Đọc truyện Điều Lệnh Thứ 11 – Chương 5
Nguồn: vnthuquan
-Có phải bà nghĩ rằng tôi sẽ tin là CIA thậm chí không biết đến một âm mưu ám sát không?
Giám đốc CIA điềm tĩnh nói:
-Đúng vậy, thưa ngài. Lúc chúng tôi biết được việc ám sát đó thì nó vừa xảy ra được vài giây. Tôi đã tiếp xúc với Cố vấn an ninh Quốc gia và tôi nghĩ là ông ta đã trực tiếp báo cáo ngay lên ngài ở trại David.
Tổng thống bắt đầu đi đi lại lại trong Phòng Bầu dục, điều đó không chỉ cho phép ông có thêm thời giờ để suy nghĩ, mà còn thường khiến người tiếp chuyện cảm thấy khó chịu. Hầu hết mọi người khi bước vào Phòng Bầu dục thường đã mất bình tĩnh. Đã có lần thư ký riêng của ông nói với ông rằng cứ năm người khách thì có bốn người phải vào phòng nghỉ trước khi đến giờ hẹn gặp Tổng thống. Nhưng ông không tin rằng người đàn bà đang ngồi trước mặt ông kia thậm chí muốn biết rằng phòng nghỉ gần nhất là ở chỗ nào. nếu như có một quả bom nổ trong Vườn hồng đi chăng nữa thì có lẽ Helen Dexter cũng sẽ chỉ đến nhướng đôi lông mày rậm lên là cùng. Cương vị của bà ta đã kéo dài ba đời Tổng thống, và người ta đồn là cả ba vị Tổng thống đó đều có lần đề nghị bà ta từ chức.
Dexter nói:
-Và khi Lloyd gọi điện cho tôi nói rằng ngài muốn biết chi tiết hơn thì tôi đã yêu cầu Phó của tôi là Nick Gutenberg liên lạc với người của chúng ta ở Botogá và yêu cầu họ điều tra xem chính xác những gì đã xảy ra vào chiều hôm thứ Bảy vừa rồi. Hôm qua Gutenberg đã hoàn thành bản báo cáo của ông ta.
Bà ta vỗ lên tập tài liệu để bên cạnh.
Lawrence thôi không đi đi lại lại nữa mà dừng lại dưới bức chân dung Abraham Lincoln treo bên trên lò sưởi. Ông nhìn xuống bóng chiếc cổ của Helen Dexter. Bà ta vẫn nhìn thẳng về phía trước.
Giám đốc CIA mặc một bộ vét ngắn sẫm màu cắt rất đẹp và chiếc áo sơ mi màu kem giản dị. Hiếm khi bà ta đeo đồ trang sức, thậm chí ngay cả trong những dịp long trọng của nhà nước. Bà ta được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc CIA ở tuổi ba mươi hai, với ý định của Tổng thống thời đó là xoa dịu cuộc vận động hành lang đòi bình đẳng vài tuần trước khi tiến hành cuộc bầu cử năm 1976. Và như đã xảy ra, hoá ra chính ông Tổng thống ấy mới là người lấp chỗ trống. Sau một loạt đời giám đốc ngắn ngủi, người thì từ chức, người thì nghỉ hưu, cuối cùng Dexter đã leo lên chức cao nhất trong cơ quan. Trong bầu không khí nóng bỏng ở Washington có nhiều lời đồn thổi về quan điểm cực hữu của bà ta và những phương pháp bà ta đã sử dụng trong việc vận động, nhưng không một thượng nghị sĩ nào dám chất vấn về việc bổ nhiệm bà ta. Bà ta đã tốt nghiệp Summa cum Laude ở Bryn Mawr, sau đó tốt nghiệp Đại học Luật ở Pennsylvania trước khi tham gia một hãng luật hàng đầu ở New York. Sau một loạt các chức vụ cùng với thời gian cần có để một phụ nữ trở thành người hùn vốn – kết thúc của một vụ kiện trước toà – cuối cùng bà ta nhận lời mời tham gia CIA.
