Bạn đang đọc Hắc Bạch Hương Hồ Ký – Chương 15: Tạng Tăng Nhất Xuất Nhân Gian Tiếu-tú Sĩ Đăng Đàn Khiếp Võ Lâm.
Khoảng giữa tháng mười, quần hùng tràn ngập thành Đăng phong, chở tham dự đại hội võ lâm. Chẳng một ai than phiền vì phái chờ đợi cả tháng trời.
Cổ Quí Sinh đã mở cửa bảy tòa trang viện trong thành Lạc Dương, mời họ vào trú ngụ và bao luôn ngày ba bữa cơm ngon lành. Sáng mười một, mười hai họ mới rời những tổ ấm ấy để đi Đăng Phong, Cách Lạc Dương trăm dặm. Dĩ nhiên, quần hào hết lời ca ngợi tính hào phóng của Hí Nhân Cư Sĩ.
Nhưng Cổ Quí Sinh lại chẳng hề có mặt ở Lạc Dương mà túc trực tại thành Đăng Phong từ hồi đầu tháng mười.
Họ Cổ đã thuyết phục được hội đồng võ lâm rằng lão thanh y bịt mặt kia là đại họa của võ lâm, cần phải bị tiêu diệt bằng mọi cách, kể cả hoả dược.
Và chắc chắn rằng lão quỷ ấy có liên quan với Kỳ Lân Bang đúng như lời của Giả Đan Quỳnh đã tiết lộ. Có thể lão ta sẽ để lộ chân diện mục thượng đài tranh chức Minh Chủ, hoặc hóa thân dưới lai lịch khác. Dẫu cho không phải hai điều ấy thì sự tồn tại của một Huyền Băng Thần Quân thứ hai, sau lưng Kỳ Lân Bang, cũng vô cùng tai hại cho võ lâm Trung Nguyên.
Hí Nhân Cư Sĩ, tức Tây Môn Giới được sự ủng hộ của Trương Thiên Sư, Hắc Bì Cái và Hạo Dương Chân Quân nên ba vị còn lại cũng phải xuôi theo.
Lần này, Tây Môn Giới cho khoét sâu ba lỗ tròn, đường kính nửa sải tay trên mảnh đất dưới gầm lôi đài. Lão thả xuống mỗi lỗ một chiếc thùng bằng đồng rất dầy, miệng thùng ngửa lên, trong chứa ba mươi cân thuốc nổ.
Nhờ có những chiếc thùng bằng đồng ấy mà sức công phá sẽ tập trung vào đúng vị trí, không hề gây hại cho Ban giám đài lẫn khán giả.
Tây Môn Giới đã thừa hưởng của Cổ Quí Sinh quyển Hỏa Dược Thần Kinh nên giờ đây rất lành nghề.
Hố chôn hỏa dược được lấp từ đầu tháng nên đến rằm thì mặt cỏ bên trên đã xanh trở lại, chẳng ai có thể phát hiện ra. Tây Môn Giới đã mua cả toà khách sạn bốn tầng ớ thành Đăng Phong để làm mới trú ẩn cho mình và cả thủ hạ.
Tầng trên cùng dành riêng cho người nhà, hai tầng giữa là phòng trọ còn tầng trệt là quán ăn kiêm tửu điếm.
Tây Môn Giới còn nuôi hy vọng mơ hồ rằng biết đâu kẻ thù tình cờ dẫn xác đến trọ trong Đăng phong Đệ nhất khách điếm, lúc đó hung thủ giết Tư Đồ Sảng sẽ được nếm chất độc tuyệt thế của Bát Tý Độc Vương.
Không phải Tây Môn Giới chỉ căm ghét mình lão áo xanh, mà cả Kỳ Lân Bang lẫn Hải Hoa Bang nữa. Ông thề sẽ tiêu diệt họ bằng bất cứ thủ đoạn nào.
Sau Đại hội võ lâm, Tây Môn Giới sẽ đưa lực lượng xuống Hồ Nam để sống mái với Kỳ Lân Bang, rồi đến Hải Hoa Bang. Hạo Thiên Cung thì đã im hơi lặng tiếng sau cái chết của Cung chủ Lãng Song Tường.
Bẩy gã Thất Tinh Hình Sứ và một số kiếm thủ nhà Tư Đồ đã trở thành tiểu nhị trong khách điếm, có nhiệm vụ chính là phát hiện lai lịch người vào trọ hoặc ăn uống.
Tây Môn Giới, Mạc Chiêu Hương, Huyết Báo và Trại Tôn Tử thì ru rú trên tầng chót, uống rượu, đánh cờ hoặc xót thương người đã khuất.
Mạc Chiêu Giương đã bình tâm trở lại với ý nghĩ rằng mình phải sống để báo thù chồng. Nàng chăm chỉ đọc quyển Bát Tý Độc Kinh, cố học cho được nghệ thuật giết người vô ảnh. Xế chiều ngày mười hai, Tây Môn Lục, gã thứ sáu trong Thất Tinh Hình Sứ hộc tốc chạy lên, mặt mày tái mét, run giọng báo cáo:
– Bẩm lão gia! Có một lão đeo kiếm đến mướn phòng trọ khai tên là Tề Thanh Tuyệt, sau mươi ba tuổi, quê quán huyện Thanh Oai, phủ Hứa Xương.
Gã leo một mạch lên tầng bốn bốn nên khát khô cả cổ, vòi chụp lấy rượu trên bàn nốc cạn rồi nói tiếp:
– Bẩm lão gia! Dung mạo của lão họ Tề ấy giống hệt Thiếu chủ, thân hình lão cũng cao lớn, tráng kiện!
Cả nhà giật bắn mình vì một viễn ảnh mơ hồ nào đấy! Tây Môn Giới nóng nẩy hỏi:
– Ngươi thứ nói rõ ta xem nào! Có dấu hiệu gì của sự hóa trang hay không?
Tây Môn Lục gãi đầu đáp:
– Bẩm lão gia, Tề Thanh Tuyệt tóc bạc như mây xoã dài dài chứ không búi, râu quai nón bó cằm cũng trắng phau. Da mặt, da cổ, da tay dều nhăn và trổ đồi mồi rất tự nhiên! Bọn đệ tử đà quan sát kỹ càng mà không hề phát hiện điều trá ngụy.
Tây Môn Giới hiểu rõ khả năng của học trò nên hơi thất vọng:
– Vậy chắc là người giống người! Thế ngươi bố trí phòng lão ở đâu?
Tây Môn Lục kính cẩn đáp:
– Bẩm lão gia! Đệ tử đã đưa họ Tề lên tầng ba. Lãc đặt một mâm cơm chay và sẽ ăn tại phòng.
Tây Môn Giới gật gù:
– Tốt lắm! Ngươi xuống dưới làm nhiệm vụ đi! Lát nữa lão phu sẽ thử quan sát đối phương!
Tây Môn Lục đi rồi. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ lên tiếng:
– Lão phu đã bấm thử một quẻ bói xem hung cát của Tư Đồ Thiếu hiệp! Tượng quẻ rất kỳ lạ , c ó cả quỉ khí lẫn sinh khí. không sao hiểu nổi.
Tây Môn Giới nóng ruột đứng phắt dậy:
– Để lão phu xuống nhìn là rõ ngay!
Lão đang cải trang thành chủ nhân khách điếm nên có thể ung dung xuất hiện trước mọi người. Tầng ba ngay sát tầng chót. Tây Môn Giới chỉ xuống hết cầu thang gỗ là đến căn phòng đang mở rộng cửa. Tấm lưng rắn chắc quen thuộc làm lão chấn động tâm thần, rảo bước vào chào hỏi:
Lão phu họ Hoàng, là chưởng quỹ của khách điếm này rất vinh hạnh được tiếp đón ngọc giá! Dám hỏi tôn huynh là cao nhân của giáo phái nào mà lại ăn chay?
Tư Đồ Sảng nghe giọng nói biết ngay là nghĩa phụ của mình, liền giả vờ lạnh lùng đáp:
– Tại hạ là người của Thánh Hoả giáo, tôn giá hài lòng chưa?
Thánh Hỏa Giáo tức Ma giáo, một Giáo phái đã từng một thời hùng mạnh nhất võ lâm. Đến giữa thời nhà Minh thì yếu đi, chỉ còn lại vài ngàn giáo chúng ở quanh vùng núi Hoàng Sơn, thuộc phủ An Khánh.
Tây Môn Giới nghe giọng đối phương khàn khàn, già nua rất chân thực và cũng đủ thơi gian nhìn ngắm kỹ lưỡng nên chăng còn nghi hoặc, lặng lẽ bỏ lên lầu
Bọn Chiêu Hương xúm lại hỏi han thì lão bực bội bảo:
– Lão họ Tề này đúng là hình dánh của Sảng nhi sau bốn mươi năm nữa! Tổ bà nó, chẳng lẽ Tư Đồ lão Trang chủ có con rơi?
Lúc này Tư Đồ Sảng đã ăn xong, đóng chặt cửa, đi qua tấm bình phong gỗ vào chỗ đặt giường ngủ.
Trên giường có một nữ lang áo trắng đang ngồi bó gối đợi chờ. Bạch Phụng cười khúc khích:
– Tướng công đóng địch giỏi đấy!
Tư Đồ Sảng ngồi xuống giường thở dài bảo:
– Nhìn đôi mắt đỏ ngầu và dáng đi thiểu não của can gia, ta biết người đã rất thống khổ nên chỉ muốn thú thực.
Bạch Phụng ôn tồn can gián:
– Tướng công hãy cố ẩn nhẫn thêm một thời gian nữa. Gia phụ bảo rằng vận hạn chàng đang hồi u ám, nếu gần gũi người thân sẽ mang tai họa đến cho họ.
Tư Đồ Sảng cười buồn:
– Nàng chẳng phải ái thê của ta đấy sao?
Bạch Phụng dịu dàng đáp:
– Thiếp đã ở ngoài luân hồi, khác với loài người. Chàng quên thiếp là chồn sao?
Dường như có chút gì cay đắng, xót xa thân phận trong câu nói ấy khiến Tư Đồ Sảng bất nhẫn. Chàng kéo nàng ngồi vào lòng mình rồi hôn hít, Bạch Phụng yêu chàng say đắm, khao khát được trở thành người bình thường để làm vợ Tư Đồ Sảng mà không được nên xem trọng từng phút giây gần gũi. Nàng thè chiếc lưỡi thơm tho mềm mại, liếm mắt môi tình quân, mời gọi ái ân.
Xiêm y rơi vãi trên sàn phòng và thân thể mượt mà, tuyệt diệu của Bạch Phụng hiện ra trọng mùi hương thơm quyến rũ.
