Đến Phủ Khai Phong Làm Nhân Viên Công Vụ

Chương:Quyển 1 -


Đọc truyện Đến Phủ Khai Phong Làm Nhân Viên Công Vụ – Chương 1Quyển 1 –

Cỗ máy thời gian tỏ rõ uy lực, vượt thời gian đến năm nào
đây?

Vân Ẩn Sơn, núi đúng như tên, quanh năm mây mù che phủ,
không hề thấy dấu vết của con người. Ngọn núi này chia làm hai đỉnh, một là đỉnh
Dương, một là đỉnh Âm. Đỉnh Âm thì quanh năm chẳng nhìn thấy ánh sáng mặt trời,
luôn ẩm ướt lạnh lẽo, cũng bởi thế mà nơi đây sản sinh ra rất nhiều loại độc vật,
độc thảo hiếm thấy trên thế gian, những trùng độc khó giải mà trên giang hồ một
khi mắc phải thì coi như số đã tận; còn đỉnh Dương kỳ hoa dị thảo mọc ngút ngàn
trải khắp sơn cốc, nhiều loài là thánh phẩm trị bệnh mà thế gian khó có được,
chính vì thế nó cùng với những độc vật đỉnh Âm sinh sinh tương khắc[1].

[1] Sinh sinh tương khắc là quy luật của tự nhiên, có chuột
tất có mèo, có hoa tất có ong, xung quanh nơi sinh trưởng của rắn độc, trùng độc,
độc vật ắt có giải dược… đây là quy luật phổ biến của thế giới tự nhiên.

Nơi giao nhau giữa hai đỉnh Âm, Dương là một khe núi, ở đó
chướng khí dày đặc che phủ, phàm là những loài chim thú, rắn rết chuột bọ, chẳng
loài nào sống được. Vì thế, người ta gọi nó là “Vô Vật Cốc”.

Mười năm trước, có hai quái nhân đến Vô Vật Cốc, nhìn thấy
chướng khí, độc vật dày đặc họ lại coi như không có gì. Vừa nhìn thấy nơi này
hai người liền quỳ sụp xuống vái trời, vui mừng khôn xiết, rồi từ đó phân ra mà
ở, dựng hai căn nhà cỏ đối diện nhau, định cư nơi đây.

Hôm nay vừa tròn mười năm hai quái nhân đó đến cốc.

“Độc lão đầu, đến nay kỳ hạn mười năm đã mãn, ngươi chuẩn bị
cho trận chiến này thế nào rồi?”

Người nói là một lão nhân áo trắng, râu tóc bạc phơ, gương mặt
phương phi hồng hào, hai hàng lông mày bạc trắng vô cùng đặc biệt, cơ hồ dài đến
tận thắt lưng. Lúc này lão nhân đó đang đứng trên triền núi của đỉnh Dương, đối
diện với đỉnh Âm sừng sững, sau lưng kỳ hoa dị thảo tỏa hương nồng nàn, dáng vẻ
tựa như thần tiên hạ phàm.

“Hừ, Dược lão đầu, đừng tưởng lần trước ngươi thắng ta mà
cho rằng từ nay về sau ngươi không thể thua. Ta nói cho ngươi biết, hôm nay nhất
định ta sẽ khiến cho ngươi mất mặt! Hừ hừ!”

Một lão nhân khác đứng trên triền núi của đỉnh Âm cười lạnh
trả lời. Không giống như lão nhân phía đối diện, lão nhân này cả người so với
yêu nghiệt cũng chẳng mảy may khác biệt. Trường bào tím thẫm, áo trong đỏ sậm,
phất phơ trong gió, lộ ra vẻ ma mị khác thường. Tóc và lông mày của lão cũng
dài như thế nhưng lại có màu lục sẫm, dung nhan tựa hồ trẻ mãi không già tuy có
chút xanh xao.

“Được, được, được, ta đợi mười năm chính là đợi ngày hôm
nay, mau xuất chiêu!”

Lão nhân áo trắng phất tay áo một cái, trên tay thình lình
xuất hiện rất nhiều dược hoàn màu nâu, mỗi viên cỡ quả trứng chim.

“Ta há lại sợ ngươi sao?!”

Lão nhân áo tím cũng rút từ trong áo ra mấy viên dược đạn kẹp
giữa các ngón tay, chỉ khác là màu sắc của dược đạn này đẹp đến chói mắt và có
hình tam giác.

Hai người cùng vung tay lên, dược đạn trong tay đồng loạt
tung về phía đối phương. Nhất thời, một đám bụi màu tía dâng lên trong Vô Vật Cốc,
rồi khói trắng cuồn cuộn bốc lên, âm thanh như sấm dậy, khắp nơi vang lên những
tiếng đùng đoàng, rất hỗn loạn.

Đợi đến khi khói bụi tan đi, chỉ thấy hai người trong cốc
như vừa hoán đổi ngoại hình cho nhau.

Người được gọi là “Dược lão đầu”, chiếc áo trắng của lão bị
biến thành loang lổ, hoa hòe hoa sói, sắc mặt thì khỏi nói, rất phong phú, lấy
hai hàng lông mày làm ví dụ, ba phần ngọn thì đỏ rực, ba phần giữa xanh biếc,
ba phần gốc lại vàng chói lọi, nom như một loài thú lạ màu sắc sặc sỡ.

Người được gọi là “Độc lão đầu” thì ngược lại. Cả người như
mới trong lu nước chui ra, toàn thân trên dưới, từ lưỡi cho đến lông mày đều trắng
như tuyết.

Hai người sững sờ nhìn đối phương một lát, sau đó cùng cười
to.

“Ha ha ha, Độc lão đầu, ngươi quả không hổ là ‘Quỷ thần độc
thánh’ khiến võ lâm kẻ trên người dưới nghe tên đều kinh hồn táng đảm, cái loại
độc dược kỳ lạ này mà ngươi cũng có thể nghĩ ra được. Hai hàng lông mày của ta
từ nay về sau xem ra khó mà phục hồi nguyên trạng được rồi.”

“Hô hô hô, Dược lão đầu, cái danh hiệu ‘Y tiên quỷ kiến sầu’
này của ngươi cũng chẳng phải hư danh, ta lao tâm khổ tứ bao lâu mới nhuộm được
cho tóc thành màu xanh, thế mà lại dễ dàng bị ngươi đánh cho trở về nguyên dạng.”

Nói rồi, cả hai lại nhìn nhau cười to.

“Haizzz, nhớ mười năm trước, hai chúng ta chung chí hướng, kết
bạn cùng thoái ẩn giang hồ. Lúc này lại là láng giềng ở Vô Vật Cốc, nghĩ cũng
là tiêu diêu tự tại. Chỉ là…” Y Tiên với khuôn mặt diễm lệ khe khẽ lắc đầu, không
nói tiếp nữa.

“Chỉ là… chỉ là tiếc thay cho độc thuật cùng y thuật có một
không hai của chúng ta, ngay cả một truyền nhân vừa ý cũng không có”, Độc Thánh
cả người trắng như tuyết tiếp lời.

Cả hai cùng thở dài một tiếng.

“Biển trời mênh mông, chúng ta nên tới nơi nào để tìm được đồ
nhi ưng ý đây?”

“Ẩn cư nơi đây tất là không muốn gặp lại cố nhân. Nhưng Vân Ẩn
Sơn này trước nay vốn không có dấu vết con người, lẽ nào bây giờ lại từ trên trời
rơi xuống một người ư?”

Lời còn chưa dứt, đột nhiên hai người nghe thấy trên cao
vang lên một tràng âm thanh kỳ dị, giống như có cả trăm tia sét đánh xuống ầm ầm
vang dội. Ngẩng đầu lên thì thấy trời xanh muôn dặm bỗng xuất hiện vô số những
tia sét, mà điều kỳ quái hơn nữa là, những tia sét ấy tụ lại một điểm, rồi một
khối cầu màu lam thẫm xuất hiện giữa không trung. Khối cầu ấy từ từ biến hóa,
cuối cùng biến thành một hình người, rơi thẳng xuống chân hai vị lão nhân còn
đang ngơ ngác.

“Y Tiên”, “Độc Thánh” chính là những nhân vật Thái Sơn Bắc Đẩu
trong chốn võ lâm, sóng to gió lớn họ đều kinh qua. Nhưng hoàn cảnh trước mắt
này thì đừng nói là đã từng gặp, sợ rằng ngay cả nằm mơ cũng chưa từng ấy chứ.

Trên đất, một người nằm thẳng cẳng. Phục sức quái dị, chẳng
có áo dài chỉ có quần dài, thêm một chiếc áo trong bị mất phần tay. Người đó,
tóc tai bù xù, mặt mũi tái xanh, mày rậm mặt tròn, đôi mắt dài nhắm nghiền, có
vẻ như đang ngất xỉu.

“Dược lão đầu”, Độc Thánh vuốt vuốt bộ râu dài trắng như tuyết,
cười híp mắt, “Giờ há ngươi có thể không phục ta được ư. Chẳng qua ta chỉ tùy
tiện nói có mấy câu, ông trời liền đem tặng một đồ nhi tốt cho chúng ta thật”.

Lúc này Y Tiên cũng chẳng có tâm trạng đâu mà đấu khẩu với
lão Độc Thánh. Hiện tại người được võ lâm xưng tụng là có y thuật xuất thần nhập
hóa còn đang nghiên cứu xem nên sắp xếp kế hoạch học tập cho đồ nhi như thế nào
đây.

Mà vị nhân huynh đang nằm thẳng đơ trên mặt đất kia, thậm
chí còn không có cả quyền được từ chối, đã bị hai lão quái nhân này thu nhận
làm đệ tử mất rồi.

Chẳng biết là may mắn hay xui xẻo nữa.

* * *

Kim Kiền biết mình đang nằm mơ, mà còn là ác mộng nữa.

Kể từ khi kỳ thi đại học kết thúc, đám chữ số cùng ký hiệu
quái dị trong đề toán năm đó đã trở thành cơn ác mộng mà bản thân Kim Kiền mãi
mãi chẳng bao giờ quên. Thậm chí đến cả khi tốt nghiệp đại học rồi, nửa đêm nằm
mơ, Kim Kiền vẫn còn thấy rõ mấy kí hiệu khắc cốt ghi tâm ấy.

Cho đến một ngày, nàng cuối cùng cũng không chịu nổi cuộc sống
làm thuê bấp bênh nữa, quyết định tham gia thi công chức thì cơn ác mộng về đề
toán năm ấy rốt cuộc cũng qua, thay vào đó là bài thân luận[2] nàng vĩnh viễn
chẳng thể nào viết xong. Hơn nữa cơn ác mộng mỗi đêm còn trở thành sự thật. Đến
lần thứ tư bị ngăn cách với đội ngũ nhân viên nhà nước, Kim Kiền đem hết dũng
khí ra gõ cửa nhà đứa bạn bất lương.

[2] Thân luận là một môn thi bắt buộc trong kỳ thi công chức
của Trung Quốc đại lục. Trong kỳ thi công chức này thông qua việc đọc hiểu các
tư liệu cho sẵn sẽ tiến hành hỏi đáp các vấn đề liên quan, kiểm tra bảy kỹ năng
của các ứng viên (kỹ năng đọc hiểu lý giải, kỹ năng phân tích phán đoán, kỹ
năng đưa ra và giải quyết vấn đề, kỹ năng biểu đạt ngôn ngữ, kỹ năng viết, kỹ
năng vận dụng các vấn đề thời sự chính trị, kỹ năng quản lý hành chính).

Nói ra thì người bạn bất lương này của Kim Kiền tuổi còn trẻ
mà đã có ba bằng tiến sĩ Vật lý, Hóa học, Toán học nổi danh rực rỡ, Kim Kiền thực
sự thấy không xứng làm bạn mình. Chẳng vì lý do gì khác, chỉ vì lúc bản thân
nói cho nàng ta biết mình muốn thi công chức, thái độ cùng lời nói sau đó của
nàng ta đã khiến Kim Kiền đem tên bạn bất lương này liệt vào một trong ba thứ hạng
đứng đầu danh sách những người không đáng kết bạn.

“Cậu muốn thi công chức á? Với dáng vẻ mày rậm mắt nhỏ, lưng
rắn eo chuột này của cậu sao? Cậu mà qua được vòng phỏng vấn thì tớ đổi sang họ
cậu! Cái gì, qua vòng thi viết rồi sao? Đương nhiên rồi! Văn chương của cái loại
ham tiền háo sắc nhà cậu tất nhiên là hợp với mấy vị giám khảo chấm thi đó!”

Đoạn hội thoại trên có thể coi là đứng đầu bảng những lời bình
mà Kim Kiền hận nhất trong cuộc đời này.

Mày rậm? Đó là biểu thị bản thân tóc tai có hơi tốt một
chút. Mắt nhỏ ư? Đó là mắt phượng, là tiêu chuẩn người đẹp của cổ nhân đấy.
Lưng rắn eo chuột á? Đó là biểu hiện của dáng người mảnh mai, thon thả đúng tiêu
chuẩn! Tham tiền hả? Cái gì mà tham tiền chứ? Mặc dù bản thân nàng họ Kim tên
Kiền[3], nhưng cũng là thể hiện tình cảm sùng bái thuần khiết mà thành kính của
bản thân dành cho tiền bạc thôi, sao lại có thể dùng cái từ “tham tiền” trần tục
này để xét đoán cơ chứ? Còn háo sắc… cái này thì càng sai, cho dù Dương Quý Phi
có đứng ở trước mặt cởi áo thì nàng cũng không thèm liếc mắt, tuyệt đối không
thèm nhìn trộm.

[3] Kim Kiền có nghĩa là quỳ gối trước đồng tiền.

