Đọc truyện Hậu Cuốn Theo Chiều Gió – Chương 80
Câu chuyện của Harriet Stewart Kelli được người ta biết dần dần. Chị ta và đứa con trai đã đến Ballihara từ hơn một tuần nay, mà Scarlett cũng mới chỉ biết những nét chính. Là con gái một mục sư Tin Lành, Harnet đã trở thành gia sư trong gia đình của huân tước Witley. Cô mười chín tuổi, được học hành nhiều so với một phụ nữ, và không còn biết gì khác ở trên đời.
Một trong những công việc của cô là đi theo những đứa trẻ trong những cuộc dạo chơi bằng ngựa trước bữa điểm tâm. Cô đã si mê nụ cười rạng rỡ cùng giọng nói du dương vui tươi của anh chàng giữ ngựa cùng đi theo họ. Khi anh ta yêu cầu cô cùng bỏ trốn với anh, thì điều ấy đối với cô giống như một cuộc phiêu lưu lãng mạn tuyệt vời nhất trên đời nầy.
Cuộc phiêu lưu kết thúc trong cái trang trại nhỏ bé của cha Daniel Kelli: Một chàng giữ ngựa và một cô gia sư bỏ trốn thì không thể hy vọng có được giấy chứng nhận, nghĩa là cũng không thể có việc làm. Danny ra đồng cầy cấy cùng với cha và các anh mình, còn Harriet ở nhà làm những gì mẹ anh chỉ vẽ, chủ yếu là giặt rửa và may vá. Cô rất giỏi thêu thùa một trong những tài khéo rất cần cho một phu nhân. Billi là đứa con độc nhất của họ, và điều ấy đủ cho thấy thiên diễm tình của họ đã sớm chấm dứt. Danny Kelli lại tiếc nuối thế giới loài ngựa, những chuồng ngựa thênh thang, cái áo gi lê sọc thanh lịch, cái mũ cao, những đôi giầy bốt cao bằng da làm nên chế phục của người giữ ngựa. Anh ta đổ cho Harriet đã gây nên điều bất hạnh cho anh ta và tìm sự an ủi trong rượu Whisky. Gia đình anh ta đâm ra thù ghét người thiếu phụ bởi vì cô ta là người Anh, lại theo đạo Tin Lành.
Danny bị bắt vì đã tấn công một sĩ quan Anh trong một quán rượu. Gia đình anh ta xem anh ta như đã chết từ khi anh ta bị kết án một trăm roi. Họ đã bắt đầu phát tang cho anh ta trong lúc Harriet nắm tay Billi cùng với một ổ bánh mì, lội bộ hai mươi dặm đường đến tận Trim, nơi có doanh trại của người sĩ quan bị lăng nhục. Chị biện hộ cho chồng mình. Người ta đồng ý cho chị được phép chôn cất chồng.
– Thưa bà O Hara, tôi sẽ đem con về Anh quốc, nếu như bà tạm ứng cho tôi tiền tàu xe. Cha mẹ tôi đã chết, nhưng tôi còn anh em họ có thể cho chúng tôi tá túc. Tôi sẽ trả lại cho bà bằng tiền lương của tôi. Tôi sẽ kiếm được một việc làm nào đó thôi.
– Nói gì lạ lùng vậy! Scarlett đáp. Cô không nhận thấy là tôi có một đứa con gái nghịch phá như một chú ngựa hoang nhỏ sao! Cat cần một cô gia sư. Hơn nữa, bé lại đã quyến luyến Billi như hình với bóng. Bé còn cần một người bạn. Cô sẽ làm ơn cho tôi nếu như cô ở lại, bà Kelli ạ.
Nàng không nói dối, nhưng nàng giữ kẽ để không nói thêm răng nàng rất lo là Harriet không có khả năng lên một con tàu đàng hoàng để trở về Anh quốc, càng ít có khả năng sống nổi một khi về bên ấy. Như Scarlett đã nói về cô ta: người đàn bà nầy có cái gan nhưng không có cái đầu. Những điều cô ta biết cô ta chỉ lấy từ trong sách vở. Scarlett chẳng hề đánh giá cao loại người như vậy bao giờ.