Tư Đồ Sảng từng có ba cô vợ đẹp nên không mê đắm vì nhan sắc của Bạch Phụng mà là vì tấm lòng chân thành của nàng, cũng như sắc mầu huyền ảo của mối tình yêu mị. Chàng thức ngộ rằng mình ngày càng thêm yêu mến ả hồ ly tinh này.
Chàng biết sự gần gũi, ôm ấp lâu ngày sẽ giúp Bạch Phụng đủ dương khí mà lột xác ngay cả lúc ban ngày, nên không hề tiếc sức cho những cuộc mây mưa liên tiếp, thường xuyên. Hơn nữa, Tư Đồ Sảng lại là một nam nhân có bản năng tính dục rất mạnh mẽ, xem giao hợp là điều tự nhiên, không thể thiếu.
Chàng rất biết ơn Bạch Phụng khi nàng luôn biến hóa thành Phi Tuyết hoặc Phi Hồng để chàng thỏa lòng thương nhớ.
Và đêm nay, khi tỉnh giấc vu sơn, chàng lại nghe Bạch Phụng nói:
– Tướng công! Thiếp chắc rằng Mạc Chiêu Hương đang có mặt ở tầng trên, cuối canh ba, thiếp sẽ dùng phép Mộng Du Thần Pháp đưa nàng xuống đây tương hội với chàng.
Tư Đồ Sảng băn khoăn đáp:
– Ta cũng rất nhớ Hương muội, song chỉ sợ có ai phát hiện thì lộ chuyện mất. Vả lại, vận mạng ta đang hồi xui xẻo, liệu có nên gần gũi Chiêu Hương hay không?
Bạch Phụng gạt bàn tay chàng khỏi ngực mình rồi ngồi lên, nói với giọng tự tin:
– Tướng công chớ lo! Thiếp đã ra tay thì không thể sơ xuất được! Còn việc vạ lây thì gặp nhau vài lần cũng không đến nỗi nào!O0oSáng ngày rằm tháng mười, nửa vạn hào kiệt Trung Thổ lại hội ngộ trên bình đài đỉnh núi Thấp Vô Danh Sơn, bên cạnh núi Ngũ Nhũ.
Trời Thu tháng mười không đẹp như ngày Trùng cửu. Trên cao lững lờ mây xám, cúc dại nơi bãi cỏ đã héo tàn, thôi nở hoa.
Lôi đài đã được dựng lại như mới và không còn tấm ván bít quanh chân. Quần hùng yên tâm, cho rằng chẳng ai có thể gài hỏa dược được nữa. Tuy nhiên, nếu họ chú tâm quan sát một chút sẽ nhận ra hàng ghế đầu tiên, của các bô lão, nhân sĩ, đã lùi xa lôi đài hơn trước nửa trượng.
Qua đầu giờ Thìn, quần hùng xôn xao vì sự xuất hiện của Hạo Thiên Cung. Đi đầu đoàn người là một lão nhân áo vàng, râu ba chòm đen nhánh, ngũ quan đoan chính, anh tuấn và đầy nét văn nhã.
Những hào kiệt Tứ Xuyên nhận ra ngay Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh, bậc danh sư ở núi Thiên Thư, phía Bắc Phủ Quảng Nguyên, gần ranh giới Thiểm Tây.
Họ Lăng tính tình thanh đạm, lấy sách vở và cầm kỳ thi họa làm lẽ sống, nổi tiếng là người tài ba, uyên bác nhất vùng Tây Thục. Nhưng lão chưa hề giao đấu với ai nên thiên hạ không biết rõ bản lãnh võ công cao cường đến đâu.
Giờ đây, cứ xem cách đối xử cung kính của đám đệ tử Hạo Thiên Cung thì người ta cũng đoán ra rằng Lăng Quân Vĩnh đã trở thành Cung chủ Hạo Thiên Cung. Quần hùng vô cùng thắc mắc và có người không chịu nổi đã bước đến hỏi ngay khi Thiên Thư Tú Sĩ vừa an tọa:
– Này Lăng thí chủ! Ba năm trước bần đạo vân du đất Quảng Nguyên, từng ghé núi Thiên Thư quấy quả thí chủ mấy ngày, lòng vẫn cứ áy náy mãi! Hôm nay, thấy lại tôn nhan, bần đạo vui mừng khôn xiết, vội đến để vấn an!
Lăng Quân Vĩnh đã sớm đứng lên thủ lễ. Lão vòng tay vui vẻ đáp:
– Vài chén rượu nhạt chẳng đáng để Chân Nhân phải bận tâm! Sau này có dịp, kính thỉnh Chân Nhân ghé qua Hạo Thiên Cung để cùng nhau đối ẩm!
Tam Dương Chân Nhân giả vờ kinh ngạc:
– Sao lại là Hạo Thiên Cung? Chẳng hay Lăng thí chủ quan hệ thế nào với họ?
Lăng Quân Vĩnh lộ sắc buồn, ôn tồn giải thích:
– Tại hạ chính là tình lang của cố Cung chủ Lăng Song Tường và là thân phụ của Lăng Khải Trạch. Do Môn qui khắc nghiệt của Hạo Thiên Cung nên tại hạ phải xa lìa thê tử, và không được nhìn nhận mối quan hệ ấy! Nay nghe tin vợ con đều chết thảm, tại hạ đành phải xuất đầu lộ diện, đảm đương cơ nghiệp Hạo Thiên Cung để vong thê nơi chín suối được an lòng!
Quần hùng xôn xao bàn tán và tỏ vẻ thông cảm hoàn cảnh đáng thương của Thiên Thư Tú Sĩ. Nhưng Hí Nhân Cư Sĩ lại đứng lên hỏi với giọng diễu cợt:
– Này Lăng Tú sĩ! Bí mật này chỉ có Tôn giá và Lăng Cung chủ biết! Vậy tôn giá lấy gì để chứng minh thân phận ấy với đệ tử Hạo Thiên Cung? Hay là Lăng Cung chủ đã viết cho tôn giá giấy chứng nhận Nhất dạ Trượng phu!
Cử tọa cười ồ lên tán thành mặc dù câu nói của Cổ Quí Sinh hơi tàn nhẫn. Sau cuộc phát chẩn Thủy tai sông Hoài, danh tiếng của Hí Nhân Cư Sĩ và Trương Thiên Sư đã nổi như cồn, người người ca tụng.
Thiên Thư Tú Sĩ không hề lộ sắc giận điềm đạm đáp:
– Cổ lão huynh thắc mắc cũng phải! Nhưng thực ra việc chứng minh mối quan hệ kia chẳng hề khó khăn vì tại hạ chính là kẻ đã dạy cho vong thê công phu Lô Hoả Thần Chỉ!
Toàn trường kinh ngạc, không ngờ Lăng Quân Vĩnh lại khéo giấu bản lãnh như vậy! Lão dám dạy nghề cho Lăng Song Tường thì bản thân phải đạt trình độ cao hơn!
Đúng lúc này, phái đoàn Hải Hoa Bang tiến vào khiến mọi người chú ý mục tiêu mới. Họ hơi ngạc nhiên khi chỉ thầy một mình Bang Chủ Giáp Vô Yên thống lĩnh đệ tử chứ không có Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc.
Tây Môn Giới, trong vai Hí Nhân Cư Sĩ muốn nắm rõ cục diện võ lâm nên bước đến chào và vui vẻ hỏi:
– Giáp Bang Chủ! Vì sao Lệnh sư không có mặt ở thịnh hội này? Phái chăng Tiên Ông pháp thể bất an sau lần chạm trán lão thanh y Mông Diện ở Đại Hồ Sơn?
Giáp Vô Yên nghiêm nghị đáp:
– Đa tạ Cổ cư sĩ đã có dạ quan hoài! Gia sư vẫn khang kiện nhưng chán cảnh hồng trần nên tìm đảo hoang yên tịnh và ẩn tu rồi!
Hí Nhân Cư Si nói giả lả:
– Thiện tai! Thiện tai!
Rồi ông quay về chỗ ngồi, lòng thắc mắc vì sao Kỳ Lân Bang chưa đến, dù đã đến giờ khai mạc Đại hội?
Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, thượng đài nói qua loa về mục đích của đại hội võ lâm và công bố danh sách ban giám khảo. Lần này, ngoài sáu vị chưởng môn còn có thêm bậc danh sĩ đất Tín Dương là Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quí Sinh, ân nhân của mấy chục vạn tai dân vùng phía Bắc sông Hoài! Tất nhiên, quần hùng đồng thanh tán thành và còn cất lời ca ngợi bậc Đại thiện nhân!
Bẩy vi giám đại cúi chào khán giả rồi tựu vị. Sau đó, Đàm Vân Tử tiến hành thủ tục đăng ký danh sách ứng cử viên. Người đầu tiên lên báo danh Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên, kế đến là Tân Cung chủ Hạo Thiên Cung, Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh.
Quần hùng rất phấn khởi, cho rằng cuộc chạm trán giữa hai đại cao thủ này sẽ vô cùng quyết liệt và hấp dẫn.
Nhưng người thứ ba đã làm cho họ phải ôm bụng cười bò ! Ứng viên này là một nhà sư áo vàng cao lêu nghêu, đầu đội mũ dẹp, chóp mũ viền những chùm tơ, trông như bờm lừa! Nhờ vậy, người ta mới biết vị Hoà Thượng ấy là một nhà sư Tây Tạng!
Ông ta tuổi độ bốn mươi, da đen sạm, mang đủ tướng Ngũ lộ, song không có nét gì thông thái trí tuệ, như đức Khổng Phu Tử và ngược lại, nghĩa là kẻ ngốc nghếch hiện ra lỗ lộ!
Nhưng chẳng ai nhẫn tâm cười cợt những người có dung mạo khờ khạo như thế. Quần hùng cười vì hành vi của vị khách phương xa.
Thay vì đường bệ nện gót trên những cầu thang gỗ mà thượng đài thì nhà sư Tây Tạng ấy lấy đà, tung mình nhẩy lên để khoe tài! Khổ thay, khi đáp xuống sàn gỗ, nhà sư lại ngã chỏng gọng, dơ bốn vó lên trời, trước cái cảnh vẽ Hổ thành Chó ấy ai mà chẳng tức cười?
Vị tạng tăng xui xẻo ấy gượng ngùng đứng dậy xoa mông, toét miệng cười hề hề và phân bua bằng tiếng Bắc Kinh ngượng nghịu nhưng giọng nói vang rền như chuông đống:
– A di đà Phật! Bình thường bần tăng chẳng bao giờ bị ngã cả! Song hôm nay, bần tăng quên mình là đang cõng cái của nợ nặng hai mươi cân trên vai nên bị nó làm cho mất thăng bằng.
