Bạn đang đọc Hậu Cung Chân Hoàn Truyện 2: Chương 04
Chương 4: Đoan Phi Nguyệt Tân
Tôi đang định dập đầu tạ ơn thì sau lưng chợt vang lên tiếng nữ nhân yếu ớt như có như không,: “Đêm đó Chân Tiệp dư ở cùng với bản cung.”
Tôi nghe vậy thì giật mình, theo bản năng quay đầu nhìn. Hóa ra là Đoan Phi, đang được thị nữ đỡ hai bên, đứng ở bên ngoài Thận Đức đường.
Tôi hơi choáng váng, trong lúc bất ngờ chưa định thần lại được.
Đoan Phi chầm chậm tiến vào, run rẩy định hành lễ, Huyền Lăng nói: “Chẳng phải đã nói là miễn lễ cho nàng rồi sao?” Sau đó y lấy làm lạ, nói: “Sao nàng lại ra ngoài? Chẳng phải thái y đã dặn dò kĩ càng, nàng không thể chịu nắng nóng, không nên ra ngoài rồi ư?”
Trong lúc nói chuyện, đã có cung nữ bưng ghế tựa bằng ghỗ hoa lê ra mời nàng ta ngồi xuống.
Đoan Phi thưa: “Thần thiếp mới tới chưa được bao lâu, thấy bên trong sảnh hình như có chuyện lớn, nhất thời dừng bước không dám bước vào.”
Hoàng hậu suýt soa: “Đoan Phi, cũng lâu lắm rồi chưa gặp muội, muội đã khỏe hơn chút nào chưa?”
Đoan Phi ngồi xuống bên dưới Hoàng đế và Hoàng hậu, khom người kính cẩn thưa: “Lẽ ra hằng ngày đều phải đến thỉnh an Hoàng thượng, Hoàng hậu, chỉ là thân thể không khỏe, thật hổ thẹn quá! Hôm nay mới sáng sớm đã nghe nói Ôn Nghi công chúa mang bệnh, không yên tâm nên vội ghé qua xem sao.” Sau đó nàng ta tủm tỉm cười, nói với Huyền Lăng: “Cũng may là có thần thiếp ghé qua, nếu không Thận Đức đường này phải diễn vở Oan Đậu Nga mất rồi.”
Huyền Lăng nói: “Đoan Phi khi nãy nói rằng đêm đó ở cùng với Chân Tiệp dư, có thật như vậy không?”
Đoan Phi bình tĩnh mỉm cười, rủ rỉ thưa: “Đêm đó, thần thiếp từ xa nhìn thấy Tiệp dư một mình rời khỏi Phù Lệ điện, dường như hơi say, nhất thời không an tâm nên cùng thị nữ đi trông chừng, gặp được Tiệp dư ở cầu Ngọc Đái bên cạnh hồ Phiên Nguyệt, bọn thiếp bèn cùng đi bộ đến Vũ Hoa các của thần thiếp, trò chuyện vui vẻ quên mất thời gian.” Nụ cười nhàn nhạt như mây trắng lững lờ trôi, nàng ta quay đầu gọi thị nữ hầu cận: “Như Ý.”
Cung nữ có tên là Như Ý quỳ xuống, thưa: “Vâng ạ, đêm đó nương nương và tiểu chủ cùng bàn luận kinh Phật ở Vũ Hoa các. Sau đó tiểu chủ nói thì giờ đã muộn nên mới vội vã quay trở lại Phù Lệ điện.”
Hoàng hậu tủm tỉm cười, nói: “Nói như vậy thì chuyện của Ôn Nghi công chúa chẳng liên quan gì đến Chân Tiệp dư rồi!”
