Hắc Bạch Hương Hồ Ký

Chương 17: Giả Nứ Giá Vong Phu-tây Môn Hoan Nghĩa Tử


Bạn đang đọc Hắc Bạch Hương Hồ Ký – Chương 17: Giả Nứ Giá Vong Phu-tây Môn Hoan Nghĩa Tử

Gần giữa tháng chạp, đoàn quân viễn chinh về đến Lạc Dương, mang theo cả lão khùng họ Phan.
Sau chiến công tảo trừ Kỳ Lân Bang, thanh danh quyền minh chủ Tề Thanh Tuyệt lẫy lừng bốn biển. Nhưng bản thân Tư Đồ Sảng lại rơi vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, không dám nhận lại thân phận đích thực.
Qua những lời khai thiếu sót, lúc nhớ lúc quên của Phan Tử Mỹ, Tư Đồ Sảng đã xác định được kẻ giết mẹ mình là Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh. Nhưng lão ta lại không biết Thanh Y Nhân, kẻ đã dạy Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng cho Từ Long Chính là ai.
Cả Giả Đan Quỳnh và Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ cũng vậy. Họ kể rằng khi đến tìm Môn Xuyên Bá Đao để bàn bạc thì người áo xanh luôn mang một gương mặt giả vô hồn, lạnh lẽo.
Nếu đúng vậy thì Tư Đồ Sảng có đến hai kẻ thù vô cùng lợi hại. Và với bản lãnh hiện tại chàng có thể thí mạng mà giết được Thanh Y Nhân nhưng sẽ thọ thương trầm trọng và không kịp phục hồi trước ngày Trùng Cửu sang năm để gặp Thiên Thư Tú Sĩ.
Nhưng khổ nỗi, Tây Môn Giới không hiểu điều ấy. Ông căm thù Thanh Y Nhân đến tận xương tủy nên sẵn sàng thí mạng Tề Thanh Tuyệt để có cơ hội báo thù cho nghĩa tử.
Cuộc chinh phạt Kỳ Lân Bang cũng nằm trong kế hoạch của Tích Dịch Quỷ. Ông tưởng rằng sẽ gặp được Thanh Y Nhân ở Trường Sa, không ngờ lão ta lại chẳng có mặt tại Khuất Gia Trang.
Giờ đây, Tây Môn Giới âm thầm huy động hàng ngàn thủ hạ Hắc Hiệp Hội vào một chiến dịch tuyên truyền sách động. Kết quả là đến giữa thượng tuần tháng giêng thì hàng trăm lá thư bay về Tổng đàn võ lâm. Những nhân vật thành danh, các môn phái, bang hội nhỏ, đã yêu cầu quyền minh chủ võ lâm Tề Thanh Tuyệt phải khiêu chiến với Thanh Y Nhân và giết lão ta để đòi lại công đạo cho Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng.
Lúc này, Tổng đàn võ lâm tạm thời đặt tại một tòa trang viện trong thành Lạc Dương. Chỉ có vị minh chủ chính thức mới được quyền đến cư ngụ trong thánh địa võ lâm trên núi Hương Sơn. Nghĩa là Tư Đồ Sảng đang ở chung với nghĩa phụ và ái thê Mạc Chiêu Hương. Tất nhiên là có cả Huyết Báo, Thiện Đề, Thập Tự Thần Kiếm và Trại Tôn Tử. Hồ lão tri ân Tề Thanh Tuyệt nên đã tự nguyện theo phò tá.
Trại Tôn Tử lại trở thành quân sư của võ lâm, và lão rất lo lắng khi đọc những phong thư của quần hùng.
Trưa mùng bẩy Tết, Tổng đàn võ lâm bày tiệc hạ nêu, có mời bang chủ Cái Bang và phương trượng chứa Thiếu Lâm đến chung vui.
Trại Tôn Tử liền đưa những bức thư ra và trình bày nguyện vọng của quần hùng.
Giám Tuệ thiền sư hiền hòa bảo :
– Việc này thuộc quyền quyết định của minh chủ. Nhưng lão nạp cho rằng nếu Tề lão thí chủ nắm chắc phần thắng thì hãy khiêu chiến, đừng vì chút hư danh mà lụy đến thân.
Tư Đồ Sảng trầm ngâm đáp :
– Thanh Y Nhân tuy ác độc song đã ở thế đối lập với võ lâm nên không đáng sợ bằng Thiên Thư Tú Sĩ, kẻ sẽ có cơ hội trở thành minh chủ võ lâm. Qua việc Lăng Quân Vĩnh tham gia giết hại song thân Tư Đồ thiếu hiệp, chúng ta đã thấy rõ bản chất hung tàncủa lão ta. Do vậy, lão phu quyết định dành sức lực cho đại hội võ lâm sắp tới, liều mạng mà ngăn chặn mưu đồ bá chủ của họ Lăng.
Tây Môn Giới đã tiết lộ lai lịch thực với hội đồng võ lâm, cũng như Đàm Vân Tử và Trại Tôn Tử, song lại giấu Tề Thanh Tuyệt. Lúc nào ông cũng mang mặt nạ Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quý Sinh.
Lúc này, khi nghe Tề Thanh Tuyệt từ chối khiêu khích, Cổ Cư Sĩ vô cùng thất vọng, gượng cười giả lả và hỏi :
– Nhưng nếu Thanh y Nhân lại tự ý đòi so tài với Tề túc hạ thì sao ?
Tư Đồ Sảng thản nhiên đáp :
– Lão phu sẽ nhận lời nhưng thời hạn phó ước sẽ phải sau ngày Trùng Cửu. Nếu lão phu không chết bởi Lô Hoả Thần Chỉ.
Câu trả lời của chàng rất hợp đạo lý khiến Tây Môn Giới không sao bắt bẻ được. Song Hắc Bì Cái Từ Long Chính đã làm cho cả bàn giật mình. Ông nghiêm nghị bảo :
– Lão phu đã vì sự tồn vong của võ lâm Trung Thổ mà tiến hành điều tra lai lịch của Tề túc hạ. Đệ tử bổn bang ở An Khánh đã lên núi Quang Minh Đỉnh hỏi thăm và được Thánh Hỏa Giáo trả lời rằng họ không hề có giáo chúng nào mang tên Tề Thanh Tuyệt! Và phân đà Cái Bang ở Hứa Xương cũng đã đến huyện Thanh Oai kiểm chứng thì tìm thấy ngôi mộ của túc hạ. Nghĩa là Tề Thanh Tuyệt đã chết được ba năm rồi ! Vậy lão phu xin hỏi thực ra túc hạ là ai và đang âm mưu việc gì ? Tuy túc hạ đã lập công lớn với võ lâm, và chưa có biểu hiện gì đáng ngại, song một kẻ lai lịch bất minh không thể làm minh chủ được, dù chỉ một ngày.
Tư Đồ Sảng choáng váng, chẳng ngờ lai lịch của mình lại bị lộ sớm như vậy. Bạch Phụng đã trộm được giấy tờ của Tề Thanh Tuyệt, một kẻ đã chết, để chàng sử dụng. Ngờ đâu, Tư Đồ Sảng lại được hội đồng võ lâm trao chức quyền minh chủ nên Cái Bang đã tiến hành thẩm tra.
Tư Đồ Sảng bối rối suy nghĩ, chẳng biết có nên nói ra sự thực hay không ? Chàng tuyệt đối tin tưởng Bạch Phụng nên sợ rằng kiếp vận của mình sẽ mang tai họa đến cho người thân. Hơn nữa, Bạch Phụng lại mới tiên đoán rằng chàng sẽ có lần bị hại bởi sự phản bội của một người thân cận nên việc lộ diện sẽ vô cùng nguy hiểm.
Tư Đồ Sảng nghĩ mãi không ra ai là kẻ xấu song vẫn phải nghe lời Bạch Phụng. Giờ đây, đứng trước sự tra vấn của Hắc Bì Cái, chàng cắn răng dứt áo ra đi.
