Đoạt Hồn Kỳ

Chương 39: Khắc cốt tương tư


Đọc truyện Đoạt Hồn Kỳ – Chương 39: Khắc cốt tương tư

Đông tăng Túy Đầu Đà, Nam bút Gia Cát Dật, Thượng Quan Linh, ba người từ trong bụi đen mịt mù ấy tung mình ra, đều oán trách Bắc kiếm Phổ Côn đã phụ thanh danh trong Càn Khôn Ngũ Tuyệt. Sư huynh đệ hai người bàn tính một hồi, sau cùng quyết định là: Đông tăng Túy hòa thượng lên miền bắc, cố thăm tin tức xem Tây đạo Thiên Si nay ở đâu, còn Nam bút Gia Cát Dật sẽ lưu ngay lại đây lo điều tra về chiếc cờ Tiểu Đoạt Hồn Kỳ cho rõ chân tướng của nó, còn riêng chàng Thượng Quan Linh vô sự cho về ngay Ngao Sơn lo giữ trang viện.

Qua ngày sau, Thượng Quan Linh lo rời khỏi ngay Lạc Thủy, lủi thủi một mình về Ngao Sơn. Chàng cứ cảm thấy u buồn trong lòng, tuy cưỡi trên lưng ngựa, nhưng con tuấn mã hình như cũng biết ý người cưỡi, nó cũng chậm chạp như không muốn đi?

Trong đầu óc Thượng Quan Linh lúc này, chỉ còn lại những hình bóng của nàng Liễu Mi… Chàng nghĩ liên miên, nhất là nghĩ đến hôm Túy Đầu Đà bắt mình rời lánh ngay nàng trong lúc nàng còn say trong cơn mộng, và mình đã ra đi không một lời cáo từ… nếu khi nàng tỉnh dậy, sẽ cảm thấy buồn bực ra sao? Chưa chừng nàng sẽ vì chuyện này mà giận mình luôn! Nếu quả nàng là nhị tiểu thư của Liễu bang chủ Thanh Thông Hội, thế nào trong thâm tâm nàng lại chẳng oán trách mình từ đây! Thượng Quan Linh cảm thấy lòng mình hối hận vô tả, càng nghĩ chàng càng muốn gặp ngay nàng để phân tỏ đôi lời, chàng muốn thổ lộ tất cả những nỗi buồn khổ đang dày vò tâm tư chàng…

Chàng Thượng Quan Linh đang nếm mùi tương tư rồi đây! Năm nay chàng 21 tuổi, đây là lần đầu tiên chàng nếm phải mùi vị đau khổ của chữ tình, thì ra chàng Thượng Quan Linh đã phải lòng người con gái Liễu Mi! Chàng không khác nào như kẻ mất hồn lạc phách, cưỡi trên lưng ngựa nhưng không hề giục cương một lần nào, cứ thế chàng thả đong đi trên đường cái quan mặc cho gió thổi và ánh nắng mặt trời chiếu, tất cả những cảnh sắc hai bên đường không thể nào gợi cho tâm tình trên vui lên được, chàng luôn luôn chăm ngó các cô qua lại trên đường cái quan, chàng chỉ sợ lỡ có Liễu Mi trong đám này mà mình không thấy thì thật là hoài công! Cảnh sông Lạc Thủy dần dần khuất về đàng sau lưng, và bao nhiêu hi vọng để gặp nàng trong đám người đi trên quan lộ càng lúc càng tiêu tan dần, Thượng Quan Linh bất giác xúc cảm và khẽ tiếng ngâm nga rằng:

– Gió mưa là bệnh của trời? Tương tư là bệnh của ta nhớ nàng…

Rồi chàng lại nghĩ: Không biết nàng có nhớ gì đến mình không? Hay nàng cũng vẩn vơ như ta đứng tựa cửa sổ trên lầu nhìn xuống quan đạo để thưởng thức cây cỏ hữu tình của mùa xuân, nhưng không biết có xao xuyến như mình nhớ nàng không?

Trong lúc chàng đang uể oải tinh thần thình lình mắt chàng sáng hẳn lên, thấy một đoàn người và ngựa tạt ngang qua người mình, Trong đó có một người lưng đeo đàn, trông không khác gì Bát long ngân. Thượng Quan Linh phấn khởi tinh thần, hấp tấp đuổi ngay phía sau. Phía trước cộng có bốn người, dù cho Thượng Quan Linh có ra roi đến đâu cũng không sao đuổi kịp được chỉ trong chớp mắt bốn người nọ đã vào hắn sơn cốc. Trong lúc vào cốc có một người quay đầu lại nhìn.

Thượng Quan Linh thúc ngựa đuổi nhanh tới cửa cốc, bỗng hai bên cốc “sẹc! sẹc!” bay ra những ám khí, ngựa bị trúng, hí lên một tiếng dữ dội chồm ngược hẳn lên suýt quật ngay Thượng Quan Linh xuống đất. Chàng vội nhảy nhanh người xuống đất đứng, đưa mắt nhìn nhanh hai bên tả hữu, thấy bốn người nọ đều đứng cả trước mặt.

Một trong bốn người liền nhào sát thân sang phía Thượng Quan Linh, bên phải dùng quyền cánh trái dùng chưởng tính một thụi một vỗ ấy nhắm hẳn sang ngực Thượng Quan Linh. Thượng Quan Linh vội đẩy ngay song chưởng ra, nhưng chàng cảm thấy áp lực trước ngực khá nặng, trong bụng thất kinh, không dám chậm trễ, vội đẩy ngay thế đây thành chưởng sử dụng ngay đến môn tuyệt kỹ của Nam bút Gia Cát Dật đã truyền cho mình là Đinh Giáp thần công, ào một tiếng, bửa ngay tới người nọ! Đòn này quả hữu hiệu, không những đánh bật hẳn thế đánh của đối phương, mà còn khiến cho người nọ lùi ngay mấy bước về sau. Người nọ vội vận ngay tấn để đứng vững lại, rồi miệng huýt lên một tiếng sáo, ba người còn lại vội rút ngay binh khí và áp cả lại một lượt.

Nhưng lần này Thượng Quan Linh chọn ngay tên cõng cây đàn Bát long ngân, chàng vội giở ngay Điên Đảo Càn Khôn bám sát ngay vào tên đeo đàn ấy, chàng tính sau khi đoạt được cây đàn rồi tìm kế đào tẩu sau. Bốn người này tuy đều thuộc vào đệ nhất lưu cao thủ, nhưng ai ấy đều bị ngọn tuyệt kỹ của Điên Đảo Càn Khôn khiến cho hoa mắt nhức đầu, hơi thở dồn dập. Thượng Quan Linh nắm chắc phần thắng, chàng ung dung lo thi hành mưu kế của mình, vừa đánh chàng vừa men dần đến bốn con ngựa của họ. Thình lình chàng chuyển nhanh thế đánh, ngọn chỉ điểm ngay vào sau lưng người đeo đàn, thế là binh đao trên tay rớt ngay xuống đất đến choang một tiếng.

Thượng Quan Linh không để lỡ cơ hội, soạt một tiếng rút ngay cây Lệ thủy tinh kiếm bên mình ra, vung luôn một đường bán nguyệt, binh khí của ba người nọ lập tức bị tiện gãy hết cùng một lượt, ba người thất kinh hoảng hồn nhảy tránh hẳn về sau. Ngay lúc đó, Thượng Quan Linh đưa tay ra túm ngay tên đeo đàn, nhảy phóc lên lưng ngựa của địch, giơ ngay ngọn kiếm Lệ thủy tinh khua lên một luồng cuồng phong, ba ngựa thấy ánh kiếm nhoáng lên trước mắt, chúng hí hốt hoảng lồng lên bung vó chạy tung luôn! Thượng Quan Linh thúc ngựa chạy luôn, ba người nọ mất ngựa, đuổi thì không kịp, đành giương mắt thô lố ra nhìn, tuy quýnh nhưng không biết làm sao hơn!

Thượng Quan Linh vừa thúc ngụa chạy như bay, vừa đưa tay lên đỡ cây đàn trên lưng tên nọ, xong chàng giải luôn huyệt và đẩy luôn hắn xuống đường, ung dung tung gió cuốn bụi đi luôn!

Thượng Quan Linh trong lòng hớn hở vô cùng, vì Bát long ngân chính do mình đánh mất, nay lại cũng do chính tay mình đoạt nó về, hãnh diện làm sao.

Chàng yên tâm về Ngao Sơn. Nhưng đi được một lúc, chàng bỗng phát hiện đường lối không đúng, loanh quanh mãi mà vẫn còn trong sơn cốc này, tìm không ra đường cái quan. Trong lòng lại cuống lên, Thượng Quan Linh bèn quay ngay đầu ngựa để trở lại cốc. Bỗng phía sau có tiếng quát lớn:

– Đứng lại!