“Nói nhảm! Đương nhiên là cậu không thèm nhìn Dương Quý Phi
rồi!” Cô bạn bất lương đó hừ mũi cười nhạt tiếp tục nói, “Đổi lại là Trịnh
Nguyên Sướng để lộ cánh tay trước mặt cậu thì sao? Mình cá là nước miếng của cậu
đã ngập cả thành phố Bắc Kinh này rồi!”.

Đối mặt với những lời nói ác ý đó, Kim Kiền thật sự lười chả
muốn phản biện… Đương nhiên, cũng không loại trừ lý do là nàng cũng rất biết
mình biết người nữa.

Đúng vậy, bình tâm mà suy xét, Kim Kiền đích xác tham tiền,
lại còn háo sắc nữa.

Chẳng qua là háo nam sắc mà thôi.

Xin đừng hiểu lầm, đối với Kim Kiền mà nói, điều đó rất bình
thường.

Bởi vì Kim Kiền đúng là sinh vật nữ lưng rắn, eo chuột, mày
rậm, mắt nhỏ.

Thế nên, trước nay nàng vẫn không thể vượt qua vòng phỏng vấn
của kỳ thi công chức cũng là có nguyên nhân của nó… Tuy rằng trong nhà không có
tiền để đi hối lộ mới là lý do chính.

Bởi thế, Kim Kiền quyết định dựa vào khoa học, dựa vào
“Einstein đại nhân” vĩ đại để thay đổi vận mệnh.

Dựa vào cỗ máy thời gian do người bạn bất lương tận tâm tận
lực chế tạo ra!

Lý tưởng vĩ đại mà cao quý của Kim Kiền là như thế này.

Đầu tiên, lợi dụng cỗ máy thời gian để trở về trước khi kỳ
thi công chức lần thứ tư diễn ra, đưa cho chính bản thân mình đề bài. Sau đó chắc
chắn đứng đầu kỳ thi viết, có thể thuận lợi gia nhập vào đội quân công nhân chức
viên, từ nay về sau chỉ việc ăn rồi chờ chết, cả đời nhàn nhã.

Nhưng hiện tại lại có vấn đề.

Sau khi tìm đến cái vị ba bằng tiến sĩ kia, leo lên cỗ máy
thời gian mà nàng ta chế tạo, Kim Kiền ngất xỉu bởi một loạt các chấn động, tiếp
theo… là khởi đầu của một cơn ác mộng.

Không phải là Kim Kiền thần hồn nát thần tính, đây đích thực
là một cơn ác mộng kỳ dị nhất từ trước đến giờ.

Một lão già mà ngay cả lông mày cũng bị nhuộm thành con gà
đuôi phượng đang đứng bên trái nàng, hai mắt phát sáng. Một lão già khác tựa
như Tuyết Sơn Phi Hồ[4] đứng bên phải nàng, hai mắt cũng sáng lấp lánh như thế.
Bị bốn tia laser bắn thẳng vào khiến Kim Kiền không kìm được lạnh cả sống lưng.

[4] Tuyết sơn phi hồ: Tên một tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim
Dung, đồng thời cũng là danh xưng của nhân vật chính trong truyện, bối cảnh của
tiểu thuyết hầu hết đều diễn ra ở vùng núi trắng xóa tuyết.

“Đồ nhi ngoan, cuối cùng con đã tỉnh”, Gà Đuôi Phượng nói.

Mắt Kim Kiền trợn tròn lên.

“Đồ nhi ngoan, con không sao chứ?”, Tuyết Sơn Phi Hồ hỏi.

Mắt Kim Kiền càng trợn to hơn.

“Đồ nhi ngoan, mau theo chúng ta học nghệ”, Gà Đuôi Phượng
cùng Tuyết Sơn Phi Hồ đồng thanh nói.

Hai cánh tay đồng thời bị hai lão già nọ kéo, Kim Kiền chỉ cảm
thấy cả người như muốn rời ra từng mảnh, mỗi một khớp xương đều rên rỉ biểu
tình.

Rất đau, thế nên chắc chắn không phải là mơ rồi. Có lẽ là di
chứng sau khi du hành vượt thời gian. Vả lại, xem cách nói năng, ăn mặc của hai
lão già, cùng với khung cảnh xung quanh và căn nhà cỏ tồi tàn mất cả mái này.

Cuối cùng Kim Kiền cũng đưa ra một kết luận.

Đồ tiến sĩ ba bằng đáng chết, thời gian bị lùi quá mất rồi!

Học nghệ tiên sơn khổ muốn chết, thành quả là được trở về
nhân gian

Kim Kiền ngơ ngáo trở về cái thời chả biết là triều đại nào
đã được ba tháng có dư rồi. Ngoại trừ trang phục và quả đầu không cạo một nửa của
hai vị vừa gặp đã nhận ngay nàng làm đồ đệ có thể chứng minh đây không phải triều
Thanh ra, Kim Kiền hoàn toàn không biết mình đang ở thời nào.

Thế nhưng điên nhất là, thiết bị thu phát tín hiệu từ cỗ máy
thời gian có hình dáng tựa như chiếc đồng hồ đáng lẽ phải đeo trên tay nàng thì
đã không cánh mà bay. Cũng không biết là đánh rơi ở thời đại này hay là làm mất
ở cái hố đen thời gian chỗ “Einstein đại nhân” nữa.

Có điều thời gian Kim Kiền có thể dùng để rầu rĩ về vấn đề
này mỗi ngày thật sự ít đến đáng thương. Hiện tại quả thực nàng còn mệt mỏi khổ
cực hơn cả nhân viên thu ngân ở siêu thị phải tăng ca lúc giáp Tết.

Mỗi ngày trời chưa sáng, Kim Kiền đã bị Đại sư phụ – chính
là Gà Đuôi Phượng, nghe nói gọi là “Y Tiên” gì gì đó – lôi từ trên giường xuống
bắt đi luyện tập cái gì mà “Cửu huyệt phi châm”, “Thập bát huyệt ngự châm
pháp”, “Tam thập lục huyệt trấn châm quyết”, “Thất thập nhị huyệt hồi hồn châm
linh kỹ”, sau cùng còn là “Nhất bách linh bát huyệt thiên ngoại phi tiên châm
trận”. Tóm lại chính là cầm vô số ngân châm cắm lên cắm xuống trên hình nhân. Nếu
như sơ ý mà châm sai một, hai milimet thôi thì sẽ bị Đại sư phụ bên cạnh châm
cho thành con nhím.

Đến khi mặt trời treo trên ngọn cây trước cửa, theo tính
toán của Kim Kiền thì vào khoảng chín giờ, Nhị sư phụ – tức Tuyết Sơn Phi Hồ,
theo như lão ấy tự xưng thì là “Độc Thánh” – sẽ lên lớp môn học thứ hai. Lại
nói thêm, lớp học này buổi đầu tiên đã dọa cho Kim Kiền sợ đến vãi linh hồn. Nấm
độc, độc dược (tỉ như thạch tín, hạc đỉnh hồng) hoàn toàn không đáng được nhắc
đến, nội trong hai ngày đã kết thúc giáo trình. Hai tháng sau đó là nghiên cứu
Tây Vực kỳ độc, Miêu Cương cổ độc, Đường môn gia truyền dị độc… tóm lại là các
loại độc dược cổ quái mà người người nghe thấy đều căm phẫn vô cùng.

Sau khi ăn trưa lại quay về lớp của Đại sư phụ. Số lượng tên
gọi của các loại thảo dược này đem so với từ điển tiếng Anh Longman chỉ có hơn
chứ không có kém, càng không bàn đến chuyện phải khớp tên gọi cùng hình dạng của
chúng với nhau. Quả thật so với việc cùng lúc phải thi cả TOEFL lẫn tiếng Nhật
cấp một còn khủng bố hơn. Đến chập choạng tối, Kim Kiền lại phải theo Nhị sư phụ
đến mật thất tiến hành “tiếp xúc thân mật” với một đám các độc vật có vẻ bề
ngoài vô cùng có lỗi với mắt thẩm mỹ của quần chúng nhân dân. Vất vả bị “luộc”
cho đến tối muộn, lại còn phải khêu đèn đọc cái gì mà “Kinh lạc tổng kinh”, “Y
kinh”, “Thiên độc kinh”, “Địa độc kinh”, “Thủy độc kinh”… loạn xà ngầu.

Cuối cùng, trước khi đi ngủ, còn phải thao diễn “vọng, văn,
vấn, thiết[1]” cùng nhị vị sư phụ. Nếu không chẩn đoán được rõ ràng tình trạng
sức khỏe của hai người họ thì chỉ có một kết cục duy nhất, đó là đêm hôm ấy an
phận sờ cổ tay hai sư phụ mà ngủ.

[1] Vọng, văn, vấn, thiết: bốn phương pháp chẩn bệnh trong
Đông y, gồm nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch.

Di chứng sau tất cả chính là, cơn ác mộng làm bài thân luận
trong kỳ thi công chức không ngừng nghỉ của Kim Kiền cuối cùng đã đổi thành bò
cạp độc và thảo dược ngập trời, vô cùng vô tận. Còn dáng người bị tên bạn bất
lương gọi là “lưng rắn eo chuột” kia cũng rất nhanh chóng biến đổi, trở thành
cái dạng gầy như que củi mà chỉ cần đứng lên cân điện tử nhất định nó sẽ kêu
lên thảm thiết “Gầy quá! Gầy quá!”. Gần đến tháng thứ tư, cuối cùng Kim Kiền đã
ra một quyết định mà suýt chút nữa thì đánh mất cái mạng nhỏ của mình… đó là bỏ
trốn.


Tối đó, Kim Kiền đã chuẩn bị xong xuôi kỹ càng. Nàng mang
theo lương thực và nước uống đủ cho một tuần, trang bị thêm thuốc giải để đối
phó với chướng khí trong Vô Vật Cốc, ôm theo ngân châm mà nàng đoán là có thể đổi
được tiền, nhân lúc đêm khuya chuồn đi.

Nhưng, còn chưa đi được năm trăm mét, Kim Kiền phát hiện
chân mình như mọc rễ, chẳng thể tiến lên phía trước dù chỉ một bước.

“Hừm hừm, đồ nhi ngoan, muộn thế này rồi còn muốn đi phân biệt
độc thảo sao?”, âm thanh mang theo tiếng cười lạnh lẽo âm u ma quái dường như từ
phía sau Kim Kiền phát ra.

Độc Thánh đứng thẳng tắp phía sau Kim Kiền, dáng vẻ mờ mờ ảo
ảo như ma như quỷ.

“Nhị, Nhị sư phụ…” Hiện tại, Kim Kiền cảm thấy chân mình mềm
nhũn. Bởi nàng nhìn thấy đóa hoa trên tay Nhị sư phụ cùng với đóa “mẫu đơn thảo”,
nghe nói là kỳ độc không có giải dược trong thiên hạ, có vài phần giống nhau.

“Ha ha, đồ nhi ngoan, không ngờ con lại ham học đến như vậy.
Kẻ làm sư phụ này thật là may mắn, may mắn lắm thay.” Tiếng cười hào sảng khởi
đầu nghe còn ở rất xa, đến khi kết thúc câu thì âm thanh đã ngay bên tai Kim
Kiền rồi.

“Đại, Đại sư phụ…” Đầu gối Kim Kiền cứng lại.

Tư thế cầm châm của Y Tiên sao giống với tư thế khởi đầu của
“Kỳ mạch đoạn mệnh châm quyết” thế.

“Hử?”

Hai lão nhân tuổi cộng lại cũng gần hai trăm cùng chắp tay
sau lưng, đồng thanh hỏi.

“Đồ nhi… chính là thấy ánh trăng mê hoặc quá, không tự chủ
được mà ra đây tản bộ, ha ha, tản bộ, tản bộ.”

Quỳ rạp người trên đất một cách vô cùng oanh liệt, Kim Kiền
như thấy trước mắt lóe lên nụ cười khinh bỉ của tiến sĩ ba bằng chết dẫm kia:
“Xem ra cậu không chỉ tham tiền háo sắc mà còn rất tham sống sợ chết nữa”.

Xì xì xì, phải nói tớ thức thời, là trang tuấn kiệt mới
đúng!

* * *

Thời gian như thoi đưa, năm tháng dần trôi. Kim Kiền đã ở
Vân Ẩn Sơn này thấm thoắt hơn một năm rồi. Từ sau lần chạy trốn thất bại tám
tháng trước, Kim Kiền cho dù có ăn gan hùm mật gấu cũng không dám thử lại lần nữa,
chỉ có thể chuyên tâm ở lại núi này theo hai vị sư phụ đọc y thư, chế độc dược.
Không lâu sau Kim Kiền cũng cảm thấy y thuật, độc thuật này có vài phần thú vị,
nghĩ đến bản thân mình chẳng có bản lĩnh gì, lại nhớ câu danh ngôn “Tài năng
không bao giờ là gánh nặng”, dần dần nàng đã có thể tĩnh tâm lại, bắt đầu chăm
chỉ học tập, cứ thế y thuật, độc thuật của nàng ngày càng tiến bộ, khiến hai vị
sư phụ vô cùng sung sướng. Tuy cũng có lúc Kim Kiền nhớ về thế giới tương lai
nơi mình sống ngày trước nhưng hầu hết thời gian nàng ở đây cũng có thể coi là
vui vẻ.

Hôm nay, trời chưa sáng, Kim Kiền đã cầm đuốc vào phòng Đại
sư phụ như mọi khi, chuẩn bị luyện tập châm thuật. Nhưng nàng lại phát hiện nhị
vị sư phụ đã ngã trên đất tự bao giờ. Kim Kiền vội lật hai người lên, vừa nhìn
rõ lòng không khỏi chấn động.

Sắc mặt hai người hồng hào một cách dị thường, hô hấp gần
như như không ra tiếng, từ hơi thở nhè nhẹ thoát ra Kim Kiền ngửi thấy có mùi
hoa mẫu đơn. Lại bắt mạch cho sư phụ, mạch của hai người rất yếu, lúc có lúc
không, lúc liền mạch lúc đứt đoạn, là dấu hiệu bị trúng độc.

