Hải Yêu

Chương 1: Hải tặc tuyển người


Đọc truyện Hải Yêu – Chương 1: Hải tặc tuyển người

Mùa hè năm 1515. Bờ biển Algiers, Bắc Phi nằm sát cạnh Địa Trung Hải, xanh ngắt, trong lành và mát mẻ, thế nhưng vào mùa hè, những cơn gió thổi đến từ sa mạc Sahara lại mang theo hơi nóng hầm hập có thể sấy khô người sống thành những xác ướp. Giữa trưa, vầng mặt trời khổng lồ thiêu cháy thành phố nằm ven biển này thành một cái lò nướng gần 50°C, ngay cả lũ ruồi cũng không chọn thời điểm này để ra ngoài kiếm ăn, nhưng trên quảng trường nằm giữa trung tâm thành phố Algiers, lại có đến hơn hai nghìn người đàn ông đang chen chúc tụ tập đông nghẹt ở đây.

“Mẹ kiếp, đợi lâu như vậy rồi mà vẫn còn chưa chịu bắt đầu?”

Một người đàn ông lau mồ hôi trên mặt đầy vẻ nôn nóng, rồi cử động đôi chân đã hơi tê cứng. Hắn vừa mới đánh nhau với người ta chỉ vì một chút bóng râm ít đến đáng thương dưới tán cây cọ, khuôn mặt bầm tím càng khiến hắn thêm nóng nảy.

“”Chờ đi, tao dám cá rằng chỉ cần vừa bắt đầu, là lập tức sẽ tuyển đủ người, thuyền của Hayreddin không dễ lên như vậy đâu”. Bình thường đội thuyền bổ sung nhân lực chỉ cần tầm hai, ba trăm người, nhưng số người đến ứng tuyển lại đông gấp mười lần, mức độ cạnh tranh tàn khốc ra sao chỉ nghĩ thôi cũng biết.

“Nước ép táo chua đây! Bia nhẹ đây! Đồ uống ướp lạnh giải khát tránh nóng đây!”

“Sung nào! Nho tươi nào! Ồliu khô nào! Pho mát dê vừa thơm vừa ngọt nào!”

“Quý khách, có cần vải dầu lau đao không? Lau xong đảm bảo sắc ngọt sáng bóng, đến bảo đao của Aladdin cũng không bì được! Không cần à? Vậy xem thử loại thuốc mỡ trị nấm chân từ phương Đông này đi, có cả thuốc tăng lực một đêm chín lần thần dược của Ấn Độ nữa đấy!”

Hơn chục người bán hàng rong không ngại nắng nóng chen chúc giữa đám người, xách theo mấy chiếc giỏ thô sơ, khá hơn chút nữa thì đẩy một chiếc xe nhỏ, buôn bán các loại thức uống đồ ăn vặt.

Trong thành phố này, có một mục sư Kitô giáo từ xa tới truyền đạo không dám để lộ thân phận, khoác áo choàng chống nắng mua một vại bia, tò mò hỏi người bán đồ uống rong: “Nhiều người mang kiếm xách đao như vậy đến đây định làm gì thế?”

Đối phương lập tức lộ ra vẻ “ông hiểu biết nông cạn quá”, đáp: “Ông không biết à? Thuyền của đại hải tặc Hayreddin đang tuyển người!” 

“Barbarossa Hayreddin? Là kẻ kiêu ngạo nhất Bắc Phi…”

Vị mục sư che miệng nói: “Đúng là sét đánh ngang tai, cướp biển mà cũng dám công khai hoạt động trong trung tâm thành phố như vậy, đúng là gan thật, tổng đốc không để tâm sao?”

Người bán hàng rong phá lên cười ha hả: “Ông là người từ nơi khác đến đúng không. Algiers là thành phố của cướp biển, ngài Hayreddin mới thật sự là tổng đốc của vùng này, mọi người trong thành phố chúng tôi đều trông chờ vào miếng cơm của ngài ấy đấy. Chỉ cần lên được thuyền, cho dù không khai chiến một tháng cũng được ba đồng vàng đút túi”.

Vị mục sư vô cùng kinh ngạc, phải biết rằng ngay cả hải quân chính quy của Tây Ban Nha, mỗi tháng mới có được đãi ngộ là một đồng vàng. Ba đồng vàng, có thể mua được hai mươi con bò để vắt sữa, chẳng trách lại có nhiều người đổ xô đến đây như vậy.

