Đọc truyện First Comes Marriage – Chương 22
Elliott đã đặt chỗ ở Vauxhall Gardens. Buổi tối ở khu vườn nổi tiếng về sự thú vị chỉ nằm ngay bờ nam sông Thames là một điều không nên bỏ lỡ khi người ta ở lại thành phố trong cả mùa hội, và gương mặt Vanessa đã sáng bừng lên vì phấn khích ngay khi anh hỏi liệu cô có muốn đến đó không.
Làm vui lòng vợ đã trở thành một điều tối quan trọng với anh. Cũng như một niềm yêu thương nào đó mà anh cảm thấy đối với cô. Anh không thể – hoặc sẽ không – đặt tên cho nó. Chắc chắn là anh không yêu cô – nó là một thuật ngữ quá tầm thường. Và dành cho thứ tình yêu đơn giản – ồ, anh đã tiến tới chỗ nghi ngờ tình yêu và không muốn đặt cảm xúc của mình với Vanessa vào phạm trù mong manh đó.
Anh tin tưởng cô. Dường như anh thấy cuộc sống của cô hẳn là luôn lung linh bởi tình yêu vô điều kiện cô hào phóng dành cho tất cả những người ở gần bên cô, bất kể họ có xứng đáng với nó hay không.
Anh không xứng đáng với tình yêu của cô, Chúa biết điều đó.
Vậy mà anh vẫn biết rằng theo cách riêng của cô thì cô đã yêu anh.
Cô đã để anh lại trong thư viện vào buổi tối hôm đó ngay sau khi anh lấy lại sự bình tĩnh, và cô không bao giờ ám chỉ đến tình tiết xấu hổ ghê gớm đó kể từ lúc ấy. Cô đã cho anh thời gian và không gian để phục hồi và hàn gắn lại.
Và anh đã hàn gắn được vết thương. Anh dần hiểu rằng tình yêu đó – nếu anh dám sử dụng từ ngữ ấy – không tồn tại trong bất cứ con người cụ thể nào. Cha anh đã làm anh thất vọng. Con cũng vậy. Nhưng tình yêu thì không.
Tình yêu của cả hai người vẫn còn lại với anh giống như một điều gì đó mà những người khác đã trao cho anh và, quan trọng hơn, như một điều gì đó mà anh có thể trao đi.
Anh sẽ yêu những đứa con của mình với một sự vững chắc mà nhờ đó chúng có thể dựa vào chừng nào anh còn sống. Và mẹ chúng sẽ dạy cho chúng, với những ví dụ không phải bằng lời nói – mặc dù chắc chắn sẽ có rất nhiều từ ngữ – rằng tình yêu là thứ gì đó nằm sâu bên trong mỗi con người, vô tận, một thứ có thể tạo ra niềm vui ngả bóng xuống cuộc đời họ dù trong những ngày đen tối và khó khăn.
Và những đứa con ấy – hay ít nhất là đứa đầu tiên – sẽ không còn quá xa trong tương lai. Vanessa, anh nhận thấy, chắc chắn đã mang thai cho dù cô đã chọn cách không nói với anh ngay. Cô đã không có chu kì kể từ khi họ kết hôn.
Anh đang bắt đầu cảm thấy một sự mãn nguyện thận trọng với hôn nhân của mình.
Tuy nhiên, chuyến thăm Vauxhall không chỉ được sắp xếp vì một mình Vanessa. Mà nó chủ yếu dành cho Miss Huxtable và cậu Merton, những người sẽ trở về Warren Hall trong vài ngày nữa. Vanessa và Elliott sẽ đi với họ, nhưng ngay khi Elliott nhìn thấy cậu bé chính thức ổn định thời gian biểu với các gia sư trở lại, họ sẽ quay lại London trong suốt phần còn lại của mùa vũ hội.
Elliott đã cảm thấy một chút lo lắng với sự thoải mái mà cậu bé thích ứng với London. Cậu vẫn còn quá trẻ để bước hẳn vào cái cuộc sống sau này sẽ là của cậu, nhưng cậu đã kết bạn với một số người lớn tuổi hơn, cả nam lẫn nữ, và đi chơi khắp nơi hầu như mọi ngày – cưỡi ngựa trong công viên, hoặc tới trường đua, hoặc đi xem những con ngựa ở Tatersall, hoặc tham gia một số lượng lớn đến ngạc nhiên những sự kiện xã hội mà cậu được mời.