Hơn nữa lại là độc “Mẫu đơn thảo”, thiên hạ kỳ độc không có
thuốc giải.

Kim Kiền tuy không phải là người đặc biệt thông minh, nhưng
cũng là người của thời tương lai, đã trải qua hơn ngàn năm phát triển tiến hóa,
trở về thời cổ đại, dung lượng não so với mấy người cổ đại này chắc cũng hơn đến
mấy mililit. Huống hồ, bản thân Kim Kiền từ nhỏ đã học lịch sử, được phim võ hiệp
lúc tám giờ tối hun đúc trở thành con người của thời đại mới[2]. Cái kế hoạch dở
hơi này làm sao qua được pháp nhãn của Kim Kiền chứ?

[2] Ở Trung Quốc con người của thời đại mới chính là con người:
có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật.

Quỳ trên mặt đất, nhìn quanh phòng không một hạt bụi, lại
nhìn chằm chằm vào hai vị sư phụ sớm tối bên mình, Kim Kiền thật không còn lời
nào để nói.

Thật không thể tưởng tượng được hai lão quái nhân trước mặt
lại dùng chiêu này để thử y thuật của mình.

Đem thân thử độc. Sau đó bức mình vì họ mà giải độc.

Kim Kiền lườm một cái.

Thứ tình huống kịch tính gì thế này, lẽ nào biên kịch truyền
hình đã cạn kiệt ý tưởng rồi sao?

Đợi đã, đây chẳng phải là cơ hội tốt nhất để chạy trốn sao?
Hai lão già dở hơi kia, chẳng biết tốt xấu gì đã giữ mình ở cái vùng núi khỉ ho
cò gáy này, hại mình cơ hội kiếm tiền không có, cơ hội được ngắm giai đẹp cũng
không, cơ hội trở về thời hiện đại lại càng không. Nay hai lão già này đều chuẩn
bị xuống lỗ, lẽ nào còn có khả năng ngăn mình chạy trốn? Hừ, hừ, tình huống này
phải gọi là làm dâu mãi rồi cũng đến ngày được làm mẹ chồng… cuối cùng mình đã
chịu được đến lúc này rồi!

Gượm đã, tay mình đang làm cái gì thế? Tại sao lại cầm ngân
châm lên? Khoan đã, sao mình lại bắt đầu thi triển thức đầu tiên của “Nhất bách
linh bát huyệt thiên ngoại phi tiên châm trận”? Châm trận này bản thân mình còn
chưa thạo lắm mà… Dừng lại đi…

Ba nén hương sau, Kim Kiền mồ hôi đầm đìa ngồi phịch trên đất.

Hai lão nhân đã khôi phục thần trí, vô cùng sung sướng nhìn
đồ đệ duy nhất trước mắt mình.

“‘Nhất bách linh bát huyệt thiên ngoại phi tiên châm trận’,
xem ra đồ nhi đã vận dụng rất thuần thục. Những châm pháp khác nhất định cũng sẽ
không có trở ngại gì”, Y Tiên vuốt lông mày nói.

“Đồ nhi lại nghĩ đến việc dùng Miêu Cương cổ độc để hút độc
‘Mẫu đơn thảo’, xem ra bản lĩnh của vi sư, đồ nhi đều đã học được hết cả rồi”,
Độc Thánh vuốt râu nói.

“Hai lão già chết tiệt các người! Nếu con không có biện pháp
cứu hai người thì sao?”, Kim Kiền tức xì khói, hét lớn.

Đáng chết, tay mình bây giờ vẫn còn run đây này, quả thật là
tay múa còn nhanh hơn cả chớp giật nữa.

Hai lão nhân nhìn nhau không nói, tựa như đã sớm dự đoán được
tình huống này, khuôn mặt tràn ngập ý cười.

Điều này lại càng làm cho Kim Kiền tức điên, nhìn trừng trừng
hai người họ.

Thấy vậy, Độc Thánh mới chậm rãi mở miệng: “Đồ nhi, chớ nên
trách chúng ta, chỉ có biện pháp này mới có thể khiến cho đồ nhi thể hiện hết bản
lĩnh của mình”.

Kim Kiền trừng mắt lườm Độc Thánh.

Độc Thánh khẽ lắc đầu, lại cười nói: “Mặc dù tài nghệ của đồ
nhi đã tăng tiến, nhưng vi phu vẫn còn một loại tuyệt độc chưa từng dạy cho
con. Loại độc này là kịch độc trong thiên hạ, chỉ có thể đề phòng, không thuốc
nào giải được”.

“Đó là độc gì ạ?”, Kim Kiền thấy dáng vẻ kỳ quái hiếm thấy của
Nhị sư phụ, không kìm được hỏi tiếp.

“Đó là lòng người.”

“Lòng người ư?!”, giọng Kim Kiền cao vút.

“Đúng thế. Cái đó gọi là giang hồ rộng lớn, lòng người khó
dò. Lòng người là thiên hạ kịch độc. Đồ nhi, sau này con phải chú ý cẩn thận.”

Bất giác Kim Kiền ngẩn người bàng hoàng.

Sự hờ hững và phức tạp, cùng những âm mưu dối trá lừa lọc của
thế giới hiện đại, bản thân đã sớm trải nghiệm rồi. Ở hiện đại mỗi người đều được
vũ trang phòng bị kỹ càng, đem lòng nhiệt tình của mình khóa lại trong tầng tầng
lớp lớp gông xiềng, chỉ sợ người khác nhìn trộm được chân tình. Những lời này của
Nhị sư phụ, dù ngắn ngủi chỉ có vài từ thôi, nhưng từng từ từng chữ đều xuất
phát từ tâm can của người, không khỏi khiến cho Kim Kiền thấy như có dòng nước ấm
chảy vào mảnh ruộng trái tim vốn khô nứt của mình.

“Đồ nhi, sư phụ cũng dạy cho con một loại bệnh. Bệnh này
cũng không thuốc nào chữa được”, Y Tiên bên cạnh nói.

Đầu tiên Kim Kiền sửng sốt, nhưng chớp mắt đã phản ứng lại,
khẽ cười khổ.

“Bệnh mà sư phụ nói có phải là tâm bệnh không?”

Y Tiên vuốt lông mày cười: “Đúng thế, đồ nhi quả là thông
minh”.

Còn trong lòng Kim Kiền thì cười khổ mãi không thôi. Bản
thân nàng nào có thông minh gì đâu, đó chỉ là kết tinh trí tuệ của năm nghìn
năm lịch sử Trung Hoa. Chẳng qua là đời cha trồng cây, đời con hưởng bóng mát,
là sự kế thừa văn hóa, thuận tiện hưởng chút lợi lộc mà thôi.

“Nhưng sư phụ đã từng nghe tới đạo lý ‘Tâm bệnh cần trị bằng
tâm dược’ chưa?”

Y Tiên lại bật cười: “Kẻ làm thầy này quả là may mắn, may mắn
lắm thay. Xem ra y thuật của ta đã không còn gì để truyền cho con nữa rồi”.

Hai vị sư phụ khẽ gật đầu, khuôn mặt lại mang ý cười. Y Tiên
rút ra một cuốn sách, trên đó có ghi ba chữ “Tiêu dao du”, trao cho Kim Kiền.

Kim Kiền giở sách ra, thấy giấy còn mới, mực còn chưa ráo.
Chăm chú đọc, phát hiện thứ trong sách viết là tâm pháp khinh công thượng thừa.

“Sư phụ? Đây…”

Y Tiên cười nói: “Y thuật và độc thuật của chúng ta vang
danh thiên hạ, nhưng lại chưa từng luyện võ công, nửa phần nội lực cũng không
có”.

Độc Thánh tiếp lời: “Có điều danh tiếng vang xa tất tạo nên
kẻ thù, nhiều phen sống chết chỉ như sợi chỉ mảnh, may nhờ tuyệt thế khinh công
mới có thể bảo vệ được tính mạng. Thế nên hai người chúng ta đem tuyệt kỹ khinh
công độc đáo của cả hai hợp nhất lại để trao tặng đồ nhi, mong rằng sau này nó
sẽ giúp ích được cho con”.

Lúc này Kim Kiền mới bừng tỉnh, ngộ ra, hóa ra nhị vị sư phụ
là muốn dạy mình chiêu thức chạy trốn đây mà. Tốt quá! Tốt quá! Không biết
“Tiêu dao du” này so với “Lăng ba vi bộ” của Đoàn Dự, cái nào chạy trốn nhanh
hơn nhỉ?

Y Tiên thấy dáng vẻ Kim Kiền như đang suy nghĩ thì cho rằng
đồ nhi của mình lo lắng không biết cách tập luyện bộ pháp này, vội nói tiếp:
“Loại khinh công này không cần nội lực, chỉ dựa trên nguyên lý trợ lực, tiếp lực,
có thể khiến thân thể tựa lông hồng, nhẹ như gió thoảng, vực sâu vạn trượng mà
như bước trên đất bằng, mong đồ nhi hãy chuyên tâm nghiên cứu tập luyện”.

Kim Kiền vừa nghe, đã “wow” một tiếng, thứ này không phải là
tốt bình thường đâu. Tuyệt kỹ chạy trốn như thế này đương nhiên phải nghiên cứu
khẩn trương rồi, đến lúc cần mà không học kịp thì nguy.

Nghĩ đến đây, Kim Kiền vội vàng chuyên tâm nghiên cứu. May
mà hơn một năm vừa rồi được rèn luyện cổ văn, Kim Kiền đọc điển tịch này cũng
không mất quá nhiều công sức. Quả nhiên trong đó đều là các phương pháp mượn
lực, trợ lực, còn có cả sự vi diệu của Tứ lạng bát thiên cân[3] của Thái cực
quyền…

[3] Tứ lạng bát thiên cân: Đây là thuật ngữ võ thuật sử dụng
trong môn Thái cực quyền, với nguyên lý thuận thế mượn lực, lấy nhỏ thắng lớn.

Đột nhiên nhớ đến vị Trương Tam Phong nổi danh lịch sử kia
không biết đã chết hay là vẫn chưa được sinh ra, Kim Kiền bỗng cảm thấy chua
xót.

Nỗi nhớ quê hương bỗng nhức nhối như trùng độc cắn trả, đau
đớn khôn nguôi.

“Thế nào, đồ nhi, có chỗ nào không hiểu không?”, Y Tiên hỏi.

Kim Kiền ngẩng đầu nhìn vẻ mặt có chút lo lắng của Y Tiên,
chậm rãi lắc đầu, nặn ra một nụ cười, hốc mắt ươn ướt.

Xem ra bản thân mình đến nửa cơ hội để rời đi cũng không có.
Khoan nói tới thiết bị thu phát tín hiệu đã mất, mà nếu có tìm được thì sợ rằng
nó đã sớm hư hỏng, trở nên vô dụng rồi.

Lẽ nào, bản thân mình thật sự phải sống ở thời đại này cả
quãng đời còn lại sao? Nhưng ngay đến việc đây là triều đại nào mình còn không
biết, đều là hai ông lão này…

Nhưng, nói đi cũng phải nói lại, hai ông lão này cũng thật
có lòng.

Từ khi mình đến thế giới này đến nay, họ đã truyền thụ tất cả
tài năng tri thức cho mình, chẳng may mảy giấu giếm, đề phòng, mặc dù yêu cầu
có hơi hà khắc một chút, nhưng vẫn rất quan tâm đến mình… Sợ rằng ngay cả người
thân trong gia đình cũng chỉ đến thế mà thôi.

Nghĩ đến đây, Kim Kiền đột nhiên cảm thấy một tình cảm thân
thiết khó diễn tả bằng lời tràn ngập trong lòng – thứ tình cảm gia đình ấm áp.

“Đồ nhi… đa tạ sư phụ.”

Kim Kiền cúi người xuống, khẽ nói.

Cơ hồ như từ thời khắc này, cái người từ tương lai vượt thời
gian rơi xuống vùng núi hoang vu tên Kim Kiền ấy mới chính thức thừa nhận hai vị
sư phụ kia.

* * *

Một tháng nữa lại qua đi. Đây có thể nói là quãng thời gian
vui vẻ nhất mà Kim Kiền từng trải qua.

Mỗi ngày nàng cùng hai vị sư phụ nghiên cứu y thuật, độc thuật,
thời gian rảnh rỗi lại luyện tập khinh công. Tiêu dao du vốn không cần phải có
nội lực trợ giúp, mà trước đây Kim Kiền từng có thời gian nghiên cứu qua điểm cốt
lõi của “Thái cực quyền” (hoàn toàn là công lao của phim truyền hình võ hiệp cả),
vì thế chưa đầy nửa tháng đã lĩnh hội được bộ pháp của Tiêu dao du một cách thấu
triệt, vận dụng rất thuần thục, tự nhiên.

Hai sư phụ tuy rất vui mừng nhưng trong lòng biết, thời khắc
chia ly đã đến.

Sáng sớm nay, Kim Kiền đến phòng các sư phụ chuẩn bị thỉnh
an, nhưng không thấy bóng dáng hai sư phụ đâu. Tìm khắp nơi cũng không thấy, rồi
nàng phát hiện trên bàn có một phong thư.

Mở ra đọc, quả đúng là lời khen tặng của nhị vị sư phụ lúc
chia ly.

Đồ nhi đọc thư vui vẻ, bình an:

Hai kẻ làm thầy chúng ta thấy đồ nhi đã thành tài, vui mừng
khôn xiết. Nhưng duyên phận sư đồ đã tận, chia ly chớ buồn bã nhớ nhung.