Tư Đồ Sảng hờ hững đáp :
– Bang chủ quả là người thông minh, thận trọng nên lão phu đành phải thú thực rằng mình không phải là Tề Thanh Tuyệt. Thực ra, lão phu có mối hiềm khích với Thiên Thư Tú Sĩ nên mới tìm cách phá vỡ mưu đồ của lão ta. Lão phu có một quá khứ không tốt đẹp nên chẳng dám nói ra lai lịch. Giờ thì lão phu xin trao trả danh vị quyền Minh chủ cho chư vị. Lão phu chỉ mong rằng hội đồng võ lâm sẽ cho phép lão phu thượng đài đấu với Thiên Thư Tủ Sĩ vào ngày đại hội sắp đến. Lão phu chỉ muốn vì võ lâm trừ hại chứ không quan tâm đến thức Minh chủ.
Nói xong, chàng đứng lên thi lễ, cáo biệt mọi người, Thiện Đề đại sư hốt hoảng nói :
– Này Tề lão thí chủ ! Ông bỏ đi rồi thì bần tăng sẽ ra sao ?
Tư Đồ Sảng mỉm cười an ủi :
– Đại sư là phó Minh chủ võ lâm tất sẽ ở lại đảm đương trọng trách. Với cương vị cao quý ấy, việc trở lại Bố Đà La Tự sẽ rất dễ dàng.
Thiện Đề nghe xuôi tai, yên tâm nói :
– Thế cũng được ! Chánh phó đều đi thì võ lâm nguy mất, bần tăng sẽ cố sức thay thí chủ mà gánh vác võ lâm.
Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ ngậm ngùi than :
– Lão phu nghiên cứu tướng pháp đã hơn năm mươi năm mà còn nhìn lầm người ư ? Lão phu xin bỏ cái danh Trại Tôn Tử, về Trường Sa ẩn dật. Ơn sâu của tôn giá lão phu nguyện kiếp sau sẽ đáp đền.
Dứt lời, ông vái tạ Tư Đồ Sảng, rời bàn tiệc về phòng soạn hành lý. Tư Đồ Sảng cũng lén nhìn Mạc Chiêu Hương với ánh mắt chan chứa ân tình rồi quay bước.
Chàng đi rồi, Giám Tuệ thiền sư thở dài bảo :
– Có lẽ chúng ta đã sai lầm khi quá xét nét lai lịch của vị thí chủ ấy. Dẫu cho quá khứ của ông ta xấu xa đến đâu thì nhân phẩm hiện tại vẫn khiến lão nạp ngưỡng mộ.
Hắc Bì Cái nhăn nhó :
– Lão phu cũng biết câu “Buông dao đồ tể có thể thành Phật.” Nhưng tiếc rằng y không chịu khai thực lai lịch để hội đồng võ lâm cân nhắc mà lại khẳng khái bỏ đi ngay.
Tây Môn Giới cười nhạt :
– Lòng người hiểm trá khôn lường. Biết đâu lão ta đã khéo đóng vai một kẻ nhạt mùi danh lợi nhưng sẽ vui vẻ nhận ngôi Minh chủ sau khi giết được Thiên Thư Tú Sĩ. Lúc ấy chẳng lẽ quần hùng lại chịu để bậc anh hùng cái thế về tay không và võ lâm ba lần cử hành đại hội mà vẫn chẳng tìm ra Minh chủ.o0oNhắc lại, Tư Đồ Sảng thu xếp hành lý, lấy ngựa rời khỏi tòa trang viện trước ánh mắt lưu luyến của bọn kiếm thủ nhà Tư Đồ. Bọn họ nghe ả nữ tỳ hầu trà rỉ tai nên biết rằng Tề Minh chủ và Trại Tôn Tử đã từ nhiệm. Họ ôm quyền cúi người kính cẩn đưa tiễn bậc anh hùng bị xua đuổi. Sau cuộc Nam chinh, tảo trừ Kỳ Lân Bang, Tề Thanh Tuyệt đã trở thành thần tượng của đám kiếm thủ. Họ Tề võ công cái thế, tính tình lại hiền hòa, độ lượng, nghiêm nghị, nhưng ân cần, đã khiến cho bọn thủ hạ tôn kính và yêu mến.
Tư Đồ Sảng cũng ôm quyền từ tạ bọn hảo hán đất Phúc Châu rồi lên ngựa. Chàng để mặc tuấn mã chậm rãi bước đi lững thửng, lòng miên man suy nghĩ, chẳng biết phải về đâu.
Bạch Phụng đã rời xa chàng từ hồi giữa tháng chạp để đi Kỳ Liên Sơn chúc tết Hồ Ly Đế Quân, vua của tất cả cáo chồn trong thiên hạ. Đáng lẽ giờ này nàng đã về đến như dự tính nhưng không hiểu sao lại chưa thấy âm hao ?
Tư Đồ Sảng chẳng phải lo cho nội tổ mẫu vì Bạch Phụng đã sớm báo mộng trấn an rằng chàng vẫn còn sống và tin đồn kia chỉ là thất thiệt. Tư Đồ lão thái là một tín đồ trung thành của Đạo giáo nên sẽ rất tin tưởng vào mộng triệu, không còn lo lắng cho cháu nội nữa.
Cuối cùng, Tư Đồ Sảng quyết định đi Đại Hồ Sơn xem nàng có về đến hay chưa, nếu không gặp sẽ ở đấy đợi chờ.
Tư Đồ Sảng rời cửa Nam thành Lạc Dương, ra roi nước đại, nhờ vậy đến kịp Đăng Phong lúc giữa canh hai. Chàng ngủ lại đấy một đêm, sáng hôm sau đi Đại Hồ Sơn.
Tư Đồ Sảng gửi ngựa ở thôn nghèo nơi bìa rừng rồi tiến vào núi. Năm nay rét đậm nên dù đã mùng tam Tết mà tuyết vẫn còn rơi lất phất, khiến cây cối trong thung lũng đá, giữa hai dãy núi vẫn chưa giũ bỏ được hết tấm khăn liệm trắng toát. Đêm qua, những chồi xuân đã nẩy mầm đâu đó và tuyết bắt đầu tan bởi ánh dương quang.
Tư Đồ Sảng đứng cạnh bờ vực thẳm, ngẩn người trước cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ. Tuyết tan khiến lượng nước dồi dào nên những dòng thác chảy mạnh, tuôn đổ xuống đáy vực, phát ra những âm thanh hùng tráng tựa vó câu. Và hơi nước bốc lên mù mịt, tạo thành mấy mống cầu vồng rực rỡ bởi bình minh.
Tư Đồ Sảng bồi hồi vận công quát lớn:

– Bạch Phụng ! Bạch Phụng !
Tiếng gọi hùng mạnh của chàng lồng lộng khắp vùng núi non và vang vọng trở lại nhiều lần. Lũ chim hốt hoảng rời cành, quần đảo trên không trung, chẳng dám đáp xuống.
Tư Đồ Sảng ngồi xuống tảng đá cạnh bờ vực mà chờ đợi rất lâu rồi thấtvọng tìm đến hang Thiên Tùng, nơi Tư Đồ Xán đã tìm ra.
Cửa hang vẫn rộng mở vì chẳng ai dại gì đóng cửa tự nhốt mình. Hơn nữa, cánh cửa đá này nặng khủng khiếp, không phải ai cũng xô nổi.
Tư Đồ Sảng đi hết đoạn đường hầm, vào đến hang đá trung tâm, chàng phát hiện bộ hài cốt của Thiên Tùng Chân Nhân vẫn còn nằm lây lất trên giường đá liền bất nhẫn mà suy nghĩ rằng :
– Cửa hang mở thế này tất lũ thú nhỏ sẽ ra vào, mạo phạm đến di cốt của Chân Nhân. Có lẽ ta phải chôn xuống đất mới xong.
Chàng bèn đi khắp hang thạch nhũ, tìm khoảng nền hang có đất mềm. Cuối cùng, chàng phát hiện vách tả của đường hầm dẫn ra vực thắm có thể đào bới được. Tư Đồ Sảng dùng Từ Tâm Kiếm đào khoét một lỗ rộng độ ba gang rồi quay ra gom nhặt những khúc xương mục nát mà chôn dấu.
