Đọc truyện Đức Phật Và Nàng – Chương 12
– Đức
vua muốn tôi hoàn tục, trợ giúp ngài xử lý công việc triều chính.
– Cậu
đã từ chối, đúng không?
Nếu
không, chúng ta làm sao có được một dịch giả vĩ đại chứ!
– Sao
cô biết được?
Rajiva
nghiêng mắt nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên.
– Vì
cậu là Kumarajiva kia mà!
Nói như
vậy thì chỉ người hiện đại mới hiểu được. Thế nên tôi vội vàng đổi giọng:
– Bởi
vì, cậu không chỉ muốn giải thoát cho bản thân bằng con đường tu hành sau khi
đã thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa dục vọng và đạt đến cảnh giới cao nhất,
mà cậu còn mong muốn cảm hóa con người, cứu rỗi chúng sinh, tu thành chính quả,
cứu giúp cuộc đời.
Trong
những ngày lênh đênh trên sa mạc, chúng tôi từng thảo luận về lí tưởng. Khi ấy
tôi vẫn chưa biết cậu ta là Kumarajiva, nên không dám mở lời. Nhưng giờ đây,
tôi đã biết được thân phận thật sự của cậu ấy, lại đã từng đọc tài liệu về cậu
ấy, nên tôi hiểu Rajiva đang trăn trở điều gì.
Tôi
luôn cho rằng Phật giáo là một tôn giáo thú vị và các vị cao tăng tín Phật đều
là những triết gia.
Trước
khi viên tịch, Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mani) không để lại bất cứ kinh văn
có tính chuẩn mực nào giống như “Kinh Thánh” của đạo Cơ đốc hay “Kinh Coran”
của đạo Hồi và khi ấy, Phật giáo cũng mới chỉ là một chi phái nhỏ trong số rất
nhiều tôn giáo lớn ở Ấn Độ. Nhưng kể từ thời đại Thích Ca Mâu Ni, Phật giáo đã
có những chi phái của mình, như chi phái do người em họ Devadatta của Đức Phật
lập nên chẳng hạn.
Các đệ
tử của Phật tổ cũng có những kiến giải không giống nhau về giáo lý Phật giáo.
Những người có tư tưởng khác biệt thường sẽ viết ra một bộ kinh văn và lập nên
giáo phái của riêng mình. Bởi vậy, mấy ngàn năm qua, các tông phái Phật giáo ra
đời như nấm sau mưa, tổng hợp các loại kinh văn từ những tông giáo này có thể
phải mấy đời mới đọc hết. Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông là những nhánh chính,
còn những nhánh nhỏ khác thì nhiều vô kể. Tiểu Thừa có Tuyết Sơn Bộ với thuyết
“nhất thiết hữu bộ” (tất cả, quá khứ, hiện tại và tương lai đều hiện hữu đồng
thời). Phật giáo Đại Thừa ở Trung Nguyên có Thiên Đài Tông, Tịnh Thổ Tông, Pháp
Tướng Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông. Giáo phái Mật Tông Tây Tạng có:
Gelugpa giáo, Nyingmapa giáo, Kagyur giáo, Sakya giáo, Hoàng giáo, Hồng giáo,
Hoa giáo, Hắc giáo, nhiều đến nỗi hồi đi du lịch Tây Tạng, mặc dù đã đọc rất
nhiều sách, tôi vẫn lơ mơ không hiểu gì hết.
Nói
nhiều như thế là để giải thích vì sao Phật giáo lại có nhiều tông phái đến vậy.
Có thể
thấy rằng, các vị cao tăng đều đắc đạo, sáng lập ra giáo phái riêng ấy đều là
những triết gia uyên bác. Phật giáo là tôn giáo có sức lôi cuốn mãnh liệt với
những con người trí tuệ siêu việt này. Thử nghĩ xem, nếu bạn là người có trí
tuệ vượt xa người bình thường, với tầm tư duy mà người bình thường không có
được và trên cơ sở không đi ngược lại những giáo lý truyền thống, bằng con
đường tôn giáo, bạn có thể phát biểu nhân sinh quan, thế giới quan hay những
kiến giải uyên thâm của bạn về thế giới tinh thần, để được ngàn vạn người cảm
phục, ngưỡng mộ và tin theo. Điều đó thật vĩ đại. Đối với các vị cao tăng, nếu
có thể đem toàn bộ những kiến thức tích lũy một đời xây dựng lên những học
thuyết, những giáo lý với quan điểm của riêng mình, rồi lập ra tông phái riêng,
đó sẽ là thành tựu lớn nhất trong lĩnh vực Phật học.
