Bạn đang đọc Hắc Bạch Hương Hồ Ký – Chương 5: Đại Lượng Đắc Minh Sư,-trường Sa Đả Quỷ Ảnh (2)
Thân Vô Cửu trở về từ cửa Quỷ Môn Quan, lại được cứu vãn thanh danh nên vô cùng cảm kích. Gã giết người vì cho rằng ai cũng muốn giết mình, không ngờ có kẻ lại cư xử khác hẳn, đầy nhân hậu và tế nhị. Trừ các bậc cao nhân, không ai nhận ra ẩn tình. Bọn hào khách thở dài tiếc nuối trước kết quả hòa của trận đấu.
Khuất Kỳ cười ha hả:
– Không đổ máu là tốt rồi ! Mời chư vị vào sảnh để chuẩn bị dùng cơm chiều!
Mọi người đang định làm theo lời lão thì khựng lại vì thấy Huyết Báo Thân Vô Cửu vòng tay nói với Giả Bạch Hổ:
– Giả công tử! Thân mỗ bất tài không hoàn thành nhiệm vụ, chẳng dám theo phò công tử nữa. Từ nay, chúng ta trở thành người xa lạ.
Giả Bạch Hổ bối rối cau mày:
– Sao Thân hộ vệ lại nói thế? Các hạ đã tận lực nên không có lỗi.
Huyết Báo ngửa cổ cười dài:
– Tại hạ đã vì công tứ mà đánh chiêu “A Tỳ Vô Lộ”, xem như trả ơn nhà họ Giả! Xin cáo biệt!
Y gã ngầm trách Giả Bạch Hổ nhẫn tâm thí mạng thủ hạ. Dứt lời, Thân Vô Cửu lặng lẽ quay gót.
Không ngờ Lý Thu cũng cáo thoái. Chàng ôm quyền nói với chủ nhà:
– Trang chủ ! Vãn bối bận việc nên không thể lưu lại! Cảm tạ trang chủ đã chiêu đãi.
Khuất Kỳ chưng hửng vì thất vọng. Lão đinh ninh Lý Thu sẽ tham gia đội ngũ năm người để bảo vệ Tỵ Hoả Châu, và với bản lãnh siêu quần bạt tụy của chàng thì lão chẳng còn phải sợ bọn Câu Hồn sứ giả.
Khuất Kỳ vừa định mở miệng lưu khách thì bị Đàm Vân Tử lén kéo áo ngăn cản. Vị trưởng lão bẩy mươi lăm tuổi của núi Võ Đang nháy mắt với Khuất Kỳ và bảo:
– Giữ y lại cũng vô ích, Khuất thí chủ hãy trả vàng để y đi.
Khuất Kỳ chợt nhớ đến việc con gái mình xin họ Lý mười hai viên Hồng Bảo Ngọc, lúng túng nói:
– Chết thực! Suýt nữa thì lão phu quên béng cả việc ấy. Phiền công tử chờ một chút.
Ông liền bảo Tề tổng quản vào hậu viện lấy vàng.
Tiên Liêu Chân Nhân hí hửng dặn dò:
– Bọn lão phu lấy ngân phiếu, chứ không lấy vàng nén hay tiền giấy đâu đấy nhé!
Vàng thì nặng, tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao thì mất giá trị, hiệu buôn, quán xá nào cũng chê. (Có độc giả thắc mắc vì sao tác giả chỉ chọn bối cảnh đời Minh mà không là những triều đại khác. Xin thưa rằng trước nhà Tống thì quá xa, sử liệu không đầy đủ. Trong thời Tống thì miền Bắc Trung Hoa lọt vào tay quân Kim, lãnh thổ chật hẹp, không đủ đất cho các cao thủ vẫy vùng.
Còn như đời nhà Nguyên thì võ lâm không hề tồn tại. Sau khi chiếm được Trung Hoa, bọn Mông Cổ ra sức đàn áp người Hán bằng những chính sách gắt gao. Thời ấy, quân Mông cấm người Hán ở phương Bắc không được giữ vũ khí và ngựa, những thứ ấy bị tịch thu hết. Ở Hoa Nam còn gắt hơn, năm nhà mới có một còn dạo cắt thịt để dùng chung. Bởi vậy làm sao có những chàng hiệp khách vác gươm, cưỡi ngựa trừ gian diệt bạo được.
Triều Thanh thì khá hơn triều Nguyên một chút vì họ khôn ngoan và biết coi trọng văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, nhà Thanh cũng có rất nhiều chính sách tàn nhẫn để đàn áp người Hán. Cũng như Mông Cổ, quân Mãn Châu cấm hai dân tộc Hán – Mãn thành hôn với nhau. Họ bắt người Hán phải cạo đầu thắt bím và mặc y phục rợ Mãn. Ai không tuân thì bị chặt đầu.
Ngoài ra còn có lệnh cấm lập xã (đoàn thể), lập hội. Nghĩa là chằng còn một bang phái nào tồi tại cả. Trừ những hội kín phản Thanh như Thiên Địa Hội chẳng hạn. Chính vì thế mà nền võ thuật Trung Hoa sa sút trầm trọng, nhiều môn tuyệt học bị thất truyền. Tóm lại, chỉ có trong thời nhà Minh thì người hiệp khách mới thỏa chí tang bồng. Thuở ấy lãnh thố Trung Hoa vươn đến tận Liêu Đông, Tây Vực ở phương Bắc. Còn phương Nam giáp với Giao Châu, Miến Điện. Nước nhà lại độc lập chẳng ai cấm việc cưỡi ngựa, mang gươm).
Vài giòng tâm sự cho vui, giờ thì chúng ta trở lại Khuất Gia Trang để xem cảnh Tiên Liêu Chân Nhân đếm những tờ ngân phiếu.
Mỗi tờ năm chục lượng, tương đương giá trị một đỉnh vàng lớn, vị chi bẩy mươi hai tờ ngân phiếu. Lão đạo sĩ nghèo kia đếm rất nhanh rồi lôi Tư Đồ Sảng đi ngay.
Tiên Liêu Chân Nhân nghèo đến mức giầy vải rách mũi ngón chân thò cả ra ngoài, thì làm gì cộ tiền mua ngựa? Do vậy lão nhẩy tót lên ngồi sau lưng Tư Đồ Sảng.
Lão ta cẩn thận vòng tay ôm eo Tư Đồ Sảng như trẻ nhỏ nương tựa vào, anh cả vậy. Và lão nói:
– Này Tư Đồ thí chủ! Bần đạo già nua, cô độc lại nghèo túng, nên muốn đi theo ngươi. Việc ấy ngươi nghĩ sao?
Tư Đồ Sảng bất nhẫn đáp:
– Vãn bối mang nặng thù nhà trên vai, đang cố tiềm nhập hổ huyệt, sống chết chưa rõ làm sao cưu mang đạo trưởng được? Vãn bối xin tặng đạo trưởng số vàng ấy để dưỡng già vậy.
Chàng tưởng lão ta sẽ hài lòng trước sự hào phóng của mình. Song không ngờ Chân Nhân cười nhạt đáp:
– Ngươi lầm rồi! Người già chỉ sợ cô đơn chứ không sợ nghèo túng. Hơn nữa, bần đạo thương ngươi là kẻ trung hậu, thực thà, muốn giúp một tay. Ngốc như ngươi thì sớm muộn gì cũng chết oan dưới tay Quỷ Ảnh Hội.
Lão dừng lại một lúc rồi bỗng nói tiếp:
– Thực ra, bần đạo có quen cái gã Tư Đồ Quát, cha của ngươi.
Tự Đồ Sảng mừng rỡ thốt:
– Thực thế ư? Nhưng sao vãn bối không nghe tiên phụ nhắc đến chân nhân?
