Đọc truyện Đoạt Hồn Kỳ – Chương 70: Hắc y sứ giả
Thượng Quan Linh lần ngay đến cửa sắt, vận hết toàn lực bình sinh của mình ra thử, quả nhiên không nhúc nhích gì nổi. Bắc Ưng Lãnh Lạc bèn nói với Thượng Quan Linh, hãy lại đằng cuối hang tận cùng thử xem. Thượng Quan Linh nghe lời, bước lại phía tận cùng của cuối hang, vận hết thần lực bình sinh của mình ra để đẩy, tuy bức vách có kiên cố, nhưng so với tấm cửa sắt dày nặng có phần yếu hơn. Lúc này chàng nghĩ đến ân sư Nam bút Gia Cát Dật, ái thê chưa cưới Liễu Mi, bạn thân Sở Canh và đồng thời cảm động sự cứu giúp của Bắc Ưng Lãnh Lạc, chàng cố vận hết toàn thân thần lực, một lần… hai lần… cố sức mạnh đẩy. Đến lần thứ ba, một tiếng ầm dữ dội vang lên, một tảng đá rộng hơn trượng chu vi đã bung ra và để lộ hẳn một miệng lỗ khuyết to tướng, bên ngoài ánh trăng sao lu mờ, gió nhẹ thoáng lúc này đã vào canh khuya của đêm trường.
Thượng Quan Linh sung sướng trong lòng, quay ngay vào bồng Bắc Ưng Lãnh Lạc để đào tẩu. Không ngờ vị ân nhân cứu mạng này lại phản đối rối rít, cho rằng mình đã thành kẻ tàn phế, tỏ ra thoát khỏi đây cũng chỉ vô ích với đời, sự chờ đợi bấy lâu nay, chỉ cốt hy vọng có vị đại hiệp nào đến để hứa với mình là sẽ tiêu trừ tên Tỉ Vương ma quân, để trả thù giùm cho mình, dù có chết cũng yên trí để nhắm mắt. Thượng Quan Linh vội nói với vị Lãnh tiến bối yên tâm, vì chính Tỉ Vương đã ỷ vào cây Lãnh điện tỉ thủ gây nên vụ án mười mạng của nhà Thượng Quan ở cách mười dặm ngoài thành Nhạc Châu!
Chàng thề nguyền, dù vì công hay tư, thế nào cũng phải tìm đủ mọi cách để tiêu trừ cho bằng được con người hung hiểm quỉ diệu tuyệt luân số một dưới vòm trời này mới chịu? Nghe xong, lời phẫn uất của Thượng Quan Linh đối với Tỉ Vương, Bắc Ưng Lãnh Lạc tuy dã hiểu ý quyết chí của chàng, nhưng có điều, Tỉ Vương vốn là một ma quân mưu cơ xảo trá tuyệt vời, không ai có thể ngờ trước được hành động thần xuất quỉ nhập của y, phải khôn khéo lắm mới có thể thành công, vậy không thể nào không e ngại cho được!
Hai người bèn bàn kế hoạch để đối phó, Tỉ Vương đã dùng đủ diện mạo của Bắc Ưng Lãnh Lạc để xuất hiện trên giang hồ. Vậy nhân lúc Tỉ Vương đang giả mạo Thượng Quan Linh, Thượng Quan Linh thật cũng nên hóa dạng thành Bắc Ưng Lãnh Lạc để đi phó hội gấp tại Bách Linh Miếu, khiến cho Tỉ Vương bị sự đột ngột làm cho y phải kinh hãi không biết thật giả ra sao, như thế Tỉ Vương sẽ phải thân hành điều tra vụ án ly kỳ này, và Thượng Quan Linh có thể nhân ngay cơ hội để hoàn thành sứ mạng báo thù. Bắc Ưng Lãnh Lạc cho Thượng Quan Linh hay về cách dị dung thuật bí mật của Tỉ Vương hiện đều ở trong thư phòng, có sẵn cả mặt nạ da người của Bắc Ưng Lãnh Lạc trong đó, xem ra Tỉ Vương đã giả dạng Thượng Quan Linh thì bộ mặt Bắc Ưng thế nào y cũng còn để lại trong thư phòng.
Thượng Quan Linh lúc này bị khích động tâm thần, vì biết mình sắp mở cuộc mạo hiểm gian nan để vào nơi hổ huyệt, nhưng ý chí chàng không hề nao núng với tình trạng tột nguy này. Bắc Ưng Lãnh Lạc cho biết xưa kia tuy bị bắt nhưng nhờ Lãnh Lạc có báu vật Kỳ lân bảo đới nên khi Lãnh điện tỉ thủ xoay quanh một vòng nơi cổ, lần thứ nhất Tỉ Vương phải công nhận mất hiệu lực, và nhìn nhận đó là một dị số của Bắc Ưng, phá ngay lệ thường là để cho Bắc Ưng Lãnh Lạc sống sót trên đời, với điều kiện bị tàn phế và cấm cố trong hang huyệt bí mật đây, dụng ý của Tỉ Vương không ngoài mục đích là để giữ oai danh của mình khỏi bị ảnh hưởng. Nhưng Bắc Ưng Lãnh Lạc cảm thấy hài lòng nhất là hai báu vật của mình, Tỉ Vương không hề tịch thu, đó là Kỳ lân báo đới và ngọn ám khí nổi danh một thời là ưng trảo liên.
Bắc Ưng Lãnh Lạc lấy ra hai báu vật này tặng cho Thượng Quan Linh, vì có hai báu vật này mới có thể chứng tỏ Bắc Ưng Lãnh Lạc lại xuất hiện thực sự, và cho Tỉ Vương ma quân hung dữ đến đâu cũng phải hoảng người thất kinh, đến chừng đó nắm lấy thời cơ thuận tiện; may ra còn nhờ trời phù hộ mới có thể thành công. Thượng Quan Linh cung kính bái lãnh nhưng nói rõ là không dám tiếp nhận báu vật của tiền bối, nay chỉ tạm mượn, khi diệt được Tỉ Vương sẽ kính hoàn lại. Sau khi bàn tính, Thượng Quan Linh bèn hối thúc ngay Bắc Ưng Lãnh Lạc lên đường ngay, Thượng Quan Linh cho rằng bất luận thế nào, cũng phải cứu ngay Bắc Ưng ra khỏi nơi hang huyệt này trước, và tìm cách an bài sự an toàn cho vị ân nhân xong xuôi, chàng mới yên trí đi tính nợ với tên Tỉ Vương. Nay đã biết lối thông ra ngoài Thượng Quan Linh tính cõng ngay Lãnh Lạc ra và nghĩ với công lực hiện đã khôi phục của mình, phần Tỉ Vương vắng mặt tại Lãnh Ưng Trang, Thượng Quan Linh có thể mạnh dạn tìm bộ mặt nạ da người của Bắc Ưng Lãnh Lạc, rồi sẽ khởi trình di Bách Linh Miếu để phó hội.