Nghe âm thanh, biết ngay công lực người quát cũng hàng cao thủ, vì chính Thượng Quan Linh cũng cảm thấy tai mình inh lên vì tiếng quát ấy. Chàng không biết nhân vật nào mà lại có một trấn lực vang dội đến thế? Bèn ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy một vị thiếu niên, đang tung mình chạy như bay về hướng mình, thân pháp quả là nhanh. Biết không sao chạy thoát, chàng bèn quay phắt ngay đầu lại, chuẩn bị trong lúc đối phương không phòng hờ, mình tông đại hắn một cái rồi liệu sau. Nào hay chàng vừa quay đầu ngựa lại thiếu niên nọ đã hiện ngay trước mặt, chẳng chờ cho Thượng Quan Linh dùng ngựa tông tới, hắn đã ngang nhiên túm ngay cương ngựa, và dí mạnh một cái con ngựa quỳ khụy ngay hai chân trước xuống đất, Thượng Quan Linh thấy thiếu niên sức mạnh quá đỗi, chàng thất kinh nhảy nhanh khỏi yên ngựa đứng xuống đất, chỉ thấy thiếu niên oai phong lẫm lẫm hét hỏi rằng:

– Ngươi là ai? Sao dám to gan đến Thanh Thông Cốc phá rối như thế?

Thượng Quan Linh cũng chẳng chịu thua, chàng cũng quát lại:

– Mắc mớ gì đến ngươi không?

Thiếu niên bỗng cất tiếng cười ngất ngưởng, khiến kẻ nghe phải inh tai điếc óc, cười xong thiếu niên nói:

– Vùng này ai mà không biết đến Lôi hỏa tam lang Sở Canh ta! Ta giữ chức tuần tra tại Thanh Thông Cốc này, nếu nói là ta không có quyền can thiệp đến ngươi… thật là chuyện quá nực cười!

À… ra hắn là người của Thanh Thông bang hội đây nay mình vô tình đột nhập nhầm vào phạm vi thế lực của Thanh Thông bang hội như thế, quả là chuyện rắc rối đây, Thượng Quan Linh bên tính kế trong bụng để đào tẩu cho yên chuyện. Trong lúc đó, ba tên bị mất ngựa từ xa chạy tới phía Thượng Quan Linh, vừa chạy chúng vừa lên tiếng rằng:

– Thưa Sở hương chủ, chớ có để cho thằng nhãi ấy chạy thoát! Đại cô nương sai bọn tiểu nhân đem cây đàn này về giao cho trang chủ, nhưng vừa rồi đây đã bị tên này cướp mất.

Lôi hỏa tam lang Sở Canh bèn ra dấu tay cho ba người đứng lui ra một phía, xong ngắm nhìn kỹ Thượng Quan Linh một chặp mới rằng:

– Ta xem võ công của ngươi cũng không tệ gì? Vậy chúng ta hãy đấu thử vài chưởng với nhau cái đã!

Dứt lời, ào một chưởng đánh thẳng ra, Thượng Quan Linh nằm trong tình trạng này bắt buộc phải trả đòn, và chàng cũng muốn đánh chớp nhoáng để mau đi cho yên chuyện, bèn dùng ngay đến ngọn Đinh Giáp thần công tiến đánh mở đường ào ạt, khí thế như bài sơn đảo hải, phạt ngang chém dọc, bửa xéo, ầm ầm xông thẳng qua thiếu niên. Nào ngờ Lôi hỏa tam lang Sở Canh tuy chưa già dặn chuyện đời, nhưng trời cho sức mạnh vô biên, môn tuyệt chưởng của Thượng Quan Linh ấy lại đúng khẩu vị của y, thế là đôi bên quyền qua chường lại, diễn ra một cách vô cùng hào hứng:

– Tên Sở Canh vừa đánh vừa lên tiếng khen hay, hình như y cảm thấy chưa bao giờ đánh được một trận sướng tay như lúc này, chỉ nghe y luôn luôn lên tiếng:

– Hà! Hà! Đã quá! Đã quá!…

Thượng Quan Linh thấy tên Sở Canh này hình như công lực cũng không thua gì mình, bất giác tiểu anh hùng lại bốc máu háo thắng đùng đùng, quyết tâm phải ăn trận này mới chịu!

Cuộc giao tranh gay go đang diễn ra, chớp mắt đã trên ba mươi hiệp, và xung quanh đã vây đông những người của Thanh Thông Hội, Thượng Quan Linh bèn lên tiếng mắng rằng:

– Này Sở Khanh kia! (thực ra là Sở Canh nhưng Thượng Quan Linh muốn chọc cho y nổi khùng) ngươi ỷ đông người thắng ta đâu phải là bản sắc của kẻ anh hùng?

Lôi Hỏa Tam Lang quả là một hảo hán, y vội quát hét mọi người lui hết ngay. Thấy trời đã sẩm tối, y bèn sai người đi lấy cơm rượu ra khoản đãi Thượng Quan Linh, no nê xong y bèn ra lệnh đuổi hết các người Thanh Thông Hội về, rồi đứng ngay dậy giao đấu lại với Thượng Quan Linh. Hai bên đánh vùi nhau thêm đến mười tàn nhang, trời tối mịt hẳn, quần áo đôi bên đã thấy tả tơi, và cả hai đã cảm thấy bơ phờ.

Bỗng Sở Canh ngừng ngay tay lại nói:

– Đã quá! Đã quát Sở Canh ta chưa hề đánh trận nào sung sướng thích bằng trận đánh này! Khoái thật!

Thượng Quan Linh tuy không được thích trí bằng Sở Canh, nhưng cũng cảm thấy đánh đã tay lắm, nhất là Sở Canh lại có bản sắc anh hùng một chọi một như thế không hề ỷ trong thế lực phạm vi Thanh Thông Hội để đàn áp địch thủ, quả đúng là một hảo hán!

Thượng Quan Linh bất giác đâm ra có hảo cảm với thiếu niên Sở Canh này ngay.

Lúc này Sở Canh vẫn thở dồn dập cười nói:

– Này! Tiểu tử, tên ngươi gọi là nhỉ?

Thượng Quan Linh trả lời xong, Sở Canh lại cười rằng:

– Thôi, Thượng Quan Linh, đêm nay chúng ta hãy đợi đây đi! Sáng mai chúng mình sẽ đấu thêm nữa vậy! Chịu không?

– Cũng được!

Lôi hỏa tam lang Sở Canh bèn quay thân nằm lăn ra mặt đất chuẩn bị ngủ, và y lẩm bẩm rằng:

– Này Thượng Quan Linh, ngươi cứ việc yên trí, sáng mai chỉ có hai chúng mình đấu với nhau, và ta sẽ đánh cho ngươi phục mới nghe!… hà… đánh đã tay thật!.

Chỉ trong chốc lát, Sở Canh đã ngáy khò khò ngủ say như chết!

Thượng Quan Linh nghĩ và cười thầm trong bụng, sao Thanh Thông Hội lại có một nhân vật quả cảm ngay thẳng như thế được, ngang nhiên lại dám ngủ chung với kẻ địch! Nhưng Thượng Quan Linh nghĩ mình không nên mất thì giờ ở đây làm gì, chẳng thà nhân ngay lúc y ngủ say này, mình về luôn Ngao Sơn cho xong việc! Nghĩ xong chàng bèn âm thầm thu xếp và mang luôn chiếc đàn Bát long ngân lẻn ra khỏi Thanh Thông Cốc.

Nhưng đường lối sơn cốc vô cùng phức tạp, loanh quanh mãi mà chàng vẫn chưa sao ra khỏi sơn cốc, trời đã dần dần sáng, trong lòng Thượng Quan Linh bất giác cuống lên.

Bỗng một tiếng Hí… vang lên, một con tuấn mã chạy ngay lại cạnh Thượng Quan Linh, yên cương đều sẵn hết, ngựa ta có vẻ quen với Thượng Quan Linh lắm, cứ loanh quanh bên cạnh chàng.

Thượng Quan Linh ngạc nhiên, nhưng quả thật chân chàng cũng đã mỏi, chàng cũng chẳng cần biết là điềm hung hay điềm lành, cứ nhảy bừa lên yên ngựa đã rồi tính sau. Sau khi tung mình vọt lên yên, bỗng Thượng Quan Linh hoảng người, vì con tuấn mã không chờ chàng sử dụng dây cương, nó ngang nhiên tung vó chạy như bay chàng tính tìm cách để kiềm chế nó lại nhưng bỗng thấy phía trước sáng bừng hẳn, thì ra con tuấn mã đã đưa chàng thoát khỏi sơn cốc mịt mờ trong làn sương buổi sáng.

Trước cảnh sáng tinh sương ấy, Thượng Quan Linh thấy ngoài cửa cốc có một thiếu nữ đứng uy nghi, áo trắng tinh hơn tuyết, tà áo phất phơ như tiên nữ trên mây. Trống ngực chàng đánh liên hồi, chàng cũng không biết mình đang sợ hay đang mừng nữa? Chỉ trông thấy nàng đang quay đầu lại và mỉm cười với mình, nàng không lên tiếng trách móc gì, nhưng từ trong đôi mắt của nàng, cũng đủ khiến cho Thượng Quan Linh ngượng ngùng khó chịu trong lòng rồi!

Liễu Mi cười rằng:

– Anh Linh, hãy để tôi đưa anh ra khỏi cốc vậy! Vì địa hình của Thanh Thông Cốc vô cùng phức tạp, không quen đường lối của nó quả là phiền bực lắm!

