Hiệp Cốt Đan Tâm

Chương 29: Chìm sông may có thuyền câu đến Tìm bắt còn kinh kiêm báu rung


Đọc truyện Hiệp Cốt Đan Tâm – Chương 29: Chìm sông may có thuyền câu đến Tìm bắt còn kinh kiêm báu rung

Thạch Hà Cô phẫn uất:

“Bà đã nuôi lớn tôi, nếu muốn lấy lại mạng này thì cứ lấy, tôi không cần xin thuốc giải”.

Nói chưa dứt lời, chợt có người khen rằng:

“Đúng, có chí khí. Thạch cô nương, đừng sợ mụ ta!” Người này chưa lộ mặt,
nhưng giọng nói đã truyền tới Thạch Hà Cô cả mừng, còn Hạ đại nương
hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán. Té ra kẻ ấy chính là Kim Trục Lưu.

Khi Hạ đại nương định bỏ chạy, chợt thấy có một bóng người lướt tới trước mặt mụ. Hạ đại nương quát:

“Tên tiểu tử, ta liều với ngươi!” Rồi mười ngón tay vươn ra toan tóm lấy Kim Trục Lưu. Mười ngón tay của mụ ta đã được tẩm độc.

Kim Trục Lưu cười lớn:

“Mụ yêu bà chết tới nơi mà còn muốn hại người!”.

Chàng vừa nói dứt kiếm đã rút ra, nhát kiếm vừa chém tới mười chiếc móng tay của Hạ đại nương rụng xuống lả tả.

Thạch Hà Cô vội vàng kêu:

“Kim đại hiệp nương tay!” Kim Trục Lưu tung ra một cước, đá Hạ đại nương bay lên, cầm kiếm mắng:

“Mụ yêu bà thật đáng ghét! Nể mặt Thạch cô nương, ta chỉ chém rụng độc trảo của ngươi. Nếu không biết hối hận, lần sau ta sẽ lấy mạng chó của
ngươi!” Hạ đại nương bò dậy, ba chân bốn cũng chạy vào tổng đà Lục Hợp
bang chứ nào dám trả lời!

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất
nhanh, Kim Trục Lưu đuổi xong Hạ đại nương lách người bước tới phía
trước mặt Sử Bạch Đô. Sử Bạch Đô đang định vỗ xuống một chưởng, chợt
thấy ánh xanh loé lên, cây trường kiếm của Kim Trục Lưu đã chém ngang
tới, kiếm thế ảo diệu vô cùng, Sử Bạch Đô vội vàng rụt tay lại.

Kim Trục Lưu nói lớn:

“Trần đại ca, huynh hãy cùng Hà Cô đến tiếp ứng cho bằng hữu Cái Bang, nhường Sử bang chủ cho tôi”. Trần Quang Chiếu đã sức cùng lực kiệt, biết mình
không giúp được cho Kim Trục Lưu, chỉ đành lui xuống theo lời chàng.

Kim Trục Lưu cười ha hả:

“Sử bang chủ, chẳng phải ông muốn quyết đấu với tôi ư? Sao còn chưa xông tới? Nào, tôi nhường ông ba chiêu!”.

Sử Bạch Đô thầm thất kinh, nhủ rằng:

“Tên tiểu tử này thật quái dị, y đã trúng độc châm của Hạ đại nương, rõ ràng đã bị thương, nên lúc nãy mới không dám giao thủ với mình. Tại sao chỉ
qua một lúc mà y chẳng hề gì!” Tuy nghĩ như thế nhưng miệng vẫn quát:

“Ngươi đã là bại tướng của ta, ai cần ngươi nhường?”.

Kim Trục Lưu cười nói:

“Ngươi đã đánh với Trần Quang Chiếu một trận, ta không muốn chiếm phần lợi, ta nhường ngươi ba chiêu”.

Sử Bạch Đô nổi giận, quát:

“Được, ngươi cứ nhường!” Rồi vận huyền công dồn nội lực vào trong lòng bàn
tay, đột nhiên y xoay người hai chưởng vỗ về phía Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu kêu lên:

“Ôi chao, thật lợi hại!” Chàng chỉ vờ kêu lên nhưng khiến cho Trần Quang Chiếu giật mình.

Kim Trục Lưu lảo đảo tựa như đứng không vững, nhưng đột nhiên chàng phóng
lướt người lên. Mọi người nhìn tưởng rằng chưởng ấy của Sử Bạch Đô đã
đánh vào người chàng, nhưng thực sự lại chẳng chạm được vào tà áo chàng.

Kim Trục Lưu phóng vọt người lên, cười hì hì:

“Thật lợi hại, may mà không sao”. Lúc này Trần Quang Chiếu mới yên tâm:

“Té ra y bỡn cợt Sử Bạch Đô”. Lúc này người của hai bang đã hỗn chiến,
người của Lục Hợp bang hơn người của Cái Bang nhiều lần, Cái Bang chỉ
đành lập trận chống trả, tình thế rất bất lợi. Trần Quang Chiếu yên tâm, sau khi hít một hơi cùng Thạch Hà Cô phóng lên trợ chiến.

Sử
Bạch Đô đánh không trúng, lập tức liên tục phát chưởng, tuy chưởng nào
chưởng nấy đều rất uy mãnh nhưng chẳng làm gì được Kim Trục Lưu.