Dù sao, tuy chê trách người phụ nữ trẻ nầy là thiếu thực tế nàng cũng sung sướng được có cô trong nhà. Từ khi nàng ở Dublin trở về, ngôi nhà đối với nàng lại thiếu vắng bà Montague đến thế, nhưng sự thật là vậy.
Harriet bù đắp vào chỗ trống nầy. Về nhiều mặt, đó cũng là một người bạn dễ chịu hơn bà Charlotte bởi vì cô ta say sưa với tất cả những gì đám trẻ làm, và nhờ vậy Scarlett biết được bao cuộc phiêu lưu nho nhỏ mà Cat không hề kể cho mẹ nghe.
Hơn nữa, Billi đã kết bạn với cô bé, điều nầy khiến Scarlett khỏi phải dằn vặt trong lòng khi nhìn thấy Cat lủi thủi một mình. Bà Fitzpatrick tỏ ra ác cảm với Harriet, đó là điều trở ngại duy nhất trong hoàn cảnh nầy.
– Chúng tôi không muốn có người Anh ở Ballihara, bà O Hara ạ, bà ta nói khi Scarlett đưa hai mẹ con từ Trim về.
Chịu đựng cái bà Montague ấy đã quá đủ rồi, nhưng ít ra bà ấy còn có ích cho cô.
– Bà có lẽ không thích Kelli, nhưng mà tôi thích và đây là nhà của tôi mà!
Scarlett đã chán ngán vì cứ phải nghe người khác nói phải làm cái nầy hoặc không được làm cái nầy. Thoạt tiên là bà Charlotte, giờ thì là bà Fitz! Còn Harriet không bao giờ chê trách nàng điều gì cả. Trái lại nữa là khác: cô ta tỏ ra biết ơn nàng đã cho cô ta tá túc cũng như cho cô ta những bộ quần áo cũ đến nỗi khi Scarlett chỉ muốn phiền trách cô sao lại tỏ ra quá dịu dàng và quỵ luỵ đến thế.
Ngoài ra, Scarlett còn đâm ra quát tháo mọi người, điều mà nàng cảm thấy xấu hổ, bởi vì thái độ cau có của nàng chẳng có lý do gì cả. Ai cũng nói, từ xưa đến giờ, chưa hề thấy có một mùa nào như thế. Lúa mì đã mọc được bằng nửa chiều cao bình thường và cánh đồng khoai tây đã phủ những mầm xanh đầy sức sống.
Những ngày nắng ráo cứ nối tiếp nhau và những lễ hội nhân có chợ phiên hàng tuần của Trim, cứ kéo dài mãi đến khuya trong đêm êm ả và nóng ấm. Scarlett nhảy cho đến thủng vớ, thủng giầy, nhưng âm nhạc và tiế ịng cười vui vẫn không sao làm nàng phấn chấn lâu. Khi Harriet thở dài lúc nhìn thấy những cặp tình nhân đi dọc theo bờ sông, tay trong tay, thì Scarlett quay lại nhún vai với vẻ bực tức. Chúa ơi, nàng nghĩ thầm những lời mời cứ đến mỗi ngày qtỉa đường bưu điện.
Những cuộc tiếp tân lại sắp bắt đầu rồi. Những ngày hội thanh lịch của Dublin và những cửa hiệu đầy cám dỗ đã mất đi nhiều vẻ hấp dẫn của nó nhân có chợ phiên của Trim.
Cuối tháng năm, nước sông Boyne cạn đến mức người ta có thể nhìn thấy những tảng đá mà nhiều thế kỷ trước, người ta đã đổ xuống đó tạo thành khúc sông cạn để đi lại. Đám nông dân lo âu theo dõi những đám mây bị cơn gió tây cuốn đi trên nền trời trong vắt. Đồng ruộng đang cần nước. Những cơn mưa rào ngắn ngủi làm mát không khí chỉ đủ thấm đất làm rễ lúa và rễ cây cỏ gừng trên cánh đồng trồi lên mặt đất, và vì vậy càng làm thân lúa yếu đi.
Cat cho biết lối mòn phía bắc dẫn đến túp lều của Grainne đang dần dà biến thành một con đường.
– Bà ấy có nhiều bơ mà không ăn hết, bé vừa nói vừa phết bơ lên miếng bánh mì nhỏ. Người ta đang đến mua bùa chú để cầu cho trời mưa.
