Bạn đang đọc Hắc Bạch Hương Hồ Ký – Chương 3: Lộ Bán Phùng Mai Phục,-tuyết Hạ Thu Lưỡng Thê
Chẳng bao lâu sau, uy danh của Thần Phủ Lang quân đã vang dậy Hoa Bắc. Chàng ta được tôn xưng là võ lâm đệ nhất cao thủ vì đả thương được Bang Chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên, kẻ đã đánh bại Minh chủ võ lâm.
Giới giang hồ còn kháo nhau việc Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán đã từ nhiệm và đại hội bầu tân Minh chủ sẽ được tổ chức vào tiết Trùng Cửu sang năm. Ai cũng cho rằng Thần Phủ Lang Quân là kẻ đăng quang vì những cao thủ quá bẳy mươi không được thượng đài.
Nhưng Thần Phủ Lang Quân thì hiểu rằng mình không phải là địch thủ của Giáp Vô Yên. Lần này Tư Đồ Sảng chiếm ưu thế là nhờ biết trước chiêu thức của đối phương. Lần sau gặp lại chàng không còn ưu thế ấy thì sẽ thảm bại vì công lực của họ giáp quá thâm hậu. Hôm ở Lương Sơn hổ khẩu chàng đã rách toạc. chỉ va chạm thêm vài lần nữa là rơi búa.
Tư Đồ Sảng không buồn, không mặc cảm vì biết đấy là quy luật tất yếu trong nghề võ. Kẻ dày công tu luyện bao giờ cũng mạnh hơn. Chàng đạt thành tựu thế này cũng là nhờ vào khí chất bẩm sinh, thừa hưởng của mẫu thân, nếu không cũng chỉ thuộc hàng nhị lưu.
Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Huệ đã tiết lộ rằng sào huyệt Quỷ Ảnh Hội có thể ở vùng Hồ Nam, vì vây chàng cùng hai tỳ nữ lên đường xuôi Nam.
Tư Đồ Sảng rất muốn trở về quê để tế mộ song thân nhưng không dám. Chưởng quỹ Lý Tứ đã cấm chàng để lộ việc mình là người họ Tư Đồ. Có thể phe hung thủ đang ráo riết truy tìm đứa con trai củc Du Long Thần Quyền Tư Đố Quát. May là chúng không biết mặt chàng và cũng không biết việc họ Võ sở hữu nghề đánh búa. Hôm bị hại, Võ Xuân Hoa mẹ chàng đã sử dụng trường kiếm vì Giáng Ma Phủ đã được chàng mang theo.
Đông này trời rét đậm, tuyết phủ đầy Hoa Bắc, nhưng càng về Nam tuyết lại nhẹ hơn. Đường thiên lý lạnh lùng gian khổ đã làm cho ba lữ khách gần gũi thân thiết nhau. Cô đơn từ nhỏ, không anh em, Tư Đồ sảng rất vui khi được kề cận hai cô gái tinh ranh, vui vẻ. Tuy danh phận chủ tớ nhưng chàng thương yêu họ như em gái vậy.
Thực ra, hai cô ả ma lem chẳng hề lão luyện giang hồ như đã tự xưng, nhưng kiến văn của họ rất uyên bác, cơ trí tinh minh, khôn ngoan như chồn nên rất lợi hại.
Đấy là vì trong Hạo Thiên Cung có hàng trăm đại cao thủ từ bốn phương quy tụ lại là kho báu về kiến thức và kinh nghiệm để chị em họ Lăng học hỏi.
Tư Đồ Sảng không bao giờ mở miệng điều tra bí mật của Hạo Thiên Cung vì tôn trọng hai nàng và cũng vì tâm hồn chàng đầy ắp nỗi thống khổ, nhớ thương cha mẹ, chẳng còn chỗ cho những việc khác.
Tư Đố Quát, cha chàng, vì trốn tránh kẻ thù nên cùng vợ con ở rịt nơi bìa rừng vắng, không dám cư trú chốn đô hội. Do vậy, cả quãng đời thanh thiếu của Tư Đồ Sảng chỉ có song thân là bạn. Thỉnh thoảng chưởng quỹ Lý Tứ mới vào thăm họ. Nay đột nhiên mất đi tất cả bảo sao chàng trai chất phác kia không đau khổ.
Chị em họ Lăng hiểu được tâm tình của Tư Đồ Sảng nên tìm đủ mọi cách để an ủi chàng. Những tràng cười trong như ngọc và giọng nói thanh tao, thánh thoát của họ quả thực đã giúp được Tư Đồ Sảng. Nếu không có họ, chàng sẽ vùi đầu trong men rượu, hoặc trở thành hung hãn như quỷ dữ.