Nói xong, ông ta tháo tay nải nơi vai trái xuống, đưa lên cao để chứng minh. Đương nhiên, quần hùng chẳng hề biết trong bọc hành lý bằng vuông vải màu đen ấy có cái gì và nặng hay nhẹ? Họ chỉ nhìn thấy bàn tay như nải chuối cùng với đoạn cẳng tay to khoẻ. Té ra nhà sư này có khung xương rất lớn nên dù người không béo mập mà dáng vóc vẫn lực lưỡng. Xương to là biểu hiện của một sức khoẻ bẩm sinh.
Quần hùng đang định đòi nhà sư thích khoe mẽ kia trương ra cái gọi là của nợ nhưng Đàm Vân Tử đã lên tiếng trước, ông tủm tỉm bảo:
– Phiền Đại sư báo danh tính, niên kỷ và sư thừa để bần đạo ghi chép.
Vị Tạng tăng lộ vẻ đắc ý, thay vì nói với Đàm Vân Tử thì lại quay xuống nhìn cử toạ:
– A di đà Phật ! Kính cáo toàn thể anh hùng hào kiệt Trung Nguyên, bần tăng chính là một thiền sư đạo hạnh cao thâm của chùa Bố Đà La Thành Lã Sa. Năm nay bần tăng vừa tròn tứ thập và xuất gia đã hơn bốn mươi năm.
Nghe đến đây, cử tọa không còn nhịn nổi, vừa cười vừa thét lên:
– Nói láo!…
Vị tạng tăng ngơ ngác hỏi lại:
– Bần tăng suốt đời không dám vong ngữ, sao chư vị thí chủ lại nói oan cho bần tăng như thế?
Một người ngồi ở hàng ghế đầu bực bội đứng lên mắng:
– Con bà nó! Hòa thượng ngươi bảo rằng mới tròn tứ thập thì sao lại có thể xuất gia đã hơn bốc chục năm?
Nhà sư Tây Tạng thản nhiên giải thích:
– Té ra chư vị thí chủ thắc mắc về điểm ấy! Bần tăng dám nói như thế vì gia phụ là hòa thượng còn gia mẫu là ni cô, họ lấy nhau mà sinh ra bần tăng. Do đó, ngay từ lúc còn là bào thai, bần tăng đã ở đong chùa rồi, có thể gọi là xuất gia từ trong bụng mẹ.
Quần hùng ôm bụng cười đến nôn ruột, chẳng khác gì Đại hội năm ngoái có gã dốt Triển Phi Hoan.
Đàm Vân Tử cố nín cười, tằng hắng rồi bảo:
– Phiền Đại sư báo ngay danh tính và pháp hiệu, đừng làm mất thì giờ của Đại hội nữa.
Như kẻ háo danh có cơ hội đứng trước đám đông, nhà sư Tây Tạng chẳng hề gấp gáp, tiếp tục dài dòng huênh hoang với cử tọa:
– Kính cáo chư vị thí chủ! Bần tăng tu hành từ trong bụng mẹ nên không có tục danh, chi có pháp danh là Thiện Đề đại sư. Nhưng là người võ nghệ cao cường nên bần đăng đã chọn cho mình một mĩ hiệu là “Thần Phủ Lang Quân!”.
Lập tức, mấy ngàn hào kiệt trẻ tuổi đùng đùng nổi giận, ngoác miệng chửi rủa Thiện Đề. Sau khi giết Hạo Thiên Cung chủ Lăng Song Tường và bị ám toán chết oan dưới vực sâu. Tư Đồ Sảng đã trở thành thần tượng của lớp thanh niên trong võ lâm. Họ ca ngợi chàng và vô cùng thương tiếc! Nay có kẻ đám xúc phạm đến Tư Đồ Sảng, bằng cách chiếm đoạt danh hiệu bảo sao mọi người không tức tối!
Thiên Đề sợ hãi và hoang mang. Chẳng hiệu vì sao, cứ trố đôi mắt lồi ra nhìn cứ tọa với vẻ ngạc nhiên tột độ?
Đàm Vân Tử vội ra hiệu cho quần hùng im tiếng rồi nghiêm nghị hỏi Thiện Đề:
– Bần đạo muốn biết vì sao đại sư lại chọn mĩ hiệu “Thần Phủ Lang Quân”?
Thiện Đề thản nhiên đáp:
– Bần tăng đùng búa làm vũ khí! Dứt lời, gã mở tay nải, lấy ra chiếc túi da hươu hình tròn, trong chứa một khối thép đen sì. Gã loay hoay một lúc thì khối thép hóa thành một cây búa hai lưỡi rồi dơ cao lên.
Đàm Vân Tử thảng thốt hỏi lớn:
– Vì sao đại sư lại có cây Giáng Ma Phủ này?
Quần hùng cũng nghe rõ nên rất kinh ngạc, lắng nghe nhà sư Tây Tạng giải thích. Thiện Đề dường như đã lấy lại sự tự tin, nói oang oang:
– Kính cáo chư vị thí chủ? Thanh Giáng Ma Thần Phủ này vốn là bảo vật của Bố Đà La Tự, bị một cao thủ người Hán là Trung Nguyên Nhất Kiếm Võ Hồng lấy trộm đã hơn trăm năm. Sau này, Thần Phủ thuộc về cháu ngoại năm đời của Võ Hồng là một vị thí chủ họ Tư Đồ! Trưởng lão Bổn tự, Trát Thập Thiền sư, nhờ Phật Tổ giáng mộng mà biết được việc ấy, vào Trung Thổ truy tìm và gặp được Tư Đồ thí chủ. Vị thí chủ nọ là người chính trực nên đã hoàn trả Thần Phủ cho bổn tự.
Trương Thiên Sư liền ngắt lời Thiện Đề:
– Bần đạo xác nhận là có chuyện đó ! Nhưng ngày ấy Trát Thập thiền sư bảo rằng Pháp bảo của nhà Phật phải được đem về gắn vào bàn tay của pho tượng Kim Cương, đặt cạnh cửa chính đại điện. Vậy, nay vì lẽ gì mà Đại sư mang vào Trung Nguyên làm vũ khí tùy thân?
Quần hào nghe xong càng bội phần cảm phục nhân cách của Tư Đồ Sảng. Trăm năm là quãng thời gian khá dài, đủ để chàng từ chối không hoàn trả bảo vật. Trong khi, Thần Phủ lại là vũ khí thành danh của chàng!
Thiên Đễ lộ vẻ bẽn lẽn, ấp a ấp úng:
– Bẩm lão Đạo trưởng! Bần tăng bị đuổi khỏi Bố Đà La Tự, chẳng biết đi đâu nên lần vào Trung Thổ. Bần tăng rất uất ức vì bị kết án oan nên lấy trộm thanh Giáng Ma Thần Phủ, đem giao lại cho Tư Đồ thí chủ để kiếm vài trăm lượng làm vốn mưu sinh! Nào ngờ, khi đến Lạc Dương thì nghe tin y đã từ trần, lòng vô cùng thương xót. Bần tăng liền nẩy ra ý định kế nghiệp Tư Đồ thí chủ mà giáng ma vệ đạo. Sẵn dịp có đại hội võ lâm này, bần tăng quyết lên làm Minh chủ để thanh danh của Thần Phủ Lang Quân được rạng rỡ.
Sắc diện của Thiện Đề rất thành thực khiến mọi người cảm động, không còn ghét gã nữa.
Đàm Vân Tử cười hỏi:
– Thế Đại sư đã phạm lỗi gì mà bị Bố Đà La Tự trục xuất vậy?
Thiện Đề bị hàm oan nên giờ đây tức tối biện bạch:
– Bẩm lão Đạo trưởng! Bần tăng làm phúc mà phải tội! Hôm rằm tháng ba, khách thập phương đến lễ chùa rất đông, xả rác bừa bãi. Bần tăng thấy thế liền mang chổi ra quét sân. Nào ngờ, có một nữ thí chủ đi ngang qua, vô ý vấp phải chổi mà ngã xuống, bần tăng sợ nạn nhân bể đầu, vì sàn chùa lát toàn đá núi, nên buông chổi đỡ lấy! Chỉ có thế mà các tăng lữ trong chùa kết tội bần tăng phạm sắc giới, thế có ức không chứ?
Đàm Vân Tử cau đôi mày bạc:
– Lạ thực ! Chẳng lẽ chư tăng ở quí tự lại hẹp hòi đến thế sao?
Ông chợt nhận ra vẻ lấm lét của đối phương, liền hỏi thêm:
– Đại sư hãy kể rõ xem đã đỡ người bị nạn như thế nào?
Thiện Đề khổ sở đưa hai tay đặt lên vú mình rồi ngượng ngùng biện bạch:
– Bần tăng chẳng hề cố ý nhưng không hiểu sao song chưởng lại chụp trúng phóc hai quả tuyết lê to tướng của vị nữ thí chủ ấy.
Nửa vạn người phá lên cười sặc sụa, không sao nín được. Cả những bậc trang nghiêm, đạo mạo cỡ phương trượng Thiếu Lâm Tự hay chưởng môn nhân phái Võ Đang cũng vậy.
Đàm Vân Tử ôm bụng thở hổn hển, vừa cười vừa nói đứt đoạn:
– Được rồi! Đại sư có… thể hạ …đài!
Thiện Đề xuống rồi, những thí sinh khác tiếp tục đăng ký. Đến giữa giờ Thìn thì Ban giám khảo đã chọn ra được ba mươi tám đối thủ đủ tư cách đạo đức chưa hề có tiếng xấu. Người thứ ba mươi tám chính là Tề Thanh Tuyệt, một kẻ vô danh tiểu tốt chưa hề được ai biết đến.
Hí Nhân Cư Sĩ, tức Tây Môn Giới vô cùng thất vọng khi nhận ra trong ba mươi tám ứng viên kia không ai có thể là lão áo xanh bịt mặt cả. Tuy nhiên, phải chờ đến lúc họ giao đấu thì mới có thể khẳng định được. Kẻ nào thi triển Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng sẽ chính là hung thủ! Sự xuất hiện bất ngờ của Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh có vẻ đáng nghi. Nhưng lão ta lại giỏi môn Lô Hoả Thần Chỉ, một loại công phu hoàn toàn trái ngược với Huyền Băng Chân Khí! Hơn nữa, người áo xanh đã từng bị lăng Song Tường và bốn vị Thiên Long vây đánh chí chết ở Đại Hồ Sơn!
