Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót

Chương 13


Bạn đang đọc Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót – Chương 13


Hoắc Kinh Đường không được lộ mặt, vậy nên Khang vương trở thành người trung gian thay mặt hắn truyền lời, hỏi hai vấn đề.
Một là vì sao Lưu thị lại ở trong tay Triệu Bạch Ngư, hai là trong tay y có một quyển Kinh Thi chuộc về từ hiệu cầm đồ hay không.
Triệu Bạch Ngư không khai Ngụy bá ra, chỉ nói y từng nhặt được thẻ ngà ra vào cung mà Lưu thị làm rơi, lợi dụng có thẻ ngà và xe vận chuyển nước đưa Lưu thị ra khỏi Đông cung, nghe hỏi đến câu thứ hai tuy trong lòng hoảng sợ nhưng vẫn thành thật trả lời.
Quý nhân sau lưng Khang vương làm sao biết được trong tay y có một quyển Kinh Thi.
Trừ phi đối phương tra được từ trên người Trịnh Hữu.
Trong tình huống nào sẽ điều tra Trịnh Hữu? Người nào sẽ thẩm tra Trịnh Hữu?
Gian lận thi cử.
Đại lý tự khanh, Lâm An quận vương —— Hoắc Kinh Đường!
Quý nhân mà Khang vương thường nhắc đến chính là Hoắc Kinh Đường ư? Cẩn thận suy nghĩ thì thân phận cao quý, tình cảm chú cháu sâu nặng với Khang vương, trừ Hoắc Kinh Đường ra thì không có người thứ hai.

Hơn nữa người này tuổi còn trẻ mà đã giao lại binh phù, trốn lui trốn lủi trong Kinh đô bốn năm năm, trong tay không có thực quyền cũng chẳng có dã tâm, nhìn thế nào cũng không giống nhân vật phản diện nghiêm túc quyền mưu nhất trong nguyên tác.
Nếu như hắn mắc phải bệnh lạ, không thể sống lâu, ngược lại có thể giải thích cho tất cả lý do đó.
Bốn năm năm trước khải hoàn hồi triều, nhớ không lầm thì trận chiến cuối cùng của hắn là ở Nam Cương, Nam Cương thiên về cổ độc, thần bí khó lường, chẳng lẽ Hoắc Kinh Đường bị trúng cổ độc?
Từ hai vấn đề mà Khang vương đưa ra, Triệu Bạch Ngư đã đoán được tám, chín phần sự thật nhưng vẫn tỉnh rụi, nhẹ nhàng kính cẩn trình bày: “Ngũ lang cũng biết, tự tiện xông vào hoàng cung là phạm vào tội chết không thể tha, vậy nên không dám cãi lại, nhưng cầu xin Vương gia nể tình bảo vật Ngũ lang đã dâng lên, giúp Ngũ lang một tay cứu ân sư Trần thị lang.”
Khang vương chắp hai tay sau lưng quan sát Triệu Bạch Ngư, đây là lần đầu ông gặp mặt cháu ngoại, không ngờ y lại xinh đẹp, dễ chịu, trông rất hợp mắt như vậy, từ dung mạo đến phong thái đều tao nhã, một bộ áo xanh dịu dàng như ngọc, không giống vị trưởng tỷ Xương Bình công chúa mang nét đẹp kiều diễm rực rỡ nhưng dễ dàng làm bỏng những người bên cạnh của ông, trái lại càng giống như Triệu Bá Ung thuở thiếu thời say ngọc đồi sơn hơn.
Trong năm lang quân của Triệu gia, đứa cuối cùng, cũng là đứa con không được lòng người nhất, Triệu Bạch Ngư lại là người có phong thái giống với Triệu tế chấp nhất.
Bấy giờ, người ta đều nói Triệu thị Tứ lang Triệu Ngọc Tranh dáng vẻ mặt mày như long như phượng, là một viên ngọc sáng, cũng là trăng sao chói lọi, dường như toàn bộ linh khí Kinh đô đều chỉ tập trung trên người một mình hắn, cho nên đến cả Hoàng đế, Thái hậu cùng một đám hoàng tử công chúa đều yêu thích hắn.
Nếu như nói Triệu Ngọc Tranh là viên minh châu, thì Triệu Bạch Ngư cùng tuổi cùng ra đời một ngày với hắn chính là con mắt cá!
Đến cả cái tên cũng vô cùng bình thường, nghe nói y ra đời hơn hai năm mà còn chưa có tên, ma ma bên người liền cầu xin Triệu Bá Ung ban tên cho.