Sư phụ: Y Tiên

Ngoài ra: Trên giang hồ chúng ta có rất nhiều kẻ thù, mong đồ
nhi hãy bảo trọng. Con là thân nữ tử, hành tẩu giang hồ có nhiều điểm bất tiện,
hy vọng con hãy cẩn trọng trong mọi việc.

Sư phụ: Độc Thánh

Kim Kiền đọc mà lệ rơi hai hàng, nước mắt đầm đìa, chảy mãi
không thôi, bất giác hét lên đầy thê lương:

“Hai lão già các người, nói đi liền cắp đít bỏ đi! Cũng
không để lại chút tiền con saoooooooooooooooo…”

Giả ngu ngơ cầm đồ sống tạm qua ngày, nơi quán ăn kinh hoàng
nghe danh Bao Thanh Thiên

“Sái Châu?!”

Kim Kiền cố sức ngửa cổ, từ phiến đá xanh rêu to lớn treo
trên cổng thành đọc ra được hai chữ ấy.

Sái Sái Sái, Sái Châu? Cháo rau[1]?

[1] Nguyên văn: Sái Châu, Thái chúc tức cháo rau đồng âm đều
phát âm là cai zhou, nên Kim Kiền đọc lái luôn thành cháo rau.

Kim Kiền há hốc miệng, choáng toàn tập.

Vận dụng khinh công vừa luyện thành không lâu, trên luồn dưới
lách, thoăn thoắt chẳng khác gì loài khỉ lông vàng, quốc bảo của Trung Quốc, chạy
mất bảy tám ngày đường, Kim Kiền mới tới được một nơi có vẻ như là thành trấn.
Có điều vừa nhìn thấy tên thành, Kim Kiền chỉ có thể tiếp tục trợn tròn mắt.

Mặc dù bản thân chẳng phải học sinh giỏi gì cho cam, nhưng

dù sao cũng đã tiếp nhận đầy đủ chín năm giáo dục phổ cập. Chỉ có điều sách
giáo khoa Địa lý ghi cái gì mà “Trung Quốc đất rộng vật nhiều, có diện tích lên
đến 960.000 km², với năm mươi sáu dân tộc”, lời giải thích hiển nhiên là “rõ
ràng” quá mức cần thiết. Thế nên đối với cái người mù đường cổ đại, địa danh
duy nhất biết đến là “Trường An” mà nói, muốn phán đoán hiện trạng địa lý trước
mắt mình đương nhiên là một thao tác đòi hỏi trình độ kỹ thuật quá cao, quá khó
khăn.

Sửa sang lại tay nải trên lưng, Kim Kiền kiên quyết bước tới
cổng thành.

Bối cảnh thường thấy trong các phim cổ trang thoắt cái hiện
ra dưới dạng lập thể trước mắt Kim Kiền.

Đường phố thẳng tắp, cửa hàng hai bên đường san sát, biển hiệu
của các cửa hàng viết trên những tấm vải bố đủ mọi màu sắc khác nhau, tung bay
phất phới ngay sát đường, rất náo nhiệt, tấp nập. Người trên phố đông đúc, nam,
nữ, lớn, bé, trẻ già đều có, hầu hết đều mặc quần áo thông thường, thiên về màu
sẫm, nhưng chí ít so với Kim Kiền thì họ còn ăn mặc sạch sẽ, đẹp đẽ chán.

Kim Kiền vừa đi vừa quan sát xung quanh, trong lòng thầm
đoán bối cảnh trước mắt là thời đại nào.

Đầu tiên, đương nhiên không phải là triều Thanh rồi: nam tử
trên phố đều búi tóc, chẳng có ai là cạo nửa đầu cả. Tiếp theo, cũng không phải
triều Đường: nhìn cổ áo của mấy nữ tử kia đều rất kín đáo, đến nửa ngọn gió
cũng chẳng xuyên qua nổi. Kim Kiền nhớ từng nghe nói triều Đường là triều đại
có trang phục thời trang thời thượng nhất từ trước tới giờ, đại đa số phụ nữ đều
cho rằng phô ngực lộ lưng mới là đẹp. Cuối cùng Kim Kiền rút ra kết luận, đây
chỉ có thể nằm trong các triều: Tống, Nguyên, Minh còn lại mà thôi – nhưng
đem kiến thức lịch sử đáng thương của Kim Kiền ra để mà phán đoán thì quả thực
vô phương.

Thời điểm này phải có tinh thần ham học, không ngại hỏi người
kém hơn mình.

Nghĩ vậy, Kim Kiền hạ quyết tâm, ngăn một vị đại thúc có
dáng vẻ tương đối thân thiện dễ nói chuyện lại.

“Đại thúc, ta muốn hỏi hiện tại là thời nào vậy?”

Vị đại thúc này không biết mặc quần áo bằng loại vải cao cấp
gì, nhưng vừa nhìn thấy tay Kim Kiền liền lùi ra sau tránh, sau đó mới nói:
“Cũng sắp đến giờ tỵ rồi[2]”.

[2] Từ thời cũng có nghĩa là giờ, vị đại thúc này hiểu nhầm
Kim Kiền hỏi giờ nên mới trả lời như thế. Giờ tỵ: khoảng từ 9h – 11h.

Tử thi[3]?

[3] Giờ tỵ và tử thi phát âm giống nhau, đều là “si shi” vì
thế Kim Kiền mới hiểu nhầm ý.

Còn không đợi Kim Kiền trưng bộ mặt choáng váng ra, vị đại
thúc kia đã ba chân bốn cẳng chuồn đi rồi.

“Này…” Nửa câu sau nghẹn lại trong cổ họng Kim Kiền, chẳng
thể thốt ra. Nhìn dáng vẻ vị đại thúc nọ cứ như Kim Kiền đem theo thứ ôn dịch
gì đó vậy.

Cúi đầu xem lại dáng vẻ mình, Kim Kiền không khỏi cười khổ.

Nghĩ không ra bản thân đường đường là một người đến từ tương
lai, bây giờ lại có dáng vẻ của dã nhân thế này. Chẳng trách vị đại thúc ấy lại
tránh như tránh tà thế kia, hơn một năm ở cái nơi rừng rú hoang vu kia, chẳng mấy
khi có nước để tắm rửa, bây giờ cả người dơ dáy tỏa ra từng đợt mùi hương “thơm
lừng”. Hơn nữa mấy ngày nay vội đi đường, càng khiến cho Kim Kiền mặt mũi phờ
phạc, cả người chỉ còn da bọc xương, trông chả khác gì dân chạy nạn châu Phi…
Nói thực, không tưởng nhầm Kim Kiền là đệ tử cái bang đã tốt lắm rồi.

Lại nghĩ đến vấn đề vừa nãy, có vẻ mình hỏi không được phù hợp
cho lắm.

Câu trả lời của vị đại thúc kia dường như, có lẽ, chắc là
chỉ thời gian hiện tại… giờ tỵ. Kim Kiền bấm đốt ngón tay tính toán, vậy thì
cũng sắp mười một giờ rồi, chẳng trách bụng mình có xu hướng thi triển kế “vườn
không nhà trống” thế này… May là ngày trước ông bố già đã bắt mình học thuộc biểu
đồ mười hai con giáp nên mới biết cách quy đổi thời gian, bằng không bây giờ chắc
chắn sẽ bị coi là đứa đần, đến cả tính giờ cũng không biết…

Có điều là mình nên hỏi thế nào đây?

Lão huynh, phiền huynh, xin hỏi hiện tại là năm nào?

Kim Kiền cũng không cho rằng người ở thời đại này lại có thể
đưa ra được một câu trả lời mang đầy tính học thuật như: Hiện tại là năm 2007
sau Công nguyên.

Khoan đã, có thể hỏi người đứng đầu thời đại này là ai mà.
Chưa biết chừng còn có thể nghe thấy danh hiệu hoàng đế mà mình biết cũng nên.

Nghĩ thế, Kim Kiền vội ngăn một người trẻ tuổi lại.

“Vị huynh đài này, xin hỏi đương kim hoàng thượng là ai?”

Người thanh niên kia cơ hồ bị dọa cho một trận, nhảy dựng
lên, hai mắt trợn tròn, vội vàng xua tay chạy đi.

Kim Kiền vô cùng khó hiểu, hỏi tiếp mấy người nữa, nhưng phản
ứng của họ cũng không khác chút nào, đều coi nàng như kẻ điên.

Cho đến khi có một vị đại thẩm tốt bụng nhắc nhở, Kim Kiền mới
bừng tỉnh.

“Tên tiểu tử này, không thể hỏi loạn lên như thế được, ai
dám gọi thẳng tên hoàng thượng chứ? Là trọng tội đấy!” Lúc sắp đi vị đại thẩm
đó ghé sát tai Kim Kiền thấp giọng nói.

Nhất thời toàn thân Kim Kiền đổ mồ hôi lạnh. Khi đó mới ý thức
được mình đã phạm phải sai lầm lớn cỡ nào. Mấy lão hoàng thượng ở thời cổ đại
có thể nói là vô cùng keo kiệt với danh xưng của bản thân, hơn nữa còn rất tâm
đắc với tiết mục chém đầu, lăng trì xử tử con người ta.

Nhưng, cái từ “tên tiểu tử này” là có ý gì vậy?

Túm túm quần áo trên người mình lại, nhìn vị trí nào đó đang
càng ngày càng trở nên bằng phẳng, Kim Kiền xúc động mà thốt lên:

Lẽ nào bản thân mình có vài phần thiên phú “cải trang chuyển
giới”?

* * *

“Hiệu cầm đồ Nguyên Hối” nằm trên đường lớn phía đông thành,
là một trong số những cửa hiệu cầm đồ lớn nhất ở đây. Ông chủ hiệu cầm đồ này họ
Lý, nổi tiếng hà khắc và keo kiệt. Có điều đây cũng là tự nhiên thôi, phàm là
kinh doanh hiệu cầm đồ, há lại có người thích làm từ thiện sao?

Bây giờ đã gần trưa rồi, hiệu cầm đồ tất nhiên là chẳng có
việc gì, còn tửu lâu ngay bên cạnh người ra kẻ vào nhộn nhịp.

Một tiểu nhị tuổi còn trẻ đầu đội mũ vải đang ngồi một mình
bên quầy nhàn rỗi đập ruồi, bỗng nghe thấy ngoài cửa có tiếng động, một người
đang đi nhanh đến.

Vừa nhìn thấy người đó, tiểu nhị không khỏi buồn cười. Từ
khi nào mà hiệu cầm đồ này được vinh dự đón tiếp bọn ăn mày vậy?

Người vừa tới thân hình gầy gò, mặc áo ngắn, trang phục cả
người đều bằng vải thô, dính đầy bụi đường, ống tay áo còn có mấy chỗ thủng
rách. Lại nhìn mặt người này, thật là thê thảm: đầu tóc bù xù, mặt mũi nhọ
nhem, cặp lông mày toàn là bụi đất, chỉ có đôi mắt dài nhỏ là còn có thần, nom
tuổi tác cũng chưa quá mười bảy, mười tám.

“Tiểu nhị, đây có phải là hiệu cầm đồ không?”, người vừa đến
hỏi.

Tiểu nhị lười biếng liếc nhìn rồi đáp: “Đúng vậy, nhưng xin
hỏi khách quan cầm sống hay cầm chết?”.

Phàm là người làm lâu ở hiệu cầm đồ đều luyện được bản lĩnh
nhìn người đoán vật. Trông người này quần áo tả tơi, mặt mày lem luốc, tất
nhiên là chẳng có thứ hàng hóa nào ra hồn đáng để cầm. Nói vậy đây ắt là loại
người bần cùng khốn khổ, vì kế sinh nhai mà phải đem cầm quần áo thôi.

“Cầm chết? Cầm sống? Là như thế nào?”

“Cầm sống là vẫn còn có thể chuộc về, cầm chết là không thể
chuộc lại. Cầm chết có thể cầm được nhiều ngân lượng hơn cầm sống”, tiểu nhị
nhíu mày trả lời. Trong lòng lại nghĩ: Người này quả thực là rất túng quẫn rồi,
sợ rằng ngay cả hiệu cầm đồ cũng chưa từng vào, đến như cầm sống, cầm chết cũng
chưa nghe thấy bao giờ.

“Vậy thì cầm chết.”

Người mới đến không chút nghĩ ngợi đem tay nải trên lưng đặt
lên quầy.

Tiểu nhị thò tay cầm lấy tay nải, mở ra kiểm tra. Quả nhiên
không ngoài dự đoán, bên trong chẳng qua chỉ là vài bộ quần áo dài thông thường,
so với chất vải người này đang mặc cũng chẳng khác là bao. Lấy số lượng mà
tính, nhiều lắm cũng chỉ đáng giá hai mươi đồng.

“Năm đồng”, tiểu nhị nói.

“Hả?”, người trước quầy dường như có chút kinh ngạc, không
khỏi sững người, “Sao lại ít như vậy? Không thể thêm một chút nữa sao?”.

“Cái gì? Năm đồng này đưa cho ngươi còn là nhiều đó, thứ quần
áo rách rưới tả tơi này còn có người chịu cầm cho là quá tốt rồi đấy.” Tiểu nhị
vẻ mặt phật ý, đem tay nải vứt sang một bên. Đây chính là thủ đoạn thường thấy
trong hiệu cầm đồ. Thông thường người đến hiệu cầm đồ đa phần đều cần tiền gấp,
thế nên càng nói vật đem cầm không đáng tiền thì càng có thể thôi thúc họ đưa
ra thứ khác kiếm lời được nhiều hơn.

Quả nhiên, người trước quầy lộ ra thần sắc khó xử. Do dự hồi
lâu, người nọ chậm rãi cởi đai lưng, rút ra một cái bọc.

“Vậy ngươi xem thứ này trị giá bao nhiêu?”

Tiểu nhị cầm lấy bọc vải, tỉ mỉ quan sát. Bọc vải này rộng
không quá hai tấc, bên trong tựa hồ như có thứ gì đó xếp chồng lên nhau tầng tầng
lớp lớp, hơi dày, phía trên còn có hai sợi dây dài buộc chặt lại.