Thấy vậy Bắc Ưng Lãnh Lạc khẽ thở dài nói:
– Ta cũng không muốn giấu gì anh bạn trẻ nữa, mạng sống của ta nhiều lắm là còn nửa tàn nhang nữa là cùng…
Thượng Quan Linh hoảng hồn thất kinh hỏi:
– Kính thưa tiền bối! Ngài muốn nói…
Bắc Ưng Lãnh Lạc từ từ rằng:
– Không giấu gì anh, trong cuộc cứu chữa cho anh, và nhất là lại không có thuốc men gì, vì để cứu anh, công lực toàn thân tôi đã bị hao tận hết… vì đã mất sức quá độ, thế nào cũng phải chết…
Thấy Thượng Quan Linh như ăn năn đau khổ, Bắc Ưng Lãnh Lạc xua ngay tay không cho chàng lên tiếng, và an ủi chàng rằng:
– Anh đừng buồn và hối hận về chuyện này làm gì, vì đây là sự tình nguyện của ta, ta không ân hận tí nào, trái lại ta cảm thấy sung sướng là khác, vì con người tàn phế như ta có sống trên trần cũng bằng thừa, và chắc không bao giờ tìm được Tỉ Vương để phục thù. Nay tuy ta hy sinh, nhưng cái hy sinh này đã giúp được việc cho anh, và nhờ thế anh có thể thay ta trả thù, nay ta cảm thấy mãn nguyện về hành động chính đáng của ta lắm…
Nói tới đây, hối thúc Thượng Quan Linh mau khởi trình, nhưng chàng đâu có chịu, chàng đâu có thể ngờ được vị Lãnh Lạc đại hiệp, vì cứu mình mà phải hy vinh mạng sống như thế, chàng chỉ biết có một cảm giác nghẹn ngào hối hận, rối quýnh đang xáo trộn quay cuồng trong óc mình.
Thượng Quan Linh bèn truy hỏi ngay có cách gì để cứu cấp ngay không? Bắc Ưng Lãnh Lạc lắc đầu tỏ ý không còn phương pháp gì! Vị đại hiệp lúc này như ngọn đèn cạn dầu chỉ chờ thoảng làn gió nhẹ là tắt ngay… Càng lúc, vị đại hiệp tỏ ra yếu dần… hơi thở đã mau dần… Thượng Quan Linh quì ngay bên cạnh vị đại hiệp, chàng nghĩ người ta đã hy sinh tính mạng để cứu mình, nay trước cơn hấp hối của vị đại hiệp, mà mình đành phải trơ mắt chứng kiến cảnh mủi lòng của sinh ly tử biệt này… Thượng Quan Linh vốn là người chánh trực thành khẩn, mang ân huệ của người ta, thế nào cũng nghĩ cách để báo đáp, huống hồ đối với vị đại hiệp Bắc Ưng Lãnh Lạc đây.
Lúc này chàng vội ghé sát vào tai Lãnh Lạc để hỏi phương pháp cứu chữa, chàng không nhẫn tâm để chứng kiến cảnh đau lòng này. Nhưng Bắc Ưng chỉ nhè nhẹ lắc đầu. Thượng Quan Linh càng cuống, bất kể ất giáp, đưa ngay song chưởng ra, một áp vào ngực và một nơi lưng của Bắc Ưng để cứu trị cho vị đại hiệp…
Thời gian nặng nề trôi… lâu và khá lâu, không thấy hiệu lực gì, với hai bàn tay của mình đang áp vào người đại hiệp Thượng Quan Linh chỉ thấy tim của Bắc Ưng Lãnh Lạc đập rất yếu…
Thượng Quan Linh hoảng hồn không dám đụng tới nữa, chàng vội nhẹ tiếng gọi:
– Lãnh tiền bối… Tiền bối không thể đi trong lúc này được! Tiền bối ơi! Hãy ráng chờ cho Thượng Quan Linh trở về đây để ngài thấy chiếc thủ cấp của Tỉ Vương đã chừng đó ngài hãy an tâm ra đi…
Bắc Ưng mỉm cười khi nghe những lời phấn khởi… mắt vị đại hiệp đã nhắm lại… Thượng Quan Linh đã cố sức để cổ võ ý chí của đại hiệp. Nhưng Bắc Ưng đại hiệp đã không bao giờ hồi tỉnh nữa!…
Đến khi Thượng Quan Linh phát giác vị đại hiệp trong lòng mình đã lạnh ngắt, ông ta đã âm thầm ra đi… Bên ngoài, ánh trăng sao chập chờn ảm đạm, bên trong, Thượng Quan Linh đầy lòng bi thảm, hai hàng nước mắt nóng hổi không ngớt lăn trên hai gò má của vị thiếu hiệp.
Tại sao ông trời quá bất công đến thế, một vị đại hiệp chính trực nhân nghĩa như thế sao lại phải gặp một cái chết đau đớn thế này? Trời xanh sao nỡ bất công như thế?
Thượng Quan Linh đau khổ suy nghĩ mãi, rút cục chàng lẩm bẩm khấn vái:
– Kính vái anh linh của Lãnh tiền bối, nay vãn bối xin quyết lập lời nguyền, thế thế nào cũng đoạt cho bằng được võ lâm dị báo Lãnh điện tỉ thủ, sẽ dùng ngọn tỉ thủ này để ăn miếng trả miếng với tên ma đầu, cắt ngay thủ cấp của Tỉ Vương đem đến đây để tế lễ với Lãnh tiền bối…
Khấn xong, Thượng Quan Linh đứng dậy ngắm nhìn tử thi của Bắc Ưng Lãnh Lạc… Bỗng chàng lại khóc sướt mướt cúi lạy rằng:
– Kính thưa tiền bối, đệ tử xin kiếu ngài. Mong anh linh của ngài phù hộ cho đệ tử được thành công!
Ra khỏi hang, chàng vận ngay thần lực, vác ngay tảng đá khổng lồ ấy đóng kín lại cửa hang? Trong bụng khấn thầm và mong rằng đừng có ai khám phá ra bí mật này và kinh động đến di hài của Bắc Ưng Lãnh Lạc, chờ mình hoàn thành sứ mạng và đem thủ cấp của Tỉ Vương đến…
Nhân cảnh đêm tối, Thượng Quan Linh lẻn đột nhập ngay vào Lãnh Ưng Trang. Nay công lực kinh thế hãi tục của chàng đã khôi phục, thân pháp lẹ làng linh động như vượn, chàng nhoáng ngay vào thế giới màu đen của Lãnh Ưng trang viện, không hề kinh động đến một người nào! Hiển nhiên kẻ giả mạo Bắc Ưng Lãnh Lạc đã vắng mặt trong trang viện, cả đến đám nữ nô bộc như xác sống ấy cũng biến đâu mất, lúc này trong Lãnh Ưng Trang vô cùng tịch mịch. Thượng Quan Linh vốn là ngựa quen lối cũ, nên công việc tiến hành thuận tiện đúng theo ý tưởng, chàng mò ngay đến thư phòng lục lạo một hồi, quả nhiên trong một ngăn tủ kín đáo, tìm ngay một bộ áo đen và một bộ mặt nạ da người. Chính tất cả những vật dùng này, người khách thần bí nọ đã dùng để giả mạo Bắc Ưng Lãnh Lạc, chẳng cần do dự, chàng vội mặc ngay vào mình và mang mặt nạ xong, lập tức tìm đến một gương bằng đồng, thắp ánh đèn lên để soi, quả nhiên là một diện mạo của Bắc Ưng Lãnh Lạc, giống trăm phần trăm.
Sau khi nhìn kỹ trong gương đồng, Thượng Quan Linh phải khen thầm trong bụng là mặt nạ da người này quả đã chế tạo khéo hết chỗ nói. Chàng vững bụng về sự cải dạng của mình, tung ngay mình vọt ra đằng cửa sổ, lẻn mò ngay vào nhà bếp, đánh cho một bụng no nê cẩn thận, rồi sắm theo bình nước và chút lương thực, mò ngay tới chuồng ngựa, tuyển ngay một con tuấn mã, dắt nhẹ ra khỏi trang trại thì trời cũng vừa khởi sáng.
