Bạn đang đọc Hắc Bạch Hương Hồ Ký – Chương 8: Trùng Dương Bán Vạn Nhân Hoan Tiếu-tam Ma Đồng Xuất Lưỡng Câu Thương
Sáng ngày Trùng Cửu, mùng chín tháng chín năm Giáp Dần, nhằm năm Gia Vĩnh thứ ba mươi ba, nửa vạn hào kiệt Trung Nguyên tụ hội ở núi Thiếu Thất để tham dự đại hội võ lâm.
Trong số ấy có cả Thần Phủ Lang Quân Lý Thu và thủ hạ Huyết Báo Thân Vô Cửu. Bên cạnh họ không có mặt hai nữ nhân họ Lăng vì Phi Tuyết và Phi Hồng đang tĩnh dưỡng tại Thúy Phong Cốc, chờ được chữa trị. Bọn Tư Đồ Sảng đã đến núi Thúy Phong từ trưa hôm qua. Song không gặp được Cốc chủ. Lão ta đã đi Tung Sơn tham dự thịnh hội tranh ngôi Minh Chủ. Tuy nhiên, phu nhân của Cốc chủ là Dịch Trúc Lan đã vui vẻ tiếp đón và hứa sẽ thay chồng điều trị cho bệnh nhân. Bằng như bà thất bại thì sau đại hội Cốc chủ sẽ quay về! Đấy quả là một giải pháp lưỡng toàn vì hai ả họ Lăng không nên xuất hiện hoặc đi chung với Tư Đồ Sảng.
Giờ này có lẽ Hạo Thiên Cung đã biết việc ba tù nhân vượt ngục và tài sản bị cuỗm sạch! Tất nhiên Lăng Song Tường sẽ nổi điên, ra sức truy nã Táo Gia Cát và hai con gái nuôi!
Mụ ta càng điên hơn bởi đã thất bại cay đắng trong cuộc hành quân tấn công phái Toàn Chân. Giờ Tý ngày đầu tháng chín, lực lượng Hạo Thiên Cung tràn lên núi Chung Nam thì sa vào trận địa hố chông và hỏa dược. Kết quả là thương vong gần nửa quân số! Lăng Cung chủ vẫn ngoan cố xua quân tiến lên nhưng Tổng Đàn phái Toàn Chân không một bóng người, dù đèn vẫn sáng! Tam Thanh Cung và các đạo xá hoàn toàn trống rỗng! Nghĩa là, Hào Dương Chân Quân đã biết trước kế hoạch của Hạo Thiên Cung, âm thầm di tản người và của về Vạn Thọ Trùng Dương Cung trên đất Tổ Am. Còn Chung Nam Sơn thì biến thành một cái bẫy chết người!
Linh cảm rằng Táo Gia Cát đã tẩu thoát, về đây tố giác và bày binh bố trận, Lăng Song Tường lập tức kéo quân trở lại núi Thái Bạch để kiểm tra. Hỡi ơi! Thì ra của cải lẫn tù nhân đều biến mất !
Sau một hồi chửi rủa, quát tháo, Lăng Cung chủ bình tâm lại, cùng các Thiên Long bàn bạc, điều tra sự việc. Xét địa thế sơn cốc, họ kết luận rằng Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới là người duy nhất có thể vượt tường vào được Hạo Thiên Cung!
Do đó, Lăng Song Tường phát lệnh truy nã Táo Gia Cát! Hai ả họ Lăng và cả Tây Môn Giới nữa ! Toàn bộ đệ tử Hạo Thiên Cung đều xuất cốc, theo Cung chủ đi dự đại hội võ lâm, nhân dịp này truy bắt tội phạm!
Lăng Song Tường tinh rằng sẽ tìm thấy Táo Gia Cát trong thịnh hội, bên cạnh Hạo Dương Chân Quân. Sau khi đại hội bế mạc! Bất kể kết quả thế nào thì Hạo Thiên Cung cũng dốc sức bắt Bùi lão!
Tóm lại, người của Hạo Thiên Cung có mặt khắp nơi, trà trộn trong hàng ngũ quần hào. Nhưng họ không ngờ rằng hung thủ lại chính là Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng, chàng rể hụt của Lăng Cung chủ, và chàng đang ung dung nện gót trên những bậc thang bằng đất dẫn lên bình đài đỉnh núi.
Con đường này không đưa khách đến Thiếu Lâm Tự vì cửa thiền không phải là nơi để tranh danh đoạt lợi và chém giết lẫn nhau! Địa điểm tổ chức Đại hội nằm trên một ngọn núi thấp, cũng thuộc núi Thiếu Thất sơn. Trước iư chúng ta quen với khái niệm là chùa Thiếu Lâm gắn liền với núi Thiếu Thất, thực ra, nếu chi tiết hơn thì phải hiểu rằng Thiếu Lâm Tự tọa lạc ở ngọn Ngũ Nhũ, một đỉnh phía Bắc núi Thiếu Thất. Nghĩa là “Trong núi có núi” trong Tung Sơn có Thiếu Thất và trong Thiếu Thất có Ngũ Nhũ!
Rặng Tung Sơn có đến bẩy mươi hai ngọn núi lớn và nhiều núi nhỏ nên người ta chẳng thể đặt tên cho xuể. Do vậy ngọn núi thấp nằm cạnh Ngũ Nhũ vẫn vô danh, y như nô tỳ đi cạnh chủ nhân vậy! Nó vô danh vì chẳng có kiến trúc nào cả và phong cảnh cũng không đẹp. Nhưng được cái đỉnh núi khá bằng phẳng, rộng rãi, đủ điều kiện để trở thành nơi tụ họp hàng vạn người.
Núi cao gần trăm trượng nên việc thượng sơn biến thành một cuộc leo núi vất vả. Nhưng Tiết Trùng Cửu lại chính là ngày để leo núi.
Tục lệ mừng Tiết Trùng Cứu có từ thời nào không rõ song người ta đã xem thời Tam Quốc là cái mốc xuất phát. Thuở ấy, Ngụy Văn Đế từng viết:
“Tế vãng Nguyệt Lai.
Hốt Hạ Cửu Nguyệt, Cửu Nhật!”
Tạm dịch:
“Năm qua tháng tới.
Mới đó mà mùa hạ đã hết, ngày chín tháng chín đến rồi!”.
Tiết Trùng Cửu còn gọi là Tiết Trùng Dương vì người Trug Hoa xem số lẻ thuộc về Dương và số chẵn thuộc về âm. Cho nên, mùng chín tháng chín có hai số dương, gọi là Trùng Dương!
Tổ sư phái Toàn Chân cũng sinh vào ngày này nên lấy Đạo hiệu là Vương Trùng Dương!
Thế nhưng “Cửu Vi Lão Dương, Dương Cực Tất Biến”, chín là Dương già, lên đến Cực dương ắt phải biến!
Do vậy, trong quẻ bói dịch thì số chín là số xui xẻo báo điềm thịnh chuyển thành suy! Như trong bài khóc Dương Khuê, cụ Tam Nguyên đã có câu “Buổi Dương Cửu cùng nhau hoạn nạn!”. Và Trùng Cửu, hai con chín lại càng tệ hại. Ngày này chẳng nên làm ăn, buôn bán, cưới hỏi, cứ đi chơi cho khỏe! Tốt nhất là leo núi để luyện tập thân thể! Nhân tiện ngắm cảnh vì ngày Trùng Cửu trời thường trong xanh, đẹp đẽ!
Quả đúng thế, sáng nay tiết trời rất đẹp, nắng thu nhàn nhạt, gió thu chỉ se lạnh, không làm khổ những kẻ đã khổ công lặn lội lên đây. Và lũ hoa cúc dại nở đầy trên thảm cỏ chỉ vừa kịp đón ánh bình minh Trùng Cửu thì đã bị chân người dày xéo!
Tư Đồ Sảng và Huyết Báo lên núi khá sớm để có thể chiếm một vị trí gần lôi đài. Tuy không hóa trang song với gương mặt rám nắng, đầy râu và chiếc nón rộng vành, họ không sợ bị kẻ thù nhận ra trong đám người đông lúc nhúc này! Phần lớn hào kiệt tứ hải đã bôn ba mấy nghìn dặm đến đây nên trông ai cũng phong trần như ai! Vả lại, để râu rậm rạp là sở thích của đám nam nhân vì như thế sẽ oai phong hơn! Tục ngữ có câu “Nam tu nữ nhũ”, đàn ông không râu thường bị chê là “Phường mặt trắng!”.
Hai người ngồi xuống thảm cỏ còn đẫm sương thu, mở bọc lá sen đựng bánh hấp, bánh bao, dùng bữa điểm tâm. Chung quanh họ cũng có nhiều người làm như thế, chỉ khác ở chỗ có thêm túi da đựng rượu! Xem tỷ võ phải có hơi men mới hứng thú! Và rượu vào lời ra nên lát sau đám tửu khách bắt đầu oang oang bàn chuyện giang hồ.
Nhờ vậy mà Tư Đồ Sảng biết rằng Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý đã xuất đầu lộ diện, thành lập Kỳ Lân Bang ở Trường Sa! Oái oăm thay, căn cứ của họ lại chính là Khuất gia trang, còn Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ thi trở thành Phó Bang Chủ!
Tần Cốc Lý lại có cả sự hậu thuẫn của Giả gia trang vì Giả Bạch Hổ là Tổng Hộ Pháp Kỳ Lân Bang. Bọn hào kiệt Hồ Nam còn kể thêm việc Khuất Thúy Lan, con gái Khuất Kỳ đã về làm dầu nhà họ Giả!
Hình bóng Thúy Lan chưa bao giờ đậm nét trong tâm hồn Tư Đồ Sảng nên chàng nghe tin ấy mà không buồn.Chàng chỉ thắc mắc rằng Khuất lão thái sẽ ra sao khi bị Mân Xuyên Bá Đao đoạt mất Tỵ Hoả Châu? Dung nhan của cô gái bệnh hoạn Giả Đan Quỳnh cũng thoáng hiện ra nhưng chỉ trong phút chốc!
Tin quan trọng thứ hai là của đám hào kiệt vùng Duyên Hải Đông Nam. Họ nói về sự bành trướng mau lẹ của Hải Hoa Bang ở các tỉnh ven biển như: Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô! Những Bang hội nhỏ Giang Đông đã lần lượt qui phục Hiải Hoa Bang vì khiếp sợ bản lãnh thần sầu quỉ khốc của Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc. Trước đầy, họ chỉ phải dâng nạp lễ vật hàng tháng mà vẫn giữ được sự độc lập và quyền bảo kê, nhưng giờ thì mất tất cả!