Xong xuôi, chàng quỳ xuống lạy nấm mộ sơ sài trên vách ba lạy, bùi ngùi khấn :
– Vãn bối chính là kẻ đã khai động, quấy nhiễu nơi an nghỉ của Chân Nhân, song cũng cũng vì hoàn cảnh. Mong anh linh người lượng thứ. Tài sản của Đoàn hoàng Gia vãn bối đã nhờ nghĩa phụ bố thí cả cho tai dân. Còn Đảo Mệnh Linh Kỳ khi sử dụng xong sẽ hoàn lại cho Tĩnh Minh Phái. Chút lòng thành này mong Chân Nhân chứng giám cho.
Chàng vừa khấn xong thì một cơn gió lạnh từ hướng cửa hang thông với vực thẳm thổi vào lồng lộng. Tư Đồ Sảng đã chặt hết bụi rậm ở cửa hang để ánh dương quang ấm áp có thể rọi vào được.
Tư Đồ Sảng trở ra hang chính dùng cành lá phủi sạch giường đá để có chỗ nghỉ ngơi trong những ngày chờ đợi Bạch Phụng. Chàng sẽ trở ra bìa rừng mua gạo và thực phẩm khô. Vả lại, nơi đây có rất nhiều thỏ. Với bản lãnh khinh công hiện tại, chàng thừa sức đuổi theo những con thú nhanh nhẹn ấy. Chàng đặt bẫy rất giỏi song lại sợ hại lầm bọn cáo, chồn, thủ hạ của Bạch Phụng.
Khi mặt tảng đá bằng phẳng kia hoàn toàn sạch sẽ, Tư Đố Sảng phát hiện một đường khe rất nhỏ hình vuông, mỗi cạnh chỉ rộng độ nửa gang. Chàng hồi hộp cúi xuống quan sát thật kỹ và nhìn thấy hàng chữ nét mảnh như đầu kim: “Mai cốt khả khai.” Thì ra, Thiên Tùng Chân Nhân đã để lại phần thưởng cho ai có lòng chôn cất bộ xương khô của mình.
Tư Đồ Sảng an tâm tìm cách mở hộc đá bí ẩn kia. Chàng lưu chuyển chuyển chân khí theo tâm pháp Bích Hổ Du Tường, tạo hấp lực ở bàn tay hữu, bám chặt lấy ô vuông ấy rồi nhấc lên. Quả nhiên mảnh đá rời vị trí để lộ một hốc sâu gần gang, trong chứa chiếc hộp đồng nhỏ.
Tư Đồ Sảng mở hộp, tìm được mảnh lụa trắng viết đầy chữ và một viên ngọc tròn đen tuyền, lớn cỡ quả nhãn, có lỗ xỏ dây tơ xanh để đeo vào cổ. Chàng hiếu kỳ đọc thử di thư :
“Hậu sinh nhã giám ! Bản đạo là Thiên Tùng Chân Nhân, Thái Y nước Đại Lý, được quốc vương Thiện Địch, Đoàn Hưng Trí giao trọng trách khôi phục lại nước Đại Lý. Nhưng bần đạo chờ mãi mà không thấy con cháu họ Đoàn đến tìm, liền trai tịnh bẩy ngày để gieo quẻ.
Khi biết rằng số nước Đại Lý đã tuyệt, bần đạo cũng chẳng còn lưu luyến hồng trần nên đến Đại Hồ Sơn tìm nơi ẩn dật. Tình cờ, bản đạo lại khám phá ra hang động này nhưng không rõ là của bậc thần tiên hay vị kỳ nhân cổ đại nào.
Bần đạo tu luyện ở đây được bẩy năm thì đắc đạo, nhìn thấu chuyện vị lai. Do vậy, khi tịch diệt, bần đạo lưu lại một món quà nhỏ cho kẻ hậu sinh có lòng nhân từ. Viên Hắc Ngọc này chính là Nội đan của một con mãng xà tinh ngàn năm. Khi đeo Hắ Ngọc nơi cổ, người ta có thể linh cảm được những mối nguy hiểm đang rình rập. Còn khi ngậm vào miệng thì có thể nhịn đói hàng tháng và nhìn xuyên đêm tối. Bằng như muốn có thêm ba chục năm công !ực thì hãy nuốt Hắc Ngọc mà tĩnh tọa đủ chín ngày đêm. Hắc Ngọc còn có tác dụng trị thương, cầm máu, làm liền miệng những vết thương đứt trên da thịt. Dẫu bị nội thương nơi phủ tạng thì cũng mau chóng binh phục khi uống rượu ngâm Hắc Ngọc.
Nếu túc hạ cũng là người tìm thấy rương châu báu thì xin hãy rộng lòng bố thí một nửa cho bần dân. Phần Đảo Mệnh Linh Kỳ, xin túc hạ đem đến núi Nam Xương, trả lại cho Vạn Thọ Cung. Túc hạ làm được hai việc ấy thì sẽ nhận quả phúc không nhỏ ! Thiên Tùng ChânNhân di bút ?”
Đọc xong di thư, Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết, chạy trở lại chỗ lúc nãy vái tạ nấm mộ của Chân Nhân. Chàng đeo ngay Hắc Ngọc vào cổ và đến xế trưa thử ngậm để chống đói. Kỳ diệu thay, viên ngọc đen ấy có vị ngọt thơm và lập tức khiến cho chàng cảm thấy thư thái, sung mãn và no nê như vừa thưởng thức một bữa ăn ngon.
Tư Đồ Sảng yên lòng bắt tay vào việc luyện võ, cả kiếm thuật lẫn Khô Mộc Thần Công. Đêm xuống, chàng phát hiện diệu dụng thứ hai của Hắc Ngọc vì chẳng cần đốt lửa mà thấy chung quanh vẫn sáng sủa.
Ba ngày sau, Tư Đồ Sảng còn nhận ra việc thính giác và khứu giác của chàng cũng tinh tường hơn trước rất nhiều. Chàng có thể nghe được tiếng lá rụng ở khoảng cách ba trượng. Đây là một ưu thế rất quan trọng cho người võ sĩ. Từ nay, khó ai có thể đánh lén chàng từ phía sau lưng.
Và đến chiều hôm ấy, khi chuẩn bị tĩnh tọa luyện công, Tư Đồ Sảng chợt nghe được tiếng khóc nỉ non của nữ nhân từ xa vọng lại.
Tư Đồ Sảng giật mình xách kiếm rời khỏi hang Thiên Tùng, chạy về hướng đã phát ra những âm thanh não lòng ấy. Và khi còn cách bờ vực thẳm sáu bẩy trượng, chàng nhìn thấy Mạc Chiêu Hương, toàn thân bạch y, tóc xõa dài, đầu quấn khăn tang đang quỳ cách bờ vực một trượng mà nức nở:
– Tướng công ! Thiếp là thân liễu yếu đạo tơ võ công kém cỏi, chẳng thể nào báo thù cho chàng được. Mỗi ngày trôi qua đối với thiếp dài tựa ba năm. Nỗi nhung nhớ, xót thương đã khiến thiếp mỏi mòn không còn muốn sống nữa. Thiếp sẽ xuống suối vàng để phu thê sớm được sum vầy.
Dứt lời, nàng loạng choạng đứng lên, bước đến phía trước để gieo mình xuống vực sâu.
Tư Đồ Sảng kinh hoàng, lao vút đến như làn gió, ôm chặt ái thê vào lòng mà nhẩy lùi lại.
Chàng nghẹn ngào nói :
– Hương muội ! Ta vẫn còn sống đây !
Giọng nói già nua của chàng là của Tề Thanh Tuyệt nên chỉ khiến Chiêu Hương kinh hãi, dẫy dụa và thét lên :
– Lão mau buông ta ra !
Tư Đồ Sảng vội điểm vào hai huyệt Phục Thố trên đùi nàng và đặt xuống mặt cỏ. Chàng cũng ngồi đối diện Chiêu Hương và nghiêm nghị nói :
– Hương muội hãy trấn tĩnh mà nghe ta kể rõ nguồn cơn.