Một trưa nọ, ba người dừng chân nơi bìa rừng cạnh quan đạo, dùng bữa bằng lương khô. Dọc dường thiên lý, nhiều khi hàng trăm dặm không có quán ăn, cho nên, người lữ khách luôn phải thủ sẵn thực phẩm. Cơm nếp và thịt hun khói để được khá lâu, đã trở thành bạn đồng hành của người lữ thứ, kèm theo một túi da đựng nước hoặc rượu ngon.
Ăn xong, thấy trảng cỏ phía trong lác đác vài cây mai dại nở hoa sớm, hai nàng mừng rỡ chạy lăng xăng để ngắm nghía. Họ bẻ một nhánh chạy về khoe với Tư Đồ Sảng. Nhìn hai ả tung tăng như trẻ nhỏ hiếu động chàng tò mò hỏi:
– Vì sao hai người lại không đi bình thường mà luôn phải thi triển khinh công như thế?
Phi Tuyết cười khì và đáp:
– Đây chính là pho tuyệt học Truy Tinh thân pháp thất truyền đã lâu, phải khổ luyện liên tục ba năm mới thành thục. Bọn nô tỳ đã quen chân nên sau này không đi chậm được nữa.
Tư Đồ Sảng bật cười:
– Chẳng lẽ đến già mà các nàng cứ nhẩy nhót mãi như vậy hay sao?
Phi Hồng đỡ lời chị, tủm tỉm đáp:
– Giờ còn trẻ trung, lòng đầy nỗi hân hoan thì không phải giữ gìn, nhưng khi đã có chồng con rồi tất nhiên phải đi đứng cho dịu dàng, khoan thai.
Tư Đỗ Sảng cười thầm, tự hỏi ai là người đủ can đảm để lấy họ? Và chàng chợt sững người nhớ đến việc tôn tự họ Tư Đồ, ý nguyện tâm huyết của cha chàng. Nếu chàng chết trong cuộc chiến với Quỷ Ảnh Hội thì liệu Tư Đỗ Quát có vui chăng khi tông mạch tuyệt đường? Nho gia rất chú trọng đến việc thừa tự nên Tư Đồ Sảng không khỏi băn khoăn.
Phi Tuyết bỗng nói:
– Hay là công tử hãy học pho Truy Tinh thân pháp này để tăng cường bản lãnh? Chàng có sẵn nguồn chân nguyên thâm hậu và thần lực bẩm sinh tất sẽ không phải khổ sở như bọn nô tỳ.
Quả thực như vậy, Tư Đồ Sảng vốn là người chăm chỉ kiên trì và hiếu võ, nhiều năm luyện tập khinh công trên núi Cửu Tuấn, ngày ngày cõng đá lên xuống vài trăm trượng. Giờ đây hai chân chàng đầy những bắp thịt rắn như thép, có thể chạy đua với tuấn mã hàng trăm dặm mà không thua sút. Vậy thì, nếu chàng luyện pho Truy Tinh thân pháp tất sẽ chẳng mất bao công sức. Pho khinh công này hơn hẳn Du Long thân pháp của cha chàng về độ biến ảo trong bộ pháp cũng như tốc độ khi hoán vị.
Phi Hồng nũng nịu van nài:
– Công tử hãy vì mối huyết thù mà bỏ quá tiểu tiết, tiếp thu chút nghề mọn của bọn nô tỳ.
Ánh mắt thiết tha của hai ả đã khiến Tư Đồ sảng rất xúc động. Chàng gượng cười:
– Cung kính bất như tuân mệnh! Ta xin cảm tạ hảo ý của hai nàng. Nhưng liệu ta có phải suốt ngày chạy nhẩy tất bật hay không?
Hai ả che miệng cười rũ rượi. Phi Tuyết lắc đầu:
– Làm gì có việc ấy? Chẳng qua bọn nô tỳ tính tình hiếu động, nghịch ngợm nên mới chạy lăng xăng thế thôi.
Thế là bắt đầu từ hôm ấy, Tư Đồ Sảng rèn luyện pho Truy Tinh thân pháp. Chàng chỉ chú trọng đến phần di hình hoán vị nên học rất nhanh. Mỗi lần dừng cương nơi hoang vắng là Tư Đồ Sảng thực hành hàng canh giờ không nghỉ ngơi. Kết quả rất khả quan vì chàng có sẵn sức lực cũng như căn cơ võ học sáng láng.
O0o
Giữa tháng chạp, bọn Tư Đồ Sảng vượt ải Vũ Thắng Quan và còn cách thành Tín Dương chục dặm. Tuy đã vào địa phận vùng Hoa Trung, phía Nam sông Hoài, nhưng trời đột nhiên rét đậm, tuyết rơi nặng hạt. Đường quan đạo cực kỳ vắng vẻ vì cái lạnh cắt da khiến ít người dám bôn ba. Ngay cả sắc hồng của cánh rừng đào cạnh đường cũng nhạt đi bởi mầu trắng của những bông tuyết.