Vị đạo sĩ cười khánh khách:
– Có nhắc đấy? Chỉ tại ngươi không nhớ thôi! Bần đạo quen thân Tư Đồ Quát đến mức biết rằng y có một vết sẹo dưới vai phải, hậu quả của nhát kiếm mà Tư Đồ Xán đã đâm.Tư Đồ Sảng thấy lão nói trúng phóc bí mật, hiểu rằng Tiên Liêu Chân Nhân quả đúng là cố hữu của cha mình.
Chàng trai mồ côi, cô độc nghe lòng ấm áp tình thương. Chàng yêu cha mình nên yêu cả những người thân của ông.
Tư Đồ Sảng hớn hở nói:
– May quá ! Không ngờ vãn bối lại còn có bậc trưởng thượng để xin chỉ giáo. Nhưng chằng hay vãn bối phải xưng hô như thế nào đây?
Chàng không rõ Chân Nhân lớn hay nhỏ hơn cha mình. Lão đạo sĩ cười khà khà:
– Chú hay bác cũng đều sai ! Tốt nhất ngươi gọi ta là sư phụ vậy. Bần đạo chưa có đệ tử vừa ý, đang sợ tuyệt học bị thất truyền.
Dù không tin rằng đối phương có gì hay để dạy mình song chµng vẫn vui vẻ nhận lời, cốt để lão vui. “Nhất tự vi sư bán tự vi sư”, dẫu lão chỉ khuyên chàng cách xử thế thì cũng đáng gọi là thầy rồi.
Về đến thành Trường Sa, hai người ghé trọ trong Hồ Nam Đại Lữ điếm. Tư Đồ Sảng định đặt hai phòng thì Tiên Liêu Chân Nhân gạt đi, chỉ lấy một:
– Thầy trò thì phải ở chung để bần đạo dạy dỗ ngươi chứ!
Chàng cười và nhờ chưởng quỹ sai gã tiểu nhị đi mua giùm vài bộ đạo bào cùng giầy vớ, áo cừu cho sư phụ.
Họ lên phòng, tắm gội xong thì y phục mới đã về đến. Chân nhân khoan khoái mặc vào, gật gù khen:
– Mặc áo bằng lụa tốt quả là dễ chịu!
Rồi lão khệnh khạng ngồi xuống chiếc ghế dựa trong phòng và trầm giọng:
– Sảng nhi! Ta tuy là người đạt đạo xem thường tiểu tiết, nhưng chín lạy bái sư thì chẳng thể bỏ qua. Có vậy ta mới được quyền dạy võ cho con.
Giọng lão hòa ái nhưng uy nghiêm đáo để. Tư Đồ Sảng vội vén áo quỳ xuống khấu đầu lạy đủ chín lạy.
Vừa xong thì có tiếng gõ cửa và tiểu nhị bưng mâm cơm rượu vào. Mùi rượu Thiệu Hưng thượng hạng bay ngào gạt khi được rót ra làm cho chiếc mũi lân đỏ ửng của Chân Nhân phổng lên.
Thức ăn cũng toàn những món đặc sản lừng danh Hồ Nam, giá đắt cắt cổ.
Tửu lượng của học trò khiến vị sư phụ hài lòng. Chân Nhân cao hứng cùng Tư Đồ Sảng uống cạn một vò năm cân. Khi đã no say, lão bắt Tư Đồ Sảng kể lại thật chi tiết những gì đã xảy ra trong đời, luôn cả võ học.
Đến hoàng hôn thì câu chuyện thương tâm của Tư Đồ Sảng mới chấm dứt. Tiên Liêu Chân Nhân trầm ngâm bảo:
– Không phải ngẫu nhiên mà kiếm trở thành vua của mọi loại vũ khí. Chính Võ Hồng cũng nổi danh nhờ kiếm, sau vì thua thanh bảo đao sắc bén của Đao Vương nên mới nghĩ đến việc dùng búa. Khuyết điểm của Giáng Ma Phủ là quá nặng, không thể nào đạt đến tốc độ như khi ngươi dùng kiếm. Do đó nếu gặp phải những kiếm thủ thượng thặng, công lực thâm hậu, thì ngươi sẽ thua sau ba trăm chiêu. Dù ngươi thần lực hơn người thì lúc ấy tay cũng mỏi, đường lui chậm lại.
Tư Đồ Sảng thầm công nhận lão nhận xét không sai. Chiều nay, dù chỉ mới hơn hai trăm chiêu mà chàng đã có dấu hiệu bải hoải nơi cánh tay hữu.
Chàng phiền muộn hỏi:
– Sư phụ! Chẳng lẽ đổ nhi phải bỏ búa mà học kiếm!
Tiên Liêu Chân Nhân gật đầu rồi lại lắc đầu:
– Không hẳn như thế! Ngươi đã có căn bản về Giáng Ma kiếm pháp cứ tiếp tục khổ luyện để đối phó với những địch thủ giỏi kiếm. Còn với những loại vũ khí khác thì Giáng Ma Phủ hoàn toàn chiếm ưu thế. Bần đạo sẽ giúp ngươi thấu hiểu những yếu quyết thượng thừa của kiếm đạo.
Phòng thượng hạng nên rất rộng, gồm hai phần để tiếp khách và ngủ, được ngăn bởi một bình phong gỗ tám cánh, khắc nổi hình Tiêu Tương Bát Cảnh.
Tư Đồ Sảng liền xếp tấm bình phong để dựa vào vách phòng, dẹp bàn ghế tạo ra khoảng trống mà luyện kiếm.
Tiên Liêu Chân Nhân đã bước đến giường lấy kiếm rút ra, nghiêm nghị bảo:
– Kiếm không phải là một thanh thép vô tri, lạnh lẽo mà là một vật tương thông với tâm linh của người kiếm thủ. Do vậy, kiếm có thể nhanh bằng ý nghĩ, tâm vừa máy động thì kiếm đã đến mục tiêu.
Nhận ra vẻ nghi ngờ trong mắt học trò, Chân Nhân cười bảo:
– Ngươi không tin ư? Vậy thì ngươi cứ dùng Giáng Ma Phủ mà phòng thủ mũi kiếm của bần đạo.
Tư Đồ Sảng bẽn lẽn đi lấy búa, thủ thế rất nghiêm mật, đứng cách sư phụ gần trượng.
Tiên Liêu Chân Nhân lướt đến, trường kiếm chỉ thẳng ra phía trước. Tư Đồ Sảng vội múa tít Thần Phủ, tạo nên màn lưới thép kín như bưng. Chàng nhìn thấy mũi kiếm chập chờn trước mặt rồi liến tiếp xuyên qua phủ anh, đâm vào áo mình. Những nhát kiếm này nhanh đến mức đụng mục tiêu và rút về mà không hề chạm lấy Giáng Ma Phủ.
Tư Đồ Sảng phục lão sát đất, dừng búa vòng tay nói:
– Sư phụ quả là bậc kiếm tiên! Đồ nhi đã sáng mắt ra rối!
Chân Nhân cười khanh khách, nheo mắt bảo:
– Trước giờ ngươi cứ nghĩ rằng bần đạo là kẻ bịp bợm chứ gì?
Tư Đồ Sảng thẹn thùng đáp:
– Đồ nhi nào dám có ý ấy!
Và chàng ấm ức hỏi:
– Vì sao lúc ở Khuất Gia Trang sư phụ lại chọc ghẹo Giả Bạch Hổ rồi giá họa cho đồ nhi?
Chân Nhân đắc ý đáp:
– Bần đạo chỉ thứ thách ngươi đấy thôi! Ngươi mà nổi giận thì chẳng thể trở thành đồ đệ của ta được. Kẻ bất nhân và thiếu độ lượng thì không học nổi kiếm đạo thượng thừa.
Và lão gắt chàng:
– Đừng mất thì giờ nữa? Ngươi hãy tập trung ôn luyện kiếm pháp để đêm nay đến Khuất Gia Trang đối phó với bọn Câu Hồn sứ giả.
Tư Đồ Sảng ngơ ngác:
– Đồ nhi cũng muốn giúp họ. Nhưng nếu chường mặt ra thì sau này làm sao tiếp cận bọn Quỷ Ảnh Hội?