Bay lâu Thượng Quan Linh vẫn ao ước được gặp lại nàng, rồi sẽ nói những câu mình đã sắp đặt với người đẹp, và phải ăn nói sao cho hay và khéo… nhưng giờ đây gặp nàng, chàng bỗng dưng như người bị cấm khẩu, không thốt ra được câu nói gì, chàng ngầm cảm thấy lòng mình bị tràn ngập những nỗi vui mừng, khiến chàng bị bế tắc luôn những câu nói mà chàng cố công sắp đặt sẵn từ trước! Và Thượng Quan Linh chỉ còn nước đỏ gay mặt rằng:

– Xin đa tạ Liễu cô nương!

Liễu Mi đưa tay lên vuốt ngay bờm ngựa nói:

– Thôi! Cưng về đi, và hãy cho Tiểu Thiền hay là ta bận tiễn khách ra cốc!… Cưng ngoan và giỏi lắm, Tiểu Thiền sẽ thưởng đậu cho ăn, mau về đi!…


Con tuấn mã hình như biết nghe lời chủ nó, sau khi hí lên một tiếng dài như vui mừng rồi quay đầu chạy như bay vào cốc!

Ngựa chạy khuất dạng xong, Liễu Mi đi trước dẫn đường quanh co liên miên đường sơn cốc, nàng cười rằng:

– Anh xem! Đây chính là những kỳ bí của Thanh Thông Cốc, vào thì dễ mà ra thì khó, rõ ràng đây là cửa sơn cốc chứ gì, nhưng thực ra cửa sơn cốc còn xa lắm.

Thượng Quan Linh không biết trả lời sao, chỉ nói:

– Sơn cốc này quả thật là hùng vĩ nguy nga!

Liễu Mi rằng:

– Nhưng, từ hôm nay trở đi, ngôi sơn cốc này sẽ gặp tai ách liên miên rồi, vì Bắc kiếm Phổ Côn và bộ hạ của ông ta sẽ mở ngay một trận chiến quyết liệt với Thanh Thông Hội tại Thanh Thông Cốc này!

Nói xong nàng buông tiếng thở dài, bộ mặt tươi tỉnh như hoa ấy lúc này ủ rũ buồn, khiến ai nhìn cũng phải thương hại!

Thượng Quan Linh không biết nên an ủi nàng ra sao nhưng sẵn có vấn đề trong bụng: Là không biết nàng là cô chị hay cô em? Tuy muốn rõ ngay chuyện này, nhưng lại không biết nên mở miệng hỏi người ta bằng cách nào cho ổn?

Hai người lại đi thêm được một chập nữa, cuối cùng Thượng Quan Linh nghĩ ra một cách. Chàng nói:

– Nếu quả thật Bắc kiếm Phổ Côn thúc lãnh bộ hạ lại đây dự kiến như thế, cô vốn là trường nữ của trang chủ, thế nào rồi chẳng phải đụng độ giao tranh với nhóm Tư Đồ Cống?

Nhưng Liễu Mi vốn là cô gái thông minh tuyệt đỉnh, nghe xong rõ ngay ngụ ý của Thượng Quan Linh, mắt nàng chớp nhanh, cố ý giữ bộ mặt rầu rầu rằng:

– Chính thế! Tôi là con gái của trang chủ Thanh Thông Bang, tránh sao khỏi không giao tranh với nhóm người này?

Thượng Quan Linh thấy nàng không phủ nhận, quả nhiên là con gái lớn của Thanh Thông bang chủ, chàng bỗng dâng lên một nỗi niềm thất vọng, như tiếc thay cho số mạng của kẻ hồng nhan bạc mệnh…

Liễu Mi bật cười lên đến khích một tiếng, bỗng nàng nói:

– Nhưng câu nói của anh vừa rồi cũng chưa được đúng cho lắm!

Thượng Quan Linh phấn khởi hồi hộp hỏi gấp:

– Tôi nói sai chỗ nào hả cô?

Nàng chớp mắt ngó Thượng Quan Linh cười rằng:

– Tôi tuy là con gái của bang chủ Thanh Thông Hội, nhưng không phải là cô gái lớn!

Thượng Quan Linh mừng suýt kêu tướng lên, chỉ trong nháy mắt, chàng tự cảm thấy mình hạnh phúc vô cùng, người chàng lâng lâng như đang bỗng lên tiên cảnh.

Liễu Mi tung tăng đi cạnh chàng, không khác nào như chim non đang bay nhảy đùa với cảnh xuân, chàng tính đưa tay ra chụp ngay con chim vào lòng mình để vuốt ve; nàng chính là cô gái thứ của Liễu bang chủ, nàng trong trắng hồn nhiên như thế, tuy trên giang hồ nhiều người đồn nàng đanh đá nghịch ngợm, nhưng những chuyện ấy không thể tổn hại gì đến danh dự trong trắng của nàng cả! Thượng Quan Linh cảm thấy hiện đang sung sướng nhất trên đời!

Hai người vẫn tiếp tục đi, dần dần Liễu Mi thả chậm bước lại, và trước mắt hai người đã hiện ra một hồ nhỏ lối bảy trượng vuông, nước trong veo, hai bên bờ có những cành liễu rũ xuống như tiên nữ gội tóc, toàn màu xanh mướt. Liễu Mi đủng đỉnh bước ngay lại phiến đá bên bờ hồ ngồi xuống, Thượng Quan Linh lại đứng cạnh nàng. Nhưng thấy nàng sắc mặt kém vui thở dài, đưa tay chỉ sang đối ngạn nói:

– Anh ra khỏi nhóm liễu bên kia sẽ thấy đường quan đạo ngay, và đây chính là lối ra bên cánh phải của Thanh Thông Cốc!

Ngừng một lúc nàng lại khẽ tiếng rằng:

– Tôi chỉ có thể đưa anh tới đây,… mong anh tự thận trọng vậy! Nhưng không biết cuộc chia tay này, bao giờ chúng mình lại gặp nhau…

Thượng Quan Linh xao xuyến và hồi hộp trong lòng, chàng tính an ủi nàng và hẹn ngày tái ngộ. Khá lâu mới bạo phổi rụt rè rằng:

– Em… Liễu Mi… Em cú yên trí về đi? Chừng nào thầy anh về Ngao Sơn, thế nào anh cũng tìm cơ hội lại đây gặp em…

Liễu Mi ngẩng đầu nhìn chàng cười, nàng hình như cảm thấy xao xuyến về câu gọi: Em Liễu Mi của Thượng Quan Linh lắm! Ánh bình minh đã chiếu rực hẳn khuôn mặt tuyệt thế tư dung của Liễu Mi, vẻ đẹp thiêng liêng khiến Thượng Quan Linh không dám nhìn thẳng!

Liễu Mi bỗng đưa tay ra lấy cây đàn của Thượng Quan Linh! Nàng mở ngay nắp hộp mân mê cười hỏi chàng:

– Anh Linh, thế anh có biết đánh đàn này không?

– Anh từng theo thầy học mót được chút ít, chỉ tại anh đần độn quá nên chưa đi đến mức Đăng đường nhập thất! (mức tuyệt đỉnh).

Liễu Mi tự lẩm bẩm rằng:

– Nam bút Gia Cát Dật vốn là người thanh nhã phong lưu chắc thế nào cũng tinh thông về môn này lắm, nhưng không biết đem so sánh với cha em, thì ai hơn ai kém?

Nàng nói đến đây lại nở nụ cười hồn nhiên rồi tiếp:

– Hôm qua chị em đã đoạt cây đàn này trong tay Bắc Kiếm, chị ấy tính tặng cho cha làm quà nhưng nào ngờ lại bị anh cướp về mất, rõ thật là: vật hoàn nguyên chủ (của về chủ cũ)…

Thượng Quan Linh nghĩ: Thanh Thông bang chủ vốn là người tinh thông về nhạc khúc, Liễu Mi lại là cô gái thông minh tuyệt đỉnh chắc thế nào chả biết ít nhiều về âm luật? Nay trong cảnh chia tay sắp đến còn đợi gì không nghe nàng đánh thử một khúc nhạc để ghi nhớ cảnh tình hôm nay? Nghĩ xong Thượng Quan Linh bèn cố gạ nàng Liễu Mi đánh cho nghe một bản!

Liễu Mi rằng:

– Giờ này cảnh đây, cành liễu ủ rũ, lòng người man mác, khó tránh khỏi lòng bi ai, e không có những âm huyền vui tươi đâu!

Tuy nói thế, nhưng nàng cũng bắt đầu gảy ngay vào các dây huyền.

Nhưng chỉ nghe tiếng đàn lúc trầm lúc bổng, khi lên cao thì bi tráng khích liệt, lúc hạ xuống thì nức nở không thôi! Dần dần tiếng đàn chuyển sang ủy mị du dương không ngừng…

Liễu Mi bỗng cất tiếng ca:

Xuân thảo bích sắc, Xuân thủy lục ba,

Tống quân Nam phổ, Thương như chi hà?