Tháo dây, mở bọc vải đó ra, tiểu nhị không khỏi kinh ngạc.

Đây không phải là bọc vải bình thường, đó là một dải vải dài
có bề rộng chừng hai tấc cuộn lại mà thành. Trải bọc vải đó ra thì phải dài hơn
ba thước[4], trên đó hai hàng ngân châm sắp xếp tỉ mỉ kỹ càng từ dài đến ngắn.
Lấp la lấp lánh, chói lóa đến hoa cả mắt, ngân châm rất tinh xảo, số lượng đến
hơn trăm chiếc.

[4] Thước: Đơn vị đo lường của Trung Quốc, 1 thước = 0.3
mét.

“Khách quan muốn cầm thứ này sao?”, lúc này tiểu nhị như biến
thành người khác, mặt đầy vẻ tươi cười.

Người trước quầy gật gật đầu.

“Vậy khách quan cầm sống hay cầm chết?”

“Cầm chết.”

Tiểu nhị vừa nghe lập tức mừng rỡ. Từ khi học việc ở hiệu cầm
đồ đến nay, ít nhiều cũng đã luyện được nhãn lực nhận biết bảo vật. Mặc dù
không thể nói rõ lai lịch của những ngân châm này, nhưng hắn tuyệt đối có thể
đoán định được những thứ này không tầm thường. Nay người này lại còn nói là cầm
chết, cơ hội tốt như thế há lại buông bỏ hay sao.

“Được, khách quan xin chờ một lát…”

“Khoan đã!”

Người trước quầy đột nhiên vươn tay giật lấy bọc ngân châm:
“Ta còn chưa đồng ý cầm đồ ở đây. Mấy bộ quần áo vừa rồi trả ít như vậy, ta vẫn
nên đến mấy hiệu cầm đồ ở phía trước xem thử rồi nói sau”.

“Hả? Khách quan, đừng vội đi.” Tiểu nhị thấy bàn tay mới rồi
còn cầm bảo vật nay đã trống không, vội kêu lên: “Vừa rồi có thể là ta không
xem xét cẩn thận, để ta định giá lại”.

Hắn bèn lật qua lật lại bọc quần áo trên quầy giả vờ xem
xét, nhưng trong lòng lại nghĩ đến đám ngân châm kia. Qua một hồi lâu, tiểu nhị
có vẻ đã có tính toán, ngẩng đầu lên nói: “Vị khách quan này, vừa rồi ta không
nhìn rõ, kỳ thực đám quần áo này đáng giá mười đồng”.

“Ta vẫn nên đến hiệu cầm đồ ở phía trước…”

“Khoan, ta, ta xem xét lại chút nữa.” Tiểu nhị có chút nóng
vội, nhìn bọc ngân châm trong tay vị khách dưới quầy, “Mười lăm đồng”.

“Thôi vậy…”, người nọ đã nhấc chân muốn rời đi.

“Đợi đã… hai, hai mươi đồng…”

“…”

“Được rồi, được rồi!” Tiểu nhị nhắm mắt, dằn lòng nói, “Một
quan tiền”.

“Một quan tiền?”, dường như người nọ có chút hồ nghi, nhìn
tiểu nhị.

“Đã hơn năm mươi đồng rồi, không thể trả thêm nữa”, tiểu nhị
nói.

Người nọ nhướng mày, cười nói: “Quả nhiên đây đúng là hiệu cầm
đồ giá cả tốt nhất. Được, ta cầm đồ ở đây”.

Tiểu nhị vừa nghe vậy, vội viết ngay giấy cầm đồ, lấy một
quan tiền từ trong quầy ra đưa cho người nọ.

Thấy người nọ khuôn mặt đầy vẻ vui mừng cất tiền đi, cuối cùng
tiểu nhị cũng an tâm, vội vàng hỏi: “Vị khách quan này, túi đồ trong tay ngài
có đưa ta định giá luôn không?”.

“Túi đồ? Túi đồ chẳng phải đã cầm rồi sao?”, người nọ hỏi,
khuôn mặt đầy vẻ kinh ngạc.

“Cái ta nói là túi đồ nhỏ trong tay ngài kia kìa.”

“Hả… Ngươi nói cái này sao…” Người trước quầy giơ túi đồ
trong tay lên, bĩu môi cười rồi nhét lại vào thắt lưng, “Hình như ta đủ tiền
tiêu rồi, thế nên cái này không cầm nữa”.

“Cái, cái gì?”, tiểu nhị nhất thời ngẩn tò te.

Đột nhiên người trước quầy vươn tay ra kéo lấy tiểu nhị ngồi
trong quầy, ghé sát mặt lại nói: “Tiểu tử, kinh nghiệm mặc cả trên dưới năm
nghìn năm cũng không phải là đùa đâu, ngươi còn thiếu mấy trăm năm công lực nữa
cơ”.

Nói rồi, người đó xoay người rời đi, đến cửa lại quay đầu, hỏi
một câu rất quái dị.

“Tiểu nhị, năm nay là năm gì?”

Tiểu nhị nhất thời bị đả kích, cũng không suy nghĩ kỹ xem
câu hỏi này không ổn ở đâu, chỉ đáp theo phản xạ: “Năm Khánh Lịch thứ ba”.

Nghe được lời này, người nọ đột nhiên há hốc miệng, giương mắt
nhìn trời một lúc lâu, sau đó đưa một tay lên che trán, chậm rãi đi ra.

Để lại một mình tiểu nhị vẫn ngẩn ngơ hồi lâu, rồi đột nhiên
nghĩ đến tình cảnh lúc này của mình, bất giác mồ hôi lạnh thấm ướt áo.

Một bao quần áo rách mà cầm những hơn một quan tiền, phải
báo cáo với chưởng quầy thế nào đây?

* * *

Có thể mặc cả được giá ở hiệu cầm đồ, ngoại trừ Kim Kiền từ
thời hiện đại rơi về cổ đại ra, có lẽ chẳng ai làm được nữa. Nhưng tuy đã tạo
nên sự việc có một không hai này, trong lòng Kim Kiền vẫn không vui. Thứ nhất:
Bao quần áo rách kia cho dù có “dựa hơi” ánh hào quang của “một trăm linh tám
ngân châm” mà sư phụ để lại cũng không đổi được bao nhiêu tiền; Thứ hai: Mình
đang ở thời nào và năm nào nàng cũng vẫn còn mơ hồ chẳng rõ.

“Năm Khánh Lịch thứ ba?”, Kim Kiền rầu rĩ cúi đầu, suy đi
nghĩ lại cả nửa ngày trời cũng không có manh mối gì.


Nếu nói Khang Hy, Ung Chính, Càn Long hoặc Trinh Quán[5] thì
bản thân may ra còn có chút ấn tượng, nhưng cái từ “Khánh Lịch” này thì…

[5] Trinh Quán: Niên hiệu thời vua Đường Thái Tông, tức Lý
Thế Dân, đời Đường.

Sao không trực tiếp vứt mình đến triều Thanh chứ, tốt xấu gì
thì cũng đã xem mấy phim “X Châu cách cách”, “X Hy vi hành ký”, “Hý thuyết X
Long”[6]… nhiều lần rồi, mặc dù chưa được gọi là nhà sử học, nhưng để trà trộn
vào làm một thầy bói nửa mùa thì bản thân vẫn thừa năng lực.

[6] Đây là các phim: “Hoàn Châu cách cách”, “Khang Hy vi
hành ký”, “Hý thuyết Càn Long”.

Nhưng nay, lại chạy đến cái thời “Trước chẳng phải Khang,
sau không phải Càn[7]”, cả một bụng tri thức lịch sử (chú thích: đây là chỉ số
phim truyền hình được nhắc đến phía trên) có chỗ nào để phát huy chứ?

[7] Ý chỉ hai triều đại Khang Hy và Càn Long, thường thấy
trong các phim lịch sử của Trung Quốc.

Càng nghĩ càng cảm thấy sầu muộn, cước bộ của Kim Kiền bất
giác gấp gáp hẳn lên, bước nhanh được vài bước, bỗng cảm thấy chân mềm nhũn,
lúc này mới nhận thức được rằng, đã quá trưa rồi mà bản thân vẫn chưa có gì bỏ
vào bụng, dạ dày sớm đã bắt đầu biểu tình rồi.

Đúng lúc ngửi thấy mùi thơm của thức ăn, Kim Kiền ngước mắt
nhìn, thấy ngay một quán ăn ở trước mặt. Cũng không quan tâm quán ăn này tên
gì, Kim Kiền liền xông thẳng đến chỗ đang tỏa hương.

Tiểu nhị trong quán ăn này thức thời hơn tiểu nhị ở hiệu cầm
đồ kia, tuy sắc mặt không tốt nhưng cũng không đá bay Kim Kiền ra khỏi cửa, chỉ
là để nàng ngồi vào một cái bàn ở góc khuất nhất.

Biết rõ hiện tại bản thân mình đang ở dưới cả mức nghèo khổ,
Kim Kiền cũng không dám manh động, hỏi kỹ tiểu nhị, nhẩm tính chi li rồi mới gọi
một bát mì Dương xuân trị giá hai văn tiền. Mì vừa đặt lên bàn, Kim Kiền lại thấy
mình lỗ nặng. Sợi mì trong bát thô to như đầu ngón tay, gắp một cái liền bở
bùng bục đứt rời ra, lèo tèo vài cọng rau cải suy dinh dưỡng nổi lên mặt lớp
nước dùng.

Quả nhiên của rẻ là của ôi.

Kim Kiền thầm thở dài, gắng gượng vục đầu vào ăn.

Người xưa đã dạy, phàm là muốn tìm hiểu tin tức, thấu triệt
tình hình, tất nên đến trà lâu, tửu lâu cùng quán cơm. Bởi vì mấy nơi này người
qua kẻ lại vô cùng nhộn nhịp, có câu người đông thì lắm miệng, thế nên ở mấy chỗ
như thế này mới biết được những tin tức mới nhất một cách nhanh chóng.

Kim Kiền vừa dùng quai hàm chiến đấu với đám mì trong bát, vừa
vểnh tai lên nghe ngóng xung quanh, hy vọng có thể thu hoạch được gì đó.

Nhưng bát mì đã nhìn thấy đáy mà thông tin vẫn chưa thêm
được gì khiến Kim Kiền không khỏi thất vọng.

Người ở cái thời đại này không biết quan tâm đến chuyện quốc
gia đại sự sao? Nhìn xem, đã nửa ngày rồi mà toàn buôn chuyện không đâu. Cái gì
mà quả phụ Trương ở phố tây lăng nhăng quyến rũ người khác, Lý đại ca ở phố nam
lấy vợ, chó ở phố sau lại động dục… một đống tin tức tình ái mới nhất, khiến
cho toàn bộ quán cơm nhanh chóng bị chôn vùi trong đám sương mù ái tình sặc mùi
phấn son.

Thật là không nhịn nổi nữa, cuối cùng Kim Kiền phẫn nộ rút
ra hai văn tiền trả tiểu nhị, nhấc chân đi ra cửa. Nhưng còn chưa đi được bước
nào thì một tin tức bay vào lỗ tai Kim Kiền – hơn nữa còn là tin tức khiến Kim
Kiền suýt chút nữa thì ngã bổ chửng.

“Gần đây kinh thành Biện Lương có lưu truyền một tin rất kỳ
quái.”

“Hả? Tin gì?”

“Nghe nói có một nữ tử tự xưng là nguyên phối của đương kim
phò mã vượt ngàn dặm đến Khai Phong[8] tìm chồng, còn tố cáo lên Khai Phong phủ
nữa.”

[8] Khai Phong còn gọi là Biện Lương, là một trong bảy cố đô
của Trung Hoa, nay là một thành phố ở phía đông tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.

“Phò mã gia ư? Có phải huynh nói trạng nguyên gia, người vừa
đoạt khôi nguyên[9] trên Kim điện, sau lại được công chúa chọn làm phò mã
không?”

[9] Khôi nguyên: chỉ người đỗ đầu kỳ thi ngày xưa.

“Đúng, đúng thế.”

“Huynh đài, đây không phải là chuyện đùa, đường đường là phò
mã gia sao lại có thê tử nguyên phối được?”

“Thế nên mới nói là tin tức kỳ quái mà. Hơn nữa phủ doãn
Khai Phong vẫn chưa thăng đường thẩm vấn, chắc chỉ là tin đồn thất thiệt mà
thôi.”

“Ta thấy cũng đúng…”

Nội dung tiếp theo lại trở lại vấn đề đậm mùi ái tình trước
đó, âm thanh nhỏ dần, không thể nghe thấy gì nữa.

Kim Kiền đứng ở cửa một lúc lâu, đến khi tiểu nhị tiến đến hỏi
mới hồi phục lại tinh thần, lặng lẽ rời đi.

My God! Mình vừa nghe được cái gì thế này? Khai Phong phủ?
Phò mã gia? Nguyên phối của phò mã gia?

Đi đến bên đường, Kim Kiền chống hai tay lên tường, gục đầu
xuống, hồi lâu sau mới thở hắt ra một cái.

Bây giờ cuối cùng mình cũng biết đây là thời đại nào rồi.
Tuy không thể nói rõ số năm cụ thể, cũng không biết anh già đương kim hoàng thượng
là vị nào, nhưng chỉ dựa vào ba chữ “Khai Phong phủ” thôi, Kim Kiền đã có thể
cao giọng hát vang một ca khúc nói rõ về bối cảnh thời đại này rồi.

Chính là: Phủ Khai Phong có Bao Thanh Thiên…

Lão Bao, đã may mắn đến được thời đại này, không đi gặp vị
danh nhân lịch sử như ngài thì thực là quá đáng tiếc!