Chân Nhân nghiêm giọng:
– Quỷ Ảnh Hội ái tài như mạng, dẫu ngươi có lỡ giết vài tên Cầu Hồn sứ giả thì họ cũng bỏ qua, cố gắng thu phục. Bần đạo hiểu chúng hơn ngươi mà.
Tư Đồ Sảng khen phải, bắt tay vào việc ôn luyện. Chân Nhân bảo chàng thi triển pho Giáng Ma kiếm pháp bằng tốc độ nhanh nhất cho đến lúc không còn ngượng ngập.
Một canh giờ sau, mồ hôi Tư Đồ Sảng toát ra như tắm, mang theo mùi rượu thơm nồng. Thế mà Chân Nhân chưa hài lòng:
– Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm thần lực hơn người nên ỷ vào sức mà xem nhẹ yếu quyết khinh khoái. Do vậy mà pho Giáng Ma kiếm pháp vẫn còn ở trong giới hạn kiếm thuật chứ không bước được qua ngưỡng cửa kiếm đạo. Võ Hồng xem trọng chữ lực nên không ngại va chạm vũ khí, còn coi đó là cách bắt đối thủ lộ sơ hở. Nhưng nếu kiếm tiếp xúc nhiều thì tốc độ không thế nhanh được, Hơn nữa, khi gặp phải kẻ địch có công lực thâm hậu hơn, vũ khí nặng hơn, tỷ như Đao Vương chẳng hạn, thì họ Võ sẽ bị thiệt thòi.
Nói xong, ông giảng giải những tinh túy trong nghề đánh kiếm, sửa đổi từng chiêu trong pho Giáng Ma kiếm pháp. Tư Đồ Sáng dù có căn cơ thượng phẩm cũng chỉ hoàn thiện được ba chiêu là đến giữa canh một.
Tiên Liêu Chân Nhân đốc thúc chàng tắm rửa để đến Khuất Gia Trang.
O0o
Giờ chúng ta se quay lại nhà Đàm Châu đại hiệp để xem những gì xảy ra sau khi thầy trò Tư Đồ Sảng đi khỏi.
Té ra, Khuất lão tức tối như người bị bưng mắt, ăn cơm chiều xong, lôi xệch Đàm Vân Tử vào hậu sảnh mà hỏi han:
– Này Đàm Vân Tử! Ông bảo rằng không hề biết lai lịch của Lý Thu sao lại dám cam đoan rằng chàng ta sẽ trở lại hỗ trợ lão phu?
Đàm Vân Tử cười khì:
– Quả đúng là bần đạo chẳng rõ về họ Lý, song lại biết chắc rằng vạn sự sẽ chu toàn khi có mặt lão đạo sĩ già rách như xơ mướp kia. Lão ta chính là bậc phong trần dị nhân, tuổi đã trăm lẻ đắc đạo đã bốn mươi năm, mấy lần xuất hiện tiêu diệt ác ma mà không hề để người đời biết tiếng.
Khuất Kỳ kinh hãi:
– Phải chăng trưởng lão đang nhắc đến Ly Giang Tiên Ông ở đất Quế Lâm tỉnh Quảng Tây?
Đàm Vân Tử đắc ý gật đầu:
– Đúng đấy, Tiên Ông là bằng hữu của gia sư, hai mươi năm trước có ghé qua Võ Đang sơn. Nay gặp lại, bần đạo nhận ra ngay vì lão ta chẳng già một chút nào cả.
Khuất Kỳ hoan hỉ nói:
– Có Ly Giang Tiên Ông giá lâm là điều đại phúc! Lão phu không còn phải sợ Quỷ Ảnh Hội nữa rồi!
Đàm Vân Tử gật đầu tán thành song lại lộ vẻ ưu tư:
Việc ở đây không đáng ngại nữa, nhưng e rằng võ lâm lại sắp nổi phong ba cho nên Tiên Ông mới hạ sơn.
Khuất Kỳ cười bảo:
– Giang hố lúc nào chẳng có sóng gió! Chúng ta ra ngoài kẻo thất lễ với khách.
Hai người trở về bàn, Khuất trang chủ liền bị Giả Bạch Hổ hỏi dồn:
– Khuất đại thúc! Vậy chẳng hay đại thúc có cho phép tiểu điệt tham chiến không?
Chẳng phải do lời cảnh tỉnh của Tiên Liêu Chân Nhân mà chính bản thân Khuất Kỳ đã nghĩ như thế từ lâu rồi. Hồi giữa năm, Giả Gia Trang đã nhờ người đánh tiếng, dạm hỏi Thúy Lan cho Bạch Hổ, nhưng Khuất lão từ chối khéo.
“Bất Hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, trong ba tội bất hiếu thì không có con nối dõi là lớn nhất. Do vậy, Khuất lão vô cùng thất vọng khi không sinh được con trai. Ông lại là chỗ dựa cho dòng họ Khuất ở Hồ Nam, nếu để gia sản lọt vào tay người ngoài tộc thì cháu chắt Tam Lư đại phu có nhiều người khốn khổ.
Khuất Kỳ đã quyết định gả Thúy Lan cho một trong những cháu ruột của mình. Có như thế thì mới bảo toàn được sự thịnh vượng của tông môn. Khổ thay, lũ con của hai em trai Khuất Kỳ đều là hạng lục lục thường tài, văn dốt võ nát, buôn bán thì từ lỗ đến sạch vốn. Hơn nữa, bọn chúng đều ích kỷ, keo kiệt, sau này chắc chỉ bo bo giữ của, chẳng nghĩ gì đến họ hàng xa gần. Nhưng dẫu sao thì cũng còn hơn có rể là người ngoài.
Tuy không biểu lộ ra song trong sâu thẳm đáy lòng Khuất Kỳ vẫn tiềm tàng sự đố kỵ đối với nhà họ Giả. Đó là thói thường tình của con người, chẳng ai tránh khỏi. Ngoài việc hơn thua của bản thân, Khuất Kỳ còn nặng tự ái khi con cháu Giả Nghị giầu sang hơn con cháu Khuất Nguyên. Lão họ Giả chết tiệt kia đâu thể sánh với cụ Tổ Tam Lư đại phu Khuất Nguyên, người đã được cả nước Trung Hoa tưởng nhớ bằng ngày tết Đoan Ngọ?
Vì những lý do kể trên mà giờ đây Đàm Châu đại hiệp từ chối Giả Bạch Hổ một cách khôn khéo:
– Hiền điệt đã quyết chí thì lão phu đành phải chiều lòng ngươi, song việc hôn sự thì lão phu không dám hứa. Lan nhi tính tình ngang bướng, chẳng bao giờ nghe theo sự xếp đặt của lão phu. Do vậy, hiền diệt cứ việc trổ tài chinh phục, nếu Thúy Lan ưng thuận làm đâu họ Giả thì lão phu sẽ tác thành.
Giả Bạch Hổ đẹp trai nhất phủ Hồ Nam, gia thế cự vạn, nên tự tin ràng sẽ chiếm được trái tim của Thúy Lan sau vài lần thăm viếng đàm đạo. Gã hoan hỉ nhận lời:
– Cảm tạ đại thúc đã chỉ giáo con đường sáng! Tiểu điệt sẽ cố gắng để được lọt vào mắt xanh của Lan muội!
o0o
Lác đác có thêm khách ở xa đến muộn. Trong số đó có một đại nhân vật, vừa là bạn vừa là anh rể của Khuất trang chủ. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đến nơi lúc xẩm tối. Hồ lão thất nghiệp từ lúc Tư Đồ Xán thọ thương, tuyên bố từ chức.
Cơ trí của Hồ Sĩ Tuệ lừng danh thiên hạ, ngang tài với Táo Gia Cát Bùi Thế Trực dù tuổi có nhỏ hơn. Bởi thế, sự hiện diện của ông khiến Khuất Kỳ rất phấn khởi.