– Các con định làm bạn với bà ấy hở!
Vâng, Billi rất yêu bà ấy.
Scarlett mỉm cười. Tất cả những gì cậu bé nói giống như lời phúc âm đối với Cat. Cũng mừng là Billi có bản chất tốt, sự ngưỡng mộ của Cat là một bằng chứng khủng khiếp. Trái lại, cậu bé tỏ ra kiên nhẫn lạ lùng Billi đã từng hưởng “máu mê ngựa” của cha. Nó dạy cho cô bé làm thế nào để trở thành một kỵ sĩ tài giỏi hơn cả mẹ Scarlett có thể dạy bé. Khi nào Cat lớn hơn vài tuổi nữa, bé sẽ có một con ngựa chứ không phải một chú ngựa con. Cô bé đã ít nhất hai lần mỗi ngày lưu ý mẹ rằng những chú ngựa con chỉ là để cho trẻ con chơi thôi.
Còn Cat thì đã là một cô gái lớn rồi. May thay, Billi còn nói thêm “nhưng chưa lớn lắm đâu”. Không bao giờ bé lại có thể chấp nhận một điều như thế từ mẹ mình.
***
Đầu tháng sáu, Scarlett đi dự buổi tiếp tân ở Roscommon, tin chắc con mình sẽ không thấy vắng mình. Rõ ràng bé cũng chẳng thèm để ý là mình không có ở đấy nữa. Thật là nhục nhã.
– Thời tiết đẹp quá nhỉ! Mọi người khách đều nói.
Sau bữa ăn tối, họ chơi quần vợt trong ánh sáng mát dịu kéo dài đến mười giờ đêm.
Scarlett sung sướng được gặp lại nhiều người mà nàng yêu mến nhất ở Dublin. Charles Ragland là người duy nhất mà nàng tiếp không mấy nồng nhiệt.
– Charles, có ai ở chỗ anh đã đánh chết người đàn ông tội nghiệp kia bằng roi đấy! Tôi sẽ không bao giờ quên, và tôi sẽ không bao giờ tha thứ đâu. Dù anh có mặc quần áo dân sự cũng chẳng thay đổi được gì khi anh là một người lính Anh. Mà những người lính là những con quái vật Trước vẻ sửng sốt của nàng. Charles tỏ ra ít chịu phục thiện:
Scarlett, tôi lấy làm tiếc là cô đã chứng kiến cảnh ấy Đánh roi là một chuyện ghê tởm. Nhưng chúng ta còn có dịp nhìn thấy những chuyện còn tồi tệ hơn thế nữa, và phải chờ có thời gian mới chấm dứt được.
Anh ta không chịu dẫn chứng nhưng Scarlett được biết, qua câu chuyện, những cuộc tấn công vào những người chủ đất đang diễn ra nhan nhản ở khắp Ireland.
Những cánh đồng bị thiêu rụi, những con bò cái bị giết, người đại diện một lãnh địa lớn gần Galway đã là nạn nhân của một cuộc phục kích và bị bằm thây. Người ta xì xào to nhỏ về sự tái xuất hiện của những tên da trắng con, những băng cướp giật đã từng gây khiếp sợ cho các chủ đất nhiều năm về trước. Không thể như thế được, những người ung dung nhất đều nói vậy. Tất cả những sự việc nầy lại diễn ra lác đác, lẻ tẻ, chúng là sản phẩm của những kẻ quấy rối mà chính quyền các nơi đã quá nhẵn mặt. Tuy nhiên, khi những trại chủ nhìn thấy xe của cô đi ngang, họ vẫn cảm thấy khó chịu.
Scarlett tha thứ cho Charles. Nhưng, nàng nói thêm, anh ta không được nghĩ rằng nàng sẽ quên.
– Tôi dám nhận hết trách nhiệm về hành vi ấy về mình, nếu như điều đó làm cho cô nhớ mãi đến tôi, anh ta đáp vẻ nhiệt tình.
Rồi anh ta đỏ mặt như một cậu học sinh.
– Mẹ kiếp, tôi thêu dệt ra bao điều đáng mặt với Huân tước Byton khi tôi ở trong trại mà nghĩ đến cô, còn đứng trước mặt cô thì tôi lại ấp úng toàn những điều ngu xuẩn. Cô có biết là tôi yêu cô ghê gớm không?