Nay đã mùng ba Tết, Thượng Quan Linh lúc này đã hoàn toàn thay đổi với một lối phục sức, toàn thân áo đen, trên cổ ngầm cuốn Kỳ lân bảo đới và ngọn binh khí nổi danh ưng trảo liêm của Bấc ưng Lãnh Lạc được dắt kín ngay phía dưới gấu áo. Lúc này, tâm thần và hùng khí của Thượng Quan Linh hiên ngang lẫm liệt, chàng đã quyết chí mạo hiểm, khẽ vọt mình lên yên nhắm ngay hướng Tây Bắc khởi trình.
Chàng nhẩm tính với tốc độ của tuấn mã, chỉ ba bốn ngày đường sẽ tới kịp đại thành Bách Linh Miếu của miền Bắc, cuộc thịnh hội của mùng mười Tết, thế nào cũng kịp dự. Lúc này Thượng Quan Linh lại khấn nguyện thầm: trước ngày mùng mười này, may sao tên ma đầu Tỉ Vương chưa vội hãm hại ân sư Nam Bút, ái thê Liễu Mi và bạn Sở Canh, để chờ cho mình đến kịp lột gian mưu của y! Sự lo lắng đã giục Thượng Quan Linh ra roi, tuấn mã cất vó lướt như bay, quả là loại lương câu miền quan ngoại… Lúc này chỉ thấy cát bụi gây thành một đường khói hồng xa dần…
Một cuộc hành trình liên miên suốt ngày đêm không ngừng, nhưng Thượng Quan Linh cũng sợ sức ngựa chịu không nổi mà chết dọc đường thì khốn, nếu gặp nơi có cỏ và nước, không thể nào không nghỉ để dưỡng sức ngựa. Vào chiều hoàng hôn ngày hôm sau Thượng Quan Linh đã trông thấy một màu xanh xa xa… hiển nhiên nơi đó có cây và nước. Con tuấn mã đã đánh được mùi, lúc này nó đã như mệt và khát, chẳng cần Thượng Quan Linh phải chỉ huy nó đã ngửng đầu hí vang lên như mừng rỡ, bọt mép nó trắng xóa, và khi gần đến nơi, lại thấy có hai ngôi lều dựng ở đó.
Nơi miền sa mạc, nay lại xuất hiện hai ngôi lều như thế, quá là chuyện chẳng thường! Thượng Quan Linh lập tức đề phòng trong bụng! Chàng cho ngựa sải nhanh lại, vừa ngay lúc đó, bên trong lều vải chạy vọt ra hai người, không sao ghìm cương kịp, mắt thấy thế nào cũng tông vào hai người này, nhưng chợt hai người thình lình nhảy tung tránh khỏi! Và họ lại vọt nhanh ngay lại chặn ngay đầu ngựa của Thượng Quan Linh.
Rõ ràng là lỗi tại mình quá hấp tấp, nên suýt đá tông phải người ta, đang tính cất tiếng để xin lỗi, không ngờ lại có chuyện lạ xảy ra, hai người này mặt đang hầm hầm nổi giận, nhưng sau khi nhìn rõ hình dạng Thượng Quan Linh, cả hai un bắn người và vội vàng quì thụp ngay xuống đất.
Cả hai gã đại hán này đều ăn mặc theo lối Mông Cổ, một trong hai người dùng Hán ngữ lắp bắp nói:
– Bọn tiểu nhân đáng chết! Đáng chết! Không biết Hắc y sứ giả đã giáng lâm… Kính mong Sứ giả tha tội chểnh mảng cho bọn tiểu nhân không biết để ra đón ngài…
Dứt lời cả hai lại cộc đầu như tế sao!
Câu xin lỗi của Thượng Quan Linh lúc này bị tắt nghẽn ngay, chàng lập tức hiểu ngầm, thôi đúng rồi! Đám người này chắc có liên hệ gì với Tỉ Vương đây, mà cái danh hiệu kỳ lạ Hắc y sứ giả, chắc phải là một tay chân trọng yếu của Tỉ Vương, tướng mạo lại giống hệt Bắc Ưng Lãnh Lạc. Và địa vị của Hắc y sứ giả chắc có lẽ hiển hách lắm nên đám người này thấy mình mới sợ hãi đến nông nỗi ấy!
Trong hai ngôi lều vải này nghe tiếng ồn ào bên ngoài đều chạy ra hết, sau khi thấy chàng Thượng Quan Linh đều hấp tấp quì mọp xuống hết, không dám ngửng đầu lên nhìn.
Thượng Quan Linh thấy vậy, lập tức suy đoán ra được phần nào, thôi đúng rồi, Bắc Ưng Lãnh Lạc tuy bị giam cầm sáu năm trời, nhưng tướng mạo đặc sắc của vị đại hiệp này đã bị lợi dụng để làm Hắc y sứ giả, trong phạm vi thế lực của Tỉ Vương, vô tình đã tạo ra một ngẫu tượng oai quyền tượng trưng! Và chắc hai chữ sứ giả ấy phải có ý nghĩa gì đặc biệt lắm? Rất có thể chính đó là Tỉ Vương, hơn nữa Tỉ Vương không hề dùng đến chân diện mục gặp ai xưa nay! Đương nhiên phải biệt phái các đệ tử đắc lực để nhậm quyền chức đại biểu cho mình, chẳng cần phải suy đoán sâu xa, Hắc y sứ giả này đương nhiên là một trong số nhậm quyền đại biểu ấy.
Thượng Quan Linh tuy là anh chàng thật thà, nhưng tâm tư lại khá thông minh, tuy dự đoán không bằng Liễu Mi, nhưng trong chuyến này, quả chàng cũng đã đoán trúng được tám chín phần mười. Nhưng Thượng Quan Linh lại nổi ngay một nghi vấn khác, theo lời Bắc Ưng Lãnh Lạc nói, chính Tỉ Vương đã mạo danh của Bắc Ưng để hoạt động, nhưng nay vô tình các thủ hạ của Tỉ Vương lại xưng hô với Bắc Ưng Lãnh Lạc là Hắc y sứ giả!
Nếu vậy, kẻ mạo danh của Bắc Ưng không phải bản thân của Tĩ Vương, vậy Hắc y sứ giả lại là ai kìa? Thượng Quan Linh chìm nghỉm cuộc suy tư, chàng quên mất đám người đang quì mọp dưới đất. Hai bên quì trước đầu ngựa ấy vẫn run run như thằn lằn đứt đuôi, thình lình đằng kia có tiếng quát rằng:
– Hai tên tử tội đã đắc lỗi với Sứ giả, nay Sứ giả đã không dung tha, còn không lo mau tự quyết cho rồi, bộ muốn liên lụy đến bọn chúng ta đây hay sao?
Tiếng quát ấy đã khiến Thượng Quan Linh giật mình.
Trong lúc Thượng Quan Linh chưa biết nên xử sự ra sao, hai tên đại hán quì phía trước đầu ngựa, tên bên trái ngẩng quay đầu lên, đưa tay rút nhanh ngay đao phắt ngay cổ, máu phun, thây ngã, cảnh rùng rợn bày ngay trước mắt. Tên còn lại bên cánh phải cũng đưa tay ra sửa soạn tự vận, nhưng bị Thượng Quan Linh ra tay ngăn chặn, chàng giơ ngang tay lên, một ngọn kình lực phát ra, cây đao bị bay bổng tít lên không. Bịch một tiếng, cả thân người của đại hán bị bật ngửa ra phía sau.
Lúc này, Thượng Quan Linh không lên tiếng, chàng chỉ sợ giọng nói của mình lại không giống Hắc y sứ giả thì nguy, cố sửa giọng oai hách và phát ra hai tiếng giản dị rằng:
– Cút mau!