Rajiva
thông minh trác tuyệt, lại giỏi tư duy, biện luận không khác một triết gia,
chắc chắn cậu ấy cũng muốn được trở thành người cha tinh thần của vạn người,
giác ngộ và dẫn dắt chúng sinh đến cảnh giới mà cậu cho là tuyệt đối. Tuy mới
mười ba tuổi, nhưng tôi tin rằng, cậu đã sớm hình thành nhân sinh quan và thế
giới quan đó từ lâu rồi.
Tôi cứ
mải mê theo đuổi những suy nghĩ bất tận của mình mà không nhận ra không khí im
lặng đã kéo dài từ nãy đến giờ. Thì ra Rajiva đang nhìn tôi chăm chú, khóe môi
hơi run run, ánh mắt như muốn dồn tất cả ánh sáng vào tôi, đôi mắt ấy như đang
thưởng thức, như đang xúc động và nhiều hơn cả là cảm giác như được an ủi bởi
vừa gặp được tri âm.
– Ngải
Tình, Rajiva có phẩm hạnh gì mà được gặp cô giữa nhân gian rộng lớn này.
Tôi
cười gượng gạo. Chẳng qua vì tôi đã đọc được những tài liệu viết về cậu ta, tôi
biết lúc đầu Rajiva theo học Phật giáo Tiểu Thừa nhưng sau đó đã chuyển sang
Đại Thừa. Những gì tôi vừa nói chỉ là khái quát, tựu chung điểm khác biệt cơ
bản giữa hai tông phái này mà thôi. Vả lại trước đó, Rajiva cũng từng thể hiện
nỗi trăn trở, nên tôi có thể đoán được mối suy tư lúc này của cậu chính là vấn
đề thay đổi tông phái.
– Ngải
Tình, còn nhớ một buổi tối nọ trên sa mạc, cô từng hỏi tôi vì sao lại xuất gia
không?
Ánh mắt
Rajiva bỏ tôi ở lại, để trôi về nơi xa xăm. Tôi xốc mình ngồi ngay ngắn, để có
thể lắng nghe một cách nghiêm túc.
– Năm
tôi lên bảy, mẹ tôi ra ngoại thành du ngoạn, thấy xác người đầy gò, xương trắng
đầy đồng, bà nhận ra rằng, tham lam là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ. Dục vọng
của con người khủng khiếp tựa ngọn lửa dưới địa ngục, ngọn lửa ấy sẽ thiêu đốt
con người thành tro bụi, khiến con người phải phơi xác chốn đồng hoang. Bà
không muốn phải chịu đựng những dày vò khốn khổ ấy thêm nữa, nên đã thề rằng:
nếu không thể cắt tóc đi tu, bà sẽ không ăn uống gì hết. Cha tôi lúc đầu phản
đối kịch liệt, nhưng mẹ đã quyết chí tuyệt thực. Cho đến buổi tối ngày thứ sáu,
khi hơi thở của mẹ đã mỏng như làn gió, mà bà vẫn không chịu ăn uống. Cha tôi
hoảng sợ, đành nhận lời với bà. Nhưng mẹ sợ cha đổi ý, đã yêu cầu phải để bà
xuống tóc trước rồi mới chịu ăn. Ngày hôm sau bà thọ giới, ra khỏi nhà, chuyển
đến tu tại chùa Tsio- li.
Truyện
kể về Rajiva đã chép rất rõ ràng nguyên nhân Jiva xuất gia, nên tôi khẽ gật
đầu:
– Vì
vậy, cậu đã theo mẹ xuất gia?
Rajiva
lắc đầu, ánh mất dừng lại hồi lâu trên ngọn đèn dầu đang đu đưa trong gió,
dường như cậu đang nhớ lại điều gì.
– Sau
khi mẹ xuất gia, vì quá nhớ thương bà, tôi thường xuyên đến chùa thăm mẹ. Khi
bà và các vị đại sư tụng kinh, tôi ngồi bên cạnh lắng nghe. Không biết vì sao,
những kinh văn đó, tôi chỉ nghe một lần là thuộc làu làu, khiến ai nấy đều kinh
ngạc. Trong chùa có vị cao tăng Phật Đồ Thiệt Di hỏi tôi về ý nghĩa những bài
kệ mà tôi thuộc, tôi đều trả lời lưu loát. Thầy khen tôi là nhân tài của Phật
môn, nên đã trò chuyện với mẹ, bày tỏ mong muốn nhận tôi làm đệ tử.