Hoa Phi lúng liếng đảo mắt nhìn sang Đoan Phi, nói: “Đoan Phi tỷ tỷ đến đúng lúc thật đấy.” Nói xong nửa cười nửa không, lông mày hơi nhướng lên. “Nghe nói tỷ tỷ trước giờ không khỏe, nên dưỡng bệnh trong cung, tại sao hôm đó lại nổi hứng, không thèm để ý đến lời dặn dò của thái y mà ra ngoài lúc đêm hôm như vậy?”
Đoan Phi hơi lộ vẻ ngượng ngập, không nhanh không chậm đáp: “Người bệnh lâu năm quả thực không nên ra ngoài, nhưng ở trong cung đóng kín cửa quá lâu quả thật phiền muộn không chịu nổi. Đêm đó, ta nghe nói trong cung tổ chức yến hội, nghĩ là sẽ không làm kinh động đến ai khác nên dẫn theo cung nữ ra ngoài đi dạo cho khuây khỏa.” Nói xong, nàng ta mỉm cười ôn hòa, nhìn sang tôi. “Không ngờ bản cung và Chân Tiệp dư lại có duyên như vậy.”
Tôi có khờ khạo cách mấy thì giờ cũng biết Đoan Phi đang có ý giúp đỡ mình, chỉ là không hiểu vì sao nàng ta lại bất nhờ ra tay cứu giúp mình như vậy. Nhưng lúc này không có thì giờ suy tính nhiều, tôi lập tức mỉm cười, thưa: “Vâng ạ, tần thiếp cũng cảm thấy như thế!”
“Ồ!” Hai mắt Hoa Phi hơi nheo lại, hàng lông mi dài cong vút rọi bóng cong cong xuống má phấn trắng hồng. Những hạt vàng lấp lánh đính trên lông mi tựa như muốn buông lơi, tỏa ra hào quang lấp lánh, nhìn qua vô cùng chói mắt, xa hoa. Nàng ta cất tiếng hỏi: “Vậy thì bản cung lại có chút nghi ngờ cần phải hỏi rõ, khi nãy Tiệp dư vì sao không nhắc đến chuyện tình cờ gặp Đoan Phi vậy? Nếu nói ra thì đã không phải vô duyên vô cớ chịu tội rồi!”
Đoan Phi vừa định mở miệng đáp thì đột nhiên bị sặc, đã ho khan không dứt, liên tục thở hổn hển, mặt mày đỏ bừng, đành chỉ tay về phía tôi.
Tôi lập tức hiểu ý, cất giọng đúng mực, thưa: “Thần thiếp lẽ ra không nên giấu giếm Hoàng thượng, Hoàng hậu, chỉ là hôm đó Đoan Phi nương nương ra ngoài, vốn không muốn cho người ngoài biết, để tránh lọt vào tai Hoàng thượng, Hoàng hậu, khiến Hoàng thượng, Hoàng hậu lo lắng, thế thì càng khiến cho nương nương ân hận khôn nguôi. Do vậy, cuộc gặp gỡ giữa nương nương và thần thiếp hôm đó không cho ai khác biết cả. Ai ngờ lại liên quan đến chuyện của công chúa, thần thiếp thầm nghĩ Hoàng thượng anh minh, Hoàng hậu trí tuệ, nhất định sẽ điều tra rõ ngọn ngành, trả lại sự trong sạch cho thần thiếp. Hơn nữa, thần thiếp không muốn thất tín với Đoan Phi nương nương, nên dè dặt không dám mở lời.”
Hoa Phi còn định nói thêm gì đó nhưng Đoan Phi đã qua cơn ho, nhịp thở bình thường, chầm chậm cất tiếng hỏi: “Thế nào, Hoa Phi muội muội không tin sao?”
Hoa Phi đáp: “Không phải là muội muội đa nghi, chỉ cảm thấy tỷ tỷ dường như rất thân thiết với Chân Tiệp dư.”