Tên nọ như vừa lượm được hồn mình trong tử địa về hắn xúc động khóc sùi sụt quì lạy tạ như tế sao.
Đằng kia, âm thanh nọ lại quát lên:
– Tên tử tội không lo xéo nhanh đi lo bữa của Sứ giả còn đợi gì nữa…
Thượng Quan Linh đành phải nhảy xuống đất và bạo phổi bước ung dung ngay về phía lều, một đám người đã vội hấp tấp bước ra đón, người dẫn đầu là đại hán cao lớn, mặc theo lối người Hán, nhìn quen mắt lắm. Chỉ thấy người này cung kính quì xuống rằng:
– Tiểu nhân Tra Phong, xin được kính hầu sứ giả tại đây!
Giọng nói của người này chính là giọng quát trong hai lần vừa rồi, khi hắn ngẩng đầu lên, Thượng Quan Linh kinh ngạc, trời ơi, thì ra tên Tra Phong này không phải là ai xa lạ gì, chính là một trong hai tên đồ đệ của lão bà bịt mặt. Mình đã biết hắn, nhưng hắn làm sao nhận ra Hắc y sứ giả lại là Thượng Quan Linh? Chàng vừa mừng vừa kinh, tên này đã có mặt tại đây, lão bà bịt mặt thế nào cũng đã ở gần đâu dây, vậy là cơ hội báo thù đã nằm ngay trước mắt. Chàng hồi hộp, chỉ sợ lộ tẩy thì hỏng chuyện, vội thu ngay tâm thần của mình lại, oai hách rằng:
– Đứng dậy!
Tên Tra Phong kính cẩn dẫn đưa ngay Thượng Quan Linh vào trong lều, chàng âm thầm đề phòng và bụng bảo dạ: Thượng Quan Linh! Hãy ráng mà bình tĩnh, cơ hội đã đến, nhưng phải cẩn thận tuyệt đối, đừng nên để lỡ dịp may… Vào đến lều, bên trong trang hoàng hoa lệ đẹp mắt.
Khi ăn uống, Thượng Quan Linh dằn lòng không nổi, bèn lạnh lùng quát:
– Tra Phong, thầy ngươi đã lại chưa?
Tra Phong lật đật thưa:
– Kính bẩm Sứ giả, hiện sư phụ và sư đệ của tiểu nhân đều ở bên kia lều, để tiểu nhân qua mời họ qua đây!
Thượng Quan Linh lập tức nảy ra một linh cảm, cất giọng hừ lên một tiếng lạnh lùng âm u, tỏ ý không bằng lòng. Tra Phong thấy vậy giật mình hoảng hồn, không dám ho he một tiếng nào, vội lui nhanh ra ngoài.
Một chặp, Tra Phong dẫn hai người bước vào, Thượng Quan Linh nhìn thấy, trống ngực càng đập thình thịch, thì ra chính lão bà bịt mặt và tên đồ đệ! Chàng cố đè nén nỗi lòng hồi hộp của mình. Không chờ cho hai người tiến gần, Thượng Quan Linh oai hùng quát:
– Các người kể cũng hách thật! Hừ! Hừ…
Hai đệ tử đứng cạnh lão bà vội quì mọp ngay xuống đất, tên Tra Phong vội cung kính rằng:
– Kính bẩm sứ giả, tại mấy ngày này gia sư trong người khó ở, nên sư đệ tiểu nhân luôn phải túc trực hầu cạnh, nên mới chểnh mảng lại nghênh tiếp và tham yết ngài, kính xin sứ giả rộng lượng khoan dung cho… – Quay ngay sang phía sư đệ quát ngay: – Tra Lôi! Còn chờ gì mà không gỡ khăn che mặt ra để tạ tội với sứ giả!
Tên Tra Lôi lập tức ngoan ngoãn nghe lời, cỡi ngay khăn che mặt ra cúi lạy lia lịa.
Thượng Quan Linh chỉ lạnh lùng hậm hự, chỉ thấy lão bà bịt mặt vẫn cầm cây trượng đứng uy nghi bất động. Khi Thượng Quan Linh nhìn chăm ngay vào mặt lão bà ấy, người già bịt mặt này mới cất tiếng rằng:
– Sứ giả! Tuy người có những đặc quyền khác với Tử y sứ giả (sứ giả áo tím), Lục y sứ giả và Lam y sứ giả và được xưng chung là Tứ đại sứ giả, có quyền đại biểu chúa thượng đồng thời nắm quyền sát sinh trong tay, những chuyến này lão bà ta đâu phải là vờ bệnh trong người, nếu quả người n chuyện này mà nổi giận, vậy xin hãy nể mặt mụ già này mà miễn truy cứu cho…
Thượng Quan Linh thấy mụ già này có vẻ ngang ngạnh ngạo mạn vậy, trong bụng cũng chưa biết nên quyết định ra sao, nên mượn danh nghĩa gì để nhử cho mụ ta ra tay giao đấu, để mình lấy cớ giết! Đương nhiên Thượng Quan Linh không thích mượn oai của Tỉ Vương và quyền lực của Hắc y sứ giả để ép họ tự chết, nhưng nhìn qua phía địch, nếu cả ba thầy trò họ đều hợp sức lại, quả là thực lực của họ hơn mình, nếu lỡ việc chẳng thành, thầy trò họ chạy ráo cả. Thì càng hỏng chuyện!
Chàng bèn nghĩ ngay một kế là phải làm sao chọc cho mụ già bịt mặt này nổi khùng và ép mụ ta vào thế phải ra tay, như thế mới hòng kết liễu mối thù Phủ Chưởng Hàn và nhất là vụ án giết mười mạng người thân của họ Thượng Quan Linh. Nghĩ xong, Thượng Quan Linh bèn lạnh lùng chậm rãi nói:
– Hừ! Vậy thế ngươi có biết Chúa công sai ta đến đây có mục đích gì không?
Lão bà bịt mặt cảm thấy bất an, giọng có vẻ run rằng:
– Lão bà ta quả chưa biết. Dám xin sứ giả cho hay!
Thượng Quan Linh cười nhạt lạnh lùng:
– Câu chuyện về rằm tháng năm ngoái, xảy ra tại Thượng Quan Trang cách Nhạc Châu mười dặm; nay Chúa công có lệnh, muốn nhà ngươi phải tường trình bẩm rõ lại hết đầu đuôi của vụ án ly kỳ đó để Chúa công còn lo định liệu mọi việc quan trọng sắp đến!
Trong lòng Thượng Quan Linh, xưa nay vẫn chưa làm sao tìm rõ được nguyên nhân tại sao lão bà bịt mặt này lại phó thác cho Tỉ Vương dùng ngọn Lãnh điện tỉ thủ, giết một lúc mười người thân của nhà họ Thượng Quan! Nay kẻ đại thù đang đứng trước mắt, bụng nghĩ dẫu có giết ngay mụ già này, e cũng khó mà biết rõ căn do về vụ thám án năm xưa tại Thượng Quan Trang, vì vậy chàng đành phải mượn danh lệnh của Tỉ Vương để hầu biết nguyên nhân của vụ án, xong sẽ ra tay trả thù! Và chàng cũng ngầm cho rằng lão bà bịt mặc đây ương ngạnh và ngạo mạn lắm, e mình dùng lối này cũng chẳng có hiệu quả gì, với Thượng Quan Linh lúc này, chẳng qua có tính cách thăm dò thử mà thôi, nếu mụ ta không phục, cũng có thể trở thành một lý do cho Thượng Quan Linh khiêu khích để ra tay gây chiến!