Trí tuệ
siêu phàm của Rajiva được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ. Trong truyện kể về cậu lúc
bảy tuổi, đã miêu tả như sau: “Một ngày đọc thuộc năm nghìn bài kệ, mỗi bài ba
mươi hai chữ, tổng cộng ba mươi hai nghìn chữ”. Bạn thử nghĩ xem, một cậu bé
mới bảy tuổi mà mỗi ngày có thể học thuộc ba mươi hai nghìn chữ, mà là những
kinh văn khó hiểu, có lẽ chỉ có Albert Einstein hay Steven William Hawking mới
có thể so sánh được. Tôi nghĩ rằng nếu để Rajiva đọc thuộc lòng số Pi, chắc
chắn cậu ấy sẽ phá được kỷ lục Guiness.
– Mẹ
hỏi tôi có bằng lòng xuất gia hay không. Tôi nghĩ rằng xuất gia thì sẽ được ở
bên mẹ, nên đã đồng ý.
Tôi hơi
sững sờ, nhưng cũng phải thôi, dù cậu ấy có thông minh bao nhiêu, cũng chỉ là
một chú nhóc không hơn không kém, chú nhóc ấy không muốn xa mẹ. Lí do này, rất
tự nhiên. Nhưng cuộc đời của Rajiva đã được quyết định bởi cái gật đầu năm bảy
tuổi ấy.
Ánh mắt
Rajiva rời khỏi ngọn đèn, trôi về phía tôi, vẻ băn khoăn lại hiện trên nét mặt:
– Lần
trước, khi cô hỏi tôi vì sao xuất gia, tôi mới nhận ra, tôi không biết phải trả
lời thế nào. Vì muốn ở bên cạnh mẹ ư? Tôi đâu còn là đứa trẻ bảy tuổi. Thêm vài
năm nữa, tôi sẽ thọ đại giới và chính thức bước vào cõi sắc sắc không không.
Nhưng, những ngày qua, hằng đêm tôi vẫn tự hỏi, rốt cuộc, tôi xuất gia vì điều
gì?
– Cậu
đã có câu trả lời chưa?
Tôi hơi
tò mò.
– Trước
đây, khi theo học Phật pháp, các thầy đều giảng rằng, bằng con đường tu hành có
thể tự giải thoát, thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa sân si, dục vọng và vươn
đến cõi Niết Bàn. Khi ở Kabul, tôi theo đại sư Bandhudatta nghiên cứu Phật giáo
Tiểu Thừa, tổng cộng có bốn triệu câu kinh giảng giải về phương pháp tu thành
chính quả. Nhưng…
Rajiva
đứng lên, bước về phía cửa sổ, xoay tay đặt sau lưng, trước mắt tôi là một dáng
hình cô đơn, khổ hạnh. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng đã toát lên thần thái của một
bậc cao tăng.
– Trên
đường trở về Khâu Từ, chứng kiến cảnh xương trắng chất đầy sa mạc, đạo tặc
hoành hành khắp nơi, người người khổ ải lầm than. Tôi lấy làm băn khoăn, tôi có
thể đắc đạo thông qua con đường tu hành, nhưng những con người đó thì sao? Đám
giặc cướp ấy vẫn ngang ngược làm càn, chúng sinh vẫn chìm đắm trong nỗi khổ ải
của sinh lão bệnh tử. Vậy tôi nghiên cứu Phật pháp phỏng ích gì?
Tôi
đứng lên, bước lại gần Rajiva, nhẹ nhàng lên tiếng:
– Tiểu
Thừa xuất thế, Đại Thừa nhập thế. Vì vậy, khi tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa,
cậu cảm thấy tông phái này phù hợp với ý nguyện của mình hơn. Địa Tạng Vương Bồ
Tát từng nói: Khi nào địa ngục còn chưa vắng âm hồn, thề sẽ không thành Phật.
Có phải cậu cũng muốn học theo Bồ Tát, cứu rỗi nhiều người chứ không chỉ cứu
rỗi bản thân?
Rajiva
đột ngột quay lại nhìn tôi, ánh mắt cảm động, gương mặt rạng rỡ.