Khi Sử Bạch Đô tưởng rằng có thể làm khó được Kim Trục Lưu, chợt thấy bốn
phương tám hướng đều là bóng dáng của chàng. Y thất kinh, không biết
chàng tấn công từ hướng nào cho nên vội vàng thu chưởng thủ thế. Chợt y
cảm thấy cổ mát rượi, té ra Kim Trục Lưu đã đi vòng ra sau lưng của y,
thổi một luồng khí lạnh. Sử Bạch Đô cả giận quát:

“Tên tiểu tặc
dám bỡn cợt ta!” Rồi trở tay chụp lại, người không quay đầu nhưng sau
lưng tựa như có đôi mắt, chưởng và chỉ đều tấn công vào chỗ yếu hại của
Kim Trục Lưu. Hai bên cách nhau rất gần, dù Kim Trục Lưu né tránh nhanh
nhưng cũng bị y xé toạc tấm áo.

Kim Trục Lưu vội vàng tránh ba chiêu, tuy không bị thương nhưng mồ hôi cũng ra đầm đìa, lòng thầm nhủ:

“Mình cũng nên ngừng lại”. Thế rồi rút soạt thanh kiếm ra nói:

“Sử bang chủ, tôi đã nhường ông ba chiêu, có đi thì phải có lại, xin thứ tôi không thể nhường nữa!”.

Sử Bạch Đô rất mất mặt, gầm lên như sấm liên tục phát đòn. Nào ngờ Kim
Trục Lưu đang muốn y như thế, đối phương buộc chàng quyết chiến nhưng
chàng lại cứ đánh theo lối du đấu, triển khai Thiên la bộ pháp luồn qua
lách lại trước mặt Sử Bạch Đô, cây thanh cương kiếm cứ chỉ đông đánh
tây, chỉ nam đánh bắc, kiếm quang tựa như bươm bướm xuyên hoa, mũi kiếm
toàn chĩa vào chỗ yếu hại của Sử Bạch Đô. Lúc nãy khi giao thủ, Kim Trục Lưu phải vận công ngự độc. Giờ đây vì Sử Bạch Đô đã trúng thuốc độc của Thạch Hà Cô cho nên không thể kéo dài được lâu. Lúc nãy Kim Trục Lưu
biết mình không địch lại nên né tránh. Còn bây giờ Sử Bạch Đô lại không
biết tự tương sức mình, cứ dồn hết sức ra đánh.

Trong màn chưởng
phong kiếm ảnh, Sử Bạch Đô chợt nhảy dựng lên trông rất buồn cười. Té ra loại bột phấn của Hà Cô chuyên làm cho người ta ngứa ngáy khó chịu. Sử
Bạch Đô dốc hết toàn lực đối phó với Kim Trục Lưu, không thể vận công
ngự độc nên chất độc phát tác rất nhanh.

Kim Trục Lưu cười:

“Mãnh hổ đã trở thành khỉ đột, ta không muốn trêu khỉ đột, ngươi có muốn đánh nữa không?” Miệng nói không muốn đánh nhưng thanh kiếm trong tay lại
chuyển thủ thành công, đánh ra toàn những chiêu hiểm hóc.

Ba
hương chủ dưới trướng Sử Bạch Đô và Văn Đạo Trang còn đang ở thành tây
lục soát, không biết Kim Trục Lưu đã đến cửa đông giao thủ với Sử Bạch
Đô.

Sử Bạch Đô không thấy bọn chúng quay về, lòng thầm hối hận
mình đã sắp xếp sai lầm. Trước lượt tấn công hiểm hóc của Kim Trục Lưu, y đã luống cuống tay chân, thầm nhủ:

“Đại trượng phu phải tùy cơ
ứng biến, nếu mình không quay về cho sớm, chỉ e sẽ bại trong tay tên
tiểu tử này”. Từ lúc trúng độc tới giờ, đã gần một canh giờ, y phải quay về lấy thuốc giải.

Sử Bạch Đô gắng gượng đánh thêm một chưởng đẩy lùi Kim Trục Lưu rồi quát:

“Đêm nay tạm thời nhường ngươi, sau này sẽ tìm ngươi tính sổ. Lý đà chủ, có

đánh nữa các ngươi cũng không chiếm phần hơn được. Ta nể mặt bang chủ
của ngươi, đêm nay ngừng ở đây, ý ngươi thế nào?”.

Tình thế lúc
này Sử Bạch Đô tuy đánh không lại Kim Trục Lưu, nhưng người của Lục Hợp
bang đông hơn nên chiếm thượng phong. Lý Mậu thấy Kim Trục Lưu đã quay
về, y cũng không muốn người của mình thương vong quá nhiều cho nên nói:

“Thôi được, ngươi đã xin tha thì ta sẽ chấp nhận. Sau này thế nào thì sau này tính tiếp. Ngươi trả thù cũng được, không trả thù cũng được, Cái Bang
không bao giờ sợ ngươi”.

Vì thế hai bên thu binh, Sử Bạch Đô vội
vàng chạy về lấy thuốc, Kim Trục Lưu và bọn Trần Quang Chiếu cũng theo
Lý Mậu trở về phân đà của Cái Bang.

Kim Trục Lưu kể lại mọi chuyện ở Lục Hợp bang, Trần Quang Chiếu như nhớ lại một chuyện, hỏi rằng:

“Kim huynh, lúc nãy huynh bảo Hà Cô không cần thuốc giải của mụ yêu bà có thật hay không? Nhưng Lệ đại ca thì đã mất tích?”.

