Đọc truyện Eragon 2 (Eldest) – Đại Ca – Chương 17: Đụng độ sinh vật lạ
Ngày đầu tiên rời Tarnag, Eragon cố gắng học thuộc tên những chiến binh của Undin. Đó là Âm, Tríhga, Hedin, Ekksvar, Shrrgnien (dù biết tên này có nghĩa là Tim-Sói, nhưng Eragon chịu thua không thể phát âm), Duthmét và Thorv.
Mỗi bè có một phòng nhỏ ngay chính giữa. Nhưng Eragon thích được ngồi trên một khúc cây, ngắm canh rặng núi Beor trôi ngược về phía sau. Chim bói cá và cò đầu xám bay loang loáng trên mặt nước trong veo. Trong khi đó, những con diệc màu xanh dương lò dò như đi cà khêu trên lớp bùn gần bờ, rải rác những vũng nước loáng ánh sáng rọi qua những nhánh phỉ, dẻ gai, dương liễu. Từ bãi cỏ đuôi chồn, thỉnh thoảng tiếng ễnh ương ồm ồm vang dội.
Eragon nói với ông Orik vừa ngồi xuống bên cạnh nó:
– Đẹp quá!
– Đẹp thật.
Orik trả lời rồi mồi tẩu thuốc, lặng lẽ hút.
Eragon lắng nghe tiếng cót két của gỗ và dây thừng mỗi khi Tríhga đưa đẩy mái chèo nơi cuối bè.
– Ông Orik, ông có thể cho tôi biết vì sao ông Brom đã gia nhập Varden không? Tôi biết rất ít về ông Brom. Trước kia, tôi chỉ tưởng ông ấy là một người kể chuyện trong làng.
Gạt tàn thuốc lên mặt nước, Orik chậm rãi nói:
– Ông chưa từng gia nhập Varden, mà chỉ giúp thành lập lên tổ chức đó thôi. Sau khi Galbatorix tự đăng quang làm vua, ngoài mấy tên phản đồ, ông Brom là kỵ sĩ duy nhất còn sống sót.
– Nhưng khi đó ông Brom không còn là kỵ sĩ rồng nữa, vì con rồng của ông đã bị giết trong trận Doru Araeba.
– A, nhưng ông vẫn là một kỵ sĩ từng được huấn luyện đàng hoàng. Chính ông đã đứng lên kết hợp thân hữu, đồng minh của các kỵ sĩ – những người đã bắt buộc phải tự lưu đày xa xứ. Chính ông đã thuyết phục đức vua Hrothgar cho phép Varden sống trong lòng Farthen Dur và cũng chính ông đã tìm được sự trợ giúp của thần tiên.
Im lặng một lúc, Eragon lại hỏi:
– Vậy sao ông Brom lại không làm thủ lãnh?
– Có lẽ vì… ông chưa bao giờ thích địa vị đó. Những chuyện đó xảy ra từ trước khi Đức vua nuôi tôi, vì vậy tôi ít có dịp được gặp ông Brom tại thủ phủ Tronjheim… Ông ấy luôn đi xa, chiến đấu với những phản đồ hoặc có những việc ở những nơi khác.
– Orik, song thân ông mấy hết rồi sao?
– Cha mẹ tôi qua đời vì bệnh đầu mùa từ khi tôi còn nhỏ. Đức vua đã rủ lòng thương đưa tôi về nuôi nấng. Vì người không có con nên đã nhận tôi là người thừa kế.
Nghĩ đến dấu hiệu của bộ tộc Ingeitum trên mũ sắt, Eragon tự nhủ: “Nhà vua cũng rất thương mình.”
Trời chạng vạng tối, những người lùn đem treo những chiếc đèn trên bốn mạn bè. Đứng bên Arya, nhìn những nguồn sáng trong veo không hề run rẩy trước gió, Eragon hỏi nàng:
– Những ngọn đèn này được tạo ra bằng cách nào, nàng biết không?
