Đọc truyện Đức Phật Và Nàng – Chương 21
Bảy
ngày sao đó, vào một sáng mùa hạ rực rỡ, chúng tôi lên chiếc xe ngựa tiện dụng
của Rajiva, thẳng tiến về hướng Thiên Phật động chỉ cách Kucha chừng bảy mươi
dặm, xe ngựa của Rajiva lại là cỗ xe rất tốt, nên chỉ mất hai ngày là đến nơi.
Có điều, phải ngồi chung với Rajiva trong một khoảng không gian hẹp như vậy,
không thoải mái chút nào. Ánh mắt chạm đến đâu cũng là hình ảnh của cậu ấy:
Rajiva lúc điềm nhiên, Rajiva lúc mỉm cười, Rajiva nho nhã, lịch thiệp, Rajiva
với ánh mắt hút hồn. Đôi mắt tôi, tựa như chuếc máy ảnh tám triệu pixel, liên
tực giữ những khung hình của cậu ấy. Giá như tôi có được một bức ảnh của Rajiva
thì tuyệt biết mấy, như thế lúc quay về tôi sẽ có kỷ vật để mà hồi tưởng lại.
Quay về? Đúng rồi, sớm muộn gì tôi cũng phải quay về, thế nên tốt nhất đừng
lãng phí và tình cảm thêm nữa.
Nào hãy
tập trung tinh thần, dẹp bỏ mọi ảo tưởng, kiên quyết tránh xa sức hấp dẫn của
“Chàng đẹp trai” và hoàn thành cho tốt bổn phận của mình.
Quyết
tâm như vậy, nên khi xe ngựa dừng lại nghỉ ngơi, tôi làm ngơ bàn tay đang chìa
ra muốn đỡ tôi xuống, tôi thờ ơ, tự tìm cách nhảy khỏi xe. Lúc ăn uống, tôi tự
phục vụ bản thân, kiên quyết không để tái diễn tình trạng lười biếng lúc trước,
ỷ lại vào đôi tay của cậu ấy. Lúc gặm xong miếng bánh khô Tây vực, tự mình lau
sạch những vụn bánh vương vấn trên mép, kiên quyết không nhận lấy mảnh khăn nhỏ
từ tay cậu ấy và để mặc đôi tay ấy phải ngượng ngùng thu về. Lúc ngồi lên xe,
không có cách gì tránh né, tôi đành nhắm nghiền mắt lại, nghỉ ngơi lấy sức,
buồn ngủ cũng kiên quyết không gục xuống, tránh khi tỉnh dậy lại thấy mình lấy
tay cậu ấy làm gối
Có phải
là ảo giác của tôi hay không? Một tiếng thở dài khe khẽ, buồn bã trôi đến tai
tôi. Trái tim tôi như thắt lại…
Cuối
cùng cũng tới Kizil. Tôi lấy làm khâm phục sự kiên cường của bản thân, suốt hai
ngày trong không gian riêng biệt chỉ có hai người, cái không gian nhỏ hẹp không
khỏi khiến người ta điên đảo, vậy mà tôi vẫn kiên trì nguyên tắc của mình, kiên
quyết không để nảy sinh tình cảm với người cổ đại. Đó là lời răn dạy của sếp
trước mỗi lần tôi vượt thời gian: Phải luôn ghi nhớ, em là người hiện đại, em
sẽ phải quay về thời đại của mình, phải luôn nhắc nhở bản thân, nếu nảy sinh
tình cảm nam nữ, lịch sự rất có thể sẽ vì em mà thay đổi…
Nhưng
khi trước mắt tôi là ngọn núi Karadag hùng vĩ đang tắm gội dưới ráng chiều
huyền ảo, dãy hang đá dài bất tận với những cửa động đều thẳng tắp, những chiếc
thang gỗ cao chất ngất với những hành lang bí ẩn len lỏi qua các hang đá, thì
những thứ quá ư mệt mỏi như tình cảm hay cảm xúc này nọ, đã trôi tuồn tuột ra
khỏi đầu tự lúc nào không hay.