Đoan Phi cười nhạt: “Bản cung và Tiệp dư trước đây chỉ duyên gặp mặt hai lần, lần gặp trước cũng là vào dịp lễ tròn năm của Ôn Nghi. Hoa Phi nói vậy là muốn ám chỉ bản cung có ý bao che cho Tiệp dư hay sao?” Nói xong, như thế lại lắc đầu thương cảm. “Bản cung thân thể yếu ớt, không tiện nhúng tay vào nhiều chuyện, việc gì phải nói dối để bao che ột Tiệp dư mới được tấn phong cơ chứ.”
Thấy Đoan Phi gầy guộc, yếu đuối, lại có vẻ đau lòng trước lời nói của Hoa Phi như vậy, mọi người không khỏi trách móc nhìn sang Hoa Phi. Hoa Phi không biết đối đáp thế nào, đành nói: “Bản cung không hề nghĩ như vậy, Đoan Phi tỷ tỷ quá đa nghi rồi!”
Huyền Lăng không để ý đến hai người đang lời qua tiếng lại, đứng dậy bước đến trước mặt tôi, giơ tay đỡ tôi đứng dậy. “Vĩ Sinh ôm chân cầu đến chết để giữ chữ tín[1], Tiệp dư của trẫm thật chẳng kém gì người xưa.”
[1] Vĩ Sinh có hẹn với một cô gái dưới chân cầu, cô gái không tới, nước dâng lên cao, Vĩ Sinh ôm trụ cầu mà chết (Theo Sử ký – Tô Tần liệt truyện).
Tôi thầm thở phào một hơi, sàn đá cẩm thạch cứng rắn, quỳ lâu như vậy nên hai đầu gối sớm đã mất cảm giác. Tôi nghiến răng chống tay xuống đất lấy thế rồi mới nắm lấy tay Huyền Lăng, cố gắng đứng dậy, ai ngờ chân mềm nhũn, ngả nghiêng ngã vào lòng y.
Trước mặt mọi người mà có cử chỉ thất thố như vậy, tôi bất giác cảm thấy ngượng ngùng, mặt nóng bừng. Hoa Phi khẽ nghiến răng rồi quay sang chỗ khác không thèm nhìn tôi. Hoàng hậu tủm tỉm cười, nói: “Ngươi ngồi xuống trước đã, át nữa sẽ gọi thái y đến xem xét, mùa hè y phục mỏng manh, quỳ lâu như vậy e là sẽ sinh bệnh mất.” Nói xong lườm Hoa Phi một cái.
Lập tức có cung nữ ân cần đặt một chiếc ghế bên cạnh Đoan Phi rồi mời tôi ngồi xuống. Thấy tôi yên ổn ngồi vào ghế, Huyền Lăng mới an tâm buông tôi ra.
Đoan Phi đưa mắt nhìn đám cung nữ đứng sau các phi tần, ho khan vài tiếng, sắc mặt nhợt nhạt, chầm chậm lên tiếng: “Hoa muội muội không tin lời nói của bản cung cũng phải thôi, khi nãy bản cung ở bên ngoài sảnh tựa hồ nghe thấy có cung nữ khai rằng đêm đó nhìn thấy Tiệp dư đi về phía Yên Sảng trai. Hay là bây giờ chúng ta hãy làm rõ mọi chuyện, để tránh lôi thôi, rắc rối về sau. Không biết ý của Hoàng thượng và Hoàng hậu ra sao?”
Hoàng hậu liền nói: “Đương nhiên là phải thế rồi!” Nói xong, trong giọng có phần nghiêm khắc: “Khi nãy hai kẻ nào khai ra Chân Tiệp dư? Tự mình bước lên ngay.”
Lập tức có hai ả cung nữ quỳ phịch xuống, vẻ mặt tái nhợt, cúi đầu sát đất. Hoàng hậu hỏi: “Hai người các ngươi đều tận mắt nhìn thấy Chân Tiệp dư bước vào Yên Sảng trai sao?”