Hai nhóm hào khách Hồ Nam và Chiết Giang cũng hăng hái cá cược xem ai sẽ trở thành Minh Chủ võ lâm, Tần Cốc Lý hay Giáp Vô Yên? Chính họ Giáp lên tranh cử chứ chẳng phải Nam Hải Tiên Ông vì giới hạn tuổi là bảy mươi! Tuy Bang Chủ Hải Hoa bang đã bị Thần Phủ Lang Quân đả thượng nhưng Mân Xuyên Bá Đao cũng không được đánh giá cao lắm, do mất tích đã lâu!
Tất nhiên, bọn hào kiệt ấy cũng nhắc đến Thần Phủ Lang Quân Lý Thu và hy vọng chàng trai trẻ tuổi tài cao kia sẽ tranh giành ngôi Minh Chủ!
Họ không biết rằng chàng ta đang ngồi gần đấy với tư cách một khán giả. Chàng đến đây để xem mặt Tần Cốc Lý, kẻ có thể là chủ hung trong vụ án sát hại song thân mình!
Chàng không hề thiết tha đến chức Minh Chủ và cũng tự lượng mình chẳng phải địch thủ của Tần Cốc Lý hay Cung chủ Hạo Thiên Cung! Cứu cánh của Tư Đồ Sảng là pho Khô Mộc Thần Công nhưng chàng chỉ mới tham luyện được hơn nửa tháng! Chàng thầm lo lắng, sợ rằng Mân Xuyên Bá Đao sẽ trở thành Minh Chủ võ lâm, có đặc quyền từ chối mọi cuộc thách đấu! Và lúc ấy, chàng chỉ còn cách ám toán lão ta mà thôi!
Đang suy nghĩ bâng quơ, Tư Đồ Sảng khẽ giật mình cảnh giác khi có người đến ngồi xuống bên cạnh. Dung mạo của gã Đạo sĩ trung niên này rất tầm thường, chẳng có điểm gì khiến người ngoài phái lưu tâm, dù gặp gỡ vài lần cũng không sao nhớ nối, nhưng đối với Tư Đồ Sảng thì nó vô cùng quen thuộc và thân thiết. Chàng mừng rỡ nắm tay gã và hạ giọng:
– Tây Môn Đại thúc! Tiểu điệt định sau đại hội sẽ đến vấn an người!
Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới trừng mắt bảo:
– Tiểu quỉ chết tiệt kia! Người giấu mặt đại náo Hạo Thiên Cung báo hại lão phu lãnh hậu quả, bị truy nã gắt gao đến mức chẳng còn chỗ nương thân! Ngươi cứu người thì đã đành, sao còn cuỗm sạch tài sản của mụ họ Lăng làm gì?
Tư Đồ Sảng thẹn chín người, đang định biện bạch thì Tích Dịch Quỉ đổi thái độ, nghiêm nghị nói tiếp:
– Lão phu chỉ nói đùa thế thôi chứ trong lòng thì rất hãnh hiện khi có được học trò giỏi. Giờ hãy bình tâm nghe lão phu nói đến một việc cực kỳ quan trọng!
Và lão kề tai chàng thì thầm:
– Lão phu đã về Hàm Dương, cùng Lý đại ca điều tra suốt mấy tháng trời, dò hỏi hàng trăm người. Nhờ vậy mà đã tìm ra hung thủ sát hại cha mẹ ngươi!
Tư Đồ Sảng rúng động tâm can, nỗi vui mừng và lửa hận cùng bốc cao khiến người chàng run bắn lên. Chàng cố bình tâm hỏi nhỏ:
– Bẩm đại thúc ! Hắn ta là ai vậy?
Tây Môn Giới cau mày đáp:
– Theo lời mô tả của các nhân chứng, nhất là bọn tiểu nhị của An Hương lữ điếm thì hung thủ gồm hai người, tuổi độ lục tuần lão mang đao có một nốt ruồi son trên cánh mũi trái, đúng là đặc điểm của Mân Xuyên Bá Đao, người thứ hai mang kiếm, dung mạo anh tuấn nhưng nhãn thần lờ đờ, trông như kẻ si ngốc vậy! May thay, một gã tiểu nhị có tài họa đạo đã vẽ lại chân dung của hai kẻ đáng nghi ấy, giúp lão phu nhận ra Tần Cốc Lý và Thập Tự Thần Kiếm Phan Tử Mỹ. Lý đại ca đã phỏng đoán rằng năm xưa hai lão Tần, Phan rơi xuống vực thẳm Vu Sơn mà không chết. Nhưng ThậpTự Thần Kiếm thọ thương vào đầu, mất lý trí, bị Mân Xuyên Bá Đao khống chế! Còn lý do vì sao họ cố giết cho bằng được cha ngươi thì không rõ!
Tư ĐồSảng nghe xong,ứa nước mắt nói:
– Nay họ Tần đã luyện thành Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng, có khả năng sẽ đoạt được ngôi Minh Chủ, tiểu điệt chỉ còn cách liều mình thượng đài, tìm cơ hội báo thù mà thôi!
Tây Môn Giới giận dữ hừ nhẹ:
– Phế ngôn! Quân tử báo thù ba năm chẳng muộn, sao ngươi lại nghĩ đến chuyện thí mạng? Hơn nữa, Táo Gia Cát đã khẳng định trong đại hội lần này sẽ lắm bất ngờ và Tần Cốc Lý không thể đăng quang một cách dễ dàng. Bùi lão đã đem hết tài Gia Cát ra bói một quẻ, biết rằng ngoài Hạo Thiên Cung Chủ sẽ còn có một nhân vật cực kỳ lợi hại nữa ứng cử.
Tư Đồ Sảng đăm chiêu nói:
– Nếu Bùi tiền bối đã quả quyết như thế thì tiểu điệt sẽ cố nhẫn nại, chờ luyện xong Khô Mộc Thần Công mới khiêu chiến với họ Tần!
Và chàng lộ sắc buồn rầu, than:
– Tiểu điệt chỉ sợ ba năm cũng chẳng đủ hỏa hầu để thắng Tần Cốc Lý!
Tây Môn Giới vỗ vai chàng an ủi:
– Sảng nhi chớ lo! Ngươi là kẻ có gân cốt thượng thặng, lại được lệnh mẫu tài bồi bằng bí pháp Mẫu Tử Tiên Thiên Đạo Khí nên thần lực kinh nhân, học công phu nào cũng tiến bộ nhanh gấp mấy lần kẻ khác. Sau đại hội, lão phu sẽ đi Bắc Kinh tìm cho ngươi một nhánh Thiên Niên Hà Thủ Ô hay vài viên Vạn Niên Tuyết Sâm Hoàn. Khi có được những thứ ấy, Sảng nhi sẽ dễ dàng hoàn thành Khô Mộc Thần Công chỉ trong một hai năm!
Tư Đồ Sảng lặng người vì cảm kích. Chàng biết Tích Dịch Quỉ sẽ phải đột nhập Hoàng Cung bởi chỉ nơi ấy mới có loại kỳ trân hãn thế nọ. Mà Tử Cấm Thành lại là chốn được phòng bị nghiêm mật nhất thiên hạ, có vào chẳng có ra! Chàng nhìn Tích Dịch Quỉ với ánh rất thiết tha và nói:
– Đại thúc bất tất vì tiểu điệt mà mạo hiểm thân già! Cùng lắm thì tiểu điệt tìm cách ám toán kẻ thù là xong! Đại thúc chẳng từng dặn tiểu điệt rằng cách đánh lén luôn có hiệu quả đấy sao?
Tây Môn Giới hiểu lòng chàng, cười bảo:
– Đúng là như thế song lão phu lại muốn học trò của mình chiến thắng một cách oanh liệt và quang minh chính đại!
Dù không có danh phận sự đồ nhưng Tích Dịch Quỷ luôn tự xem Tư Đồ Sảng là truyền nhân của mình. Và hơn thế nữa, lão yêu thương chàng trai trẻ anh hùng này như con! Trong tiềm thức của vị tổ sư đạo chích, vẫn ẩn kín nỗi khát khao có được một nam tử tài ba xuất chúng. Tư Đồ Sảng đã đáp ứng được mỏng ước ấy!
Tây Môn Giới vô tình xiết chặt lưng Tư Đồ Sảng và khoan khoái hưởng thụ thứ giác ấm cúng của tình thương.
Huyết Báo nhân cơ hội này mở miệng chào:
– Tại hạ là Liễu Mộ Hào, thuộc hạ của Tư Đồ công tử, xin bái kiến đại thúc!
Tây Môn Giới cười nhạt:
– Nếu lão phu không biết ngươi là ai, quan hệ thế nào với Sảng nhi, thì đã chẳng nói năng tự nhiên như vầy!
Huyết Báo không dám giận dữ chỉ tủm tỉm cười.
Lúc này tiếng trống khai mạc Đại hội đã trỗi lên khiến quần hùng chú mục cả về hướng lôi đài. Đấy là một toà mộc đài cao đúng trượng, vuông vức mỗi bề bốn trượng, không có mái che. Bàn của Ban giám khảo đặt ở bìa phía Bắc của lôi đài!
Sàn lôi đài lót ván dầy và chung quanh chân cũng bít kín đế đảm bảo không ai có thể ẩn nấp ở dưới mà ám toán các ứng viên!
Sau lưng Ban giám khảo có căng một tấm trướng lụa trắng cực lớn, trên viết bốn chữ Tiểu Triện, nét to hàng gang tay: “Võ Lâm Đại Hội” . Và ở hai cột gỗ các gốc Tây Bắc, Đông Bắc treo cặp liễn đối:
“Nghĩa Bạc Vân thiên hiệp giả. Bạt đao phù chính khí.
Nhân Mãn càn khôn, dũng sĩ quát kiếm tảo tà ma”.
Khác với nét bút tròn đều và ngay ngắn của lối viết Tiểu Triện, những chữ trên đôi liễn được viết theo lối Cuồng Thảo đời nhà Đường nên nét bút rất phóng khoáng, nối nhau tựa rồng rắn, tượng trưng cho sự trường tồn miên viễn của võ lâm!