Algiers là thành phố của cướp biển, cuộc sống giàu có của vô số người dân thành thị nơi đây đều do bọn họ đem lại, bọn họ là thần tài, cũng là thần hộ mệnh. Cướp biển chính là nghề xịn nhất ở nơi này, không gì hấp dẫn bằng.

Vị mục sư còn định hỏi gì đó, nhưng lại trông thấy một người đàn ông cường tráng cao gần hai mét nhảy lên tường thành, người trên quảng trường lập tức bật dậy nhốn nháo.

“Đó là phó đội hưởng của đội xung phong Hank!” Người bán hàng rong hưng phấn như nhìn thấy người nổi tiếng, giọng điệu vô cùng sùng bái: “Đội xung phong là đội lợi hại nhất, là cao thủ trong các cao thủ! Ngài Hank có thể bắn một khẩu đại pháo nặng một ngàn cân!”

Người đàn ông cao lớn giơ bàn tay to như một chiếc quạt của mình lên giữa không trung, cả quảng trường lập tức trở nên yên lặng. Lời mở đầu của hắn rất đơn giản và thẳng thắn:


“Mù một mắt, mười đồng vàng! Hai mắt, hai mươi đồng vàng!

Đứt một cánh tay, mười đồng vàng! Đứt hai cánh tay, hai mươi đồng vàng!

Mũi, tai và ngón tay đồng giá, ba đồng vàng!

Mất mạng, phí trợ cấp cho gia đình năm mươi đồng vàng!”

Nội dung kinh dị đậm mùi máu tanh vang vọng trong không trung, những người đàn ông trên quảng trường im lặng chừng ba giây, rồi đột nhiên sục sôi như núi thét biển gầm:

“Tốt quá! Lần này tiền bồi thường cao thật!”.

“Ngài Hayreddin muôn năm!”.

“Mất mất thằng cu thì được trả bao nhiêu tiền?”

“Phì! Cái thứ đồ chơi bé tí trong quần mày, còn chẳng bằng nửa đốt ngón tay, mà cũng không biết ngượng đòi bồi thường!”

“Ha ha ha ha ha ha!”

Người đàn ông cao lớn kia lại nói: “Lần này cần nhiều, năm trăm người! Có bản lĩnh thì cứ tới thử xem sao!” Nói đoạn hắn móc ra một nắm tiền xu lớn, tung vào giữa không trung, như hắt thêm số dầu sôi sùng sục cuối cùng vào ngọn lửa đang cháy hừng hực: “Đợi lát nữa người nào cướp được xu vàng thì có thể lên tàu!”

Thủ đoạn xa xỉ và hào phóng, cho thấy đội cướp biển này lớn mạnh đến cỡ nào.

Một vài người không giữ được bình tĩnh nhao nhao xông tới tranh giành những đồng xu nhỏ sáng lấp lánh, cả đám người chen chúc xô đẩy, tiếng tranh cướp mắng chửi vang lên liên tục không ngớt. Hank cười lạnh một tiếng, chút tài mọn thế này, có thể lên được tàu nhiều nhất cũng chỉ làm chân sai vặt.

Mấy người đàn ông vạm vỡ khiêng ra một cái lồng sắt to, ngồi bên trong là giám khảo đang phân phát xu vàng, đám đông lập tức trở lên điên loạn, liều mạng chen đến chỗ chiếc lồng, kẻ nào may mắn đứng gần thì cướp được một đồng, kẻ nào xui xẻo đứng ở xa, thì chỉ có thể dốc sức lao tới, hoặc đánh nhau với những kẻ trong tay có xu vàng.

Ánh mặt trời nóng bỏng cũng giúp loại trừ những kẻ cơ thể ốm yếu nhiều bệnh tật, rất nhiều người không chịu được nhiệt độ cao và cảnh chen lấn xô đẩy, cảm nắng cả người mềm nhũn ngất luôn xuống đất. Cả quảng trường như một bầy kiến vỡ tổ, giày dép rơi lăn lóc trên đường. Vị mục sư trợn mắt há mồm nhìn cảnh tượng điên cuồng này, kinh ngạc đến độ không thốt lên lời. Người bán đồ uống rong cười nói: “Đây là cách chuyên dùng để kiểm tra người đấy, trên thuyền không phải là khách sạn thoải mái đâu”.