Một ả cung nữ vội thưa: “Nô tỳ nhìn thấy Tiệp dư đi về phía Yên Sảng trai, còn có bước vào hay không thì… dường như… dường như…”
“Dường như cái gì? Rõ ràng là ‘hoàn toàn không có’.” Lại quay sang ả cung nữ kia: “Còn ngươi thì sao?”
Ả ta cúi đầu thấp hơn nữa, hoảng sợ thưa: “Nô tỳ chỉ nhìn thấy Tiệp dư đi có một mình.”
Hoàng hậu không để ý đến bọn chúng nữa, chỉ nói: “Hoàng thượng, người thấy thế nào?”
Gương mặt Huyền Lăng lộ vẻ chán ghét. “Hoàng hậu cứ xử lý đi. Chỉ có điều không thể dung túng thói xấu đồn đại vu vơ của đám cung nhân này được.”
Hoàng hậu bèn ra lệnh cho Giang Phúc Hải đứng bên cạnh: “Kéo chúng xuống, vả vào miệng năm mươi cái để làm gương.”
Ngoài cửa sổ nhanh chóng vọng lại tiếng bạt tai bốp bốp cùng tiếng cung nữ khóc lóc van xin. Hoa Phi chỉ vờ như không nghe thấy, quay đầu lại, trong chớp mắt nhướng cao lông mày, lườm Tào Tiệp dư một cái rồi lập tức cụp mắt, ngồi ngay ngắn như chẳng có chuyện gì.
Tào Tiệp dư ôm Ôn Nghi trong tay, ngập ngừng bước lên, xin lỗi tôi: “Khi nãy trách lầm Tiệp dư muội muội, thật là có lỗi với muội.”
Tôi chỉ lắc đầu. “Không sao đâu, thân là mẫu thân, tỷ tỷ cũng chỉ là quá quan tâm đến con nên rối trí mà thôi!”
Hoa Phi miễn cưỡng cười gượng, nói: “Khi nãy hiểu lầm Tiệp dư, là do bản cung quan tâm đến công chúa nên mới hấp tấp, nóng vội như vậy, xin Tiệp dư đừng để bụng.”
Tôi mỉm cười nhìn thẳng vào nàng ta. “Sao lại để bụng cơ chứ? Tấm lòng của nương nương tần thiếp hiểu rõ mà.”
Hoa Phi bị tôi chặn họng, lại chẳng có cách nào phản bác, đành nói: “Tiệp dư hiểu rõ là tốt rồi!”
Bầu không khí vẫn còn có chút gượng gạo, Đoan Phi ngồi dựa vào ghế, mỉm cười hỏi Huyền Lăng: “Hôm đó, thần thiếp từ xa nghe thấy có tiếng ca du dương vang ra từ Phù Lệ điện, nghe rất gần gũi, quen tai, không biết là giọng ca của ai vậy?”
Huyền Lăng hơi ngẩn người, Hoàng hậu đành phải trả lời: “Là An Mỹ nhân vừa được tấn phong. Muội nghe thấy quen tai cũng phải, mấy hôm nay đều là nàng ta cất tiếng hát trong cung đấy!” Nói xong bèn gọi Lăng Dung bước lên thỉnh an Đoan Phi.
Đoan Phi nắm lấy tay nàng ta, ngắm nghía hồi lâu rồi khen: “Vẻ ngoài thanh tú thật đấy! Chúc mừng Hoàng thượng lại có thêm một giai nhân.”
Huyền Lăng tủm tỉm cười, gật đầu. Tôi thầm cảm thấy lạ, trước giờ cứ cho rằng Đoan Phi nhu nhược, không ngờ tính tình nàng ta tỉ mỉ, ứng đối ung dung, nhưng chẳng hiểu sao những lời khen tặng lấy lòng cứ lặp đi lặp lại một câu: “Chúc mừng Hoàng thượng lại có thêm được một giai nhân”, khen tôi xong lại dùng nó để khen Lăng Dung, đúng là chẳng có gì mới mẻ cả.