– Đúng
vậy. Khi còn ở Sulaq, tôi theo học đại sư Suryasoma, lần đầu tiên tiếp xúc với
Phật giáo Đại Thừa, tôi đã bị thuyết phục sâu sắc. Mấy ngày qua, cùng cô thảo
luận về Phật pháp, những kiến giải thâm thúy của cô về Phật giáo Đại Thừa và
Tiểu Thừa khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ, có điều…
Gương
mặt thoáng chút ưu tư, giọng nói trở nên u uẩn:
– Có
điều sau khi trở về Khâu Từ, mỗi lần tôi đề cập đến giáo lý Đại Thừa, các vị sư
phụ đều cho rằng đó là thứ luận thuyết ngoại đạo sai trái, khiến tôi cảm thấy
rất khổ tâm.
Tôi có
thể hiểu được tâm trạng ấy. Phật giáo Tiểu Thừa đã tồn tại và hưng thịnh suốt
mấy trăm năm ở Khâu Từ. Thời gian đầu, cuộc phân tranh giữa hai tông phái này
diễn ra rất kịch liệt. Khi ấy việc truyền bá giáo lý Đại Thừa, vốn là một tông
phái nhỏ bé lúc bấy giờ, bị xem là hành vi “xấu xa” của một bộ phận rất nhỏ các
“tăng sĩ tích cực”. Vì vậy, có thể hiểu được Rajiva đã gặp phải sự kháng cự, phản
đối mạnh mẽ đến thế nào và nội tâm cậu đã phải đấu tranh, giằng xé ra sao.
–
Rajiva, thực ra, Đại Thừa được phát triển trên nền tảng của giáo lý Tiểu Thừa,
hai tông phái này không đối lập nhau. Phật tổ sáng lập và đạo Phật vì muốn
chống lại đạo Bà La Môn, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, bởi
vậy giáo lý của ngài hết sức đơn giản. Phương thức tu hành phỏng theo lối tu
khổ hạnh rất được ưa chuộng lúc bấy giờ, hy vọng bằng sự cố gắng của bản thân,
có thể đạt đến sự giải thoát. Nhưng xã hội đang trên đà phát triển và đổi thay.
Những điểm hạn chế của giáo lý Tiểu Thừa đang ngày càng trở nên rõ rệt.
Tôi
bước đến bên cạnh Rajiva và nhìn cậu bằng sự chân thành lớn nhất mà tôi có:
– Phật
giáo Tiểu Thừa đề cao “tự cứu độ”, muốn được giải thoát, nhất thiết phải xuất
gia. Những người tu hành theo Phật giáo Tiểu Thừa không tham gia sản xuất,
không sinh con đẻ cái. Nếu ai cũng xuất gia và theo tông phái này, quốc gia sẽ
không thể tồn tại, loài người tất diệt vong. Đúng vậy, lúc Phật giáo và quyền lực
thống trị phát sinh mâu thuẫn thì tông phái Đại Thừa ra đời để giải quyết vấn
đề đó.
Tôi
ngẩng đầu, dõng dạc:
– Hơn
nữa, giáo lý Đại Thừa có thể cứu giúp mọi người. Chỉ cần bái phật và đọc kinh
Phật là có thể thành Phật. Và như vậy, không cần phải xuất gia, cư sĩ cũng có
thể thành Phật, tức là sẽ giải tỏa được mâu thuẫn về sức sản xuất. Cư sĩ lại có
thể thành thân, tức là sẽ giải tỏa được nhu cầu sinh sôi nảy nở không ngừng của
nhân loại. Chỉ khi được giai cấp nắm quyền công nhận, Phật giáo mới có thể được
lưu truyền rộng rãi và thu hút thêm nhiều tín đồ. Đó chính là khi Phật quang
phổ chiếu, phổ độ chúng sinh.
Rajiva
dường như đang nghe rất nhập tâm, vẻ mặt đăm chiêu. Tôi không biết cậu ta hiểu
được bao nhiêu. Tôi chỉ đưa ra phân tích của mình dựa trên mối quan hệ giữa tôn
giáo và sức sản xuất, giữa tôn giáo và giai cấp thống trị mà thôi. Sau đó bổ
sung thêm:
–
Rajiva, nguyện vọng thay đổi tông phái của cậu là đúng đắn. Phật giáo Đại Thừa
phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, giúp giải tỏa nhu cầu tinh thần
của rất nhiều người.
Với
tính cách phóng khoáng và tư tưởng cấp tiến của cậu ấy, giáo lý Đại Thừa chắc
chắn phù hợp với cậu ấy hơn. Thế nên quyết định thay đổi tông phái của cậu ấy
về sau này cũng là tất yếu.