Trại Tôn Tử là quân sư của võ lâm nên rất nhiều người biết mặt. Cử tọa lục tục đứng lên thi lễ với lão. Hồ Sĩ Tuệ tươi cười đáp lễ và đảo mắt nhìn khắp lượt tìm ai đó.
Lên đến bàn chủ vị, lão chào hỏi Giám Hải thiền sư và Đàm Vân Tử xong là thớ dài tỏ ra vô cùng thất vọng.
Lúc này Giả Bạch Hổ đã về Giả Gia Trang tắm gội, hẹn cuối canh hai sẽ quay lại.
Đàm Vân Tử thắc mắc:
– Hồ thí chủ vì sao lại thở dài? Dường như lúc nãy ông tìm ai thì phải?
Trại Tôn Tử gật đầu:
– Đúng vậy! Lão phu đang tìm một gã tiều phu trẻ tuổi! Không có gã thì cục diện đêm nay khó vãn hồi!
Đàm Vân Tử hiểu ý, cười khà khà bảo:
– Lão thí chủ cứ yên tâm! Cái gã cầm rìu ấy đã đi khỏi nhưng chắc chắn lát nữa sẽ có mặt.
Hồ lão thở phào nhẹ nhõm:
– May thực! May thực ! Lão phu tưởng cái nghề bói Dịch của mình vô dụng rồi chứ!
Khuất lão hiếu kỳ hỏi:
– Hỗ lão ca! Thế chẳng hay lại lịch chàng trai ấy thế nào? Và vì sao đêm nay không có y không được?
Trại Tôn Tử liền kể lại việc Tư Đồ Xán bị bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên đánh trọng thươmg, phải từ chức rồi sau đó Thần Phủ Lang Quân đả bại họ Giáp.
Đoạn này ông không hạ giọng nên cử tọa đều nghe rõ, vô cùng thán phục Lý Thu.
Hồ lão nói tiếp, chỉ thì thầm đủ cho ba người cùng bàn tiếp thu:
– Sau khi bàn giao xong Tổng đàn võ lâm cho Thiếu Lâm tự trông coi, lão phu vừa nghĩ đến việc xuôi Nam thăm Khuất Gia Trang thì nghe lòng máy động, bồi hồi một cách kỳ lạ! Lão phu liền bói thử một quẻ và biết rằng Khuất Gia Trang đang lâm đại họa. Đêm đến, lão phu chiêm nghiệm thiên văn, phát hiện hung tinh kiếp sát và chính tinh thiên phủ cùng ở hướng Nam. Chợt nhớ đến Lý Thu, lão phu khá yên tâm song vẫn hồi hộp, vẫn hồi hộp. Vội kiêm trình ngày đêm để đến đây, nửa đường thì nghe đồn đại về việc Quỷ Ảnh Hội muốn cướp Tỵ Hỏa Châu của nhà họ Khuất.
Lão dừng lời, nhấp hớp trà rồi tiếp nối:
– Lão phu bèn bói thêm một quẻ để xem hung kiết thì thấy tượng quẻ hôn ám, khó hiểu, đầy máu và quỷ khí. Nghĩa là đêm nay Quỷ Ảnh Hội sẽ đưa đến đây những tay cao thủ hạng nhất, bằng mọi giá cướp cho được Tỵ Hoả Châu.
Kể xong, Hồ Sĩ Tuệ tưởng ba người kia sẽ lo âu, ngờ đâu họ vẫn thản nhiên. Và Đàm Vân Tử ỉm cười:
– Hồ lão thí chủ cứ an lòng, nơi nào có mặt Ly Giang Tiên Ông thì tà ma chẳng thể lộng hành được.
Trại Tôn Tử mừng rỡ:
– Té ra lão già bất tử ấy cũng đã đến đây ư? Thế thì lão phu chẳng phải lo nữa rồi!
Khuất Kỳ nói trước:
– Đúng vậy! Giờ thì lão ca cứ an lòng vào hậu sảnh tắm gội, dùng cơm. Tiện nội và Lan nhi sẽ rất mừng khi được gặp lão ca.
Trại Tôn Tử cười hỏi lại:
– À! Con bé Thúy Lan giờ thế nào, có còn gầy đét như ba năm trước không?
Khuất Kỳ nhăn mặt đáp:
– Lan nhi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, song tính tình ngang ngược, tinh nghịch đến mức tiểu đệ nhức cả đầu. Nhân dịp này mong lão ca dạy dỗ ả vài lời, Thúy Lan chỉ phục mình đại cửu phụ mà thôi.
Hồ Sĩ Tuệ cười khanh khách bỏ vào trong. Ba khắc sau, lão đã quay lại, sắc mặt rất trầm trọng và nói ngay:
– Lan nhi vừa kể cho lão phu nghe việc Giả Bạch Hổ xin tham chiến và đòi cưới nó. Điếu này ứng với giấc mộng đêm qua của lão phu. Trong mơ, lão phu thấy một con cáo trắng ngậm viên Tỵ Hỏa Châu đứng giữa cảnh điêu tàn đổ nát của Khuất Gia Trang. Hắn ta đâu rồi?
Khuất Kỳ cau này thở dài:
– Cuối canh hai sẽ hiện diện. Lúc đó phiền lão ca quan sát tướng mạo, tìm hiểu xem tâm địa gã thế nào? Tuy hai nhà Giả – Khuất khá thân thiết song tiểu đệ không có cảm tình với gã.
Giám Hải thiền sư bỗng hỏi:
– Hỗ lão thí chủ có biết vì sao Quỷ Ảnh Hội lại quyết tâm chiếm đoạt Tỵ Hỏa Châu hay không ?
Trại Tôn Tử trầm ngâm đáp:
– Tỵ Hỏa Châu tuy hiếm có trên đời song cũng chỉ là vật vô dụng vi chẳng ai dại gì đâm đầu vào lửa đỏ. Nghĩ mãi không ra, lão phu bèn tra lại cổ thư và phát hiện một điều là Ty Hỏa Châu, vật chí âm của trời đất, có thể giúp người ta luyện thành Ngưng Huyết Huyền Băng thần công. Vậy phải chăng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã tìm được bí kíp của tuyệt học thất truyền kia nên mới cần Tỵ Hỏa Châu?
Trụ trì chùa Kỳ Viên nghiêm giọng:
– Chỉ mong chẳng phải như thế, nếu không thì thiên hạ đại loạn. Bẩy mươi năm trước Huyền Băng Thần Quân Lương Túc Thoại đã từng dùng thứ Quỷ chưởng ấy mà giết chóc, khống chế các phái Trung Nguyên. May thay, cuối cùng thì một vị kỳ nhân ẩn danh đã nuốt Tỵ Hàn Châu mà giết được họ Thương.
Đàm Vân Tử thắc mắc:
– Vậy chẳng lẽ Tỵ Hỏa Châu có đến hai viên?
Trại Tôn Tử gật đầu:
– Đúng thế! Viên thứ nhất đã bị Huyền Băng Thần Quân dung hoá thành chân khí, viên thứ hai này do Tổ phụ nhà họ Khuất tình cờ mua được đã bốn đời.
Đàm Vân Tử thản nhiên bảo:
– Nếu đúng vậy thì chúng ta cứ hủy hoại Tỵ Hỏa Châu để tránh tai họa cho võ lâm.
Khuất Kỳ khổ sở đáp:
– Không được! Thứ nhất là vì chúng ta không biết rõ có đúng là Quỷ Ảnh Hội chủ cần nó vì mục đích gì. Thứ hai là năm trước tiên mẫu ăn nhầm một con cá lạ, thân thể nóng ran, chân hỏa bốc lên phong bế tâm mạch, nên lúc nào cũng .phải đeo Tỵ Hỏa Châu, rời xa một ngày là mất mạng.
Đàm Vân Tử bối rối nói:
– Bần đạo không biết nội tình nên đã nói càn, mong Khuất lão thí chủ lượng thứ cho.