Huyền Lăng đích thân đưa tôi về Nghi Phù quán rồi mới trở lại Thủy Lục Nam Huân điện xử lý chính sự.
Ngồi nghỉ một lát, tôi ước chừng Đoan Phi tuy đi chậm nhưng có lẽ cũng vừa đến Kính kiều trước Nghi Phù quán rồi, thế là tôi dẫn theo Cận Tịch chầm chậm bước ra ngoài. Quả nhiên kiệu của Đoan Phi đang từ từ đi đến.
Tôi theo lễ đứng sang một bên nhường cho kiệu đi qua, Đoan Phi thấy tôi bèn bảo dừng kiệu, vịn tay vào cung nữ, bước xuống, nói: “Khéo thật đấy. Hay là Tiệp dư cùng bản cung đi dạo một lát?”
Tôi vâng lời theo sau. Cả quãng đường rợp bóng ngô đồng, um tùm nhành trúc, càng đi ra xa, bốn bề càng yên tĩnh chỉ nghe thấy tiếng chim kêu ríu rít. Thị nữ hầu cận cách xa một đoạn ở phía sau. Tôi đỡ lấy cánh tay của Đoan Phi, khẽ giọng tạ ơn: “Đa tạ nương nương hôm nay đã giải vây cho tần thiếp, chỉ là…”
Nàng ta vẫn tiếp tục đi về phía trước, lát sau mới nói: “Ngươi không cần tạ ơn bản cung, bản cung giúp ngươi là có lý do riêng của mình.”
Tôi nghi ngờ nhìn nàng ta. “Nương nương tin là tần thiếp trong sạch hay sao?”
Nụ cười của nàng ta hiu hắt như mây trôi, dịu dàng nói: “Ta thấy ngươi đi một mình từ phía đài Đồng Hoa, ngang qua cổng cung của ta, tính toán thời gian thì biết ngay không phải ngươi làm.”
Tôi đáp: “Hôm đó đi vội vàng, không nhìn thấy nương nương để thỉnh an, đúng là thất lễ, mong nương nương thứ tội!”
“Không sao đâu! Bản cung chỉ là nghe thấy tiếng hát động lòng người nên mới đứng một lát bên ngoài cửa cung, dỏng tai lắng nghe mà thôi!” Nàng ta thở dài rồi cười nhạt. “Giọng hát của An Mỹ nhân thật trẻ trung, khiến bản cung cảm thấy thời gian trôi qua nhanh quá.”
Tôi cười, thưa: “Nương nương đang ở độ tuổi chín muồi, dung mạo như hoa, sao lại cảm thán thời gian trôi nhanh cơ chứ?”
Nàng ta cười nhạt. “Làm gì còn dung mạo gì cơ chứ?” Nói xong, ánh mắt nàng ta chăm chăm nhìn vào khuôn mặt tôi.
Tôi bị nàng ta nhìn đến phát ngượng, khẽ gọi: “Đoan Phi nương nương!”
Nàng ta định thần rồi mới dịu dàng nói: “Tiệp dư mới đúng là dung mạo như hoa, thảo nào Hoàng thượng lại yêu thích ngươi như vậy.”
Tôi khiêm tốn thưa: “Nương nương nói đùa rồi!”
Nàng ta vịn tay vào cành trúc, ngồi nghỉ trên ghế mỹ nhân đặt cạnh hồ. “Hôm đó thấy Tiệp dư bộ dạng vội vội vàng vàng, nhưng lại có vẻ ưu sầu, chẳng biết là vì lý do gì?” Tôi chần chừ chưa đáp, nàng ta đã nói: “Tiệp dư không muốn nói cũng chẳng sao. Bản cung tuy bình thường không qua lại với ai, nhưng chuyện trong cung cũng biết được chút ít, không đến nỗi ù ù cạc cạc.”