Trong lúc rất nhiều người đang chen chúc đến mức không thể nhúc nhích, thì trên một cây cọ tươi tốt bên cạnh tường thành, có tiếng hạt táo rơi “bộp” xuống đất. Cùng với hạt táo rơi, là một bóng người gầy nhỏ nhảy từ trên cây xuống, giẫm lên bả vai của kẻ khác và mấy chiếc xe đẩy của những người bán hàng rong, tựa như một con báo con nhảy tới nhảy lui, ung dung nhàn nhã vượt qua đám người đang chen chúc kia, nhảy tới chiếc lồng sắt to đang phát tiền xu.

Hank đang đứng cạnh chiếc lồng ngây người ra trong thoáng chốc, cậu thiếu niên này chỉ khoảng mười mấy tuổi, mang theo một cái bọc thon dài, trên người mặc một bộ quần áo cũ đã giặt đến bạc phếch, mấy sợi tóc xoăn màu nâu hạt dẻ lộ ra dưới chiếc khăn trùm đầu bằng sợi đay thô. Khuôn mặt cậu ta bê bết bụi và mồ hôi nên nhìn không ra đường nét, chỉ cố đôi mắt là trong trẻo sáng ngời, đen trắng rõ ràng, thoạt nhìn như chưa từng trải qua sự đời, nhưng lại thấp thoáng ẩn chứa vẻ lạnh lùng không nên có ở độ tuổi này. Mỗi khi ánh mắt lưu chuyển, giống như có ánh trăng lạnh lẽo đang chiếu sáng, khí thế ép người. Hank cũng là một chiến sĩ lọc lõi đã kinh qua hàng trăm trận đánh, nhưng khi nhìn vào ánh mắt của cậu nhóc, lại không biết nên đánh trận này ra sao.

“Cho tôi một đồng vàng”. Cậu thiếu niên không chút khách sáo xòe tay ra, cổ tay thoạt nhìn nhỏ nhắn trắng trẻo, nhưng lòng bàn tay lại có những vết chai mờ mờ.


“Thằng nhóc đó giở trò! Sao có thể thế được!” Một giọng nói bất mãn từ trong đám người vang lên, có người còn thò tay ra muốn kéo cậu nhóc xuống, nhưng đành bất lực vì chiếc lồng cao đến hơn ba mét, căn bản không thể với tới.

Cậu thiếu niên lý lẽ hùng hồn nói: “Ông ta chỉ nói cướp được thì sẽ được nhận, nhưng không nói là phải cướp như thế nào”. 

Hank gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nhưng cũng không đưa đồng xu vàng cho cậu thiếu niên, hắn đánh giá cậu nhóc một lượt, cười nói: “Nhóc con, cậu bao nhiêu tuổi rồi? Thuyền này không cần nít ranh đâu”.

“Tôi mười tám, đã trưởng thành rồi”. Cậu thiếu niên ngẩng đầu ưỡn ngực, nhưng động tác này chẳng khiến cậu cao hơn được bao nhiêu.

“Thằng nhóc đó căn bản còn chưa đến mười lăm! Lùn như vậy cơ mà!”

“Đúng thế đúng thế! Còn chưa đến tuổi dậy thì, chỉ một con sóng thôi là đánh ngã luôn xuống biển rồi!”

Hank bật cười nói: “Cậu há miệng ra xem nào!”

Cậu thiếu niên chẳng hiểu gì, nhưng giám khảo đã nói thế, nên cũng nghe lời há miệng ra.

Hank khom lưng thật sự xem xét nghiêm túc một hồi, đột nhiên lớn tiếng tuyên bố: “Con ngựa non này răng còn chưa mọc hết, không thể lên thuyền được!”.

“Ha ha ha ha ha ha!” Đám người phá lên cười đầy chế giễu.

Cậu thiếu niên có hơi cuống: “Tôi thật sự đã trưởng thành rồi, có thể làm được mọi việc!”.

Hank nhìn chiếc cằm nhòn nhọn của cậu nhóc, lắc đầu: “Trên thuyền toàn những kẻ thô tục, cậu không làm được gì đâu, đợi lớn thêm vài tuổi nữa đi”.