– Được tạo ra bằng một câu thần chú mà thần tiên đã chỉ dẫn cho người lùn từ rất lâu rồi.
Eragon vuốt má và cằm, cảm thấy những cọng râu bắt đầu mọc.
– Trong lúc đi đường, nàng có thể dạy tôi thêm về phép thuật không?
– Đó không phải là bổn phận của ta. Một sư phụ đang chờ chàng tại Ellesméra rồi.
– Vậy thì, nếu có thể, cho tôi biết tên thanh kiếm của tôi nghĩa là gì?
Giọng Arya êm như ru:
– Tên nó là… Bất Hạnh. Vì vậy nó chuyên đem đến niềm bất hạnh, cho đến khi vào tay chàng.
Eragon gớm ghiếc trừng trừng nhìn thanh Zarroc. Càng biết thêm về món vũ khí của mình, dường như nó càng chán ghét, cứ như chính bản thân thanh kiếm có đầy đủ trí khôn để tạo ra sự bất hạnh. Không chỉ vì Morzan đã tàn sát các kỵ sĩ bằng thanh kiếm này, riêng cái tên Zarroc – Bất Hạnh cũng đủ khiếp sợ rồi. Nếu không vì chính ông Brom đã trao nó cho Eragon, và nếu không vì sự thật hiển nhiên là Zarroc không bao giờ cùn nhụt, không thể bẻ gãy, Eragon đã quăng ngay nó xuống dòng sông rồi.
Trước khi trời tối hẳn, Eragon bơi lại gần Saphira. Đây là lần đầu tiên, từ khi ra khỏi Tronjheim, hai đứa mới cùng bay, Saphira xoải cánh trên dòng Az Ragni. Không khí thật nhẹ nhàng và phía dưới chỉ còn là một sọc màu tím nhạt.
Không có yên cương, Eragon quặp thật chặt hai đùi vào Saphira, cảm thấy vảy của con rồng cọ xát lên những vết thẹo cũ.
Ngay lúc Saphira nghiêng sang trái, vươn thẳng mình lên cao, Eragon chợt thấy ba đốm màu nâu phóng mình ra từ sườn núi phía dưới, rồi vụt bay lên. Lúc đầu Eragon tưởng là ba con chim ưng, nhưng khi chúng lại gần hơn, nó nhận ra những con vạt này dài gần bảy thước với bộ đuôi mỏng manh và những cặp cánh như bằng da. Thật ra, trông chúng giống như rồng, nhưng thân hình nhỏ hơn, gầy hơn và có vẻ giống loài rắn hơn là giống Saphira. Những vảy của chúng cũng không rực rỡ, mà lốm đốm hai màu nâu và xanh lục.
Eragon rối rít hỏi:
– Chúng có phải là rồng không?
– Em không biết.
Saphira thả mình bềnh bồng tại chỗ, quan sát những kẻ mới tới bay lượn chung quanh. Chúng có vẻ bối rối khi thấy Saphira, chí choé nhào vào vồ vồ chụp chụp rồi lại bay tránh lên cao.
Eragon hí hởn cười, phóng tư tưởng, ráng bắt liên lạc với chúng. Ngay tức thì, ba con vật lạ rúm nmình, rít lên hoảng sợ. Mõm chúng mở toang hoác như những con rắn đói mồi. Tiếng rít của chúng the thé, như xuyên suốt cả thân xác lẫn tâm trí Eragon. Saphira cũng cảm thấy giống như vậy. Vừa tiếp tục tiếng rít như tra tấn, như có ý định làm Eragon bị tê liệt tinh thần, chúng vừa vươn móng vuốt sắc bén như dao cạo, nhào vào tấn công.
– Bám chặt vào.
Vừa cảnh gáic Eragon, Saphira vừa xếp cánh phải, xoay nửa vòng, tránh hai con vật lạ, rồi lập tức vỗ cánh vượt lên trên con thứ ba. Trong lúc đó, Eragon cố sức ngăn chặn tiếng rít. Ngay khi tâm trí ổn định, Eragon định sử dụng phép thuật, Saphira cản lại: “Đừng giết chúng. Em muốn rút kinh nghiệm.”