Chữ Cuồng Thảo là hình thức mới của Thảo thư, do Trương Húc và Thích Hoài Tố khai sáng! Thế cho nên, trong nửa vạn kẻ vai u thịt bắp hiện diện chốn này chẳng phải ai cũng đọc được câu liễn kia. Không đọc được thì tức anh ách nên có người lên tiếng chửi oang oang:
– Con bà nó! Chẳng hiểu cái thằng dốt nào đã viết hai câu đối kia thế nhỉ? Chữ nghĩa gì mà nhằng nhịt rối mắt khiến lão gia không sao đọc được dù đã học đến tám vị thầy đồ!
Cử tọa nghe vậy liền bật cười hô hố, chế giễu bậc anh hùng ít học kia! Nạn nhân là một hán tử tuổi độ Tam thập, có chiều cao khiêm tốn nhưng thân hình vô cùng lực lưỡng, vai rộng gấp rưỡi người thường, thành ra hơi giống loài khỉ dã nhân.
Gã dốt là phải vì nghèo đến mức đi dự Đại hội võ lâm mà mặc một bộ y phục cũ mèm, chật ních, bó chặt những cơ bắp cuồn cuộn và có chỗ bung cả chỉ! Tuy nhiên, gương mặt của gã khá đẹp, chỉ đậm nét quê mùa, mộc mạc chứ không hề xấu xí.
Bị quần hùng cười nhạo, chàng trai nghèo mạt rệp kia tức tối quát:
– Cười cái đếch gì! Các ngươi có giỏi thì đọc thử ta nghe!
Lập tức có giọng già nua cất lên, đầy vẻ nghiêm trang:
– Đây là lối chữ Cuồng Thảo, lại được viết bởi bàn tay tài hoa, phóng túng của Bút Thánh nên hơi rối mắt, khiến bậc ạnh hùng trẻ tuổi gặp khó khăn. Lão phu sẽ đọc lại để các hạ tường tri ! À ! Chẳng hay các hạ danh tính ra sao và xuất thân từ cửa nào vậy?
Được bậc trưởng bối khen mình là anh hùng trẻ tuổi, gã to ngang kia vô cùng khoan khoái, toét miệng cười đáp:
– Bẩm tiền bối! Tại hạ có quí tính đại danh là Triển Phi Hoan, quê quán đất Lô Châu Tứ Xuyên, tuổi gần Tam thập nhưng chưa thành gia thất.Tại hạ có được bản lãnh siêu phàm là nhờ sự giáo huấn của từ mẫu!
Câu tự giới thiệu ngây ngô, dài dòng và đầy vẻ khoe khoang của gã đã khiến người chung quanh lại được một phen cười nôn ruột, nhưng lão già râu dài kìa đã khoa tay ra hiệu cho họ nín cười và ông tằng hắng chuẩn bị ngâm hai câu đối…
Gã Triển Phi Hoan cũng đứng thẳng người vểnh tai, ra vẻ biết thưởng thức.
Lão râu đài, vận công ngâm thật lớn, âm thanh trầm bổng vang dội khắp bình đài đỉnh nủi, khiến ai cũng nghe thấy:
“Y bạc xiêm sơ…lưỡng đảo…nhất khê…giai khả biến.
Mao thanh … nhục bạch … anh hùng chi kiếm … hốt … Kình thiên.”
Tạm dịch :
“Áo mỏng váy thưa, hai đảo một khe đầu thấy được.
Lông xanh, thịt trắng, kiếm của bậc anh hùng bỗng chống trời!”
Giong ngâm và sắc diện trang trọng, văn nhã của lão càng làm tăng sự hoạt kê của hai câu thơ hàm ý thô tục khiến cho quần hùng phá lên cười như điên dại. Thậm chí có kẻ còn ôm bụng khuy xuống mà cười cho thỏa!
Thì ra gã quê mùa Triển Phi Hoan đã bị lão râu dài chơi khăm! Tuy dốt nát nhưng họ Triển cũng hiểu được những chữ đơn giản kia, biết đối phương biến gã thành trò cười của cả đại hội. Gương mặt chất phác của Phi Hoan tái nhợt đi vì hổ thẹn, và ánh mắt gã chất chứa nỗi đắng cay chua xót! Gã mồ côi cha từ thuở lọt lòng, mẹ lại thường xuyên bệnh tật, nhà luôn thiếu ăn, thì tiền đâu mà đi học? Vậy tại sao thiên hạ lại chế nhạo nỗi bất hạnh của gã?
Nghĩ đến đây, lửa giận bùng lên, Triển Phi Hoan nghiến răng kèn kẹt, mắt trợn trừng, tay hữu xiết chặt chuôi của thanh đao bên hông, định xông đến giết lão già râu dài chết tiệt kia.
Nhưng có ai đó đã đưa tay cản lại và cất giọng hòa ái:
– Triển huynh hãy bớt giận! Lão già ấy là Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh, quen thói diễu cợt thiên hạ, chẳng chừa một ai, kể cả phương trượng chùa Thiếu Lâm. Nhưng Cổ lão lại là người tốt, mỗi năm bố thí cho người nghèo hàng vạn lượng bạc.
Triển Phi Hoan nghe lời dịu ngọt ấy mà nguôi giận, tự nhủ rằng cái nhục của mình không lớn lắm. Gã ngước lên nhìn cái kẻ đã can gián rất lọt tai, nhận ra một chàng trai râu rậm nhưng mặt còn non. Gã lặng nghe lòng xao xuyến trước sống mũi Thông Thiên Đình của đối phương và bất giác sờ lên mũi của mình.
Người ấy chính là Tư Đồ Sảng và nãy giờ chàng cũng bồi hồi trước dung mạo của Triển Phi Hoan. Mặt gã và chàng khá giống nhau! Tuy đã nghe rõ tính danh và quê quán của họ Triển song lòng Tư Đồ Sảng vẫn phát sinh một mối hảo cảm, không rõ nguyên do đối với gã!
Trong sách tướng pháp của người Trung Hoa, tướng mũi Thông Thiên Đình rất quí và hiếm hoi, chỉ loại sống mùi cao, thẳng, sơn căn đầy bằng với trán (sơn căn là chỗ tiếp giáp giữa sống mũi và trán. Đại đa số người Hán đều có sơn căn lõm xuống).
Và tướng mũi này của Tư Đồ Sảng đã thừa hưởng của cha là Tư Đồ Quát! Mà Phi Hoan mang họ Triển tất chẳng dính dáng gì với họ Tư Đồ!
Nhắc lại, chàng trai già có thân hình to ngang, thô kệch của đất Tứ Xuyên, cũng bất giác thấy mến kẻ có cái sống mũi giống mình. Gã vui vẻ nói:
– Này Tiểu huynh đệ! Phải chăng chúng ta có họ hàng nên lỗ mũi giống nhau? Nhưng ngươi nói năng nghe rất êm tai còn ta thì ngược lại!
Tư Đồ Sảng mỉm cười đáp:
– Tại hạ là Tư Đồ Sảng, hai mươi mốt tuổi, quê đất Hàm Dương! Mời Triển huynh sang đây ngồi chung để cùng xem tỷ võ cho vui!
Triền phi Hoan hớn hở gật đầu, đi theo Tư Đồ Sảng đến chỗ của chàng.
Tây Môn Giới đã mất dạng chỉ còn lại Huyết Báo Liệu Mộ Hào. Song phương tự giới thiệu và làm quen xong thì nghe tiếng Giám đài nói lời khai mạc và yêu cầu các thí sinh đăng ký thượng đài !
Triển Phi Hoan nhấp nhỏm đứnglên, miệng thì nói:
– Tại hạ phải lên ghi danh mới được! Lát nữa chúng ta sẽ gặp lại!
Tư Đồ Sảng giật mình, sợ gã khó thoát chết, liền giữ lại và nói:
– Đại hội lần này thực chất là một cuộc tỷ đấu của những đại cao thủ số một võ lâm. Họ đều sở hữu những pho tà công cực kỳ ác độc như Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng, Lô Hoả Thần Chỉ… Do vậy, Triển huynh dù võ nghệ cao cường cũng không nên thượng đài!
Triển Phi Hoan cụt hứng, mặt lộ sắc buồn:
– Nếu đúng là hai loại võ công ma quỉ ấy thì ta đành bó tay vì tiên mẫu đã từng nhắc đến! Nhưng nếu không trở thành Minh Chủ thì ta làm gì để sống bây giờ? Chẳng lẽ Hoan này luyện võ gần ba chục năm mà phải làm thợ săn mãi hay sao?
Huyết Báo phì cười:
– Con bà nó ! Minh Chủ thì làm gì có lương tháng, ngươi cần tiền chứ đâu cần ngôi vị ấy!
Liễu Mộ Hào lớn hơn Triển Phi Hoan mười mấy tuổi nên có thể xưng hô như thế. Họ Triển không giận, ngơ ngác hỏi lại:
– Thực thế sao? Ta tưởng người đứng đầu võ lâm phải được trả lương cao lắm chứ?
Huyết Báo cố nín cười, tủm tỉm bảo:
– Ta định giới thiệu cho ngươi một việc làm tốt, no ấm suốt đời. Nhưng chỉ sợ ngươi chê lương thấp nên chẳng dám nói ra!
Phi Hoan mừng rỡ khẩn cầu:
– Xin Liễu huynh thương tình chỉ giáo cho! Tiểu đệ chỉ cần no bụng và mỗi tháng có được vài lượng mà uống rượu là đủ rồi! Tiểu đệ tuy ngốc nghếch nhưng bản tính trung thực, sức cử ngàn cân, lại siêng năng cần mẫn, quyết chẳng phụ lòng chủ nhân!
Huyết Báo liếc Tư Đồ Sảng, thấy chàng gật đầu, liến nghiêm nghị nói với họ Triển:
– Chẳng phải việc cày sâu cuốc bẫm hay nặng nhọc gì cả! Nếu ngươi không sợ chết thì theo ta làm thủ hạ của Tư Đồ công tử đây! Chúng ta sẽ cùng nhau tung hoành thiên hạ, lưu danh sử sách, thỏa chí nam nhi. Ngoài lương tháng năm chục lượng bạc, ngươi sẽ được tặng thêm năm lượng vàng để cưới vợ!
Triển Phi Hoan như chuột sa hũ ếp, ngẩn ngươi một lúc rồi ấp úng hỏi lại:
– Chẳng hay nhị vi là cường đạo ở vùng nào vậy?