Riêng Tư Đồ Sảng, tức Tề Thanh Tuyệt, nghĩ gì mà lại đăng ký thượng đài? Phải chăng chàng muốn trở thành Minh chủ võ lâm? Thực ra, nguyên nhân là Tư Đồ Sảng đã sinh lòng nghi ngờ Thiên Thư Tú Sĩ. Trước khi rơi xuống vực thẳm chàng đã đối diện với Thanh y nhân và suốt đời không quên được cặp mắt của lão ta!
Giờ đây, vóc dáng và cặp mắt của Lăng Quân Vĩnh cũng tương tự khiến chàng phải cảnh giác? Hơn nữa, chàng đã từng được nghe sư phụ là Ly Giang Tiên Ông nhận xét về Thiên Thư Tú Sĩ: “Gã họ Lăng này thông minh tuyệt thế, cơ trí thâm trầm như biển lớn, có thể trở thành bậc kỳ nhân, nhưng cũng có thể là một đại ác nhân! Sau này, nếu ngươi thấy y xuất đầu lộ diện thì phải tiểu tâm đề phòng!”
Tiên Ông một lòng vì sự thanh bình của võ lâm nên trước khi tọa hoá đã điểm mặt những tai họa tiềm ẩn cho học trò được rõ. Ông biết rằng khi mình vắng bóng thì tà ma sẽ nhất tề trỗi dậy.
Tư Đồ Sảng đăng ký xong bước xuống đất. Chàng nhận ra chiếc ghế dựa bên cạnh Huyết Báo không người ngồi liền thản nhiên an tọa! Mé bên kia họ Liễu chính là Mạc Chiêu Hương.Với danh phận là vợ góa của Thần Phủ Lang Quân, nàng được mọi người trọng vọng, dành cho một ghế danh dự. Huyết Báo là sư huynh kiêm vệ sĩ của nàng nên cũng chiếm một ghế. Còn vị trí mà Tư Đồ Sảng đang chễm chệ là của Hí Nhân Cư Sĩ. Lão được mời làm giám khảo nên ghế bỏ trống.
Liễu Mộ Hào đã mấy lần chạm mặt Tề Thanh Tuyệt trong Đăng Phong Đệ Nhất khách điếm nên cũng có thể gọi là quen. Có lẽ vì họ tề giống Tư Đồ Sảng nên huyết báo bất giác có cảm tình, mặc dù song phương chưa hề nói chuyện hoặc cười đùa với nhau. Tề Thanh Tuyệt mặt lạnh như tiền, chẳng bao giờ cười cả.
Hôm nay, thấy họ Tề ngồi bên cạnh mình, Huyết Báo lặng thinh, không lưu ý đến. Vả lại, trận đấu khai mạc đại hội đã bắt đầu. Cũng như năm ngoái, ban giám khảo đã cho hai đấu thủ sừng sỏ nhất đánh trận đầu. Đó là Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Quân Vĩnh và Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên.
Họ Lăng áo vàng, họ Giáp áo đen, đôi bên đều đẹp lão, râu ba chòm oai vệ, ra dáng quân sư. Quân Vĩnh dùng kiếm, Vô Yên sử dụng đao, hai loại vũ khí đứng đầu trong làng binh khí.
Lăng Quân Vĩnh sáu mươi lăm tuổi còn Giáp Vô Yên sáu mốt nên họ Giáp được quyền xuất thủ trước.
Quần hùng rất hồi hộp, không hiểu công phu Tán Kình Trảo Pháp ở tay tả Vô Yên có chống lại được Lô Hoả Thần Chỉ hay không? Năm ngoái, tuyệt học của Định Phương Chân Nhân đã gần như vô hiệu hóa được Ngưng Huyết Thần Băng Chưởng của Tần Cốc Lý. Và lần ấy, nếu không có vụ nổ hỏa dược thì họ Giáp đã trở thành Minh chủ rồi.
Nhưng hiện tại, Thiên Thư Tú Sĩ vẫn chưa thi thố thần chỉ mà dùng một pho kiếm pháp ảo diệu và lạ mắt để đối phó với Cửu Huyền Đao Pháp của Vô Yên.
Lạ mắt vì bảo kiếm của Lăng Tú Sĩ mạ vàng sáng như gương. Kiếm quang rực rỡ dưới nắng thu, chớp lên những vệt kiếm ảnh thon dài tựa lá liễu vậy.
Chỉ có Tư Đồ Sảng và các bậc cao niên mới biết đấy là pho Kim Liễu kiếm pháp của Diệp tiên sinh đất Giang Nam, thời Bắc Tống. Tuyệt học này đã thất truyền trước khi quân Mông Cổ chiếm được Khai Phong, vậy mà, không hiểu sao Lăng Quân Vĩnh lại học được. Hậu thế chẳng thể biết Kim Liễu kiếm pháp lợi hại đến dường nào, chỉ nghe truyền thuyết rằng thuở ấy Hoàng Diệp tiên sinh chưa hề gặp kiếm thủ xứng tay.
Giờ đây, khi xem Lăng Quân Vĩnh thi triển, mọi người mới hiểu cha ông nói chẳng hề sai. Kim Liễu kiếm pháp không chỉ đẹp mắt nhờ ánh hoàng kim chói lọi mà còn lợi hại phi thường.
Những chiếc lá liễu vàng óng như bị gió thu thổi bay vế phía Giáp Vô Yên, bao trùm cả thượng hạ tả hữu, chẳng chỗ nào không có! Chúng liên tục chạm vào màn đao quang xanh biêng biếc, tìm một chỗ sơ hở mà len qua!
Quần hùng ngây ngất chiêm ngưỡng, thứ kiếm sang cả mà diễm lệ ấy miệng trầm trồ tán thưởng. Bọn tiền bối cao niên, kiến văn uyên bác, càng bội phần thán phục Lăng Quân Vĩnh vì nhận ra rằng phép khoái kiếm của họ Lăng đã đến mức thượng thừa. Đường gươm của lão ta phải thật nhanh mới dệt nên được màn kiếm ảnh dầy đặc đến thế!
Nhưng ngược lại, người ta cũng phải tắc lưỡi khen dồi trước đao pháp thần sầu quỉ khốc của Giáp Vô Yên. Rõ ràng là họ Giáp đã đạt đến tinh túy của Cửu Huyền Đao Pháp, trình độ chẳng kém gì Nam Hải Tiên Ông.
Đường đao của lão ta trầm ổn, kín đáo và mãnh liệt như sóng dữ biển Nam. Giáp Vô Yên ung dung giải phá những chiêu kiếm diêm dúa của đối thủ, khiến muôn ngàn chiếc lá liễu rụng rơi như chạm phải bức tường thành kiên cố vậy!
Đao nặng nề và chỉ sắc một bề nên tư thế của người đánh đao uyển chuyển, hơn người cầm kiếm. Đao thủ thường phải uốn mình, dùng cả sức của vai và lưng thì lực đạo của đường đao mới xứng với lời khen tặng của TàoThực, con trai Tào Tháo thời Tam Quốc. Trong bài Ngọc Đao Phú. Tào Tử Kiến đã có câu tả uy lực của Đao như sau : “Trên bộ chém được voi, tê giác. Dưới nước chặt được cả thuyền rồng!”
Do đó, tư thế, dáng điệu của người đánh đao rất oai vệ, dũng mãnh, tấn công thì như rống thiêng múa vuốt, phòng thủ thì tựa mãnh hổ thu mình.
Việc Giáp Vô Yên tăng tiến về mặt đao pháp không làm cho Hội đồng võ lâm kinh ngạc bằng lớp cương khí xanh nhạt đang bao quanh cơ thể lão ta! Hiện tượng ấy chứng tỏ tu vi của họ Giáp còn cao hơn cả Nam Hải Tiên Ông.
Lần này, để phá kế thay mận đổi đào Ban giám khảo đã thực hiện thủ tục khám xét các ứng viên lâm trận. Về danh nghĩa thì là kiểm tra, xem họ có lén mặc bảo y, áo giáp hay không, song đồng thời tạo điều kiện để Tây Môn Giới, trong vai Hí Nhân Cư Sĩ, giáp mặt quan sát mà tìm dấu vết hóa trang! Tây Môn Giới là tổ sư trong nghề dịch dung, đã khẳng định rằng Giáp Vô Yên là thực.
Nhưng việc Nam Hải Tiên Ông đột ngột ẩn cư đã khiến Tây Môn Giới nghi ngờ, ông xuất thân Hắc Đạo nên hiểu rõ lòng dạ và thủ đoạn của kẻ ác. Ông suy nghĩ một lúc rồi nói nhỏ với sáu vị Chướng môn:
– Lão phu đoán rằng Nam Hải Tiên Ông tự lượng không địch lại người áo xanh bịt mặt nên đã hi sinh tính mạng, truyền cho Giáp Vô Yên vài chục năm công lực, chỉ có giả thuyết ấy mới giải thích được lý đo vì sao hiện nay họ Giáp sở hữu đến hơn hoa giáp tu vi.
Trương Thiên Sư nghi hoặc hỏi lại:
– Lẽ nào một kẻ tham lam danh vọng và quyền lợi như Ninh Hoàng Lạc lại dám hi sinh vì người khác như thế?
Tây Môn Giới mỉm cười:
– Lão phu đã điều tra ra một bí mật kinh người! Giáp Vô Yên là cháu gọi Ninh Hoàng Lạc là cậu ruột, nhưng Vô Yên còn là con của Nam Hải Tiên Ông. Thủ hạ lão phu tình cờ gặp được nhũ mẫu của Vô Yên mới biết rằng Ninh lão quỉ loạn luân với bào muội.
Sáu vị chưởng môn lắc đầu thở dài, ngao ngán cho luân thường đạo lý suy đồi.
Nhắc lại, Thiên Thư Tú Sĩ đã đem hết pho Kim Liễu Kiếm Pháp ra sử dụng mà không thắng nối Giáp Vô Yên nên bắt đầu thi triển Lô Hoả Thần Chỉ.
Từ trong đám kiếm ảnh hình lá liễu vàng vọt kia bỗng bắn ra một đạo chỉ phong xanh biếc tựa lửa lò rèn. Nghĩa là, Lăng Quân Vĩnh đã đạt đến cảnh giới Lô Hoả Thuần Thanh, chỉ kình từ đỏ chuyến thanh xanh, có thể làm mềm cả sắt.
Tuy đã cảnh giác đề phòng từ đầu trận mà Hải Hoa Bang Chủ vẫn thất cơ! Theo bản năng, Giáp Vô Yên dùng bàn tay tả thi thố Tán Kình Trào Pháp đế hoá giải đạo Lô Hoả Thần Chỉ của đối phương, che chở cho vùng ngực trái. Nào ngờ, bản lãnh họ Lăng cao thâm hơn cố Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường vài bậc nên luồng chỉ phong này như mũi dùi thép nóng bỏng, phá vỡ lực tán kình, xuyên thủng lòng bàn tay Vô Yên.