(Tạm dịch nghĩa: Cỏ xanh biêng biếc, nước xuân đượm tình,

Tiễn chàng xuôi bên Nam, nỗi lòng đau như cắt)

Câu danh phú này vốn là của Giang Văn Thông, trước tình cảnh này Liễu Mi đã hát lên như thế, thật không còn chê được vào đâu! Khiến cho chàng Thượng Quan Linh như say như tỉnh, mơ mơ màng màng,… chàng cũng ứng tiếng cất giọng rằng:

Hữu biệt tất oán, hữu oán tất danh,

Ý đoạt thần hài, tâm chiết cốt kinh!

(Tạm dịch nghĩa: Hề chia ly thì có oán, mà đã oán thì đau khổ đủ điều ý nghĩa như đoạt hồn kinh hãi, cõi lòng tan nát từng mảnh)

Bỗng tiếng đàn ngưng bặt, Liễu Mi đứng ngay dậy, mặt u buồn khẽ nói:

– Anh Linh… em phải về đây!

Thượng Quan Linh cảm động trong lòng, chàng vội hấp tấp:

– Em hãy khoan đi đã! Anh có vật này tặng cho em!


Liễu Mi giương mắt ngó Thượng Quan Linh, không biết chàng sẽ tặng mình vật gì đấy, chỉ thấy chàng loay hoay lo cởi cây Lệ thủy tinh kiếm, hai tay đưa sang, đầy vẻ thành thật rằng:

– Này Liễu Mi em! Đây là cây kiếm báu của ngu huynh vậy em hãy giữ lấy để phòng thân lúc lâm trận gặp nguy! Như thế ngu huynh có xa em cũng an tâm được phần nào!

Liễu Mi rút ngay kiếm ra khỏi vỏ, ánh bạch quang nhoáng nhoáng, một luồng hơi lạnh tỏa ra, chuôi kiếm có khắc những Khoa đầu tự (chữ hình như con nòng nọc), nàng bất giác buột miệng rằng:

– Trời ơi!… thì ra là Lệ thủy tinh kiếm!

Thượng Quan Linh lại rằng:

– Mấy hôm trước tại Ngao Sơn, anh đã bị hai tay cao thủ vây đánh kịch liệt, may nhờ ngọn kiếm này chém đứt binh khí của chúng, nên chúng hoảng chạy luôn! Đây lòng thành của huynh đem tặng cho em, vậy em hãy giữ nó bên mình đi!

Liễu Mi rằng:

– Tuy em rất thích cây kiếm này, nhưng em không thể nhận thế được!

Thượng Quan Linh ngạc nhiên rằng:

– Sao thế!

Liễu Mi giải thích:

– Em có hai lý do không thể nào nhận kiếm tặng của anh: một là cây kiếm này sắc bén tuyệt luân, sau này anh ra đời đi giang hồ, thế nào cũng phải có một binh khí hợp tay để dùng; thứ hai ngọn kiếm Lệ thủy bạch kim này, thuộc về loại thép dương cương thích hợp cho phái nam đeo, mà kẻ đeo nó có tăng cường thêm công lực, còn phái nữ thuộc về âm thể, không tiện dùng nó, nếu không, chẳng những vô bổ ích, trái lại còn có hại là khác!

Nói xong Liễu Mi trả lại kiếm cho Thượng Quan Linh, chàng đành nạp vào vỏ rồi cột lại bên mình, bỗng Thượng Quan Linh nghĩ đến chuyện chiếc Tiểu Đoạt Hồn Kỳ bèn hỏi Liễu Mi rằng:

– Này, em thông hiểu rộng rãi chuyện này như thế, vậy chiếc Tiểu Đoạt Hồn Kỳ lại là vật quí báu như thế nào? Có thể kể cho ngu huynh biết chút đỉnh lai lịch của nó không?

Liễu Mi rằng:

– Trên giang hồ này ai ai cũng biết, nhóm Càn Khôn Ngũ Tuyệt là: Đông Tăng, Tây Đạo, Nam Bút, Bắc Kiếm, Đoạt Hồn Kỳ. Mà cây binh đao của Đoạt Hồn Kỳ lại là một Phong ma đồng làm cán cờ, trên ngọn cờ lại có vẽ sọ người trắng và hai xương tréo như thế? Nhưng tại sao lại có những hình vẽ như thế? Anh có biết lai lịch của nó không?

Thượng Quan Linh cảm thấy hứng thú, bèn đáp rằng:

– Ngu huynh đều quen hết bốn vị Chân, Giả, Thiện, ác Đoạt Hồn Kỳ, nhưng về lai lịch cây cờ tại sao lại như vậy thì quả nhiên ngu huynh không được biết?

Liễu Mi rằng:

– “Em nghe cha nói, cây cờ ấy chính ra được bắt chước theo một hình thể thần vật chế tạo ra. Thần vật hình thể của nó rất nhỏ, trông không khác nào chiếc thoa cài tóc của phái nữ, không thể nào đem làm binh đao được, cho nên người ta đã chế cho lớn ra. Còn về chiếc Tiểu Đoạt Hồn Kỳ sự quí báu của nó, mỗi người nói một cách khác nhau, không nhũng em không rõ chuyện, mà cả đến cha em cũng chẳng hiểu hơn được gì, em chỉ biết trên ngọn cờ nhỏ bé này có hai hàng chữ lối chữ triện, tuy chỉ có lối mười mấy chữ, nhưng nếu ai có thể thấu hiểu rõ những ý nghĩa của mấy chữ ấy võ công lập tức sẽ trở thành tuyệt đỉnh cái thế ngay…

Thanh Thông bang hội gần đây không nhân tài xuất sắc gì trên giang hồ; trong ba tháng trước đây, gia phụ vô tình được chiếc cờ nhỏ ấy với một giá rất rẻ, sau đó mới biết rằng vật này là một vật quí báu hiếm có đồng thời gia phụ cũng muốn thấu hiểu những lối chữ triện trên đó để am hiểu một võ công tuyệt đỉnh hầu gây thanh thế cho Thanh Thông bang. Nên đã cố giữ kín tin tức không cho tiết lộ bí mật này ra ngoài.

Nào hay Bắc kiếm Phổ Côn bỗng nhiên đem theo thủ hạ đến Lạc Thủy và đưa cho gia phụ, nói bướng rằng: Tiểu Đoạt Hồn Kỳ là vật sở hữu của lão, và đương nhiên đòi chiếc cờ ấy phải qui về cố chủ nó, và còn nói là Càn Khôn Ngũ Tuyệt vốn là một nhà với nhau, nay Đoạt Hồn Kỳ Chung Ly Triết đã chết, vậy chiếc Tiểu Đoạt Hồn Kỳ phải thuộc về Bấc Kiếm, nhưng nay đã lọt vào Thanh Thông Hội, và lão biết rằng gia phụ thích cây cổ cầm Bát long ngân, và Bắc Kiếm bằng lòng lấy cây Bát long ngân lại đổi. Nhưng gia phụ không chịu đổi; còn về chuyện Bát long ngân, đêm ấy em cũng đến Hắc Hổ thần miếu nghe xem đầu đuôi ra sao và sau khi đánh bại Tư Đồ Cống, em đã tính ra tay đoạt luôn, nhưng vì thấy anh khăm chăm ngó cây đàn, nên em lại không nỡ đoạt của anh, nhưng rốt cuộc cũng bị chị đoạt. Chuyến này Bắc Kiếm đã không được cờ lại mất thêm đàn, đúng là bắt gà không được toi nắm gạo, thế nào lão cũng tức điên người lên được, xem ra trận ác chiến tại Thanh Thông Cốc này không làm sao tránh khỏi!”

Thượng Quan Linh rằng:

– Lệnh tôn đã được cây cờ đó, chỉ cần sao khám phá ra những kỳ văn trên ấy, thế nào cũng luyện được những võ công cái thế trên trần gian, chừng đó sợ gì Bắc kiếm Phổ Côn không phục?

Liễu Mi lắc đầu rằng:

– Chưa hẳn thế, dù chỉ lưa thưa có vài chữ trên cờ ấy nhưng cha em vẫn chưa hiểu nổi dụng ý trong ấy nói những gì! Em đã tự nguyện đứng ra để giúp người, nhưng cha em nói cây cờ đó linh lắm, nhất là không lợi cho thân con gái, cấm em không được bàn đến chuyện này!… Nhưng gần đây trên giang hồ lại xuất hiện thêm báu vật rất đáng sợ, báu vật ấy chỉ là một tỉ thủ nho nhỏ nhưng giết người không bao giờ thấy máu, sắc bén tuyệt luân, được mệnh danh là Lãnh điện tỉ thủ cũng thuộc loại báu vật lâu đời, nhưng đã mất tích lâu năm, và mới tháng trước đây đã tái xuất hiện trên giang hồ. Việc này quả thật là một việc không may gì cho võ lâm, vì nó vừa xuất hiện ra đã gây kinh động khắp võ lâm, mấy năm trước tại Vạn Tính Công Phần, nơi Cửu U Địa Khuyết đã từng xảy ra vụ thảm án, khiến cho Chung Ly Triết, Diêm Nguyên Cảnh, Gia Minh, Tạ Đông Dương…

Thượng Quan Linh nghe tới đây giật thót mình vội lên tiếng hấp tấp:

– Này em Liễu Mi, em muốn nói là vụ thảm án bí mật ấy chỉ do chiếc Lãnh điện tỉ thủ ấy gây nên sao? Vậy thì chủ nhân của tỉ thủ kinh khủng ấy là ai? Nói mau cho anh biết!