Dù những sinh vật kia khéo léo lanh lẹ hơn Saphira, nhưng lợi thế của cô nàng là đồ sộ và mạnh mẽ hơn. Một con nhào xuống Saphira. Saphira vội trở mình, nằm ngửa trên không, vừa thả mình rơi tự do vừa tung cú đá trúng ngực sinh vật lạ.
Tiếng rít giảm cường độ khi một địch thủ rút lui vì bị thương.
Saphira dang cánh, trở mình lại, giữa lúc đó hai địch thủ còn lại xông tới. Nó vươn cổ, Eragon nghe rõ tiếng sôi ùng ục giữa những xương sườn của ả rồng, rồi vòi lửa phun ra từ mõm Saphira. Một vầng hào quang xanh ngắt phủ trên đầu và làm những cái vảy giống như ngọc của Saphira sáng rực lên cho đến khi nó phun ra những tia lửa rực rỡ.
Hai con vật giống rồng hoảng sợ, rít lên, bay dạt sang hai bên. Sự tác động đến tinh thần Eragon và Saphira giảm hẳn khi mấy con vật kia bay trở xuống núi.
Lỏng tay ôm cổ Saphira, Eragon bảo: “Em suýt cho anh lộn nhào xuống hồ.”
Saphira vênh váo: “Suýt thôi chứ có bị đâu.”
“Ha ha! Đúng vậy, cô em.”
Khi Saphira hớn hở vì chiến thắng, hạ cánh xuốngmặt nước, ông lùn Orik hỏi lớn:
– Có bị thương không?
Saphira bơi tới sát bè, hai chân Eragon ướt sũng nước lạnh. Khi Orik kéo nó lên bè, Eragon trả lời:
– Không bị thương. Những… chúng cũng là một loài độc đáo nữa của núi Beor, phải không?
– Chúng tôi gọi chúng là Fanghur. Không thông minh, không phun lửa được như rồng, nhưng chúng cũng là một địch thủ đáng gờm đấy.
– Điều đó thì chúng tôi vừa biết rồi. Eragon day hai thái dương vì đầu vẫn còn nhức nhối, nói:
– Tuy nhiên, Saphira đáng nể hơn nhiều.
Cô rồng vươn cổ nhìn nó: “Chứ sao.”
Orik cắt nghĩa:
– Chúng săn mồi bằng cách dùng ý chí làm tê liệt con mồi trước khi tấn công.
Saphira dùng đuôi rảy nước lên Eragon: “Hay! Lần tới đi săn em sẽ thử phương pháp này.”
Eragon gật: “Đúng, tác chiến bằng phương pháp này rất dễ chiếm thế thượng phong.”
Arya lại gần nói:
– Ta mừng là Saphira không giết chúng, Fanghur hiện nay là loài rất quý hiếm.
Ngồi trong ca-bin, Thorv làu bàu:
– Ba con quỷ đó cũng đủ sức xực gần hết gia súc của chúng tôi rồi.
Rồi hắn bước ra ngoài, tay vằn xoắn bộ râu, bực bội nói với Eragon:
– Khi nào còn trong khu vực núi Beor này, cậu đừng bay nữa. Giữ an toàn cho cậu trên bè đã khó rồi, đừng nói chi đến chuyện cậu và con rồng cứ bay vù vù như gió vậy.
– Tôi hứa sẽ chỉ bay khi chúng ta tới đồng bằng.
– Tốt.