Nào ngờ sau khi lão bà bịt mặt nghe xong, thở dài một tiếng, toàn thân loạng choạng về phía sau như muốn đứng không vững, cây trượng chống dưới đang rung lên. Thượng Quan Linh bỗng cảm thấy thương hại mụ già này, đáng lẽ mình không nên ép người ta quá thế, tội nghiệp. Nhưng chàng lại sực nghĩ ngay, lão bà đây chính là kẻ đại thù địch của mình, không thể nào vì lòng nhân nghĩa mà buông tha cho mụ ta được. Nay mình đã bị vướng trong thế cưỡi trên lưng cọp, Thượng Quan Linh bỏ ngay ghế ngồi và từ từ đứng dậy, đôi mắt sáng ngời nhìn thẳng sang phía mụ già đang lảo đảo như muốn ngã ấy lạnh lùng rằng:
– Hừ! Tại sao thì nói đi chứ…
Hiển nhiên lão bà bịt mặt chuyến này bị ép bức, và lại chạm đúng vào nỗi lòng đau đớn của mụ ta, nên trong cơn kinh hoàng phẫn uất bi ai ấy, không làm sao dứt khoát ngay được, chỉ trầm mặc lặng thinh, còn hai tên đồ đệ Tra Phong và Tra Lôi; khăn bịt mặt đã gỡ, lúc này chỉ thấy sắc mặt hai tên này đều đầy vẻ bi ai uất ức.
Lúc này Thượng Quan Linh cứ chờ họ chống đối để chàng có cơ ra tay mở cuộc đại tàn sát ba thầy trò này!
Và chính đây cũng là một cuộc thử thách oai lực của Tỉ Vương; chờ một chặp, lão bà bịt mặt bỗng cắn răng nghiến lợi bật khóc cửa miệng từng tiếng một:
– Được! nếu dã là… lệnh… của Chúa công… mụ già ta đâu… dám không… tuân lệnh…
Thượng Quan Linh ngầm kinh hãi, quá nhiên oai quyền của Tỉ Vương ghê gớm thật!
Tra Phong và Tra Lôi có vẻ rất quan tâm đến thầy chúng, tiếng Tra Lôi rối lên:
– Thưa sư phụ!… — Ý hắn như muốn ngăn cản!
Lão bà bịt mặt quay lại đưa tay ngăn ngay hai đồ đệ tính theo sau, và chậm rãi nói:
– Hai đứa con hãy lo tiếp hầu sứ giả tại đây, ta phải về lều bên kia, chiếu theo lệnh của Chúa công, sẽ ghi chép lại những chuyện dĩ vãng, để nhờ sứ giả chuyển trình và cầu xin Chúa công mở ơn hái hà…
Dứt lời, lão bà bịt mặt lững thững bước ra khỏi lều. Thượng Quan Linh lại nghiễm nhiên ngồi xuống ăn uống một mình, chàng nghĩ thầm, nếu mình không mượn ý chỉ (tựa loại chiếu chỉ, nói bằng miệng) của Tỉ Vương mụ già này đời nào chịu khai chuyện này ra, nay kể mình thành công, chàng cảm thấy khoái trá vô cùng, bụng nghĩ bấy lâu em Liễu Mi cứ chê mình thật thà, chất phác vô dụng, nếu nàng biết được chuyện này đây mới hiểu, mình cũng không phải là hạng xoàng gì nhé!
Trong lều, Tra Phong, Tra Lôi ngồi chung một góc, Thượng Quan Linh ngầm quan sát, thấy hai tên này có vẻ hậm hực, nhưng lại không dám nổi cơn! Ngoài ra các tên khác đều trốn tuốt đi đâu hết, Thượng Quan Lỉnh nghĩ bụng: Hắc y sứ giả này chắc phải là một tên hung ác dữ tợn, nên mới có thể đại biểu quyền oai để sai khiến các bộ hạ của Tỉ Vương, vậy nhân vật này không phái là hạng tầm thường gì, từ võ công mưu trí, đều có thể liệt vào hạng đệ nhất lưu, rất có thể Hắc y sứ giả xưa nay thường thay thế Tỉ Vương để chấp pháp tử hình cho đám thủ hạ nên chi mọi người thấy dáng Hắc y sứ giả đều như gặp Diêm Vương dưới quỉ phủ vậy.
Càng không ngờ rằng mình vô tình lại được đóng một vai trò quan trọng đến thế, Thượng Quan Linh chỉ cười ngầm trong bụng. Đâu nửa tàn nhang trôi qua, lão bà bịt mặt vẫn chưa thấy quay về, Thượng Quan Linh đã nổi nóng, nghĩ ngay tới hai tên đồ đệ bất lương này của mụ ta, nay đã lọt vào tay mình, thế nào cũng trừng trị cho chúng một mẻ! Nghĩ vậy bèn lạnh lùng khiêu khích ngay rằng:
– Tra Phong, Tra Lôi! Đã lâu không có dịp gặp hai ngươi! Vậy chắc công lực của hai người thế nào chả có tiến bộ ít nhiều! Hà! Hà! Tiện giờ này không bận công việc gì, chúng mình thử quần với nhau vài ngọn xem sao…
Nghe câu nói ấy, anh em họ Tra đâu phải là kẻ ngốc nghếch gì mà không biết dụng ý, Tra Lôi không dám ho he gì. Tra Phong vội vã rằng:
– Anh em tiểu nhân vốn tài hèn sức mọn, đâu dám to gan lớn phổi mà ra tay rối trước mắt Hắc y sứ giả đại nhân…
Thượng Quan Linh nói ngay:
– Không sao! Không sao!
Dứt lời đứng dậy, hất ngay áo bào đen lên, rút ngay ngọn binh khí lừng danh của Bắc Ưng Lãnh Lạc là lưỡi kiếm ưng trảo, chỉ thấy ngọn binh khí kỳ hình quái trạng sắc bén này ánh sáng nhoang nhoáng khắp trong lều. Hai tên cao túc họ Tra của lão bà bịt mặt, xưa kia cũng đã cùng giao tranh qua với Thượng Quan Linh, nhưng hồi đó với một chọi một, đương nhiên chàng dư sức thắng, nhưng hai anh em chúng họp sức, quả khó thắng nổi! Nhưng ngày nay, nhất là sau khi Thượng Quan Linh đã ăn Tuyết bi tiên hoa, công lực dũng mãnh vô cùng, hơn nữa ngày còn học nghệ tại Ngao Sơn, ân sư Nam bút Gia Cát Dật, đã cặn kẽ chỉ dạy cho chàng hầu hết về cách sử dụng các loại binh khí kỳ lạ, nên chi ngày nay với ngọn ưng trảo liêm trên tay, chàng cũng thành thuộc không kém gì cây Lệ thủy tinh kiếm. So với công lực ngày nay của mình, dư sức thắng nổi anh em họ Tra họp lực lại.
Dưới ánh đèn trong lều, Thượng Quan Linh thấy rõ hai bộ mặt cắt không ra máu của anh em họ Tra, chàng hơi thất vọng. Thượng Quan Linh giơ ngay lưỡi liềm ưng trảo cười nói:
– Trong này cũng khá rộng, vậy chúng ta cứ việc đùa với nhau tại đây cho vui! Hai ngươi cùng lên cả một lúc cho tiện, và cứ việc thẳng tay, đừng có ngại gì hết.