Thượng Quan Linh vội nắm chặt ngay bả vai của Liễu Mi lắc lia lịa thần sắc thay đổi hẳn.

Liễu Mi ảm đạm rằng:

– Gia phụ cũng chỉ nghe trên giang hồ đồn đãi như thế, còn chủ nhân của chiếc Lãnh điện tỉ thủ là ai, đến hiện nay chưa ai biết. Chẳng qua khi Chung Ly Triết lão tiền bối sau khi thân thủ bị phân ly, nơi thủ cấp bị cắt đứt ấy không thấy có giọt máu nào, nên mọi người mới cho rằng bị chiếc tỉ thủ hại.

Thượng Quan Linh nghĩ đến ân sư và các vị lão tiền bối bị chết một cách thảm thê như thế, chàng bất giác buông tiếng khóc nhớ liên miên.

Liễu Mi khuyên mãi và rằng:

– Nghe nói trong số người thiệt mạng ở Cửu U Địa Khuyết, có cả một thiếu nữ trẻ trung nhan sắc thì phải!

Thượng Quan Linh lại ứa lệ rằng:

– Đúng thế, chị ấy là Thường Bích Vân, coi anh như em trai ruột vậy!

Liễu Mi lại nói:

– Gần đây nghe thiên hạ đồn rằng. Lãnh điện tỉ thủ lại đương tung hoành hại người, và nghe đâu tại Sài Gia Bảo, cách mười dặm phía Nam của thành Nhạc Dương, mà người bị nạn là một trong tam vị khất của Cùng Gia Bang, tức Độc cước truy phong Nhân tâm thần khất Phương Kỳ, và cũng thiệt mạng về chiếc Lãnh điện tỉ thủ kinh khủng ấy!

Thượng Quan Linh hét lớn lên rằng:

– Trời ơi! Phương Kỳ? ông ta vốn là bạn chí thân của ngu huynh, xưa kia ông ấy từng ra sống vào chết với anh, cùng là bạn hoạn nạn có nhau… Em Liễu Mi, chuyện này có thật không?…

– Em cũng mới được nghe tin đây, nhưng mong sao không phải là tin thật!

Thượng Quan Linh run giọng, biến sắc mặt rằng:

– Phương đại ca! Phương đại ca ôi!…

Liễu Mi an ủi chàng rằng:

– Anh Linh… anh đừng có vội quýnh người lên như thế, coi chừng tổn hại đến thân hình thì nguy, giờ đây anh có thể đi điều tra trước xem, chưa chừng không phải ông ta cũng nên!

Lòng dạ Thượng Quan Linh rối như tơ vò, chàng vội hấp tấp giao ngay cây đàn Bát long ngân cho Liễu Mi rằng:

– Em Liễu Mi, hãy thứ lỗi cho anh, vì tâm tình anh lúc này rối điên lên quá,… nay cây đàn này anh không thể đem theo bên người được, nhờ em trông coi hộ cho anh, anh cũng không kịp bẩm rõ sự thể với thầy anh nữa, vậy nếu tiện em hãy ráng nói hộ với thầy anh một tiếng!

Liễu Mi bèn nhận ngay lời và an ủi chàng rằng:

– Anh Linh, nếu quả Phương đại hiệp không có chuyện gì xảy ra, anh nên sớm về Ngao Sơn nhé, nếu chẳng may có hung tín, anh cũng chớ nên bi ai quá độ làm gì, cần nhất là anh phải về ngay Ngao Sơn thương lượng ngay với thầy anh để điều tra cho ra hung thủ! Còn nếu trong Thanh Thông bang hội không có chuyện gì rắc rối, thế nào tiểu muội cũng lại giúp sức anh!

Thượng Quan Linh lòng nóng như lửa đốt, sau khi ra khỏi cốc, hấp tấp lên đường đi ngay về hướng Nam.

Cuộc hành trình của chàng được tiến hành suốt ngày lẫn đêm không ngừng, qua Cao Sơn, xuôi Nam Dương… rồi đến Hán Thủy gần Phàn Thành.

Trời đã xế chiều, trên quan đạo người đi không nhiều lắm, nhưng chàng thấy phía trước có đám đông đang chen lấn nhau, Thượng Quan Linh giục ngựa tới nơi xem chỉ thấy bốn đại hán đang vây đánh một người kịch liệt!


Bốn người đều tay cầm binh đao, miệng luôn hò hét inh tai, nhưng thấy kẻ bị vây ở giữa lại tay không, đứng ngay chính giữa với một điệu bộ rất ư là lười, vì mỗi khi chờ cho binh đao của bốn người đánh tới nơi, mới chịu ra tay bằng cách quạt chưởng phong đánh bật binh đao của kẻ địch. Thượng Quan Linh vốn đang nóng ruột về chuyện của mình, khốn nỗi bây giờ đám đông đứng chật đường lối như thế này; không sao đi qua được, chàng đứng cau mày bực mình.

Chàng bèn lùi ngay ngựa lại sau một chút, sẵn sàng dây cương để tìm nơi trống trải nhảy vọt nhanh sang, không ngờ một trong bốn người đang vây đánh người nọ, hình như tên này đã đánh đến quẫn trí thì phải, khi thấy Thượng Quan Linh sửa soạn xen qua, hắn vung ngay đao chặn lối quát nhặng lên rằng:

– Muốn tìm đường xuống địa ngục hả?

Thượng Quan Linh sốt ruột, không muốn dây dưa nhiều chuyện trong lúc này, chàng sợ gây nên phiền phức không đâu, đành phải ghìm ngay cương ngựa đứng lại hét lên:

– Tránh ra!

Nào hay tên nọ đánh nhau đến lú ruột gan, cho rằng Thượng Quan Linh cũng là địch thủ, chẳng nói chẳng hỏi thêm trắng đen gì, vù một tiếng gió, khua đao chém thẳng ngay vào đầu ngựa của chàng!

Thượng Quan Linh dùng ngay roi ngựa hất mạnh ra và giật mạnh một cái, thình lình cuốn ngay lưỡi đao của tên nọ. Ý của chàng là muốn biểu diễn một ngọn như thế để cho tên nọ khiếp vía tránh lối cho mình đi cho được việc nào ngờ tên này sau khi đao bị cây roi của Thượng Quan Linh cuốn chặt rút không ra, bèn cuống lên la hoảng inh ỏi:

– Bớ anh em… mau mau lại đây! Thằng oắc này cao tay lắm!…

Thượng Quan Linh ngầm than khổ, nếu bị đám hỗn này vây chặt, làm sao mà thoát thân, chàng vội rút ngay roi và thúc ngựa xông bừa!

Bỗng một tiếng hét từ phía sau tới:

– Mãnh con! Bộ còn muốn thoát sao?

Trong nhóm ba tên vây đánh người lười kia, lúc này đã có hai người vọt tới phía Thượng Quan Linh, chia ngay ra một tả một hữu, khua đao phong tỏa ngay lối đi của chàng, bạch quang vừa nhoáng lên một cái, con ngựa hét vang một tiếng chồm đứng lên ngay, suýt quật luôn Thượng Quan Linh xuống, con ngựa chàng đã bị thương!

Thượng Quan Linh nhảy tụt nhanh xuống ngựa, trong lòng giận điên lên quát rằng:

– Ta là kẻ qua đường, nào có trêu ghẹo các ngươi, tại sao lại chận ngang đường không cho ta đi là nghĩa gì?

Một tên trong bọn lên tiếng rằng:

– Thằng mãnh con? Bộ còn muốn ương ngạnh sao? Không biết Phàn Thành Tứ Long bọn ta đang bận việc trên quan đạo này à? Đã không chịu đứng một chỗ mà xem, hấp tấp hung hăng đi xuống âm phủ sao?

Thượng Quan Linh thấy mấy người này ai nấy mắt xếch, mặt toàn những thớ thịt ngang, tướng mạo không phải là kẻ thiện gì, chàng cố nín cơn giận giải thích rằng:

– Tại hạ có chuyện gấp bên mình, xin quí vị thông cảm và nhường cho tại hạ đi ngay…

Tên đứng gần nhất cất tiếng cười nhạt rằng:

– Hừ! Có chuyện gì mà phải vội vã đến thế? Không lẽ mãnh con có bạn chí thân nào chết, lo đi đưa đám sao mà gấp vậy?

Câu nói này lại khéo đụng ngay vào tim đen của chàng, chính là một câu nói mà chàng không thích nghe tí nào, Thượng Quan Linh liếc nhìn con ngựa bị thương nặng nằm dưới đất, trong lòng đâm nổi nóng, chàng bèn quyết ý cho bọn này một bài học, nghĩ xong chàng thình lình quát lớn lên:

– Cút mau ngay ra!

Tiếng quát của Thượng Quan Linh lập tức thu hút ngay bốn người. Cả bọn binh đao lo trấn giữ lối đi, và ai nấy chăm chú hành động của chàng, khi chúng thấy Thượng Quan Linh có vẻ cuống quít, càng đâm ra đắc ý bèn bày ngay bộ mặt hách dịch cười ngạo nghễ rằng:

– Này mãnh con! Nếu biết điều thì quì ngay xuống cộc đầu và gọi Tứ đại gia mỗi người một tiếng ông nội, chúng ta sẽ lượng tình tha cho đi ngay!