Cậu quá trẻ, và cậu có lẽ là một con mồi dễ xơi đối với những người như Con, người thường xuyên đồng hành cùng cậu. Đã đến lúc cậu cần được ghìm lại và trở về nhà, nơi việc học tập của cậu sẽ tiếp tục trở lại cho đến khi cậu vào trường Oxford.
Thật đáng ngạc nhiên, Merton khá là sẵn lòng muốn đi. Cậu không dựng lên bất cứ lời phản kháng nào khi Elliott kéo cậu sang một bên để đề cập vấn đề với cậu.
“Em không thể tham gia bất cứ câu lạc bộ nào của đàn ông lúc này,” cậu nói, liệt kê từng ngón tay một, “và em không thể mua những con ngựa hay một chiếc xe song mã hoặc một tá lẻ một thứ khác mà không được sự cho phép của anh, và em không thể ngồi trong thượng viện hoặc tham dự bất cứ vũ hội và dạ hội náo nhiệt nào. Và em bắt đầu nhận thức rõ rằng có một triệu điều em cần phải học trước khi em được làm những việc đó. Hơn nữa, em thấy nhớ Warren Hall. Em hiếm khi có thời gian để cảm thấy nơi đó như nhà mình trước khi đến đây. Em sẽ rất vui mừng được quay về.”
Cậu bé sắp trải qua một giai đoạn khắc nghiệt trước khi có quá nhiều năm nữa trôi qua, Elliott biết chắc. Nhưng cậu sẽ vượt qua tất cả một cách tương đối vô sự, hi vọng là vậy. Cậu có một nhân cách tốt ẩn dưới tất cả nguồn năng lượng hừng hực của mình, kết quả của một quá trình dạy dỗ đúng đắn.
Chị cả của cậu nhất định đòi về quê cùng em trai. Cô đã hoàn thành xong việc ra mắt của mình, cô quả quyết bảo Elliott khi anh gợi ý rằng cô không cần đi với Merton vì cậu bé sẽ có các gia sư trông nom kĩ lưỡng. Giờ đây cô có thể hòa nhập vào giới quý tộc bất cứ khi nào cô muốn – nếu như cô cảm thấy rất muốn. Cô rất vui vì đã tới London trong một phần của mùa vũ hội, nhưng chỗ của cô là ở bên cạnh Stephen, và dù sao đi nữa cũng là trong nhiều năm tiếp theo, cho đến khi nào cậu lấy vợ, thì vị trí của cô còn ở Warren Hall với tư cách là bà chủ của nó. Và cô không cần ở lại London với em gái mình, vì Kate sẽ chuyển tới Moreland House, nơi em ấy sẽ được kèm cặp tốt bởi tử tước phu nhân Lyngate cho đến khi Vanessa trở lại từ vùng quê.
Cô sẽ không dao động khỏi quyết định đó.
Chính Vanessa là người đã kể cho Elliott nghe về lời cầu hôn của Allingham và lời từ chối của chị cô. Đó sẽ là một đám sáng sủa đối với chị ấy, nhưng theo Vanessa, chị cô vẫn còn mê muội cái gã quân nhân lật lọng kia và có lẽ sẽ như thế đến suốt đời.
Katherine cũng muốn trở về Warren Hall ngay khi cô biết tới kế hoạch trở lại đó của em trai và chị gái mình. Cô nhớ không khí tĩnh mịch của miền quê. Nhưng cả Cecily và Vanessa đều đứng ra thuyết phục cô ở lại. Cô đã có một lượng lớn người hâm mộ và sẽ là những người cầu hôn tương lai – thực ra là nhiều ngang với Cecily. Có lẽ, Elliott nghĩ, cô không nhận ra mình may mắn đến mức nào. Rất nhiều cô gái trẻ trong mùa ra mắt đầu tiên của mình sẽ khao khát muốn có số lượng các chàng theo đuổi chỉ cần bằng một nửa của cô.
Nhưng có một điều đang dần trở nên rõ ràng với Elliott. Cuộc sống có thể thay đổi hầu hết vỏ ngoài của nhà Huxtable, nhưng nó đã không biến đổi được họ. Họ sẽ thích nghi – họ đã làm như thế. Nhưng họ sẽ không bị tác động.
Ít nhất, anh hi vọng nó áp dụng vào Merton cũng hữu hiệu như với các chị gái cậu.