Cảm giác đau đớn khủng khiếp đã khiến Giáp Vô Yên choáng váng, khiếp sợ phải tung mình nhẩy về phía sau. Nhưng lão chẳng cam tâm nhận bại, quyết lợi dụng ưu thế vế vũ khí mà chiến đấu đến cùng. Pho Cửu Huyền Đao Pháp của lão có uy lực hơn hẳn Kim Liễu Kiếm Pháp của đối phương.
Lúc này, Thiên Thư Tú Sĩ đã bám theo và tấn công quyết liệt, kiếm quang sáng loè và chỉ kình bay ra liên tục.
Giáp Vô Yên không còn dám sử dụng đến bàn tay tả bị thương mà dùng bảo đao đón đỡ những luồng chỉ phong độc ác! Đồng thời, lão thực hiện chiến thuật du đấu, đảo lộn, di chuyển không ngừng để đối thủ không thể nhắm trúng mục tiêu. Kết hợp với chiến thuật ấy là những chiêu đao mãnh hệt như chẻ núi, sẵn lòng đổi mạng với kẻ địch.
Trong võ học dũng khí là yếu tố quan trọng hàng đầu. Do vậy, những người không sợ chết luôn có ưu thế. Giáp Vô Yên sở hữu hơn hoa giáp công lực trừ khi tim, não, hay các tử huyệt bị tổn thương, kỳ dư đều thừa sức lấy mạng Lăng Quân Vĩnh trong một đòn đồng ư qui tận! Cửu Huyền Đao có trọng lượng khá nặng nên vết thương do nó gây ra dễ khiến nạn nhân phải tử vong!
Ban giám đài và quần hùng rợn tóc gáy trước lối đánh cương mãnh và liều lĩnh của Hải Hoa Bang Chủ, tự hỏi vì sao Vô Yên lại xem trọng chức Minh chủ hơn cả sinh mạng như vậy?
Họ không biết rằng Tây Môn Giới đã đoán trúng? Nam Hải Tiên Ông có mẹ là người mông Cổ nên khi được móc nối đã nuôi ảo vọng trở thành Vương Hầu, cai quản các tỉnh Duyên Hải Đông Nam Trung Hoa, từ Chiết Giang đến Quảng Đông, theo như lời hứa của vua Mông.
Tiên Ông muốn con trai mình được hưởng cảnh vinh hoa phú qui ấy chứ phần mình thì đã quá già! Sau lần bị thương dưới tay Thanh y nhân ở Đại Hồ Sơn, Ninh lão đã quyết định hi sinh để thành toàn cho ái tử.
Chính vì tấm lòng cao cả của phụ thân mà Giáp Vô Yên thà chết chứ không chịu bỏ cuộc! Lão khôn khéo tránh né Lô Hoả Thần Chỉ và phản kích bằng những đường đao sấm sét. Mỗi lần như thế, thép chạm thép vang rền, Thiên Thư Tú Sĩ đã phải thoái bộ để tránh cảnh đổi mạng bất đắc dĩ.
Họ Lăng mới vừa khởi đầu sự nghiệp, chẳng dại gì mà chết chung với kẻ dưới cơ! Đấu pháp của Giáp Vô Yên rất tiêu hao sức lực nên sẽ chẳng kéo dài được lâu. Lúc ấy, Tú Sĩ kết liễu đối phương cũng không muộn!
Những bản thân Giáp Vô Yên cũng hiểu điều ấy nên đã “Tiên hạ thủ vi cường”, xuất chiêu Cửu Cửu Tận Dương gồm tám mươi mốt thức. Lăng Quân Vĩnh cử kiếm đón chiêu, lòng thầm mừng rỡ vì lúc này họ Giáp đã từng thi triển qua. Lão là người thông minh đĩnh ngộ, ký ức cường kiện phi thường, dù cho không thể ghi nhận hết các thức trong chiêu đao song cũng nhớ được rằng chiêu này có một thức lia ngay cổ họng!
Do đó, Thiên thư Tú Sĩ ung dung múa kiếm chống đỡ và chờ đợi cơ hội! Quả nhiên, Giáp Vô Yên đã hành động đúng như thế!
Lăng Quân Vĩnh không dùng kiếm gạt đi mà lập tức đảo bộ sang mé trái để né tránh và tả thủ xạ ngay một đạo Thần Chỉ vào sườn phải đối phương. Đòn này rất hiểm vì Vô Yên không thể dùng tay tả hay bản đao để hứng chịu. Lưỡi đao của họ Giáp đang ở vi trí nằm ngang và khá cao, không tài nào hạ xuống kịp. Biết trước thế thức của đối thủ là một lợi thế vô cùng quí giá!
Ngờ đâu, đấy chỉ là cái bẫy của Giáp Vô Yên. Đường đao vừa đi được một nửa thì lão thu đao và chân trái bước sang tả để tránh đạo chỉ phong.
Sau đó, Vô Yên rùn thấp, chân phải thả tấn dài về phía trước, rướn người đâm một nhát cực kỳ thần tốc vào bụng dưới đối thủ. Thiên Thư Tú Sĩ đang ở vị trí người gài bẫy bỗng trở thành kẻ sa bẫy, hốt hoảng phiêu thân né tránh.
Lão giữ được tính mạng song bẹ xương sườn trái bị đâm gãy hai nhánh chót.
Quần hùng thấy Giáp Vô Yên chuyển bại thành thắng thì vô cùng thán phục, hoan hô vang dội. Họ Giáp cũng rất phấn khởi, bám theo tấn công tới tấp không để đối thủ có thời gian điểm huyệt chỉ huyết.
Giáp Vô Yên khổ luyện đao pháp đã năm mươi năm, lại được sự hướng dẫn tận tình của sư phụ kiêm thân phụ nên trở thành một trong những đao thủ số một thiên hạ!
Ngược lại, Thiên Thư Tú Sĩ học kiếm pháp theo bí kíp, không thầy chỉ dẫn nên thành tựu có phần hạn chế! Thanh Kim kiếm của lão ta hoàn toàn bị hạ phong trước Cửu Huyền Đao.
Bị lão già lìeu mạng kia đẩy lùi mãi, Lăng Quân Vĩnh điên tiết gỉơ đến tuyệt học thủ thân. Thiên Thư Tú Sĩ xạ một đạo Chỉ phong cực kỳ hiểm ác khiến Giáp Vô Yên phải nhảy chếch sang bên tả để tránh đòn! Lăng Quân Vĩnh thừa cơ hội này đề khí tung mình lên cao hai trượng rồi sa xuống đầu họ Giáp! Hành động này có thể gọi là bất trí vì họ Lăng sẽ không còn điểm tựa như trên mặt đất để xoay chuyển. Và lão sẽ không tránh được việc đối đầu trực diện với đường đao sấm sét của đối phương, đưa đến cảnh lưỡng lưỡng bại câu thương!
Nhưng không ngờ, Lăng Quân Vĩnh lại nhắm người họ Giáp mà phóng bỏ trường kiếm rồi múa tít song thủ giáng liền năm đạo chưởng kình xanh biếc.
Giáp Vô Yên bị lưới chưởng vây chặt, chẳng còn phương đào tẩu, đành múa đao che chở đầu và thân trên!
Màn đao lệnh mãnh liệt do lão tạo ra đã chịu đựng được ba đạo chưởng phong của họ Lăng nhưng đường đao bị lệch đi nên trúng hai chưởng cuối cùng. Một chưởng đánh gẫy chân phải và chưởng kia đập vỡ xương bả vai bên trái của Vô Yên!
Không chỉ có thế, y phục nạn nhân bốc cháy ngùn ngụt và da thịt cũng đau đớn khôn cùng bởi sức nóng khủng khiếp của Lô Hoả Thần Chưởng!
Giáp Vô Yên thức ngộ rằng mình sẽ chết nếu không mau nhận bại hoặc rời khỏi lôi đài. Nhưng Lăng Quân Vĩnh muốn diệt từ hậu họa nên đã bồi thêm hai chưởng khi vừa hạ thân xuống sàn gỗ!
Trúng đòn vào ngực và bụng, Giáp Vô Yên văng đi, máu phun thành vòi lăn lông lốc trên sàn lôi đài và bốc cháy! Lão lăn lộn, rên siết một lúc rồi đoạn khí!
Cái chết thê thảm của Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên đã khiến toàn trường kinh hãi và sinh lòng khiếp sợ Thiên Thư Tú Sĩ !
Hội đống võ lâm nhìn nhau thở dài rầu rĩ, lo cho chính khí giang hố? Trong lúc các đạo sĩ Võ Đang và tăng lữ Thiếu Lâm lo việc chữa lửa, nhặt xác và tẩy uế lôi đài, Đàm Vân Tử lạnh lùng tuyên bố Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Quân Vĩnh là người chiến thắng?
Họ Lăng nhặt bảo kiếm, thi lễ với Ban giám đài và cử tọa rồi đi xuống!
Lão biết mình đã thất nhân tâm khi đánh thêm hai chưởng để giết Giáp Vô Yên. Nhưng Lăng Quân Vĩnh cho rằng việc ấy không quan trọng, sau này có thể sửa chữa được! Khi lão đã trở thành Minh chủ võ lâm thì sẽ chẳng còn ai dám hó hé bình phẩm hoặc nhắc lại chuyện cũ nữa! Thiên Thư Tú Sĩ xem Giáp Vô Yên là kình địch số một trong đời nên không thể để lão ta sống sót.
Đã gần giữa giờ Tỵ, Ban giám đài tuyên bố nghỉ trưa, giữa giờ Mùi sẽ đến trận thứ hai!
Quần hùng uể oải hạ sơn để dùng cơm trong những quán lá dưới chân núi, một số chủ quán là kẻ đã từng dựng lều ở Đại Hồ Sơn hồi giữa tháng năm. Đại hội võ lâm lần này chính là cơ hội béo bở để họ hốt bạc. Tuy nhiên, đây là đất Phật nên các nàng kỹ nữ chẳng dám đến hành nghề.
Thực ra, có gần nửa số hào khách lấy ngựa đi thẳng đến thành Đăng Phong, cách đấy vài dặm, để được ngon miệng!
Tư Đồ Sảng đang rối trí nên không để ý đến việc cơm canh ngon hay dở. Chàng vào ngay một quán cơm chay, gọi một mâm lớn. Đồ chay thường thiếu năng lượng nên chàng phải ăn thật nhiều mới có sức mà chiến đấu! Chàng đang đóng vai một người theo Ma Giáo nên không thể ăn mặn được.