Trại Tôn Tử xua tay:
– Đấy chỉ là chuyện nhỏ, chuyện đáng nói là sau trận này Quỷ Ảnh Hội có chịu từ bỏ dã tâm hay không? Chẳng lẽ nhà họ Khuất phải dọn vào phủ đường mà ở?
Ba người kia giật mình, biết lão nói không sai. Với lực lượng của Quỷ Ảnh Hội thì Khuất Gia Trang chẳng thể nào chống cự được nữa.
Khuất Kỳ buồn bã nói:
– Thực ra dù có được quân triều đình bảo vệ cũng không ngăn được nổi những cao thủ có thân pháp quỷ mị của phe đối phương. Mong Hồ lão ca bàn cho một diệu kế để Khuất Gia Trang khỏi tai ương này.
Hồ Sĩ Tuệ gật gù:
– Kế thì có nhưng lão phu muốn hỏi rằng ngoài hiền đệ và vợ con ra thì còn ai biết việc lão thái mang Tỵ Hỏa Châu trong người để trị bệnh không?
Khuất Kỳ lắc đầu:
– Bẩm không! Tiện nội đích thân chăm sóc gia mẫu nên bọn nô tỳ thân tín cũng chẳng rõ việc này. Vị đại phu chữa bệnh cho gia mẫu cũng đã từ trần hồi năm ngoái.
Hồ Sĩ Tuệ hoan hỉ bàn:
– Thế thì hay lắm! Cái kế giá họa Giang Đông của lão phu đã có chỗ dùng rồi!
Lão bèn trình bày kế hoạch của mình. Nghe xong, Khuất Kỳ ngơ ngác:
– Nhưng ai là người đủ tài phá vòng vây của Quỷ Ảnh Hội mà đào thoát chứ? Hơn nữa biết đâu y chẳng mang ngọc mà chuồn thẳng?
Trại Tôn Tử mỉm cười:
– Người ấy chính là Thần Phủ Lang Quân Lý Thu. Với bản lãnh của y thì chẳng ai có thể giữ chân hay đuổi kịp! Còn việc có đáng tin hay không thì hiền đệ cứ gả Thúy Lan cho y là xong. Lẽ nào con rể lại cướp ngọc của cha vợ? Vả lại lão phu nghe kể rằng y là người hào phóng, rộng lượng, dám tặng cho Lan nhi mười hai viên Hồng Bảo Ngọc trị giá ngàn vàng. Người như thế thì tham Tỵ Hỏa Châu làm quái gì?
Khuất Kỳ băn khoăn:
– Nhưng liệu Thúy Lan có chịu lấy Lý Thu hay không? Nó được Gia mẫu cưng chiều nên chẳng bao giờ nghe lời tiểu đệ.
Hồ lão tủm tỉm cười:
– Hiền đệ cứ yên tâm! Gã họ Lý đà lọt vào mắt xanh củia Thúc Lan rồi!
Khuất Kỳ bâng khuâng:
– Con bé này nông nổi thực! Chúng ta nào biết lai lịch, nhân phẩm của Lý Thu thế nào đâu?
Đàm Vân Tử ngắt lời lão:
– Việc ấy không đáng lo. Một kẻ đã được Ly Giang Tiên Ông chấm thì không thể tầm thường được. Bần đạo chỉ sợ một điều là sau này chàng rể nhà họ Khuất sẽ trở thành mục tiêu của Quỷ Ảnh Hội và không thể thoát chết. Cây búa đặc biệt của y đâu thể giấu ai được?
Trại Tôn Tử tư lự:
– Lão phu đã nghĩ đến điều ấy! Nhưng lão phu đã chứng kiến trận đấu giữa họ Lý với bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên và nhận ra rằng phủ pháp của y dường như thoát thai từ một pho kiếm pháp. Nghĩa là Lý Thu có thể sử dụng kiếm. Nếu đúng vậy thì họ Lý chỉ cần bịt mặt, cầm kiếm là không sợ bị nhận ra lai lịch.
Đàm Vân Tử nghi hoặc:
– Để biết chắc, bần đạo sẽ ra ngoài chờ đợi rồi đưa Ly Giang Tiên Ông và Lý Thu vào cửa hông, đến thẳng thư phòng ở hậu viện. Tam vị hãy xuống đấy chờ đợi và không được để ai biết chuyện này.
Hố lão tán thành:
– Đạo trưởng quả là cao kiến, bọn ta xin tuân lệnh.
Khuất Kỳ hiểu ý, giả vờ cao giọng mời ba vị thượng khách vào vấn an Khuất lão thái.
Quần hào ở dưới chẳng hề hay biết, kể cả nội gián của Quỷ Ảnh Hội, nếu có, và thực ra chắc chắn là có, vì đối phương chẳng dại gì mà không cài người vào dò xét động tĩnh Khuất Gia Trang. Thủ đoạn ấy luôn được bọn tà ma sử dụng.
Đàm Vân Tử lén đi lối cửa hông ở mé tường hướng Đông, luồn ra phía trước gia trang mà chờ đợi. Quả nhiên, khoảng gần cuối canh hai thì gặp thầy trò Tư Đồ Sảng đi đến.
Đàm Vận Từ nhảy ra chặn đường cung kính nói:
– Tiểu điệt Đàm Vân Tử xin bái kiến sư thúc!
Tiên Liêu Chân Nhân cười bảo:
– Té ra là ngươi vẫn chưa quên bần đạo. Sư phụ ngươi có khỏe không?
Đàm Vân Tử buồn rầu đáp:
– Gia sư đã thăng thiên hồi giữa năm ngoái.
Tiên Liêu Chân Nhân không nói lời chia buồn mà cười khánh khách:
– Không ngờ Thanh Liên Tử lại nóng ruột thành tiên hơn bần đạo. Cũng mừng cho lão ta, à! Ngươi đón bần đạo vì việc gì?
Đàm Vân Tử vội nói:
– Chuyện rất dài dòng, không thể nói ở đây được. Mời sư thúc và Lý thí chủ đi theo lối cửa hông, vào hậu viện để thương lượng. Chỉ lát sau, ba người đã có mặt tại thư phòng ở giữa vườn hoa nhỏ, sau dãy phòng ngủ cửa gia đình chủ nhân.
Ngoài Khuất Kỳ, Trại Tôn Tử và Giám Hải thiền sư còn có Khuất phu nhân và Thúy Lan cô nương. Khuất phu nhân muốn biết mặt rể quý nên mò đến. Phần Thúy Lan thì không rõ ý định của cha và cậu nên thản nhiên đi theo mẹ.
Sau nghi lễ chào hỏi, Trại Tôn Tử trình bày tỏ tường mọi việc, từ cục diện hiểm nghèo đến cái kế gia họa Giang Đông của mình.
Tiên Liêu Chân Nhân cười mát:
– Chẳng lẽ Khuất thí chủ không sợ đồ đệ của lão phu cuỗm của quí chạy mất hay sao? Bần đạo mới thu nhận được vài canh giờ nên không thể bảo đảm rằng y tốt hay xấu được.
Đàm Vân Tử hân hoan nói với Lý Thu:
– Bần đạo xin chức mừng Lý thí chủ! Ngươi được trở thành học trò của Ly Giang Tiên Ông là một diễm phúc mà cả thiên hạ khát khao. Theo bối phận, ngươi phải gọi ta là sư huynh. Tiên Ông và gia sư vốn là bằng hữu chí thân.
Tư Đồ Sảng sững người không ngờ Tiên Liêu Chân Nhân lại chính thị bậc dị nhân mà võ lâm vẫn truyền tụng. Ly Giang Tiên Ông thâm giao với sư tổ chàng là Du Long Chân Nhân. Cha chàng từng kể rằng Tiên Ông nhiều lần đến chơi núi Cổ Sơn, cùng Du Long Chân Nhân đánh cờ và bàn về đạo lớn.
May mà Tư Đồ Quát đã qua đời, nếu không thì sẽ gọi con trai mình bằng sư huynh.