Đúng lúc trong hồ nước có một con cá trắng vảy bạc tung mình nhảy lên, Triệu Bá Ung thấy nó liền thuận miệng thốt lên hai chữ “Bạch Ngư”.
Thử hỏi ở Kinh đô này đứa trẻ nhà nào có cái tên bị lấy qua loa cho có lệ như thế?
Chỉ có duy nhất một mình Triệu Bạch Ngư vì liên lụy mẫu thân ruột mà nhận được đãi ngộ này, không ai bất bình cho y.
Nghĩ đến đây, Khang vương nảy sinh lòng áy náy hiếm có thương xót cho Triệu Bạch Ngư, không nhiều, chỉ ít thôi, nhiều hơn vẫn là cảm động vì để cứu ân sư, Triệu Bạch Ngư có thể làm đến mức này, có thể thấy là một người vô cùng trọng tình trọng nghĩa.
Lần đầu tiên, Khang vương cảm thấy câu nói mẹ nào con nấy không đúng chút nào.

“Đứng lên đi.

Nếu như ta không muốn cứu Trần Sư Đạo, bây giờ cũng sẽ không gặp ngươi.” Khang vương nói: “Giữ quyển sổ…!Giữ quyển Kinh Thi đó lại đi, còn Lưu thị, thẻ ngà và lời khai giao lại hết cho ta.

Nhớ lấy, ngươi chưa từng đến Đông cung, ban đầu nhặt được thẻ ngà đã giao ngay cho phủ Nha, vẫn luôn để ở phủ Nha, đến lúc Kỷ tri phủ và bổn vương nói chuyện mới biết chuyện thẻ ngà.”
Triệu Bạch Ngư: “Ti hạ biết.”
Khang vương gõ gõ mặt bàn: “Ngồi xuống đây, chúng ta trò chuyện một chút.”
Triệu Bạch Ngư lên tiếng đáp lại rồi ngồi xuống, vô cùng ngoan ngoãn, không có chút nhuệ khí nào, xem ra là một chàng trai tính tình rất tốt.
Chính xác hơn là bởi vì bị trên dưới Triệu phủ bắt nạt nên cũng chẳng dám hùng hổ khí thế.

Khang vương suy nghĩ một chút, trong lòng không mấy vui vẻ, vì vậy liền nói: “Nói mới nhớ, ngươi cũng là cháu ngoại của bổn vương, phải gọi ta một tiếng cữu cữu chứ.

Có chuyện rắc rối hay phiền toái gì không thể giải quyết được có thể đến tìm ta.