Tư Đồ Sảng rất phân vân trước thân phận của Lăng Quân Vĩnh. Chàng chẳng thể khẳng định lão ta có phải là Thanh Y nhân hay không? Thiên Thư Tú Sĩ tinh thông Lô Hoả Thần Chỉ, một công phu đối kháng với Huyền Băng Chưởng Pháp, và trong lịch sử võ lâm chưa hề có ai kiêm luyện một lúc cả hai tâm pháp âm Dương tương phản cả! Chàng càng thêm bối rối khi họ Lăng đem Lô Hoả chân khí phổ vào chưởng pháp, một việc cổ kim chưa hề nhắc đến! Xem ra, Thiên Thư Tú Sĩ đáng được tôn xưng là bậc kỳ nhân đương đại!
Nhưng việc Lăng Quân Vĩnh cố tình sát hại Hải Hoa Bang Chủ biểu lộ một tâm địa tàn nhẫn, gian ác phi thường! Lão ta đã thực hiện rất đúng phương châm “Trảm thảo trừ căn”! Và một kẻ như thế sẽ là đại họa cho võ lâm khi lên ngôi Minh chủ.
Nhớ lời căn dặn của ân sư, Tư Đồ Sảng quyết định ngăn chặn mưu đồ tranh danh đoạt lợi của Thiên Thư Tú Sĩ. Nhưng khi nghĩ đến việc vợ con của Tú Sĩ đều chết bởi tay mình, Tư Đỗ Sảng lại do dự. Trong giao đấu, nhân từ với kẻ địch là tự giết mình, mà chàng thì chưa muốn chết. Bởi vậy, khi thượng đài, chàng có thể vì bản lăng sinh tồn mà hạ sát họ Lăng! Làm như thế quả là nhẫn tâm! Tư Đỗ Sảng buồn bã thở dài, chẳng biết tính sao, tự nhủ rằng cứ ăn cho no cái đã rồi hạ hồi phân giải.
Chợt Tư Đố Sảng nhận ra nhà sư Tây Tạng Thiện Đề đang thận trọng cúi đầu bước vào quán. Ông ta còn cao hơn chàng nửa gang nên đầu có thể va vào thanh ngang phía trên của khung cửa gỗ tạm bợ.
Nhà sư chất phác, ngây ngô ấy không vội ngồi dù vẫn còn bàn trống. Ông đảo mắt nhìn khắp lượt thực khách như để tìm người quen. Khi nhìn thấy Tư ĐồSảng Thiện Đề lộ sắc mừng, rảo bước đến chắp tay lên ngực và nói:
– A di đà Phật! Chẳng hay lão thí chủ có thể bố thí cho bần tăng một bữa cơm chăng? Thú thực là giờ đây trong người bần tăng không có đến một hào!
Tư Đồ Sảng đặc biệt có cảm tình với những người mộc mạc, lão thực nên vui vẻ chìa tay:
– Thỉnh Đại Sư an tọa! Lão phu hoan hỉ được cúng dường bậc cao tăng! Đại sư cứ việc tùy tiện dừng bữa!
Thiện Đế mừng rỡ ngồi xuống ngay, toét miệng cười để lộ hàm răng ngựa ố vàng:
– Gia sư thật chí lý! Người đã dạy bần tăng rằng những người có sống mũi Thông Thiên Đình giống như cố thí chủ Tư Đồ Sảng, đều nhân hậu và rộng lượng! Vì thế nên bần tăng mới chọn lão thí chủ đây mà quyên giáo?
Tư Đồ Sảng hiếu kỳ hỏi:
– Chẳng hay lệnh sư là bậc cao tăng nào của Bố Đà La Tự vậy?
Thiện Đề thực thà đáp:
– Gia sư chính thị Đại Trưởng lão Trát Thập Thiền Sư! Người rất yêu mến bản tính chính thực và nhân hậu của vị thí chủ họ Tư Đồ kia nên cứ nhắc đến mãi! Toàn thể tăng lữ bổn tự khi nghe gia sư kể lại chuyện người giả bệnh để thử lòng Tư Đồ Sảng thì đều sinh lòng kính phục!
Thiện Đề bỗng lộ sắc buồn:
– Thâm ý của bần tăng khi vào Trung Thổ là muốn nhờ Tư Đồ thí chủ dùng uy tín của minh mà xin cho bần tăng được trở lại chùa! Nào ngờ vị thí chủ ấy vắn số khiến bần tăng không còn dám quay về Tây Tạng nữa!
Tư Đố Sảng nhìn dáng vẻ thất vọng của Thiện Đề mà bất nhẫn! Ông ta đã lặn lội suốt nửa năm ròng để đi tìm chàng, chắc là bữa đói bữa no, mưa nắng dãi dầu biết bao cơ cực! Chàng liến an ủi:
– Đại sư hãy an lòng! Lão phu vốn có giao tình mật thiết với Thổ Ty Tây Tạng, thừa sức đưa Đại sư quay lại Bố Đà La Tự!
Dù chàng chỉ nói suông như thế mà Thiện Đề vẫn ngây thơ tin tưởng, chắp tay vái dài:
– Thiện tai! Thiện tai! Nếu được vậy thì bần tăng nguyện suốt đời cầu khấn Phật Tổ hộ trì cho lão thí chủ!
Lúc này, tiểu nhị đã mang thêm chén đũa và thức ăn. Thiện Đề khoan khoái động đũa, chén như rồng cuốn nước biển Đông! Tư Đồ Sảng thấy thế liến gọi thêm cơm canh thật dồi dào và cùng nhà sư chết đói kia thi tài phạn lượng! Tư Đồ Sảng phục lăn khi thấy đối phương ăn một hơi mười chén cơm và vét sạch tám đĩa đậu hũ, mì căn, rau luộc!
Xong bữa, hai người ngồi uống trà và trò chuyện! Tư Đồ Sảng cười hỏi:
– Sau khi chứng kiến bản lãnh võ công của Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh Đại sư còn giữ ý định thượng đài nữa không?
Thiện Đế rùng mình đáp:
– Bần tăng thấy lão ta thiêu chết Giáp thí chủ thì sợ đến nổi da gà, tất nhiên chẳng dại gì mà thượng đài! Bần tăng không thể hiểu vì sao Lăng Cung chủ đã thắng trận mà còn phải giết đối thủ làm gì?
Tư Đồ Sảng chua chát bảo:
– Kiếp giang hồ vốn mang bản chất bất nhân, xem cái chết của kẻ địch là phương cách để mình được sống sót. Giả như có người muốn giết Đại sư để cướp Giáng Ma Phủ thì Đại sư sẽ xử sự như thế nào?
Thiện Đề thản nhiên đáp:
– Bần tăng sẽ bỏ chạy! Nhưng nếu chạy khống thoát thì bần tặng sẽ chống trả, lỡ có giết chết ai cũng chẳng sao vì cái tâm của bần tăng vốn chẳng tồn tại sát niệm! Và đã vô niệm thì không tạo nghiệp, không gánh chịu nhân quả!
Tư Đồ Sảng bàng hoàng như người vừa tỉnh cơn mê. Chàng chắp tay vái Thiện Đề và nói:
– Cảm tạ bậc cao tăng đã chỉ điểm cho lão phu thoát khỏi bến mê!
Thiện Đễ cười hì hì:
– Lão thí chủ đừng làm bần tăng xấu hổ! Bần tăng nghe gia sư nói sao thì lập lại đúng như vậy thôi!
Và ông ta hào hứng kể lể:
– Gia sư tuổi đã chẵn trăm, tinh thông Thiền học và còn giỏi Thiên văn địa lý. Người từng chiêm nghiệm thiên tượng hướng Đông và bảo rằng khí sắc Trung Nguyên rất u ám, Âm Dương hỗn độn, tất sẽ có Quỷ Vương xuất thế, khuynh đảo võ lâm và xã tắc!
Tư Đồ Sảng giật mình gạn hỏi:
– Lệnh sư có dạy thế nào là Âm Dương hỗn độn không?
Thiện Đề gật đầu:
– Bần tăng cũng thắc mắc câu ấy nên gia sư giải thích rằng: “Tốt xấu, lửa nước, nóng lạnh ở chung với nhau mà không tương khắc, thì gọi là Âm Dương hỗn độn!”.
Và đột nhiên nhà sư Tây Tạng rùng mình nói với giọng sợ hãi:
– A di đà phật! Chằng hiểu sao khi bần tăng nhìn thấy cảnh Thiên Thư Tú Sĩ giết người là nghĩ ngay lão ta là Quỷ Vương mà gia sư đã nói đến!
Tư Đỗ Sảng linh cảm rằng Thiện Đế nói có lý! Phải chăng Lăng Quân Vĩnh thông tuệ tuyệt luân, đã tìm ra bí quyết Âm Dương tương sinh nên mới có được hoa giáp rưỡi tu vi dù tuổi chi mới ngoài sáu chục.
Thấy thực khách lục tục đứng lên rời quán cơm, Tư Đồ Sảng cũng gọi tiểu nhị tính tiền rồi lên núi. Thiện Đề ngoan ngoãn đi theo chàng, mặt hớn hở vì no bụng và niềm tin tương lai!
Đến nơi, chàng cố tình bước thẳng lên hàng ghế đầu, thấy cạnh Mạc Chiêu Hương còn hai ghế trống mé hữu liền kéo Thiện Đề cùng ngồi xuống. Liễu Mộ Hào thì đang ớ bên tả nàng!
Từ ngày nghe tin trượng phu rơi xuống vực thẳm Đại Hồ Sơn. Lúc nào Chiêu Hương cũng mặc mầu trắng tang ma, không trâm cài lược giắt, không điểm phấn trang hồng, mặt hoa hốc hác và buồn rười rượi. Lúc ra ngoài nàng còn dùng sa trắng che ngang mặt như muốn giữ gìn đung nhan ấy cho riêng chỉ một người. Nàng đã quyết tự sát ngay sau khi báo xong thù chồng!
Chiều nay, khi Tề Thanh Tuyệt ngồi xuống bên cạnh, Chiêu Hương không cảm thấy khó chịu vì lão đã quá già, đáng tuổi cha chú! Nhưng một lúc sau, nàng phát hiện từ cơ thể Tề Thanh Tuyệt tỏa ra một hương thơm dìu dịu rất quen thuộc!
Trái tim rạn nứt của Chiêu Hương sợ hãi đập nhanh vì liên tưởng đến những giấc mộng đẹp đẽ trong ba đêm vừa qua!