Khi ngừng lại nghỉ đêm, những người lùn buộc hai cái bè vào mấy gốc dương, ngay cửa một nhánh sông nhỏ. Ama nhóm lửa. Eragon cùng Ekksvar đẩy con Hoả Tuyết lên bãi cỏ. Thorv chỉ huy dựng sáu căn lều lớn. Duthmer đem đồ từ bè lên, bắt đầu nấu nướng bữa ăn tối. Arya đứng nhìn Ekksvar, Ama và Tríhga làm việc. Eragon lại ngồi bên đống lửa với Orik và Shrrgnien. Khi Shrrgnien rút găng, hơ tay trên lửa, Eragon lom lom nhìn những mẩu thép sáng bóng ló ra từ những khớp ngón, trừ ngón vái của hắn. Nó kinh ngạc hỏi:
– Cái gì khiếp vậy?
Shrrgnien nhìn Orik ha hả cười:
– Đây là Ascudgamln… là… “bàn tay sắt” của tôi.
Rồi quay người, hắn đấm mạnh lên thân cây dương để lại bốn lỗ đối xứng nhau. Vẫn cười sằng sặc, hắn hỏi Eragon:
– Ngon lành không?
Vừa ganh tị vừa tò mò, Eragon hỏi:
– Làm cách nào gắn những cái gai sắt đó vào tay được?
Shrrgnien bối rối tìm từ:
– Một thầy thuốc…à… ừ làm cho mình ngủ mê, để cho mình không cảm thấy đau đớn gì hết. Rồi một cái lỗ được… ừ… khoan. Khoan? Đúng không? Khoan vào những lóng ngón tay… à…
Hắn líu lo một tràng ngôn ngữ người lùn với Orik. Ông lùn cắt nghĩa tiếp:
– Một hốc sắt được đặt vào mỗi lỗ. Rồi với phép thuật, người ta khép kín những vết đó lại. Khi người chiến binh toàn toàn bình phục, những gai sắt đủ kích cỡ sẽ được vặn chặt vào những hốc đó.
Shrrgnien cười cười, thận trọng, nhẹ nhàng vằn rồi tháo rời núm sắt trên ngón đeo nhẫn bàn tay trái, đưa cho Eragon. Eragon thích thú vê vê núm sắt, rồi trao trả lại hắn:
– Kể ra mình có bàn tay sắt thế này cũng thích.
Orik nói ngay:
– Nguy hiểm lắm. Ngay người lùn chúng tôi cũng ít người làm Ascudgamln, vì rất dễ bị liệt bàn tay nếu lưỡi khoan đi quá sâu.
Ông đưa bàn tay cho Eragon nhìn:
– Xương chúng tôi dày hơn xương của cậu. Phương pháp này không áp dụng cho người bình thường được. Cậu phải nhớ điều đó.
– Tôi nhớ.
Tuy nói vậy, Eragon vẫn không thể ngăn mình tưởng tượng, nếu có một nắm đấm bằng sắt như vậy, giáp sắt của tụi Urgal cũng coi như đồ bỏ.
Ăn xong, Eragon trở về lều. Ánh lửa chập chờn rọi bóng Saphira khoanh tròn như một hình ảnh được cắt bằng giấy đen, rồi dán lên vách vải.
Chăn phủ trên hai chân, Eragon ngồi lặng lẽ. Mắt đã ríu lại, nhưng nó chưa muốn ngủ. Tự nhiên Eragon cảm thấy nhớ quê nhà quá. Chẳng biết giờ này anh Roran, chú Horst và mọi người trong làng Carvahall đang làm gì? Thời tiết thung lũng Palancar có ấm áp để nông dân gieo hạt cấy trồng chư?
Với tay lấy cái bát gỗ trong ba lô và bầu nước bằng da, Eragon đổ chút nước vào bát. Tồi nó tập trung vào hình ảnh Roran, miệng thì thầm niệm chú:
-Draumr kópa!
Nước chuyển thành màu đen, rồi sáng dần lên, hiện ra đối tượng mà nó muốn thu hình. Roran đang ngồi một mình trong phòng ngủ chập chờn ánh nến. Nó nhận ra đây là trong nhà chú Horst. Chắc Roran đã bỏ việc ở Therinsford. Anh họ nó ngồi bó gối, mắt nhìn xa xôi, vẻ mặt anh ta đủ để Eragon đoán biết Roran đang gặp chuyện khó khăn. Nhưng chỉ một thoáng đó cũng đủ làm nó yên tâm vì người anh họ vẫn được bình an. Một phút sau Eragon thu hồi phép thuật, mặt nước trong bát trở lại bình thường.
