Bạn đang đọc Đồ Mi Không Tranh Xuân FULL – Chương 42: Đông Chí 2
Nét tàn nhẫn xẹt qua con ngươi Hồ Nguyên Ly, hắn cười lạnh: “Ta sẽ không dễ dàng thả quân bài trong tay ra đầu, cho dù có… mất luôn mạng, cũng phải lột da, không cho phép hắn ta có ngày trở mình.”
Mấy câu này nghe hơi kinh khủng, nhưng cũng bởi vì thế mà ta nhẹ nhõm thở ra một hơi.
Chặng đường kế tiếp ta không nói thêm nhiều, ấy mà chẳng biết Hồ Nguyên Ly bị cái gì, cứ giương mắt nhìn ta đăm đăm.
Không gian trong xe ngựa không rộng lắm, bất kể là ta né kiểu gì cũng chẳng tránh khỏi ánh mắt rừng rực như ngọn đuốc của hắn.
Thực sự không thể làm ngơ được nữa, cuối cùng ta mở miệng: “Ngài đừng nhìn nô tỳ chằm chằm thế được không?”
“Không được.”
Hồ Nguyên Ly trả lời thẳng thừng.
Bị hắn làm nghẹn họng, thế rồi ta dứt khoát móc chiếc khăn tay ra, che lên mặt mình – rốt cuộc thì ta vẫn không dám trùm lên đầu hắn.
Khi tới hoàng thành, cơ hồ đã gần đến canh ba*, trên phố hầu như chẳng còn một bóng người.
Ta vẫn đề phòng Hồ Nguyên Ly, sợ hắn ngăn không cho ta về.
Nhưng ngoài dự liệu, hắn chả thèm nhiều lời mà cho xe ngựa chạy về Tần vương phủ luôn.
(*Canh ba: Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng – tức là tương ứng giờ Tý)
Xe ngựa vừa dừng lại, khăn tay trên mặt đã bị Hồ Nguyên Ly lấy đi, ta bảo hắn mà hắn vẫn không chịu trả.
Đương lúc ta lơi lỏng cảnh giác không buồn đếm xỉa, đứng dậy chuẩn bị xuống xe, bỗng nhiên cánh tay căng chặt, cả người bị hắn kéo về lại.
Trong nháy mắt, lưng của ta tựa vào lồng ngực hắn, một bàn tay của hắn giữ lấy eo ta, miệng ghét vào bên tai ta nói: “Ta biết trong hoàng thành… nhiều thị phi, nhưng ta vẫn không cách nào chịu đựng được những ngày ngươi không có ở đây.
Ngươi… đừng trách ta vì đã đưa ngươi về.”
Ta không quay đầu, khẽ kéo tay hắn ra, bảo: “Là nô tỳ chủ động về, đâu liên quan tới vương gia.”
Bấy giờ, Hồ Nguyên Ly không ngăn ta xuống xe nữa.
Sau đó ta mới biết tại sao hắn rõ ràng có vô số cách, mà vẫn để ta quay về Tần vương phủ.
Bởi vì, hắn muốn để ta tự rời đi, cũng biết ta sẽ… rời đi.
Vào tới khoảng viện quen thuộc, Cao Yển hẵng thức, nhìn thấy ta vào, y chẳng hề trách móc, không hỏi ta chuyện của Tô Tử Thuần, cũng chả nhắc đến Hồ Nguyên Ly, chỉ bảo ta đi xuống nghỉ ngơi trước.
Ngày hôm sau cũng vẫn thế, có vẻ y rất mệt, nói cũng ít, không dẫn ta ra ngoài, cũng không cho ta ra khỏi viện, khiến ta sinh ra cảm giác sau khi trở về thì lại bị giam lỏng.
Chỉ là thái độ của Cao Yển với ta chẳng có vẻ gì là khó chịu, chắc y sợ ta về sẽ tiếp tục điều tra chuyện của Vương Trác.
An ủi mình như thế, nên ta cũng ngoan ngoãn ở trong viện.
Vừa về chưa được năm ngày, một vị khách quen đã tới cửa, tính ra thì ta đã không gặp Ngô Vân Thiều một khoảng thời gian dài.