Tối hôm
đó, tôi được sắp xếp ở lại trong một quán trọ ven sông Muzat. Nghe nói họ dành
cho tôi căn phòng tốt nhất, tuy vậy điều kiện vệ sinh không ổn cho lắm, may mà
tôi đã chủ động mang theo túi ngủ tiện dụng. Buổi tối bên sông Muzat, không khí
trong lành, thoáng đãng như vừa gột rửa, nền trời ngàn sao lấp lánh. Không gian
tựa như vô trùng này mang lại cảm giác sảng khoái, dễ chịu thật đặc biệt. Tôi
vốn định lang thang, dạo mát ven sông, nhưng bóng dáng cao gầy ấy cứ chậm rãi,
lặng lẽ bước theo tôi, khiến tâm tư tôi không khỏi xao động. Không biết phải
làm sao, tôi đành dằn lòng quay gót, rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơ
vơ giữa dòng sông vằng vặc ánh trăng.
Ngày
hôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra Rajiva. Chùa
Kizil đã thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu hành, phòng đá
dành cho các tăng sư tọa thiền đã kín chỗ. Tất cả mọi người đều nhìn Rajiva với
ánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh miệt. Không không,
không thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh miệt Rajiva chứ! Chắc
chắn tôi đã nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ trì chào đón Rajiva rất
nồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến một căn phòng thiền đặc biệt, đã được dọn dẹp
sạch sẽ. Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi nổi vây quanh Rajiva và sôi
nổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiền
một mình trong căn phòng đá vắng lạnh kia? Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy,
tăng sư trong các phòng khác cũng ngồi im lìm một chỗ, cả ngày không bước chân
ra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình không hiểu sâu
những phép tắc, quy định, luật lệ của nhà Phật, vả lại nói cho cùng thì, thứ
thu hút tôi đến đây là những bức họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đã đẩy mọi nghi hoặc
ra khỏi đầu.
Thiên
Phật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh dấu theo thứ
tự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các bức vẽ trên tường.
Phần lớn hang đá là những căn phòng nhỏ ngồi thiền của nhà sư theo tông phái
Phật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi đã từng khảo sát di tích này.
Trong các phòng thiền không có tranh vẽ, chỉ có một chiếc giường đá rất lạnh,
nhỏ và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo hang đá bằng tay, nên rất gian
nan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gian đầu xây dựng chùa, mọi phí tổn đều
do đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời điểm tôi đang có mắt ở đây, ngôi
chùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức bích họa và tám phòng tiền, trong đó
hai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn đang tất
bật với công việc vẽ tranh của mình.
Hấp dẫn
quá! Đây là một đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra một trong số các công
đoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn vẽ, hay các câu
chuyện Phật giáo trên các bức vẽ, bạn sẽ có được một bài luận xuất sắp với giá
trị học thuật cao. Một dịp tham quan di tích lịch sử vương triểu Guge thuộc
vùng Nagari (nay là huện Zanda, Nagari, Tây Tạng), tôi tình cờ gặp một tổ chức
từ thiện của Liên Hợp Quốc trong một ngôi chùa cổ từ tám trăm năm trước. Họ
đang mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức bích họa đã được sáp
xếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với một nghẹ nhân nữ người
Thụy Sĩ đang quỳ trên giá đỡ ở trên cao. Cô cho tôi xem bộ đồ nghề của mình:
Những chiếc bút lớn nhỏ đủ mọi kích cỡ, những chiếc xẻng và những chiếc kẹp
nhỏ, nhiều vô kể và không dễ sử dụng chút nào. Tôi mê mẩn quan sát cô ấy vẽ
tranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu nữ thêu hoa trên lụa. Những bức họa
sau khi được phục chế, trở lên sống động lạ thường, cảm giác như chúng vừa được
tái sinh. Từ tận đáy lòng mình tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng cao
đẹp của những con người ấy. Còn giờ đây, tôi đang được tận mắt chứng kiến quá
trình chuẩn bị và hoàn thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điều
này làm tôi phấn khích quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điều
kiện vật chất thiếu thốn thời cổ đại, trong thứ ánh sáng léo lắt được đốt lên
từ nhựa thông, những nghệ nhân này đã sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao.