Kim Trục Lưu cười nói:

“Đương nhiên là thật. Người có thể giải độc của Thiên ma giáo cũng đang ở đây Lý huynh, xin mời bước ra”.

Kim Trục Lưu giới thiệu Lý Đôn cho hai người Trần, Thạch xong nói:

“Tuy không tìm ra Lệ đại ca nhưng Lý huynh đã đọc thuộc Bách độc chân kinh
của Thiên ma giáo, bản lĩnh giải độc còn hơn cả mụ yêu bà ấy”.

Hai người Trần, Thạch vui mừng ra mặt, vội vàng đáp tạ Lý Đôn. Lý Đôn bắt
xong mạch cho Hà Cô, đưa nàng một túi thuốc giải, lại chỉ cách thôi cung quá huyệt cho Trần Quang Chiếu để Trần Quang Chiếu tự giải độc cho Hà
Cô. May mà thủ pháp thôi cung quá huyệt này không phức tạp, Trần Quang
Chiếu vừa nghe đã hiểu.

Trần Quang Chiếu cùng Hà Cô vào một căn tịnh thất trị liệu. Hai người Kim, Lý cùng Lý Mậu bàn bạc hành động tiếp theo.

Lý Đôn nói:

“Kim huynh, khi tôi ở Tây Xương đã từng gặp Giang đại hiệp”.

Kim Trục Lưu mừng rỡ:

“Đúng thế, y có nhắn nhủ gì cho tôi không?”.

Lý Đôn cười:

“Giang đại hiệp đương nhiên không biết tôi sẽ gặp huynh. Nhưng phía họ đang
rất cần người. Xem tình hình này, Sử Bạch Đô sẽ càng canh gác nghiêm
ngặt hơn, hảo thủ của Lục Hợp bang nhiều hơn chúng ta, tạm thời có lẽ
không cứu được Sử cô nương. Theo tôi thấy chi bằng chúng ta đến Tây
Xương để lấy khỏe đợi mệt”.

Lý Mậu ngạc nhiên:

“Lấy khỏe đợi mệt là sao?”.

Kim Trục Lưu nghe Lý Đôn vừa nói đã hiểu ngay, cười rằng:

“Đúng thế, có lẽ Sử Bạch Đô sắp đưa Sử Hồng Anh đến Tây Xương ép gả nàng cho Soái Mạnh Hùng.

Ở đây chúng ta không đấu lại y, nhưng đến Tây Xương thì khác”. Lý Đôn tiếp tục:

“Nay Tây Xương đã lọt vào tay quân Thanh, nhưng núi Đại Lương ở ngoài thành
là căn cứ của nghĩa quân. Trúc Thượng Phụ là bậc tiền bối trên võ lâm,
Giang đại hiệp cũng ở đấy. Sử Bạch Đô đưa Sử Hồng Anh đến Tây Xương,
chúng ta có thể liên kết với nghĩa quân đoạt thành cướp người”.

Lý Mậu cười:

“Chỉ cần một mình Giang đại hiệp đã dư sức đối phó với Sử Bạch Đô. Được, tôi sẽ cùng đi với các người”.

Kim Trục Lưu lo rằng sau khi họ ra đi Sử Bạch Đô sẽ tìm đến trả thù, Lý Mậu không thể chống trả nổi, nghe Lý Mậu nói như thế bèn cười:

“Đúng, quân tử trả thù mười năm chưa muộn”.

Bàn xong, đến hôm sau mọi người lên đường. Thạch Hà Cô cũng được giải độc cho nên hai người Trần, Thạch cũng đến Tây Xương.

Lần này Kim Trục Lưu đại náo Lục Hợp bang, tuy không cứu được người nhưng
coi như đã vạch trần âm mưu của Sử Bạch Đô. Sử Hồng Anh tuy bị bắt lại
nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Điều khiến Kim Trục Lưu lo lắng chỉ có Lệ Nam Tinh.

Lại nói đêm ấy Lệ Nam Tinh bị Hạ đại nương ám toán, trúng một mũi độc châm nên buộc phải nhảy xuống sông.

Nước sông chảy siết, may mà giỏi thủy tính, chàng vận huyền công, cố gắng
phong tỏa huyệt đạo, nương theo dòng nước trôi xuống hạ lưu, trong tay
vẫn cầm chắc thanh huyền thiết bảo kiếm. Nửa canh giờ sau chàng đã xuống tới hạ lưu, cách xa thành Dương Châu.

Nhưng Lý Nam Tinh vừa trải qua một trận kịch chiến, nay lại phải bơi trong dòng nước siết, trong
tay lại cầm thanh huyền thiết bảo kiếm nặng đến cả trăm cân, nên dần
đuối sức, không thể nào gắng gượng được nữa.

Lệ Nam Tinh không nỡ vứt thanh kiếm, chàng nhìn thấy xa xa hình như có lửa chài, lòng thầm nhủ:

“Mình cố một lát nữa có lẽ sẽ bơi tới nơi ấy!” Nào ngờ khi đuối sức không thể phong tỏa được huyệt đạo nữa, độc tính lập tức phát tác.