Mặt đường cùng đóng một lớp tuyết loang lổ dầy cỡ lóng tay nên trơn trượt làm chậm vó câu. Bất ngờ, từ bìa rừng hai bên ùa ra hàng trăm gã đao thủ áo mũ lông trắng toát. Chúng chẳng nói chăng rằng lướt đến tấn cồng ba kỵ sĩ đơn độc. Trước tiên, bọn Bạch y đánh phủ đầu bằng một trận mưa phi đao. Lăng Phi Hồng cơ trí tuyệt luân lập tức quát to:
– Nhẩy lên cao!
Ba người nhất tề ấn vâo yên ngựa, bốc cao hơn trượng thoát khỏi lưới ám khí. Tư Đồ Sảng đã kịp rút Giáng Ma Thần Phủ, kéo dài cán búa và bấm nút cho mũi kiếm thép đầu búa ló ra.
Chàng phẫn nộ trước hành vi ám muội, đê tiện của bọn phục binh nên quát vang như sấm rồi sa xuống hàng ngũ đối phương mà chém giết. Chàng lại đinh ninh rằng bọn này có thể là lực lượng của kẻ đại thù theo truy sát mình nên lửa hận bấc cao ngùn ngụt, phủ mở lòng nhân hậu.
Sau khi giết mấy gã thanh y để cứu chị em họ Lăng, Tự Đồ Sảng đã mất ngủ nhiều đêm vì bất nhẫn. Cảm giác của kẻ nhúng tày vào máu đồng loại quả chẳng dễ chịu chút nào. Nhưng giờ đây, khi lâm trận, tử trạng thảm khốc của song thân lại hiện ra khiên máu chàng sôi lên. Thanh Giáng Ma Thần Phủ là khắc tinh của đao vì nó nặng hơn và nhanh hơn đao. Kiếm luôn nhanh hơn đao nhưng lại nhẹ và mỏng manh nên hai bên ở thế tương trì thắng bại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Song Giáng Ma Phủ lại không có những khuyết điểm của trường kiếm.
Với thần lực kinh hồn, Tư Đố Sảng vũ lộng cây Thần Phủ nặng hại chục cân, ra những đòn sấm sét đánh bạt những thanh đao và làm hổ khẩu kẻ thù rách toạc. Nếu lưỡi búa không thừa thế chẻ vụn xtrơng cốt thì mũi đoản kiếm ở đầu bùa cũng trổ một lỗ sâu hoắm trên ngực nạn nhân.
Pho Giáng Ma Phủ Pháp lại ảo diệu phi thường, công thủ vẹn toàn, biến hoá tuyệt luân, vì xuất xứ từ pho Giáng Ma kiếm pháp, tuyệt học đã khiến Võ Hồng được tôn là Trung Nguyên Đệ nhất kiếm khách.
Thế cho nên màn phủ ảnh giăng mắc quanh thân, Tư Đồ Sảng đánh bật mọi ngoại lực, tiêu diệt tất cả những gì nó chạm đến.
Tiếng thép vang rền, tiếng thét lìa đời cất lên không ngớt và xác bọn bạch y phơi đầy trên lớp bùn nhầy nhụa. Máu nhuộm hồng những chiếc áo cừu trắng muốt và cả những nắm tuyết trinh nguyên, chưa bị chân người dẫm đạp.
Trong nửa khắc đã có hơn hai chục gx bạch y táng mạng, thành quả này có sự góp sức của hai ả lọ lem. Họ luôn bám sát để bảo vệ phía sau Tư Đồ Sảng. Với thân pháp Truy Tinh nhanh như điện, hai ả thay phiên xuất kích vì lúc nào cũng phải có một người che chắn hậu tâm chủ nhân. Thu hoạch của họ không nhiều nhưng nhờ thế mà Tư Đồ Sảng yên tâm phá vây. Chàng lo lắng cho hai ả nữ tỳ nên không ham chiến, chỉ mong an toàn thoát khỏi trận địa mai phục này.Tư Đồ Sảng thần dũng như Hạng Võ đánh thốc về hướng Nam mà mở đường máu, thây người liên tục ngã xuống. Bọn bạch y thấy đồng đảng chết rất chóng vánh liền sinh lòng sợ hãi, mất cả nhuệ khí. Nhưng tên đầu lĩnh, một lão người râu đen dài đến ngực, đã quát tháo:
– Không được để bọn chúng đào tẩu! Thập Nhị Kim Cương sắp đến rồi?