Rajiva
ngẩng đầu lên nhìn tôi, khuôn mặt thiếu niên phảng phất nét ưu tư:
– Vậy ở
Trung Nguyên thì sao? Liệu người Hán có đón nhận Phật giáo Đại Thừa không?
Tôi
cười:
– Điều
ấy là tất nhiên. Phật giáo Đại Thừa sẽ được lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên
từ đời này sang đời khác.
Quý
Tiễn Lâm từng nói: “Thời gian phát triển hưng thịnh của một tôn giáo dài hay
ngắn phụ thuộc vào mức độ Trung Quốc hóa của nó. Giáo lý nào càng bình dân càng
dễ được lòng quần chúng và như vậy sẽ càng được giai cấp thống trị ủng hộ. Giáo
lý Tiểu Thừa đòi hỏi con người tu hành khắc khổ mà chưa chắc đã có thể thành
Phật. Trong khi Phật giáo Đại Thừa, nhất là phái Thiền Tông đề xướng giác ngộ,
“Icchantika (nhất xiền đề: chỉ hạng người thấp kém, thiếu thiện căn) cũng có
Phật tính”. Vì vậy, chỉ cần thành tâm khấn Phật, học Phật là có thể vứt bỏ đao
kiếm, lập tức thành Phật. Như thế thì thật thanh thản, thoải mái hơn sao!”
Rajiva
dần trở nên tươi tỉnh hơn, vẻ kiên định toát ra từ vầng trán rộng. Hình như một
quyết tâm mạnh mẽ đã được thiết lập.
– Mấy hôm
trước, tại một điện thờ bỏ hoang trong chùa Tsio- li, tôi đã tình cờ lượm được
một cuốn kinh thư, đó là kinh luận Đại Thừa. Tôi không cầm lòng được nên đã lén
mở ra đọc. Nhưng vì lo ngại sẽ gây ảnh hưởng xấu đến những bài giảng và sự dạy
dỗ của các sư phụ, tôi không dám nói cho ai biết tôi mong muốn được học theo
giáo lý mới kia đến thế nào. Hôm nay, sau khi luận đàm với Ngải Tình, tôi đã
biết mình phải làm gì. Khi trở về, tôi sẽ đọc lại cho các sư phụ và sư huynh
cùng nghe. Và ngày sau sẽ truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa, cứu rỗi và phổ
độ cho ngày càng nhiều chúng sinh thành Phật.
Cuốn
sách mà cậu ta nhắc đến, tôi thấy rất quen.
–
Rajiva, cuốn sách mà cậu tìm thấy đó có phải là cuốn “Kinh phóng quang” không?
Và có phải yêu ma đã vây lấy cậu, buộc cậu phải từ bỏ không?
Trong
truyện kể về Rajiva có đoạn viết: “Khi Kumarajiva mở ra đọc cuốn “Kinh phóng
quang”, thì đột nhiên chữ viết trên thẻ gỗ biến mất. Đại sư biết đó là do yêu
ma gây chuyện, nên quyết tâm đọc kinh càng lớn hơn. Thế là ma lực trở nên vô
hiệu, chữ viết lập tức trở lại và đại sư tiếp tục nghiên cứu sách. Bỗng nhiên,
trong không trung truyền đến một giọng nói: Ngươi là người tài trí, sao lại đọc
Kinh phóng quang? Sư đáp: Đồ yêu ma quỷ quái, hãy xéo mau đi! Quyết tâm của ta
lớn tựa đất này, không gì có thể lay chuyển được”.
Tất
nhiên là tôi không nghĩ cậu ấy thực sự gặp ma. Tôi tin rằng Tuệ Giảo viết lên
câu chuyện ly kỳ này mục dích là muốn nhấn mạnh, Kumarajiva đã gặp phải những
trở ngại tâm lý rất lớn khi quyết định thay đổi tông phái. Bởi vì, phải thay
đổi tín ngưỡng mà xưa nay bản thân vẫn sùng bái và tin theo là một việc vô cùng
đau khổ. Chắc chắn cậu ấy đã từng day dứt, do dự, thậm chí từng muốn bỏ cuộc.
Những ràng buộc tâm lý bao giờ cũng là trở ngại lớn nhất và khó dứt bỏ nhất.
Cậu ta
ngạc nhiên thốt lên:
– Kinh
phóng quang?
Rồi đọc
một lần tên cuốn sách bằng tiếng Phạn và gật đầu tán thưởng:
– Tên
sách dịch rất hay. Đức Phật tỏa ánh hào quang, chiếu rọi đến chúng sinh.