Lệ Nam
Tinh đang lặn ở dưới nước, chợt cảm thấy đầu óc choáng váng, toan nổi
lên kêu cứu nhưng trái lại đã chìm xuống. Đó là bởi vì chàng đang cầm
cây huyền thiết bảo kiếm.

Lẽ ra chàng phải ném thanh kiếm đi, chỉ vì độc tính phát tác quá nhanh ngoài dự liệu của chàng, chàng vừa cảm
giác được thần trí đã mê man. Lúc này, chàng vẫn nắm chặt thanh bảo
kiếm.

Đến khi trời sáng Lệ Nam Tinh lại gặp phải một chiếc thuyền đánh cá.

Trên thuyền có ba cha con, người ngư phủ già tung lưới xuống, Lệ Nam Tinh
mắc vào lưới. Ông ta kéo mạnh Lệ Nam Tinh suýt nữa rơi ra khỏi lưới.

Ngư phủ già vừa mừng vừa lo, vội vàng kêu lên:

“Có cá lớn lọt lưới, các con hãy đến đây mau”.

Hai con trai của ông ta đang tuổi tráng niên, cả ba người hợp lực mới kép được tấm lưới lên. Người con cả kêu lên:

“Sao lại có cá nặng thế này?” Nói chưa dứt, người con út đã kêu:

“Ồ, té ra là một người?” Người con cả kêu lên:

“Là người cũng không thể nặng đến thế!”.

Người cha bảo:

“Cứu một mạng người còn hơn xây bảy bậc phù đồ. Hãy kéo y lên”. Vừa kéo lên
cả hai người con đều chặc lưỡi kêu lạ. Một người nói:

“Người này
trông như nho sinh yếu đuối, sao lại nặng nề như thế này? Con thấy ít
nhất y cũng nặng hai trăm cân, chả lẽ trên người y có kim ngân châu
báu?”.


Một người nói:

“Sao lại có người mang cả trăm cân
kim ngân châu báu nhảy xuống nước? Ồ, có một thanh kiếm. Ôi chao, chả lẽ y là hải lặc? Hải tặc sao trông nho nhã thế này?” Nói xong mò vào người Lệ Nam Tinh, cười rằng:

“Thật kỳ lạ, trên người chẳng có một
đồng bạc nào. Nhưng quần áo lại sang trọng”. Té ra Lệ Nam Tinh vẫn còn
mặc bộ y phục của tân lang, chàng từ tân phòng chạy ra, trên người làm
gì có tiền!

Người cha bảo:

“Chúng ta chỉ là ngư dân an
phận thủ thường, chỉ mong tích chút âm đức, cần gì đến tiền tài của
người ta? Mặc kệ y là người thế nào, cứu tỉnh rồi tính tiếp”.

Thương thuyền đậu ven bờ cũng chèo tới xem. Ba cha con nhà này đang lo cứu
người nên không để ý. Người cha sai con ép nước trong bụng Lệ Nam Tinh
ra, nên trước tiên phải lấy kiếm trong tay chàng ra, thế là người con cả kéo ngón tay của Lệ Nam Tinh, cầm thanh kiếm lên.

Y nào ngờ
thanh bảo kiếm ấy nặng hơn trăm cân, huống chi y chỉ cầm bằng một tay.
Chỉ nghe y kêu ối chao một tiếng, chưa lấy được kiếm thì đã té soài
xuống.

Ông già thất kinh, vội vàng đỡ đứa con, hỏi:

“Sao con không cẩn thận đến nỗi trượt chân thả người con cả đứng dậy nói:

“Không sao. Té ra không phải người này nặng mà là thanh kiếm”. Người con út
bước tới xem thử cũng không nhấc thanh kiếm lên được ngạc nhiên nói:

“Thanh kiếm này nặng quá, thật kỳ lạ!”.

Ba cha con đang ngạc nhiên, trên chiếc thương thuyền bên cạnh, một hán tử mặc áo đen râu mọc tua tủa đột nhiên nhảy qua.

Ông già giật mình, ngạc nhiên hỏi:

“Xin hỏi tiên sinh có gì chỉ giáo?”.

Hán tử áo đen nói:

“Tôi thấy các người đang cứu người, cho nên đến xem thử, có lẽ các người
đang cần giúp? Ôi chao, đây chẳng phải là Tiểu Vương đấy sao? Tiểu
Vương, Tiểu Vương?”.

Ông già vừa lo vừa mừng, hỏi:

“Y là bằng hữu của tiên sinh?” Hán tử áo đen đáp:

“Mấy ngày trước tôi và y đến Dương Châu du ngoạn, tôi biết y có chút phiền
não, nhưng cũng chẳng phải chuyện lớn lao gì, không ngờ y lại dại đột
đến thế!”.

Hán tử này có tướng mạo thô hào, nhưng miệng cứ nói không thôi, rõ ràng là quan tâm đến bằng hữu. Người con cả chợt nói:

“Tôi cũng không biết vì sao, đợi cứu y tỉnh rồi sẽ hỏi”. Ông già nói:

“Tôi đã ép nước trong bụng của y ra, thật lạ, sao bây giờ vẫn chưa tỉnh?”.

Hán tử áo đen vội nói:

“Tôi không muốn bằng hữu của tôi làm phiền các người, đa tạ các người đã cứu y, mọi chuyện cứ để tôi lo”. Rồi lấy ra một nén nguyên bảo trao cho
người cha:

“Một chút lễ mọn, mong ông hãy nhận lấy”.