Nhắc lại, Khuất Kỳ bèn lẽn trả lời Tiên Ông:
– Vãn bối chẳng dám nghĩ vậy.
Trại Tôn Tử cười khà khà hởi Tư Đồ Sảng:
– Này Lý công tử! Lão phu muốn đứng ra làm mai con bé Thúy Lan này cho ngươi, chẳng hay bậc anh hùng nghĩ sao?
Cả Tư Đồ Sảng lẫn Khuất Thúy Lan đều thẹn đỏ mặt, lúng ta lúng túng chẳng nói nên lời. Cuối cùng, Thúy Lan phụng phịu trách móc:
– Đại cửu phụ kỳ quá! Diệt nữ không lấy chồng đâu!
Rồi nàng bỏ chạy khỏi thư phòng, hấp tấp như bị ma đuổi.
Ly Giang Tiên Ông cau mặt báo:
– Cuộc đời của đồ đệ bần đạo rất sóng gió, gặp nhiều kiếp nạn, sinh tử khó lường. Vì vậy, việc hôn sự khoan hãy bàn đến. Ba năm sau, nếu y còn sống mà Khuất Gia Trang vẫn không đổi ý thì lương duyên sẽ vẹn toàn.
Vợ chồng họ Khuất và Trại Tôn Tử nghe thế cũng nản, chẳng tha thiết gả con cho Lý Thu nữa.
Vả lại Lý Thu đã là đệ tử của thiên hạ đệ nhất kỳ nhân là Ly Giang Tiên Ông thì hoàn toàn có thể tin tưởng được, chẳng phái sợ gã cướp Tỵ Hỏa Châu chuồn thẳng.
Trại Tôn Tử ấp úng hỏi:
– Bẩm Tiên Ông! Chẳng hay lệnh đồ có sử dụng kiếm được không?
Tiên Liêu Chân Nhân cười xòa :
– Được chứ! Bần đạo mới dạy y ba chiêu, dư sức để dùng!
Kế hoạch được triển khai, Tư Đồ Sảng trùm kín đầu bằng túi vải trắng, chỉ chừa hai lỗ mắt mà thôi.
Đang chịu tang song thân nên Tư Đồ Sảng tránh những mầu sặc sỡ, chỉ mặc hai thứ y phục trắng hoặc đen. Giờ đây chàng như bóng ma trắng toát, dễ dàng hòa lẫn với cây cối trong một đêm Đông đầy tuyết.
Khuất trang chủ đưa Tư Đồ Sảng ra vườn hoa lớn, bảo chàng nhẩy lên một cây bách cao cành lá um tùm. Bách là loài cây thân gỗ lớn thường xanh nên trong lúc lũ thông đồng tiền trơ trụi thì nó vẫn còn rậm rạp. Cây bách già nua này cao đến chín mười trượng. Tư Đồ Sảng liến chọn một cành cách mặt đất bốn trượng. Cành ấy lớn cỡ bằng bắp đùi, thừa sức chịu đựng trọng lượng cơ thể của chàng.
Ngày còn nhỏ dại, bắt đầu luyện khinh công, Tư Đồ Sảng từng ngây thơ hỏi cha:
– Phụ thân à! Hài nhi nghe mẫu thân kể rằng những đại cao thủ trong nghề võ có thể đứng trên ngọn trúc nhỏ mà không thể làm cho nó gẫy được! Phụ thân có đạt đến mức ấy không?
Tư Đồ Quát đã phì cười:
– Mẹ ngươi kể chuyện thần tiên chứ chẳng phải chuyện võ công đâu! Con người luôn gắn liền với mặt đất, nhờ khổ luyện nhiều năm, đôi chân ngày càng rắn chắc, mạnh mẽ nên mới có thể nhẩy cao hoặc chạy nhanh như vó ngựa.Tuy nhiên, khinh công chẳng thể làm giảm trọng lượng của thân xác nên lúc nào cũng cần một lực nâng tương xứng. Kẻ đứng được trên cành trúc nhỏ chỉ có thể là ma hoặc thần tiên.
Tư Đồ Sảng nhớ lại cố sự ấy, một thoáng điểm nụ cười. Song mắt lại nhuốm bi thương. Chàng đã mãi mãi mắt đi người cha thân yêu và cũng là người thầy tận tụy. Ông luôn sẵn sàng giải đáp thắc mắc của con trai, dù là điều ngớ ngẩn nhất.
Hai khắc sau, Đàm Vận Tử chạy ra, nhẩy lên cây và dặn dò:
– Lý sư đệ! Giả Bạnh Hồ vừa dẫn đến một lão già áo cừu đen, sử dụng loan đao, để bổ sung cho nhóm năm người sẽ xuất trận. Sư phụ ngươi, Ly Giang Tiên Ông đã nhận ra lão ta là Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên, ác nhân khét tiếng đất Vân Nam. Tiên Ông bảo rằng sư đệ có thể nhân dịp này giết hoặc đả thương lão ta, trước là trừ hại cho bách tính, sau là tạo sự tin tưởng cho Quỷ Ảnh Hội. Nếu ngươi cướp ngọc mà không lấy máu người của Khuất Gia Trang thì đối phương sẽ nghi ngờ…
Tư Đồ Sảng liền hứa sẽ tuân mệnh, tùy nghi sẽ xử trí. Đàm Vân Tử đi rồi, chàng bâng khuâng suy nghĩ:
– “Lạ thực! Gã Giả Bạch Hổ này là con nhà đại phú, vì sao lại chiêu mộ toàn những ác nhân như thế nhỉ?”.
Gío Bắc rít lên từng hồi khua động cành lá và làm rét mướt kẻ đang phơi mình trong làn mưa tuyết. Ban đêm, mặt trời đi ngủ nên độ ẩm cao, tuyết rơi dầy hơn ban ngày. Tư Đồ Sảng khép kín vạt áo lông cừu trắng, chợt nhớ đến hai gương mặt ma chê quỷ hờn của Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng. Chàng biết họ xấu hơn Thúy Lan trăm lần nhưng không hiểu sao ánh mắt, nụ cười ấy lại quyến rũ lạ lùng!
Có mẽ đã gần cuối giờ Hợi nên tiếng chân người rộn rã và ánh đèn đuốc rực sáng vườn hoa. Khuất Kỳ cùng một số hào kiệt đã kéo ra nghênh chiến. Số còn lại cùng với bọn gia nhân của Khuất Gia phòng thủ chặt chẽ những nơi quan trọng, đề phòng kẻ địch không giữ quy củ mà lấy thịt đè người. Tuy bao năm nay Quỷ Ảnh Hội vẫn thực thi việc so tài đoạt bảo, song biết đâu lần này họ giở quẻ?
Hoặc giả họ giả vờ đòi Tỵ Hoả Châu song lại nhắm vào kho vàng bạc của Khuất Gia Trang?
Số người hiện diện ở vườn hoa vào khoảng bốn mươi, toàn là những tay kiệt xuất nhưng không có Tiên Liêu Chân nhân tức Ly Giang Tiên Ông.
Tư Đồ Sảng chú ý đến người mặc áo cừu đen đứng cạnh Giả Bạch Hổ đoán rằng đấy là Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên.(Lan Thương Giang là tên của đoạn sông Mê Công chảy trên đất Trung Hoa).
Dưới ánh đuốc chập chờn vì ngọn đông phong, gương mặt của họ Lưu hiền hòa, đẹp lão, chẳng hề có một nét gì là người gian ác.
Nhưng Tư Đồ Sảng đã được cha kể sơ về ác tích của Lưu Xuyên, một kẻ mặt người lòng thú, chẳng tội ác nào không dám làm. Chàng quyết định trừng trị lão, hoàn thành tâm nguyện của phụ thân.