Cho nên buổi tối ở Vauxhall đã được sắp xếp, như là một bữa tiệc chia tay dành cho Merton và Miss Huxtable. Mẹ của Elliott, Cecily, Averil và chồng cô, và tất nhiên là Katherine cũng tham gia buổi tiệc.
Elliott đã chọn một buổi tối vào đúng thời điểm sẽ có khiêu vũ và bắn pháo hoa. Và như một dịp may đi kèm, đó là một buổi tối mà bầu trời giữ nguyên vẻ quang đãng khi màn đêm buông xuống và không khí giữ lại hầu hết sự ấm áp và cơn gió nhẹ chỉ vừa đủ lớn để thổi những chiếc đèn lồng trên cây đung đưa nhè nhẹ và tỏa những tia sáng xen lẫn vệt tối nhảy nhót qua những tán lá và qua vô số những con đường nhỏ mà những người có mặt đang tản bộ dọc theo.
Họ đi đến khu vườn từ hướng bờ sông và bước vào bên trong vừa khi bóng tối buông xuống. Dàn nhạc đã bắt đầu chơi trong nhà tròn trung tâm, nơi họ đã đặt chỗ.
“Oh, Elliott,” Vanessa nói, níu chặt cánh tay anh, “ngài đã từng nhìn thấy thứ gì dễ thương hơn chưa.”
Vanessa và những sự so sánh tuyệt đối của cô! Không có thứ gì chỉ đơn giản là đáng yêu hoặc ngon lành hoặc thú vị cả.
“Hơn chiếc áo em đang mặc hay mái tóc mới cắt của em?” anh hỏi, nhìn xuống cô. “Có, tôi đã nhìn thấy thứ đáng yêu hơn. Đáng yêu hơn rất nhiều, thực ra là thế. Chính em!”
Cô ngẩng mặt lên với anh và nét cười quen thuộc thắp sáng nó từ bên trong.
“Ngài ngớ ngẩn làm sao,” cô nói.
“Ah,” anh nói, phản lại. “Hóa ra em định ám chỉ khu vườn ư? Phải, tôi thấy hiện giờ chúng cũng rất đáng yêu nên tôi đã dành cho chúng một cái liếc mắt.”
Cô bật cười thành tiếng, và Miss Huxtable ngoái đầu lại mỉm cười với họ.
“Vui không?” anh hỏi Vanessa, chạm những ngón tay của bàn tay tự do lên những ngón tay cô đang đang khoác cánh tay anh.
Một phần của tiếng cười nhạt đi.
“Có,” cô nói. “Ôi, có, em rất vui.”
Và anh tự hỏi nếu đây là thứ đó – thứ hạnh phúc mãi mãi về sau mà anh luôn chế giễu và ngay cả cô cũng không tin vào. Điều gì đó đã lặng lẽ nhen lên giữa họ, điều gì đó không cần phải nói thành lời.
Ngoại trừ sẽ rất kì lạ nếu Vanessa không hiểu vì sao chẳng tìm được những lời đó và bắt anh cũng phải đi tìm.
Anh thầm nhăn nhó và rồi tự mỉm cười với mình.
“Oh, nhìn kìa, Elliott,” cô nói. “Ban nhạc và những tiểu đình. Và khu vực khiêu vũ. Chúng ta khiêu vũ nhé? Bên ngoài trời, dưới những vì sao? Còn gì có thể lãng mạn hơn?”
“Tôi hoàn toàn không thể nghĩ ra,” anh nói, “trừ phi đó là một điệu van.”
“Oh, đúng rồi.” Cô nói.
“Oh, hay quá,” cùng lúc đó cậu Merton lên tiếng, giọng vút lên vì háo hức. “Đó là Constantine và nhóm bạn của anh ấy. Anh ấy bảo sẽ đến đây tối nay.”
Trong Vanessa trào lên một tình cảm yêu thương đến mức gần như đau đớn. Vì cho dù cô đã trả lời thành thực khi Elliott bất ngờ hỏi cô là cô có vui không, nó mới chỉ là một phần sự thật.
Anh đã chẳng nói năng gì về buổi tối đó trong thư viện, để lại một nỗi băn khoăn cho cô là liệu anh có phẫn nộ với cô không, anh có cảm thấy bị cô sỉ nhục vì đã dồn ép anh đến mức phải chảy nước mắt và không chịu đi ra khi anh muốn cô làm thế không.