Ông già đang lo mình không cứu sống được Lệ Nam Tinh, vội vàng đáp:

“Cứu người là chuyện nên làm, sao có thể lấy tiền của ông”.

Rồi hán tử ấy một tay đỡ Lệ Nam Tinh, một tay xốc thanh huyền thiết bảo kiếm phóng vút qua thuyền của mình.

Ba cha con ngư dân ngẩn người ra, lòng thầm nhủ:

“Không ngờ hán tử này lại khỏe mạnh như thế, y và người này quá nửa là cường đạo”.

Hán tử nhảy lên thuyền của mình, đầu thuyền chao đảo. Một thiếu nữ đã đợi sẵn, ngạc nhiên hỏi:

“Đây là ai? Thanh kiếm của y …” Thiếu nữ này từ nhỏ đã luyện võ, tuy không giỏi nhưng có thể nhận thấy đây là thanh bảo kiếm, nếu không đã không
nặng nề như thế. Điều khiến nàng ngạc nhiên hơn là cha nàng xưa này
không bao giờ làm chuyện tốt thế nhưng lần này lại cứu người.

Hán tử áo đen nói:

“Con đừng hỏi. Đưa người này vào khoang, đóng cửa sổ lại”.

Thì ra y không muốn để cho người khác thấy. Thiếu nữ rất thắc mắc, nhưng
đang gấp cứu người cho nên không tiện hỏi. Hán tử ấy căn dặn xong con
gái của mình lập tức quát:

“Chèo thuyền!” Rồi y cũng cầm một chiếc dầm giúp cho ông lái. Ông lái nghĩ trong bụng:

“Gã này rất nghênh ngang phách lối, mình tưởng y làm quan, nào ngờ y cũng biết chèo thuyền”.

Thiếu nữ đưa Lệ Nam Tinh vào trong khoang thuyền, sờ mũi y thì thấy vẫn còn thở, yên bụng thầm nhủ:

“Y đã nhiễm lạnh, mình cho y uống chút rượu nóng”. Rồi lấy rượu quế hoa ra vạch miệng Lệ Nam Tinh đổ vào. Nàng nào biết Lệ Nam Tinh đã trúng độc,
có rượu vào chất độc phát tác càng nhanh hơn.

Một lát sau, Lý Nam Tinh vẫn hôn mê, thiếu nữ nhìn kỹ lại thấy chân mày chàng có luồng hắc
khí. Nàng sờ lên trán thấy trán nóng như lửa đốt. Thiếu nữ hoảng hồn
thầm nhủ:

“Sao vẫn chưa tỉnh, không biết là trúng độc hay bị điểm huyệt đạo?”.

May sao Lệ Nam Tinh đã được Kim Thế Di truyền cho tâm pháp nội công, nội
tức liên miên không ngớt, tuy đang hôn mê nhưng cũng phát huy bản năng
chống độc, song không có hiệu quả như khi vận công. Trong lúc mê man, Lệ Nam Tinh cảm thấy bụng đau như cắt, bất giác rên lên:

“Trục Lưu, Trục Lưu!”.

Thiếu nữ ấy mừng rỡ gọi:

“Tỉnh dậy, tỉnh dậy! Người đang gọi ai thế?” Lệ Nam Tinh kêu xong hai tiếng “Trục Lưu” lại đau đớn ngất đi.

Thiếu nữ chỉ đành quay sang hỏi ý cha mình. Lúc này trời vẫn chưa sáng, ven
sông không có con thuyền nào khác, hán tử áo đen cố huơ dầm, chiếc
thuyền lướt đi trong đám lau lách, người chèo thuyền hỏi:

“Lão gia, ngài chẳng phải định đến Dương Châu ư? Tại sao lại ngừng ở đây?”.


Nói chưa dứt, y đã bị điểm huyệt đạo té lăn xuống. Thiếu nữ vừa bước ra thì cả kinh, kêu lên:

“Cha, cha đang làm gì thế?” Hán tử áo đen bóp cổ họng người chèo đò rồi giở
lên ném y xuống sông. Thiếu nữ toan chạy đến cứu nhưng cũng đã không kịp nữa. Nàng dậm chân:

“Cha, tại sao cha lại giết người?” Hán tử áo đen cười ha hả:

“Suốt đời ta không giết một ngàn người thì cũng đến tám trăm. Giết thêm một tên lái đò nữa thì có sá gì?”.

Người ấy cũng đã chết, thiếu nữ chẳng còn cách nào, thầm nhử:

“Mình cứ tưởng cha đã quyết tâm cải tà quy chính, nào ngờ người vẫn không
chịu đổi tánh ác, toàn là lừa gạt mình!” Bất giác đau lòng dòng lệ nàng
tuôn rơi.

Hán tử áo đen mắng, “Nha đầu ngốc, đâu phải cha của con chết mà con đau lòng?”.

“Tuy là một người lái đò nhưng cũng là một tánh mạng. Sao bỗng dưng cha lại giết y?”.

“Cha cứu người hay giết người đều có nguyên do cả! Cha giết tên lái đò này
mới có thể cho con biết tại sao phải cứu tên tiểu tử này! Con ra đây làm gì, tên tiểu tử ấy đã tỉnh chưa?”.

Thiếu nữ chợt giật mình:

“Hình như kẻ ấy trúng độc vẫn chưa tỉnh!”.