– Thật vậy. Không sao cả, Charles ạ. Tôi không nghĩ rằng Huân tước Byron sẽ làm tôi vừa lòng và tôi rất có cảm tình với anh.
– Thật chứ, thiên thần của anh! Anh có thể hy vọng răng…
– Tôi không nghĩ thế đâu, Charles ạ. Đừng có đưa cái bộ mặt đưa đám ấy ra, đó không phải là anh đâu. Tôi cho là như mọi người thôi. Đều làm như vậy.
Những miếng bánh mì xăng-uých đặt trong phòng Scarlett đã dần dần khô cứng lại trong đêm.
***
– Thật sung sướng khi được trở về nhà mình! Harriet ạ tôi rất sợ trở thành một kẻ đáng ghê tởm khi ra đi, dù cố vui chơi thả cửa đi nữa cũng vô ích, tôi luôn chết thèm được trở về nhà. Nhưng tôi dám chắc với cô.rằng trước cuối tuần nầy tôi lại đã tơ tưởng đến lời mùi sắp đến mà tôi đã nhận. Nào, nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra trong thời gian tôi vắng nhà. Cat không quấy rầy Billi chứ!
– Không đâu. Chúng đã nghĩ ra một trò chơi mới gọi là “Đánh chìm cái lũ Viking đi”. Tôi không biết cái từ ấy ở đâu ra. Cat nói là cô có thể giải thích chứ bé chẳng còn nhớ gì ngoài những từ ấy. Chúng bắc một cái thang dây lên ngọn tháp, Billi chuyển đá lên rồi chúng thi nhau ném xuống dòng sông qua những khe hở. Scarlett bật cười.
– Đúng là một con bé tinh ranh! Đã có lúc nó cứ nằng nặc đòi tôi để cho nó leo lên ngọn tháp. Tôi để ý thấy là nó đã lôi kéo Billi vào toàn bộ những việc nặng nhọc. Mà nó lại chưa đầy bốn tuổi! Khi nó lên sáu, chắc sẽ kinh khủng lắm. Cô phải đánh đòn nó và bắt nó học chữ.
– Không cần phải thế. Cháu bé rất thích học bảng mẫu tự trong phòng cháu, bảng mẫu tự với những con thú vậy.
Scarlett mỉm cười: đó cũng như là nghe nói con gái mình là thiên tài vậy. Nàng luôn sẵn lòng tin rằng Cat có thể làm mọi điều sởm hơn, tốt hơn mọi đứa trẻ khác trên đời nầy.
– Scarlett, cô kể cho tôi nghe về buổi tiếp tân đi, Harriet hỏi, chừng như nỗi bất hạnh riêng không làm chị ta quên đi những giấc mơ lãng mạn.
– Thật là thú vị. Chúng tôi nghĩ là có đến hai chục người – và lần nầy không có ông tướng về hưu để quấy nhiễu chúng tôi bằng những gì ông ta biết về công tước Wellington. Chúng tôi đã có một cuộc thi bóng vồ sôi nổi trong đó mỗi người đều có đặt tiền cược và tính điểm cũng giống như cá ngựa vậy. Tôi cùng phe với…
– Bà O Hara!
Giọng nói lộ vẻ hoảng hốt. Scarlett đứng phắt dậy.
Một cô hầu hấp tấp chạy đến, mặt đỏ bừng, hơi thở hổn hển:
– Nhà bếp… Cô ta ấp úng… Cat… bị bỏng…
Scarlett suýt hất ngã cô ta để đâm bổ về phía nhà bếp.
Đi được nửa đường, nàng đã nghe Cat rên rỉ. Nàng phóng chạy nhanh hơn nữa. Cat không bao giờ khóc mà.
– Bé không biết là cái chảo nóng… Người ta đã bôi bơ lên tay cho chảu. Bé vừa với tới thì nó đổ xuống.
– Mẹ ơi… Mẹ ơi…
Tiếng người chộn rộn khắp nơi. Nàng chỉ nghe thấy tiếng Cat.
– Mẹ đây, cưng ơi. Chúng ta sẽ làm Cat khỏi ngay trong nháy mắt thôi mà.
