán được chuyện gì rồi chứ? Không sai, bồn hoa đó đã gây ra đại họa, vì ta đã vẽ một đôi mắt trên hòn đá rồi vùi vào trong đất để cầu nguyện với thần hoa. Nhưng kẻ có tật giật mình nào đó lại tưởng đó là sự uy hiếp, nên cả quyết sai bọn ám vệ, cha và mẹ ta…”. Nói đến đây, Đỗ Quyên ngừng lại một lát, giọng nói trở nên xa xôi: “Bị giết chết…”.