Chiêu Hương thấy Tề Thanh Tuyệt đã chịu buông mình ra tức không có ý làm bậy, thì cũng hơi yên dạ, giương đôi mắt hoang mang mà lắng nghe. Tư Đồ Sảng liền nhắc lại việc mình cứu con chồn hương lông trắng năm trước. Chiêu Hương đã biết chuyện này nên ánh mắt le lói niềm tin.
Khi nghe xong nhữg tao ngộ từ lúc chàng rơi xuống vực thắm, Chiêu Hương bán tín bán nghi hỏi :
– Thế túc hạ có biết trên người ta có dấu vết gì đặc biệt không ?
Tư Đồ Sảng mỉm cười :
– Nàng có một bớt son nhỏ hình trăng khuyết ở bụng dưới, ngay huyệt Tung Cực. Ta vẫn thường nói đùa rằng nếu bớt son ấy ở trên trán thì thiên hạ sẽ có một nữ Bao Thanh Thiên.
Bí mật phòng the này chỉ có nàng và Tư Đồ Sảng biết được nên Mạc Chiêu Hương chẳng còn nghi ngờ gì nữa, bật khóc vì niềm vui quá lớn lết đến ôm chàng :
– Tướng công ! Sao chàng lại nhẫn tâm giấu giếm để thiếp phải đau khổ suốt mấy tháng qua ?
Nàng tức tưởi đấm vào ngực chàng, nước mắt tuôn như suối. Tư Đồ Sảng vô cùng ân hận, cúi xuống hôn nàng để tạ lỗi. Chàng giải huyệt cho Chiêu Hương và bồng nàng quay lại hang Thiên Tùng. Họ chuyện trò một lức lâu thì Chiêu Hương đòi đi tắm.
Tư Đồ Sảng liễn đưa nàng đến một suối nước trong veo, cách cửa hang không xa. Hai người tắm táp rất nhanh vì nước lạnh ngắt khiến Chiêu Hương run cầm cập.
Họ trở về thạch động, đỡ lòng bằng cách ngậm Hắc Ngọc rồi gầy cuộc mây mưa, dưới ánh lửa bập bùng của đống củi mà Tư Đồ Sảng đã gom góp được.
o0o
Về Lạc Dương sớm thì sẽ chẳng còn cơ hội gần gũi nhau, Chiêu Hương ở lại Đại Hồ Sơn với Tư Đồ Sảng, để chờ Bạch Phụng. Nàng rất hiếu kỳ muốn biết cái ả hồ ly tinh đã quyến rũ chồng mình. Thực ra, Chiêu Hướng chẳng hề ghen vì Tư Đố Sảng còn sống sót cũng là nhờ nàng ta.
Tối mười bốn, nàng tủm tỉm hỏi Tư Đồ Sảng :
– Tướng công ! Nhan sắc Bạch Phụng so với thiếp và hai tiểu thư họ Lăng thì hơn hay kém ?
Tư Đồ Sảng bật cười, xiết chặt thân hình mịn màng, gợi cảm của nàng và trả lời :
– Ta yêu cả bốn nàng nên không thể phân biệt hơn kém được.
Chiêu Hương có vẻ không hài lòng trước câu phúc đáp chung chung ấy!
Song Tư Đồ Sảng đã khoả lấp bằng đôi môi nóng bỏng.
Sáng hôm sau, hai người rời Đại Hồ Sơn để vế Lạc Dương vì rằm này Trương Thiên Sư sẽ có mặt và mọi người sẽ tiến hành việc xuống vực nhặt xác Tư Đồ Sảng. Do vậy, chàng phải tiết lộ thân phận cùng Tây Môn Giới và Trương giáo chủ để họ khỏi phải uổng công.

Đôi uyên ương phóng ngựa như bay nên lúc xế chiếu đã gần vế trấn Y Xuyên, chỉ cách chừng vài dặm. Y Xuyên chính là địa phương có thắng cảnh Long Xuân Phật Động và núi Hương Sơn, nơi Tổng đàn võ lâm tọa lạc. Trấn này nằm cạnh bờ sông Y Thủy nên mới có tên như thế.
Y Xuyên nằm ngay trên đường quan đạo, xa Lạc Dương độ hai mươi sáu dặm. Vậy là chỉ còn chừng ba mươi dặm nữa là vợ chồng Tư Đồ Sảng về đến nơi.
o0o
Cảnh hoàng hôn rơi trên hai ngọn Long Môn và Hương Sơn vô cùng diễm lệ, khiến đôi uyên ương phải ghì cương cho ngựa đi chậm lại để thưởng thức.
Nhưng khi tiếng vó câu lắng xuống, gió thôi thổi vù vù bên tai, Tư Đồ Sảng liền nghe được tiếng sắt thép chạm nhau và tiếng reo hò quát tháo. Chàng giật minh bảo Chiêu Hương :
– Dường như phía trước có cường đạo chặn đường lữ khách. Chúng ta mau đến đấy xem thử !
Hai người quất ngựa phi nước đại, khi vừa qua khỏi khúc quanh cách chỗ cũ hơn dặm thì phát hiện một cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra trên mảnh đất cằn cỗi, đầy sỏi đá mấp mô ở mé hữu quan đạo. Hàng trăm tên đao thủ bịt khăn ngang mặt, y phục không đồng nhất đang vây đánh một toán người đông độ bốn mươi. Phe cô thế chính là Thiên Sư Giáo chủ và các đệ tử Trương Hàn Vũ đang trên đường đến Lạc Dương để nhặt xác và cử hành lễ mai táng cho ngũ sư đệ thì gặp phục binh tại đoạn đường vắng vẻ này.
Tư Đồ Sảng và Mạc Chiêu Hương lập tức rời yên ngựa, tấn công vào lưng bọn bịt mặt.
Chiêu Hương tuổi đã ba mươi luyện võ hơn hai mươi năm nên võ nghệ rất cao cường. Thuở nhỏ nàng lại được mẫu thân dùng bí phương bồi bổ cho nên nhan sắc lâu phai tàn và công lực cũng thêm phần thâm hậu. Nàng còn là đệ tử chân truyền của cô ruột là Tỳ Bà Tiên Nương, sở đắc pho Tỳ Bà kiếm pháp cực kỳ hiểm độc và lợi hại. Cộng với pho khinh công Truy Tinh Thân Pháp mà Tư Đồ Sảng đã dạy cho, bản lãnh Chiêu Hương chỉ kém Huyết Báo Liễu Mộ Hào một bậc.
Giờ đây Chiêu Hương hiển lộng thần oai, đường kiếm vun vút bay lượn, mũi kiếm như đầu độc xà mổ những cú chết người và thần tốc.
Trong chốc lát nàng đã giết liền bốn tên đao thủ và ung dung tả xung hữu đột giữa đòng vây mặt hoa đỏ bừng vì phấn khích. Đây là lần đầu tiên được sát cánh với trượng phu mà chiến đấu, Chiêu Hương vô cùng cao hứng và có ý định khoe tài với Tư Đồ Sảng.
Hơn nữa, Chiêu Hương đã nhận ra sự hiện diện của Giả Đan Quỳnh. Nàng ta cũng đang phóng tay chém giết bằng một thứ kiếm pháp linh diệu và hữu hiệu. Chiêu Hương hậm hực tự hỏi vì sao cô ả kia lại đi chung với phái đoàn Thiên Sư Giáo ? Ghen tuông là cố tật của mọi nữ nhân trên đời, Chiêu Hương bỗng có ác cảm với Giả Đan Quỳnh, một ả tiểu thư xinh đẹp và giầu nhất Hồ Nam. Nay Tư Đồ Sảng vẫn còn sống, biết đâu nhà họ Giả sẽ mượn cớ trả ưu mà gả ả cho chàng!
Cơn ghen bóng ghen gió ấy đã biến thành lửa giận, trút xuống đầu bọn đao thủ. Chiêu Hương nghiến răng phóng kiếm, thi tài sát nhân với tình địch. Nàng giết được một thì Tư Đồ Sảng hạ xong bốn năm mạng. Nhưng chàng chỉ đả thương hoặc chặt đứt cánh tay cầm đao của kẻ địch chứ không sát hại. Bản lãnh càng cao siêu Tư Đồ Sảng càng cố thực hiện lời dạy bảo của Trát Thập Thiền Sư, vị trưởng lão trăm tuổi của Bố Đà La Tự.