Không cần lần nào cũng phải dâng huyết phách bảo bối gì mới có thể tìm cữu cữu, bình thường muốn cứ thoải mái đến Khang vương phủ chơi.”
Triệu Bạch Ngư biết là lời khách sáo, cũng hiểu là Khang vương cố tình muốn thiết lập quan hệ thân thiết và để dễ dàng liên hệ với mình, y cũng chắp tay cảm kích, vừa đáp lời xã giao: “Những năm gần đây, Ngũ lang thời khắc đều nhớ mong Thái hậu, bệ hạ và cữu cữu, trong lòng thường cầu phúc cho thân nhân, cũng biết cữu cữu bận rộn nhiều việc, vì triều đình giải khốn, vì trăm họ giải ưu, chắc chắn sẽ không đem chuyện nhỏ nhặt của bản thân đến quấy rầy người.”
“Ngươi có lòng này là tốt rồi.” Sắc mặt Khang vương hòa hoãn, ánh mắt càng toát ra vẻ hòa nhã, giống như một người cậu tốt thật lòng nhớ mong cháu mình vậy, “Sau này có chuyện gì cứ tới thẳng Khang vương phủ.”
Ông tháo ngọc giác Hoàng Long đeo bên hông xuống tặng cho Triệu Bạch Ngư: “Năm đó ta còn là hoàng tử, phụ hoàng đã đưa ngọc giác này cho ta, thấy ngọc như gặp người, coi như là quà ra mắt của ta.”
Triệu Bạch Ngư từ chối, Khang vương nói: “Trưởng lão ban cho, không được từ chối.”
Triệu Bạch Ngư nghe vậy mới nhận lấy ngọc giác Hoàng Long.
Khang vương lại hỏi Triệu Bạch Ngư vài chuyện nữa, Triệu Bạch Ngư trả lời từng vấn đề một, cuối cùng hỏi y: “Nghe nói ngươi vốn đã tham gia kì thi Hương, có công danh tú tài trên người, sau đó sao lại không tiếp tục thi nữa?”
Triệu Bạch Ngư lẳng lặng nghĩ, giương cao khóe môi cười đáp: “Không khéo mắc bệnh, bệnh một trận rất lâu mới khỏi nên bỏ qua kì thi Hội ạ.”
Đối với các sĩ tử trên thiên hạ này, tham gia thi cử chính là hy vọng cá chép vượt vũ môn hóa rồng, là đại sự, là phúc trạch ba đời, cho dù người có mang bệnh nặng, chỉ cần chưa chết đều sẽ đến trường thi, cho nên việc Triệu Bạch Ngư bỏ thi có lẽ có liên quan đến Triệu Ngọc Tranh và cả đám người Triệu phủ.
Khang vương: “Từ trước đến nay Đại Cảnh lấy nhân tài làm trọng, bệ hạ cầu hiền như khát, không giới hạn người có năng lực, phàm là người làm việc vì triều đình, vì bách tính, chỉ cần ngươi có khả năng, dù chữ to cũng không biết, ngươi vẫn có thể một bước lên mây, tấn phong hai phủ ba ti.”
Triệu Bạch Ngư cảm tạ ông nói lời hay, sau đó nói thêm vài chuyện thường ngày.


Hàn thuyên đơn giản thêm một lúc nữa, Triệu Bạch Ngư mới bái biệt Khang vương phủ.
Triệu Bạch Ngư vừa đi, Hoắc Kinh Đường đã bước ra từ căn phòng phía sau đại sảnh, nghe Thập vương gia xúc động: “Đúng là một đứa trẻ đáng thương, ngoan ngoãn như vậy, ngược lại những năm này chúng ta khinh thường nó, quả thật có lỗi.

Tử Uyên à, hay thôi ngươi cứ đi nói với bệ hạ chuyện từ hôn đi, đừng làm khó dễ người ta.”
Hoắc Kinh Đường bước tới cái ghế Triệu Bạch Ngư vừa rời khỏi ngồi xuống, gác lên tay vịn nói: “Nếu thật sự muốn giúp đỡ Triệu Bạch Ngư, chi bằng nhanh chóng nghĩ cách cứu ân sư của y trước đã.”
“Đúng vậy.” Khang vương: “Có điều chuyện này dây dưa quá nhiều, ngươi phải khai báo thế nào?”
Hoắc Kinh Đường không biết làm sao: “Khai báo đúng sự thật thôi, nhưng nếu để ta khai báo, Trần Sư Đạo nhất định sẽ chết.”
Khang Vương cẩn thận suy nghĩ, vuốt râu dài gật đầu nói: “Chính xác.

Nếu Trần Sư Đạo không chết vì ông ấy trong sạch, Lưu thị nói láo bêu rếu nguyên lão ba triều, lại là người của Đông cung, thì chắc chắn sẽ thành trở ngại đối với danh tiếng của Thái tử.