“Ồ, để ta xem thử”. Rồi chèo chiếc thuyền vào trong đám lau lách, liền đó
mới cầm thanh huyền thiết bảo kiếm cùng con gái bước vào trong khoang.

Hán tử áo đen nhìn kỹ Lệ Nam Tinh rồi trầm giọng:

“Đúng thế, hình như đã trúng độc, nhưng y chết cũng không sao, chỉ mong là giữ được thanh kiếm này”.

“Cha, cha vẫn chưa cho con biết tại sao phải giết người và cứu người! Người
này là ai, tại sao cha cứu y thì phải giết người lái đò?”.

Hán tử áo đen cười rằng:

“Ta không quen biết tên tiểu tử này, nhưng ta biết đây là thanh huyền thiết bảo kiếm!”.

“Huyền thiết bảo kiếm là gì?”.

“Sử Bạch Đô có được một tảng huyền thiết, tảng huyền thiết này nặng hơn
thiết bình thường đến mười lần. Ta đã biết Sử Bạch Đô muốn rèn tảng
huyền thiết thành bảo kiếm tặng cho Tát tổng quản, sau có người đã đánh
cắp tảng huyền thiết này. Lần này chúng ta đến gặp Sử Bạch Đô, không
biết huyền thiết bảo kiếm tại sao rơi vào tay tên tiểu tử này, ta cũng
chẳng biết y là ai, ta cứu y chỉ vì thanh huyền thiết bảo kiếm, cho nên
đem cả người lẫn kiếm đến dâng cho Sử Bạch Đô! Hì hì, ta đang lo không
có lễ vật quý giá, nay có huyền thiết bảo kiếm thì còn hơn cả bất cứ báu vật gì trên đời này! Ha ha, đúng là ông trời có lòng với ta, ban cho ta thanh bảo kiếm!”.

“Vậy tại sao cha phải giết người chèo thuyền?”.

“Huyền thiết bảo kiếm là món báu vật người trong võ lâm đều muốn, không thể để cho người ta biết đã rơi vào tay ta. Ta không giết tên lái đò này, làm
sao có thể cho con biết lai lịch của thanh bảo kiếm?”.

Nàng thiếu nữ chép miệng:

“Nói như thế là con đã sai!”.

“Không hẳn thế. Có lẽ Sử Bạch Đô cũng không muốn người khác biết y đã lấy được bảo kiếm. Điều này gọi là giết người bịt miệng, con có hiểu không? Ha
ha, ta đem theo thanh huyền thiết bảo kiếm, lại còn dắt con đến gặp Sử
Bạch Đô, Sử Bạch Đô sẽ rất thích con!”.

Thiếu nữ ấy giận dỗi:

“Cha, cha nói vớ vẩn gì thế, tại sao tên họ Sử ấy lại thích con?”.

Hán tử áo đen giận hỏi:

“Thường nhi, con vẫn còn nhớ tên tiểu tử Tần Nguyên Hạo ư? Ta khuyên con hãy
quên y, người ta là đệ tử của danh môn chánh phái thì làm sao ngó ngàng
đến con? Dù y có chịu, ta cũng không muốn gả con cho y! Lần này ta và
con đến tìm Sử Bạch Đô là muốn nương nhờ y để Kim Trục Lưu không làm gì
được ta! Hừ, tên tiểu tử Kim Trục Lưu cứ đòi làm mai làm mối, con tưởng
rằng ta chịu nghe theo y sao?”.

Té ra hán tử áo đen chính là
Phong Tử Siêu, còn thiếu nữ này chính là Phong Diệu Thường. Ngày hôm ấy
Phong Tử Siêu gặp Kim Trục Lưu, bị Kim Trục Lưu dọa cho một hồi, hoảng
sợ đến nỗi không dám vào kinh chúc thọ cho Tát Phúc Đỉnh đành quay về
nhà. Nhưng đến khi về nhà thì càng nghĩ càng tức.

Về nhà không
lâu, Phong Tử Siêu nghe đồn rằng Kim Trục Lưu đại náo thọ đường Tát phủ, bị bang chủ của Lúc Hợp bang là Sử Bạch Đô đánh bại bỏ chạy.

Đương nhiên tin này đã thêm mắm dặm muối, nhưng Phong Tử Siêu lại cho là thật nên nảy ra một ý, đó chính là tìm cách gả con gái mình cho Sử Bạch Đô,
nếu chuyện này thành công y chính là nhạc phụ của Sử Bạch Đô, không cần
phải lo Kim Trục Lưu đến tìm y nữa.

Phong Tử Siêu và Sử Bạch Đô
vốn quen biết nhau, nhưng giao tình không sâu đậm mà thôi. Y biết mấy
năm trước Sử Bạch Đô chết vợ, cho đến nay vẫn chưa tục huyền, vợ trước
cũng chưa có con cái gì, y tuy lớn tuổi hơn Phong Diệu Thường, nhưng vẫn còn tạm chấp nhận được. Song làm thế nào mới khiến cho Sử Bạch Đô cưới
con gái của y?