Lúc trông thấy ta, tuy bộ điệu kiêu kỳ ngạo mạn của nàng hãy còn ở đấy, nhưng vênh mặt hất hàm sai khiến thì chả thấy đâu nữa, chẳng qua ngữ khí vẫn không thân thiện lắm: “Hơn một tháng trời không gặp, ta cứ tưởng ngươi bị đuổi đi rồi chứ, sao còn ở đây?”
Ta cung kính hành lễ: “Mấy ngày trước Ngũ gia phái nô tỳ tới một chỗ khác, vừa mới về.”
Cao Yển không ở quý phủ, Ngô Vân Thiều như chủ nhà đi thẳng tới phòng của Cao Yển.
Do dự một chốc, ta bèn tiến lên nhắc nhở: “Ngũ gia chưa về, Ngô tiểu thư có thể ra sảnh chính chờ lát, nô tỳ sẽ phái người tìm vương gia.”
Ngô Vân Thiều chẳng nói chẳng rằng mà miết mắt nhìn ta, cô nha hoàn tính sẵn huênh hoang đứng cạnh nàng lại lên tiếng: “Tiểu thư nhà ta đến đây rất nhiều lần rồi, có nghe ai nói năng gì đâu.
Ngươi là cái thá gì mà dám hoa chân múa tay hả!”
Trên gương mặt ta còn nguyên nụ cười, vẫn bày ra dáng vẻ xuất phát từ tấm lòng thiệt tình: “Hiện giờ Ngũ gia không có trong phòng, nô tỳ cũng chỉ là suy nghĩ cho thanh danh của Ngô tiểu thư thôi.”
Dứt lời, Ngô Vân Thiều bỗng nhiên mỉm cười, khi ta còn đang lờ mờ chả hiểu ra sao, đã thấy Cao Yển vội vàng bước vào.
Dường như y hơi sốt ruột, đi gấp tới nỗi trán lấm tấm mồ hôi, sắc mặt đỏ phơn phớt lạ thường.
Ta sáng bừng hai mắt, chưa kịp hành lễ với y thì bên tai lại vang lên giọng của cô nha hoàn kia: “Tiểu thư nhà ta là Tấn vương phi do hoàng thượng thân phong, năm sau sẽ thành hôn, đâu ra cái kiểu để kẻ khác dám đứng trước mặt nói xằng nói bậy.”
Hành lễ được giữa chừng, ta chợt khựng lại, cùng lúc đó, khuôn mặt vốn đang hồng hào của Cao Yển phút chốc cắt không còn một giọt máu.
– —–
Chẳng biết bắt đầu từ khi nào, thời gian cứ như bị bấm nút tăng tốc, chảy thoăn thoắt như con nước trôi nhanh.
“Tuyết năm nay rơi sớm hơn mọi năm.”
Dưới mái hiên, Lý Mậu Sơn ôm lấy hai tay, mắt quan sát nền đất dần dần nhiễm màu trắng xóa, miệng lẩm bẩm.
Nghe thế, ta quay sang nhìn, bấy giờ mới sực phát hiện, trận tuyết đầu năm nay, tựa hồ đã nhuốm sương lên hai bên tóc mai ông ta.
Ta lặng lẽ xoay người lấy đồ quét tước, ánh nhìn Lý Mậu Sơn đảo qua người ta, không nói gì mà đi vào buồng trong.
Bàn tay cầm chổi đỏ bừng vì buốt, thế nhưng tốc độ quét rác trước sau vẫn chả theo kịp tốc độ tuyết rơi, Hàm Ngọc ở ngoài cũng nhịn không được nhắc ta đừng quét nữa.
Ta dừng việc, lại đứng ngoài cửa cùng cô ấy, ngửa mặt ngắm cảnh tuyết lả tả rợp trời.
Căn buồng đằng sau cực kỳ yên tĩnh, như thể trong đó chẳng có ai.
Vì tuyết rơi, nên ngoài những công việc tất yếu, hầu như mọi người đều cửa đóng then cài, cả quý phủ vì vậy mà chìm vào cảnh vắng lạnh quạnh hiu.