Té ra bọn chúng còn một toán viện binh nữa và cái tên Thập Nhị Kim Cương nghe cũng đáng sợ.
Bọn bạch y vững dạ lao vào, cả lão râu đen cũng thế. Với độ tuổi lục tuần, công lực của lão ta trên dưới bốn mươi nằm tu vi, đao kình rất mãnh hệt. Và dĩ nhiên đao pháp của lão lợi hại hơn hẳn đám thủ hạ nên bước tiến của Tư Đồ Sảng bị chặn đứng.
Chàng phẫn nộ và lo sợ vì biết hai ả họ Lăng đang phải cật lực chống đỡ, chủ yếu là đánh bạt những mũi phi đao đang nhắm vào thân sau của chàng. Tư Đồ Sảng cố bình tâm đối phó với cường địch, song nhất thời không sao đẩy lùi được lão râu đen.
Chợt cô tiếng Lăng phi Hồng rú khẽ vì đau đớn, có lẽ nàng đã trúng một mũi phi đao. Tư Đồ Sảng nghe lòng nhói lên, biết không thể kéo dài được nữa. Chàng giận dữ xuất chiêu “Lực Phách Nga Mi”, thức đầu tiên là nhát chém xéo vào màn đao ảnh của đối phương. Nhát búa này nhanh như điện và nặng như núi đổ nên lập tức đánh bạt thanh đao quý của đối phương, đẩy lùi lão ta vài bước. Rồi chàng thi triển Truy Tinh thân pháp ập đến điểm, chém liền ba mươi sáu thức.
Đặc điểm của chiêu này là chỉ có công mà không có thủ. Thế thức ít nhưng đòn nào cũng thực và trí mạng. Tất nhiên vì vậy mà chiêu “Lực phách Nga Mi” nhiều sơ hở để đối phương khai thác, song vấn đề ở chỗ vũ khí của ai phạm mục tiêu trước. Và đấy cũng là điểm ảo diệu của chiêu này vì Giáng Ma Phủ dài hơn cả đao lẫn kiếm.
Lão râu đen phát hiện ngực bụng đối phương lộ ra đến ba chỗ sơ hở, liền thọc đao vào để giải phá. Lão tin rằng khi tử huyệt bị uy hiếp thì Thần Phủ Lang Quân sẽ phải thoái bộ, không dám đánh trọn chiêu.
Lão chưa kịp mừng vì mũi đao của mình đánh trúng da thịt Lý Thu thì nghe ngực trái nhói đau khủng khiếp. Cái đau đột ngột ấy đã khiến lão phải rú lên thảm thiết, mắt trợn trừng vì ngạc nhiên.
Tư Đồ Sảng bị thương nhẹ ở ba chỗ nhưng mũi đoản kiếm nơi đầu Giáng Ma Phủ đã kịp vươn đến trái tim kẻ địch.
Chàng lập tức rút búa về, quay phắt lại chụp lấy thân hình đang lảo đảo của Lăng Phi Hồng. Chàng đưa lưng cõng nàng và quát bảo Phi Tuyết:
– Đi thôi!
Vài gã bạch y chờn vờn phía trước nhưng sớm dạt ra chứ không dám liều mạng. Chúng chỉ hung hăng tống tiễn hai người bằng những mũi phi đạo còn sót lại. Nhưng Lăng Phi Tuyết và Tư Đồ Sảng đánh bạt hết và lao vút đi.
Bỗng có tiếng vó ngựa rầm rập đuổi theo. Đấy chính thị là mười hai gã to như hộ pháp, tay cầm đoản côn khí thế rất oai vũ. Tư Đồ Sảng nói mau:
– Nàng hãy cõng Hồng muội chạy về Tín Dương, ta ở lại chặn bước bọn Kim Cương.
Phi Tuyết lắc đầu, mắt lộ hung quang rồi móc ra một trái cầu mầu đỏ, lớn cỡ quá quít. Nàng vận công ném về phía đoàn người ngựa đang còn cách chừng năm trượng.
Trái cầu ổ ngay trước mặt phe địch, tiếng không lớn nhưng khói bốc mù mịt. Bọn Kim Cương lỡ trớn lao thẳng vào luồng khói rú lên kinh hãi, ngã lăn khỏi mình ngựa.
Tư Đỗ Sảng mừng rỡ bảo:
– Nàng giỏi thực! Thế sao lúc nãy không sử dụng bửu bối ấy?
Vừa chạy, Phi Tuyết vừa trả lời:
– Đoạt Phách Yên Cầu là vật quý hiếm, lúc nguy cấp nô tỳ mới dám dùng đến.