Tư Đồ Quát đã nung đúc trong tâm hồn con trai hình tượng chàng hiệp khách tài ba, nhân hậu, luôn xả thân trừ gian diệt bạo. Và khi ông nhắc đến kẻ hung ác nào trong võ lâm thì cùng đều biếu lộ sự căm ghét! Muốn hắn biến mất khỏi thế gian, để lương dân đỡ lầm than. Tư Đồ Quát thừa lòng hào hiệp nhưng bản lãnh có hạn nên đã phải làm ngơ trước sự hoành hành của lũ hung cuồng. Biết con trai thần lực hơn người, pho Giáng Ma Phủ Pháp lại là tuyệt học hiếm có, Tư Đồ Quát bèn nuôi mộng rằng con mình sẽ trở thành bậc đại hiệp danh lưu muôn thuở, thực hiện được những điều mà ông bất lực.
Dòng hồi tưởng của Tư Đổ Sảng bị cắt đứt vì ánh mắt chàng chạm phải luồng hào quang xanh biếc của viên Tỵ Hỏa Châu.
Khuất trang chủ đã mở hộp nhỏ chứa ngọc và đặt lên mặt chiếc bàn đá giữa hoa viên, nơi ông thường cùng vợ con thưởng nguyệt những đêm xuân.Cạnh hộp ngọc là rương gỗ đựng hai chục đĩnh vàng, mỗi đĩnh năm chục lượng.
Xung quanh bàn là tám chiếc đôn bằng đá vân thạch đại lý, chân được chôn cố định xuống nền đất.
Tư Đồ Sảng hài lòng vì biết mình đủ sức nhẩy xuống vị trí ấy dễ dàng. Chàng nheo mắt ngắm nghía viên ngọc xanh to bằng hạt nhãn đang tỏa sáng dưới ánh đuốc, tự hỏi rằng có đúng là nó thần điệu đến mức giúp người ta bước đi trong lửa đỏ hay không?
Theo đúng kế hoạch, Đàm Vân Tử đã cắm hàng chục cây đuốc dầu mỏ có cán dài quanh bàn. Chúng sẽ làm vướng chân người ở ngoài xông vào chứ không ngăn cản kẻ từ trên cao nhẩy xuống. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Tư Đồ Sảng, bảo đảm rằng chàng có thể chụp được hộp gỗ trước khi có người lao đến, dù ở phe nào cũng vậy.
Chiếc bàn đã nằm ở hướng Đông gốc bách và Tư Đồ Sảng sẽ thoát đi bằng hướng ấy nên Đàm Vân Tử đã bố trí Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên đứng chặn. Lưu Xuyên sẽ phải đền tội và làm vật hy sinh cho kế Giá Họa Giang Đông.
Kế này của bọn mưu sĩ thời Đông Chu, vốn có tên là Di Thi Giá Họa. Sau này, đến thời Tam Quốc, Lữ Mông của Đông Ngô giết Quan Vân Trường xong bèn gửi xác nạn nhân cho Tào Tháo để đổi hướng cơn giận dữ của Lưu Bị Từ đó, kế Di Thi Giá Họa thường được gọi là Giá Họa Giang Đông.
Nhắc lại, năm cao thủ của Khuất Gia Trang vừa bố trí xung quanh chiếc bàn đá xong thì phe đối phương xuất hiện. Bọn Quỷ Ảnh Hội vượt tường vây vào đến nơi mà không hề bị ai cản trở cả. Tuy họ chỉ có tám người song nhắc chắn ngoài kia có cả một lực lượng hùng hậu để đề phòng chủ nhà chơi trò ỷ chúng hiếp cô.
Tám người này toàn thân hắc y, đầu trùm kín bằng túi vải, áo cừu cũng đen mun. Họ đứng thành hình cánh cung, tay nắm chặt chuôi đao.
Người ở giữa có thân hình cao gầy, có lẽ là đầu lĩnh của cả bọn nên lên tiếng:
– Khuất trang chủ! Lần này bổn Hội cử đi toàn những cao thủ hạng nhất, hơn hẳn những người đã từng giết Lư Sơn Ngũ Hiệp ở Giang Tây. Vì vậy, tốt nhất là ông nên dâng nạp ngay Tỵ Hỏa Châu để khỏi bị chết oan.
Nghe vậy, Khuất Kỳ thực sự bị chấn động song cho rằng cuộc chiến sẽ không kéo dài nên chẳng sợ hãi. Ông nghiêm nghị đáp:
– Cảm tạ túc hạ đã cảnh báo! Nhưng Khuất mỗ cũng có chút thanh danh trên giang hồ, chẳng thể ngoan ngoãn để mất bảo vật tổ truyền mà không chống cự. Túc hạ cứ việc cử ra, năm người của mình đúng như quy củ.
Người kia bật cười ghê rợn:
Bổn tọa đã mở ra sinh lộ nào ngờ ngươi lại ngu muội, cố chấp liều chết bởi chút hư danh . Giờ thì ngươi có chết cũng là đáng lắm!
Nghe cách xưng hô, Khuất Kỳ hiểu ngáy rằng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã đích thân xuất trận. Có lẽ viên Ty Hỏa Châu cực kỳ quan trọng nên lão ta đã không thể yên tâm giao cho thủ hạ hành động.
Hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã cùng bốn gã hắc y nữa lướt đến, chia nhau tấn công phòng tuyến quanh bàn đá. Tất nhiên lão ta chọn Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ làm đối thủ.
Thanh đao của lão ta rạng ngời ánh thép xanh lè, chứng tỏ là của quý. Tư Đồ Sảng sững sờ nhận ra rằng đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ còn nhanh hơn Giáng Ma Phủ. Đao ảnh nối nhau thành một dải lụa xanh sáng, bay lượn cuồng loạn song chiêu thc cực kỳ hiểm ác, phong tỏa hoàn toàn trường liếm của Khuất Kỳ.
Tuy nhiên, Đàm Châu đại hiệp là kẻ có thực tài, bản lãnh đứng đầu phủ Hồ Nam, nên không dễ bị thua ngay. Ông nghiến răng chống cự rất kiên cường, đường gươm kín đáo, thận mật, thỉnh thoảng mới công một đòn chớp nhoáng.
Ỷ vào Tư Đồ Sảng nên Khuất Kỳ không cần phải để dành sức lực cho cuộc chiến lâu dài. Ông dồn toàn lực ngay những phút đầu tiên, cố bảo toàn tính mạng cho đến lúc kỳ tích xuất hiện. Ông cũng như chú rùa yếu đuối rút vào lớp mai cứng rắn, khiến hổ báo khó mà giết ngay được.
Mặt trận của bốn người kia cũng thế nhưng họ không phải vất vả như Khuất Kỳ. Võ nghệ của bọn thủ hạ tất nhiên phải kém chủ tướng vài bậc.
Giám Hải thiền sư là bậc cao tăng, vì tình nghĩa với họ Khuất mà tham chiến chứ không hề muốn giết người. Nay đã có kế Di Thi Giá Họa, thiền sư chỉ mong thủ hòa, giữ vững phòng tuyến mà thôi. Phép đánh thiền trượng của Thiếu Lâm Tự lừng danh thiên hạ nên khi Giám Hải đã cố thủ thì đối phương chỉ còn cách chờn vờn ở ngoài tầm trượng, lão hắc y kia nhiều lần thi triển thân pháp ập vào song đều phải dội ra.
Đàm Vân Tử thì nhanh hơn đối thủ của mình một chút, ung dung đối phó bằng đấu pháp Dĩ Tịnh Chế Động, không rời khỏi vị trí. Chẳng còn cá cược với ai nên Giả Bạch Hổ không phái thực hiện việc đả thương kẻ địch trong vòng mười chiêu. Gã điềm nhiên cự địch bằng một loại kiếm pháp rất ảo diệu và nhanh nhẹn. Bốn hắc y nhân, thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ, chắc chắn đều là hạng lão thành, có công lực thâm hậu, thế mà, Bạch Hổ vẫn ngang nhiên va chạm vũ khí thì chân nguyên của gã không thể kém.
Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên cũng bình thủ với lão hắc y thứ tư biểu hiện một bản lãnh khá cao siêu.
Thẹo kế hoạch thì Tư Đồ Sảng phải chờ trận đấu diễn ra chừng nửa khắc rồi mới nhẩy xuống, nhưng không ngờ Quỷ Ảnh Hội chủ lại đích thân đấu với Khuất trang chủ. Lão ta nổi giận vì không giết được Khuất Kỳ, ngay trong năm chục chiêu đầu, nên đã ra đòn thủ mạng.
Thanh bảo đao của lão rít lên như xé lụa, đao kình thổi vù vù mang theo hơi thép lạnh rợn người. Và luồng đao quang xanh sáng ấy hung hãn công phá, làm cho trường kiếm của Khuất Kỳ rung lên bần bật. Không những thế, Đàm Châu đại hiệp còn bị rách hổ khẩu và bị đẩy lùi về phía sau. Nhận ra rằng Khuất lão sắp lâm nguy, Tư Đồ Sảng vội tung mình đáp xuống bàn đá, thò tả thủ chụp lấy hộp ngọc, nhét cả vào ngực áo. Ba gã Quỷ Ảnh Hội đang đứng quan chiến vì rảnh rang nên sớm quát tháo:
– Có kẻ cướp ngọc!
Và họ bước đến để ngăn chặn.
Theo đúng kế hoạch thì Tư Đồ Sảng đâm vào lưng Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao rồi tung mình qua đầu đối thủ của Lưu Xuyên mà đào tẩu. Nhưng lúc này chàng lại không thể làm như thế vì Khuất Kỳ đã trúng một đao, nhẩy ngược về phía sau đến tận chỗ cây đuốc dài, thân hình lảo đảo gục ngã. Và bang chủ Quỷ Ảnh Hội thì đang xấn đến định lấy mạng họ Khuất.
Tư Đồ Sảng kinh hãi vung cước hất nương vàng vào mặt Quỷ Ảnh Hội chủ, đồng thời chàng vọt theo, dồn toàn lực vào chiêu “Hắc Vân Áp Đỉnh”. Các chiêu trong hai pho Giáng Ma kiếm pháp và Phủ pháp đều trùng tên, chỉ khác ở thế thức.
Trường kiếm của Tư Đồ Sảng giăng mắc muôn ngàn kiếm ảnh tựa đám mây u ám chụp xuống đầu kẻ địch. Là kiếm pháp nên chiêu kiếm gồm nhiều thức đâm và tốc độ nhanh hơn búa bội phần.
Có thể chiêu kiếm này không dọa khiếp nổi một đại cao thủ như Quỷ Ảnh ội chủ nhưng Tư Đồ Sảng đã có rương vàng hỗ trợ.
Một ngàn lượng vị chi là hơn sáu mươi hai cân, một trọng lượng đáng kể đủ để làm chậm đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ.
Đuốc quanh bàn đã bị gió bấc và kình phong của cuộc chiến chung quanh thổi tắt gần hết, tuyết lại rơi mù mịt khiến không gian nhá nhem và làm cho Quỷ Ảnh Hội chủ không nhìn rõ cái vật đang bay đến. Lão chỉ còn cách dùng đao ngăn chặn, chém nát chiếc rương.
Lão tưởng gã bạch y kia lấy được của báu rồi thì sẽ chuồn ngay bằng hướng khác, chẳng dại gì chạm trán với lão ta cũng như ba vị hộ pháp đang chạy đến. Nào ngờ, bạch y nhân lại liều lĩnh nhẩy xuống tấn công, không chịu lấy thảm cảnh của Đàm Châu đại hiệp mà làm gương.
Quỷ Ảnh Hội chủ thần tốc biến chiêu, đao quang rực rỡ, tạo thành chiếc lọng thép để đón chào kẻ địch. Dĩ nhiên lão không thể tập trung đầy đủ công lực như lúc đối phó với rương vàng.
Nhờ vậy mà Tư Đồ Sảng có được chút ưu thế. Đao kiếm chạm nhau, Quỷ Ảnh Hội chủ chợt phát hiện chiêu kiếm của đối phượng cực kỳ ảo diệu, mãnh liệt và chứa đầy sát cơ trong những nhát điểm nhanh tựa mưa rào. Lão vừa đảo bộ thoái lui thì bị một mũi kiếm như tia chớp xuyên qua lưới đao, đâm vào ngực phải. Quỷ Ảnh Hội chủ vội vung tả thủ vỗ vào bản của thanh trường kiếm để đánh bạt đi. Do đó, mũi kiếm chỉ có thể đâm sâu độ hai lóng tay, và rạch đứt một đường dài khoảng gần gang trên ngực cũng như bắp tay phải của lão ta.
Diệu dụng của bàn tay tả là như vậy cho nên, các võ sĩ thường bắt kiếm ấn để phòng thủ ngực bụng chứ không cần vỏ đao hay vỏ kiếm.
Các loại bao của vũ khí đều được làm bằng đồng mỏng, không thể nào chống đỡ với những nhát chém mãnh liệt của những thanh đao, hoặc kiếm bằng thép tốt. Vả lại, vỏ bao vốn trống rỗng nên yếu đuối, dù bằng thép cũng vô dụng.
Các thức đâm của đao hoặc kiếm đều ở tư thế xoay dọc lưỡi nên bàn tay thịt có thể chạm vào mà không sợ tổn thương. Nhất là khi nó được dồn đầy chân khí.
Nhắc lại, Tư Đồ Sảng đả thương Quỷ Ảnh Hội chủ, đẩy lão lùi xa Khuất trang chủ xong, liền. lao vút về hướng Đông mà đào tẩu. Sinh mạng cua Khuất lão chẳng còn đáng ngại vì Pháp Hải thiền sư và Đàm Vân Tử đã đánh văng kẻ địch của họ, nhảy đến che chắn cho ông ta!
Hơn nữa, Quỷ Ảnh Hội chủ không còn chú ý đến Đàm Châu đại hiệp mà điên cuồng đuổi theo chàng! Bảy kẻ thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ cũng vậy!
Đàm Vân Tử thì quát vang:
– Chặn gã Bạch y lại!
Giả Bạch Hổ và Lưu Xuyên vội lao đi vì họ hoàn toàn không biết gì về kế giá họa Giang Đông.
Từ chỗ bàn đá đến chân tường vây hướng Đông chỉ có bọn hào khách của Khuất gia trang nhưng không nhiều. Họ xông vào chặn đường Tư Đồ Sảng nhưng đều bị văng ra khi chạm phải luồng kiếm quang kiên cố quanh người chàng !
Khi đến gần tường vây, Tư Đồ Sảng chạm mặt Tổng Quản Khuất gia trang là Tề Thái Thông. Tề lão vốn là bái đệ của Khuất Kỳ, trước đây từng phò tá họ Khuất xây dựng cơ nghiệp.
Lão không có danh tiếng gì song thực ra kiếm pháp chỉ kém Khuất Kỳ một bậc.
Tề Thái Thông quát mắng từ xa:
– Cẩu tặc đừng mong trốn thoát! Rồi lão hung hăng xông đến, tấn công kẻ cướp ngọc bằng một chiêu vô cùng mãnh liệt. Than ôi! Chỉ sau vài tiếng thép va chạm, Tề lão đã rú lên đau đớn vì ngực phải bắn máu hồng.
Bạch y nhân chẳng hề bị chậm bước, nhảy tót lên đầu tường vây, rơi xuống bên ngoài và ung dung lướt nhanh vào màn đêm mù mịt tuyết sương!
Gã không bị ai chặn lại vì tám tên Quỷ Ảnh Hội canh gác mé này đều bị mê man bởi một loại mê dược đáng sợ nào đó.
Khinh công của gã Bạch y quả là đáng khâm phục, chỉ thoáng cái đã biệt tăm. Quỷ Ảnh Hội chủ bị thương nên không tiện truy đuổi đến cùng, hậm hực bỏ đi!