Huyết Báo vừa tức cười vừa giận, đấm cho Phi Hoan một quyền chửi:
– Cường đạo cái con khỉ! Tư Đồ công tử đây chính thị ThầnPhủ Lang Quân, danh vang tứ hải. Chàng ta thương ngươi khốn khó nên muốn bảo bọc đấy thôi!
Chắc Triển Phi Hoan có nghe qua chiến tích lẫy lừng của Thần Phủ Lang Quân nên hiểu ra, cười hề hề:
– Té ra là thế! Triển mỗ xin cúi mình phục vụ bậc anh hùng !
Tư Đồ Sảng tươi cười đưa tay hữu ra để Phi Hoan xiết lấy, tượng trưng cho lời cam kết cùng nhau sát cánh.
Giờ chúng ta sẽ quay lại với lôi đài để nghe Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, đọc danh sách những ứng cử viên đủ tư cách thượng đài. Tổng cộng ba mươi hai người, đứng đầu là Hạo Thiên Cung Chủ Lăng Song Tường, Bang chủ Kỳ Lân Bang Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, Bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên. Hai mươi chín người còn lại là cao nhân thành danh khắp thiên hạ. Tuổi tác của ba mươi hai người ấy đều từ bẩy chục trở xuống, theo đúng qui củ võ lâm.
Sau khi đọc danh sách, Đàm Vân Tử cao giọng nói tiếp:
– Trong lúc ban giám khảo sắp xếp các cặp đấu thủ, hai ứng viên Lăng Song Tường và Tần Cốc Lý sẽ đánh trận khai mạc. Xin mời nhị vị thượng đài!
Quần hùng hoan hô nhiệt liệt vì biết hai người ấy là cặp gà số một của Đại hội. Và cuộc tranh tài của hai đại cao thủ này chắc chắn sẽ vô cùng hấp dẫn.
Mặt trước lôi đài có hai cầu thang gỗ cách nhau hơn trượng để các ứng viên đi lên. Kẻ tả người hữu, song phương cùng nhau thượng đài, đứng gần mép sàn gỗ mà vái chào cử tọa.
Tần Cốc Lý có thân hình tráng kiện, cao ráo, râu tóc đen nhánh, mặt đẹp cương nghị, phong thái ung dung đáng mặt tôn sư. Nhưng lão là nam nhân nên chẳng có gì hấp dẫn cả. Ngược lại, quần hùng suýt xoa tán dương vóc dáng yểu điệu, thon thả và gợi cảm của Lăng Song Tường, người đàn bà thần bí nhất võ lâm. Tuy đã sắp sáu mươi mà Cung chủ Hạo Thiên Cung trẻ như mới gần tứ thập, nhan sắc bội phần mặn mà, kiều diễm. Nụ cười trên môi bà ta đầy sức mê hoặc, song ánh mắt lại lạnh tựa sương khuya!
Mân Xuyên Bá Đao cũng chăm chú ngắm nhìn đối thủ chẳng rời, lão buông lời bỡn cợt:
– Phải chăng Cung chủ định dùng mĩ nhấn kế để thắng lão phu nên mặc võ phục bó sát người, lồ lộ những nét gợi tình?
Quần hùng khoái chí tán thành, hùa nhau cười đểu cáng. Và có kẻ còn rống lên:
– Này Tần Bang chủ!Ông mà để lưỡi đao chạm vào hai ngón đồi ấy thì ta sẽ lôi mười tám đời tổ tông nhà họ Tần ra mà nguyền rủa đấy!
Lăng Song Tường đỏ mặt vì những lời thô tục nhưng không phát tác với quần hùng mà trút giận lên đầu Tần Cốc Lý. Bà bất ngờ rút kiếm xông đến tấn công họ Tần bằng một chiêu cực kỳ hung hãn và lợi hại.
Có thể là bà ta quá xảo quyệt nên đã mượn cớ bị sỉ nhục mà đoạt lấy tiên cơ! Nhưng hành động này của Lăng Song Tường không hề bị kết án vì Tần Cốc Lý đã nham hiểm dùng lời khích động trước.
Và lão hồ ly kia cũng thừa cơ cảnh để đoán trước phản ứng của đối phương. Mân Xuyến Bá Đao bình thản cử đao chống đỡ và lập tức giở ngay tuyệt học Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng, xạ liền một đạo kình phong trắng đục và lạnh giá.
Tần Cốc Lý là người tàn nhẫn và quyết đoán nên nặng tay từ chiêu đầu tiên, nhờ vậy mà đối phó với độc thủ của kẻ địch.
“Tối Độc phụ nhân tâm” lời người xưa vốn chẳng sai. Lăng Song Tường đã sớm phóng ra một đạo chỉ kình phớt hồng xoèn xoẹt xé không gian, nhắm vào bụng dưới họ Tần. Bà ta đã thực hiện câu “Tiên hạ thủ vi cường”, chẳng hề nấn ná, kéo dài cuộc chiến.
Rốt cuộc kẻ cắp bà già gặp nhau, đao kiếm chưa chạm mà chưởng chỉ đã tương phùng, phát ta tiếng nổ lép bép như pháo chuột. Song phương ngang tài nên hai tà công triệt tiêu lẫn nhau, không phân thắng bại. Phản lực khiến họ khựng lại một lúc và rồi cùng lao đến, ánh thép loang loáng dưới nắng thu và tiếng thép ngân dài.
Chẳng phải vô cớ mà Mân Xuyên Bá Đao mặc bộ vô phục bằng gấm trắng và cả lưỡi đao cũng sơn mạ một mầu trắng đục. Điều này sẽ khiến cho đối phương hoa mắt, khó phát hiện những đạo chưởng phong Ngưng Huyết Huyền Băng.
Bên kia, Hạo Thiên Cung chủ cũng tính toán như thế nên xiêm y mầu hồng phấn, lưỡi kiếm được đánh bóng như gương, phản chiếu mầu áo và che giấu Lô Hoả Thần Chỉ.
Do vậy, giờ đây song phương hoá thành hai chiếc bóng, một trắng, một hồng, quấn quít lấy nhau mà đổi đòn.
Đao pháp của Tần Cốc Lý trầm ổn mà hùng mạnh, ngược lại, đường kiếm của Lăng Song Tường nhanh và hiểm độc. Tần Cốc Lý ít di chuyển, áp dụng đấu pháp Dĩ tịnh chế động, trong khi đối thủ của lão linh hoạt như cánh bướm, đáo lộn không ngừng.
Hạo Thiên Cung chủ thông thạo lộ số võ công trăm nhà, kiếm pháp tinh kỳ, bác tạp, biến ảo phi thường nên đã giành được lợi thế về vũ khí. Mũi kiếm của bà lăm le đe dọa những tử huyệt trên cơ thể đối phương, nhiều lần tưởng như đắc thủ.
Tần Cốc Lý tuy thua sút ở mặt này, thủ nhiều hơn công, song lại hơn về mặt khác. Lão nhờ viên Tỵ Hỏa Châu mà đạt được mười thành hỏa hầu của công phu Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng. Cho nên, họ Tần có thể liên tục giáng những chưởng sấm sét, đẩy lùi kẻ địch.
Lăng Song Tường là nữ nhân, sức lực chẳng bằng đối phương, lại chỉ mới luyện Lô Hoả Thần Công đến lớp thứ tám, nên không dám phí sức cho những đạo chỉ phong, thỉnh thoảng mới ra đòn.
Hai tà công chí Dương và chí Âm này đúng là khắc tinh của nhau, biến họ thành kẻ tử đối đầu. Nếu địch thủ của họ là người khác thì cuộc chiến đã kết liễu từ lâu rồi!
Quần hùng say mê theo dõi và reo hò tán thưởng nhưng Ban giám đài thì rầu thúi ruột trước bản lãnh của hai kẻ có dã tâm kia! Trong phe chính phái, không có cao thủ nào xứng tay với họ!
Ban giám đài của Đại hội lần này gồm năm vị chưởng môn các phái Bạch Đạo.
– Giám Tuệ Thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm.
– Bạch Trúc Tử, chưởng môn phái Võ Đang.
– Hắc Bì Cái, Bang chủ Cái Bang.
– Trương Thiên Sư, Giáo chủ Thiên Sư Giáo, tức Trương Hàn Vũ.
– Mộc Chân Nhân, chưởng môn phái Hoa Sơn.
Đáng lẽ có thêm Toàn Chân Trưởng Giáo Hạo Dương Chân Quân, nhưng ông ta đã vắng mặt…
Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, là người điều khiển Đại hội nên cũng ngồi chung với Ban giám đài. Ông trầm ngâm bảo họ:
– Võ lâm đã đến hồi mạt lộ nên cả hai tà công kia cùng xuất hiện. Trong thế cân bằng này, bần đạo chỉ sợ Hạo Thiên Cung và Kỳ Lân Bang bắt tay nhau, chia đôi thiên hạ! Lúc ấy thì chính khí lu mờ, các phái khó mà giữ được Tông môn!
Mộc Chân Nhân gật đầu tán thành:
– Đạo huynh quả là người cao kiến! Tiểu đệ nhận thấy họ đều gườm nhau, không dám liều lĩnh. Có lẽ cùng muốn thủ hòa để thương lượng!
Bạch Trúc Tử hắng giọng xen vào:
– Bần đạo thì lấy làm lạ khi Nam Hải Tiên Ông và học trò là Giáp Vô Yên vẫn thản nhiên không hề sợ hãi trước bản lãnh của Lăng Cung chủ và Tần Bang chủ! Chẳng lẽ võ công của họ Giáp lại cao cường đến thế sao?
Năm người kia nghe vậy cùng nhìn xuống hàng ghế đầu phía trước lôi đài thầm công nhận chưởng môn phái Võ Đang tinh ý!
Hắc Bì Cái gãi mông sồn sột rồi nhăn nhở bảo:
– Lạ thực! Hay Giáp Vô Yên là con rơi của lão Ninh Hoàng Lạc? Trông họ khá giống nhau! Chúa ăn mày nói chẳng sai, thầy trò Nam Hải Tiên Ông chỉ khác nhau ở chỗ mầu của tóc râu. Ninh lão thì bạc trắng còn Vô Yên thì đen mun.
Lúc này, trận đấu mạc đã diễn ra được nửa canh giờ, hai đấu thủ bắt đầu mỏi mệt, chiêu thức chậm lại, nhưng chẳng ai chịu nhận bại.
Quần hào xem đã chán mắt liền la ó vang trời:
– Đánh đấm kiểu gì thế? Xuống đi!