Không phải là anh cư xử như thể đang tức giận với cô. Có một sự dịu dàng nhất định trong cách đối xử của anh với cô trong cả tuần kể từ hôm ấy – và thậm chí là sự dịu dàng âu yếm hơn trong cách làm tình của anh. Và có lẽ những hành động đã nói nhiều điều hơn cả lời nói.
Nhưng cô cần những lời nói.
Anh đã chẳng nói gì cả.
Tuy nhiên cô không phải kiểu người hay ủ ê nghiền ngẫm. Hôn nhân của cô hạnh phúc gấp mấy lần so với cô mong đợi lúc cô thực hiện cái kế sách liều lĩnh là đi cầu hôn anh để cho anh không thể lấy Meg. Cô sẽ hài lòng với tình trạng hiện tại của họ bây giờ suốt cả phần đời còn lại nếu như buộc phải thế.
Nhưng ôi, sao mà cô ao ước những…ờ, những lời nói.
Nhưng làm sao cô có thể đạt được chín phần mười niềm hạnh phúc như bây giờ, khi cô ở Vauxhall Gardens với hầu hết những người thân yêu nhất đối với cuộc sống của cô?
Họ bước dọc theo những con đường chính trong khu vườn thành một nhóm, say sưa ngắm nhìn vẻ đẹp của những hàng cây và những tác phẩm điêu khắc và những dãy cột hình vòm và những chiếc đèn lồng rực rỡ và những người tham gia, hít thở mùi hương của thiên nhiên và nước hoa và đồ ăn, lắng nghe âm thanh những giọng nói và tiếng cười và âm nhạc văng vẳng.
Họ thưởng thức những món ăn xa hoa, bao gồm những lát dăm bông mỏng dính và những quả dâu tây đặc sản nổi tiếng của Vauxhall, và nhấp những li rượu vang sủi bọt.
Họ trò chuyện với một lượng lớn những người quen thỉnh thoảng dừng lại ở lô của họ.
Và họ khiêu vũ – tất cả mọi người, kể cả tử tước phu nhân.
Nhảy van dưới bầu trời sao là tất cả những gì lãng mạn nhất Vanessa hằng mơ mộng, và hình như cô cảm thấy mình và Elliott không rời mắt khỏi nhau khi họ lướt theo điệu nhạc. Cô mỉm cười với anh, và anh nhìn lại cô với một biểu hiện trong ánh mắt mà chắc chắn là sự âu yếm.
Cô sẽ tin nó chính là điều đó. Những lời nói thực sự không cần thiết.
Nhưng éo le thay, mặc dù cô rất đỗi hạnh phúc, và hạnh phúc hơn bất cứ người nào có thể mong đợi trong cuộc đời này vì nó kéo dài nhiều hơn vài khoảnh khắc mỗi lần. Có một vết mực đã lem vào niềm vui của cô. Và nó hoàn toàn không phải do Elliott không chịu nói câu gì về bất cứ ý nghĩa quan trọng nào từ buổi tối đó trong thư viện.
Vì Constantine đang ở đây – cũng như anh có mặt ở hầu hết các sự kiện giải trí cô tham dự. Và tránh mặt anh trong tối nay cũng căng thẳng như tuần lễ vừa qua.
Anh tươi cười và quyến rũ như bất cứ lúc nào, cũng như thái độ ân cần, bất chấp thực tế là anh đến đây với những người khác. Anh nói chuyện với Stephen một lúc và khiêu vũ với Meg. Anh đưa Kate và Cecily đi dạo, mỗi người khoác một bên tay. Và cả ba không thấy tăm hơi đâu cho đến nửa giờ sau. Vanessa sẽ hết sức lo ngại nếu như hai cô gái không đi cùng nhau. Có thể nói là, cô cảm thấy – ờ, bực mình với anh cũng như bực bội với bản thân mình. Vì mặc dù cô có mọi lí do để cánh báo em trai và chị em gái của mình coi chừng anh, nhưng cô đã không làm thế. Cô sẽ phải đề cập đến Mrs. Bromley-Hayes nếu làm vậy, và hành vi trộm cắp của anh ở Warren Hall lúc Jonathan còn sống. Cô không muốn nhắc đến cả hai, nên cô không nói gì.