Tư Đồ Sảng nắm lấy tay nàng để trợ lực rồi chạy như vó câu. Trên đường trừơng thì Du Long thân pháp linh diệu hơn Truy Tinh vì phối hợp với tâm pháp nội công Ngọc Thanh chân khí. Nếu Tư Đồ Sảng rảnh rang một mình thì không vó ngựa nào đuổi kịp. Khi tuấn mã sùi bọt mép thì chàng vẫn ung dung chạy thêm được vài chục dặm.
Là đạo sĩ nên Tư Đò Quát sở đắc câu: “Tiên Bảo Kỳ Thân”, chú tâm dạy con trai nghề khinh công để đào thoát khỏi hiểm nguy.
Được vài dặm, biết không còn bị truy đuổi chàng dừng chân ghé vào tòa Trường Đình cạnh đường để xem xét thương thế Phi Hồng:
Ngày xửa, dọc theo đường quan đạo chính, triều đình cho xây dựng nơi nghỉ chân cho lữ khách, năm dặm một cái gọi là Đoản Đình còn mười dặm là Trường đình. Công trình này rất đơn sơ, chỉ gồm mái ngói và cột gỗ chứ không có tường, vây quanh bởi hàng lan can gỗ thâm thấp thay cho ghế ngồi, nền bằng đất nện hoặc lót đá phiến.
Chất độc ở đầu mũi phi đao đã làm vết thương nơi ngực phải Phi Hồng sưng vù, tím đen và nạn nhân mê man bất tỉnh: Nhưng Phi Tuyết là đệ tử của Y Độc Thần Quân Tạ Đắc Hòa nên mau chóng cứu mạng em gái bằng ba viên giải dược. Rồi nàng vạch áo Phi Hồng, dùng mũi kiếm rạch thêm vào vết thương nặn máu độc ra.
Tư Đồ Sảng cau mày, nói:
– Năm xưa ta từng bị độc xà cắn phải, được gia phụ dùng miệng hút hết chất độc. Người bảo rằng có như thế mới mau hồi tỉnh. Sao nàng không làm vậy?
Phi Tuyết rùng mình ngượng ngùng đáp:
– Nô tỳ cũng biết thế nhưng không dám làm, đành phải nặn từ từ vậy. Hay là phiền công tử giúp cho!
Thương tích nằm ở phía trên vú một lóng tay cũng là cấm địa của nữ nhân, nhìn thì được chứ đặt miệng vào đấy là không xong. Thế mà chẳng hiểu sao Phi Tuyết lại dám yêu cầu Tư Đồ Sảng thực hiện?
Như đã nói ở phần đầu, Tư Đồ Sảng được cha dạy cho phần tinh túy của Khổng Mạnh chứ không dạy những lễ nghi vụn vặt, ông luôn đề cao nhân nghĩa đức Trung Dung như nền tảng cho mọi hành vi nên Tư Đồ Sảng suy nghĩ khoáng đạt. Chàng yêu thương Phi Hồng như em gái, nhất là sau lần vào sinh ra tử này, lên chỉ thoáng băn khoăn một chút và gật đầu nhận lời.
Đôi mắt đẹp của Phi Tuyết thoáng hiện những ánh vui mừng và tinh quái.
Khi Tư Đồ Sảng ngồi xuống chuẩn bị hút máu độc thì nàng kéo hẳn vạt áo Phi Hồng xuống đê lộ cả bầu vú thanh tân, mơn mởn như quả tuyết lê.
Tư Đồ Sảng choáng váng bối rối đến sững sờ vì hiểu rằng Phi Tuyết đang trêu chọc mình. Chàng có thể kéo vạt áo che kín quả đồi nhỏ kia trở lại như cũ song đã không làm. Chàng nhớ mẹ vô cùng và khát khao được chạm vào cái tạo vật kỳ diệu ấy.
Tư Đồ Sảng đặt miệng vào vết thượng, hút mạnh dòng máu đen tanh tưởi cảm nhận được mùi thơm cũng như sự mềm mại tuyệt vời của da thịt Phi Hồng. Và bỗng nhiên nước mắt chàng tràn ra, rơi xuống từng giọt đau thương.
Phi Tuyết ngớ người, chẳng hiểu vì sao trò đùa tai quái của mình lại khiến chàng trai thực thà này sa lệ.
Đến lần thứ chín thì hết máu đen, vết thương cũng xẹp xuống. Tư Đồ Sảng thôi không hút nữa. phi Tuyết ngậm ngùi đưa khăn tay lau những giọt nước mắt trên mặt chàng và hỏi nhỏ:
– Vì sao công tử khóc?