Mấy tháng trước, kể từ khi Cao Yển tiễn Ngô Vân Thiều đi, không có vị khách nào lai vãng Tần vương phủ nữa, tịch mịch đến mức toàn bộ vương phủ như đã bị thế giới cô lập.
Đêm mùa đông, trời tối sớm hơn bình thường, hơn nữa lại khéo là vào tiết Tiểu tuyết*, thời tiết càng thêm phần ảm đạm.
(*Tiểu tuyết: Một trong 24 tiết khí, thường bắt đầu vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng 11 dương lịch)
Còn chưa tới giờ dùng bữa tối, chỗ cửa viện chợt lấp ló có đầu ai thập thò, ta báo với Hàm Ngọc một tiếng, rồi theo Châu Ngọc rời đi.
Vừa đến phòng giặt, đã nghe từ trong dội ra những tràng cười tiếng hoan hô sảng khoái, hoàn toàn đối lập với khu viện quạnh quẽ của Cao Yển.
Ta bước vào, Thanh Đại tức thì túm Châu Ngọc bên cạnh ta qua, mở miệng cái là phàn nàn: “Cô tới rồi đó hả, đám nha đầu này chỉ mê chơi, ồn ào cả ngày trời mà có mấy đứa làm việc.
Còn thế nữa thì đông chí không ăn được bánh chẻo đâu đấy!”
“Sang năm là Thanh Đại tỷ tỷ chuẩn bị làm vợ người ta rồi, cứ chê bai mấy cô nương chúng tôi chậm tay chậm chân suốt thôi.”
Một cô nương trông khá lạ mặt cất giọng trêu ghẹo, Thanh Đại thẹn thùng vờ nhéo cô ấy, nhất thời nhóm người trong phòng được dịp cười nghiêng ngả trời đất.
Khi trời tối hẳn, mấy nha hoàn nhanh nhẹn bắt đầu lo liệu nấu bánh chẻo.
Cửa mới mở ra thì thấy Thái ma ma dẫn Lý Mậu Sơn đi tới.
Tiếng cười đùa náo nhiệt vẫn chưa dứt, Lý Mậu Sơn tiện thế ngồi xuống chỗ gần ta.
“Hôm nay Ngũ gia ăn uống không ngon miệng, tối nay chưa ăn được tí gì cả.”
Chốc chốc Lý Mậu Sơn lại lén nhìn ta.
Ta cúi đầu nói chuyện với Thanh Đại, hồn nhiên không để ý.
Thái ma ma đành tiếp lời: “Tôi nói mà, dạo này nom Ngũ gia gầy đi đấy.”
Lý Mậu Sơn thở dài, lại cất cao tiếng: “Chứ còn gì, tầm một tháng nay ngài ấy nhạt mồm nhạt miệng, ngày xưa còn chịu nghe ta khuyên mấy câu, giờ thì ta nói bã họng cũng có mà lọt được vào tai ngài ấy.”
Tiếng ồn ào trong phòng giảm bớt, ta vẫn chăm chăm kéo Thanh Đại nói chuyện, Thanh Đại hơi khó xử nhìn tới nhìn lui giữa ta và Lý Mậu Sơn.
Lý Mậu Sơn thấy ta cố chấp giả ngu, rốt cuộc nhịn không nổi nữa, thẳng thừng điểm mặt chỉ tên: “Đồ Mi, hay là ngươi đi một chuyến, hỏi thử xem Ngũ gia có muốn qua đây không? Năm ngoái chả phải may có ngươi nói nên Ngũ gia mới đến à?”
Ta nhìn qua Lý Mậu Sơn, dưới ánh mắt đong đầy chờ mong của ông ta, nói chậm rãi: “Công công theo Ngũ gia mấy chục năm, tuổi cũng đã cao mà nói Ngũ gia có nghe đâu, sao có thể để nha hoàn nhỏ bé như tôi đi được, tôi vẫn không nên tới quấy rầy Ngũ gia thì hơn.”
Sắc mặt Lý Mậu Sơn cứng đờ rõ rệt, Thái ma ma đứng cạnh ra sức nháy nháy ra hiệu cho ta, ta bèn đảo mắt làm bộ không thấy.