Nàng ôm con gái đang khóc trên tay và bước vội ra cửa. Nàng đã nhìn thấy vết phỏng khủng khiếp trong lòng bàn tay của Cat. Vết phỏng phồng giộp lên đến mức các ngón tay nhỏ bé cứ bạnh ra.
Scarlett có lẽ đã chửi thề là đoạn đường sao như dài ra gấp đôi. Nàng cố hết sức chạy thật nhanh mà không để bị vấp ngã. Nếu như bác sĩ Devlin không có nhà thì lão sẽ không còn cái nhà mà mò về đâu! Ta sẽ vứt hết đồ đạc của lão ra ngoài, và cả gia đình của lão.
Nhưng bác sĩ có mặt.
– Nào, nào, Bà O Hara, chẳng việc gì phải rối lên như thế! Trẻ con nào mà chẳng hay bị tai nạn! Để tôi xem qua một chút.
Cat thét lên khi ông ta ấn bàn tay của bé. Scarlett đau xé lòng như bị dao cắt.
– Không nghi ngờ gì nữa, rõ ràng là vết phỏng khá nặng đấy, bác sĩ Devlin nói. Chúng ta sẽ bôi mỡ vào đấy cho đến lúc vết phỏng phồng lên, rồi chúng ta sẽ chích để cho nước ra.
– Bác sĩ ơi, lúc nầy bé chắc đau lắm thì phải. Ông không thể làm được gì cho cháu bớt đau ư?
Những giọt nước mắt của Cat ướt đẫm vào áo Scarlett.
– Dùng bơ là tốt nhất. Nó sẽ làm giảm đau sau một lúc thôi.
– Sau một lúc thôi ư?
Scarlett quay người và bỏ chạy. Nàng nghĩ đến thứ thuốc đã rót trên lưỡi nàng khi nàng sinh Cat, và cơn đau biến mất ngay.
Nàng sẽ đưa bé đến nhà bà phù thuỷ.
Khá xa… nàng đã quên rằng dòng sông và ngọn tháp ở khá xa. Đôi chân nàng mỏi nhừ, nhưng không thể không đi được.
Scarlett chạy trối chết.
– Grainne! – Nàng kêu to khi chạy đến những bụi ô rô. – Cứu tôi với! Vì Chúa, cứu tôi với.
Bà lão bước ra từ trong bóng tối.
– Nào ngồi xuống đây, bà ta bình thản nói. Chẳng phải nhọc công chạy làm gì?
Ngồi trên nền đất, bà đưa tay ra:
– Lại đây với Grainne đi, Dara! Bà sẽ làm cho cái đau chạy đi nơi khác.
Scarlett đặt Cat ngồi trên gối bà phù thuỷ. Rồi nàng ngồi xổm trên đất như định chụp vội lấy đứa bé và lại bỏ chạy. Chạy đến đâu cũng được, miễn là có sự giúp đỡ.
Giá như nàng có thể chợt nghĩ ra một địa chỉ cụ thể hoặc một người nào đó.
– Dara, bà muốn con đặt tay con lên tay bà. Bà sẽ không sờ đến tay con đâu. Nào, con đặt tay con trong lòng bàn tay của bà đi! Bà sẽ nói với vết phỏng và nó sẽ nghe lời bà. Nó sẽ bỏ đi thôi!
Giọng Grainne bình thản và tự tin. Đôi mắt xanh của Cat ngắm nhìn khuôn mặt điềm tĩnh và nhăn nheo của bà lão, bé đặt lưng bàn tay bị phỏng trên lòng bàn tay lấm chấm những vết cỏ.
– Dara, vết phỏng lớn và nặng đấy. Chắc là ta phải thuyết phục nó. Mất thời gian đấy. Nhưng rồi sẽ nhanh chóng dịu đi thôi.
Grainne thổi nhè nhẹ trên chỗ da bị phỏng. Một, hai, ba lần. Bà đưa môi mình sát hai bàn tay của hai người và bắt đầu thì thầm trong lòng bàn tay của Cat.
Bà ta đọc những lời không sao nghe nổi bằng một giọng xì xào như lá non hoặc như tia nước chảy trên sỏi dưới ánh mặt trời. Sau vài phút – nhiều nhất là ba phút – Cat ngưng khóc và Scarlett ngồi bệt xuống đất thở phào. Tiếng xì xào vẫn tiếp tục, đều đều, êm ái. Đầu của Cat nghẹo sang một bên rồi ngả trên ngực Grainne.