“Tôi biết chữ! Còn biết đọc biết viết nữa!” Cậu thiếu niên lại báo cáo thêm sở trường của mình. Tiếng cười nhạo lập tức nhỏ hẳn đi, ở vào cái thời đại mà trong cả trăm người chưa chắc đã có thể tìm được một người viết được tên mình, thì có thể đọc được, viết được đã là bản lĩnh đầy mình rồi.

Hank gật gù: “Thì ra là một thằng nhóc có văn hóa. Cậu đi tới mé phía Tây quảng trường đi, xem thử chỗ đó có cần người không”.

Thái độ của giám khảo rất kiên quyết, cậu thiếu niên đành nhảy từ trên chiếc lồng sắt xuống, đạp lên vai của những kẻ phía dưới chạy về phía Tây. Tuy đã có chuẩn bị từ trước, nhưng những người bị giẫm không ai túm được mắt cá chân của cậu ta cả.

“Mẹ nó chứ, thật đúng là quái dị, nhìn thằng oắt con đó gầy như vậy, không ngờ lại nặng thế”. Một người xoa xoa bả vai bị giẫm đến phát đau, bực bội nói, không biết sức nặng đó đến từ đâu nữa.

So với sự chen chúc đông đúc đến phát điên ở quảng trường, thì buổi tuyển chọn ở phía Tây lại rất bình thường, bên trong căn lều tránh nắng màu trắng là vài chiếc bàn gồ, mặt mỗi giám khảo cũng hiền lành hơn, nhưng không biết tại sao, lại không có mấy người tới. Cậu thiến niên đi tới bên cạnh từng chiếc bàn một, mới hiểu ra tại sao ở đây không có người tới ứng tuyển.


Tuyển hoa tiêu: Yêu cầu biết đọc hải đồ, biết điều khiển bánh lái, thành thạo việc xem chòm sao, thủy triều, địa hình đá ngầm.

Tuyển thợ mộc: Yêu cầu biết xem bản thiết kế, biết sửa làu, vá chỗ thủng, pha chế sơn, chế tạo đồ dùng dụng cụ trong nhà. 

Tuyển pháo thủ: Năng lực bắn mười phát trúng chín, biết bảo dưỡng tu sửa các loại vũ khí, biết thao tác tất cả các loại súng hỏa mai, pháo quay, đại bác.

Kỹ sư quân giới…

Cậu thiếu niên vừa đi vừa lắc đầu, những người biết được những chuyên ngành kỹ thuật này còn khó tìm hơn cả tìm người biết chữ. Đi đến chiếc bàn cuối cùng, có một thanh niên trẻ tuổi hào hoa phong nhã đang ngồi trong bóng râm đọc sách. Hắn đeo một cặp kính thủy tinh cao cấp, nhìn không có vẻ gì giống một tên cướp biển, mà ngược lại trông giống một người trí thức lạnh lùng kiêu ngạo hơn. Trước mặt bày ra một chiếc túi làm bằng da đựng dụng cụ, mười mấy con dao bạc với đủ các loại hình dạng trông vô cùng sắc bén, những chiếc cưa dùng để cắt tứ chi lóe lên luồng ánh sáng lạnh lẽo.

Trên tấm biển có ghi: Bác sĩ. Yêu cầu tuyển dụng: Không tuyển người ngu.

Cậu nhóc lại thất vọng.

“Từ điển y học”, Avicenna(*)….” Trước khi bỏ đi, cậu nhóc lẩm bẩm đọc tên quyển sách trong tay người thanh niên.

(*) Avicenna sinh vào khoảng năm 980 mất năm 1037, là một học giả người Turk và cũng là thầy thuốc, nhà triết học đầu tiên ở thời kỳ này. Ông cũng là nhà thiên văn học, hóa học, địa chất học, logic học, cổ sinh học, toán học, vật lý học, nhà thơ, tâm lý học, khoa học và nhà giáo. Công trình nổi, tiếng của ông là “The book of healing” – một bách khoa toàn thư khoa học và triết học khổng lồ, và “The Cannon of Mcdicine”” – là bài viết y học chuẩn ở một số trường đại học thời Trung cổ.

Vị bác sĩ đó ngẩng đầu lên liếc nhìn một cái, rồi hỏi: “”Biết tiếng Latin?”

Cậu nhóc đáp: “Một chút”.