Bà ta bắt đầu sự nghiệp bằng một chân Đại diện trong văn phòng một Cục tác chiến, và cuối cùng trở thành Cục phó. Vào lúc được bổ nhiệm thì bà ta đã có nhiều thù hơn là bạn. Nhưng rồi năm tháng qua đi, họ lần lượt hoặc là mất tích, hoặc là về hưu non, hoặc là bị sa thải. Khi được bổ nhiệm làm giám đốc CIA bà ta mới bước sang tuổi bốn mươi. Tờ Washington Post mô tả bà ta đã từng bị ăn một phát đạn qua trần nhà bằng kính, nhưng điều đó cũng không ngăn được người ta tiên đoán là bà ta sẽ chỉ sống thêm được bao nhiêu ngày nữa. Rồi họ lại tiên đoán là bao nhiêu tuần, rồi bao nhiêu tháng. Bây giờ thì người ta đánh cuộc liệu bà ta có tồn tại với cương vị Giám đốc CIA lâu như J.Edgar Hoover với cương vị giám đốc FBI hay không.
Chỉ cần vài ngày kể từ khi dọn đến ở trong Nhà Trắng, Tom Lawrence đã biết được Dextẻ có thể làm những gì để ngăn cản nếu ông muốn chen vào lĩnh vực của bà ta. Nếu ông hỏi điều gì về một lĩnh vực nhạy cảm nào đó thì phải mất hàng tuần bản báo cáo mới được đặt lên bàn ông, và khi đó bản báo cáo thường là dài dòng, không mạch lạc, tẻ ngắt và nhất là đã rất lạc hậu. Nếu như ông gọi bà ta đến Phòng Bầu dục để giải thích về những câu hỏi chưa được trả lời thì bà ta sẽ giả điếc. Nếu như ông thúc ép thì bà ta sẽ chơi trò cầm giờ và rõ ràng nghĩ rằng bà ta sẽ ngồi ở ghế đó sau khi các cử tri hất ông ra khỏi ghế của mình.
Nhưng chỉ đến khi ông đề cử một người vào ghế Chánh án toà Thượng thẩm còn trốngthì ông mới hiểu hết Helen Dexter với sự hiểm độc của bà ta. Chỉ vài ngày sau bà ta đã đặt lên bàn ông những tập hồ sơ dày cộp chỉ rõ vì sao không thể chấp nhận được người đề cử đó.
Lawrence đã kiên quyết giới thiệu ứng cử viên của mình – đó là một trong những người bạn lâu năm nhất của ông. Nhưng chỉ vài ngày trước ngày ông này đến nhận nhiệm sở thì người ta tìm thấy ông ta treo cổ trong gara. Sau đó Lawrence biết được là tập hồ sơ mật đó đã được gửi đến tay từng Thượng nghị sĩ trong Uỷ ban lựa chọn, nhưng ông chẳng bao giờ chứng minh được ai là người phải chịu trách nhiệm về việc đó.
Đã nhiều lần Andy Lloyd đã cảnh báo là nếu có bao giờ ông định làm cho Dexter rời khỏi chức vụ đó thì tốt nhất là phải có được những bằng chứng có thể thuyết phục được công chúng tin rằng Mẹ Teresa đang có những tài khoản gửi ở ngân hàng Thuỵ sĩ và thường xuyên được các tập đoàn tội phạm bổ sung thêm dư nợ.
Lawrence đã nghe theo lời khuyên của Tổng tham mưu trưởng. Nhưng lúc này ông cảm thấy nếu có thể chứng minh được việc CIA dính líu đến vụ ám sát Ricardo Guzman mà thậm chí chẳng buồn thông báo cho ông biết thì ông sẽ có thể khiến Dexter cuốn gói khỏi bàn làm việc trong vòng một tuần.
Ông quay về chỗ ngồi và bấm một cái nút gắng dưới mặt bàn để Andy có thể theo dõi được cuộc hội thoại hoặc tối nay lấy cuộn băng để nghe lại. Lawrence hiểu rằng Dexter biết rõ ông đang định làm gì, và ông cũng đoán rằng trong chiếc xắc tay huyền thoại mà Dexter kè kè bên mình kia sẽ chẳng có son phấn gương lược – những phụ tùng của giới nữ – mà đã ghi lại đầy đủ những âm thanh trao đổi giữa họ. Tuy vậy ông vẫn cần bản ghi âm của ông, ghi lại đầy đủ các sự kiện.
Tổng thống ngồi xuống và nói:
-Vì bà cóvẻ như có được thông tin rất tốt như vậy, có lẽ xin bà hãy báo cáo cho tôi một cách chi tiết hơn về những gì mà thực tế đã xảy ra ở Botogá.