Cả phòng giặt lặng ngắt như tờ, Lý Mậu Sơn cũng lâm vào trầm mặc.
Tận lúc mấy nha đầu bưng bánh chẻo nóng hôi hổi đi vào mới phá vỡ được bầu không khí ngột ngạt.
Ăn tối xong, ta vốn định ngồi với Thanh Đại thêm một lát, dù sao cô ấy sắp đi rồi, lần này đi, e rằng về sau chúng ta sẽ chẳng còn cơ hội được gặp lại.
Bất thình lình Lý Mậu Sơn tới kéo tay ta, nói ngoài trời đổ tuyết, vì đi đứng không tiện nên muốn ta đi cùng.
Ông ta đi rất chậm, ta chỉ đành cầm ô, cẩn thận thả chậm bước chân.
Vừa ra khỏi phòng giặt, Lý Mậu Sơn nhẹ giọng nói: “Dạo này trong thành gió lớn quá, quật phần phật, làm người ta không dám nói chuyện.”
Đối diện với đôi mắt sâu thẳm của Lý Mậu Sơn, cuối cùng ta đáp lại: “Đúng vậy nhỉ, chắc tại gần đến tết, thời tiết thay đổi.”
Lý Mậu Sơn nghe thế, nhướng mày, từ từ nói: “Xem ra cô cũng không phải dạng đần độn, từ Xuyên Tây về được mấy tháng rồi, sao ta thấy cô còn hờn giận thế?”
Mặt ta vẫn hết sức điềm nhiên: “Công công nghiêm trọng quá rồi.”
Thấy ta lảng tránh, hồi lâu sau Lý Mậu Sơn mới nói: “Đừng có coi ta là nô tài mà coi thường.
Ta là người đã chứng kiến Ngũ gia trưởng thành, từ nhỏ ngài ấy đã ít nói, nhưng ta có thể nhận ra lúc nào thì ngài vui vẻ, lúc nào thì mất hứng.
Ban nãy ta bảo cô đi gọi ngài ấy, đương nhiên sẽ không hại cô.”
Không muốn thảo luận tiếp nữa, ta dứt khoát cắt ngang đề tài: “Nói vậy, trước kia công công cũng là người trong cung hoàng hậu luôn sao?”
Nhắc về chuyện cũ, nét mặt Lý Mậu Sơn thoắt cái đã trở nên nhu hòa, giọng nói ấm áp hẳn lên: “Đúng vậy, hồi nhỏ tiến cung ta đã được xếp vào cung hoàng hậu, chung với… Lệ tần, cùng nhau hầu hạ chủ tử.
Khi đó bà ấy rất thích cười, cho dù luôn bị kẻ khác bắt nạt, vẫn cứ cười ha hả cả ngày.”
Ta không lên tiếng, lẳng lặng nghe những hồi ức của Lý Mậu Sơn.
Ông ta lau mặt, giọng nói dần dần trầm xuống: “Thế nhưng, sau khi bà ấy thành Lệ tần, ta thành nô tài của bà ấy, hiếm khi ta được gặp lại nụ cười của quá khứ.
Rồi bà ấy hạ sinh tiểu vương gia, tiểu vương gia nuôi bên người hoàng hậu, vì kiêng kỵ, nên bà ấy không gần gũi với tiểu vương gia mấy.
Tuy vậy, ta biết, mỗi lần nhìn thấy đứa con của mình, dầu bà ấy chẳng tỏ thái độ gì, nhưng trong đôi mắt lúc đó mới lấy về được ý cười ngày xưa.”
Nghe Lý Mậu Sơn kể lại chuyện cũ trong cung mà chẳng chút e dè, bất giác ta thật lòng an ủi vài câu: “Thảo nào lúc rời cung Ngũ gia chỉ đưa mỗi công công theo, chắc chắn là công công rất đáng tin cậy.”
Lý Mậu Sơn nghe thế thì cười, trong nụ cười xen lẫn cảm giác chua xót: “Bà ấy mất, ta nhất định phải giúp bà ấy chăm sóc đứa nhỏ thật tốt.”
Tim khẽ xao động, nhìn Lý Mậu Sơn cười đầy bi ai, bỗng dưng ta không thốt ra được lời nào.