Tại miếu Quan Công tình cờ gặp Hương Liên, tao ngộ nghĩa sĩ,
trong cõi chết tìm được đường sống.

“Không thể tưởng tượng được cái loại phim truyền hình dài tập
chiếu lúc tám giờ cũng có vài phần đáng tin.”

Kim Kiền đứng trước một tòa kiến trúc đổ nát, lẩm bẩm.

Từ sau khi biết bối cảnh thời đại cụ thể mình đang ở, Kim Kiền
liền xác định mình phải đến Khai Phong phủ chơi một chuyến. Phải cám ơn sự phát
triển của ti vi và công lao của phim truyền hình, nhờ thế mà cuối cùng Kim Kiền
cũng biết thủ đô của hiện nay là Đông Kinh Biện Lương, quá trình hỏi đường sau
đó rốt cuộc không có sơ suất gì to lớn lắm.

Nhưng đồng thời Kim Kiền cũng biết được, từ Sái Châu đi bộ đến
Biện Lương chí ít cũng phải mất nửa tháng, tin tức này đối với Kim Kiền mà nói
quả là họa vô đơn chí. Hiện nay trên người Kim Kiền có tổng cộng là bốn mươi
tám đồng, cho dù mỗi ngày chỉ ăn mì Dương Xuân như hôm nay thì sợ rằng cũng chỉ
có thể cầm cự được khoảng mươi ngày mà thôi. Nếu tính đến khả năng bản thân chẳng
may bị lạc đường, gặp sơn tặc hoặc có chuyện gì đó phát sinh, Kim Kiền dự tính
khả năng nàng còn sống mà đến được phủ Khai Phong còn thấp hơn cả khả năng trở
về thời hiện đại.

Cân nhắc tình hình kinh tế của bản thân hiện giờ, Kim Kiền
không dám đến nơi đắt đỏ như như khách điếm, chỉ có thể dựa vào bí tịch thường
thấy trong các bộ phim truyền hình để qua được cửa ải này: Hy vọng đến ngoại ô
có thể tìm được một căn nhà hoang hoặc “nghĩa trang” nào đó để nương náu.

Trời không tuyệt đường sống của ai bao giờ, sắc đêm dần thẫm,
quả thực Kim Kiền đã tìm được một tòa nhà bỏ không – nói thật là, đến lúc này đột
nhiên Kim Kiền cảm thấy cái đám biên kịch hạng ba mà trước đây mình ghét cay
ghét đắng cũng có vài phần đáng yêu.

Sải bước tiếng vào, bên trong rất bừa bãi, ngổn ngang. Chính
giữa phòng có đặt một cái đỉnh đồng, màn trướng rách nát treo trên những cột trụ
thô nhám bốn phía. Sau đỉnh đồng là một pho tượng phủ đầy bụi.

Kim Kiền nhướng mắt nhìn, bức tượng này cao đến hơn ba mét,
đầu đội mũ màu tím, mặc áo giáp, khuôn mặt đỏ hồng tựa ánh bình minh, vài sợi
râu dài phất phơ trước ngực.

Chẳng cần phải hỏi, đây chính là hình tượng kinh điển: lão
huynh của Trương Phi, lão đệ của Lưu Bị – Quan Vũ, Quan lão gia rồi.

Có điều nhìn hiện tượng đổ nát của “miếu Quan Công”, phỏng
chừng ở thời Bắc Tống, Quan lão gia không được hoan nghênh cho lắm.

“Quan lão gia, nay tại hạ cùng đường, chỉ có thể nương nhờ
trong biệt thự của ngài mấy tối, lão nhân gia ngài đại nhân đại lượng, ngàn vạn
lần đừng chấp nhặt.”

Kim Kiền nhắm mắt, chắp hai tay lại, miệng không ngừng lẩm
nhẩm mấy câu. Nghĩ đến Quan lão gia cũng là danh nhân cổ đại, để có thể giao
lưu thuận lợi, nàng vận dụng hết vốn từ văn ngôn[1] mà bản thân chẳng mấy thông
thạo, cố gắng chắp chắp vá vá thành mấy câu khấn nửa cổ nửa kim này.

[1] Văn ngôn: ngôn ngữ sách vở dựa trên tiếng Hán cổ được sử
dụng phổ biến ở Trung Quốc trước cuộc vận động Ngũ Tứ (1919); phân biệt với bạch
thoại.

Khấn xong Kim Kiền mới cảm thấy trong lòng thoải mái một
chút, lập tức gom đám rơm rạ tán loạn trên mặt đất làm thành một cái giường, ngả
người xuống nằm.

Nằm trên đất, nhìn cảnh sắc trước mặt, Kim Kiền không khỏi
suy nghĩ mông lung.

Ngày trước khi mình còn ở thời hiện đại, cho dù không phải
“ăn trắng mặc trơn”, nhưng tuyệt đối cũng là “giường êm nệm ấm”, “nệm
Simmons[2]”, “space cotton[3]” ở đó so với giường rơm này quả thực là khác nhau
một trời một vực, hoàn toàn không thể so sánh được. Ấy thế mà mình lại vì cuộc
thi công chức thối nát đó, để bản thân rơi vào cái thời vật chất bần cùng cơ khổ
thế này…

[2] Simmons: được thành lập vào năm 1870, là nhà sản xuất đệm
hàng đầu trên thế giới. Đệm có thiết kế đẹp, trang nhã, mang phong cách cổ điển
tốt cho sức khỏe người tiêu dùng và thân thiện với môi trường.

[3] Space cotton: được một công ty trực thuộc NASA của Mỹ,
Health Man, nghiên cứu và phát triển, thành phần chính của nó là Viscoelastic,
được dùng trên các tàu con thoi để bảo vệ cột sống cho các phi hành gia, sau
này được ứng dụng để chế tạo các sản phẩm dân sự như gối, đệm… các sản phẩm y tế.

Kim Kiền thở dài một hơi – nếu vận dụng thành ngữ hiện đại
vào trường hợp này thì đây gọi là “Tự tạo nghiệt, không thể sống.”

Nhưng vẫn còn may, mình vẫn chưa làm gì để đến nỗi trời
trách người oán. Vừa đến cổ đại đã gặp được hai vị sư phụ cũng coi như tốt bụng
giỏi giang, truyền thụ cho một thân bản lĩnh dùng dược và độc, cũng xem như
lĩnh hội được sự vi diệu trong lý luận và thực tiễn của y thuật Trung Hoa năm
nghìn năm – dù hiện tại có thể chưa tới năm nghìn năm, chí ít sau này cũng có
thể trà trộn vào đám lang trung giang hồ một cách vô ưu vô lo. Chỉ với dáng vẻ
như dân Somali chạy nạn bên châu Phi hiện giờ của mình, cho dù có mở quầy khám
bệnh cũng không ai thèm ngó ngàng. Xem ra nhiệm vụ cấp bách trước mắt chính là
ngày mai phải đi tắm, rồi mua quần áo… Không được, đắt lắm, giờ là thời điểm đặc
biệt, phải dùng thủ đoạn đặc biệt, cái đó gọi là: tiến bộ cùng thời đại! Vẫn là
đi ăn trộm thì thực tế hơn, chi bằng trộm thêm mấy vuông vải trắng, viết cái biển
hiệu, làm lang trung kiếm tiền…

Cứ tính toán thế, cả người Kim Kiền bị cơn mệt mỏi oanh tạc,
cuối cùng đi vào mộng đẹp.

***

Không biết ngủ được bao lâu rồi, nhưng dựa vào đồng hồ sinh
học của Kim Kiền, người đến từ hiện đại, mà phán đoán, thì thời gian tuyệt đối
chưa vượt quá một giờ đồng hồ, Kim Kiền đã bị đánh thức bởi những âm thanh lạ.

Những tiếng bước chân hỗn loạn và gấp gáp từ ngoài cửa miếu
Quan Công vang đến, ngay sau đó, mấy bóng người xông vào trong, đi kèm là tiếng
thở hổn hển.

Kim Kiền thầm kinh hãi: Chẳng lẽ vừa rồi do mình khấn mấy
câu kim không ra kim, cổ không ra cổ chọc giận đến Quan Công lão gia, nhanh thế
đã an bài cho mình thấy cảnh tượng máu tanh giang hồ?!

Tập trung tinh thần, cố gắng thở nhẹ, lắng nghe một hồi vẫn
không thấy động tĩnh gì. Lúc này lá gan của Kim Kiền mới to hẳn lên, từ chỗ núp
thò đầu ra thám thính, hệt như con chuột ăn vụng dầu lén lút quan sát bốn phía.

May mà trước giờ chưa từng cắm đầu cắm cổ học hành gì, thế
nên đôi mắt của Kim Kiền tuy nhỏ nhưng ngay cả một dấu hiệu cận thị cũng chẳng
có. Cho dù ở cổ đại không có ánh đèn điện chiếu sáng, Kim Kiền vẫn có thể nhờ
vào ánh trăng mà nhìn rõ mồn một tình huống hiện nay.

Nhưng việc có nhìn rõ hay không không quan trọng, quan trọng
là vừa nhìn thấy mấy người tiến vào, da đầu Kim Kiền liền ngứa râm ran.

Cuộn tròn người thu lu dưới bệ tượng Quan lão gia là bóng của
ba người, một lớn hai nhỏ. Ở giữa là một phụ nữ mặc áo hoa, đầu tóc xổ tung, sắc
mặt hoảng sợ, tay ôm chặt lấy hai đứa bé ở hai bên. Hai đứa trẻ này, một nam, một
nữ, chưa quá bảy, tám tuổi, cả người đều run rẩy không ngừng.

Bạn đọc có thể hỏi: Đây chẳng phải là buổi tối sao? Trời tối
đen như mực, sao Kim Kiền có thể nhìn rõ đến thế, lẽ nào nàng có mang đèn pha
theo?

Kỳ thực nguyên nhân chính là: Ba người này trốn ngay cạnh
cái “giường” của Kim Kiền, ngăn cách bởi một đám rơm rạ vương vãi và mấy thanh
xà nhà mục nát rơi xuống nằm ngổn ngang. Nhưng do ba người quá sợ hãi, lại thêm
trời rất tối, thế nên họ mới chưa phát hiện ra chỉ chưa đến một mét còn có một
người, mà Kim Kiền thì lại thấy ba người rõ mồn một.

Thấy rõ người tới, trong lòng Kim Kiền thầm kêu khổ.

Nếu xông vào là mấy kẻ cao to vạm vỡ, hoặc là mấy người
trong võ lâm, khai chiến ngay tại đây, thì cho dù là cảnh chém giết máu me đến
sầm trời tối đất, gió mưa đổi sắc, Kim Kiền cũng không thấy sợ hãi. Bởi vì đó
chính là cơ hội tốt nhất để nàng có thể trốn đi. Nhưng hiện tại, người chạy vào
lại là ba mẹ con, như vậy thật quá không ổn. Dựa vào nội dung cũ rích của mấy bộ
phim truyền hình lúc tám giờ mà phán đoán, cô nhi quả phụ bị truy sát chỉ có mấy
khả năng sau:

Thứ nhất: Gia đình tranh chấp bất hòa, tài sản chia không đều,
thế nên bị người trong nhà truy sát. Kẻ truy sát có thể là “phòng nhì” của chồng
hoặc em chồng… Nếu là tình huống như thế, phần lớn những kẻ truy sát võ công
không cao, chỉ cần không phát ra tiếng động thì bản thân sẽ an toàn.

Thứ hai: Kẻ thù truy sát, diệt cỏ phải diệt tận gốc. Nếu gặp
phải tình huống đó thì rất không tốt. Phàm là kẻ thù truy sát, tất sẽ thuê sát
thủ chuyên nghiệp, bọn chúng thà giết lầm cả trăm chứ quyết không bỏ sót một
người, bản lĩnh của mình như thế sợ rằng tính mạng cũng không giữ được.

Thứ ba: Trên đường đi gặp phải thổ phỉ, cướp tiền cướp sắc.
Nếu là tình huống này, thì lại càng nguy hiểm. Chẳng may bọn cướp kia phát hiện
ra mình, nhất thời thú tính nổi lên, muốn ngắt hoa bẻ cành, như thế thì chẳng
há bản thân mình sẽ rất xui xẻo sao.

Kim Kiền suy đi tính lại, dù thế nào thì khả năng bản thân bị
sát hại cũng vượt quá sáu mươi phần trăm rồi. Lúc này phải quyết đoán, Kim Kiền
quyết định: “Ba mươi sáu kế, chuồn là thượng sách.”

Nghĩ đến đây, Kim Kiền lập tức nín thở, chống hai tay xuống
đất, từ từ bò lùi về phía sau. Nhưng mới lùi được hai bước, ngoài cửa đã có một
người chạy vào, làm rối loạn tiết tấu lùi đi của Kim Kiền.

“Mau ra đây, nếu không đừng trách ta không khách khí!”, người
ngoài cửa quát lớn.

Nhất thời mồ hôi lạnh của Kim Kiền túa ra – xem ra trường hợp
thứ hai và thứ ba có khả năng cao hơn rồi. Tiếng người này như chuông đổ, tất
nhiên công lực thâm hậu. Mặc dù ngược sáng không cách nào nhìn rõ dung mạo,
nhưng vóc dáng rất vạm vỡ, có thể sánh với các vận động viên thể hình, dựa vào
cơ bắp mà phán đoán, thân thủ ắt phải rất nhanh nhẹn. Điều quan trọng nhất là,
trong tay hắn ta có một thanh đao sáng loáng, quả thực rất sắc bén!

“Mẹ…”

“Hinh Nhi, đừng nói nữa…”

Kim Kiền vừa nghe thấy tiếng thút thít phát ra bên cạnh
mình, trong lòng thầm kêu to: Không tốt rồi!