Tư Đồ Sảng cười buồn:
– Ta nhớ tiên mẫu! o0oTĩnh dưỡng ở Tín Dương vài ngày ba người mới lên đường. Vết thương không sâu nên Phi Hồng đã bình phục hoàn toàn. Nàng đã nghe bào tỷ kể lại cuộc trị thương nên rất xấu hổ ngượng đến nỗi chẳng dám nhìn thẳng vào mắt Tư Đồ Sảng. Nàng ta trở nên e ấp, thẹn thùng như gái mới về nhà chồng, đi đường khoan thai chứ không nhảy nhót nữa.
Phi Hồng đã thế thì Phi Tuyết tung tăng với ai, cũng đành học thói đoan trang, ả không có cái tâm tình như em gái nên cảm thấy rất cuồng cẳng, bực bội.
Phần Tư Đỗ Sảng cũng đã qua cơn xúc cảm, thầm hổ thẹn khi nhớ lại cảnh ôn nhu ấy. Do vậy, chàng cũng nhìn Phi Hồng với ánh mắt khác xưa.
Khổ thay, phi Tuyết lại tưởng rằng chàng bắt đầu phát sinh tình ý với Phi Hồng, yêu nàng ta hơn mình. Nỗi ghen tuông làm héo những nụ cười của cô ả răng khểnh.
Gần giữa tháng chạp, ba người chỉ còn cách thành Vũ Xương vài dặm thi bị chặn lại, lúc dừng chân nơi bìa rừng. Đoàn ky sĩ ấy gồm tám người áo tía, toàn những kẻ già nua, râu tóc bạc phơ. Tư Đồ Sảng đang định rút búa thì nghe hai ả họ Lăng đồng thanh gọi vang:
– Sư phụ!
Thì ra họ là lực lượng củs Hạo Thiên Cung và có cả Y Độc Thần Quân lẫn Táo Gia Cát.
Táo Gia Cát Bùi Thế Trực, đúng như danh hiệu, có nước da đen nhẻm, tương phản với râu và tóc. Ông giận dữ quát lên:
– Hai con a đầu kia hãy mau quỳ xuống chịu tội! Hai ngươi trốn đi khiến bọn lão phu bị Cung chủ trách mắng thậm tệ, bắt phải xuất cung đi tìm suốt mấy tháng nay.
Phi Hồng đã kịp nói nhỏ với Tư Đồ Sảng:
– Công tử! Tám người này là Bát Đại Thiên Long của Hạo Thiên Cung, mong chàng cố nhẫn nại, đừng xúc phạm họ mà nguy đến tính mạng.
Hai ả nhảy xuống đất, chạy đến trước mặt bọn trưởng bối nghiêng mình thi lễ. Phi Hồng níu chân Táo Gia Cát run rẩy van nài nho nhỏ:
– Sư phụ ! Chị em đồ nhi chỉ muốn thưởng lãm các danh thắng trong thiên hạ nên mới rời cung, định sẽ về trước tháng tám sang năm. Xin sư phụ và chư vị Thiên Long bẩm với Cung chủ như thế.
Khẩu khí này không hề giống những kẻ bị truy nã mà cứ như con cưng luôn được nuông chiều, biết mẹ cha sẽ không nỡ nặng tay vậy.
Táo Gia Cát lạnh lùng lắc đầu:
– Không được! Tám người chúng ta sẽ rơi đầu nếu không đưa được hai ngươi về.
Và ông giận dữ chỉ Tư Đồ Sảng:
– Phải chăng hai ngươi bị gã mặt trắng kia dụ dỗ nên quên cả đường về? Để lão phu giết gã đi là xong.
Thật là tức cười khi lão cho rằng chàng xinh đẹp như thế lại dụ dỗ hai ả Chung Vô Diệm.
Phi Hồng biến sắc, hớt hải nói:
– Xin sư phụ chớ hiểu lầm! Lý công tử chính là người ơn của đồ nhi và đại tỷ. Chàng đã giết sáu gã Vô Thường sứ giả của Thập Điện Diêm Cung để cứu bọn đồ nhi.
Tư Đồ Sảng cau mày, thức ngộ rằng hai ả này đã nói láo mình về lai lịch của bọn Thanh y. Nhưng do tình cảm song phương đã sâu đậm hơn trước rất nhiều nên chàng không nổi giận mà chi thắc mắc. Vả lại, chàng đang lo sợ họ bị bắt vế Hạo Thiên Cung để chịu phạt.
Cả Bát Đại Thiên Long đều ngạc nhiên, nhìn Tư Đồ Sảng chăm chú. Họ không tin rằng chàng trai tuổi đôi mươi kia lại có bản lãnh cao siêu đến thế. Một người lên tiếng hoài nghi:
– Tuyết nhi! Có thực là tiểu tử họ Lý kia võ nghệ khá dường ấy chăng?