Đột nhiên Lý Mậu Sơn dừng bước, ta cầm ô cũng dừng lại theo.
“Từ nhỏ tính Ngũ gia đã không thích nói chuyện, việc gì cũng giữ khư khư trong lòng, y như mẫu phi ngài ấy, bị bắt nạt vẫn chẳng hé răng.
Nhưng ta nhìn ra được, cách đối xử của ngài ấy với ngươi có sự khác biệt.”
Vẻ mặt chân thành của Lý Mậu Sơn khiến ta có hơi không dám nhìn thẳng.
Hít sâu một hơi, đang định nói thì đã thấy tầm mắt của Lý Mậu Sơn lướt qua ta, rơi vào một chỗ xa xa đằng sau lưng ta: “Nếu cô còn niệm tình ngày trước ngài ấy đối với cô, thì hãy làm chút gì đó cho ngài ấy đi.
Một người đã quen nén mọi thứ vào lòng, thời gian càng dài, dù có muốn nói ra cũng không biết nên nói thế nào.”
Ta từ từ quay đầu lại, trông thấy nơi nhà thủy tạ cạnh ao trong hậu viện, có một bóng người trơ trọi đứng bất động trong làn tuyết.
Lý Mậu Sơn nói xong, xoay gót chậm chạp rời đi.
Ta đứng tại chỗ lưỡng lự một thôi một hồi, cuối cùng vẫn nhấc chân bước tới cạnh ao.
Nghiêm túc mà nói, ta và Cao Yển đã rất lâu không nói chuyện với nhau, Ngô Vân Thiều đi rồi, y không còn gọi ta đến cạnh hầu hạ, ta cũng chỉ loanh qua loanh quanh trong khu vực của mình, không chủ động đi qua.
Lâu như thế, có một số việc, quả thực phải nói cho rõ ràng thỏa đáng.
Giơ chiếc ô trong tay lên trên đầu Cao Yển, ta cất tiếng trước: “Ngũ gia, tuyết rơi lớn lắm, hôm khác hẵng đến thăm cá.”
Nghe thấy giọng ta, người Cao Yển như đông cứng lại, lúc xoay qua, cổ trông cũng cứng ngắc.
Dần dần, trong mắt y mới có độ ấm, y luống cuống, ngơ ngẩn hỏi ta: “Ngươi ăn cơm chưa?”
Y vừa nói, ta liền ngửi được mùi rượu thoang thoảng phảng phất, hôm nay y không ra ngoài, sao lại uống rượu trong quý phủ?
Ta gật gật đầu, đáp: “Đã ăn ở phòng giặt rồi ạ.”
Cao Yển thẫn thờ nhìn ta, ta chỉ đành giải thích: “Sang năm là Thanh Đại sẽ ra phủ, nô tỳ muốn ở lâu hơn chút ôn chuyện với cô ấy, nên mới về hơi trễ, vậy mà lại để không có người nào hầu hạ Ngũ gia thế này.”
“Thanh Đại?” Cao Yển hỏi lại ta một cách máy móc, hệt như người máy.
Biết y bình thường không nhớ đám nô tài là ai với ai, ta nói tiếp: “Là tỷ muội mà nô tỳ quen lúc còn ở phòng giặt, lớn hơn nô tỳ một tuổi, nên rời phủ sớm hơn nô tỳ một năm.”
Ngay sau đó ta thấy đồng tử của Cao Yển khẽ co lại, giọng nói cứng đơ như vừa định thần: “Ngươi phải rời phủ?”
“Đúng ạ.” Ta cố gắng cười nói tự nhiên: “Vương gia không quên sang năm nô tỳ đã mười chín rồi chứ? Qua sang năm, nô tỳ sẽ hai mươi, rồi sẽ rời phủ như Thanh Đại.”
Lời vừa nói ra, bầu không khí bỗng chìm vào sự im lặng chết người.
Ta lặng lẽ cầm ô, cầm đến nỗi cánh tay râm ran buốt nhói.
Cao Yển tiến lên từng bước, theo bản năng ta lùi về phía sau.