Nữ nhân này não phẳng à? Con cô nói thì cô bịt miệng nó lại
là được rồi, còn nhiều chuyện nói thêm một câu nữa làm gì? Chẳng phải là khua
chiêng gõ trống tiết lộ chỗ trốn của mình sao?

Quả nhiên, không đợi cho người phụ nữ kia dứt lời, một thanh
đao sáng loáng, lạnh lẽo đã vung đến trước mặt ba người họ.

“Ra đây mau!”, nam nhân vung đao nói.

Người phụ nữ hai tay ôm chặt các con, run rẩy sợ hãi từ chỗ
nấp đi ra.

Không có ai che tầm nhìn, rốt cuộc Kim Kiền cũng nhìn rõ tướng
mạo của tên sát thủ.

Mặt vuông chữ điền, da ngăm đen, râu quai nón, lông mày xếch
ngược, ánh mắt sáng ngời, mặc áo dài bằng vải thô, mang theo chút phong trần bụi
bặm.

Ưm… Nhìn hình tượng vị lão huynh này không giống bọn chuyên
làm điều ác vi phạm pháp luật.

Xem ra mười phần thì đến tám, chín là truy sát kẻ thù rồi.

“Ngươi muốn gì?”, người phụ nữ hỏi, giọng run rẩy.

Kim Kiền ở bên muốn thổ huyết: Lạy hồn, chuyện đã rõ như thế
có cần phí nước bọt để hỏi không?

“Ra chịu chết đi!”, đại hán kia chống thẳng thanh đao quát.

Người phụ nữ nọ không kìm được lùi về phía sau một bước, hỏi:
“Tráng sĩ, chúng ta và ngươi không thù không oán, vì sao lại muốn giết chúng
ta?”

Không phải là trả thù ư? Kim Kiền nhấp nhổm.

Đại hán nhíu mày lại, hai mắt trừng trừng phẫn nộ: “Vì sao
ư? Chuyện đã đến nước này, ngươi còn không biết tội? Ngươi mạo nhận thân thích
với phò mã, vu cáo hãm hại ngài, lẽ nào chừng đó tội còn chưa đủ sao?”

Hả? Hả? Hả? Lời thoại này sao nghe quen vậy?

Người phụ nữ nghe xong khẽ thở dài, căm giận nói: “Thì ra là
Trần Thế Mỹ sai ngươi tới giết chúng ta.”

Nghe tới câu này, Kim Kiền thiếu chút nữa là bổ nhào xuống đất.
Trần… Trần Trần Trần Thế Mỹ?! Trời ơi, nói như vậy là…

Kim Kiền vội vàng nhích về phía trước.

Lẽ nào người phụ nữ này chính là Phan Kim Liên? Không đúng,
hình như Phan Kim Liên mang nghĩa xấu, nên gọi là cái gì Liên nhỉ… Đúng rồi, là
Tần Hương Liên.

“Câm mồm! Tên của phò mã là để cho ngươi gọi sao?”, đại hán
lại quát lớn.

“Mẹ ta gọi tên của cha ta, vì sao lại không được?”, bé trai
chạy lên phía trước đánh vào chân đại hán.

“Vì cái gì mà ngươi muốn giết chúng ta? Cha ta đã không cần
chúng ta rồi, vì sao lại còn muốn giết chúng ta?”, bé gái cũng tiến lên khóc
lóc nói.

Đại hán nhìn hai đứa trẻ chưa đứng đến thắt lưng mình đang
không ngừng đấm đá gào khóc, bất luận thế nào thanh đao cũng không hạ xuống được.
Tần Hương Liên thì khóc không thành tiếng, chỉ kéo các con lại, muốn ôm chúng

vào lòng, nhưng một chút khí lực cũng không có, mấy người họ lôi lôi kéo kéo
thành một đoàn, tình cảnh rất hỗn loạn.

Một lúc sau, tiếng khóc của ba mẹ con nhỏ dần, hai đứa trẻ mới
buông áo đại hán ra.

Đại hán đánh giá ba người họ một lúc lâu mới mở miệng nói:
“Ngươi nói Trần Thế Mỹ là phu quân của ngươi, có bằng chứng gì không?”

Tần Hương Liên nước mắt giàn giụa, nức nở nói: “Nơi đây thôn
hoang, đồng vắng, ngươi bảo ta đi đâu để tìm bằng chứng cho ngươi bây giờ?”

Đại hán vừa nghe liền nổi trận lôi đình, cao giọng quát:
“Không có bằng chứng, chính là lũ ăn bám đáng khinh. Các ngươi hôm nay đều phải
chết tại đây!”

Dứt lời, hàn quang của thanh đao lóe lên bốn phía, đại hán
giơ đao lên chém xuống, sắp vung tới người Tần Hương Liên. Tần Hương Liên kinh
hoàng, lùi ra sau một bước theo bản năng, nhưng vẫn cứ đứng như trời trồng, chẳng
mảy may phản ứng lại.

Trong giây phút ngàn cân treo sợi tóc này, đột nhiên một
bóng người vụt ra, tựa như hồng nhạn cướp bóng, giữ lấy cánh tay vung đao của đại
hán, cao giọng hét lớn: “Đợi… Đợi đã!”

Đại hán không khỏi kinh ngạc, định thần nhìn kĩ thì thấy người
này tóc tai rối bù, áo thô rách rưới, vẫn chưa qua tuổi thiếu niên, nhưng dựa
vào khinh công của người này, rất có thể là cao thủ, cũng không dám lỗ mãng.

Tần Hương Liên bên cạnh lại càng ngạc nhiên hơn, vừa mới chớp
mắt một cái, sao đột nhiên lại xuất hiện một tiểu khất cái thế này.

Người lớn đã thế, trẻ nhỏ lại càng cảm thấy thần kỳ, coi vị
ca ca vô cùng nhếch nhác bẩn thỉu từ trên trời giáng xuống này là thần tiên được
phái đến cứu mạng chúng.

Nhưng Kim Kiền, người vừa rút đao tương trợ này lại đang hối
hận khôn nguôi.

Mợ nhà nó, mọi người nói xem, ta rỗi việc quá hay sao sao lại
đi học cái khinh công dở người này làm gì chứ? Đại não còn chưa theo kịp tốc độ
của tiểu não thì cả người đã xông ra, mà chết tiệt nhất chính là cái công phu
khinh công tuyệt đỉnh giang hồ “Tiêu dao du” này, chân vừa phát lực là đã phi
nhanh như tên bắn, ngay cả thời gian để suy xét cũng không có.

“Tiểu huynh đệ là…”, đại hán hỏi. Lúc này hắn đã xem vị thiếu
niên đột nhiên xuất hiện là một cao thủ giang hồ, ngữ khí cũng không dám quá lỗ
mãng.

Kim Kiền thầm lên dây cót tinh thần, điều chỉnh lại giọng
mình, nói: “Vị tráng sĩ này, hà tất phải vội vàng như thế, hãy nghe mẹ con họ
phân trần rồi hạ thủ cũng chưa muộn.”

Tần Hương Liên vừa nghe liền biết đây là người đến cứu mạng
mẹ con mình, “phịch” một tiếng liền quỳ sụp xuống, khóc lớn nói: “Ân nhân, xin
hãy cứu chúng ta!”

Hai đứa trẻ cũng hiểu chuyện, liền khóc vang trời: “Thần
tiên ca ca, xin hãy cứu chúng ta, người xấu này muốn giết chúng ta… hu hu…”

Kim Kiền vừa nghe, mây đen đầy đầu.

Mình thành anh hùng cứu người từ khi nào vậy, nghĩa vụ vinh
quang này phải là việc của phủ Khai Phong chứ, sao lại đổ lên đầu mình? Còn cái
từ “Thần tiên ca ca” … Tạm thời không bàn đến bộ dạng thê thảm của mình rất có
khả năng làm tổn hại đến hình tượng toàn bộ giới thần tiên, hai đứa tiểu quỷ
này dựa vào cái gì mà nhận mình là “ca ca” chứ?

“Mọi người đừng khóc nữa, còn không mau đem đầu đuôi sự việc
nói cho rõ ràng.” Cảm thấy dường như đại hán có phần kiên dè mình, Kim Kiền
cũng thuận thế xuôi dòng, chắp hai tay sau lưng, tạo thành dáng vẻ cao nhân thế
ngoại. Trong lòng thầm nghĩ: May mà mình hầu hạ hai vị sư phụ quái đản kia một
năm, chưa ăn thịt heo cũng thấy heo chạy rồi, giả bộ cao nhân ắt cũng có vài phần
phong thái.

Tần Hương Liên nghe được lời Kim Kiền mới ngừng khóc, đem cảnh
ngộ của mình nói hết ra.

Đại hán vừa nghe vừa kinh ngạc, Kim Kiền vừa nghe vừa than
thầm: Phim truyền hình vậy mà cũng có căn cứ lịch sử.

Câu chuyện của Tần Hương Liên cùng với bản phim truyện hiện
đại nói chung chẳng khác nhau là mấy, chỉ có vài tình tiết trong đó là không giống
mà thôi. Đại khái là Trần Thế Mỹ vào kinh ứng thí, đỗ trạng nguyên, rồi được chọn
làm phò mã. Trong khi đó ở quê nhà bị mất mùa, cha mẹ chồng qua đời vì nạn đói,
Tần Hương Liên mới dắt theo hai con, cõng trên lưng bài vị của cha mẹ chồng,
ngàn dặm tìm chồng. Nhưng chẳng ngờ đến được Khai Phong, Trần Thế Mỹ lại không
nhận người vợ đã kết tóc se duyên với mình mà đuổi Tần Hương Liên đi. Tần Hương
Liên tố cáo lên phủ nha Khai Phong, phủ doãn phủ Khai Phong xét thấy địa vị tôn
quý của phò mã, muốn hòa giải hai bên nên đã an bài Tần Hương Liên và Trần Thế
Mỹ gặp riêng nhau. Trần Thế Mỹ nói dối không chớp mắt, lừa gạt Tần Hương Liên rằng:
Trước hãy tránh đi nơi khác, đợi những lời ong tiếng ve qua đi sẽ bẩm rõ với
công chúa, đón ba mẹ con về phủ. Nhưng không ngờ cái mà họ chờ được lại là sát
thủ do Trần Thế Mỹ phái đến.

Sau khi nói rõ nguồn cơn sự việc, nước mắt Tần Hương Liên đã
thấm đẫm vạt áo.

“Tần Hương Liên, những điều ngươi nói, có bằng chứng gì
không?”, đại hán nửa tin nửa ngờ hỏi. Nhưng nhìn nét mặt thì chắc cũng đã tin đến
bảy, tám phần.

“Đúng, có bằng chứng gì không?”, Kim Kiền cũng vội hỏi. Cái
câu chuyện có tuổi thọ già đến răng chắc cũng rụng hết rồi này đương nhiên là bản
thân tin tưởng chẳng chút nghi ngờ gì rồi, chỉ sợ vị đại hán kia không tin, lại
cầm đao chém lung tung, há chẳng phải mình sẽ gặp tai họa ư.

“Bằng chứng?” Vẻ do dự hiện rõ trên khuôn mặt Tần Hương
Liên.

Kim Kiền nghiến răng, cái người thật đúng là ngốc toàn tập.

“Chẳng phải tỷ có bài vị của cha mẹ chồng sao?” Kim Kiền nhắc
nhở.

Cái loại bằng chứng này, nếu ở thời hiện đại đương nhiên chẳng
ai thèm liếc mắt. Nhớ tới thời đó, tiền giả, bằng giả, thậm chí cả người giả
cũng bay đầy trời, càng đừng nói gì đến mấy thứ như bài vị này, làm giả dễ như
bỡn. Có điều, người của thời đại này lại rất tin vào thứ đó, hơn nữa còn sợ
không dám đem người chết ra đùa cợt.

“Đúng đúng, trên lưng ta là bài vị của cha mẹ chồng.” được
nhắc nhở, Tần Hương Liên vội vàng tháo bọc đồ trên lưng xuống, lấy ra mấy tấm
bài vị bằng gỗ.

Tấm bài vị kia đen tuyền, trên mặt có mấy chữ dùng dao khắc
sâu xuống: Tiên khảo Trần phụ Trần mẫu.

Đại hán nhất thời im lặng nhìn bài vị, rất lâu sau mới nói:
“Thì ra người đích thực là thê tử nguyên phối của phò mã. Vậy vì sao phò mã lại
ra lệnh cho ta truy sát mẹ con phu nhân?”

“Vì tiền, vì quyền chứ sao.” Kim Kiền thấy rốt cuộc đại hán
cũng tin tưởng, bất giác buộc miệng, không đóng vai cao nhân thế ngoại nữa mà
chọn một chỗ sạch sẽ ngồi xuống.

“Tiền, quyền!”, Tần Hương Liên lẩm bẩm hai từ này, “Lời của
ân công quả là đúng, nói rất chính xác. Trần Thế Mỹ kia tham vinh hoa phú quý,
sợ chúng ta hủy hoại thân phận phò mã của hắn, táng tận lương tâm, sát thê diệt
tử, quả là thiên lý bất dung!”

Kim Kiền ở bên cạnh líu cả lưỡi. Tần Hương Liên này quả
nhiên là danh nhân lịch sử, chẳng trách có thể đánh đổ thân phận phò mã của Trần
Thế Mỹ. Bản lĩnh xuất khẩu thành chương này xem ra cả đời này mình cũng chẳng học
được.

“Được rồi, chân tướng sự việc đã rõ ràng, vị tráng sĩ này,
ngài hãy thả họ đi đi!”, Kim Kiền thuận theo khẩu khí của Tần Hương Liên nói.

Nhưng vị đại hán kia đột nhiên lại cúi đầu không nói, nắm
chuôi đao chặt đến nỗi các khớp ngón tay cũng trở nên trắng bệch.