Đổ bát nước, Eragon nằm xuống kéo chắn tới cằm. Nó nhắm mắt, chìm vào khoảng cách lơ mơ giữa sự tỉnh táo và giấc ngủ. Cái khoảnh khắc thực tế quay vòng vòng trong ý nghĩ lẫn lộn với những điều không có thực.
Rồi nó đi vào giấc ngủ không mộng mị cho tới trước khi nó thức giấc, những hình ảnh chợt đến, rõ ràng, sống động y như lúc nó còn đang thức.
Eragon thấy một bầu trời vần vũ, tràn ngập khói đen và đỏ thắm. Từng bầy quạ và diều hâu quay cuồng trên những mũi tên vù vù bay qua bay lại trong một chiến tường rộng lớn. Một người đàn ông sóng soài trên bãi bùn nứt nẻ, mũ sắt vỡ toang, áo giáp đẫm máu, mặt người đó bị một bàn tay che khuất. Bàn tay với bao tay sắt đó sát tầm nhìn của Eragon, che phủ gần hết khung cảnh phía sau. Như một cái máy vô hình tàn nhẫn, bàn tay nắm chặt, riêng ngón trỏ chỉ thẳng con người vừa bị hạ gục, với tất cả quyền uy của định mệnh.
Ra khỏi lều, hình ảnh đó vẫn còn tràn ngập tâm trí Eragon. Tới gần saphira đang nhai một con mồi, nó kể lại những gì đã thấy. Ả rồng ngừng nhai, vươn cổ nuốt miếng thịt rồi mới nói: “Lần trước, chuyện như thế này cũng đã xảy ra, và nó chứng tỏ là anh đã biết trước những sự kiện ở đâu đó. Anh có nghĩ tại Alagesia đang xảy ra chiến tranh không?”
“Anh không chắc… Nhưng ông Brom bảo người ta chỉ có thể thu hình ảnh con người, nơi chốn đã từng nhìn thấy. Vậy mà, địa điểm anh mới thấy, anh chưa từng biết bao giờ. Cũng như lần đầu tiên anh thấy Arya trong mơ khi còn ở thành Teirm vậy.”
“Có lẽ chỉ Togira Ikonoka mới cắt nghĩa được chuyện này.”
Khi sửa soạn lên đường lại, những người lùn có vẻ phấn chấn hơn vì đã cách Tarnag khá xa. Vừa đẩy cây sào, Ekksvar vừa cất giọng trầm trầm hát:
Thả xuôi dòng nước
đỏ ngầu như máu
Chúng ta lướt đi
trên con bè gỗ
Nhân danh gia đình,
Danh dự, giống nòi.
Lìa xa tổ ấm
Chúng ta ra đi
Tìm miền đất lạ
…
Những người lùn hoà giọng cùng Ekksvar, rồi họ chuyển qua những lời ca bằng ngôn ngữ người lùn. Giọng ca trầm hùng của họ đi theo Eragon tới lúc nó đến bên Arya đang ngồi khoanh chân sát mũi bè.
– Tôi đã gặp… một ảo ảnh trong giấc ngủ.
Arya ngước lên chăm chú lắng nghe khi Eragon thuật lại những gì đã thấy. Rồi nó hỏi:
– Đó có phải là thuật thu hình?
– Không. Ta vẫn hằng suy nghĩ về chuyện chàng đã thấy ta trong nhà tù ở Gilead, và ta tin rằng khi đó, trong cơn hôn mê, hồn ta đã cố tìm kiếm một sự giúp đỡ bất kỳ từ đâu mà ta có thể giao tiếp được.
– Nhưng sao lại là tôi?