Không biết hành động đó của ta đã chọc giận y hay sao, tức khắc ánh mắt của y như con thú đơn độc bị trúng mũi tên, như thể đang âm thầm gào thét trong cơn mưa tuyết yên ả này.
Cuối cùng, Cao Yển chầm chậm xoay người, ta vô thức chạy theo che ô cho y.
Y không ngoảnh đầu, tay chợt vung lên, chiếc ô giấy dầu trong tay ta bị y hất xuống, lăn long lóc vài vòng trên mặt hồ đã đóng băng, làm lớp tuyết phút chốc mất đi sự “trật tự” vốn dĩ của nó.
“Ta không cần.”
Giọng nói lúc này của Cao Yển, dường như còn lạnh hơn cả bông tuyết phiêu tán trên bầu trời.
Sau khi y đi, một mình ta chật vật nửa canh giờ, ban đầu thử giẫm lên mặt băng, chỉ nghe thấy một loạt tiếng “răng rắc răng rắc”, mặt băng này không để giẫm lên được.
Tiếp đó ta lang thang bên ao hồi lâu vẫn chẳng thu hoạch được gì.
Thế rồi ta trở về chỗ cũ, trông chiếc ô giấy dầu bị gió thổi càng lúc càng xa, nhìn bốn bề chung qua không tìm được một vật gì để lấy lại.
Chỉ trách lớp băng quá mỏng manh, cộng thêm gió lớn rít từng cơn, mới khiến người ta không thể tới gần nó.
Ngẩng đầu nhìn trời, tuyết rơi thực sự không lớn, chắc cũng chả cần che ô đâu.
Lúc ta quay về viện, người đã ướt hơn non nửa, mặc dù tuyết không lớn, nhưng khi chạm vào người thì đã bị nhiệt độ cơ thể hóa thành nước ngay lập tức.
Phòng Cao Yển loáng thoáng truyền ra tiếng đồ sứ đổ vỡ, bước chân hơi khựng, sau đó ta vẫn đi thẳng về phía phòng của mình.
Mới đẩy cửa ra, phía sau đã vang lên tiếng thở hổn hển của Lý Mậu Sơn: “Đồ Mi, cô mau vào phòng Ngũ gia xem xem, ngài ấy vừa về đã uống rượu, còn đuổi ta ra ngoài.
Cả ngày nay ngài ấy chưa ăn hạt cơm nào, buổi tối còn uống mấy vò rượu, có khỏe tới mức nào cũng không chịu nổi đâu!”
Thấy Lý Mậu Sơn sốt ruột đến nỗi hốc mắt đỏ lừ, cuối cùng ta đành khép cửa lại, nói với ông ta: “Vương gia không nghe lời tôi nói, tôi nhiều nhất cũng chỉ khuyên được đôi câu thôi.”
“Được được được…” Lý Mậu Sơn bất chấp, vội vàng gật đầu lia lịa.
Tới cửa phòng Cao Yển, bên trong không ai trả lời, dưới cái nhìn khẩn cầu của Lý Mậu Sơn, ta chỉ có thể to gan đẩy cửa đi vào.
Mùi rượu gay mũi xộc lên mặt, cả phòng tối đen như mực, như tách thành hai thái cực với trời tuyết sáng ngoài kia.
Ta cẩn thận mò mẫm, nhỏ giọng gọi: “Ngũ gia?”
Mắt vẫn chưa thích ứng được với bóng tối, bất chợt ta bị một lực mạnh kéo vào, chẳng kịp la lên thì đã rơi vào một vòng ôm nồng nặc hương rượu.
Ngược tia sáng le lói hắt vào từ cửa, ta nhìn thấy những đường nét mơ hồ của Cao Yển, Lý Mậu Sơn ngoài cửa không đi vào theo.
Chưa kịp mở miệng nói, có luồng hơi ấm nóng chợt phả vào mặt, ta bất giác nghiêng đầu, bỗng một cảm giác mềm mại mà lạnh lẽo chạm nhẹ vào cổ.
Theo phản xạ có điều kiện, ta đẩy y ra, nhưng vừa giơ tay, chỗ cổ đã truyền đến cơn đau nhói.
Y cắn ta.
(còn tiếp).