Hoặc là:
– Không chừng họ phải so tài trên giường mới phân thắng bại được.
Nửa vạn người cười ầm lên, phụ họa bằng những câu thô tục khác.
Khách võ lâm đa số là những ké hữu dũng vô mưu, ít học, nên nói năng thô lỗ tục tằn. Nhất là khi đứng trong đám đông nhung nhúc, họ tha hồ phát ngôn bừa bãi, chẳng sợ ai bắt bẻ cả.
Đại hội ngày càng ồn ào, náo loạn nên Đàm Vân Tử đành phải bước ra tuyên bố:
– Song phương ngang tài, trận này xem như hòa! Mời nhị vị đình thân chờ đến lượt tái đấu!
Tần Cốc Lý và Lăng Song Tường nhất tề nhẩy lùi, nhìn nhau bằng ánh mắt đố kỵ rồi hạ đài.
Đàm Vân Tử lại cao giọng:
– Kính thỉnh Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên và Vân Nam Đại hiệp Đoàn Phục Hưu thượng đài!
Đệ tử Hải Hoa Bang hiện diện ở đây khá đông nên đã vỗ tay và reo hò cổ vũ rất lớn khi Giáp Vô Yên cúi chào cử tọa. Hôm nay họ Giáp mặc võ phục lam sậm, lâm nổi bật nước da trắng trẻo của gương mặt đẹp. Với bộ râu ba chòm đen nhánh trông lão thật đường bệ, oai phong.
Ngược lại, Vân Nam Đại hiệp Đoàn Phục Hưu có nước da ngăm đen, mặt xương xẩu, xấu xí, người gầy mảnh khảnh. Vũ khí của họ Đoàn là một cây trường côn bằng thép ròng, nặng không dưới ba chục cân.
Phép đánh trường côn xuất phát từ thuật sử dụng thiền trượng của chùa Thiếu Lâm, có cải biên đôi chút. Thiền trượng là vật mà chỉ những bậc cao tăng mới được quyền dụng, các sư sãi cấp thấp thì không được phép. Do đó, khi bắt đầu học võ thì tăng lữ Thiếu Lâm dùng Trường côn, cả đám đệ tử tục gia cũng vậy! Họ chỉ được học nghề đánh côn sau này hạ sơn chẳng lẽ vác thiền trượng trong khi đầu đầy tóc, vợ vài nàng?
Pho Thiếu Lâm Trường côn được phổ biến rộng rãi nhất là vào thời nhà Nguyên. Thuở ấy, quân Mông Cổ tịch thu mọi loại khí giới bằng sắt thép nhưng không cấm người Hán phòng thân bằng những đoạn tre hay gỗ. Thế là bọn thanh niên đua nhau học côn thuật, cả đoản lẫn trường.
Ở miền Bắc Trung Hoa không có tre nên đòn gánh cũng được làm từ gỗ, vì vậy trường côn càng trở thành vật thiết thân cho lữ khách.
Song song với côn, phép đánh Tiểu đao, đoản kiếm, và thuật phóng ám khí cũng rất phát triển. Những loại vũ khí này nhỏ bé, dễ giấu trong áo, không sợ quân Mông nhìn thấy mà bắt bớ.
Giờ đây, nước nhà đã độc lập, trường côn không còn được ưa chuộng vì cồng kềnh, vướng víu. Đa số khách giang hồ học đao, kiếm vì những ưu thế hơn hẳn. Vẫn còn một số ít lưu luyến Trường côn song là côn sắt. Côn gỗ không bền, cứng thì dễ gãy, mềm thì dễ đứt khi chạm thép tốt.
Nhưng côn sắt thường dài độ nửa trượng, khá nặng nề, chẳng phải ai cũng đủ sức sử dụng. Bởi vậy, Vân Nam Đại hiệp Đoàn Phục Hưu được xem là người có côn thuật cao siêu nhất võ lâm. Tuy ông không vạm vỡ nhưng sức lực dồi dào, có thể múa tít cây trường côn bằng thép hàng canh giờ.
Đoàn lão càng gầy hơn vì bộ võ phục bằng gấm đen. Nhưng nếu ông mặc mầu sáng thì e rằng gương mặt lộ rõ nét đen đúa, thô kệch.
Giáp Vô Yên ôm đao thi lễ rồi tấn công trước, đao quang xanh biêng biếc, đao kình xé gió. Vân Nam Đại hiệp trụ tấn, vươn dài trường côn điểm liền tám thức nhanh như điện, không cho đối phương nhập nội. Và ông uốn mình quét một đường tảo diệp, đẩy lùi họ Giáp.
Thép chạm thép chan chát, bắn ra những tia lửa nhỏ, song phương quần thảo kịch liệt, đòn ra như vũ bão, cước bộ kinh khoái, đẹp mắt, khiến người xem trầm trồ thán phục.
Với lợi thế về chiều dài vũ khí, Đoàn lão công nhiều hơn thủ, Trường côn bay lượn, uyển chuyển tựa giải lụa đen. Giáp Vô Yên không sao tiếp cận được kẻ địch nhưng Phục Hưu cũng chẳng phá nồi màn đao ảnh dầy đặc mà thủ thắng. Đã ba khắc trôi qua, Đoàn Phục Hưu bắt đầu đổ mồ hôi ướt trán và lưng áo. Ông thầm khiếp sợ khi phát hiện đối thủ vẫn chưa xuất hạn, rồi điểm nụ cười bí ẩn.
Quần hùng không hề biết điều ấy, cứ cho rằng song phương ngang sức, có thể lại hòa như trận trước. Riêng Tư Đồ Sảng thì nghĩ khác, chàng đã nhận ra sự tiến bộ vượt bậc của Giáp Vô Yên, qua đường đao và thân pháp. Dường như họ giáp đã đạt đến cảnh giới tùy tâm nhi phát! Chàng thấy lão xuất chiêu Mông Lung Ám Bích nhanh gấp bội lúc trước và tùy tiện biến hóa chứ không đánh trọn. Nghĩa là, lão thừa sức đả bại Đoàn Phục Hưu từ lâu nhưng lại kéo dài, giấu giếm võ công chân thực.
Giáp Vô Yên giả vờ rất khéo nên trừ Tư Đồ Sảng ra chẳng ai nhận thấy ẩn tình. Lý do là vì chàng đã bước qua ngưỡng cửa kiếm đạo và đã từng đối phó với họ Giáp. Ngay Ban giám đài lẫn Tần Cốc Lý, Lăng Song Tường cũng bị lừa!
Tư Đồ Sảng vẫn nghi hoặc, cho rằng dẫu đao pháp có cao cường hơn thì Giáp Vô Yên cũng không thắng nổi Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng của Tần Cốc Lý, hoặc Lô Hoả Thần Chỉ của Lăng Song Tường. Vậy phải chăng lão ta còn sở cậy vào một tuyệt kỹ nào khác nữa?
Nghĩ thế nên Tư Đồ Sảng chú mục quan sát từng động tác của Giáp Vô Yên. Nửa khắc sau, đường côn của Đoàn Phục Hưu chậm lại và Bang Chủ Hải Hoa Bang tấn liền năm chiêu vũ bão Đoàn lão kém sức phải lùi dần và nhảy xuống đất nhận bại.
Giáp Vô Yên thở hổn hển ra chiều mệt nhọc, tươi cười đón nhận sự hoan hô của quần hùng.
Trận thứ ba thuộc về hai cao thủ Sơn Đông. Chắc họ biết mình không qua nổi bọn Tần Cốc Lý, Lăng Song Tường nên đánh nhau như biểu diễn võ thuật, được vài trăm hiệp thì đình thủ, ôm nhau cười ha hả rồi hạ đài. Tất nhiên hai người ấy bị cử tọa chửi nát nước…
Cũng đã gần đầu giờ Ngọ, Ban giám đài tuyên bố nghỉ trưa, giữa giờ Mùi sẽ đấu trận kế tiếp.
Quần hùng lũ lượt xuống núi tìm nơi ăn uống, trong những ngôi quán xá tạm bợ dưới chân núi, hoặc vào huyện thành Đăng Phong, tùy theo hầu bao.
Tư Đồ Sảng đang phân vân chẳng biết có nên xem tiếp nữa hay không, thì nghe tiếng Tây Môn Giới sát bên tai:
– Sảng nhi! Ngươi mau về Thúy Phòng Cốc để hội ngộ với Táo Gia Cát và Thuý Phong Cốc chủ. Còn hai gã kia cứ để lại đây cho lão phu sai vặt!
Nói xong lão lẩn đi ngay. Tư Đồ Sảng liền quay lại bảo Huyết Báo:
– Túc hạ hãy cùng Phi Hoan ở lại đây chờ sự chỉ bảo của Tây Môn Đại thúc. Ta về Thúy Phong Cốc trước!
Liễu Mộ Hào gật đầu tuân lệnh, kéo Triển Phi Hoan đi tìm quán nhậu, không theo Tư Đồ Sảng nữa.
Tư Đồ Sảng đến nơi gởi ngựa, thưởng cho lão tiều phu lạng bạc rồi lên yên phi thẳng. Chàng đang bị dằn vặt bởi mặc cảm bất lực, kém tài trước kẻ thù, nên không thiết gì đến chuyện ăn uống.
Khi chiều vừa buông thì Tư Đồ Sảng có mặt ở chân núi Thúy phong, lỏng tay cương chậm rãi đi xuyên qua cánh rừng ngô đồng xơ xác mà tiến vào Thúy Phong Cốc.
Hai ả họ Lăng đang loay hoay bên khóm cúc dại, nghe tiếng vó câu mừng rỡ chạy ra đón. Gương mặt diễm kiều, rạng rỡ của họ khiến lòng Tư Đồ Sảng ấm lại.
Không thấy ai khác, chàng nhẩy xuống ôm họ và hôn lên má. Hai nàng đỏ mặt, nhìn chàng say đắm. Dẫn ngựa vào chuồng xong Tư Đồ Sảng cùng họ đi vào căn nhà gỗ lớn ở giữa sơn cốc. Khi gần đến nơi hai ả mới chịu buông tay tình lang ra, giả đò thùy mị theo sau.
Cạnh chiếc bàn bát tiên cuối phòng khách của mộc xá là Táo Gia Cát Bùi Thế Trực và một lão nhân râu năm chòm điểm bạc, mặt vuông, ngũ quan thanh tú.
Bùi lão vui vẻ bảo:
– Sảng nhi ! Ngươi mau bái kiến Tư Không Cốc chủ!