Rajiva
cân nhắc hồi lâu, rồi nói:
– Cuốn
kinh này nói rằng, việc truyền bá đạo Phật nhằm giúp cho người mù thấy được ánh
sáng, người điếc nghe được âm thanh, người câm có được tiếng nói, người gù được
thẳng lưng, khiến người ngông cuồng trở nên nghiêm chỉnh, người bối rối được
yên lòng, người bệnh được chữa khỏi, người ốm yếu được khỏe mạnh, người già
được trẻ lại, người rách nát được áo ấm. Phật pháp chiếu rọi, giúp cho chúng
sinh được bình đẳng như nhau, cư xử với nhau như cha mẹ, như anh chị em ruột
thịt. Đều có nghĩa là, mục đích của tu hành là nhằm cứu rỗi chúng sinh, chứ
không đề cao cá nhân đắc đạo. Những giá trị sâu sắc này, bản thân tôi hết sức
tán đồng.
Hai
hàng lông mày của cậu ta khẽ chau lại:
–
Nhưng, làm gì có ma quỷ nào quấy rối tôi?
Ánh mắt
thoáng qua một nét cười, suy nghĩ một lát, lại tiếp tục giải thích:
– Nếu
có, thì đó là những trở ngại tâm lý của chính tôi. Tôi không biết có nên học
theo giáo lý Đại Thừa hay không. Kể từ khi có được cuốn kinh này, tôi đã do dự
không biết bao nhiêu lần, rốt cuộc có nên đọc hay không. Đọc xong lại do dự. Có
nên truyền bá hay không? Những trở ngại đó, đến tận hôm nay mới được rũ bỏ
triệt để.
Còn nhớ
buổi tối hôm đó cô từng hỏi tôi, lí tưởng của cuộc đời tôi là gì không?
Hít một
hơi thật sâu, rướn mình về phía trước:
– Đến
nay, tôi đã có thể giống như cô, nói lên thật rõ ràng lí tưởng của mình.
Cậu ta
ngừng lại một lát rồi cất giọng sang sảng:
–
Truyền bá đạo Phật tại mọi nơi tôi đặt chân đến, lập ra luận thuyết mới, cứu
rỗi chúng sinh, đây chính là lí tưởng của cuộc đời tôi.
Rajiva
trong tư thế ngẩng cao đầu, ánh đèn dầu leo lét không che nổi sự tự tin ngập
tràn trên gương mặt cậu. Khí chất bất phàm này khiến tôi cứ ngắm nhìn mê mẩn.
Sự tự tin và trí tuệ trác việt ấy tỏa sáng trên dáng hình một thiếu niên, tựa
như tôi đang nhìn thấy ánh sáng rực rỡ của tương lai, đó là thứ ánh sáng tỏa ra
từ ngọn lửa xung thiên được đốt lên bằng tất cả nội lực sống, hào quang tỏa
chiếu khắp nơi.
– Rất
có chí khí!
Tôi ra
sức vỗ tay, gật đầu và hô vang lời tán thưởng.
– Tôi
rất khâm phục những người có lí tưởng, có hoài bão. Hãy tiến lên theo mục tiêu
đã định, chắc chắn cậu sẽ thành công.
Rajiva
đột nhiên quay sang tôi, cung kính chắp tay cúi lạy, khiến tôi giật bắn cả
mình. Khi cậu ngẩng lên, tôi bắt gặp một khuôn mặt hao gầy hắt lên sắc đỏ, ánh mắt
chân thành và mãnh liệt:
– Ngải
Tình, Phật tổ thương tình đã gửi đến cho tôi một người thầy thông thái như cô
để chỉ dẫn và khai mở đường đi cho Rajiva. Rajiva nguyện không phụ lòng cô!
Cậu ta
chưa bao giờ tỏ ra cung kính như vậy đối với tôi. Một tia lửa nhỏ bất ngờ nhen
nhóm trong tim tôi và nhanh như chớp, tỏa đi khắp cơ thể tôi. Trong vô thức,
tôi dùng tay làm quạt đón gió. Vì sao đang giữa đông mà trời lại oi bức như
vậy?
Buổi
tối hôm đó, sau khi kết thúc giờ học, lúc bước ra cửa, Rajiva ngó lên bầu trời
đầy sao, nói:
– Ngày
mai sẽ có nắng.
Rồi
quay đầu lại nhìn tôi, nụ cười tươi tắn như gió xuân:
– Ngải
Tình, ngày mai tôi sẽ đưa cô đi tham quan thành Khâu Từ.