Tư Đồ Sảng tiến nhanh như gió, Từ Tâm Kiếm loang quanh thân và liên tục phóng ra những thế thức diệu kỳ. Đường kiếm của chàng nhanh và chuẩn xác, không một thanh đao nào có thể cản nổi. Kẻ bị thương thường la to hơn người sắp chết nên đấu trường cực kỳ huyên náo, khiến bọn bịt mặt bấn loạn tinh thần, còn phe Thiên Sư Giáo thì phấn chấn.
Tư Đồ Sảng loại hơn mười hai kẻ địch, vào đến rốn trận. Chàng lập tức tung mình nhẩy xổ vào đối thủ của Trương giáo chủ. Họ Trương đã tiến bộ nhiều nhờ chăm luyện Huyền Nguyên Kiếm Pháp, nếu không ông đã sớm bại vong dưới tay lão già áo đen bịt mặt kia. Không hiểu hắc y nhân là ai mà công lực và kiếm pháp đều rất lợi hại. Nhưng có lẽ lão ta muốn bắt sống Trương Hàn Vũ nên đã bỏ qua nhiều cơ hội tốt. Trương Thiên Sư biết thế cứ liều mạng chiến đấu, không hề sợ hãi.
Lúc Tư Đồ Sảng đến nơi thì lão hắc y đang xuất kỳ chiêu, kiếm ảnh mịt mù trông rất đáng sợ. Song thực chất là nhắm vào huyệt Liệt Khuyết trên cổ tay hữu Trương Hàn Vũ. Nếu trúng đòn vào vị trì này, Trương giáo chủ sẽ rơi kiếm và sa vào tay địch.
Nhưng hắc y nhân phải bỏ dở chiêu ấy, tung mình lên đón đánh kẻ mới xuất hiện. Lão ta đã sớm nhận ra quyền Minh chủ võ lâm Tề Thanh Tuyệt, chẳng dám xem thường, thi triển ngay thủ đoạn độc ác. Khi hai thanh kiếm còn chưa đúng tầm với, tả thủ của hắc y nhân đã phóng ra hàng trăm mũi kim thép xanh lè vì tẩm độc.
Thủ pháp phóng châm của lâo ta điêu luyện phi thường nên toàn thân Tư Đồ Sảng bị trận mưa chết chóc ấy bao trùm.
Và trong khoảng cách gần như thế thì không ai có thể tránh nổi.
Nào ngờ, Từ Tâm Kiếm từng hứng chịu hàng chục tia sét nên có từ tính khá mạnh, hút lấy hơn nửa số độc châm, cả những mũi đã bay xuyên qua kiếm ảnh, không chạm vào lưỡi kiếm. Nhờ vậy mà vùng mặt và ngực của Tư Đồ Sảng được an toàn, chi có tả thủ và hai đùi bị trúng đòn. Khô Mộc Thắn Công tập trung nhiều ở tứ chi, nơi có nhiều cơ bắp luôn hoạt động. Hơn nữa, đối phương dùng lực đạo ở cổ tay để phóng hàng trăm cây kim nên sức bay tương đối nhỏ, không đâm thủng nổi lớp da thịt bền chắc tựa gỗ Thiết Mộc của tay chân Tư Đồ Sảng.
Tóm lại là chàng hoàn toàn vô sự trước đòn ám tập bằng độc châm ấy và thản nhiên chạm kiếm với kẻ thù. Tư Đồ Sảng đã xuất chiêu Lực Phách Nga Mi trong pho Giáng Ma kiếm pháp, đường gươm mãnh liệt như bão tố, kiếm ảnh trùng điệp tựa mây đen.
Hắc y nhân đã bôi lên mũi những cây châm loại chất độc vô song của loài rắn biển nơi Đông Hải. Nọc của loài rắn bụng vàng này độc gấp ngàn lần nọc của rắn hổ mang, xứng danh Kiến Huyết Phong Hầu. Nghĩa là nạn nhân chỉ cần bị kim đâm chảy máu thì lập tức vong mạng.
Đinh ninh rằng Tề Thanh Tuyệt không thoát nổi độc châm, hắc y nhân đắc ý múa kiếm thọc liền tám thức để kết liễu. Ngờ đâu, màn kiếm quang đen sì kia không hề tan biến mà cứ hung hãn ập đến đánh bạt đường gươm của lão và liếm vào cơ thể.
Hắc y nhân gào lên ghê rợn vì ngực thủng ba lỗ và vai tả bị chặt rời khỏi thân, mang theo cánh tay.
Trương Thiên Sử mừng rỡ hô hoán :
– Cảm tạ Tề minh chủ !
Lão chỉ nói có thế vì phải tiếp tức đỡ đòn của bọn đao thủ.
Tư Đồ Sảng mỉm cười với Giáo chủ sư huynh rồi lao vút về hướg của Giả Đan Quỳnh. Nàng đang kém thế trước lão một hắc y khác. Mái tóc của lão này bạc hơn nạn nhãn của Tư Đồ Sảng và bản lãnh kiếm thuật cũng cao hơn. Nhưng lão ta cũng chỉ muốn bắt sống Giả Đan Quỳnh nên nàng mới cầm cự đến lúc này. Thực ra còn phải kể tới công lao của ả tỳ nữ Tiểu Thu. Cô gái lanh lợi ấy đã sát cánh với chủ nhân, giải nguy cho Đan Quỳnh bằng những đòn táo bạo và quyết liệt.
Thấy Tư Đồ Sảng xuất hiện, lão hắc y tóc bạc giận dữ đẩy lùi chủ tớ Đan Quỳnh và quát vang :
– Tề lão tặc ! Mau đền mạng cho tứ đệ của ta !
Dút lời, lão ập đến tấn công dữ dội, ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tư Đồ Sảng đã đạt đến tinh túy của kiếm đạo nên không hề lúng túng trước bất cứ pho kiếm nào trong thiên hạ. Chàng ung dung giải phá và uy hiếp ba tử huyệt Thiên Đột, Đản Trung, Thần Khuyết trên mạch Nhâm, khiến lão hắc y kinh hãi lùi mau.
Tư Đồ Sảng xấn tới, dùng lực đạo cánh tay mà xuất chiêu và mở miệng hỏi:
– Chư vị thuộc bang hội nào mà lại dám mạo phạm đến giáo chủ Thiên Sư Giáo ?
Đối phương không trả lời và nhân cơ hội chân khí chàng gián đoạn mà phản kích, hy vọng sẽ đánh văng được Từ Tâm Kiếm. Nhưng hắc y nhân đâu biết rằng lực đạo ở cánh tay Tư Đồ Sang cực kỳ mạnh mẽ, không dồn chân khí cũng có thể nâng nổi bốn trăm cân.
Lão ta lại bị văng ra và phát hiện trên lưỡi gươm của Tề Thanh Tuyệt dính đầy độc châm. Lão cho rằng họ Tề đã dùng đá nam châm vuốt lên thân kiếm nên phá được tuyệt kỹ phóng kim thép của em mình.
Hắc y nhân càng chán nản hơn khi nghe tiếng vó ngựa dồn dập chạy đến và tiếng người quát tháo vang rền :
– Bớ bọn thảo khấu kia ! Bần tăng là phó Minh chủ võ lâm đây, các ngươi mau xếp giáo quy hàng !
Sau đó, mạn hướng Bắc đấu trường vang dội tiếng kêu rên, chứng tỏ toán cao thủ mới đến rất lợi hại.
Cuối cùng, một tiếng còi sắt rú lên cao vút, ra hiệu thu quân. Lão hắc y thở dài, bỏ Tư Đồ Sảng mà đào tẩu. Đúng ra, lão ta không thể thoát chết song Tư Đồ Sảng đã vì mái tóc bạc trên đầu lão mà nương tay.
Phe Thiên Sư Giáo cũng chẳng truy đuổi, lo việc băng bó và trị thương cho nhau. Nhờ mấy tháng luyện pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp giản lược mà bọn đạo sĩ trẻ đã bảo toàn được tính mạng nhưng đều thọ thương.