Cô đã tránh mặt Constantine vì lí do của riêng mình, dù anh luôn tươi cười với cô và sẽ đến gần cô, cô biết, nếu cô đưa cho anh một sự khích lệ nhỏ nhất. Cô có thể né tránh anh trong cả mùa vũ hội còn lại, cô cho là vậy, nhất là khi cô sắp rời khỏi London trong một tuần tới. Nhưng sự lảng tránh chưa bao giờ là cách ứng phó của cô với cuộc đời. Khi anh đưa Kate và Cecily về chỗ cũ và định quay về với nhóm bạn của mình, Vanessa vươn người tới trước trong ghế. Elliott đang nói chuyện với một vài phụ nữ quen biết anh.
“Và anh cũng sẽ đi dạo với em chứ, Constantine?” cô hỏi.
Anh mỉm cười ấm áp với cô, và cô thình lình cảm thấy thật vô cùng đáng tiếc vì cô đã mất người anh họ quá sớm sau khi gặp được anh. Không nghi ngờ gì là anh có thể tỏa ra sức hút rất lớn. Anh cúi đầu với cô và chìa tay ra.
“Vinh dự của anh,” anh nói. Ngay khi họ bước ra khỏi lô, anh nghiêng đầu về phía cô một chút. “Anh đã nghĩ là em có hiềm khích với anh.”
“Em có,” cô nói.
Mặt anh tối lại, nhưng đôi mắt cười cợt trong ánh đèn khi họ rẽ sang một con đường lớn. Anh nhướng mày, muốn một lời giải thích.
“Thật là không hay,” cô nói, “khi giới thiệu Mrs. Bromley-Hayes với em và các chị em em cùng Cecily ở nhà hát. Và không nên chút nào khi đưa cô ấy đến vũ hội ra mắt của Cecily. Em đã trông đợi nhiều hơn ở anh. Anh là anh họ của chúng em cơ mà.”
Một phần nét cười phai đi trong mắt anh.
“Đúng là như thế,” anh đồng ý. “Anh xin lỗi, Vanessa. Anh không bao giờ có ý định làm tổn thương em hoặc gia đình của em. Hoặc Cece.”
“Nhưng anh đã làm,” cô nói. “Cecily và Stephen và Meg và Kate không biết rằng họ bị trưng ra cho một sự thiếu suy xét khiếm nhã để giới quý tộc nhìn vào. Nhưng em biết. Và em là người bị ảnh hưởng nhiều nhất, ngoài Elliott, người em cho rằng đã bị anh cố tình làm cho mất thể diện. Anh có cho rằng, Constantine, là em sẽ không đương đầu với Elliott với điều em biết được từ Mrs. Bromley-Hayes vào ngày sau vũ hội, mặc dù cô ta đã nói dối em? Anh có cho rằng hôn nhân của chúng em sẽ bị đổ vỡ từ sâu bên trong, chứ không chỉ là một vết sưng tấy có thể lặng lẽ hủy hoại cơ thể? Nếu có, thì giả thuyết của anh đã sai. Cuộc hôn nhân của em không bị hủy hoại và hạnh phúc của em không bị u ám, mặc dù nó đã như thế theo cách nào đó. Em rất vui vì tìm thấy anh khi chúng em đến Warrenhall. Em lập tức yêu mến anh như một người anh trai và em sớm yêu quý con người anh. Em sẽ là bạn anh trong cả cuộc đời còn lại của anh và đón chào tình bạn của anh trong cả cuộc đời em. Chúng ta đã có thể là một gia đình. Nhưng anh đã cố tình phá hủy tất cả những cơ hội ấy, và em rất tiếc vì điều đó. Đó là tất cả những gì em phải nói.”
Giờ đây tất cả vẻ tươi cười biến mất trong mắt anh khi anh dắt cô nép vào lề đường để họ không bị xô ngã bởi một đám đông huyên náo đang tiến lại gần từ phía đối diện.
“Anna đã nói với em?” anh hỏi. “Cô ta bảo với em rằng cô ta vẫn là tình nhân của Elliott, anh đoán vậy? Cô ta sẽ không nghĩ rằng em sẽ đương đầu với anh ta bằng những tin tức của mình và phát hiện sự dối trá của cô ta sớm thế. Anh xin lỗi.”
Cô nhìn anh quở trách nhưng không nói gì.
“Và anh phải thú nhận sự dối trá của mình,” anh nói sau một quãng im lặng ngắn ngủi. “Bởi tất nhiên anh đã nghe về cuộc gặp của em với Anna trong công viên. Chính cô ta kể cho anh. Anh xin lỗi, Vanessa. Thật sự xin lỗi. Đây chỉ là xích mích giữa anh và Elliott, và anh muốn làm bẽ mặt anh ta mà chưa từng cân nhắc đến tác hại anh cũng có thể gây ra cho em. Hãy tin anh, đó chưa bao giờ là ý định của anh cả.”