Thượng Quan Linh không nhịn được nữa, bèn quát lên:

– Này Phàn thành Tứ Long, bọn ngươi ức hiếp người vừa vừa chứ, thôi thì cũng được, ta cũng sẵn lòng đùa với bọn ngươi vài đường vậy!

Nói xong chàng lập tức đứng ngay thế chuẩn bị nghênh địch!

Thế là một ám hiệu vang lên, cả bốn người cùng vung đao bửa nhanh vào Thượng Quan Linh một lượt, nhưng thân hình Thượng Quan Linh vẫn không biến đổi chờ khi binh đao của bốn người xáp tới gần, thình lình chàng hét lên một tiếng như sấm nổ, dùng đến bảy phần mười công lực, song chưởng đẩy mạnh ra với một thế Tống nguyệt thôi song (tiễn trăng qua cửa sổ) ép mạnh sang!

Trong nhóm Phàn Thành Tứ Long, hai tên đứng trước đã bị chưởng phong của Thượng Quan Linh áp mạnh tới, cả hai đứng không vững, loạng choạng như muốn té, hai tên phía sau thấy vậy vội chạy lên tiếp ứng!

Nội trong một chưởng đầu, Thượng Quan Linh đã biết ngay công lực của Tứ Long chẳng có gì, chàng cười nhạt một tiếng bụng nghĩ thầm: rõ thật là quân khoét vách còn hơn chúng, vậy mình nên mau cảnh cáo chúng rồi còn đi cho kịp chứ!

Thượng Quan Linh nghĩ xong bèn quyết định ngay, chàng bèn vung chưởng dùng ngay ngọn tuyệt học Đinh Giáp thần công, thế là trận cuồng phong như bài sơn đảo hải đánh tới tấp sang! Trông chàng lúc này không khác nào như mãnh hổ lọt vào đàn dê; song chưởng chàng tha hồ: phạt, bửa, quất, xỉa, vỗ, càng đánh càng mau! Phàn Thành Tứ Long nào phải đối thủ của Thượng Quan Linh cả đám cố sức chống trả la hét ầm ĩ, nhưng tuyệt không chịu lui bước.

Thượng Quan Linh liếc nhìn về người bị bốn người vây đánh lúc này chỉ thấy gã này ngồi ngay bên lề đường như thưởng thức cuộc giao tranh của năm người, thần sắc có vẻ thản nhiên lạ lùng. Khi Thượng Quan Linh quay đầu lại nhìn gã, gã bèn ngước mắt ngó ngơ đi chỗ khác!

Thượng Quan Linh giận thầm trong bụng: Đáng đời cho mình thật? Chuyến này Phàn Thành Tứ Long đều vây đánh hết cả sang mình, mà gã này lại thản nhiên ngồi một chỗ quan sát trận chiến ung dung như thế, hình như cuộc nội chiến này không dính dấp gì với gã cả, chỉ nội nhìn bộ dạng lười biếng của gã, trong lòng vừa tức giận cũng vừa buồn cười!

Phàn Thành Tứ Long liều đánh không chịu lui, khiến cho lòng dạ Thượng Quan Linh càng đâm sốt ruột thêm, chợt chàng nhảy phắt ngay về sau, soẹt một tiếng rút phắt ngay cây Lệ thủy tinh kiếm ra, một ánh bạch quang nhoáng nhanh cái, mọi người chỉ còn nghe cheng leng leng một tiếng vang, những binh đao của Phàn Thành Tứ Long đều bị tiện đứt thành hai hết, cả bốn người giật bắn người? Chẳng ai rủ ai, vội ôm đầu co giò chạy thật nhanh mất…

Thượng Quan Linh cũng chẳng thèm đuổi theo. Chàng vung kiếm khua vẽ một đường lên không rồi mới tra ngay kiếm vào vỏ, bỗng chàng nghe một tiếng nói truyền lại rằng:

– Kiếm quí thật! à Thượng Quan Linh quay đầu nhìn ngay anh chàng lười, lại thấy gã nhìn đi chỗ khác. Chàng lại khám xem con ngựa, thấy bị thương nặng quá, không thể nào cưỡi nữa đành hạ hết những hành lý đơn giản ra để cuốc bộ chứ biết làm sao hơn? Nhưng chàng không biết còn bao xa mới có thành quách thị trấn, trời đã bắt đầu tối, Thượng Quan Linh cũng cảm thấy mình mệt mỏi. Liếc mắt nhìn anh chàng lười nọ, thấy gã vẫn ngồi yên như cũ, chàng bỗng nghĩ thầm nếu không có chuyện của gã này, mình đâu có đến nông nỗi này, nghĩ thế Thượng Quan Linh đâm bực mình với gã lạ mặt này.

Nhưng trong năm năm trời học võ với Nam bút Gia Cát Dật tại Ngao Sơn, chàng luôn luôn được thầy nhắc nhở là phải khiêm tốn ôn hòa bất cứ với một việc gì nhất là sau này có xuất đầu lộ diện trên giang hồ, đối với người nào cũng phải có thái độ hòa dịu, không nên ngông cuồng hỗn xược.

Thượng Quan Linh ngước mặt lên nhìn trời, xong mang luôn khăn gói lên vai, nhìn gã nọ vẫn ngồi ì ra đấy chàng bèn cố niềm nở nói rằng:

– Này ông bạn! Chúng ta đi thôi!

Gã nọ ngáp xong vươn vai đứng lên với một điệu bộ lười biếng rồi đủng đỉnh bước lại phía trước mặt Thượng Quan Linh.

Thượng Quan Linh thấy vóc dáng người này khôi ngô vạm vỡ, tướng mạo đoan chính, tuổi ước trên hai mươi, tuy cử chỉ có hơi lười biếng, nhưng cũng ngầm chứa phong độ ung dung bên trong, chàng bất giác thất kinh và cũng đâm ra có lòng kính nể ngay!

Đi được một quãng đường khá xa, Thượng Quan Linh thấy bộ pháp người thiếu niên này không những khỏe mà còn vững, chỉ hơi tiếc là vẫn còn vẻ lười trong đó hình như thiếu niên này đối với vật gì cũng chán thì phải? Lạ nhất là suốt từ nãy đến giờ không hề mở miệng nói một câu gì!

Thượng Quan Linh bèn cà kê nói chuyện vôi thiếu niên:

– Tại hạ Thượng Quan Linh, dám hỏi huynh đài tôn tánh (họ)?

Thiếu niên chỉ trả lới cộc lốc một tiếng:

– Hầu!

Người đâu lạ đến thế thì thôi! Trả lời chỉ có độc nhất mỗi tiếng như thế, đến cả tiếng họ cũng không buồn nói thêm.

Thượng Quan Linh cũng trả đũa ngay lại:

– Đại danh?

Thiếu niên cũng vẫn đáp cộc lốc một tiếng:

– Hạo!

Thì ra gã là Hầu Hạo, sau khi hai bên biết họ tên nhau, cuộc diện trở về trầm mặc như cũ, hai người vẫn đi nhưng chẳng ai nói với ai. Đi được một chặp, Thượng Quan Linh chợt nhớ ra, mấy hôm trước ở Tùng Thọ Cư trên Ngao Sơn, sau khi Túy Đầu Đà uống quá chén, kéo Thượng Quan Linh vào lòng kể cho chàng biết rằng: gần đây trên giang hồ miền Bắc đã xuất hiện một thiếu niên hiệp sĩ nghe đâu là họ Hầu, công lực cao không thể nào lượng nổi, và tính tình chuyên thích phá phách những nhân vật hắc đạo trong võ lâm, hễ gặp được những tay hắc đạo, đều thẳng tay tàn sát không dung tha; nhưng chỉ có một tính kỳ lạ nhất là trầm mặc ít nói, tướng tá bề ngoài trông lười vô kể, và trên giang hồ, thanh danh của chàng hiệp sĩ này đã nổi như sóng cồn, cả hai phái Hắc Bạch Đạo trong võ lâm đều tặng cho chàng một biệt danh gọi là Lãn Hiệp (hiệp sĩ lười).

Nay xem tướng tá của Hầu Hạo đây, quả thật không khác gì với lời tả của sư bá Đông tăng Túy hòa thượng là bao, bộ người này chính là vị Lân Hiệp nổi danh như sóng cồn đấy sao?

Thượng Quan Linh nghĩ đến đây, trong lòng lại bất giác đâm ra quả cảm và lấy làm thú vị với nhân vật đang đi chung bên cạnh mình, chàng bên cất tiếng hỏi:

– Hầu huynh? Vậy huynh có phải là Lãn Hiệp đấy không.

Nhưng Hầu Hạo chỉ hừ một tiếng không nói gì, cũng chẳng biết chàng nhận hay lả chàng chối, Thượng Quan Linh bất giác bực mình, bụng nghĩ: người này quá kiêu ngạo lại vô lễ, chàng tức giận đếch thèm hỏi nữa!