Tôi thất thần đưa tay nghịch dải lụa thắt nút đồng tâm trên váy, rồi đưa mắt nhìn ra mặt hồ in bóng núi xa, nửa hồ sen sớm đã xanh nhiều đỏ ít, mang vẻ điêu tàn. Tôi lặng yên chẳng nói tiếng nào.
Đoan Phi vẫn giữ ánh mắt thản nhiên như mây bay gió thổi, mái tóc dài đen nhánh búi cao, trâm cài ngọc phỉ thúy lạnh giá rủ xuống trước trán, tỏa hào quang nhàn nhạt. “Tiệp dư việc gì mà phải thương cảm như thế! Bản cung vốn là người sống lánh đời, có vài lời vốn không cần nói ra làm gì. Chỉ là Tiệp dư nên hiểu rõ, từ xưa đến nay, tình cảm của nam nhân, bất quá là: ‘Tim mặt trời rong ruổi, sáng đông tối về tây[2]’ mà thôi, huống gì là vua của một nước? Tiệp dư nếu vì thế mà đau lòng thì chỉ khiến chính mình khó xử mà thôi.”
[2] Trích từ Tử Dạ ca, nghe đồn là do một nữ nhân tên Tử Dạ thời Tấn sáng tác, được ghi lại trong Thanh Thương Khúc – Ngô Thanh Ca Khúc trong Nhạc Phủ thi tập, tổng cộng có bốn mươi hai bài, đều là thơ tình. Nguyên tác: Hoan hành bạch nhật tâm, triêu đông mộ hoàn tây.
Tôi không khỏi cảm thấy không phục, hỏi lại: “Chẳng lẽ không có vị hoàng đế nào cả đời chỉ yêu một người hay sao?”
Đoan Phi nói xong một tràng dài, thở hổn hển nhưng nụ cười vẫn động trên môi. “Tiên đế yêu thương Thư Quý phi là thế, nhưng chẳng phải còn có Thái hậu và các vị Thái phi cùng vô số con trai, con gái khác hay sao? Lòng vua càng khó nắm giữ hơn hẳn nam nhân tầm thường, ngươi phải nhìn thoáng ra một chút, nếu không chỉ tự chuốc khổ vào thân mà thôi!”
Tôi đáp: “Vâng, lời của nương nương câu nào cũng có lý cả. Tần thiếp hiểu rồi!”
Đoan Phi nói: “Có lý hay không thì chỉ là chuyện nhỏ, quan trọng là Tiệp dư có thấu hiểu hay không.”
Đoan Phi không nói thêm gì nữa, yên lặng hồi lâu, tập trung ngắm nghía bầy cá chép đỏ ung dung bơi lội dưới hồ. Tôi bẻ một cành dương liễu cầm chơi, ngắt những chiếc lá mỏng manh quẳng xuống hồ, khiến đám cá chép đỏ tụ tập lại, chen chúc giành ăn.
Đoan Phi chăm chú ngắm chú cá chép đỏ bơi sát theo đuôi cá chép lớn, giọng nói bất giác lộ vẻ thương xót: “Ôn Nghi công chúa thật đáng yêu, chỉ tiếc số mệnh bấp bênh.”
Tôi thấy lời nói của nàng ta có phần kì lạ, bèn tủm tỉm cười, thưa: “Đoan Phi nương nương sao lại nói vậy? Công chúa tuy yếu đuối thật nhưng cũng là cành vàng lá ngọc, có thần Phật bảo hộ.”
Đoan Phi lộ vẻ buồn bã, rồi lập tức cảm thán vẻ chán chường: “Thần Phật đầy trời nhưng chỉ biết hưởng thụ hương khói thờ cúng, sao có thời gian để ý đến nỗi khổ của người đời cơ chứ! Huống gì nếu bị bọn tiểu quỷ làm khó, chỉ e thần Phật cũng không bảo hộ được cho ngươi.”