Trong toán viện binh, ngoài Thiện Đề còn có cả Tây Môn Giới, Huyết Báo và Trại Tôn Tử. Hồ Sĩ Tuệ tuy giận mà có ý định bỏ về Trường Sa song không nỡ để Thiện Đề ngập đầu trong sự vụ Tổng đàn nên đành nén lại.
Trương Thiên Sư hân hoan hỏi Tây Môn Giới :
– Vì sao lão thí chủ lại biết bọn bần đạo lâm nguy mà đến đây tương trợ ?
Tây Môn Giới quắc mắt nhìn Mạc Chiêu Hương và lạnh lùng đáp :
– Do Mạc nha đầu lén bỏ đi mấy ngày không về nên bọn lão phu phải bủa ra tìm kiếm. Nhờ tài bói toán của Hồ lão huynh nên bọn ta xuôi Nam để đi Đại Hồ Sơn. Chiều nay, bọn lão phu vừa định nghỉ ngơi ở trấn Y Xuyên thì Hồ lão huynh nghe tâm cơ máy động, liền gieo thử quẻ rồi thúc giục mọi người lên đường ngay. Nhờ vậy mà đến kịp !
Trương Thiên Sư cười khà khà :
– Thực ra, nếu không có Tề Minh chủ và Mạc hiền điệt nữ xuất hiện đúng lúc thì Cổ thí chủ cũng chẳng còn thấy mặt bần đạo.

Tây Môn Giới nhìn Chiêu Hương với ánh mắt tóe lửa, song chưa kịp phát tác thì phát hiện Giả Đan Quỳnh đến quỳ trước mật mình. Còn Trương Hàn Vũ thì nghiêm nghị bảo :
– Này Tây Môn thí chủ ! Năm xưa Ngũ sư đệ của bần đạo, tức nghĩa tử của thí chủ đã tặng một viên Luân Hồi Thần Đan để cứu mạng ái nữ nhà họ Giả. Mới đây, thí chủ lại mang quân tiêu diệt Kỳ Lân Bang, giải thoát cho họ. Chính vì thế mà Giả lão trang chủ đã đích thân đến Long Hổ Sơn, xin được gả Giả Đan Quỳnh cho Tư Đồ Sảng, dù y đã chết. Nghĩa là Đan Quỳnh tiểu thư sẽ chịu tang chồng ba năm rồi mới xuất giá. Bần đạo từ chối mãi không được đành phải nhận lời, mong lão thí chủ nể mặt mà chấp thuận cho.
Tây Môn Giới đang còn ngẩn người suy nghĩ thì Mạc Chiêu Hương hốt hoảng lên tiếng :
– Xin can gia đừng ưng thuận.
Tây Môn Giới động nộ nạt :
– Câm ngay !
Rồi lão ngửa cổ cười bi thiết :
– Sảng nhi ơi Sảng nhi ? Lòng dạ nữ nhân như biển khôn dò khiến lão phu không sao hiểu nổi.
Và lão nghiêm nghị hỏi Đan Quỳnh :
– Nếu lão phu không lầm thì cô nương tuổi đã gần tam thập, nay cư tang thêm ba năm e lỡ làng tuổi thanh xuân. Cô nương và Sảng nhi hội ngộ chỉ một lần, cớ sao cô nương lại phải nặng lòng như thế ?
Đan Quỳnh nghẹn ngào thỏ thẻ :
– Bẩm lão gia ! Tiện nữ là một kẻ có tính tình quái dị, lúc đầu chỉ tri ân cứu mạng song dần dà hình bóng của lệnh lang ngày càng khắc sâu. Nếu Tư Đồ thiếu hiệp còn sống chưa chắc tiện nữ đã dám thổ lộ tâm tình. Nhưng nay chàng đã qua đời, tiện nữ muối mặt thú nhận, cầu xin lão gia nhủ lòng thương xót, cho kẻ bạc mệnh này được một lần chít khăn tang khóc thương người trong mộng.
Nói xong, nàng úp mặt xuống đất khóc nức nở. Tiếng khóc ấy thê lương não nuột khiến ai cũng mủi lòng. Cả Chiêu Hương cũng phải cảm động trước mối chân tình ấy, thở dài suy nghĩ :
– Cùng là phận hổng nhan, lẽ nào ta lại hẹp hòi với một nữ nhân chung tình rất mực như thế. Có lẽ đây là duyên nợ từ kiếp trước, ta chẳng nên buồn làm gì.
Tây Môn Giới gật gù bảo :
– Hảo nhi nữ ? Mối chân tình của ngươi có thể làm lay động được cả trời cao. Lão phu đồng ý nhận ngươi làm dâu.
Giả Đan Quỳnh mừng rỡ nhưng vẫn sụt sùi, kính cẩn lạy chín lạy và gọi tiếng can gia.
Thiện Đề đại sư ngơ ngác gãi đầu lẩm bẩm :
– Mô Phật ! Cái gã Tư Đồ Sảng này mặt mũi thế nào mà chết rối cũng có người đẹp đến xin làm vợ ? Trong khi bần tăng còn sống sờ sờ đây mà chẳng ma nào thèm để ý đến ?
Tư Đồ Sảng đứng bên cạnh Thiện Đề nên nghe thấy hết. Chàng ngao ngán thở dài buột miệng bảo :
– Đại sư tưởng nhiều vợ thì sung sướng lắm hay sao ? Mai đây họ cắn xé nhau thì ta chỉ còn cách trốn vào chùa tu cho yên thân.
Thiện Đề ngơ ngác hỏi lạ :
– Ủa ? Bần tăng đâu có nói về Tề thí chủ ?
Tư Đồ Sảng sực tỉnh, ngượng ngùng đáp :
– Lão phu chỉ nói chung chung thế thôi mà !
Trời đã sắp tối, đoàn người lên ngựa phi thắng về Lạc Dương, đến nơi lúc đầu canh hai.
Tắm rửa xong, họ quây quần dùng bữa. Tây Môn Giới bảo bọn gia nhân dọn riêng một mâm trong phòng khách cho ông và các bậc cao niên. Ăn xong họ dùng trà và trò chuyện. Hai người vợ góa của Tư Đồ Sảng đứng hầu.
Tây Môn Giới nghiêm nghị hỏi con dâu :
– Hương nhi ! Ngươi đi đâu mấy hôm nay và vì sao lại đồng hành với Tề minh chủ ?
Chiêu Hương thản nhiên đáp, ánh mắt trong veo chẳng chút tội lỗi :
– Bẩm can gia ! Hài nhi thương cho vong phu cô độc trong những ngày xuân nên tìm đến Đại Hồ Sơn bầu bạn. Lúc trở về, tình cờ gặp được Tề Minh chủ khi còn cách nơi Trương giáo chủ bị mai phục chừng chục dặm.
Và nàng nghiêm trang thề thốt :
– Hài nhi thề có lôi thần chứng giám rằng thân thể này chưa ai chạm đến ngoài trượng phu. Tây Môn Giới tạm yên lòng, cau máy trách móc :
– Chỉ còn vài ngày nữa là chúng ta đi Đại Hồ Sơn thu nhặt hài cốt Sảng nhi. Ngươi đi không báo khiến cá nhà phải lo lắng và tốn công tìm kiếm.
Trương Thiên Sư khề khà đỡ đòn cho em dâu :
– Không sao ! Không sao ! Cũng nhờ Ngũ tức muội bỏ đi mà bọn bần đạo mới thoát chết, xem ra công lớn hơn tội.
Tây Môn Giới quay sang hỏi Tư Đồ Sảng :
– Này Tề Minh chủ ? Vì sao ông đã từ nhiệm bỏ đi mà lại quay về ?
Chàng ung dung đáp :
– Lão phu tình cờ gặp lại cố hữu, được người ấy tặng cho báu vật nên tự tin có thể hạ sát Thanh Y nhân mà vẫn an toàn. Bởi vậy, lão phu quay lại nhờ Cổ Cư Sĩ loan tin khiêu chiến với tên ác nhân kia !
Tây Môn Giới vui mừng khôn xiết và hiếu kỳ hỏi :
– Chẳng hay bảo vật ấy là gì mà lại khiến cho tôn giá tự tin như thế ?