Scarlett ngồi chống tay. Lát sau, nàng đã nằm chuồi trên nền nhà, ngả lưng và chẳng mấy chốc đã thiếp đi.
Còn Grainne vẫn không ngừng thì thlầm với vết phỏng, trong lúc hai mẹ con nằm ngủ. Dần dà, chỗ phồng xẹp xuống, ít đỏ hơn, cho đến lúc da Cat giống như chưa hề bị phỏng. Grainne ngẩng đầu và liếm đôi môi khô khốc.
Bà ta khép hai tay cô bé đang ngủ thiếp, rồi ôm lấy bé vào lòng và vừa ru nhè nhẹ vừa khe khẽ hát. Một lúc lâu bà ngừng hát.
– Dara…
Cat mở mắt.
– Đã đến lúc phải đi thôi! Nói với mẹ con thế. Grainne đã mệt và đi ngủ đây. Con phải đưa mẹ về nhà.
Bà lão dựng bé dậy. Rồi bà quay người và biến mất trong bụi cây ô rô bằng cách bò trên hai tay và đầu gối.
– Mẹ ơi, phải đi về thôi!
– Cat! Sao mẹ lại có thể ngủ ngon thế nhỉ! Ồ, thiên thần của mẹ, mẹ lấy làm tiếc. Điều gì đã xảy ra thế?
– Con thấy sao rồi, con mèo nhỏ của mẹ!
Scarlett ngắm nhìn bàn tay lành lặn của bé.
– Ồ Kitty Cat, mẹ muốn được con hôn biết bao.
Bé hôn lên đôi má của Scarlett.
– Mẹ nghĩ con thích uống trà và ăn bánh hơn là leo lên ngọn tháp, nàng nói. Chúng ta đi về thôi.
Đó là món quà mà bé tặng mẹ.
***
Bà O Hara thì bị mê hoặc, còn bà phù thuỷ và thần thì nói chuyện với nhau bằng một thứ tiếng xa lạ.
Nell Garrity đã chính mắt nhìn thấy, cô ta nói, và cô ta đã thất kinh hồn vía đến mức cắm đầu nhảy xuống sông Boyne, không hề nhớ là phải trở lại khúc sông cạn. Cô ta sẽ chết đuối nếu như nước sông sâu như mọi khi.
Hai người đã đọc những câu thần chú để cho mây bay đi đấy, họ làm thế đấy!
– Có đúng là con bò cái của Any McGinty thôi không cho sữa ngày ấy, trong khi nó là một trong những con bò nhiều sữa nhất ở Trim!
Dan Houlihan ở Navan, có những mụn cóc to tướng dưới chân đến nỗi anh ta không sao đặt chân xuống đất được. Thần cưỡi một con chó sói mà ban ngày thì đội lất một chú ngựa con.
– Bóng của thần đổ trên cái máy đánh kem của tôi nên không làm sao mà có bơ nổi! – Những người biết chuyện nói rằng thần nhìn thấy được trong đêm tối, và hai mắt của thần rực sáng như ngọn lửa trong lúc đi rình rập.
– Anh có nghe kể chuyện thần được sinh ra như thế nào chưa, thưa ông Reilli! Đó là vào đêm trước Lễ Các Thánh và trên trời có sao chổi quẹt ngang qua.
Trong cả hạt, những chuyện đồn đại cứ lan truyền hết nhà nầy, sang nhà khác.
Bà Fitzpatrick bắt gặp con mèo vằn của Cat trên ngưỡng cửa của Toà nhà lớn. Ochras bị bóp cổ và moi ruột. Bà gói xác con vật trong mảnh vải và giấu trong phòng mình cho đến lúc có thể đem vứt xuống sông mà không ai nhìn thấy.
Rosaleen Fitzpatrick vội vàng bước vào nhà Colum chẳng thèm gõ cửa. Anh nhướng mắt lên, nhưng vẫn ngồi yên trên ghế bành.
– Đúng như tôi nói mà! Bà thốt lên. Anh không đến uống ở quán rượu như một người đàn ông đàng hoàng, anh phải giấu đi cái tính yếu đuối của anh ở đây với tí chút gọi là đàn ông thế kia à!