Helen Dexter phớt lờ giọng châm biếm của Tổng thống, bà ta cầm tập hồ sơ để trên vạt váy lên. Ngoài bài tập hồ sơ có hình lô gô của CIA in trên nền trắng và dòng chữ: “Dành riêng cho Tổng thống đọc”. Lawrence tự hỏi không biết có bao nhiêu tập hồ sơ ghi ngoài bìa dòng chữ “Dành riêng cho Giám đốc đọc”.
Bà ta mở tập hồ sơ ra, đọc:
-Có nhiều nguồn tin khẳng định rằng việc ám sát là do một tay súng đơn độc thực hiện.
Tổng thống gằn giọng:
-Hãy nói rõ tên của một nguồn tin.
Giám đốc CIA đáp:
-Tuỳ viên văn hoá của chúng ta ở Botogá.
Lawrence nhướng một bên lông mày. Có tới một nửa số tuỳ viên văn hoá trong các sứ quán Mỹ trên khắp thế giới là người của CIA cài vào chỉ với mục đích sẽ báo cáo trực tiếp về Langley cho Dexter mà không cần xin ý kiến Đại sứ tại nước đó, chứ đừng nói đến Văn phòng nhà nước. Hầu hết bọn họ nghĩ rằng Bộ đồ kẹp hồ đào là một món gì đó có thể tìm thấy trong thực đơn của một tiệm ăn dành riêng nào đó.
Tổng thống thở dài:
-Và họ nghĩ rằng ai là người phải chịu trách nhiệm về việc ám sát này?
Dexter lại lật qua mấy trang lấy ra một tấm ảnh và đẩy sang bên kia chiếc bàn trong Phòng Bầu dục. Tổng thống nhìn bức ảnh chụp một người đàn ông trung niên mặc bộ vét cắt rất đẹp, trông có vẻ phương phi.
-Vậy đấy là ai?
-Carlos Velez. Hắn ta điều hành tập đoàn buôn ma tuý lớn thứ hai ở Colombia. Còn Guzman dĩ nhiên là kiểm soát tập đoàn lớn nhất.
-Vậy Carlos đã bị bắt chưa?
-Không may, hắn đã bị giết vài giờ trước khi cảnh sát xin được lệnh bắt hắn.
-Tiện thật.
Giám đốc CIA không hề đỏ mặt. Bà ta thì không thể đỏ mặt được- Lawrence nghĩ – Dù sao thì cũng phải có máu mới đỏ mặt được.
-Vậy tên ám sát đó có một cái tên không? Hay là hắn cũng đã chết chỉ vài giờ sau khi lệnh toà…
-Không, thưa ngài, hắn vẫn còn sống nhăn – Giám đốc CIA quả quyết đáp – Tên hắn là Dirk van Rensberg.
Lawrence hỏi:
-Những gì người ta biết được về hắn?
-Hắn là người Nam Phi. Gần đây nhất hắn sốngở Durban.
-Gần đây nhất?
-Vâng. Ngay sau vụ ám sát hắn như đã độn thổ ngay lập tức.
-Điều đó là hoàn toàn dễ dàng nếu như chưa bao giờ hắn ở trên mặt đất cả – Tổng thống đáp. Ông chờ xem phản ứng của bà giám đốc CIA, nhưng bà ta vẫn thản nhiên. Cuối cùng ông nói – Vậy chính phủ Colombia có biết những điều đó không, hay Tuỳ viên văn hoá của bà là nguồn tin duy nhất?
-Không, thưa ngài Tổng thống. Rất nhiều thông tin chúng ta nhận được là từ Cảnh sát trưởng Botogá. Thực tế ông ta đã bắt giữ được một kẻ đồng loã với van Rensberg, đó là một bồi bàn ở khách sạn El Belvedere mà từ đó tên giết người đã bắn phát súng ra. Hắn bị bắt trong hành lang, chỉ vài phút sau khi đã giúp tên giết người trốn thoát trong thang máy vận chuyển hàng hoá.
-Vậy chúng ta có biết tí gì về các hành vi của van Rensberg sau vụ ám sát không?
-Dường như hắn đã đáp máy bay đi Lima dưới cái tên Alistair Douglas, sau đó đi tiếp đến Buenos Aires cũng bằng cái tên đó. Từ đó chúng ta bị mất hút hắn.
-Và tôi ngờ rằng bà sẽ chẳng bao giờ tìm được hắn nữa.