Tư Đồ Sảng vội vòng tay thi lễ:
– Vãn bối Tư Đồ Sảng xin ra mặt Cốc chủ!
Tư Không Chất ngắm nhìn chàng rồi gật gù khen:
– Đúng là mĩ chất lương tài, cốt cách như rồng phượng, có một không hai! Mời hiền diệt an tọa!
Phi Tuyết và Phi Hồng biết phận nữ nhi, xin phép lui ra sau bếp chuẩn bị cơm rượu!
Ở đây Táo Gia Cát nhíu mày hỏi Tư Đồ Sảng:
– Sáng nay, khi xem xong hai trận đấu, Sảng nhi có nhận xét thế nào?
Tư Đồ Sảng trầm ngâm đáp:
– Bẩm nhị vị tiễn bối! Vãn bối đã quan sát rất kỹ và nhận ra Mân Xuyên Bá Đao có vài cơ hội để đả bại cung chủ Hạo Thiên Cung, mà chỉ bị tổn thất rất nhẹ, nhưng lão ta đã bỏ qua. Hai là, nếu họ Tần cất đao, dùng cả song thủ để thi triển pho Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng thì Lăng Cung chủ sẽ thua trong vòng hai trăm chiêu! Tiên sư thường bảo rằng pho chưởng ấy không chỉ lạnh thấu xương mà còn quỉ dị, biến hóa tuyệt luân! Nay Lăng Song Tường mới có khoảng tám thành Hỏa hầu Lô Hoả Thần Chỉ tất sẽ không địch lại!
Chàng dừng lời, nhấp hớp trà thơm rồi nói tiếp:
– Vãn bối cho rằng Tần Cốc Lý cố nhường nhịn Lăng Cung chủ là để sau này mua chuộc sự ủng hộ của Hạo Thiên Cung. Lăng Song Tường có dưới trướng mấy trăm thủ hạ, toàn tà cao thủ nhất lưu, hơn hẳn lực lượng Thập Điện Diêm Cung trước đây và Kỳ Lân Bang bây giờ. Do vậy, Tần Cốc Lý e ngại sự chống đối của Hạo Thiên Cung và còn muốn có họ làm vây cánh!
Táo Gia Cát hào hứng giơ ngón cái khen ngợi:
– Cao luận ! Không ngờ một gã thật thà như ngươi lại tinh mắt và tinh ý như vậy! Nói tiếp đi !
Tư Đồ Sảng hổ thẹn vì được tán dương, cầm chén. trà lên uống cạn. Dù quen tính khiêm tốn nhưng lòng chàng cũng rộn ràng cảm giác khoan khoái trước những lời khen ấy. Và chàng mạnh dạn trình bày tiếp:
– Bẩm nhị vi tiền bối! Tần Cốc Lý tài ba và mưu mẹo như thế song không đáng ngại bằng thầy trò Nam Hải Tiên Ông! Vãn bối đã tương giao đấu với Giáp Vô Yên nên sáng nay phát hiện võ công của lão ta đột nhiên tăng tiến đến ba bốn bậc, một việc rất khó tin! Công lực có thể dồi dào thêm nhờ kỳ trân, thần dược, nhưng muốn tinh thâm đao ý thì phải mất nhiều năm! Đao khác kiếm là ở chỗ ấy!
Bùi lão khoái trá vỗ đùi quay sang bảo Tư Không Cốc chủ:
– Lão đệ đã tin chưa? Sảng nhi là viên ngọc chưa được mài dũa, dần dần mới lộ vẻ sáng!
Tư Không Chất mỉm cười gật đầu và hỏi Tư Đồ Sảng:
– Vậy ngươi kết luận thế nào?
Tư Đồ Sảng cân nhắc một lúc rồi đáp:
– Vãn bối đã suy nghĩ suốt trên đường về và phỏng đoán rằng Nam Hải Tiên Ông đùng kế thay mận đổi đào, hóa trang làm Giáp Vô Yên để tranh ngôi Minh Chủ !
Hai lão nhân đồng thanh khen:
– Giỏi lắm !
Và họ ngỉra cổ cười khanh khách. Tư Đồ Sảng cáo lui, vào sau tắm gội, tự hỏi vì sao hôm nay mình không còn ngốc nữa! Phải chăng khi người ta bình tâm quan sát và suy nghĩ thấu đáo, cặn kẽ sẽ nhìn ra chân tướng sự vật?
Sau bữa cơm tối, cả nhà quây quần uống trà. Tư Không Cốc chủ nghiêm trang nói:
– Sảng nhi! Lão phu đã tìm ra cách hóa giả thủ pháp Bế Kinh Tuyệt Mạch cho hai con bé họ Lăng. Việc chữa trị không khó, chỉ cần ngươi hiểu được câu “Ngộ biến tùng quyền!”. Nghĩa là, dù đang cư tang cha mẹ, ngươi vẫn phải thành thân với Tuyết nhi và Hồng nhi! Yên Du vốn là khoái huyệt nên sau vài lần ân ái sẽ tự động đả thông! Ngoài cách ấy ra không còn phương thức nào cả!
Tư Đồ Sảng và cả hai ả họ Lăng xấu hổ đến mức chỉ muốn chui xuống gầm bàn mà trốn.
Táo Gia Cát nói thêm vào:
– Tần Cốc Lý võ nghệ cao cường, thủ hạ đông đảo, nên việc báo thù nhà của ngươi bội phần hung hiểm. Chẳng lẽ ngươi không nghĩ đến việc tông tự để vong linh Tư Đồ Quát được vui?
Tư Đồ Sảng nghe nhắc tên cha già, sực nhớ tới tâm nguyện của ông. Chàng bồi hồi run giọng:
– Vãn bối xin tuân mệnh!
Tư Không Cốc Chủ cười bảo:
– Vợ chồng lão phu không có con nên sẽ nhận Tuyết và Phi Hồng làm nghĩa nữ ý các ngươi thế nào?
Hai ả họ Lăng sung sướng quì xuống lạy chín lạy và gọi:
– Can gia ! Can nương!
Còn Tư Đồ Sảng thì ngượng ngùng gọi nhạc gia, nhạc mẫu!
Đêm ấy, Tư Đồ Sảng động phòng với Phi Tuyết trước vì nàng là chị! Ngày còn bị giam trong thạch tháp HạoThiên Cung, họ đã quen với thân xác của nhau nên giờ bớt ngượng ngùng. Tư Đồ Sảng mơn man cơ thế mịn màng, nóng bỏng của ái thê và thức ngộ rằng mình đã khát khao ghê gớm được đặt môi miệng vào đầu vú nhỏ xinh kia. Chàng cúi xuống và chìm trong cảm giác an lành thuở ấu thơ! Cuối canh ba, Tư Đồ Sảng sang phòng Phi Hồng! O0oChiều mười chín, Tây Môn Giới về Thúy Phong Cốc, báo tin rằng trưa mai sẽ đấu trận của Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý và Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên. Đấy cũng là trận bế mạc, quyết định ngôi Minh Chủ thuộc về ai, vì Hạo Thiên Cung Chủ Lăng Song Tường đã tuyên bố rút lui.
Nhìn gương mặt đỏ bừng đầy sắc xuân và dáng điệu thẹn thùng e ấp của Phi Tuyết Phi Hồng, Tây Môn Giới đoán ra ngay hỉ sự. Lão cười hỏi Táo Gia Cát:
– Bùi lão ca ! Phải chăng họ Tư Đồ đã có dâu!
Táo Gia Cát cười khà khà, kể lại phương pháp giải huyệt có một không hai của Tư Không Chất!
Tây Môn Giới phì cười:
– Thế có hiệu quả hay không hở Sảng nhi?
Tư Đồ Sảng bẽn lẽn ấp úng nói:
– Dạ bẩm có! Tuyết muội và Hồng muội bảo rằng đã phục hồi được một nửa võ công!
Tư Không Cốc chủ ôm bụng cười sặc sụa:
– Làm gì có chuyện đả thông một nửa! Chẳng qua hai con nha đầu ấy thích được ngươi tận tình phục vụ nên nói thế thôi.
Lão phán đoán không sai vì hai tân nương kia bị nói trúng tim đen, ôm mặt bay vèo ra khỏi phòng khách, chứng tỏ chân khí đã hoàn toàn thông suốt! Và họ trốn biệt, cơm tối cũng không ăn chung với cả nhà! Tất nhiên hai ả chẳng dại nhịn đói, ngồi dưới bếp mà bốc bải! Họ vừa ăn vừa cười nói, đổ thừa cho nhau về việc nói dối trượng phu. Phi Tuyết, Phi Hồng là chị em song sinh,dung mạo giống nhau, tâm ý tương thông, nay cùng lấy một chồng, không phải chia lìa nên bội phần thương yêu nhau. Và họ chẳng bao giờ ghen tuông, đố kỵ! Đây cũng là diễm phúc cho Tư Đồ Sảng vì kẻ đa thê thường gặp nhiều phiền toái trong gia sự.
Hai nàng ở dưới bếp, không biết các trưởng bối và chồng mình bàn bạc chuyện gì trên phòng khách, nên đêm ấy vẫn đắm chìm trong ân ái, chẳng chút lo âu.
Sáng ra, trước lúc đăng trình, Tư Đồ Sảng mới nghiêm nghị bảo:
– Sau đại hội ta sẽ đi ngay Hàm Dương để dự ngày giỗ đầu của song thân.
Chàng vừa nói đến đây thì hai ả đã ngắt lời, nhao nhao đòi theo. Phi Hồng nũng nịu nói:
– Tướng công ! Bọn thiếp giờ đã là dâu họ Tư Đồ, làm sao có thể vắng mặt trong ngày giỗ ky nhị vị nhân gia được! Mong tướng công cho bọn thiếp theo chàng.
Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới bảo:
– Không được! Hiện nay Hạo Thiên Cung và Kỳ Lân Bang đã liên minh thành một khối. Đêm hôm trước, lão phu đột nhập vào Đăng Phong đại khách điếm, rình nghe được cuộc thương lượng của bọn tà ma. Lăng Song Tường đã kể cho Tần Cốc Lý nghe lai lịch của Sảng nhi. Họ Tần là hung thủ tất phải biết mùng bốn tháng mười tới là ngày giỗ của nạn nhân. Do vậy, chắc chắn sau khi đại hội võ lâm bế mạc, Tần Cốc Lý sẽ huy động lực lượng bủa lưới ở Hàm Dương. Tóm lại, chúng ta đi càng đông càng dễ bị lộ nên chỉ mình lão phu và Sảng nhi đến Hàm Dương mà thôi!