Tư Đồ Sảng liền tháo dây tơ treo Hắc Ngọc khỏi cổ, đưa cho Tây Môn Giới và giải thích những diệu dụng của nó.
Tây Môn Giới tò mò ngậm thứ vào miệng thì thấy cảnh vật ngoài sân, trong phòng sáng rõ và có mầu hồng nhạt.
Ông vô cùng kinh ngạc, hết lời ca ngợi đặc tính diệu kỳ của Hắc Ngọc, rồi trao cho Trương Thiên Sư thử nghiệm. Trương Hàn Vũ cũng ngạc nhiên không kém, đưa qua cho Trại Tôn Tử. Thử xong, Hồ lão trầm ngâm bảo :
– Lão phu từng đọc qua một quyển cổ thư, trong ấy có nói về viên ngọc quý này, song giờ chỉ nhớ mang máng rằng nó xuất xứ từ đất Vân Nam.
Lão vừa nói vừa nhìn Tư Đồ Sảng với ánh mắt dò xét. Chàng thầm khâm phục kiến văn của vị quân sư già nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ thản nhiên.
Đêm ấy, Tư Đồ Sảng tìm đến phòng nghĩa phụ. Thấy Tây Môn Nhị và Tây Môn Ngũ đứng gác, chàng nghiêm nghị bảo :
– Lão phu và Cố Cư Sĩ có chuyện tối mật cần bàn bạc. Hai ngươi hãy cảnh giới thật chu đáo, không cho bất cứ ai vào, trừ Trương Thiên Sư. À ! Tốt nhất là Tây Môn Nhị đi gọi thêm vài huynh đệ trong Thất Tinh Hình Sứ đến hỗ trợ mặt sau, nhưng tuyệt đối không để ai biết.
Tây Môn Nhị ngớ người ngơ ngác không hiểu vì sao Tề Minh chủ lại biết họ là Thất Tinh Hình Sứ của Hắc Hiệp Hội. Cho rằng sư phụ đã tiết lộ vì tin tưởng họ Tề, gã ngoan ngoãn thi hành ngay. Chờ Tây Môn Nhị đưa thêm ba người nửa đến Tư Đồ Sảng mới vào phòng nghĩa phụ.
Tây Môn Giới vẫn chưa ngủ, ngồi cạnh giá nến nhâm nhi bầu rượu nhỏ, mắt đỏ hoe vì sầu muộn. Ông giật mình khi thấy khách bước vào và cau này hỏi:
– Vì sao Tề túc hạ lại đến tìm lão phu vào giờ này ?
Tư Đồ Sảng dịu giọng đáp :
– Lão phu có chuyện cực kỳ hệ trọng, xin Cư Sĩ cố bình tâm, đừng vì kinh ngạc mà đánh động người ngoài.
Tây Môn Giới gật đầu :
– Tôn giá cứ yên tâm. Định lực của lão phu rất thâm hậu, dẫu núi đổ trước mặt cũng chàng động lòng.
Tư Đồ Sảng liền vén áo quỳ xuống khấu đầu lạy và nghẹn ngào nói :
– Can gia ! Hài nhi chính là Tư Đồ Sảng đây !
Tây Môn Giới trợn mắt sửng sốt, lắp bắp hỏi lại :

– Tôn giá vừa nói gì ? Lão phu nghe chẳng rõ !
Tư Đồ Sảng không đáp mà đọc nhỏ khẩu quyết của công phu Bích Hổ tâm pháp. Nỗi hân hoan rạng rỡ dồn trong ánh mắt Tây Môn Giới. Lão lẩm bẩm:
– Sảng nhi đấy ư ? Lão phu không thể tin được !
Và lão cúi xuống ôm đầu đứa con nuôi yêu dấu mà khóc. Tư Đồ Sảng vội bịt miệng ông lại thì thầm :
– Xin can gia bớt bi lụy. Trong trang có nội gián nên không thể để lộ việc hài nhi còn sống.
Tây Môn Giới gật đầu đáp :
– Để lão phu ra dặn bọn Tây Môn Nhị mấy câu kẻo chúng hiểu lầm mà vọng động.
Ông bước ra ngoài và trở vào ngay, quạt tắt nến giả như đã đi ngủ. Hai cha con lên giường trò chuyện, một canh giờ sau Tư Đồ Sảng mới trở về phòng mình.
Phần Tây Môn Giới thì đi tìm Trương giáo chủ để báo tin mừng và bàn kế hoạch đánh lạc hướng nội gián.
Sáng hôm sau, trong bữa điểm tâm, Trương Thiên Sư lộ vẻ xót xa nói rằng:
Đêm qua, bần đạo đã đối chiếu lại Bát Tư Niên Canh của Ngũ sư đệ với Lịch phả thì phát hiện ra rằng trong năm nay chỉ có ngày rằm tháng chín là thích hợp để cải táng cho Ngũ sư đệ. Có như thế thì vong hồn y mới sớm được siêu sinh tịnh độ hoặc đầu thai vào chỗ hiển vinh.
Người Trung Hoa cổ đại cho rằng có thể đoán trước cát hung, hoặc diễn biến trong vận mệnh của mình, nên đã sáng tạo ra thuật bói toán, gọi chung là “số thuật !”
Theo sách Hán Thư – Nghệ Văn Chí, có thể chia “số thuật” làm sáu loại: Thiên Văn, Lịch phả, Ngũ hành, Thi qui, Tạp chiêm và Hình Pháp ! (tức xem Phong thủy và tướng mặt người cùng gia súc, gia cầm).
Tuy phân chia như thế song khi bói người ta đều dựa trên sự tương sinh, tương khắc của Âm Dương, Ngũ Hành để tính toán !
Theo cách tính mà Trương Thiên Sư nói thì ông ta đã dùng phép Lịch Phả phối hợp với phép Bát Tự Toán Mệnh mà tìm ra ngày tốt xấu !
Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ là bậc thầy trong nghề số thuật, tinh thông không sót một môn nào, nên biết ngay là Trương Thiên Sư tính sai. Chính ngày mười tám tháng giêng sắp tới, ngày mà hai người đã chọn, mới là ngày tốt nhất. Hồ lão hiểu rằng trong việc thay đổi bất ngờ này có ẩn tình. Ông không vội phản bác mà nhìn Trương Giáo chủ dò hỏi và nhận được một cái nháy mắt kín đáo !
Trại Tôn Tử rất giỏi tướng pháp, lập tức nhận ra thần sắc của Trương Thiên Sư sáng nay tươi nhuận chứ không u ám như hôm qua. Nghĩa là trong lòng ông ta đang vui ! Một ý niệm kỳ lạ lóe lên trong cái đầu thông tuệ của Trại Tôn Tử và ông khề khà tán thành :
– Trương Giáo chủ thận trọng xem xét lại lịch phả như thế là phải đạo ? Lão phu cũng ngờ ngợ cho rằng tháng giêng không tốt, nhưng do chẳng có Lịch phả trong tay nên không dám khẳng định !
Tây Môn Giới thở dài thườn thượt :
– Nhị ví đểu nói thế thì lão phu đành cắn răng chờ đợi cho đến rằm tháng chín vậy ! Thực là tội nghiệp cho Sảng nhi !
Huyết Báo bỗng cười nhạt :
– Chư vị đã già nên sợ hãi đủ thứ, khiến cho người chết không được yên mồ yên mả. Liễu mỗ suốt đời không tin chuyện quỉ thần, kiêng kỵ hung cát mà vẫn sống nhăn, chẳng hề bị trời đánh hay ma ám !
Tây Môn Giới nổi giận bác ngay :
– Phế ngôn ! Nếu không có ma quỉ thì sao Sảng nhi lại hai lần hiện về báo mộng rất linh ứng, lần là thủy tai sông Hoài, lần sau là lộ trình của Giả Bạch Hồ và Truy Nguyên Qui Đổ Tất Linh Kỳ ?
Huyết Báo cứng họng chẳng dám nói nữa. Tây Môn Giới quay sang bảo Giả Đan Quỳnh :
– Quỳnh nhi ! Còn tám tháng nữa mới được ngày cải táng cho Sảng nhi, con cứ về phụng dưỡng song thân, giữa tháng chín hãy có mặt ?