-Ồ,tôi không bi quan như vậy đâu, thưa ngài Tổng thống – Dexter nói, phớt lờ giọng châm biếm của Lawrence – Thường thường bọn ám sát thuê đơn độc đó sẽ biến mất trong nhiều tháng sau một vụ quan trọng. Hắn sẽ chỉ lại xuất hiện khi tình hình đã nguội đi.
Tổng thống nói:
-Vậy tôi xin cam đoan với bà là tôi có ý định giữ cho tình hình tiếp tục nóng.Lần sau khi chúng ta gặp nhau có thể tôi sẽ có một bản báo cáo của mình để bà xem xét.
-Tôi sẽ chờ để được đọc nó – Dexter nói, hệt như một đứa học sinh đầu bò chẳng hề biết sợ thầy hiệu trưởng.
Tổng thống bấm một cái nút dưới bàn Một giây sau có tiếng gõ cửa và Andy Lloyd bước vào phòng. Không cần để ý đến sự có mặt của Dexter, ông ta nói:
-Thưa ngài Tổng thống, mấy phút nữa ngài có cuộc hội kiến với thượng nghị sĩ Bedell.
-Vậy thì tôi xin phép được đi, thưa ngài Tổng thống.
Dexter nói và đứng dậy. Bà ta đặt tập hồ sơ lên bàn Tổng thống, cầm cái xắc lên và ra khỏi phòng không nói thêm một lời nào nữa.
Tổng thống không nói năng gì cho đến khi giám đốc CIA khép cửa lại. Rồi ông quay sang Tổng Tham mưu trưởng.
-Tôi chẳng tin lấy một lời ở đó – Ông lầm bầm và vứt tập tài liệu vào khay chuyển đi. Lloyd ghi nhớ là ngay sau khi ông chủ rời khỏi phòng cần phải đến để lấy nó đi.
-Tôi cho là điều tốt nhất chúng ta có thể làm được là khiến cho bà ta biết sợ Chúa một chút để cho bà ta không tính đến một vụ khác kiểu này trong khi tôi còn ngồi trong Nhà Trắng.
-Ngài Tổng thống, hãy nhớ đến cái cách bà ta đã đối xử với ngài khi ngài còn lf một Thượng nghị sĩ. Tôi sẽ chẳng đặt nhiều tiền lên điều đó đâu.
-Bởi vì tôi làm sao có thể thuê được một tên giết người để ám sát bà ta, vậy thì anh nghĩ là tôi có thể làm được gì bây giờ?
-Theo tôi thì bà ta để cho ngài lựa chọn một trong hai điều, thưa ngài Tổng thống. Hoặc là ngài sẽ cách chức bà ta và hiển nhiên là sẽ phải điều trần trước Thượng nghị viện. Hoặc là ngài hãy chấp nhận thất bại và đồng ý với cách giải thích của bà ta về những điều đã xảy ra ở Botogá, và hy vọng lần sau bà ta sẽ hợp tác tốt hơn.
Tổng thống khẽ nói:
-Còn có một cách thứ ba nữa.
Lloyd chăm chú lắng nghe không hề xen lời. Rõ ràng là Tổng thống đã cân nhắc rất nhiều về việc làm thế nào để có thể cất chức Helen Dexter ra khỏi cái ghế giám đốc CIA.
Connor nghĩ ngợi trong khi nhìn lên băng chuyền. Băng chuyền đã bắt đầu hất ra những vali hành lý của chuyến bay của gã, một số hành khách đã bước lên để nhặt những vali đầu tiên.
Gã vẫn cảm thấy buồn vì không có mặt vào lúc con gái được sinh ra. Mặc dù vẫn nghi ngờ về sự khôn ngoan của các chính sách của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng Connor vẫn thừa hưởng được lòng yêu nước của gia đình gã. Gã xung phong vào phục vụ trong quân đội và tốt nghiệp khoá sĩ quan dự bị trong khi chờ Maggie học xong. Cuối cùng họ chỉ được nghỉ để làm lễ cưới và hưởng bốn ngày trăng mật trước khi Thượng uý Fitzgerald lên đường sang Việt Nam vào tháng bảy năm 1972.