Nghe nói phu tướng sẽ đi vào chốn nai phục, hai nàng tái mặt bởi lo âu, Tây Môn Giới thấy thế liền trấn an:
– Các ngươi cứ yên tâm! Với nghề cải trang của lão phu thì chẳng ai có thể khám phá ra được. Lão phu hứa sẽ trả lại cho hai ngươi một đấng land quân còn nguyên vẹn!
Táo Gia Cát cũng an ủi họ:
– Tây Môn Giới đa mưu túc kế chẳng kém lão phu dẫu thiên la địa võng cũng không sso vây nổi, tất sẽ giữ cho Sảng nhi được an toàn!
Các trưởng bối đã nói thế thì hai ả chẳng thể phụng phịu mãi đành gượng cười tiễn phu tướng lên đường!O0o
Giữa giờ Mùi ngày hai mươi tháng chín, trận đấu quyết định ngôi Minh Chủ đã khởi đấu. Tần Cốc Lý áo trắng, Giáp Vô Yên áo xanh đậm, họ ôm đao chào nhau rồi thủ thế. So niên kỷ, họ Giáp có quyền thủ thế trước. Và cũng như những trận đã qua, lần này Bang chủ Hải Hoa Bang điềm đạm tấn công bằng một chiêu nhẹ nhàng, mang tính thăm dò.
Tần Cốc Lý gian xảo có thừa, đã ngấm ngầm hoài nghi đối phương giấu giếm bửu bối, nên lão cực kỳ cảnh giác, không dám khinh địch. Họ Tần dồn ngay tám thành công lực vào tả thủ để phòng thân rồi mới cử đao tiếp chiêu.
Hai thanh bảo đao chạm nhau và Tần Cốc Lý nghe tay hữu tê chồn, và hổ khẩu đau rát, cứ như vùa chém vào đá vậy. Lão tái mặt nhận ra công lực đối phương cực kỳ thâm hậu, còn đao pháp thì đã đến mức Đăng Đường Nhập Thất. Giáp Vô Yên ra đòn có vẻ hiền hòa song kỳ thực đường đao nặng như núi Thái. Điều này chứng tỏ họ Giáp đã đạt đến mức trình độ thượng thừa của đao thuật.
Tần Cốc Lý bị lưỡi đao của Giáp Vô Yên uy hiếp sát rạt, vội vỗ liền một chưởng Huyền Băng, gài đối thủ vào thế lưỡng bại câu thương.
Phách Không Chưởng lực lợi hại ở chỗ có thể đả thương kẻ địch từ xa và bất ngờ, cứ như là cánh tay tả thủ của họ Tần đột ngột vươn dài ra thêm nửa trượng vậy.
Mân Xuyên Bá Đao đinh ninh rằng Giáp Vô Yên bắt buộc phải né tránh hoặc nhẩy lùi lại. Nào ngờ Bang chủ Hải Hoa Bang chẳng hề khiếp sợ chỉ khẽ khoa bàn tay trái đón lấy đạo chưởng kình Ngưng Huyết. Và kỳ diệu thay, phát chưởng lạnh giá của Tần Cốc Lý lập tức bị triệt tiêu, chẳng còn chút tăm hơi nào cả, ngoại trừ những âm thanh ì ầm do va chạm.
Mân Xuyên Bá Đao kinh hoảng thức ngộ rằng Giáp Vô Yên đã luyện thành công phu Tán Kình Trảo Pháp, một tuyệt học hãn thế thời nhà Nguyên. Pho tuyệt học này xuất xứ ở Ba Tư, truyền đến thời Định Phong Chân Nhân thì mai một. Tán Kình Trảo Pháp tạo ra một lực đạo vô cùng quái dị, có thể hóa giải mọi loại chưởng phong, chỉ lực! Sử sách võ lâm Trung Nguyên đã ghi lại rằng thuở ấy các loại vũ khí bằng sắt thép đều bị quân Mông Cổ cấm đoán nên quyền chưởng rất được hâm mộ và trở nên hưng thịnh.
Nhưng Định Phong Chân Nhân đã xuất hiện và đả bại tất cả những cao thủ trong nghề Phách Không Chưởng Lực! Tuy nhiên người ta không hề nghe nhắc đến việc Tán kình Trảo Pháp có khả năng khắc chế những loại vũ khí sắc bén như đao hoặc kiếm. Điều này không quan trọng lắm bởi Giáp Vô Yên chỉ cần Tán Kình Trảo Pháp để đối phó với Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng và lão đã thành công!
Trong lúc Tần Cốc Lý choáng váng trước tuyệt kỹ thất truyền, họ Giáp bình thản đánh trọn chiêu đao, quyết lấy mạng kình địch. Song bang chủ Kỳ Lân Bang chẳng phải kẻ bất tài, đã sớm đảo bộ thoát thân. Do đó, lão ta chỉ bị Giáp Vô Yên chém rách thịt da nơi lồng ngực vạm vỡ.
Quần hùng ồ lên kinh ngạc khi thấy máu hồng loang ướt tấm bạch bào của Tần Cốc Lý. Họ vẫn đánh giá Mân Xuyên Bá Đao cao hơn Giáp Vô Yên nên rất kinh ngạc khi thấy họ Tần đã thọ thương ngay trong trăm chiêu đấu.
Và còn đáng ngạc nhiên hơn nữa vì Giáp Vô Yên đang áp đảo Tần Cốc Lý bằng một thứ đao pháp ảo diệu và nhanh như thiểm điện.
Thanh đao có nước thép xanh ngời trên tay họ Giáp bay lượn tựa rồng thiêng múa vuốt, đao ảnh nối nhau thành giải lụa mờ mờ, đao kình vù vù xé không gian.
Tần Cốc Lý dù từng nổi danh Mân Xuyên Bá Đao song giờ đây hoàn toàn bị hạ phong trước pho Cửu Huyền Đao Pháp của Đao Vương. Lão như cá nằm trong lưới, tuyệt vọng chống đỡ bằng cách liên tục xạ ra những đạo chưởng phong trắng đục và lạnh toát. Lão hi vọng khí âm hàn sẽ khiến tứ chi của đối phương tê cóng và sau đó là máu huyết ngưng đọng.
Nhưng luồng đao kình vũ bão của họ Giáp đã xua tan khí lạnh trong lúc tay tả ung dung hóa giải Huyền Băng Chưởng. Máu hồng vương vãi như sương vì Tần Cốc Lý đã bị vướng thêm vài đao nữa. Dẫu sao thì Huyền Băng Chưởng cũng đã làm cho đối phương phân tâm, phân lực, nếu không, Tần Cốc Lý đã tiêu đời.
Họ Tần đã nghĩ đến việc buông đao để rảnh tay thi triển pho Huyền Băng Chưởng. Song Giáp Vô Yên đã không để lão có cơ hội. Trong cuộc giao tranh giữa những đại cao thủ, đường đao chỉ hơi sơ hở một chút là đủ vong mạng nên việc bỏ vũ khí chẳng phải là điều có thể làm bất cứ lúc nào.
Bọn đệ tử Hải Hoa Bang ngồi sau lưng Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc leo hò vang dội khi thấy Bang chủ thắng thế, liên tiếp đả thương và dồn kẻ địch lùi dần về phía mép lôi đài.
Xa vài trượng, Tư Đồ Sảng và Tây Môn Giới thì thầm bàn luận, lộ vẻ ngao ngán trước bản lãnh võ công của hai đấu thủ trên lôi đài.
Tư Đồ Sảng rầu rĩ nói:
– Tiểu điệt có cảm giác rằng Giáp Vô Yên thừa sức giết Tần Cốc Lý nhưng không làm. Dường như lão muốn sau này sẽ thu phục Kỳ Lân Bang và Hạo Thiên Cung làm vây cánh! Lúc ấy, việc báo thù nhà của tiểu điệt sẽ càng bội phần khó khăn, nhất là khi Tần Cốc Lý được phong làm võ lâm Phó Minh Chủ!
Tây Môn Giới vỗ vai chàng an ủi và nói bâng quơ:
– Ngươi luận việc rất chí lý nhưng biết đâu cả hai lão ấy cùng chết thì sao?
Tư Đồ Sảng không cãi nhưng tự nhủ rằng việc ấy khó có thể xây ra. Hơn nữa, lúc này Tần Cốc Lý đã tìm ra cách vãn hồi cục diện. Lão dồn toàn lực vào bảo đao, tấn công rất quyết liệt và bất ngờ uốn người lăn xả vào chân đối thủ.
Lối đánh này xuất xứ từ pho Địa Đường Đao Pháp đất Hà Nam, thường được lính bộ binh sử dụng khi đối phó với quân kỵ mã. Người võ lâm ít ai chịu học bởi nó kém phần tao nhã, thượng võ mà dễ dơ bẩn y phục, vừa khó coi vì chuyên chém vào hạ bàn người ta.
Chính vì thế mà Giáp Vô Yên bị lúng túng khi một vị Bang chủ cao cả như Tần Cốc Lý lại dám muối mặt chơi trò lăn lóc. Lão chỉ còn cách bốc chếch lên cao để tránh né. Nhờ vậy Tần Cốc Lý lăn được vào vị trí gần giữa lôi đài. Và lão lập tức đứng lên phóng thanh bảo đao vào người họ Giáp. Đồng thời, họ Tần ập đến, múa tít song thủ vẽ nên muôn ngàn chưởng ảnh trắng muốt, vây kín đối phương.
Giáp Vô Yên chưa kịp đặt chân lên sân lôi đài đã phải né tránh phi đao, và chống đỡ với chiêu quái chưởng, nên mất tiên cơ. Lão nghiến răng công phá màn chưởng ảnh lạnh lẽo kia bằng những đường đao sấm sét, tả thủ thì chập chờn bảo vệ ngực bụng. Đao quang rực rỡ xé toang màn chưởng ảnh Huyền Băng, đẩy lui Tần Cốc Lý, nhưng đùi phải họ Giáp đã trúng phớt một đòn đau điếng. Vô Yên lảo đảo vì chân trụ bị tê dại và không thể truy đuổi kẻ địch.