Giọng bà đầy khinh bỉ, giống như cử chỉ bà lấy mũi giầy bốt dí dí vào hai chân mềm nhũn của Stephen O Hara. Anh ta ngáy đứt đoạn, miệng há hốc. Một mùi rượu Whisky bốc lên từ quần áo anh và hơi thở anh tởm lợm.
– Để cho tôi yên, Rosaleen, Colum nói giọng mệt mỏi.
– Em họ tôi và tôi đã khóc than cho những hy vọng của Ireland. – Bà Fitzpatrick chống tay lên hông. – Và những hy vọng của em gái họ anh ư, Colum O Hara! Anh không đắm trong men rượu trong lúc cô ta than khóc, cái chết của con cô ấy chứ! Anh sẽ không ưu phiền với cô ta khi con gái cô ấy chết chứ! Bởi vì tôi xin nói với anh, Colum, đứa bé đang gặp chuyện hiểm nghèo.
Bà quỳ xuống bên ghế bành của anh và lắc mạnh tay anh:
– Colum, vì tình yêu Chúa Giêsu và Đức Mẹ Đồng Trinh, anh phải làm cái gì chứ! Tôi đã cố hết sức nhưng không ai chịu nghe tôi cả! Có thể là đã quá trễ để họ nghe, nhưng anh cố thử xem. Anh không thể lẩn trốn mọi người như thế nầy được. Mọi người đang cảm thấy là anh bỏ rơi họ và cả cô em họ Scarlett của anh nữa!
– Katie Colum O Hara, Colum làu bàu.
– Tay anh sẽ vấy máu của em bé đấy, bà Rosaleen lạnh lùng nói.
Hôm sau, mãi đến chiều tối. Colum cứ đủng đỉnh đến thăm hết mọi ngôi nhà ở Ballihara và Adamstown và không quên quán rượu. Nơi anh đến thăm đầu tiên là văn phòng của Scarlett, và anh thấy nàng đang chìm ngập trong chồng sổ sách kế toán của toà nhà. Nàng đang nhíu mày: khuôn mặt nàng rạng rỡ lên khi nhìn thấy anh trước cửa, rồi sa sầm lại khi anh gợi ý tổ chức buổi dạ vũ mừng Stephen trở về Ireland.
Cuối cùng nàng đồng ý như anh mong đợi, và sau đó Colum có thể đi thăm mọi nhà, để chuyển lời mời đến cho mọi người. Anh chăm chú lắng nghe, tìm những dấu hiệu cho phép nghĩ rằng những lo ngại của Rosaleen là có cơ sở nhưng anh thở phào nhẹ nhõm khi không nghe một điều gì như thế cả.
Sau lễ chủ nhật, cả dân làng và mọi người thuộc dòng họ O Hara của quận Meath kéo đến Ballihara để chúc mừng Stephen trở về và nghe tin tức ở Mỹ. Trên thảm cỏ đã kê những dãy bàn dài đầy ắp những khay thịt bò muối và cải bắp đang bốc khói, những giỏ đầy khoai lang luộc nóng hổi và những bình bia đang sủi bọt.
Những cửa sổ sát đất của phòng khách được mở toang như để mời mọi người vào, và trên trần nhà được trang trí những truyền thuyết anh hùng của Ireland. Buổi lễ đã thành công mà không phải mất nhiều công sức.
Scarlett sau đó cảm thấy khuây khoả khi nghĩ rằng nàng đã hết sức mình và được chuỵên trò lâu bên cạnh Kathleen.
– Em nhớ chị quá! Nàng nói. Kể từ lúc chị đi, không có gì là giống trước nữa. Bến lội chắc đã xuống đến hơn ba mét đấy, cũng như trước thôi mà. Em không sao chịu đựng nổi mỗi lần nghĩ đến chuyện đến nhà Pegeen.
– Scarlett, nếu mọi chuyẹn vẫn y như cũ thì sao cứ phải than thở làm gì cho nhọc lòng, Kathleen bác lại, chị giờ đây đã là mẹ một chú nhóc khỏe mạnh và đang đợi nó có thêm đứa em trai nữa.
Chị ấy không hề nhớ gì đến mình, Scarlett buồn bã nghĩ thầm.