“Anh có xích mích với anh ấy vì anh ấy biết con người thật của anh,” cô nói. “Em ở về phía anh ấy, Constantine. Và lời xin lỗi của anh là vô nghĩa đối với em. Mong rằng em sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa. Em sẽ không bao giờ tự nguyện nói chuyện với anh một lần nữa.”
“Con người thật của anh,” anh nói với sự nhấn mạnh êm ái khi họ dừng lại. “Một tên trộm và một kẻ hoang dâm, anh cho là thế.”
Kẻ hoang dâm? Vậy là có một khía cạnh khác mà Elliott đã không nói cho cô? Nhưng nếu là chuyện này, thì cô không muốn biết.
“Vâng,” cô nói. “Và anh không thể phủ nhận lời cáo buộc.”
“Anh không thể ư?” Anh mỉm cười, một vẻ giễu cợt sít sao.
Cô ngước nhìn anh trong lúc có ai đó vô ý xô vào cô, hi vọng có thể dựa vào tất cả những lí do anh sẽ đưa ra để giải thích.
“Em nói đúng,” thay vào đó anh nói, tặng cô một cái nghiêng mình tao nhã. “Anh không thể phủ nhận lời cáo buộc nào, Vanessa, và sẽ không làm thế. Và như vậy anh phải chịu cảnh là một kẻ bất lương trong mắt em. Và ít nhất em đã phần nào chứng minh được quan điểm của mình về anh. Anh sẽ đưa em về lô của em, nếu có thể. Anh không nghĩ là em muốn đi dạo với anh thêm bước nào nữa.”
“Em không muốn,” cô nói.
Họ quay về theo lối cũ, không chạm vào nhau và không nói chuyện. Nhưng họ không đi được quá xa trước khi Vanessa có thể trông thấy Elliott đang sải bước về phía họ. Vẻ lo lắng hiện trên mặt.
“Tôi trả lại nguyên vẹn nữ tử tước cho anh,” Con nói khi họ đến chỗ anh, tất cả sự giễu cợt trở lại trên mặt và trong giọng nói của anh ta. “Chào buổi tối, Vanessa, và cả anh nữa, Elliott.”
Và anh ta bỏ đi mà không một lần nhìn lại.
“Chính em đã mời anh ta đi dạo cùng,” cô giải thích. “Em đã tránh mặt anh ta. Nhưng em nhận ra mình cần nói cho anh ta biết em thất vọng đến nhường nào với hành vi của anh ta ở nhà hát và ở vũ hội ra mắt của Cecily. Em cần nói cho anh ta biết lí do em sẽ không nói chuyện với anh ta nữa trừ những hoàn cảnh lịch sự bắt buộc. Tất cả những gì em cần nói với anh ta là em đã biết về anh ta. Anh ta còn đề cập đến sự hoang dâm cũng như trộm cắp.”
“À, phải,” anh nắm lấy tay cô và dẫn cô ra khỏi đường chính vào một con đường mòn hẹp và tối hơn. “Nhưng em không cần biết về điều đó, Vanessa. Ồ, nhưng tôi nghĩ em cũng nên biết. Có những phụ nữ trẻ ở lân cận Warren Hall, một số người từng là gia nhân trong nhà, hiện tại họ đang một mình nuôi con, những đứa con ngoài giá thú.”
“Ôi,” cô nói, “Ôi không.”
“Ồ, có đấy, tôi e là vậy,” anh nói. “Nhưng chúng ta đừng bàn về Con nữa, Vanessa. Thay vào đó hãy kể cho tôi về Hedley Dew.”
Cô quay mặt sang anh trong bóng tối.
“Về Hedley ư?” cô hỏi, có vẻ ngạc nhiên.
“Sau khi tôi nói với em về cha tôi,” anh nói, “tôi chợt thấy rằng giờ đây em đã biết một bí mật của tôi mà em phải biết với tư cách là người vợ. Hedley Dew, tôi tin rằng, là một bí mật của em và có lẽ còn nhiều điều hơn ở cậu ấy mà em cần kể cho tôi.”