Tôi hào hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽ
tranh của họ, phác họa những bức vẽ đã hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi được
bận rộn và vui sướng đến thế.
Họ sử
dụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột vàng hoặc thếp
giấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa sẽ thấy những hình ảnh Phật
Thích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh trong mỗi khung hình thoi
màu xanh da trời. trải qua sự bào mòn của
thời gian và mưa nắng, sắc đỏ trên bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắc
khác cũng không giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫn
vẹn nguyên vẫn tươi tắn như lúc trước. Đá Lapis Lazuli được khai thác ở
Afghanistan, cách Khâu Từ một nghìn năm trăm kilomet, với màu xanh lam quyến
rũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu được
các thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng vọt, gấp
nhiều lần so với giá vàng khối ở cùng một trọng lượng. trong không gian động
đá, sự giao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi bức tranh là
một cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là một tài sản lớn. Về sau,
khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng thờ cúng hình
tượng, họ đã đang tâm cạo sạch lớp bột vàng trên mình tượng Phật, để lộ lớp đất
đá cằn cỗi tới tận hiện đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh ấy, vẫn mỉm cười
với thời gian, vẻ đẹp của nó đã khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXI
phải thổn thức, ngậm ngùi.
Sau khi
phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trong
vòng vài trăm năm, Phật giáo không hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, ban
thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đến
tham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, một hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảng
thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi không thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu
chân Phật và ban thờ Phật. Một thế kỷ sau Công nguyên, cùng với sự phát triển
của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới
bắt đầu xuất hiện những tác phẩm tượng Phật.
Alexander
đại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara[10]và
mang theo tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều
chịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trở
thành một trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.
Các bức
bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật
Gandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó đã bị
hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
Gandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóc
lượn sóng, búi gọn lên trên đỉnh đầu. Trên mình khoác áo choàng dài, lộ một bên
vai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên trên các bức bích họa
phần lớn đều để trần nửa thân trên, dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y
phục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.
Tôi
đang phác thảo lại một bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa
(Siddartha)”. Bức họa này kể câu chuyện
khi Phật tổ vẫn còn là một thái tử, ngài đã nhìn thấu những phiền não, khổ sở
của cuộc đời và từ đó quyết định đi tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn
(Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên đã ra sức kiến tạo một đời sống
xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi đang say sưa
phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Rajiva
đang chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức
vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi đang phác thọa hình ảnh một cung nữ áp sát
thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là một hình ảnh rất
nhỏ trong hàng nghìn hình ảnh trên các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôi
không vẽ lại và phóng to lên, chắc sẽ không ai để tâm đến những nét tinh tế ấy.
Thân hình và tư thế của cô cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến,
tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người đã đi hết mà không hay
biết. Không còn cách nào khác, tôi đành đi ăn cùng cậu ấy.
Mấy
ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, không lúc nào rời
bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôi
thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo sẽ dùng số tiền quyên tặng của triều đình trong
những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng một pho tượng Phật khổng lồ. Tôi
nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quang
phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phật
nhỏ hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hình
của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai đoạn sau, hay còn gọi
là “trường phái Ấn Độ – Afghanistan”
Nghệ
thuật Gandhara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết,
nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thời
đại của đế quốc Kushan (hoặc Kusana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bị
Talian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuật
này. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul, thuộc Kashmir để học đạo,
đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn cậu ấy đã được chiêm ngưỡng những
pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bên
trong dựng tượng Phật khổng lồ. Một công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và
trí tuệ của một bậc cao tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành.
Nhưng
Rajiva không biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây dựng
hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ra
những pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công trình Thiên Phật động
Kizil không chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rất
lớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân
Cương hay ở Long Môn.