Thắng lợi này của Tần Cốc Lý đã làm nức lòng tướng sĩ Kỳ Lân Bang. Họ reo hò nồng nhiệt hoan hô Bang chủ. Riêng các chưởng môn Bạch Đạo và bọn Tư Đồ Sảng thì càng e ngại họ Tần đã để lộ một tâm địa thấp hèn, không thủ đoạn nào không dùng, quí hồ đắc lợi.
Lúc này, Tần Cốc Lý hung hãn tấn công như vũ bão, chưởng ảnh giăng mắc đấu trường, làm rung chuyển cả lôi đài.Lão thi triển hàng loạt chiêu Huyền Băng Chưởng, song thủ liên tiếp giáng những đạo kình phong giá lạnh và nặng như chùy sắt vào đối thủ. Họ Tần phải hạ gục Giáp Vô Yên trước khi chân của lão kịp phục hồi.
Nhưng Bang chủ Hải Hoa Bang đã múa tít bảo đao, tạo nên chiếc tán thép xanh ngời, chứa đầy kình lực để che chở châu thân. Chiếc tán này đã đánh bạt toàn bộ những đòn tấn công của họ Tần. Khách quan chiến có cảm giác như Vô Yên đang đứng trong một trái cầu bằng pha lê xanh trong suốt vậy! Họ vô cùng thán phục đao pháp thần kỳ của Giáp Vô Yên, vỗ tay tán thưởng, miệng xuýt xoa ca ngợi?
Tư Đồ Sảng cũng tấm tắc khen và nói với Tây Môn Giới:
– Đại thúc! Xem ra Giáp Vô Yên chính thị Nam Hải Tiên Ông cải trang thành. Người có công lực dưới Hoa Giáp không thể tạo ra luồng đao kình kiên cố như thế được !
Tích Dịch Qủi gật gù hỏi lại:
– Thế Sảng nhi có đoán đước lý do vì sao Nam Hải Tiên Ông dù tuổi đã tám mươi tư mà vẫn cố giành cho được ngôi Minh Chủ hay không?
Tư Đồ Sảng bối rối lắc đầu:
– Việc này tiểu điệt đã có suy nghĩ mà không tìm ra nguyên nhân! Xin Đại thúc chỉ giáo!
Tây Môn Giới cười nhạt:
– Lão phu đã cho thủ hạ đến Nhai Sơn điều tra, lờ mờ hiểu được ẩn tình song chưa thể khẳng định. Ta cần chứng thực một vài điểm nữa mới rõ nguồn cơn! Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa thì cũng không thể để Ninh lão quỉ trở thành Minh Chủ được. Và lão nheo mắt cười với chàng:
– Người xứng đáng làm Minh Chủ võ lâm chính là ngươi đấy gã ngốc ạ!
Tư Đồ Sảng ngơ ngác, ngượng ngùng, cho rằng lão đang giỡn cợt mình. Chàng quay lại xem tiếp trận đấu và phát hiện diễn biến mới. Huyệt Phục Thố trên đùi phải Giáp Vô Yên đã được đả thông, gân cốt không còn tê bại đau đớn nữa. Và họ Giáp bắt đầu phản công quyết liệt, ẩn trong màn đao quang mà xông vào lưới chưởng của kẻ địch. Đao phong, chưởng kình chạm nhau nổ ì ầm và kẻ thoái bộ chính là Tần Cốc Lý.
Họ Tần đành sử dụng phép du đấu di chuyển thật nhanh, lúc tả lúc hữu, tránh nhuệ khí chết người của đối phương, và giữ khoảng cách để phát huy ưu thế của Phách Không Chưởng lực.
Nhưng Giáp Vô Yên cũng là kẻ có khinh công cao cường, bám theo sát sạt, quyết chẳng để kẻ địch thủ lợi! Pho Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng Pháp gồm bẩy mươi hai chiêu bội phần quỉ dị nên mới lừng danh vũ nội, do vậy khi Giáp Vô Yên rạch được một đao trên da thịt Tần Cốc Lý thì cũng phải chịu một chưởng. Song giờ đây, quanh thân họ Giáp tỏa ra một lớp khí xanh mờ nhạt, giúp lão chống lại chưởng kình.
Thần Công hộ thể này đã khiến những người ngồi ở hàng ghế đầu trợn mắt kinh ngạc và một nữ nhân đã cao giọng:
– Giáp Vô Yên đã luyện thành Thuần Thanh Cương Khí! Tần Bang chủ hãy thức thời mâ nhận bại!
Người kêu gọi Tần Cốc Lý hạ đài chính lầ Cung Chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường. Đêm qua, mụ đã cùng họ Tần thế non hẹn biển và ân ái mặn nồng nên giờ lo sợ cho tính mạng tình quân?
Lăng Song Tường luyện Lô Hoả Thần Công nên lửa dục rất mạnh, chẳng nam nhân nào đáp ứng nổi. Nhưng Tần Cốc Lý sở đắc Huyền Băng Chân Khí, lại là cao thủ chốn phòng the, nên có thể ân ái thâu đêm suốt sáng khiến thân thể nóng bỏng của Lăng Song Tường chìm mãi trong khoái lạc. Tần Cốc Lý lại giầu nứt đố đổ vách nhờ tài cướp bóc của Quỷ Ảnh Hội, trong khi Hạo Thiên Cung thì sạt nghiệp bởi cuộc vơ vét của Phi Tuyết, Phi Hồng. Vì cả hai lý do tình, tiền, Lăng Song Tường vô cùng mãn nguyện được trở thành vợ của họ Tần, cùng nhau mưu đồ bá nghiệp!
Kiến văn của Mân Xuyên Bá Đao không rộng bằng Cung chủ Hạo Thiên Cung nên chẳng nhận ra Thuần Thanh Chân khí. Nãy giờ lão liều chết kéo dài cuộc chiến vì nuôi hy vọng rằng Giáp Vô Yên sẽ bị bế tắc kinh mạch bởi khí âm hàn của Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng. Nay nghe tình nương cảnh giác, lão hiểu rằng mình vô vọng. Dù cho Giáp Vô Yên chỉ mới luyện được hai ba thành Thuần Thanh Tâm Pháp thì cũng thừa sức chống lại khí lạnh của Huyền Băng Chưởng. Tuy không thể sánh với Khô Mộc Thần Công của Ngũ Hành Giáo song Thuần Thanh Cương khí cũng rất lợi hại. Nghĩ đến câu “Còn nón xanh chẳng sợ thiếu củi đun”, Tần Cốc Lý cắn răng chấp nhận thất bại, chờ cơ hội mà vươn lên. Lão là kẻ gian hùng tuyệt thế, biết lẽ tiến thoái, biết ẩn nhẫn không hề loạn động!
Tần Cốc Lý liền lùi nhanh về phía đài hướng Đông chuẩn bị nhảy xuống. Nhận ra ý định của đối thủ, Giáp Vô Yên hài lòng đình thủ và không truy đuổi. Do vậy, khi Tần Cốc Lý đến được mép lôi đài thì khoảng cách giữa hai người là trượng rưỡi.
Kẻ thắng đang khấp khởi mừng nghĩ đến giây phút đăng quang. Kẻ thuaa thì cay đắng ngậm ngùi , lòng đầy nỗi oán hận, đứng ở mép sàn gỗ nhìn kẻ địch với ánh mắt căm hờn.
Ban giám đài và cử tọa cũng chưa rõ chủ ý của Tần Cốc Lý là đánh nữa hay thôi vì lão vẫn còn ở trên lôi đài.
Đúng lúc ấy, hai tiếng nổ kinh thiên động địa phát ra và hai góc Tây Nam, Đông Nam của lôi đài bị phá nát, gỗ ván bay lên trời và khói bụi mịt mù! Nửa lôi đài sụp xuống rối bốc cháy ngùn ngụt.
Ban giám đài ngồi tận mép hướng Bắc nên chỉ bị kinh hãi chừ không tổn thương, quan khách phía dưới cũng vô sự vì ở cách lôi đài đến hơn hai trượng, do sàn đài khá cao!
Tóm lại, chỉ có vài hào kiệt bị thương nhẹ do gỗ vụn rơi vào đầu. Nhưng sự kiện này đã khiến toàn trường khiếp đảm, ùa nhau bỏ chạy, rời xa lôi đài bẩy tám trượng mới dừngchân. Và khi khói bụi lắng xuống, lửa bị dập tắt họ quay lại để xem sự thể.
Ban giám khảo đã trở về lôi đài bàn bạc và kết luận rằng đại hội phải bế mạc ngay vì sự an toàn của quần hùng, mặc dù chưa xác định được ai là Minh Chủ võ lâm. Tần Cốc Lý và Giáp Vô Yên đều bị trọng thương không biết sống chết. Trước khi vụ nổ xảy ra, họ Tần vẫn chưa nhận bại, chưa hạ đài nên trận đấu chưa kết thúc.
Sau khi thống nhất, Ban giám đài cử Đàm Vân Tử đại diện công bố với quần hùng:
– Do có kẻ phá hoại đại hội, làm cho Tần Bang chủ và Giáp Giáo chủ thọ thương trước khi cuộc so tài kết thúc, nên họ sẽ tái đấu vào dịp tiết Trùng Cửu sang năm. Trong thời gian từ nay đến lúc ấy, nếu có người chẳng may mệnh chung thì ngôi Minh Chủ thuộc về người kia! Hội đồng võ lâm kính mong chư vị anh hùng cho biết cao kiến của mình.
Lập tức có người lên tiếng:
– Lão phu cho rằng sau lần bị trùng thương bởi hoả dược thì kẻ sống sót cũng bị tàn tật hoặc giảm sút võ công, không xứng đáng với danh vị Minh Chủ. Vì thế, lão phu đề nghị phế bỏ hoàn toàn kết quả nghèo nàn của Đại hội lần này, sang năm tổ chức Đại hội khác để tìm ra một vị Minh Chủ thật vẹn toàn.
Người vừa phát ngôn chính là Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh, chủ nợ của hơn nửa số người hiện diện chốn này. Tuy hay chọc ghẹo thiên hạ nhưng Cổ lão cực kỳ hào phóng, sẵn sàng giúp đỡ vài chục lượng cho những bậc anh hùng nghèo kiết xác.
Ai chưa nhờ đến lão thì cũng tự nhủ có khi mình cần đến, tội quái gì phản bác vị thần tài tốt bụng! Thế là nửa vạn người đồng thanh tán thành cao kiến của Hí Nhân cư sĩ. Và tất nhiên Hội đồng Võ lâm, tức Ban giám đài không dám không nghe theo.