Con đường thu hẹp lại, và anh buông tay cô ra để choàng tay qua vai cô và kéo cô vào sát người mình. Cô mảnh mai và ấm áp, và anh bỗng nảy ra ý nghĩ là anh đã dần dần thấy thân hình cô vô cùng hấp dẫn. Mái tóc cô thoảng hương thơm của xà phòng.
“Anh ấy nhạy cảm và mơ mộng từ nhỏ cho đến lớn,” cô nói. “Anh ấy luôn thích ngồi ở một nơi nào đó tĩnh lặng ngoài trời và nói chuyện hơn là tham gia cùng những đứa trẻ khác trong những trò chơi náo nhiệt của chúng. Em đối xử tốt với anh ấy ngay từ đầu bởi vì em cảm thấy tiếc cho anh ấy – em thích tham gia những trò chơi kia hơn. Nhưng anh ấy hiểu biết rất nhiều – anh ấy thông minh và say mê đọc sách – và mơ những giấc mơ lớn lao. Khi lớn hơn, anh ấy cho em vào những giấc mơ đó. Chúng em sẽ đi vòng quanh thế giới và khám phá những nền văn hóa của tất cả các dân tộc. Anh ấy… anh ấy yêu em. Anh ấy có nụ cười dễ thương nhất, Elliott, và đôi mắt khiến người khác có thể chìm đắm trong đó. Anh ấy có những giấc mơ khiến người ta có thể chìm đắm vào.”
Họ đến một băng ghế gỗ nằm bên lề đường và anh kéo cô ngồi xuống đó, giữ cánh tay mình vòng qua người cô.
“Và rồi một ngày em thức dậy khỏi những giấc mơ ấy,” cô nói, “để nhận ra rằng sự thật là một thứ khắc nghiệt hơn. Anh ấy bị ốm. Anh ấy có thể chết. Em nghĩ mình biết điều đó trước hầu hết mọi người có lẽ ngoại trừ mỗi anh ấy. Anh ấy muốn có em. Anh ấy yêu em. Em cũng yêu anh ấy, nhưng không phải theo cách đó. Bố mẹ em luôn bảo em rằng có thể em sẽ chẳng bao giờ lấy được chồng bởi vì em xấu xí hơn rất nhiều so với Meg và Kate và những cô gái khác trong các gia đình hàng xóm. Nhưng em muốn lấy chồng, và tất nhiên Hedley là một đám tốt đến lóa mắt – anh ấy là con trai của sir Humphrey Dew. Anh ấy sống ở Rundle Park. Dù là thế em vẫn không nghĩ rằng em sẽ lấy anh ấy nếu như anh ấy không cần em. Nhưng anh ấy có. Kết hôn với anh ấy là một điều em có thể trao cho anh ấy, một giấc mơ của anh ấy mà em có thể biến thành sự thật. Rõ ràng rằng chẳng có giấc mơ nào trong đó thành sự thật được.”
Cô đang run lên và hai bàn tay không ngừng vặn vẹo trong lòng. Giọng cô ẩn chứa sự đau đớn. Anh bỏ tay ra khỏi người cô, cởi áo ngoài, và khoác nó lên vai cô, giữ nó ở yên tại chỗ bằng tay anh.
“Em không muốn làm chuyện đó,” cô nói. “Anh ấy đang ốm và sắp chết và em cũng không. Em… không thấy anh ấy hấp dẫn bất kể vẻ đẹp thánh thiện của anh ấy. Em cảm thấy tội lỗi đầy mình vì điều đó. Em đã nói dối quá nhiều. Hết lần này đến lần khác em đã nói với anh ấy là em ngưỡng mộ anh ấy.”
“Và em hối hận về chuyện đó?” anh hỏi cô.
“Không!” Cô nói quyết liệt. “Điều em hối hận là em không thể biến nó thành sự thật. Oh, chuyện đó cũng không hẳn là không thật. Em có ngưỡng mộ anh ấy. Em yêu anh ấy bằng cả trái tim và tâm hồn. Nhưng em không yêu anh ấy.”
Chỉ vài tuần trước đây anh sẽ lắc đầu vì bực bội trước sự lí giải ngớ ngẩn đến mức ấy. Còn bây giờ thật lạ là anh biết chính xác cô định nói gì. Anh có thể hiểu sự khác biệt mỏng manh giữa những kiểu tình yêu khác nhau.
“Những gì em đã cho cậu ấy,” anh nói, “là chắt lọc tốt đẹp nhất của mọi tình yêu, Vanessa. Nó là món quà tình yêu tinh khiết được trao và không cần đổi lại bất cứ sự đền đáp nào.”