Không
thể không khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùng
này, trong khi Rajiva làm việc không nghỉ ngơi thì các sư tăng khác chỉ ngồi
yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng không ra ngoài,
thường sẽ có một chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều này
thật kỳ quặc, phải chăng họ đang thực hiện một nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôi
đem thắc mắc đó ra hỏi Rajiva thì cậu ấy chỉ trả lời qua loa rằng họ đang ngồi
thiền, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi biết Rajiva không muốn nói, nên tôi
tranh thủ thời gian buổi chiều, tìm hiểu vấn đề thông qua các nghệ nhân vẽ
tranh.
– Họ
đang ngồi thiền mùa hạ[11]
Ngồi
thiền mùa hạ? Nghe rất quen. Đúng rồi, trong “Pháp Hiển truyện” ngài
Pháp Hiển có viết rằng trên hành trình đi Tây Trúc, ngài đã nhiều lần phải dừng
lại ba tháng để ngồi thiền mùa hạ.
– Hàng
năm, cứ đến mùa hạ, các pháp sư lại ngồi thiền tĩnh tâm ở trong phòng, không
bước ra ngoài.
– Đúng
vậy, họ không được phép ra ngoài, nếu có việc hệ trọng, họ phải xin phép trụ
trì rồi mới được ra ngoài.
– Đúng
vậy, đúng vậy, họ ngồi như vậy cả tháng trời. Các bậc cao tăng thì ngồi thiền
liền ba tháng.
Cuộc
thảo luận sôi nổi không còn sức hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bỗng thấy sống mũi cay
cay. Mùa mưa, đệ tử nhà Phật tập trung, ngồi bên nhau, tĩnh tâm tu hành. Bởi vì
đây là khoảng thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở, họ không ra ngoài để tránh sát
sinh. Thì ra ánh mắt khinh miệt của những tăng sĩ kia dành cho Rajiva là có
thật. Đáng lẽ phải ngồi yên trong chùa tĩnh tâm tu hành, thì cậu ấy lại ngang
nhiên ra ngoài cùng một cô gái. Mặc dù cậu ấy đến đây vì công việc xây tượng
Phật, nhưng tại sao nhất định phải đến vào thời gian ngồi thiền mùa hạ? Cậu ấy
bất chấp thanh quy, giới luật của nhà chùa, là vì tôi ư?
Buổi
tối, tôi thơ thẩn bên sông Muzat, tôi biết, ở một góc khuất cách đó không xa,
cậu ấy đang yên lặng đứng nhìn. Tôi đưa tay lên vẫy, Rajiva có vẻ ngạc nhiên,
chậm rãi bước đến bên tôi. Tôi phủi sạch viên đá bên cạnh, cậu ấy do dự trong
giây lát rồi từ từ ngồi xuống.
–
Rajiva, hiện đang là thời gian ngồi thiền mùa hạ, cậu không nên ra ngoài mới
phải…
Cậu ấy
hơi giật mình, mắt di chuyển về phía dòng sông trăng lấp lánh như dát bạc,
giọng nói bình thản:
– Tôi
đến đây vì công việc xây dựng tượng Phật, điều đó càng tỏ lòng tôn kính đối với
Phật tổ, vì sao không được?
– Nếu
vậy, sao cậu không chờ một tháng sau hãy đến?
Rajiva
đột nhiên quay lại nhìn tôi, dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, đôi mắt ấy
như đang cuộn sóng, nhưng những đợt sóng rất nhanh chìm vào sâu thẳm.
Cổ họng
tôi nghẹn đắng, tôi không dám nhìn vào mắt cậu ấy:
–
Rajiva, tôi vẽ cũng tương đối rồi, ngày mai có thể rời khỏi đây.
Rajiva
im lặng, nghiêng đầu dõi mắt về phía mặt sông, gương mặt u trầm, không chút
biểu cảm.
Tôi cắn
chặt môi, đẩy quyết tâm mức cao nhất có thể:
–
Rajiva, tôi không thuộc về nơi này.
– Tôi
biết.