Đan Quỳnh khép nép đáp :
– Bẩm Can gia ! Song thân của tiểu tức vẫn khang kiện và được sự hầu hạ, chăm sóc của sáu diệt nữ nên không cần đến đứa con gái vụng về này nữa. Vả lại, gia phụ đã lệnh cho tiểu tức phải ở lại phụng dưỡng Can gia, đủ ba năm mới được về !
Tây Môn Giới nghe mát ruột, khoan khoái gật gù :
– Tốt lắm ! Quỳnh nhi quả là đứa con dâu hiếu thảo và lệnh huyên đường cũng là những người biết trọng lễ nghĩa !
Mạc Chiêu Hương giận đến xám mặt, lửa ghen lại bừng lên hừng hực :
– Con quỉ cái kia thực là đáng sợ, biết cách lấy lòng nghĩa phụ khiến ta bị ra rìa ? Sau này, không chừng ả sê được tướng công yêu thương nhất bọn nhờ những thủ đoạn vô cùng lợi hại ấy !
Ghen tuông là thứ tình cảm phức tạp mãnh liệt nhất thế gian và có trong không sót nữ nhân nào, dù là một ả rất hiền lành, thùy mị. Lửa ghen chỉ tạm lịm đi khi các tay chèo yêu thương nhau và đấng trượng phu giữ được đạo công bằng.
Tuy Chiêu Hương cũng biết xót thương Đan Quỳnh song khi kém cạnh thì lại sinh lòng đố kỵ !
o0o
Sau khi nghĩa tử trở về, Tây Môn Giới đã sáng suốt như xưa, hiểu rằng Thiên Thư Tú Sĩ mới là mục tiêu chính của Tư Đồ Sảng. Ông không còn muốn chàng tử đấu với Thanh Y nhân ngay nữa, mà chờ đến sau Tiết Trùng Cửu, khi Tư Đồ Sảng, trong vai Tề Thanh Tuyệt, giết được Lăng Quân Vĩnh và lên ngôi Minh chủ.
Hiện tại, Tây Môn Giới tập trung sức lực vào việc truy tìm nội gián trong trang. Qua sự thoát chết diệu kỳ của Tư Đồ Sảng và những lời chàng kể về tài biến hóa của Bạch Phụng, ông rất tin tưởng vào sự tiên đoán của ả Hồ ly tinh.
Tây Môn Giới hợp sức cùng Trại Tôn Tử, dùng phương pháp loại suy mà tìm gian tế. Một mặt, Tây Môn Giới cho điều thêm trăm đao thủ ở Cổ gia trang đến Lạc Dương. Đám võ sĩ ấy được Hí Nhân Cư Sĩ đào tạo rất chu đáo, bản lãnh khá cao và rất trung thành. Hơn nữa, chắc chắn là đối phương không thể cài người trong lực lượng này !
Sau khi thế chân họ Cổ, Tây Môn Giới đã hậu đãi đám đao thủ, tăng lương gấp đôi, khiến họ vô cùng cảm kích, sẵn sàng xả thân !
Cổ Quí Sinh chỉ là kẻ đạo đức giả, ngoài mặt tỏ ra rộng rãi để thu phục nhân tâm và mua lấy tiếng thơm, nhưng bên trong lại rất keo kiệt với thủ hạ. Tây Môn Giới thì ngược lại, không cần thanh danh và luôn hào phóng với những kẻ phục vụ mình ! Sau này, dẫu cho đám cao thủ biết chủ mình là ai thì vẫn vui vẻ, tiếp tục phò tá ?
Một trăm tay đao ấy, dưới sự chỉ huy của Thất Tinh Hình Sứ, làm nhiệm vụ dò xét đội ngũ kiếm thủ nhà Tư Đồ và bọn gia nhân, tỳ nữ trong trang !
Trương Thiên Sư đã đi Bắc Kinh để lập đàn cầu an cho Thái Hậu nên đám người già chỉ còn Tây Môn Giới, Trại Tôn Tử và Thập Tự Thần Kiếm Phan Từ Mỹ.
Phan lão suốt ngày ở ngoài hoa viện chăm sóc cây cảnh và lũ chim, tối đến thì tìm Tư Đồ sảng mà uống rượu và trò chuyện !
Lão ta chẳng nhớ được nhiều việc cũ chỉ huyên thuyên những câu chuyện không đầu không đuôi, rất khó hiểu. Tư Đồ Sảng kiên nhẫn lắng nghe và dọ hỏi từ từ, cuối cùng đã có thể chắp vá lại đoạn quá khứ của cha mình !
Nghĩa là, hơn ba mươi năm trước, Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý và Thập Tự Thần Kiếm Phan Từ Mỹ vì tranh giành Vu Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu mà đánh nhau một trận quyết liệt trên núi Vu Sơn, trước sự chứng kiến của Vu Sơn Ma Nữ.
Cuối cùng, cả hai trúng đòn trí mạng của nhau mà ngã lăn xuống vực thẳm. Vu Sơn Ma Nữ vô cùng hối hận nên cũng nhẩy xuống theo hai kẻ đã vì mình mà chết oan.
Trận chiến ấy chỉ có ba bốn người chứng kiến, trong đó có Tư Đồ Quát. Ông liền hạ sơn mua dây chão và xuống vực do thám !
May thay, mùa đông năm ấy trời rét đậm, tuyết dưới đáy vực dầy hàng trượng nên cả ba nạn nhân đều sống sót. Tư Đồ Quát lần lượt mang họ lên và đưa về nhà của Triển mỹ nhân tĩnh dưỡng.
Sau khi hồi phục, hai lão Tần, Phan đã vái Tư Đồ Quát làm Đại ca và hứa không tranh giành vợ với nhau nữa mà để cho Triển Thương Thu tự quyết định.
Bốn người chung sống trên núi Vu Sơn được hơn hai tháng thì mỹ nhân sinh lòng yêu thương ân nhân là Tư Đồ Quát ! Hai người âm thầm trốn đi, để lại bức thư tạ lỗi !
Còn sau đó, việc gì đã xây ra với Tư Đồ Quát và Vu Sơn Ma Nữ thì Phan Từ Mỹ không biết được !
Tư Đồ Sảng cố ôn lại quá khứ song cũng không có manh mối nào vì cha chàng chưa bao giờ hé lộ cuộc tình cũ ! Chàng đã hỏi ý kiến Tây Môn Giới và Trại Tôn Tử song họ cũng bó tay !
Tư Đồ Sảng đành tạm gác lại, chú tâm vào việc luyện võ và chỉ dạy thêm cho hai ái thê !
Giả Đan Quỳnh cũng chưa được phép biết việc Tề minh Chủ là Tư Đồ Sảng ? Và điều này đã khiến Chiêu Hương đắc ý, cho rằng mình được xem trọng hơn ! Nàng vui vẻ nghe lời trượng phu, đem pho Truy Tinh Thân Pháp dạy cho Giả Đan Quỳnh ?
Thực ra. Chiêu Hương ngày càng yêu mến tình địch hơn trước vì Đan Quỳnh luôn kính cẩn xem nàng như chính thất, còn mình chỉ là nhị phòng ! Đan Quỳnh đã lo toan mọi thứ, từ việc dọn giường chiếu cho đến giặt giũ y phục bẩn hay nước trong bồn tắm chẳng để Chiêu Hướng phải mở miệng sai phái bọn nữ tỳ ! Đan Quỳnh đã bảo gia nhân thực hiện chu đáo cả rồi !
Đan Quỳnh còn tự tay chải tóc cho Chiêu Hương và làm bạn đàm đạo lúc thư nhàn !
Phần Tư Đồ Sảng thì chẳng được vui. Chàng nhớ thương và lo lắng cho Bạch Phụng vì yêu và cũng vì hy vọng tái sinh cho chị em họ Lăng ! Chàng đã lần đến núi Thanh Phong tìm Linh Hồ Động mà không thấy, gọi khan cả cổ cũng chẳng một con chồn nào xuất hiện !


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.