Nghe xưng hô thân mật, Tư Đồ Sảng đoán lão già đầu bóng ấy là Y Độc Thần Quân, sư phụ của Lăng Phi Tuyết. Quả đúng vậy khi Phi Tuyết nũng nịu đáp:
– Bẩm sư phụ! Lý công tử đây là bậc anh hùng cái thế, dang lừng danh Hoa Bắc với biệt hiệu Thần Phủ Lang Quân. Chàng đã đả bại Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên, kẻ đã truất phế Minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán.
Dường như Bát Đại Thiên Long có nghe giang hồ đồn đại nên đều giật mình và cười ranh mãnh.
Y Độc Thần Quân cười khà khà:
– Thì ra thế! Thảo nào hai con nha đầu này chẳng chịu về!
Rồi ông chỉ mặt Tư Đồ Sảng và bảo:
– Nể ngươi là người ơn của hai con bé này nên bọn lão phu tha cho. Hãy đi đi!
Tư Đồ Sảng băn khoăn hỏi lại:
– Bẩm tiền bối! Hai nàng này bị bắt về Hạo Thiên Cung thì sẽ phải chịu hình phạt gì?
Thần Quân đảo mắt, xảo quyệt đáp bằng giọng nghiêm trang:
– Tất nhiên là chúng sẽ bị phế võ công, giam trong ngục thất mười năm.
Tư Đỗ Sảng chết điếng, nghe lòng quặn đau vì thướng xót. Chàng phẫn nộ nói:
– Quý cung thực là tàn nhẫn! Chén ngọc dù quý giá đến đâu cũng không bằng tuổi xuân của con người! Sao chư vị lại có thể nhẫn tâm như thế được?
Tám lão Thiên Long ngẩn người, không ngờ gã tiểu tử đẹp trai này lại chí tình với hai ả xấu như quỷ thế kia. Thần Quân cố nín cười, lạnh lùng đáp:
– Đấy là việc riêng của bổn Cung, chẳng can gì đến người ngoài.
Rồi lão vuốt chồm râu cằm, ỡm ờ nói tiếp:
– Nhưng nếu người thực tình quan tâm đến họ thì lão phu cũng có cách giúp đỡ…
Tư Đồ Sảng mừng rỡ vòng tay:
– Xin tiền bối chỉ giáo!
Thần Quần tủm tỉm bảo:
– Ngươi hãy lấy hai con a đầu này làm vợ. Cung chủ có được rể quý tất sẽ rộng lượng bỏ qua lỗi lầm của họ.
Hai ả thẹn đến đỏ mặt tía tai, cúi gầm xuống nhưng vẫn liếc xem phản ứng của Tư Đồ Sảng thế nào.
Chàng trai trung hậu suy nghĩ một lúc rồi đáp:
– Vãn bối vinh hạnh được kết duyên với họ nhưng xin hẹn ba năm sau mới đến dâng sính lễ. Vãn bối mang nặng mối huyết thù, chưa thể thành hôn được.
Cả tám lão trừng mắt kinh ngạc, khẽ ồ lên. Y Độc Thần Quân gật gù khen:
– Giỏi lắm! Ngươi quả là bậc kỳ nam tử hiếm có. Nhưng bọn lão phu chỉ tạm nhận lời cầu hôn vì còn phải thỉnh ý Cung chủ. Ngươi hãy quỳ lạy chín lạy để ra mắt trưởng bối bên vợ, thay cho lời giao ước.
Tư Đồ Sảng đã xuống ngựa từ trước vì thủ lễ, giờ bước đến và hành lễ, ngay trên mặt cỏ phủ tuyết.
Nhận lễ xong, Táo Gia Cát cười dài bảo:
– Hai con a đầu kia sao không đến nhận lang quân?
Phi Hồng , Phi Tuyết ngượng chín người, bẽn lẽn chấp tay, nghiêng mình mà ấp úng gọi:
– Tướng công!
Tư Đồ Sảng mỉm cười hòa ái nhưng quay sang thưa với Bát Đại Thiên Long:
– Bẩm chư vị tiền bối! Tiểu tế vốn tên thực là Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi, quê đất Hàm Dương, vì muốn che mắt kẻ thù nên phải đổi tên.
Táo Gia Cát cau mày hỏi ngay:
– Ngươi có quan hệ gì với Du Long Thần Quyền Tư Đồ Quát hay không?
Chàng cung kính đáp:
– Người ấy chính là tiên phụ! Năm xưa, tiên phụ từng kể cho tiểu tế biết vế mối giao tình giữa nhị vị tiền bối và gia sư tổ Du Long Chân Nhân.
Táo Gia Cát kinh hãi hỏi:
– Chẳng lẽ Tư Đồ Quát đã bị hại rồi sao? Hung thủ là kẻ nào?