Phong Tử Siêu thầm tính:

“Thường nhi cũng
xinh xắn, trước tiên phải cho Sử Bạch Đô gặp mặt nó, sau khi đôi bên có ý thì không lo không có người đứng ra làm mai”. Y dỗ dành con gái, bảo
rằng dắt nàng đi dò tìm tung tích của Tần Nguyên Hạo, Phong Diệu Thường
biết chuyện Kim Trục Lưu đứng ra làm mai, buộc cha mình gả mình cho Tần
Nguyên Hạo. Tuy nàng cảm thấy Kim Trục Lưu làm như thế hơi thô lỗ, nhưng trong bụng thầm thích. Phong Tử Siêu nói với nàng như thế, nàng tưởng
rằng y thực sự sợ Kim Trục Lưu, buộc phải đi tìm Tần Nguyên Hạo, vì thế
cũng chấp nhận.

Nàng không thường đi lại trên giang hồ, không hề
biết Sử Bạch Đô là nhân vật thế nào, lần này “đi ngang” Dương Châu,
Phong Tử Siêu bảo rằng Sử Bạch Đô là người quen biết rộng rãi, phải nên
đến bái phỏng y, tiện thể dò hỏi lin tức của Tần Nguyên Hạo, Phong Diệu
Thường cũng đành chấp nhận.

Không ngờ chưa tới Dương Châu lại gặp Lệ Nam Tinh, thế là Phong Tử Siêu gạt gia đình ngư dân, đưa Lệ Nam Tinh lên thuyền của mình, huyền thiết bảo kiếm rơi vào tay y. Phong Tử Siêu
nghĩ rằng đây là lễ vật trời ban cho nên mừng càng thêm mừng.

Lại nói Phong Diệu Thường nghe cha nói xong, nàng lờ mờ nhận ra rằng cha
mình đã lợi dụng mình để cấu kết với Sử Bạch Đô. Phong Diệu Thường bất
giác bồn chồn không yên, lòng thầm nhủ:

“Cha vẫn không đổi tính
xấu, mình có cách nào tránh khỏi kiếp nạn này? Chao ôi, hai lần trước
đều nhờ Kim Trục Lưu cứu mình, nhưng nay không biết tìm đâu ra người như thế?”.

Nghĩ đến Kim Trục Lưu, Phong Diệu Thường chợt giật mình, gọi:

“Cha, người này đang hôn mê, làm thế nào đây?”.

Phong Tử Siêu nhíu mày:

“Ta vốn muốn giữ lại mạng y để Sử Bạch Đô thẩm vấn, nay thấy không thể cứu y được nữa, chỉ đành để y sớm thoát khỏi biển khổ!”.

Phong Diệu Thường chợt nói:

“Cha, cha không thể giết người này!”.

Phong Tử Siêu trừng mắt hỏi:

“Tại sao?”.

“Cha có biết y là ai không?”.

“Chả lẽ con biết?”.

Ngay lúc này, Lệ Nam Tinh lại trở mình, Phong Diệu Thường bảo:

“Con sẽ làm y tự nói ra!”.

Phong Tử Siêu hỏi:


“Giờ đây y vẫn hôn mê chưa tỉnh, xem ra dữ nhiều lành ít, làm sao con có thể buộc y nói ra?”.

Phong Diệu Thường cúi xuống kêu lên:

“Kim Trục Lưu đến, Kim Trục Lưu đến!”.

Trong lúc mơ hồ Lệ Nam Tinh nghe kêu như thế thì chợt tỉnh dậy, kêu lên:

“Ở đâu, ở đâu?”.

Phong Tử Siêu thất kinh:

“Kim Trục Lưu là người thế nào với y?”.

Lệ Nam Tinh mở mắt, rên rỉ:

“Ồ, ta đang ở đâu? Đây là nơi nào? Các người là ai? Kim Trục Lưu đâu?”.

Té ra vì chàng luyện được nội công tâm pháp chính tông, tuy hôn mê nhưng
nội tức vẫn còn, hơi rượu đã bay, cho nên cơ thể chàng phát huy khả năng chống độc. Số là chàng vẫn chưa tỉnh được ngay, chỉ vì trong lòng còn
nhớ đến Kim Trục Lưu, Phong Diệu Thường kêu bên tai chàng, trong giấc
chiêm bao chàng nghe được tiếng của người thân cho nên tỉnh dậy theo bản năng.

Phong Diệu Thường nói:

“Tôi là bằng hữu của Kim Trục Lưu, huynh cho tôi biết Kim Trục Lưu đang ở đâu, tôi sẽ mời y tới”.

Lệ Nam Tinh dấy lên tia hy vọng, đáp nhỏ:

“Tôi là huynh đệ kết bái với Kim Trục Lưu, y đang ở Dương Châu, cô nương cứ
tìm đà chủ Lý Mậu của Cái Bang, lúc đó có thể biết được Kim Trục Lưu”.

Phong Diệu Thường nói:

“Được, tôi sẽ tìm cách thông báo cho Kim Trục Lưu.

Người hãy nghỉ ngơi một lát”.

Phong Diệu Thường đóng cửa khoang lại, kéo cha mình ra phía trước, thì thầm:

“Giờ đây cha đã biết được y là ai, làm sao có thể giết y?”.

Phong Tử Siêu:

“Y là huynh đệ của Kim Trục Lưu, ta càng phải giết y!”.

Phong Diệu Thường can:

“Cha hãy nghĩ xem, chuyện khác y còn tha thứ, nhưng nếu cha giết nghĩa huynh của y thì dù có chạy đến chân trời góc biển cũng không thoát!”.