Tên Tra Phong miệng mấp máy, hình như còn muốn năn nỉ van xin, nhưng người em Tra Lôi, có vẻ đầy can đảm hơn người anh, hắn ngang nhiên đứng phắt dậy, soạt một tiếng kiếm rút ra khỏi vỏ, hiên ngang nói rằng:
– Đại ca! Anh còn do dự gì nữa? Rõ ràng Chúa công đã có lệnh, nên mới cho sứ giả đến đoạt tính mạng chúng ta. Đại trượng phu dầu chết cũng phải oai phong hiển hách, hà tất phải ngoe nguẩy đuôi khuyển mà cầu xin làm gì, đã lâu lắm rồi, tuy đệ chưa bao giờ gặp mặt Chúa công: nhưng cá tính của Chúa công đệ rõ lắm. Khi mà Chúa công bắt anh phải chết trong hai canh, tuyệt không bao giờ kéo dài đến canh ba, nay sứ giả phụng mạng tới đây chẳng cần gì nói cho thêm lôi thôi! Chúng ta cứ việc tuân mạng cho rồi!
Tra Phong nghiễm nhiên đứng dậy hỏi:
– Dám hỏi sứ giả, phải chăng ý Chúa công muốn anh em chúng tôi chết…
Thượng Quan Linh lạnh lùng không đáp, Tra Phong bi phẫn rằng:
– Đã là lệnh của Chúa công, sứ giả cần gì phải ép chúng tôi ra tay như vậy, tuy bọn chúng tôi bất tài, nhưng vẫn còn đủ can đảm để tự sát!… – Rút ngay kiếm sửa soạn tự tử.
Bỗng lại nghi hoặc hỏi rằng:
– Dám hỏi sứ giả, nếu anh em chúng tôi hợp lực bị bại lẽ dĩ nhiên không còn nói vào đâu. Còn may mắn được sứ giả nể tình nhường cho nửa đòn nào… nếu vậy… sứ giả lại tính xử trí sao?
Thượng Quan Linh cười thầm trong bụng: đã sắp toi mạng đến nơi mà vẫn còn mơ sống, đáng cười thay cho lũ vô tri. Chàng bèn lên tiếng lạnh lùng:
– Hai ngươi chỉ cần thắng nổi ta nửa đòn thôi, bản sứ giả sẽ niệm tình tha ngay cho hai người tự do ra đi!
Anh em họ Tra mừng thầm trong lòng, anh em đưa mắt ra dấu với nhau, rồi Tra Phong lên tiếng:
– Kính thưa sứ giả! Vậy anh em chúng tôi xin giở hỗn với ngài vậy?… Và xin ngài chỉ giáo!…
Anh em họ Tra chia nhau một bên trái, một bên phải, thình lình vung kiếm ra áp đánh sang!
Tra Phong, Tra Lôi biết rằng trước mặt mình đây là một kình địch ghê gớm, chỉ cốt sao mình thắng được nửa đòn, nếu không, máu sẽ loang ngay tại đây mất, nên hai em ra tay toàn dùng các thế đánh bí hiểm để đoạt phần hy vọng cho bản mạng mình, càng đánh càng tỏ ra liều mạng.
Võ công quỉ dị của anh em họ Tra này, đều giống nhau ở chỗ tả chưởng hữu kiếm (bên trái chưởng, bên mặt dùng kiếm), đồng thời đưa ra, tay trái của hai người giơ xòe ra như hai móng trảo, nhằm bấu vào huyệt đạo thượng bàn của Thượng Quan Linh, đồng thời hai ngọn kiếm giao nhau như hình một chiếc kéo lớn, chém phạt túi bụi. Chỉ thấy kiếm thế chưởng phong vung lên tua tủa, dũng mãnh tuyệt vời!
Thượng Quan Linh cũng muốn cho hai tên hoảng hồn một chuyến, chàng không thèm né tránh, đứng ngẩn người như kẻ hoang mang bối rối, không biết tránh đòn ra sao. Anh em họ Tra cũng biết đối thủ đang vờ để nhử đòn, lập tức hoảng hốt, nhưng vì thời gian xảy ra quá chớp nhoáng, hai người không sao thu kịp thế đánh của mình về, chưởng và kiếm đều đánh trúng vào người Thượng Quan Linh. Anh em họ Tra chỉ cảm thấy đôi cánh tay đau nhói ê ẩm, và nơi mà chưởng kiếm đánh trúng ấy không khác nào như đánh trúng vào miên thạch vậy. Ngay lúc đó, Thượng Quan Linh hét lên một tiếng, thần lực phát ra, bên trái dùng chưởng, bên mặt ngọn câu liêm ưng trảo đánh cùng ra một lúc, chỉ thấy ánh sáng nhóa choáng lên đường, anh em họ Tra bị bung hẳn toàn thân lên, cây ưng trảo liêm vẽ lên một đường chớp nhoáng, cheng keng keng hai cây kiếm của anh em họ Tra bị tiện gãy rớt xuống mặt đất!
Tra Phong, Tra Lôi miễn cưỡng lóp ngóp bò dậy, tên Tra Lôi kể cũng còn khí phách anh hùng, từ ngày cha sinh mẹ dưỡng đến nay, hắn chưa từng thấy qua lối võ công xuất sắc tuyệt đỉnh này bao giờ, nay biết anh em mình, dẫu cho hợp sức cả sư phụ mình là lão bà đi nữa, cũng chưa phái đối thủ của Hắc y sứ giả này? Vị sứ giả quả danh bất hư truyền, công lực cao không thể nào lường nổi! Trong lòng đã tuyệt vọng, nghĩ nay đã bại, không sao tránh khỏi cái chết, chẳng thà mình tự sát quách cho yên phận! Nghĩ xong liếc nhìn ngay huynh trưởng Tra Phong, sắc mặt anh minh tái mét như gà bị cắt tiết, hơi thở dốc và mồ hôi ướt sũng tóc, tinh thần vô cùng khủng hoảng!
Hắc y sứ giả lúc này đứng cách hai người không xa, tay cầm ngọn binh khí kỳ hình quái trạng ưng trảo liêm, ánh sáng lấp loáng oai phong lẫm liệt.
Tra Lôi nói với anh mình rằng:
– Đại ca! Em xin đi trước đây! Và xin gặp anh dưới âm ty vậy. Tí nữa thầy có lại phiền anh bẩm lại, em rất ân hận là không thể nào hầu cạnh bên thầy mãn đời, vậy kính mong thầy hãy tự bảo trọng lấy ngọc thể, phúc thọ khang sinh…
Tra Phong bi thảm quyết liệt với em rằng:
– Tiểu đệ cứ yên trí đi vậy, ngu huynh sẽ lo bẩm lại với thầy và thế nào cũng sẽ gặp lại em dưới suối vàng…
Tra Lôi cầm ngay cây kiếm gãy trên tay, nhằm ngay tim của mình đâm mạnh, máu tươi phun, thân ngã bịch xuống!
Thượng Quan Linh vốn là người nhân hậu, không háo sát, dù đối kẻ địch cũng vậy, nay thấy Tra Lôi tự sát, chực tính ra tay ngăn chặn nhưng đã trễ, chàng tự cảm thấy ăn năn. Tra Phong lui ngay về góc âm thầm ngồi xuống, và lên tiếng hôi rằng:
– Tiểu nhân muốn gặp mặt thầy để từ biệt lần chót, không hiểu sứ giả bằng lòng cho phép không?
Thượng Quan Linh im lặng, lúc này chàng đang động lòng trắc ẩn, tuy nét mặt chàng đang được che phủ bằng một lớp mặt nạ da người bằng tướng mạo Bắc Ưng Lãnh Lạc, nhưng trong ánh mắt chàng đã để lộ ra một tia nhìn tỏ vẻ thương hại. Tên Tra Phong đã nhận ra cái nhìn quái lạ ấy, hắn đâm ngờ vực. Thượng Quan Linh cũng biết mình hơi sơ suất trong thái độ, bèn quay về chỗ ngồi để chờ lão bà bịt mặt, trong lòng thầm nhủ: Mình không nên tỏ ra yếu đuối tình cảm như thế! Thử nghĩ, nào cha nào mẹ nào tổ mẫu… nào em gái… cả nhà mười mạng… nay chỉ đổi có ba mạng của chúng, có gì gọi là quá quắt đâu?