Tư Đồ Sảng rầu rĩ kể lại khúc nôi, cả mối nghi ngờ ma chàng dành cho Quỷ Ảnh Hội.
Táo Gia Cát trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
– Ngươi có nhớ vị trí, hình dạng những vết thương trên người của cha mẹ ngươi không?
Tư Đồ Sảng gật đầu, nghẹn ngào:
– Bẩm có! Gia phụ chết bởi đao, ngực bụng rách ba đường, xéo thành hình chữ Xuyên và cổ bị cắt đứt. Gia mẫu bị giết bằng kiếm, bẩy vết thương. Năm vết nằm dọc từ cổ họng đến rốn, hai vết kia đúng vào đôi huyệt Ốc, Ế trên ngực trái phải, tựa như chữ thập.
Y Độc Thần Quân thảng thốt nói:
– Lạ thực ! Sao hai phe này lại hợp tác vớ nhau nhỉ?
Tư Đồ Sảng phấn khởi hỏi ngay:
– Xin tiền bối chỉ giáo lai lịch hung thủ !
Thần Quân nghiêm giọng giới thích:
– Ba mươi năm trước, trong giới hắc đạo võ lâm xuất hiện hai đại cao thủ là Thập Tự Thần Kiếm Phan Tửu Mỹ và Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý. Nếu họ còn sống thì tuổi đã gần bảy mươi! Hai kẻ trung niên tài ba này đều ái mộ một tuyệt đại hồng nhan tà phái là Lê Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu. Do vậy, họ thù ghét nhau, tỉ thí mấy chục trận để giành người đẹp mà đều bất phân thắng bại. Trong trận cuối cùng, cả hai rơi xuống vực thẳm cạnh núi Vu Sơn mà vong mạng. Lê Sơn Ma Nữ cũng đồng thời biến mất. Tuy nhiên, sau này bổn cung đã điều tra ra được rằng Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý không chết mà trở thành thủ lĩnh của Thập Đại Diêm Cung. Còn Thập Tự Thần Kiếm chẳng rõ hạ lạc ra sao. Nhưng giờ đây, qua vụ án song thân ngươi, lão phu phát hiện sở học của cả hai người ấy.
Tư Đồ Sảng nghiến răng kèn kẹt:
– Vãn bối sẽ tìm đến Thập Điện Diêm Cung rồi tính sau!
Táo Gia Cát cườm khổ:
– Hiện giờ, chính bọn lão phu cũng không biết sào huyệt của Tần Cốc Lý ở nơi nào. Mười năm trước, lão phát hiện ra nội gián của bổn Cung liền sát hại và lập tức rút vào bí mật.
Thần Quân thấy Tư Đồ Sảng lộ vẻ thất vọng liền an ủi:
– Có thể Quỷ Ảnh Hội chính là vây cánh của Diêm Cung. Ngươi cứ tiến hành theo kế hoạch cũ, trong lúc ấy, bổn Cung sẽ dốc sức truy tầm, có tin tức mới sẽ thông báo cho ngươi biết.
Tư Đỗ Sảng chỉ còn cách cảm tạ và tuân mệnh. Táo Gia Cát cùng Y Độc Thần Quân vì mối thâm giao với Du Long Chân Nhân mà sinh lòng yêu mến Tư Đồ Sảng, hết lời dặn chàng cẩn trọng.
Cuối cùng Táo Gia Cát nói:
– Đúng ra, lão phu để cho hai con bé này theo giúp đỡ ngươi. Nhưng vì Cung chủ đang lâm bệnh nên chúng phải sớm có mặt mà chăm sóc, hầu hạ. Sáng rằm tháng tám sang năm ngươi hãy đến chân núi Chung Nam, sẽ có người đưa ngươi vào cung ra mắt Cung chủ. Lúc ấy ngươi sẽ biết mình có trở thành rể Hạo Thiên Cung hay không!
Chị em họ Lăng nghe biến sắc nói ngay:
– Gia…Cung chủ bệnh tình thế nào?
Táo Gia Cát nạt họ:
– Cũng bởi hai ngươi mà Cung chủ ăn ngủ không yên, bệnh cũ tái phát. Phen này nếu không nhờ lấy được Tư Đố Sảng thì hai ngươi ăn đòn nát mông!
Táo có nghĩa là nóng nẩy. Cho nên thật khó hiểu vì sao kẻ nóng tính lại là kẻ đa mưu túc kế được? Có lẽ lão ta chỉ giả vờ quát tháo mà thôi chứ lòng thâm trầm như biển cả. Nếu không thế thì Bùi lão chằng thể trở thành quân sư của Hạo Thiện Cung.