Hai năm ấy ở Việt Nam giờ đây chỉ còn là những ký ức xa xăm. Được thăng cấp lên đại uý, bị Việt cộng bắt, rồi trốn thoát trong khi cứu mạng một người khác – tất cả dường như đã xa lắc đến nỗi gã hầu như có thể thuyết phục được mình rằng những chuyện đó chưa từng xảy ra. Năm tháng sau khi gã trở về nhà, Tổng thống đã trao tặng gã huân chương cao quý nhất – Huân chương Danh dự, nhưng sau mười tám tháng là tù binh ở Việt Nam gã chỉ cảm thấy sung sướng vì còn sống và được đoàn tụ với người đàn bà mình yêu. Và lúc nhìn thấy Tara, gã lại một lần nữa rơi vào tình yêu si mê.
Chỉ trong vòng môt tuần sau khi trở về Mỹ Connor bắt đầu tìm một việc làm. Gã đã được phỏng vấn để vào làm việc cho văn phòng CIA ở Chicago, vừa lúc đó Đại uý Jackson – chỉ huy đơn vị cũ của gã bất ngờ đến chơi. Ông ta mời gã tham gia một bộ phận vừa được thành lập ở Washington. Người ta báo trước với Connor rằng nếu gã đồng ý làm việc trong bộ phận của Jackson thì phải tuân theo một điều : đó là không bao giờ được nói chuyện về công việc với bất cứ ai, kể cả với vợ. Khi biết được điều đó, gã đã nói với Jackson là cần phải suy nghĩ thêm chút nữa trước khi quyết định. Gã đã thảo luận với mục sư của gia đình là cha Graham về vấn đề này. Cha chỉ khuyên gã một cách rất đơn giản:
-Đừng bao giờ làm một việc mà con thấy là không chính đáng, dẫu cho đó nhân danh tổ quốc đi chăng nữa.
Khi Maggie được mời làm việc cho khoa Nhân van của Trườgn Đại học Tổng hợp Georgetown, Connor mới hiểu rằng Jackson đã quyết tuyển mộ gã. Ngày hôm sau gã viết thư cho chỉ huy đơn vị cũ và nói rằng gã rất vui mừng được làm việc cho công ty bảo hiểm Maryland với chức danh tập sự.
Sự dối trá bắt đầu từ đó.
Mấy tuần sau Connor, Maggie và Tara chuyển đến Georgetown. Họ tìm được một ngôi nhà nhỏ ở Avon Place. Tiền đặt cọc được trả bằng những tấm séc quân đội mà Maggie đã gửi vào tài khoản mang tên Connor, nàng nhất định không chịu tin rằng gã đã chết.
Trong những năm đầu họ sống ở Washington, điều duy nhất khiến họ buồn rầu là Maggie bị sẩy hai lần, rồi bác sĩ phụ khoa của nàng khuyên là nàng nên dừng ở một con. Phải đến lần sẩy thứ ba Maggie mới chịu chấp nhận lời khuyên của bác sĩ.
Mặc dầu đến giờ họ lấy nhau đã được ba mươi năm Maggie vẫn có thể khơi dậy ở Connor nỗi ham muốn chỉ bằng một nụ cười và đưa tay vuốt dọc lưng gã. Gã biết rằng khi bước ra khỏi cửa phòng hải quan và nhìn thấy nàng đang chờ gã trong phòng đợi thì mọi sự lại y nguyên như thuở ban đầu. Gã mỉm cười với ý nghĩ nàng đã đứng chờ ơ sân bay ít nhất một giờ trước khi máy bay hạ cánh.
Vali của gã hiện đến trước mặt. Gã nhặt lấy nó và đi về phía cửa ra.
Connor đi qua hàng lan can sắt, tin rằng thậm chí nếu người ta có khám vali của gã thì cũng chẳng có gì đáng chú ý hơn ngoài con linh dương gỗ trên chân có khắc hàng chữ Sản xuất tại Nam Phi.
Vừa bước vào phòng chờ gã đã nhìn thấy ngay vợ và con gái đang đứng giữa đám đông. Gã đi nhanh và mỉm cười với người phụ nữ gã ngưỡng mộ. Làm thế nào mà nàng lại để ý đến gã chứ đừng nói đến việc nàng đã đồng ý làm vợ gã? Nụ cười nở rộng trên môi khi gã ôm choàng lấy nàng. Gã hỏi:
-Em thế nào, em yêu?
Nàng thì thầm:
-Em chỉ sống lại khi biết rằng anh vừa làm nhiệm vụ an toàn trở về.