Hai người vẫn đi liên miên suốt đường quan đạo trong cảnh đêm tối. Sau khi chàng Thượng Quan Linh tức giận, hai chân chàng bất giác đi nhanh vùn vụt, nhưng chàng Hầu Hạo hình như sợ Thượng Quan Linh bỏ rơi mình, cũng vội rảo bước theo sát bên người, Thượng Quan Linh nhanh thì chàng cũng nhanh, mà chậm thì Hầu Hạo cũng chậm lại, nghĩa là luôn luôn không trước không sau, đi ngang hàng đúng với Thượng Quan Linh

Khi trời gần sáng, thì trước mắt hai người đã hiện ngay ra một thành quách. Khi hai người vừa đến cổng thành, vì còn sớm nên cổng thành còn chưa mở, Thượng Quan Linh tung thân vèo ngay vào trong, thấy mấy tên lính canh cổng thành còn đang vùi đầu ngủ kỹ với nhau.

Chàng ngó quanh quất bỗng thấy tấm cáo thị dán vách, mới biết đây là Nhưỡng Dương, một thành quách của tỉnh Ngạc Bắc (tức tỉnh Hồ Nam nay)

Thượng Quan Linh rằng:

– Hầu huynh, chúng mình hãy nghỉ ngơi tại đây, chờ mua ngựa để đỡ chân, huynh tính sao?

Hầu Hạo chỉ gật đầu. Cuộc sinh hoạt của thành Nhưỡng Dương đã bắt đầu, sau khi vào quán ăn uống xong, Thượng Quan Linh bèn suy tính: nếu đi bằng đường thủy đến Nhạc Châu cũng được, nhưng chỉ ngại hơi chậm, thà cứ dùng ngựa đi bằng đường bộ lại còn mau. Lòng chàng nóng như thiêu, ăn xong bèn đi mua ngựa ngay. Và hai người kéo ngựa ra cổng thành phía Nam dong ruổi luôn một mạch!

Hầu Hạo thấy Thượng Quan Linh làm gì thì chàng ta làm theo, không lên tiếng hỏi han gì.


Thượng Quan Linh vừa lạ vừa bực mình, nhưng càng cố nhẫn nhịn rằng:

– Hầu huynh! Nay tiểu đệ bận việc riêng trong người, nên phải đi gấp về Nhạc Châu, và cuộc đi này sẽ liên tục suốt ngày lẫn đêm, chúng ta có lẽ đi chung không tiện? Hầu huynh nếu cũng bận việc, tiểu đệ thật không dám quấy quá, vậy xin chia tay với Hầu huynh đây vậy và hẹn gặp nhau sau, liệu Hầu huynh tính sao?

Thượng Quan Linh nhìn thẳng vào mật Hầu Hạo để chờ câu trả lời, nhưng chàng lười chỉ gật đầu thay cho câu nói.

Thượng Quan Linh ngầm tức mình xui xẻo mới gặp người bực mình như thế, chàng cũng chẳng thèm nói nhiều, vung ngay roi quất ngựa đi luôn!

Thượng Quan Linh đi được một lúc, trong lòng chàng lại nghĩ đến con người kỳ dị của Hầu Hạo, suốt cả một đêm gần gũi với người này, mà chỉ vỏn vẹn nghe được có năm tiếng: Kiếm quí thật và hai tiếng xưng họ và tên Hầu Hạo. Ngoài ra, nếu không phải gật đầu tức là lắc đầu, còn không nữa thì những tiếng hừ lạnh lùng bằng giọng mũi? Mình đã ra công đánh chạy đám Phàn Thành Tứ Long hộ y, lại mời cơm nước, mua ngựa cho y, thế mà đến hai tiếng cám ơn hắn cũng chẳng buồn nói? Nghĩ đến đây Thượng Quan Linh càng bực tức thêm, chàng vung roi quất bâng quơ về sau!

Nhưng Thượng Quan Linh đã thất kinh thốt lên hai tiếng Ai da!, vì chính người đang theo sau chàng không phải Hầu Hạo thì còn ai?

Ngọn roi của Thượng Quan Linh suýt quất ngay vào mặt Hầu Hạo, nhưng thấy chàng ta vẫn ung dung ngồi trên lưng ngựa, mắt cũng chẳng buồn chớp, chàng làm như biết thế nào Thượng Quan Linh cũng thu ngay thế về kịp vậy.

Thượng Quan Linh hỏi ngay rằng:

– Hầu huynh cũng xuôi về miền Nam sao? Hay huynh vẫn muốn cùng đi chung với tôi?

Hầu Hạo nhìn Thượng Quan Linh xong, rồi ngước đầu gật luôn hai cái, kể như đã trả lời hai câu hỏi của Thượng Quan Linh.

Thượng Quan Linh phải đi chung với chàng ta, đi được một lúc, Thượng Quan Linh muốn biết tại sao Hầu Hạo xảy ra chuyện ẩu đả với nhóm Tứ Long ở Phàn Thành, bèn hỏi rằng:

– Này Hầu huynh, vì chuyện gì mà huynh lại xảy ra chuyện lôi thôi với nhóm Tứ Long vậy?

Hầu Hạo lắc đầu, hình như đến chính chàng ta cũng không rõ vì sao.

Thượng Quan Linh lại nói tiếp:

– Chắc có lẽ thanh danh Lãn Hiệp của Hầu huynh vang lừng, nên mới có nhiều người mộ danh đến để cốt bái kiến cho biết!

Hầu Hạo gật đầu.

Thượng Quan Linh thấy chàng gật đầu mừng hẳn người, chàng ta quả là vị thiếu niên hiệp sĩ nổi danh Lãn Hiệp đây, mình vô tình lại kết được những người bạn như gã, trong cuộc hành trình này kể cũng không đến nỗi uổng công gì.

Thượng Quan Linh lại tươi cười hỏi rằng:

– Không biết Hầu huynh từ đâu đến? Và xuôi nam có chuyện gì không? Chắc có lẽ suốt dọc đường, đã gặp nhiều chuyện phiền phức rồi chứ gì?

Trên lưng ngựa, Lãn hiệp Hầu Hạo đưa luôn hai bàn tay lên, và chỉ cúp xuống có một ngón, chàng ngầm cho biết là đã gặp những vụ rắc rối cả thảy là chín lần, nhưng còn từ đâu mà đến và sẽ đi về đâu? Chàng tuyệt nhiên không cho biết!

Trừ phi là Thượng Quan Linh chưa từng nghe Hầu Hạo nói bao giờ, nếu không thấy chàng chỉ nói bằng dấu tay như thế e cũng cho người này là câm thật sự!

Thượng Quan Linh thấy Hầu Hạo không trả lời, chàng bỗng lại nhớ ngay đến Nhân tâm thần khất Phương Kỳ, trong lòng phiền muộn hết sức, bất giác khẽ tiếng thở dài.

Hầu Hạo hình như biết Thượng Quan Linh đầy lòng tâm sự buồn bã, chàng liếc mắt nhìn Thượng Quan Linh, trong cái nhìn như muốn hỏi han, nhưng Thượng Quan Linh nghĩ bụng: anh đã chẳng muốn chuyện trò, tội gì phải kể cho anh nghe, thế là chàng trầm mặc luôn.

Hai người dong ruổi suốt ngày lẫn đêm, trong cuộc hành trình ấy, Hầu Hạo vẫn làm biếng không nói một câu chuyện gì, mọi việc đều do Thượng Quan Linh lo liệu hết, và chàng ta cũng chẳng bao giờ có ý kiến khác.

Một hôm, hai người đến gần Kinh Môn thì gặp một con đường núi hẹp, người rất vắng, chiều tà đã chiếu khắp đồi núi, nền trời chỉ thấy chim quạ về tổ, cảnh sắc tiêu điều khiến người buồn lòng thêm!

Trong thời kỳ Thượng Quan Linh còn ở Ngao Sơn thường nghe thầy kể những đường núi chật hẹp, thường là những nơi ẩn dật của những nhân vật hắc đạo trong võ lâm, và thường hay đánh cướp những kẻ qua lại, nay mình phải đi qua con đường cổ đạo Kinh Môn này, trong lòng Thượng Quan Linh không khỏi nao nao, không phải chàng sợ, chàng chi ngại nếu xảy ra chuyện gì, cuộc hành trình của mình lại bị chậm trễ thêm, chàng ngồi trên lưng ngựa tự tính thầm trong bụng, ước sao mau mau đi đến nơi đến chốn.

Hai người đang đi trên đường cổ đạo Kinh Môn, không bao lâu bỗng có tiếng hưởng tiễn (tên có gắn còi báo động) rít lên trên không, Thượng Quan Linh giật mình thầm nhủ: Nguy! Chắc là đám cướp cạn đấy! Chàng vừa nghĩ đến đây thì quả nhiên phía trước có một đám người lô nhô chận ngang lối, binh đao nhoang nhoáng, Thượng Quan Linh bất giác bực mình, bèn lên tiếng nói với Hầu Hạo rằng:

– Chúng ta cứ việc xông bừa qua?

Hầu Hạo không nói, nhưng chàng lắc đầu?