Nàng mơ thấy trượng phu ngồi trong một gian phòng nhỏ mà đợi chờ. Và dang rộng vòng tay khi nàng đến. Nàng nhớ rằng mình đã muốn khóc thật nhiều nhưng chẳng thành lời!
Tư Đồ Sảng bịt miệng nàng và bảo:
– Ta vẫn còn sống tại sao nương tử lại khóc?
Rồi chàng lặng lẽ đưa nàng vào giấc vu sơn, chẳng nói thêm một lời nào nữa! Tư Đồ Sảng vẫn dũng mãnh và dịu dàng như xưa. Thân thể ấm áp, nồng nàn, khiến Chiêu Hương tin là thực, hân hoan đón nhận những hạnh phúc ngút ngàn để bù đắp cho chuỗi ngày dài khao khát, nhớ nhung!
Sáng ra, khi tỉnh giấc, Chiêu Hương còn nghe nhột nhạt nơi đầu vú, chẳng hiểu chuyện đêm qua là mộng hay thực! Nhưng rồi hai đêm mười ba, mười bốn kế tiếp nàng đều có cùng giấc mơ ấy, lòng càng bội phần hoang mang! Giờ đây cái duy nhất còn lại trong tâm trí nàng là một mùi hương là lạ, không giống mùi nước hoa của nữ nhân, và việc khám phá ra mùi hương ấy ở lão già họ Tề đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi! Phải chăng lão ta là người của Ma giáo nên giỏi tà pháp, đã dùng yêu thuật để chiếm đoạt nàng?
Chiêu Hương len lén liếc nhìn đối phương, bắt gặp nét mặt trung hậu, cương nghị và ánh mắt trong sáng, giống hệt chồng mình! Nàng tự nhủ rằng dung mạo ấy chẳng bao giờ thuộc về kẻ ác! Và Chiều Hương đành phải kết luận rằng vong linh trượng phu đã hiện về, cũng như khi đã từng báo mộng cho Tây Môn nghĩa phụ!
Lúc này đã là giữa giờ Mùi, Ban giám khảo an tọa đủ mặt sau chiếc bàn dài và Đàm Vân Tử bước ra. Ông tằng hắng, nói:
– “Kính cáo đồng đạo! Trong giờ nghỉ trưa đã có hai mươi hai thí sinh xin rút tên khỏi danh sách ứng cử. Việc này đã khiến Ban giám khảo phải họp lại để bàn bạc và nhất trí rằng Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh là người duy nhất đủ khả năng trừng trị lão áo xanh bịt mặt, hung thủ đã sát hại nguyên Minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán và Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng! Do đó, đại hội chiều nay sẽ thay đổi phương thức tranh tài để tiết kiệm thời gian! Nghĩa là Cung chủ Hạo Thiên Cung sẽ làm thủ đài, thắng thêm ba trận nữa thì sẽ trở thành Minh chủ võ lâm! Bần đạo tha thiết nhắc nhở chư vị hãy tự lượng sức mình, đừng vì chút hư đanh mà uổng mạng, tổn hại đến đức hiếu sinh của trời đất!”.
Trong lúc quần hùng xôn xao bàn luận kẻ thất vọng, người tán thành, thì Thiên Thư Tú Sĩ đường bệ bước lên lôi đài mặt tươi tắn, thái độ khiêm tốn song ánh mắt đầy vẻ tự tin! Lăng Quân Vĩnh thi lễ với Ban giám đài và quần hùng rồi đứng sangn một bên chờ đợi!
Nửa khắc sau vẫn chưa thấy ai thượng đài, bọn đệ tử Hạo Thiên Cung hoan hỉ hô vang:
– Lăng Minh chủ ! Lăng Minh chủ!
Nhưng bất ngờ, lẫn trong tiếng cổ vũ ồn ào ấy có một giọng nữ nhân cao vút:
– Ngụy quân tử! Ngụy quân tử!
Câu thứ hai tắc nghẽn nửa vời vì đường như bà ta bị ai đó bịt miệng lại!
Tư Đồ Sảng chấn động tâm thần, suy nghĩ rất nhanh:
– Hay là Can gia và các chưởng môn đã nhìn lầm người? Nếu Lăng Quân Vĩnh đúng là Thanh y nhân thì võ lâm nguy mất! Ta mà lưỡng lự không hành động thì sau này sẽ hối hận suốt đời!
Nghĩ thế nên chàng quay sang bảo Chiêu Hương:
– Ta sẽ thượng đài, phiền nàng búi tóc lên giùm! Và chàng nở nụ cười hoà ái, thân thiết, khiến cho Chiêu Hương choáng váng ! Nàng rơi vào trạng thái mơ hồ, máy móc đứng lên làm theo yêu cầu của lão già cổ quái!
Tư Đồ Sảng xoay người ngồi nghiêng sang phía Thiện Đề để ái thê tiện thao tác. Chiêu Hương đã hành động y như ngày trước, vuốt cho mái tóc bạc như mây kia gọn lại và dùng mảnh khăn tay trắng của mình cột thắt lại nơi vùng xoáy. Tư Đồ Sảng thích như thế hơn là quấn tóc thành một búi giữa đỉnh đầu!
Trong lúc ấy, Thiện Đề sợ hãi hỏi:
– Tề lão thí chủ có chắc thắng nổi Thiên Thư Tú Sĩ hay không mà lại thượng đài?
Tư Đố Sảng lắc đầu:
– Lão phu không chắc thắng nhưng cũng chẳng thể chết được! Đại sư cứ yên tâm! Nếu không địch lại, lão phu sẽ bỏ chạy!
Thấy Chiêu Hương đã cột xong tóc cho mình, Tư Đồ Sảng đứng lên, kéo Thiện Đề theo và dặn nhỏ:
– Đại sư hãy giữ giùm tay nải cho lão phu! Trong ấy có nằm trăm lượng vàng ngân phiếu, đủ lộ phí để Đại sư quay lại Tây Tạng! Nếu lão phu chẳng may bỏ mạng, Đại sư hãy giữ lấy thanh bảo kiếm, mang về Bố Đà La Tự, tất sẽ được thu nạp lại!
Thiện Đề chẳng hiểu gì cả, chỉ biết nhận lấy túi hành lý nhỏ, ngơ ngác nhìn theo dáng vóc oai vệ của Tề Thanh Tuyệt!
Quần hùng cũng rất kinh ngạc khi thấy có người không sợ chết, dám thượng đài so tài với Đại sát tinh!
Đàm Vân Tử có trí nhớ tốt, nhận ra thí sinh thứ ba mươi tám, danh tính là Tề Thanh Tuyệt. Ông cau mày hỏi:
– Tề thí chủ đã suy nghĩ kỹ chưa?
Tư Đồ Sảng gật đầu, vòng tay thi lễ với Ban giám đài và cử tọa rồi nghiêm nghị bảo Thiên Thư Tú Sĩ:
– Lão phu tự lượng không địch lại tà công Lô Hoả của tôn giá. Nhưng về kiếm thuật thì lão phu đảm bảo rằng trong vòng nửa khắc sẽ khiến tôn giá phải đổ máu!
Lời tuyên bố chắc nịch này đã khiến quần hùng phấn khích, ồn ào hẳn lên.Đại đa số đồng tình với,Tề Thanh Tuyệt, cho rằng thủ thắng bằng loại tà công ác độc thì chẳng có gì là hay ho cả! Kiếm thuật mới đích thực là võ học chân chính. Họ liền lên tiếng đốc thúc Cung chủ Hạo Thiên Cung nhận lời tỷ kiếm!
Nhưng Lăng Quân Vĩnh gian hùng cai thế, xảo quyệt có thừa, đâu dại gì mà bỏ sở trường để vuột mất ngôi Minh chủ. Lão điềm nhiên đáp:
– Võ công vốn không có chính tà, tù theo cái cách sử dụng của người võ sĩ mà thành thiện ác ! Lão phu rất tiếc không thể chiề ý tôn giá!
Tư Đồ Sảng càng ngán sợ tâm cơ của Thiên Thư Tú Sĩ, cố gài cho đối phương sa bẫy bằng lời khích tướng:
– Tôn giá sở hữu đến hơn hoa giáp công lực, lại được chân truyền pho Kim Liễu Kiếm Pháp, sao lại sợ một kiếm thủ vô danh như lão phu?
Quần hùng đồng thanh tán thành:
– Đúng vậy!
Tư Đồ Sảng hờ hững nói tiếp:
– Lão phu thượng đài vì muốn chứng minh rằng mình là Đệ nhất kiếm thủ, chứ chẳng phải vì ngôi Minh chủ. Nếu lão phu thắng thì ngôi vị ấy sẽ bỏ trống đến tiết Trùng Cửu sang năm để hào kiệt võ lâm lại có dịp tranh tài. Lúc ấy tôn giá lên làm Minh chủ cũng không muộn !
Quần hùng và Ban giám đài vô cùng sửng sốt, không hiểu mục đích chân thực của Tề Thanh Tuyệt là gì? Dường như lão ta không chỉ muốn ngăn không cho Thiên Thư Tú Sĩ trở thành minh chủ mà thôi!
Tây Môn Giới có cảm giác rằng phong thái xả thân vô vụ lợi, cũng như thủ đoạn khích tướng non nớt của Tề Thanh Tuyệt rất giống Tư Đồ Sảng. Và phải chăng họ Tề biết một điều gì về bản chất thực của Lăng Quân Vĩnh?
Tây Môn Giới bỗng chột dạ sợ rằng mình đã tính sai khi muốn Thiên Thư Tú Sĩ trở thành Minh chủ và thách đấu với Thanh Y nhân, để lão có cơ hội mai phục, trả thù cho nghĩa tử! Nếu Lăng Quân Vĩnh là kẻ đại ác thì sao? Lão linh cảm rằng mình nên ủng hộ Tề Thanh Tuyệt, gác thù riêng lại một năm để điều tra nhân cách của Thiên Thư Tú Sĩ!
Đã có chủ ý như thế nên Tây Môn Giới lên tiếng:
– Lão phu cho rằng Lăng Cung chủ nên nhận lời tỷ kiếm kẻo sau này bị đồng đạo võ lâm chê cười rằng thiếu dũng khí, khó mà đảm đương được cương vị Minh chủ! Tôn giá đeo kiếm mà không dám so tài kiếm thuật thì chẳng nực cười lắm sao?
Hí Nhân Cư Sĩ được quần hùng yêu mến nên cử tọa nhất tề tán dương, có người còn thét lớn mỉa mai:
– Nhát như thỏ đế mà cũng đòi làm Minh chủ? Thật là nhục nhã cho Tông môn nhà họ Lăng!