Tôi thầm chặc lưỡi, không ngờ Đoan Phi có bề ngoài nhu nhược nhưng tính tình lại cứng cỏi đến thế, không khỏi sinh lòng mến mộ nàng ta.
Nàng ta lại nói tiếp: “Tào Cầm Mặc vốn không sinh nổi đứa bé đó, mang thai không đúng thời điểm, lại sinh sớm, ngôi thai không đúng, suýt nữa mất mạng. Do đó, Hoàng thượng rất mực yêu thương đứa bé này.” Nàng ta thở dài. “Đám trẻ con trong cung nhìn thì tôn quý thật, nhưng tai nạn liên miên, nhiều hơn hẳn đám trẻ ở bên ngoài.”
Tôi biết Đoan Phi nhiều năm nay không có con, đặc biệt nhạy cảm với chuyện con trẻ, bèn lên tiếng khuyên: “Nương nương có tấm lòng nhân hậu, ngày thường cũng nên bồi dưỡng sức khỏe, ngọc thể khỏe mạnh thì mới có thể sớm ngày sinh hạ hoàng tử và công chúa cho Hoàng thượng.”
Đoan Phi mỉm cười chua xót. “Đa tạ lời chúc phúc của Tiệp dư. Chỉ là bản cung e rằng không có được phúc đức lớn như thế!”
Tôi nghe giọng nói thương cảm của nàng ta, bất giác cảm thấy kỳ lạ, nói: “Nương nương đang độ xuân thì, sao lại nói những lời bất tường như vậy?”
Nàng ta ngẩng đầu nhìn trời, buồn bã nói: “Nếu có thể được như thế, Nguyệt Tân tình nguyện giảm thọ mười năm.” Nói xong thì thê thảm lắc đầu, sắc mặt ủ ê như mảnh giấy trắng dưới ánh mặt trời sáng rực. “E là bản cung dẫu giảm thọ nửa đời cũng không thể đạt được tâm nguyện này.”
Tôi đoán nàng ta có bệnh kín, khó mà mang thai, bèn không khỏi thầm tiếc nuối cho nàng ta.
Nàng ta không nói tiếp nữa, quay sang nói với tôi: “Chuyện này xảy ra là để chĩa mũi dùi vào Tiệp dư, Tiệp dư phải chú ý bảo trọng. Bản cung có thể giúp ngươi một lần nhưng không thể lần nào cũng giúp được ngươi.”
Tôi thưa: “Vâng ạ! Đa tạ nương nương phí sức lo lắng, tần thiếp hễ rảnh rỗi nhất định sẽ ghé sang thăm nương nương.”
Nàng ta lắc đầu, hẳn là trong người không được khỏe nên giọng nói càng lúc càng yếu ớt: “Chẳng cần đâu, thân thể bệnh tật mỏi mòn không tiện gặp người ngoài. Huống gì…” Nàng ta đảo mắt nhìn sang tôi rồi khẽ nói tiếp: “Bản cung và Tiệp dư không gặp mặt nhau thì có lợi hơn.”
Tôi tuy không hiểu nhưng đoán chừng Đoan Phi hành xử như thế là có ý riêng, bèn gật đầu, thưa: “Vâng ạ!”
Trong lúc nói chuyện, hơi thở của Đoan Phi mỗi lúc một dồn dập, cung nữ hầu cận vội bước lên, lấy ra một chiếc bình sứ, đưa cho nàng ta hai viên thuốc màu đen để uống rồi mỉm cười thưa với tôi: “Bẩm Tiệp dư tiểu chủ, sắp đến giờ nương nương phải uống thuốc rồi!”
Tôi hơi khuỵu gối hành lễ. “Vậy tần thiếp không làm phiền nữa, kính tiễn nương nương!”
Nàng ta miễn cưỡng mỉm cười, gật đầu với tôi rồi gắng gượng vịn tay vào cung nữ, bước lên kiệu rồi rời đi.