“Còn biết gì nữa?”

“Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, còn cả một chút tiếng Pháp và Ả Rập”.

Ở vùng Địa Trung Hải với nền văn hóa phức tạp cùng đủ các kiểu người này, mù chữ nhưng vẫn có thể nói được một vài thứ tiếng nước khác cũng chẳng phải chuyện gì kỳ lạ, có rất nhiều thương nhân sành sỏi đã đi qua rất nhiều nơi thậm chí còn uyên thâm hơn những học giả ngôn ngữ. Vị bác sĩ thờ ơ hỏi tiếp:

“Cũng biết viết chứ?”.

“Biết, tôi thường viết thư giúp cho mọi người”.

Chàng thanh niên nở nụ cười thân thiết, ấm áp như gió xuân: “Ồ, hiếm thấy đây, cậu tên gì?”

“Nick”. Nhìn thấy có một tia hy vọng, cậu nhóc trả lời ngay lập tức.

Khóe miệng của vị bác sĩ khẽ nhếch lên: “Xì, tôi không cần người viết hồ sơ bệnh án, đi đi”. Anh ta ra vẻ mình đã chơi khăm cậu nhóc thành công, rồi tiếp tục cúi đầu đọc sách. Cậu nhóc bị chơi xỏ đứng ngây người, một ông đầu bếp thân hình mập mạp ở bàn bên cạnh cười mắng: “Cho người ta ôm một tia hy vọng rồi lại từ chối, Victor, cậu đúng là đồ xấu tính”.

“Đi đi, tôi là một người vô cùng tốt bụng đấy, đồng ỷ thì mới là xấu xa”. Tay bác sĩ úp quyển sách xuống bàn, cẩn thận đánh giá cậu nhóc một lượt, ánh mắt sắc nhọn phía sau cặp kính giống như một con dao giải phẫu, xuyên qua lớp da thịt cơ bắp, đi thẳng đến phần xương tủy bên trong.

“Cậu nhóc, thành thật mà nói, nhìn cậu quá non. Thuyền của cướp biển là nơi nào chứ? Người Moor (*) hung ác, đám lái buôn Do Thái tham lam, những tín đồ Kitô bị đuổi ra khỏi giáo phái, lừa đảo, trộm cắp, lính đào ngũ, những kẻ đang chạy trốn khỏi lệnh truy nã, mấy trăm tên đàn ông nằm ngoài vòng pháp luật chen chúc khắp nơi trong khoang thuyền, cả tháng trời không thấy một người phụ nữ nào, có một khuôn mặt đẹp trai cũng không phải là chuyện tốt đâu”.


(*) Moor là từ dùng để mô tả một nhóm dân số trong lịch sử bao gồm người Berber, người châu Phi da den, người Ả Rập có nguồn gốc Bắc Phi, những nhóm người này dã chinh phục và xâm chiếm bán dảo Iberia trong gần 800 năm.

Nick sững người trong một thoáng, rồi hiểu ra ý của hắn, những vẫn ngoan cố nói lại một câu: “Khuôn mặt anh rất dễ nhìn, không phải cũng làm việc trên tàu đấy thôi”.

“Ái chà chà, nói không sai, cậu chủ tôi đây đúng là rất đẹp trai, nhưng vấn đề là cậu không có một thứ”. Victor cười cười, ngón tay thon dài vuốt ve mấy con dao bạc và cây cưa, “Con người thì phải cần mạng sống, ở trên thuyền, chỉ có những kẻ ngu xuẩn mới đắc tội với bác sĩ thôi”.

Nick không nói gì nữa. Tài nghệ không bằng người ta, những năng lực đó quả thật cậu không có. Ông đầu bếp béo bên cạnh không nỡ nhìn thấy cảnh ấy, bèn chi điểm nói: “Tiếp tục đi về phía Tây đi, lão Luhrmann ở khu bốc vác hàng hóa có lẽ cần người đấy”.

Lượt thứ hai cũng bị xua đi, hy vọng được tuyển không nhiều.

Đừng quá ngạc nhiên, cướp biển cũng là nghề kinh doanh buôn bán. Hàng hóa cướp về sẽ được quy đổi thành tiền, chắc chắn có thể giao dịch được với người khác. Đội thuyền của Hayreddin có đến hơn mười chiếc thuyền lớn, vào thời điểm dê béo không nhiều lắm, thì vận chuyển một số loại sản vật địa phương như dầu ôliu, bông, cọ, cũng có thể kiếm được một khoản.