Kim Kiền bỗng thấy không ổn, vội đứng bật dậy, chạy tới bên
cạnh Tần Hương Liên, lại vẫn thấy không an toàn, bèn vòng ra sau lưng hai đứa
trẻ, dùng hai tay ôm chặt chúng. Nhìn thì có vẻ như muốn bảo vệ hai đứa trẻ,
nhưng kỳ thực trong lòng Kim Kiền lại chủ định khi hắn động thủ liền nhân cơ hội
mà chạy trốn.

“Phu nhân, Hàn Kỳ ta chịu ơn phò mã, lệnh của ngài, không thể
không theo, mong phu nhân thứ tội!”, dường như đã nghĩ thông, đại hán tự xưng
là Hàn Kỳ bèn dũng mãnh giơ đao lên, chém xuống mẹ con Tần Hương Liên. Hai mắt
hắn đỏ ngầu, sắc mặt tái xanh, thực khiến người ta sợ hãi.

Thân hình Tần Hương Liên run lên nhưng không lùi lại, chỉ
đem con bảo vệ phía sau lưng, cứng cỏi nói: “Trần Thế Mỹ sát thê diệt tử, táng
tận lương tâm, ngươi giết chúng ta rồi, ngươi không sợ gặp quả báo, trời xanh
giáng tội sao?”

Kim Kiền ở phía sau thầm khen ngợi: Nữ nhân này quả nhiên có
tố chất của người phát ngôn bộ ngoại giao.

Sát khí trong mắt Hàn Kỳ hơi giảm xuống, nhưng nháy mắt lại
dâng lên ngập tràn.

“Phu nhân, Hàn Kỳ không thể không tuân lệnh!”

“Nếu ngươi nhất định phải giết ta, xin ngươi hãy tha cho hai
đứa con của ta, chúng vô tội. Tuy Trần Thế Mỹ vô tình vô nghĩa, nhưng bài vị của
cha mẹ hắn, phiền ngươi hãy mang về đưa lại cho hắn.” Giọng Tần Hương Liên dần
trầm xuống, trở nên yếu ớt.

Lợi hại! Cứng rắn không được liền chuyển sang mềm dẻo. Chính
sách tranh thủ sự đồng tình, thương cảm của Tần Hương Liên xem ra có hiệu quả,
thanh đao trên tay Hàn Kỳ bắt đầu rung rung.

“Phu nhân… Hàn Kỳ xin lỗi!”

Thanh đao lại đột ngột giơ lên cao, hướng thẳng mặt Tần
Hương Liên chém tới. Còn Tần Hương Liên kia, dường như đã nói hết, hai mắt nhắm
nghiền, chuẩn bị chờ chết.

Kim Kiền vừa nhìn đã thấy không ổn, đang định thi triển
khinh công trốn đi, chẳng ngờ tay áo lại bị hai đứa tiểu quỷ kia nắm chặt lấy.

“Thần tiên ca ca …” hai tiểu quỷ đồng thời van nài, bốn mắt
rưng rưng đẫm lệ.

Thời khắc này Kim Kiền mồ hôi lạnh tuôn ra như suối, mỗi một
giọt to như hạt đậu. Hai tay áo bị túm chặt, làm thế nào để thoát thân bây giờ,
Hàn Kỳ chém xong Tần Hương Liên, chẳng phải sẽ tới lượt mình sao? Con người của
thời đại mới như mình, sao có thể chết một cách không rõ ràng như thế này chứ,
chẳng phải là mất mặt người tương lai lắm sao?

Nghĩ tới đây, Kim Kiền cố ổn định lại nhịp tim, trừng mắt,
cao giọng quát lớn: “Hàn Kỳ, nếu ngươi trung thành với phò mã thì lập tức dừng
tay lại!”

Chiêu này quả nhiên hữu dụng, thanh đao trong tay Hàn Kỳ khựng
lại giữa không trung.

“Tiểu huynh đệ có ý gì?”

Kim Kiền ưỡn lưng, bước về phía trước hai bước: “Ngươi có biết
thân phận của người phụ nữ trước mặt là gì không?”

Tần Hương Liên không chết thì dù thế nào cái mạng nhỏ của
mình cũng không cần phải lo, để bảo toàn tính mạng… Khốn thật, kệ tuốt, trước
tiên phải triệt tiêu khí thế của hắn đã rồi tính sau. Mặc dù Kim Kiền không phải
chuyên gia đàm phán nhưng cũng hiểu rõ thời điểm này, ai lớn tiếng thì người đó
chiếm được thế thượng phong, cái đó gọi là “chính nghĩa tất phải to mồm”; thế
nên lúc này giọng của Kim Kiền dù có dùng thành ngữ “sấm động bên tai” để hình
dung cũng chẳng phải là quá cường điệu – thực ra Kim Kiền cảm thấy cổ họng mình
như muốn rách ra.

Hàn Kỳ nhíu mày: “Chính là thê tử nguyên phối của phò mã.”

“Vậy ngươi nhận lệnh từ ai?”

“Hàn Kỳ nhận lệnh từ phò mã?”

“Vì sao ngươi lại nhận lệnh của phò mã?”

“Bởi vì phò mã có ơn với ta.”

Kim Kiền dừng lại một chút, chắp hai tay sau lưng, ánh mắt
sáng rực như ngọn đuốc, tiếp tục nói: “Đã như thế thì ngươi càng không thể giết
Tần Hương Liên!”

Hàn Kỳ sửng sốt, nhìn chằm chằm vào thiếu niên quần áo rách
rưới trước mắt.

Trong lòng Kim Kiền như có lửa đốt. Nàng hiểu rõ, mấy câu hỏi
vừa rồi chẳng qua chỉ là để kéo dài thời gian, muốn làm dịu bầu không khí căng
thẳng hiện tại, làm nguội sát khí của Hàn Kỳ, khiến hắn mềm lòng mà thả tất cả
đi. Nhưng thế quái nào mà hắn chẳng mảy may thả lỏng, nét mặt còn có vài phẩn tỏ
ra muốn thỉnh giáo.

Không còn cách nào khác, tiếp tục vòng vo thôi…

“Cha mẹ phò mã ở cố hương ai phụng dưỡng?” Kim Kiền tiếp tục
hỏi.

“Là, phu nhân”, Hàn Kỳ đáp lại không mấy mạch lạc.

“Vậy hai đứa con của phò mã ai nuôi dưỡng?”, tiếp tục vòng
vo.

“Là… phu nhân”, Hàn Kỳ từ từ cúi đầu xuống, cơ hồ đang suy
nghĩ điều gì đó.

“Quê nhà phò mã mất mùa, Trần phụ, Trần mẫu qua đời, ai lo hậu
sự?”, tiếp tục nỗ lực vòng vo.

“Là phu nhân…” Hàn Kỳ ngẩng đầu lên, nhìn Tần Hương Liên.

Kim Kiền thấy không tốt, cho rằng sát khí của Hàn Kỳ lại nổi
lên, vội tiến lên phía trước, chắn ngang tầm mắt Hàn Kỳ, giọng lại cao lên mấy
phần, nói: “Vậy ai ngàn dặm xa xôi mang bài vị tiên phụ, tiên mẫu của phò mã đến
Khai Phong?”

“Là phu nhân.” Ánh mắt Hàn Kỳ đột nhiên sáng bừng lên, nhìn
Kim Kiền với nét mặt như nhìn một vị cao nhân thế ngoại thực sự, “Lời của tiểu
huynh đệ đã thức tỉnh kẻ ngu muội này. Phu nhân đối xử với phò mã như thế,
chính là ân nhân của phò mã, ta chịu đại ân của phò mã, há lại có thể giết hại
ân nhân của ngài sao? Đó chẳng phải là hành động lấy oán báo ơn, bất trung bất
nghĩa sao?”

Hả?

Đang phiền não về câu hỏi tiếp theo lại nghe được những lời
này, Kim Kiền không khỏi ngẩng ra. Tư duy của người cổ đại quả thật là quá
nhanh, đạo lý như thế mà hắn cũng có thể nghĩ ra được?

“Các người hãy đi đi.” Hàn Kỳ nói: “Ta không thể giết các
người.”

Kim Kiền vừa nghe liền mừng rỡ, cũng không để ý nói lời cảm
tạ với Hàn Kỳ, vội vội vàng vàng kéo hai đứa trẻ và Tần Hương Liên rời đi.
Nhưng chưa đi được hai bước đã nghe thấy âm thanh quái lạ phía sau lưng. Tần
Hương Liên bên cạnh thét một tiếng đầy kinh hãi:

“Hàn nghĩa sĩ!”

Kim Kiền quay đầu lại nhìn, thoắt cái trở nên kinh hoảng thất
sắc. Hàn Kỳ cầm đao đăm vào bụng mình, mũi đao xuyên qua lưng, máu chảy từng giọt
từng giọt. Người, người này cũng quá vọng động rồi!

“Hàn Kỳ!” Kim Kiền chạy vội đến bên Hàn Kỳ, cùng Tần Hương
Liên đỡ lấy thân hình đang từ từ khuỵu xuống.

“Hàn nghĩa sĩ, ngài hà tất phải làm như vậy?” Tần Hương Liên
khóc nói.

Sắc mặt Hàn Kỳ trắng bệch, hai mắt đã mất đi ánh sáng, mấp
máy môi, thều thào nói: “Phu nhân, Hàn Kỳ không thể giết người, cũng không còn
mặt mũi nào về gặp phò mã, chỉ có thể làm thế này…”

“Đừng nói nữa!” Kim Kiền thấp giọng nói, hai tay nâng cổ tay
Hàn Kỳ lên, ngưng thần bắt mạch, vẻ mặt tuy trấn tĩnh nhưng trong lòng lại như
có lửa đốt, cháy ruột cháy gan.

Tình huống hiện tại rất không tốt, mặc dù mình là đệ tử chân
truyền của Y Tiên, nhưng với thương thế trước mắt của Hàn Kỳ e là chỉ có thể
dùng phương pháp phẫu thuật ngoại khoa của thời hiện đại may ra mới cứu được,
nhưng thời đại này nào đã có điều kiện…

“Tiểu huynh đệ không cần phải hao tâm tổn trí…”, Hàn Kỳ nhìn
Kim Kiền cười cười: “May mà tiểu huynh đệ nói thẳng, Hàn Kỳ mới không phạm phải
sai lầm to lớn, Hàn Kỳ trước sinh cảm tạ…”

“Ngươi cảm tạ cái khỉ ấy!”, trái tim Kim Kiền như bị xe lu
lăn qua, vô cùng khó chịu, “Ngươi đừng lo lắng, vẫn còn cứu được, chỉ cần ta
dùng… Hàn Kỳ, ngươi làm gì thế?!”

Kim Kiền đang định lấy ngân châm ra, Hàn Kỳ lại đột nhiên
rút đao ra, nhất thời máu tuôn xối xả, vô số giọt máu bắn lên mặt hai người bên
cạnh.

“Hàn Kỳ!” Kim Kiền vội lấy tay che miệng vết thương nhưng vô
dụng, máu tanh đỏ rực cứ theo kẽ ngón tay tuôn ra.

“Phu nhân… trên thanh đao này có dấu khắc của phò mã phù…
người… người hãy đem cái này đến huyện nha cáo trạng… mới có thể bảo toàn tính
mạng…”

Nói chưa dứt câu, hai mắt Hàn Kỳ trống rỗng, tắt thở chẳng
thể cứu được nữa.

“Hàn nghĩa sĩ!” Tần Hương Liên tay cầm thanh đao, khóc không
thành tiếng, hai đứa trẻ cũng quỳ cạnh thi thể khóc lớn.

“…” Kim Kiền cúi đầu không nói, từ trên má lăn xuống chẳng
biết là máu hay nước mắt.

Nhất thời, trong miếu Quan Công gió lạnh tiêu điều, tiếng
khóc vang lên từng đợt từng đợt.

Không biết qua bao lâu, Kim Kiền bỗng phản ứng lại, hai mắt
lóe lên, kéo Tần Hương Liên cùng hai đứa trẻ chạy ra cửa.

“Ân công?” Tần Hương Liên hỏi, không rõ vì sao lại như thế.

“Còn ngẩn người ở trong này làm gì?” Kim Kiền tim đập như trống
dồn, giọng nói cũng có vài phần run rẩy, “Lúc này tỷ đang cầm đao trong tay, cả
người đầy máu, trong miếu lại có người chết, hiện giờ không có phương pháp giám
định dấu vân tay, bất luận là ai cũng đều coi tỷ là hung thủ giết người, tỷ lại
đắc tội với phò mã…”

Tiếng nói đột nhiên ngừng lại, chỉ thấy Kim Kiền mắt trợn
to, miệng há hốc, đứng như trời trồng trước miếu.

Khốn kiếp, không cần trùng hợp như vậy chứ!

Kim Kiền cùng ba mẹ con Tần Hương Liên phía sau đứng ở cửa
miếu Quan Công, trước mặt họ là hai thanh niên đang cầm đèn lồng.

Hai người chân đi giày đen, trên người là công phục đỏ sẫm,
đầu đội mũ vải đen. Trang phục này Kim Kiền vô cùng quen thuộc, nha dịch, bổ
khoái trong các phim truyền hình cổ trang đều mặc như thế.

“Người nào lúc này còn huyên náo?” Một nha dịch hỏi.

Tần Hương Liên đột nhiên lại tiến lên phía trước, nâng thanh
đao trong tay lên, nói: “Hai vị quan sai, đến rất đúng lúc, ta muốn cáo trạng.”

Kim Kiền lắc đầu rất mạnh, xém chút nữa là đứt lìa cổ, nhìn
khuôn mặt kiên quyết cứng cõi của Tần Hương Liên bên cạnh, cơ mặt Kim Kiền giật
giật.

Cái, cái đồ đần này! Quả nhiên tế bào não của người cổ đại
còn chưa phát triển hoàn toàn mà!


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.