Gã cố tỏ ra không để ý đến từ “an toàn” và buông nàng ra để quay sang với người phụ nữ thứ hai của đời mình. Hơi cao hơn nguyên bản một tí, cũng với mái tóc dài đỏ rực mà đôi mắt xanh sáng ngời, nhưng điềm tĩnh hơn. Cô con gái độc nhất ôm chặt lấy bố và hôn lên má gã khiến gã cảm thấy mình trẻ lại đến mười tuổi.
Vào ngày lễ đặt tên thánh cho Tara, Cha Graham đã cầu xin đức Chúa trời ban cho đứa bé sắc đẹp của Maggie và trí tuệ cũng của Maggie. Tara lớn lên, thứ hạng của cô ở trường học và những cái đầu ngoái lại trên phố chứng tỏ cha Graham không chỉ là một mục sư mà còn là nhà tiên tri. Connor đã chán không còn muốn chiến đấu với dòng người ngưỡng mộ đến gõ cửa ngôi nhà nhỏ của họ ở Georgetown, thậm chí chán không buồn trả lời mỗi khi chuông điện thoại reo nữa. Bởi vì hầu hết toàn là những anh chàng lúng búng hy vọng con gái gã nhận lời một cuộc hẹn.
Maggie khoác tay chồng và hỏi:
-Nam Phi thế nào ?
-Ngày càng thở nên bấp bênh hơn – Connor đáp. Gã đã được thông báo đầy đủ về các vấn đề ở Nam Phi trong bữa ăn trưa với Carl Koeter ơ Cape Town, thêm vào nữa là cả một tập báo mà gã đã đọc trên đường đến Sydney – Tỷ lệ tội phạm tăng lên ở tất cả các thành phố lớn, nghĩa là lái xe vượt đèn đỏ sau khi trời tối không còn là phạm luật nữa. Mbeki đã hết sức cố gắng, nhưng anh e rằng vẫn phải khuyến cáo với công ty giảm bớt các khoản đầu tư vào khu vực đó của thế giới, ít nhất cho tới khi tin rằng người ta có thể kiểm soát được cuộc nội chiến.
Maggie nói:
-Khi tất cả sụp đổ – Khu trung tâm không còn – Chỉ còn lại sự hỗn loạn bao trùm lên thế giới.
Connor nói:
-Anh nghĩ là Yeast chưa bao giờ đến thăm Nam Phi.
Hầu như lúc nào gã cũng muốn nói với Maggie tất cả sự thật và giải thích vì sao trong bao năm nay gã phải sống một cuộc sống dối trá. Nhưng điều đó chẳng dễ dàng chút nào. Nàng có thể là bà chủ của gã, nhưng họ cũng là chủ, và gã đã luôn luôn tuân thủ điều luật hoàn toàn im lặng. Suốt bao nhiêu năm gã đã cố gắng tự thuyết phục mình rằng hoàn toàn không biết gì về sự thật là tốt nhất cho nàng. Nhưng khi nang nói đến chữ “nhiệm vụ” và “an toàn” một cách không suy nghĩ như vậy gã nhận ra rằng nàng biết nhiều hơn gã tưởng. Không hiểu trong lúc ngủ gã có nói mơ không? Nhưng thôi, hãy nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa đâu, gã sẽ không phải lừa dối nàng nữa. Maggie vẫn chưa biết rằng Botogá là nhiệm vụ cuối cùng của gã. Trong kỳ nghỉ này gã sẽ nói bóng gió về môt sự thăng tiến cho phép gã không phải đi xa nhiều như trước nữa.
Maggie hỏi:
-Thế còn công việc thế nào? Chúng ta có thể thu xếp được không?
-Công việc ư? À,có chứ, nói chung là khá tốt so với kế hoạch – Connor nói. Đó là điều gần nhất với sự thật mà gã dám nói với vợ.
Connor bắt đầu nghĩ đến hai tuần tới được phơi mình dưới ánh nắng mặt trời. Trong khi họ đi qua một cột báo, gã thoáng nhìn thấy một dòng tít nhỏ trên cột báo bên trái của tờ Sydney Morning Herald.
Phó Tổng thống Mỹ sẽ đi dự lễ tang ở Colombia.
Maggie buông tay chồng ra, họ ra khỏi nhà thờ để đi ra ngoài khoảng không ngập tràn không khí ấm áp, và đi về phía bãi đỗ xe. Tara hỏi:
-Lúc Cape Town bị ném bom thì bố đang ở đâu?
Koeter chẳng hề nói năng gì đến việc Cape Town bị ném bom cả. Liệu có lúc nào gã có thể cảm thấy thư thái được không?