Nghĩ vậy Thượng Quan Linh lại tỏ ra thần oai lẫm liệt của mình, Tra Phong thở dài, ngồi im một góc. Khá lâu, lão bà bịt mặt bước vào, nhìn thấy Hắc y sứ giả ngồi uy nghi đường thất, hai tên đồ đệ, Tra Phong ngồi co ro một góc, xác chết Tra Lôi nằm lăn dưới đất, lão bà bịt mặt kinh hoảng, lập tức đứng khựng lại, toàn thân run rẩy.
Thượng Quan Linh cố tâm muốn dày vò cho mụ ta đau khổ, hai mắt chàng nhìn đăm đăm vào sự đau khổ của mụ già bịt mặt, chỉ thấy toàn thân lão bà loạng choạng như muốn xỉu… Nhưng vị nữ ma đầu này quả là bất phàm, chỉ nhoáng mắt đã lấy lại sự bình tĩnh ngay.
Lúc này, Thượng Quan Linh rất muốn biết thần sắc của lão xem ra sao, nhưng tiếc vì có khăn đen che kín mít! Chàng chỉ nhìn thấy đôi mắt tỏa ra những ánh sáng đau khổ, tuyệt vọng thê thảm… Lão bà bịt mặt không nói một tiếng nào, lẳng lặng bước sang, cầm ngay một phong thư dán kín giao ngay sang cho Thượng Quan Linh. Chàng thu ngay bức thư kín bỏ vào túi, chàng cũng biết trong này đã ghi chép tất cả những nguyên nhân đầu đuôi của vụ án mượn tay Tỉ Vương dùng dị bảo Lãnh điện tỉ thủ để giết mười mạng người của gia đình mình. Lúc này Thượng Quan Linh đã sôi gan nóng lòng, cho rằng giờ đây ba thầy trò lão bà bịt mặt phải thường mạng, vụ này phải được giải quyết trước, còn lại tất cả nguyên do đã gây nên vụ thảm án sẽ tìm hiểu sau…
Thấy hai thầy trò của lão bà đang chăm chăm ngó mình, Thượng Quan Linh cố ý quay tử thi của Tra Lôi và khiêu khích rằng:
– Lão bà chắc đã kinh hãi việc xảy ra như thế, và cũng không ngờ chuyện lại đột ngột như vậy?
Lão bà bịt mặt bỗng cất tiếng cười lên sằng sặc kinh rợn rằng:
– Có gì là lạ lão bà ta đã biết trước thế nào cũng có một ngày như đêm nay… Hà! Hà! Hà… – Tiếng cười thê thảm rờn rợn…
Thượng Quan Linh sử dụng ngay đến nội lực ép tiếng nói ra để át vào tiếng cười quái gở của lão bà, Và truyền ngay vào tai hai người rằng:
– Đã biết có ngày hôm nay, vậy tại sao lại theo hầu Chúa công?
Việc dò thăm mạo hiểm này, chính là điểm nghi ngờ còn lẩn quẩn trong lòng Thượng Quan Linh, lão bà từng biết Tỉ Vương là tay độc ác dã tâm, tại sao lại can tâm tình nguyện tiếp nạp?
Không ngờ câu hỏi này lại do chính miệng của Hắc y sứ giả một trợ thủ đắc lực nhất của Tỉ Vương hỏi ra, dầu cho lão bà bịt mặt là người tinh khôn đến đâu đi nữa, lúc này cũng không thể nào ngờ được rằng vị Hắc y sứ giả trước mặt mình đây lại là chàng Thượng Quan Linh đã cải dạng? Với địa vị của kẻ tâm phúc quyền uy nhất của Tỉ Vương, Hắc y sứ giả đã hỏi ngay đến câu hỏi này, quả không ai có thể ngờ được? Lão bà bịt mặt hình như cũng biết mình đã đến giờ tận số, không sao tránh khỏi, thà nói quách ngay tâm sự của mình ra:
– Thưa sứ giả, câu hỏi của sứ giả có biết tại sao tôi lại phải làm thế không?… Chẳng qua là một sự bất đắc dĩ… Hà! Hà! Hà…
Sau tiếng cười, lão bà bèn lên tiếng nói thẳng:
– Hắc y sứ giả có biết tại sao không? Không những chỉ riêng ba thầy trò chúng tôi mà thôi, phàm những người có quan hệ với Chúa công như thầy trò Độc Ma trên Vô ảnh Phong, Phổ Côn Bắc Kiếm trong Càn Khôn Ngũ Tuyệt phái Điểm Thương ở Vân Nam, Kê Vĩ Bang của Giang Nam, Biện Trang Hổ của Dực Đông… Tất cả mọi người này, đều như lão bà ta đây hết! Ta cũng biết sứ mạng của Hắc y sứ giả người đến đây hôm nay, vốn là nhận lệnh của Chúa công để lấy đoạt mạng ba thầy trò ta, Ha! Ha!… Nay ta là người ngoại lục tuần có chết, kể cũng không yểu tướng gì, vậy đâu có tiếc gì! Nhưng nay ta muốn nói toạc hết sự ân hận và hối tiếc của lòng ta, đáng lẽ không nên vì chuyện tư oán không trả thù được để rồi phải nhờ vả đến chủ nhân của Lãnh điện tỉ thủ ra tay hộ, khiến nỗi tạo ra hoàn cảnh mất tự do như ngày hôm nay! Nhưng lão bà ta tin chắc rằng, sau khi ta chết không bao lâu, Chúa công Lãnh điện tỉ thủ của ngươi chẳng còn sống được bao lâu trên trần này…
Nghe vậy, đủ rõ thủ đoạn khủng bố rùng rợn của người thống trị Tỉ Vương đã đến cực quyền chuyên chế ra sao rồi, ắt sau này thế nào cũng tự dẫy lửa đốt thân. Nhưng Thượng Quan Linh lúc này đang phải đóng vai Hắc y sứ giả, không thể nào lại không tỏ ý trung thành với Chúa công của mình, bèn lạnh lùng quát rằng:
– Hừ! Chớ nói sàm bậy! – Đôi mắt tỏa ra những tia hung dữ!
Lão bà bịt mặt vẫn thản nhiên, hình như không sợ gì cái chết đang kế cạnh, tiếp tục oai hách rằng:
– Sứ giả! Nay ta phiền Sứ giả về báo tin lại với Chúa công, lão bà ta tuy có chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng ta tin tưởng chắc rằng phàm những kẻ mà hiện nay đang tấp nập đến tham dự cuộc thịnh hội tại Bách Linh Miếu đây, chẳng ai mà lại không bị kẹt như tình cảnh của lão bà ta đây, họ đều oán thán ngầm trong lòng, mãi đến nay Chúa công vẫn chưa cho người đời biết rõ mặt thật của mình, càng không dùng lối đối xử bằng thành tín và dùng đức để phục lòng người, cứ lo lợi dụng quan hệ mâu thuẫn, dọa dẫm khủng bố để ép thiên hạ. Lão bà ta dám quả quyết rằng, nếu cuộc diện cứ giữ nguyên tình trạng cũ ấy, thế nào cũng chẳng còn bao lâu thời gian để rồi phải bị tan nát thất bại nặng nề…
Thượng Quan Linh lại phải vờ nổi giận quát tháo om, tay khua ngay ngọn ưng trảo liêm rằng:
– Câm ngay không! Ngươi dám khi quân phạm thượng đến thế sao, tội đáng chết…
Lão bà sau cơn bồng bột khích động, lại trở về trạng thái lạnh lùng hỏi:
– Sứ giả! Chúa công cho ngươi lại đây tìm ta, ngoài trừ nhắc lại chuyện cũ xưa kia, còn căn dặn thêm gì không?