Bỗng
nhiên, cậu ấy đứng bật dậy, khuôn ngực phập phồng. Rajiva quả thực rất cao, tôi
ngước lên nhìn cậu ấy chỉ một lát mà mỏi nhừ cả cổ. Có lẽ không phải chỉ vì cậu
ấy quá cao, mà vì đầu tôi lúc này như đeo đá, nặng trình trịch, như đang rơi,
sắp rơi xuống rồi…
– Ngày
mai chúng ta sẽ rời khỏi đây.
Tôi
gắng gượng nhấc đầu lên, thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu dòng đang di chuyển
gấp gáp về phía nhà trọ, thoáng chốc đã biến mất trong một ngõ hẻm quanh co,
vắng lặng.
Đêm đó,
qua khung cửa sổ phòng trọ, tôi nhìn thấy bên sông, sưới ánh trăng vằng vặc,
một bóng dáng cao gầy, đơn độc. Ngọn gió vô tình thổi bay những nếp áo mong
manh, càng khiến bóng dáng ấy trở nên cô quạnh. Tôi như bị thôi miên vào bóng
người cao gầy ấy, hồi lâu chợt thấy vạt áo thấm lạnh. Tôi u ê lau giọt nước mắt
đã nhạt nhòa trên mặt, lao ra khỏi phòng. Không gian buổi đêm tịch mịch, quạnh
quẽ, tiếng nước róc rách, bên sông không một bóng người. Đêm đó, tôi hầu như
không ngủ, chống mắt nhìn trời sáng.
Trên
đường trở về, hai chúng tôi đều im lặng. Quanh mắt cậu ấy xuất hiện những quầng
thâm rõ rệt. Rajiva hướng ánh mắt ra bên ngoài cửa xe, tôi cũng vậy. Chúng tôi
đều đã trưởng thành, chúng tôi biết rằng điều gì không thể, thì không nên níu
kéo, có níu kéo cũng vô ích, vậy hãy nhanh chóng rũ bỏ, càng sớm càng tối. Trở
về thế kỷ XXI, tôi sẽ có cuộc đời riêng của mình, biết đâu tôi sẽ tìm được một
người để yêu. Anh chàng cùng khoa, học trên tôi một khóa có ý với tôi lâu rồi,
tôi sẽ suy nghĩ xem nên có phát triển tình cảm đó hay không.
Cho dù
anh ta không đẹp trai bằng cậu ấy, không thông minh bằng cậu ấy, không dịu dàng
bằng cậu ấy, không.. Tôi biết chứ, anh chàng khóa trên chẳng có điểm nào có thể
so sánh với cậu ấy, nhưng anh ta là con người của hiện thực. Còn Rajiva, đối
với tôi, chỉ là tài liệu lịch sử để nghiên cứu, chỉ là mấy dòng chữ trong đống
sách cũ nát mà thôi…
Chúng
tôi cứ lặng lẽ như vậy suốt dọc đường, cho đến khi trở về căn nhà nhỏ trong
thành cổ Subash. Trước lúc quay về chùa, Rajiva nhìn tôi rất lâu bằng ánh mắt
khó hiểu, sau cùng là một tiếng thờ dài:
– Tôi
sẽ sắp xếp đội thương nhân cho cô. Những ngày tới tôi phải ngồi thiền, buổi tối
sẽ không về đây nữa.
Một lúc
lâu, cậu ấy vẫn còn đứng đó. Bàn chân dùng dằng trước cổng nhà, mãi không cất
bước.
– Mười
ngày nữa là đến lễ hội Sumuzhe. Cô từng nói muốn xem lễ hội này. Hay là…
Cậu ấy
ngập ngừng.
– Để
sau khi lễ hội kết thúc hãy đi…
Tôi
ngẩng đầu, thấy nhìn như đang trôi xuống hai vực nước sâu hun hút, không có
cách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt ấy khiến cơ
quan phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên một tiếng:
– Ừ.
Vành
môi của cậu ấy như được kéo lên, đã rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười. Nhưng tôi
không ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Rajiva. Tôi thật sự muốn tham dự ngày
hội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là một học sinh hiếu
học, tôi là một con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối không phải là một… người
yêu lí tưởng…