Trong khu bốc vác rất bận rộn, hơn hai mươi người làm thuê ngồi trên xe ngựa vận chuyển hàng hóa, mùa khô trong đất liền cằn cỗi không có lấy một gốc cây ngọn cỏ nào, nên lương thực là một giao dịch quan trọng. Luhrmann là một người đàn ông trung niên vạm vỡ, quanh năm đi lại khắp Địa Trung Hải, là một thương nhân lọc lõi với kinh nghiệm phong phú. Lão đang hút một loại thuốc lá đắt tiền có xuất xứ từ Tân thế giới (*), vừa rít hơi nhả khói, vừa chỉ huy việc vận chuyển hàng hóa.

(*) Tân thế giới là tên gọi được sử dụng từ thế kỷ 16, để chỉ Châu Mỹ, bao gồm Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Trung Mỹ và Caribe cũng như các đảo xung quanh.

“Hả? Muốn vào bốc vác?” Luhrmann cúi đầu nhìn cậu nhóc gầy yếu trước mặt, “Không được đâu nhóc ạ, công việc vất vả lắm, bọn ta chỉ cần những người đàn ông có sức vóc thôi”.   

Nick cũng không nhiều lời, chạy tới đống bao tải đựng lúa mì, đưa tay kéo một bao cõng lên người, chạy hai vòng quanh chiếc xe lớn.

“Ồ, không nhìn ra đấy, chú em này cũng khỏe ghê”. Bao tải nặng năm mươi pound(*), một người đàn ông khỏe mạnh cõng cũng còn phải chật vật. Luhrmann cắn tẩu thuốc, toét miệng ra cười: “Được rồi, vừa khéo đang thiếu một người, cậu đã được tuyển. Sau này ở đây bốc vác hàng hóa, mấy tháng nữa chúng ta sẽ đi đường bộ”.

(*)1 pound nặng khoảng 453,59237 gram.

“Sao cơ, không thể lên thuyền à?” Cậu nhóc thả bao tải xuống, nhìn về phía con thuyền vũ trang bên bờ biển.

“Nhóc à, trên thuyền tuy rằng kiếm được nhiều tiền hơn, nhưng lại phải liều cả mạng sống đấy. Cậu có biết tại sao trên quảng trường nhiều người, còn lều của bác sĩ và chỗ của ta lại ít người như vậy không?” Luhrmann nhàn nhã nhả ra một hơi khói: “Bởi vì trên thuyền thì phải liều mạng, chết bao nhiêu người thì sẽ bổ sung từng ấy”.

“Tôi muốn lên thuyền”. Nick cố chấp nói.

Lão thương nhân lắc lắc đầu, tính khí của bọn thanh niên, chẳng biết thế nào là trời cao đất dày. Lão vỗ vỗ lên đống hành lý trên lưng Nick, rồi đưa cho cậu mấy đồng xu: “Đi ăn một bữa no nê rồi suy nghĩ lại cho kỹ, trên thuyền không cần phụ nữ và con nít, đây là nguyên tắc”.

Nếu không phải đến nước không có cơm ăn, thì sẽ có rất nhiều người không bao giờ băn khoăn suy nghĩ về cái nghề liều mạng này. Mấy đồng tiền ấy tuy rằng không nhiều, nhưng cũng có thể mua được một tảng thịt nướng to và một lượng lớn bia nhẹ ở Algiers. Cậu nhóc cúi đầu nói cảm ơn rồi cầm tiền bỏ đi.

Dù có hiểu được nhiều thứ tiếng, cậu vẫn không được chọn. Từ lục địa cho tới hải dương, nơi nào có thể kiếm được lời thì luôn đông đúc. Thi làm cướp biển cũng không phải là việc dễ dàng gì.

Ánh mặt trời Bắc Phi đốt cháy mặt đất, cậu nhóc bị từ chối rời đi càng lúc càng xa, chỉ để lại phía sau bóng dáng nhỏ xíu.

“Thằng bé đó đang cõng cái gì vậy?”

Luhrmann nhìn vào tay mình, hình như lão vừa vỗ vào một thứ kim loại gì đó rất cứng.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.