Phong Tử Siêu nhớ lại Kim Trục Lưu có khinh công xuất thần nhập quỷ, bất giác cũng nổi da gà, nhưng cũng nói cùng rằng:

“Ta giết y thì ai biết?”.

Phong Diệu Thường dọa:

“Kim Trục Lưu chắc chắn sẽ điều tra tung tích của nghĩa huynh, lẽ nào gia
đình ngư dân ấy không nói ra. Chỉ cần họ nhắc đến thanh bảo kiếm nặng
trăm cân, Kim Trục Lưu sẽ truy ra đến tận ngọn ngành?”.

Phong Tử Siêu gằn giọng:

“Ta hối hận không giết chết gia đình ngư dân ấy!”.

Thực ra y cũng nghĩ đến việc giết chết gia đình này, chỉ vì ở gần đó còn có
nhiều thương thuyền, y sợ người ta thấy cho nên mới không dám.

Phong Diệu Thường lại bảo:

“Dù cha có giết chết gia đình ngư dân ấy cũng vô dụng?”.

“Tại sao?”.

“Bởi vì còn có người biết!”.

“Ai?”.

“Con!”.

“Con? Con muốn đối đầu với ta?”.

“Con không dám. Nhưng con đang nghĩ cho cha, cho nên phải khuyên cha cho bằng được!”.

Phong Tử Siêu hừ một tiếng:

“Nói như thế con đúng là đứa hiếu tử! Ta thấy hình như con chỉ vì tên tiểu
tử Tần Nguyên Hạo ấy! Kim Trục Lưu là bằng hữu của Tần Nguyên Hạo, người này là nghĩa huynh của Kim Trục Lưu, bây giờ con dứt tình máu mủ để
giúp người ngoài!”.

Phong Diệu Thường đỏ mặt:

“Cha, cha nói đi đâu thế. Con chỉ nói theo lý lẽ.

Cha đã hứa là cải tà quy chính, lúc nãy cha giết người lái đò đã là không
nên, nay làm sao có thể lại giết người nữa? Khoan nói y là nghĩa huynh
của Kim Trục Lưu, cha giết y sẽ có hậu họa. Dầu không phải như thế cha
cũng không thể làm chuyện thương thiên hại lý như thế nữa!”.

Phong Tử Siêu cười lạnh lẽo:

“Dù sao trong mắt con ta cũng đã là kẻ chuyện ác gì cũng làm, giết thêm một người thì chẳng hề chi. Ta nhất định phải giết y, con định thế nào?”.

Phong Diệu Thường nói cứng:

“Trừ phi cha cũng giết con, nếu không cũng chẳng bịt được miệng con?”.

Phong Tử Siêu đành chịu:

“Được, ta không giết y, dù sao cũng cách Dương Châu không còn xa nữa, ta sẽ đưa y đến Dương Châu để Sử Bạch Đô giải quyết”.

“Cha, cha nói thực cho con biết, cha muốn con đến Dương Châu gặp Sử Bạch Đô để làm gì?”.

“Chẳng phải cha đã nói với con từ trước rồi ư?”.

“Không, con biết cha đến Dương Châu không phải dò hỏi tin tức của Tần Nguyên Hạo”.

“Chuyện của cha không cần con phải lo, Sử Bạch Đô là một đại anh hùng, người
khác muốn gặp y đâu có dễ”. Phong Tử Siêu biết nếu nói sự thực con gái
mình nhất định không nghe theo, chi bằng cứ đến Dương Châu rồi tính
tiếp.

Phong Diệu Thường đã nghĩ kỹ, nàng hờ hững:

“Theo ý của con, cha đừng đi thì hơn”.

Phong Tử Siêu nói:

“Tại sao?”.

“Kim Trục Lưu đang ở Dương Châu, cha vừa đến y sẽ tìm cha tính sổ, cha nghĩ
Kim Trục Lưu không làm gì được Sử Bạch Đô chẳng qua chỉ là giả thiết của cha mà thôi, vả lại làm sao cha biết Kim Trục Lưu không đánh bại Sử
Bạch Đô? Nói không chừng lúc này cả Sử Bạch Đô cũng phải trốn Kim Trục
Lưu? Vậy cha sẽ nhờ ai bảo vệ?”.

Thật ra lúc nãy Phong Tử Siêu
nghe bảo Kim Trục Lưu đang ở Dương Châu cũng đã lo lắng không yên. Nhưng sau khi cân nhắc lợi hại lại không chịu bỏ cơ hội cầu cạnh Sử Bạch Đô.
Thế rồi để tự lên dây cót cho mình, y nói cứng:

“Quyết không có chuyện đó! Hiện nay Sử Bạch Đô là thiên hạ đệ nhất cao thủ, tên tiểu tử Kim Trục Lưu làm sao địch nổi y?”.

Nói chưa dứt, chợt thấy có một con thuyền lướt tới, trên đầu thuyền có cắm
một lá cờ đen, trên cờ có thêu sáu cái đầu lâu, đó chính là dấu hiệu của Lục Hợp bang.

Phong Tử Siêu mừng rỡ:

“Thuyền của Lục Hợp
bang đến”. Rồi liền chèo thuyền ra khỏi bãi lâu lách, lúc này thuyền của Lục Hợp bang cũng đã tới. Một tiểu đầu mục đồng trên đầu thuyền, may
sao Phong Tử Siêu cũng quen y.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.