Thượng Quan Linh lúc này không biết mình nên trả lời sao cho phải, nếu nói không có gì, rất có thể lão bà nhân ngay dịp để hạ đài, mình sẽ mất ngay cơ hội.
Nhưng nếu nói là lấy tính mạng của mụ ta, câu nói hình như khó thốt ra miệng. Chàng đành gật đầu nói:
– Chúa công còn một việc nữa là nhờ bản Sứ giả đây truyền đến cho lão bà…
Lão bà bịt mặt không chờ nói hết, khanh khách cười ngay rằng:
– Sứ giả vốn là người ngoài cuộc, sự việc giữa Chúa công và ba thầy trò ta, Sứ giả chẳng qua là người phụng mạng mà thôi, đương nhiên Sứ giả cũng chẳng cần phải e nể gì! Nhưng cũng nên hiểu cho lão bà ta là người biết điệu lắm, oan có đầu, nợ có chủ, ai bảo ta trước kia đã suy tính bậy, nay không thể nào thoát khỏi số mạng. Ta cũng chẳng muốn trốn tránh hèn nhát làm gì, dù cho là sự trừng phạt tàn ác đến đâu lên trên thân ta, ta củng cam tâm chịu đựng hết, quyết không từ chối! Sứ giả cứ việc nói thẳng đi, phải chăng Chúa công đã muốn lấy tính mạng của thầy trò ta? Hừ! Hừ! Nhưng không biết Chúa công có vui lòng cho ta được quyền chọn lựa cách thức, vì ta muốn chết một cách nhanh chóng…
Lúc này lão bà bịt mặt đứng đợi câu trả lời phán quyết của Hắc y sứ giả nhưng không hiểu tại sao, Thượng Quan Linh lại nổi ngay lòng bất nhẫn. Chàng lập tức nghĩ, thôi vậy, mình chỉ kiếm cách làm nhục cho mụ ta một mẻ, để hả nỗi lòng báo thù của mình, rồi tha cho hai thầy trò trốn di, chỉ cốt sao họ trốn khôi thế lực của Tỉ Vương, từ nay bỏ tính gây ác; làm người ai chả có lúc lầm lỗi nhưng biết sửa lại tội lỗi mới đáng quí, nếu cứ oan oan tương báo mãi, biết đời nào mới xong! Thà lấy đức giải oán cho yên mọi chuyện gây thù kết oán! Có được vậy mới là bản sắc của kẻ hiệp nghĩa anh hùng.
Huống hồ lời nói của lão bà đây lại như đã vô cùng ăn năn về lỗi lầm của mình, tuổi tác lại nằm trong cảnh ánh nến (đèn cầy) lập lòe trước cơn gió, sống chết sẽ đến bất kỳ lúc nào không hay. Nay mình có tha cho mụ ta, chắc mụ cũng sống chẳng được bao lâu nữa. Còn tên Tra Phong cũng đáng tha thứ! Xét kỹ ra, chính Tỉ Vương mới là hung thủ giết hết mười mạng của gia đình mình, vậy mình nên tìm ngay Tỉ Vương để thanh toán món nợ không nhất quyết dứt được.
Thầy trò lão bà bịt mặt đã sốt ruột ngóng đợi, lão bà vẫn im lặng, nhưng tên Tra Phong đã ý lên một tiếng. Rõ ràng hắn đã phát giác vị Hắc y sứ giả này hình như có gì khác với bản tính độc ác tàn nhẫn xưa kia.
Thượng Quan Linh thấy tình trạng vậy lập tức quyết định nhanh ngay, đối với mối thù oán của lão bà bịt mặt này, mình nên xem rõ lời tự thuật trong bức thư của mụ ta đã rồi sẽ quyết định sau, lập tức truy cản theo để giết cũng còn kịp chán, nếu tội đáng tha, mình cũng nên rộng lượng buông cho mụ ta thoát khỏi cảnh thúc bó của Tỉ Vương, dùng đức trả oán, quả là một việc đáng thi hành. Nhưng giờ đây phải làm nhục mụ ta một mẻ để hả bớt cơn giận ấm ức trong lòng, đồng thời cũng chọc cho hai thầy trò họ uất ức bỏ đi, mình tiện bề bóc thư xem về vụ án ly kỳ của nhà mình. Quyết ý xong, Thượng Quan Linh lên tiếng rằng:
– Chúa công cũng không có ý gì đòi mạng của ba thầy trò ngươi…
Câu nói này không những đã khiến cho Tra Phong mừng mà bà lão bịt mặt cũng tỏ ra sung sướng và nghi ngại…
Chỉ nghe lão bà bịt mặt lập tức lên tiếng rằng:
– Chắc Chúa công có chuyện gì muốn sai bảo ba thầy trò ta, nay Tra Lôi đã chết, còn hai thầy trò ta, nay đội ơn Chúa công không hết, nguyện sau này sẽ là thần bộc trung thành nhất với Chúa công, sau này, Chúa công có sai khiến bất luận là việc khó khăn đến đâu, cũng không dám từ khước…
Thượng Quan Linh chợt nghĩ ra một kế bất chợt, bèn nói:
– Kể ra Chúa công cũng không có điều gì yêu cầu quan trọng! Nhưng Chúa công có nói rằng, bởi vì lão bà bấy lâu nay vẫn che mặt bằng khăn đen như thế, nên chưa có lần nào được thấy Lư Sơn chân diện mục của lão bà, nay hạ lệnh cho Sứ giả mời người hãy tự bỏ chiếc khăn che mặt ra, và bản sứ giả sẽ lo vấn đề ghi chép kỹ càng các chi tiết về khuôn mặt của lão bà để trình về cho Chúa công tường lãm!…
Thượng Quan Linh nói câu này vốn vô tâm, chỉ cho rằng chuyện bắt chẹt này hay hay vui vui mà thôi. Nhưng không ngờ hai thầy trò lão bà bịt mặt nghe nói vậy, chẳng khác nào như sấm đánh ngang tai, hấp tấp lui về sau…
Chỉ thấy lão bà bịt mặt giận run người lên, không nói được một câu gì, tên học trò lớn của mụ ta liền quát mắng:
– Hừ! Tỉ Vương là người gì vậy? Tại sao lại dễ nuốt lời như thế, xưa kia từng hứa rõ với ân sư ta được không bao giờ cho ai thấy mặt thật… Bây giờ lại ngang nhiên giở trò phản phúc…
Thượng Quan Linh không ngờ sự việc lại quan trọng đến thế, nhưng muốn duy trì uy tín Hắc y sứ giả, chàng không thể không cứng cỏi quyết cương đến cùng được, đồng thời, tính háo kỳ của chàng đã nổi dậy ngay trong lúc này, không biết sau tấm khăn đen che mặt kia, liệu có những bí mật gì tại đó? Nghĩ xong, lên ngay giọng oai nghi quát lớn:
– Tra Phong! Hừ liệu mà giữ hồn, bản Sứ giả phụng mạng hành sự, lệnh Chúa công đã ban, ai dám trái cãi, sao ngươi dám cả gan gọi đến húy danh (tên kiêng kỵ) của Chúa công, bộ chán sống lắm rồi sao?