“Ngoại trừ em cũng đã được đền đáp,” cô nói. “Anh ấy cho em cũng nhiều như em cho anh ấy, Elliott. Anh ấy dạy em rất nhiều về cuộc sống mỗi ngày, về việc tìm thấy niềm vui trong những điều nhỏ bé và tiếng cười trong vẻ ngoài của bi kịch. Anh ấy dạy em về tính kiên nhẫn và chân giá trị. Và anh ấy dạy em đừng nên níu kéo. Anh ấy dạy em làm cách nào để buông tay, để… anh ấy đã nói với em trước lúc chết rằng em phải yêu và phải kết hôn lần nữa và hạnh phúc một lần nữa. Anh ấy nói em phải luôn giữ nụ cười. Anh ấy -” cô nuốt xuống, anh có thể nghe thấy tiếng nấc nghẹn trong họng cô.
Anh rúc mũi vào trong tóc cô và hôn lên đỉnh đầu cô.
“Anh ấy yêu em,” cô nói. “Và em yêu anh ấy. Em xin lỗi, Elliott. Em thực sự xin lỗi. Em có yêu anh ấy.”
Anh đặt bàn tay kia dưới cằm cô và nâng gương mặt cô lên. Anh hôn cô, nếm vị mặn của nước mắt trên má và môi cô.
“Em không bao giờ phải xin lỗi về chuyện đó,” anh nói bên đôi môi cô. “Và em không bao giờ phải chối bỏ nó với bản thân mình. Tất nhiên là em yêu cậu ấy. Và tôi mừng vì em đã như thế. Em sẽ không phải là con người như tôi biết nếu em chưa từng yêu cậu ấy.”
Bàn tay cô đưa lên để áp vào một bên mặt anh.
“Ngài vẫn còn hối tiếc ghê gớm vì đã lấy em phải không?” cô hỏi anh.
“Tôi có như thế sao?” anh hỏi cô.
“Em nghĩ là có,” cô nói. “Ngài sẽ chẳng bao giờ chọn em cho bản thân mình. Em xấu xí, và em cãi cọ với ngài rất nhiều lần.”
“Tôi nghĩ em có những đặc điểm của một kẻ khó chịu,” anh nói, “giờ em nhắc tôi mới nhớ.”
Cô cười khúc khích – đúng như anh đoán.
“Nhưng chưa bao giờ xấu xí,” anh nói. “Chỉ xinh đẹp một cách kín đáo thôi. Và không, tôi không hối tiếc, ghê gớm hay gì gì khác. Tôi không hối tiếc chút nào.”
“Oh,” cô nói. “Em rất mừng. Vậy em đã làm ngài thấy dễ chịu phải không? Và hơi một chút hạnh phúc?”
“Và hơi một chút hài lòng?” anh hỏi. “Thật ra là cả ba, Vanessa. Còn em?”
“Và em cũng hạnh phúc,” cô nói, dịu dàng hôn lên môi anh.
Nó chưa bao giờ thất bại trong việc khuấy động anh.
Đã đến lúc cho một lời tuyên bố quan trọng, anh nghĩ. Đã đến lúc rồi, nếu không phải anh đã cưới cô, thì anh phải quỳ xuống trên một đầu gối với tư thế hoa mỹ, cầm lấy tay cô trong tay mình, tuyên bố tình yêu bất diệt của anh, và cầu xin cô hãy biến anh thành người đàn ông hạnh phúc nhất.
Vì họ đã lấy nhau rồi, nên anh phải –
Một tiếng lắc rắc lớn và một tiếng phụt vang lên ngay gần đó, và những ý nghĩ của anh bị phá vỡ khi Vanessa đứng bật dậy.
Cái quỷ gì thế?
“Pháo hoa!” Cô reo lên. “Nó bắt đầu rồi, Elliott. Ôi, chúng ta hãy nhanh chân đi xem đi. Nhìn kìa!” Cô chỉ tay lên một chùm những tia sáng đỏ rực đã xuất hiện phía trên những ngọn cây. “Ngài đã từng nghe hay nhìn thấy thứ gì đẹp mắt hơn thế chưa?”
“Chưa bao giờ,” anh nói với nụ cười mở rộng khi cô tìm tay anh trong bóng tối và kéo anh – bằng tay áo sơ mi của anh – chạy hối hả trên con đường nhỏ.