– Vì suốt mười lăm năm canh gác trứng Saphira, ta đã quen với sự hiện diện của nó. Ta tìm kiếm bất cứ điều gì cảm thấy quen thuộc, và do đó đã giao tiếp với giấc mơ của chàng.
– Nàng thật sự mạnh tới nõi có thể từ Gilea mà bắt liên lạc với ai đó đang ở tận Teirm sao? Nhất là trong khi đang bị thuốc mê?
Một nụ cười bí hiểm thoáng qua môi Arya:
– Ta có thể đứng ngay tại cổng thành Vroengard mà vẫn nói chuyện được với chàng như lúc này.
Im lặng một lúc, Arya tiếp:
– Nếu khi từ Teirm, trong mơ, chàng đã thấy ta đang mê man tại nhà tù Gilead không do thuật thu hình; thì giấc mơ mới đây của chàng cũng vậy, chắc là một điềm báo mà thôi. Điều đó thường xảy ra với những loài có tri giác, đặc biệt là với những người biết phép thuật.
– Nếu những điều tôi thấy đó sẽ xảy ra, làm cách nào để có thể đổi thay những sự việc đó? Có vấn đề lựa chuyện ở đây không? Nếu ngay bây giờ tôi nhảy khỏi bè và chết chìm, có thay đổi được gì không?
– Ngày xưa, một vị thần tiên tên là Maerzadí có điềm báo trước là ông sẽ vô tình giết chết con trai ngoài mặt trận. Ông đã tự tử để cứu mạng con và đồng thời cũng để chứng minh rằng tương lai không được an bài trước. Tuy nhiên tự tử cũng không hoàn toàn thay đổi được định mệnh, vì không biết sự chọn lựa nào sẽ dẫn người ta đến đúng thời điểm mà người ta đã thấy. Chúng ta biết là có thể thay đổi tương lai – như các nhà tiên tri thường có thể biết được đường đời của một người – nhưng chúng ta không thể sàng lọc những tiên đoán đó để có thể biết chắc chắn điều gì, khi nào, ở đâu chuyện đó xảy ra.
Nghe những khái niệm đó, Eragon chỉ thấy rắc rối và càng thêm thắc mắc. Sau cùng nó tự nhủ: “Cho dù định mệnh và số phận con người có thật, mình chỉ mong vui hưởng hiện tại và sống đàng hoàng trong danh dự.”
Tuy nhiên nó vẫn hỏi tiếp:
– Vậy điều gì ngăn cản được tôi sử dụng phép thuật để thu hình lại những sự việc tôi đã thấy trong điềm báo đó?
– Nếu chàng còn quý mạng mình, đừng dại dột thử làm chuyện đó. Trước kia đã có nhiều pháp sư tự nguyện, liều lĩnh tìm cách chiến thắng những bí ẩn của thời gian như vậy. Họ chỉ thấy những hình bóng lờ mờ xuất hiện, rồi không thể ngăn nội lực cuồn cuộn thoát ra cho đến chết. Chúng tôi không bao giờ thí nghiệm lại vấn đề đó nữa. Cúng có những người đưa ý kiến, phép thuật sẽ mạnh hơn và thành công, nếu nhiều pháp sư cùng cộng tác, nhưng không ai hưởng ứng công việc đầy nguy hiểm đó và lý thuyết đó vẫn chưa được chứng minh. Thu hình quá khứ cũng có giới hạn thôi. Đối với tương lai, muốn đạt mục đích thì phải biết chính xác mình muốn thu lượm thông tin gì, ở đâu, lúc nào. Vì sao người ta lại có những điềm báo trong khi ngủ vẫn còn là một điều bí ẩn. Điềm báo có thể liên quan đến một sự kiện rất tự nhiên hay là một sự sắp đặt của phép thuật… hoặc có thể được truyền lại một cách tương tự từ ký ức của tổ tiên loài rồng. Điều đó chúng ta không thể biết. Còn nhiều bí ẩn của phép thuật chưa được khám phá ra. Hãy thận trọng, đừng để bị… tẩu hoả nhập ma!