Chúng khẩu đồng từ thì sư ông cũng chết! Lăng Quân Vĩnh là người cao ngạo, không chịu nổi những lời nhục mạ ấy nhưng vẫn sáng suốt tính toán và tìm ra lượng sách.
Lão cố nặn ra một nụ cười rồi hòa nhã nói:
– Chư vị đồng đạo đã muốn xem tỷ kiếm thì lão phu cũng xin chiều ý! Nhưng trộm nghĩ rằng nửa khắc quá ngắn để lão phu cống hiến hết cái hay của Kim Liễu Kiếm Pháp! Vì vậy, lão phu đề nghị tăng lên gấp bốn! Nghĩa là, sau nửa canh giờ, đấu thủ còn đứng vững trên lôi đài thì xem như thắng!
Quần hùng hoan hô tán thành, cho rằng như thế mới bõ công họ lặn lội ngàn dặm đến đây!
Riêng các bậc thức giả lão thành thì hiểu rõ thâm ý của Thiên Thư Tú Sĩ. Lão ta ỷ vào công lực thâm hậu, kéo dài trận đấu đến lúc đối phương kiệt sức mới hạ thủ. Nhưng Tề Thanh Tuyệt đã gật đầu đồng ý ngay, bước ra đứng ở mé lôi đài hướng Đông mà chờ đợi! Cây hương thời gian mới được thắp lên và Đàm Vân Tử cao giọng tuyên bố:
– Mời nhị vị thí chủ vào trận! Tề thí chủ kém hai tuổi được quyền xuất thủ trước!
Tư Đồ Sảng, tức Tề Thanh Tuyệt rút thanh kiếm có lưỡi đen sì bên hông ra dựng trước mặt, tay tả bất kiếm ấn, sắc mặt an hòa thư thái, ánh mắt nhân từ chẳng hề có chút sát khí nào cả! Và chàng lướt đến tấn công họ Lăng bằng một chiêu kiếm rất nhẹ nhàng!
Thiên Thư Tú Sĩ cũng giữ phong độ tôn sư, điềm đạm giải phá, thủ nhiều hơn công. Về nguyên tắc, Lăng Quân Vĩnh chỉ cần thủ hòa và giữ cho thân thể toàn vẹn là xem như thắng cuộc? Do vậy trước khi bị rách áo, lão chẳng cần phải vội!
Tư Đồ Sảng thì khác, chàng ước lượng Kim Ngư đã đem lại cho mình độ hai mươi năm công lực, tổng cộng chưa đầy Hoa Giáp và vẫn còn kém xa đối phương. Do vậy, khi cuộc chiến kéo dài chàng sẽ không chi trì nổi. Bản lãnh của Tú Sĩ vốn cao siêu hơn Lăng Song Tường vài bậc! Hiện nay, Tư Đồ Sảng đã có năm thành hoả hầu của công phu Khô Mộc Tâm Pháp, có thể liều mạng chịu đựng chưởng Lô Hoả mà giết họ Lăng. Nhưng chàng chưa muốn chết và cũng không muốn lấy mạng Thiên Thư Tú Sĩ. Bởi thế chàng mới cố ép Quân Vĩnh so ueul, để có thể nhẹ nhàng đả bại lão mà chẳng cần phải nặng tay!
Giờ đây Tư Đồ Sảng đã giảm được số thế thức trong chiêu “Thượng Thiên Nhược Thủy” xuống còn hơn trăm, tiến một bước dài trên kiếm đạo. Đạt cảnh giới vô chiêu nên chàng không sợ người thân nhận ra sở học, nhất là khi chàng đã nhuộm đen thanh Từ Tâm Kiếm! Còn về thân pháp thì cũng thế, Tư Đồ Sảng hoán vị, di chuyển nhanh đến mức chẳng ai có thể nhìn được lộ số của bộ pháp!
Tư Đồ Sảng tự nhủ rằng cách chiến thắng không đổ máu sẽ tốt hơn và chàng quyết định dồn cho đối phương phải rời lôi đài.
Chàng liền thi triển phép khoái kiếm đến độ chót tấn công tựa bão táp mưa sa, mũi gươm uy hiếp toàn những tử huyệt để Lăng Quân Vĩnh sợ hãi mà thoái bộ!
Thiên Thư Tú Sĩ bị luồng kiếm quang đen mờ, hắc ám kia bủa vây và hơi thép lạnh làm rợn cả da thịt thì lòng vô cùng kinh hãi. Lão không ngờ đường kiếm của Tề Thanh Tuyệt lại nhanh hơn mình và biến hóa tuyệt luân.
Thiên Thư Tú Sĩ cắn răng chống trả bằng những chiêu kỳ tuyệt nhất trong pho Kim Liễu Kiếm Pháp. Tiếc thay, những chiếc lá liễu vàng óng, quí phái đã tan tác trước đám mây kiếm ảnh đen đủi.
Đường gươm của Tề Thanh Tuyệt ảo diệu phi thường, dễ dàng hóa giải những chiêu thức của pho Kim Liễu Kiếm Pháp. Trong chớp mắt, mũi gươm đen sì kia có thể điểm liền ba thức, thọc qua chỗ sơ hở mà tìm đến các yếu huyệt trên thân trước họ Lăng.
Những lúc ấy, Thiên Thư Tú Sĩ chẳng còn cách nào khác là phải lùi lại để tránh đòn. Sáu hơn nửa khắc lão chỉ còn cách mép lôi đài nửa trượng.
Quần hùng ngây ngất trước nghề đánh kiếm vô song của Tề Thanh Tuyệt, hoan hô như sấm dậy!
Ban giám đài cũng sững người vì kinh ngạc, không ngờ họ Tề lại có bản lãnh kiếm thuật cao siêu hơn cả Tư Đồ Sảng, kẻ được xem là Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Thủ!
Tiếng reo hò ca ngợi Tề Thanh Tuyệt đã làm cho Thiên Thư Tú Sĩ giận đến điên người. Lão tức tối vì đã sa bẫy của họ Tề, sắp sửa vuột mất ngôi Minh chủ!
Lăng Quân Vĩnh chẳng cam tâm chịu thất bại, liền sử dụng chiến thuật của Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên!
Họ Lăng dồn hết chân lực vào tay hữu, đánh một chiêu toàn những thức công, lộ rất nhiều sơ hở. Những đường gươm của lão mãnh liệt tựa những nhát búa của lôi thần, có thể đánh văng vũ khí của đối phương, hoặc chẻ dọc thân xác Tề Thanh Tuyệt chỉ bằng một nhát!
Tư Đồ Sảng không dám đổi mạng với kẻ chẳng oán thù nên đành phải tháo lui, tay xiết chặt chuôi gươm mà đối phó!
Thiên Thư Tú Sĩ tưởng họ Tề sợ chết, mừng rỡ tấn công quyết liệt bằng những chiêu cương mãnh và liều lĩnh, liên tiếp đẩy lùi đối thủ. Cuối cùng, đến lượt Tề Thanh Tuyệt sắp rơi đài!
Bọn đệ tử Hạo Thiên Cung hân hoan rống lên, cổ vũ cho thượng cấp, còn những người ủng hộ cho Tề Thanh Tuyệt thì im bặt. Chỉ một mình nhà sư Tây Tạng nói rất lớn:
– Giữ lòng nhân ái với Quỉ Vương là bất nhân với chúng sinh đấy?
Tư Đồ Sảng giật mình nhận ra nét mặt Lăng Quân Vĩnh đầy vẻ ác độc và ánh mắt lạnh lùng, tàn nhẫn chẳng khác gì Thanh Y nhân! Lửa giận bùng lên, Tư Đồ Sảng dồn toàn lực vào Từ Tâm Kiếm, ra đòn như bão táp, phong tỏa đường gươm của đối phương rồi thọc một nhát nhanh như điện vào tâm thất!
Chàng chưa khởi sát niệm nên không thọc kiếm quá sâu, chỉ vừa đâm gẫy xương ức họ Lăng là thu kiếm về. Xương ức rất cứng rắn nên lực phản chấn đã đẩy Thiên Thư Tú Sĩ lùi lại Lão vô cùng đau đớn nhưng biết rằng phủ tạng vẫn chưa bị tổn thương, liền hung hãn xông vào, kiếm kình nặng như núi đổ! Lão có hơn Hoa giáp tu vi nên vết thương kia chẳng có nghĩa lý gì!
Tư Đồ Sảng thấy lão vẫn chưa tỉnh ngộ lòng rất chán ngán. Chàng tiếp tục xuất kỳ chiêu, kiếm ảnh mịt mờ như làn sương đen, hoá giải đòn phản kích vũ bão của Lăng Quân Vĩnh rồi thọc thêm một nhát vào sườn trái!
Lần này, mũi kiếm đâm gẫy sườn non và xuyên thủng dạ dày khiến cho Thiên Thư Tú Sĩ đau tới mức phải rú lên và nhẩy lùi hơn trượng. Lão tức tối đến phát run nhưng còn đủ tỉnh táo để hiểu rằng mình sẽ chết nếu còn tiếp tục so kiếm với họ Tề? Kẻ đại gian hùng thường hiểu rõ lẽ tiến thoái, nên Lăng Quân Vĩnh cắn răng nuốt hận, tra gươm vào vỏ nhận bại! Lão tự nhủ rằng sẽ phanh thây Tề Thanh Tuyệt ngay sau khi bình phục!
Quần hùng phấn khởi reo hò khi Đàm Vân Tử tuyên bố rằng tiết Trùng Cửu sang năm sẽ tổ chức Đại hội lần nữa! Họ càng cao hứng bởi lời hứa của Hí Nhân Cư Sĩ là Đại hội lần sau lão sẽ cho bày ngàn mâm rượu thịt để quần hùng vừa nhâm nhi vừa xem tỷ võ! Và bất cứ ai thiếu lộ phí quay về cố quận thì Cổ Quí Sinh sẵn sàng cung cấp!
Nửa vạn hào kiệt chưa kịp quay bước thì nghe Đàm Vân Tử dõng dạc nói:
– Kính cáo toàn thể chư vị đồng đạo! Hội đồng võ lâm đã quyết định trao chức quyền Minh chủ cho lão thí chủ Tề Thanh Tuyệt, đến ngày Trùng Cửu sang năm thì mãn nhiệm!
Quần hùng tán thành ngay vì vô cùng kính phục bản lãnh kiếm thuật và nhân phẩm của lão Tề. Ông ta có thể đâm chết Thiên Thư Tú Sĩ nhưng đã không làm. Và ngay từ đầu, Tề Thanh Tuyệt đã từ chối chức Minh chủ, chứng tỏ tính cách cao thượng, nhạt mùi danh lợi