Stephen chẳng nói nhiều về Ireland cũng như về nước Mỹ, nhưng cả nhà lại không tỏ vẻ gì là bất bình. “Nói chung đó là một con người trầm lặng”. Scarlett tránh gặp anh. Với nàng, anh ta vẫn luôn mãi là Stephen bóng ma. Dù sao, anh cũng đem đến được một tin tức tuyệt vời. Ông ngoại Robillard đã chết và để lại tài sản cho hai dì Pauline và Eulalie. Hai dì hiện sống trong ngôi nhà màu hồng, và hàng ngày cùng đi dạo để bảo đảm sức khỏe. Người ta nói rằng họ còn giàu có hơn cả hai chị em Telfair.
Trong buổi lễ, mọi người nghe rõ tiếng sấm gầm ở xa xa. Ai cũng ngừng lại, kẻ thì ngưng cười, người thì ngưng ăn, và ngước mắt nhìn vào khoảng trời xanh chói chang với niềm chứa chan hy vọng. Cha Flinn mỗi ngày đều làm thêm một lễ phụ để cầu mưa, và trong mỗi gia đình người ta đều đốt nến cầu nguyện.
Ngày lễ Thánh Jean, những đám mây bị cơn gió phía tây cuốn về cứ mỗi lúc lại chồng chất lên nhau chứ không trôi đi mất. Đến buổi chiều, mây đã phủ dày đặc và tối sầm ở chân trời. Những người đàn ông, đàn bà đang chuẩn bị ngọn lửa vui cho lễ hội về đêm đều ngẩng đầu trước những trận gió ào ào thổi qua và cảm thấy dường như mưa đang tới. Buổi lễ sẽ vui biết bao nếu như cuối cùng trời đổ mưa và cứu được mùa màng!
Cơn giông ập đến vào lúc hoàng hôn trong tiếng sấm gầm đinh tai nhức óc, chớp sáng lóe trên nền trời như giữa ban ngày, và một trận mưa như trút đổ xuống. Mọi người nằm lăn ra đất và che đầu. Hạt mưa to như hạt đẻ Những tiếng thét sợ hãi và đau đớn vang lên trong những khoảnh khắc yên lặng giữa hai tiếng sấm gầm.
Scarlett rời Toà nhà lớn để đến nhảy quanh ngọn lửa vui Chỉ vài giây sau, nàng rút lui vào bên hông nhà, người ướt như chuột lột, rồi chạy lên lầu một tìm Cat.
Bé đang nhìn qua cửa sổ, hai mắt mở to, hai tay bít kín lỗ tai. Harnet Billi thu mình trong một góc phòng, ôm chặt lấy Billi để bảo vệ nó. Scarlett quỳ bên cạnh con gái và ngắm nhìn thiên nhiên trong cơn thịnh nộ.
Cơn thịnh nộ kéo dài khoảng nửa giờ, rồi trời lại sáng, đầy sao với vầng trăng tròn và tỏ. Củi ướt sũng và đêm ấy người ta không đốt lửa. Những cánh đồng cỏ và lúa mì bị trận mưa đá tàn phá sạch. Tiếng than khóc vang lên khắp Ballihara, xuyên qua những bức tường đá và cửa kính đến phòng của Cat. Scarlett rùng mình và ôm chặt lấy bé. Cat rên khe khẽ, lấy tay bịt tai cũng không sao ngăn nổi âm thanh ấy.
***
Scarlett leo lên một cái bàn đặt giữa con đường lớn của Ballihara, trước dân cư của thành phố.
– Mùa màng đã bị thất thu. Nhưng vẫn còn nhiều thứ phải cố cứu lấy! Cỏ sẽ hết ướt để thành cỏ khô. Và chúng ta sẽ có rơm với cả bông lúa, dù không còn hạt để xay thành bột. Tôi sẽ đi đến Trim, đến Navan và cả Drogheda, để mua lương thực cho mùa đông. Ballihara không thể bị đói kém được! Tôi xin hứa như vậy. Bà O Hara xin thề như thế.
Lúc bấy giờ, mọi người hoan hô nàng.
Nhưng khi đêm xuống, ngồi bên lò sưởi, họ lại nói đến bà phù thuỷ, đến thần và đến ngọn tháp mà thần đã dựng lên để trả thù cho vị Huân tước bị treo cổ.