Hai người tới gần, chỉ thấy đám người xếp thành hàng hình cánh chim, và có bốn người đứng giữa chận ngay lối đi. Trong số bốn người, một người già mặt đỏ bước ngay ra, ôm quyền thi lễ! Cất tiếng rằng:

– Tại hạ đây Kim long Tiền Hấp, còn ba vị này là Thiết phán quan Kim Đan, Cửu túc ngô công Chu Trắc và Tẩu di đà Đường Kiếm. Bốn anh em chúng tôi từng nghe danh của Lãn Hiệp và nghe nói hôm nay thế nào cũng tạt ngang đây, nên dám mạo muội đến đây chờ thỉnh giáo!

Nghe ra, Thượng Quan Linh mới biết là họ muốn kiếm chuyện với Hầu Hạo, quay nhìn Hầu Hạo, hình như chàng ta không nghe, vì vậy, ngồi yên trên ngựa không nói không rằng, Thượng Quan Linh lấy làm lạ, chỉ thấy bốn người nhóm Kim long Tiền Hấp ngó hết về mình, chàng không biết tính sao, ngồi yên trên lưng ngựa ôm quyền thi lễ rằng:

– Tại hạ Thượng Quan Linh, vốn là bạn cùng đường với Hầu huynh đây, nhưng nay tại hạ bận việc riêng trong người, quí vị có chuyện gì với Hầu huynh xin cứ việc dàn xếp với nhau, còn tại hạ…

Chàng muốn nói là không mắc mớ gì đến mình, nhưng lại cảm thấy khó nói quá.

Ngay trong lúc Thượng Quan Linh ngập ngừng ấy bên kia bỗng có người lạnh lùng lên tiếng rằng

– Rõ quân hèn nhát như chuột! Bộ sợ rồi đây hẳn?…

Thượng Quan Linh nghe rõ ràng, trong lòng vừa thẹn vừa giận. Bỗng Kim long Tiền Hấp lại rằng:

– Này tiểu tử họ Thượng Quan kia? Hãy nghe cho rõ đây, tư tưởng của ngươi ta đã rõ hết, nhưng bây giờ ngươi không thể nào bỏ đi ngay như thế được, vì ngươi đã ngang nhiên giao kết với Lãn Hiệp, đó là chuyện xui xẻo cho ngươi. Vậy chịu khó ngồi sang một bên để mở mắt xem bọn ta bắt tên họ Hầu này, rồi liệu bề cộc đầu với bọn ta, may ra bọn ta thấy tội nghiệp mà tha cho hai ngươi lên đường lại!

Thượng Quan Linh nghĩ bụng: rõ tai bay vạ gió đến thật. Khi không gặp Hầu Hạo này rước những phiền phức vào người, làm mất cả thì giờ của mình, như thế đã yên đâu, lại còn bị người ta sỉ vả chê cười như thế! Chàng quay nhìn Hầu Hạo, thấy chàng ta vẫn như kỳ trước, vẫn thái độ cách ngạn quan hỏa thiêu (đứng bờ sông này nhìn bờ sông bên kia cháy). Hình như việc này chính là việc của Thượng Quan Linh vậy?

Thượng Quan Linh bực mình nghĩ ngay: Đã thế mình mặc xác Hầu Hạo, mình xông bừa qua một mình đi cho yên việc.

Thượng Quan Linh bèn thét lớn tiếng:

– Hầu huynh! Tôi xin mạn phép đi trước đây!

Kim long Tiền Hấp cười nhạt rằng:

– Muốn đi sao? Đâu có chuyện dễ dàng như thế!

Dứt lời đưa tay trái lên ra dấu, Thượng Quan Linh chỉ thấy đám người đằng sau bốn người, cách năm bước tụm ba, cách mười bước tụm năm, đều là những người mang cung tên mai phục sẵn sàng, xem ra khó mà xông thẳng qua được.

Nhưng Thượng Quan Linh ra roi thúc ngựa, quát lên rằng:

– Lũ chuột! Hãy tránh nhanh ra cho thiếu gia!

Dứt lời Thượng Quan Linh vọt ngay ngựa sang phía Kim long Tiền Hấp.

Kim long Tiền Hấp quát lên một tiếng:

– Hãy chận ngay thằng khốn nạn này lại? Vương hiền đệ, Chu hiền đệ hãy theo ngu huynh lại đối phó với tên họ Hầu kia!

Mọi người được lệnh la hét om lên xông bừa lại vây! Các cung tên thủ cũng sẵn sàng nhả cung.

Thượng Quan Linh hét lên một tiếng, từ trên lưng ngựa vọt bổng ngay thân lên, nhằm ngay đám đông bay bủa ngay xuống.

Vù một tiếng gió! Cây thương đâm ngay tới phía trước mặt Thượng Quan Linh, thì ra chính là ngọn Hồng anh thương của Tẩu di đà Đường Kiến, chỉ thấy mũi Hồng anh thương loang loáng lên như bông hoa đỏ chói và to lớn. Thượng Quan Linh muốn nhặt về chút thể diện vừa rồi, chàng bèn dùng ngay đến ngọn Đinh Giáp Khai Sơn, nghiêng mình né ngay ngọn Hồng anh thương của đối phương, vung chường bửa ngay bả vai của địch. Chỉ kịp nghe tiếng gió ào một tiếng, Tẩu di đà Đường Kiến bị trúng ngay một đòn loạng choạng suýt té ngồi dưới đất.

Đường Kiến mắt lộ vẻ kinh ngạc, không ngờ thằng nhỏ quê mùa này lại có công lực mạnh mẽ đến thế?

Trong lúc đó Thượng Quan Linh nhanh như chớp, liên miên phạt thêm ba chưởng một lúc, khiến cho đám đông ồ ạt lại cứu bị bắn bung hết ra xa, tiếng kinh thét rú lên liên miên, khiến kẻ nghe rùng mình ớn lạnh. Đường Kiến lại phải miễn cưỡng dùng thương của mình đỡ thêm một chưởng, nhưng cảm thấy chưởng lực của địch nặng như núi, không sao chịu nổi, toàn thân lập tức bị lảo đảo, vội khẽ hừ một tiếng, thương pháp chuyển nhanh, khua nhoáng một đường, chớp mắt đã lòn ngay sang cạnh hông, mũi thương nhắm ngay nách của Thượng Quan Linh hất tới.

Thượng Quan Linh nhận thấy công lực người này hơn hẳn nhóm Phàn Thành Tứ Long chàng cảm thấy phấn khởi, ngoài chưởng pháp Đinh Giáp Khai Sơn ra, chàng dùng thêm ngọn Điên Đảo Càn Khôn mà Đông tăng Túy Đầu Đà đã truyền, cước bộ chàng chỉ thấy khẽ lướt một cái, đã ngang nhiên né tránh khỏi mũi thương nhà nghề của Tẩu di đà Đường Kiến, không nhanh không chậm, thật là khéo tuyệt!

Tẩu Di Đà có nằm mộng cũng không thể nào ngờ rằng Thượng Quan Linh lại có thể tránh nổi ngọn thương của mình như thế, sau khi mũi thương thích hụt, vội xoay ngang cán thương đánh áp sang, thân hình Thượng Quan Linh bỗng biến đâu mất! Tẩu Di Đà thất kinh hoảng hồn, chỉ nghe hậu não môn của mình có tiếng gió ập tới, vội ngồi thụp ngay xuống để tránh đòn, nhưng đã trễ hẳn, vì ngọn Đinh Giáp Khai Sơn của Thượng Quan Linh ra tay quá nhanh! Chỉ nghe tiếng bùng! Sau lưng của Tẩu Di Đà đã bị ngay một đòn. Đường Kiến chỉ thét lên một tiếng thê thảm, miệng trào máu tươi nằm sấp ngay dưới đất!

Thượng Quan Linh bỗng nghe có tiếng khen:

– Chưởng lực cũng cừ lắm!

Thượng Quan Linh không ngờ chưởng này mà khiến cho Lãn Hiệp phải thốt ra đến năm tiếng nói như thế? Chàng nhìn nhanh về phía kia, thấy Kim long Tiền Hấp, Thiết phán Vương Đan, Cửu túc ngô Chu Trắc, ba người đang kịch chiến với Hầu Hạo, binh đao của ba người chớp nhoáng lia lịa, đều chiếu cố hết vào những nơi trọng yếu trên mình của Lãn Hiệp! Nhưng quả thật là hiệp sĩ này lười không thể tả được, chỉ thấy chàng vẫn ung dung đứng yên một chỗ, chờ cho binh đao của mọi người gần đụng thân, mới đưa tay lên như đuổi ruồi, và quái lạ! Những binh đao của ba người kia, mỗi lần như thế đều dội ngược lại hết.

Thượng Quan Linh cũng thừa biết ba người nhóm Kim long Tiền Hấp không phải đối thủ của Hầu Hạo, nghĩ bụng mình cứ đi trước cho được việc. Chàng bèn lên tiếng nói lớn rằng:

– Hầu huynh! Tiểu đệ xin lỗi đi trước đây vậy!

Lãn hiệp Hầu Hạo chỉ ừ một tiếng bằng giọng mũi, tiếng ừ ấy truyền rõ ràng vào tai Thượng Quan Linh, nhưng âm giọng lại giống như kẻ ngái ngủ đến năm trăm năm còn chưa tỉnh dậy vậy!


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.