Còn nếu khai báo đúng sự thật, sợ rằng bệ hạ sẽ cân nhắc mặt mũi hoàng tộc, danh tiếng trữ quân mà để Trần Sư Đạo nuốt xuống oan khuất này.”
Hoắc Kinh Đường: “Cho nên không thể để cho ta nói ra.”
Khang vương ngạc nhiên: “Ngươi có thật sự muốn cứu Trần Sư Đạo không?”
Hoắc Kinh Đường: “Quân tử nhất ngôn.”
Khang Vương bất mãn: “Ngươi nghĩ cho kĩ, một Trần Sư Đạo thay cho danh tiếng của trữ quân tương lai? Hoàng tử đấu đá lẫn nhau, không tiếc bêu xấu nguyên lão vì Đại Cảnh ta đào tạo mấy trăm học sinh giỏi giang, truyền ra ngoài có dễ nghe không?”
Hoắc Kinh Đường: “Vậy một trữ quân vì để giết hại huynh đệ mà không tiếc bêu xấu triều thần thì cần thiết phải theo sảu ủng hộ hắn sao?”
Khang vương cứng họng, quả thực khi ông biết được sự thật cũng cảm giác lòng mình đã nguội lạnh, từ tận đáy lòng, ông cho rằng Thái tử không xứng làm quân chủ, chỉ là từ cổ chí kim bất cứ quân vương nào trước khi lên ngôi bàn tay cũng nhuộm đỏ máu tươi, chân đạp xương trắng, thật lòng mà nói, Đông cung làm vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
“Thay đổi trữ quân, khó tránh khỏi khủng hoảng, triều đình biến động, quá bất lợi cho sự ổn định của thời cuộc trước mắt.”
“Bệ hạ hiểu rõ mình cần làm gì hơn ngài, sẽ không dễ dàng thay đổi trữ quân, nhưng vẫn phải dọn dẹp vài con sâu nên cần dùng thủ đoạn lôi đình để trấn giết.

Triều đình bách quan bách thái (*), bệ hạ đã tỏ, người tới báo cáo vụ án có phải ta hay không, chỉ cần biết quyết định sống chết của Trần Sư Đạo, sẽ không lung lay được kết quả sau cùng.”
(*) Bách quan bách thái: Ý nói trăm vị quan là trăm dáng vẻ khác nhau, không ai giống ai

Hoắc Kinh Đường nhắm mắt lần tràng hạt, ý vị sâu xa: “Hành động mà ta làm hoàn toàn dựa vào tình thế.”
***
Trịnh Hữu bị bắt vào Đại lý tự, Tần vương vô cùng sợ hãi, Trịnh Sở Chi đến tận cửa thăm, hỏi gã và Trịnh Hữu rốt cuộc còn che giấu bao nhiêu chuyện.

Tần vương ấp úng, dù gì thì cũng phải nói rõ ràng chuyện gã và Trịnh Hữu đã cấu kết với quan chủ khảo ở trưởng thi Giang Nam để làm loạn.
Trịnh Sở Chi kinh hồn bạt vía, không thể tin nổi: “Hành vi này, các ngươi đã làm mấy năm rồi?”
Tần vương lúng túng: “Ba năm…!Đó là do hao tổn quá lớn mà ra, quân Ký Châu của cữu cữu và ngoại công mỗi quý mỗi đốt trăm ngàn lượng bạc trắng, trung quỹ trong cung, bình thường đưa tới theo lệ, ban thưởng…! Chuyện nào cũng phải tốn tiền, làm sao bổng lộc và tiền kiếm được bằng cửa hàng, tửu lâu mang danh Trịnh Hữu có thể cung cấp nổi?”
Trịnh Sở Chi giận sôi máu: “Cho nên các ngươi có thể lợi dung khoa cử sao? Ngươi có biết cái này không khác gì mua quan bán nước không? Đây là đại tội chém đầu đấy!”
Lòng Tần vương loạn lên: “Chẳng lẽ bổn vương không biết? Lúc cữu cữu xòe tay đòi tiền có từng nghĩ xem bổn vương lấy tiền ở đâu không? Muốn trách phải trách phụ hoàng thiên vị, bộ Hình cũng giao cho Thái tử, vị trí ở phủ doãn cũng cho Thái tử, đến Diêm thiết ti cũng có môn khách của Thái tử! Ai cũng biết, ngồi vào bất cứ chỗ nào ở Diêm thiết ti thì tiền bạc cũng vào như nước! Nhưng tại sao môn khách của bổn vương có làm thế nào cũng không chen chân vào được? Là bổn vương không có tài cán gì sao? Không, là do phụ hoàng đã thao túng tất cả mới đúng!”
Nguyên Thú đế cần cân băng thế lực triều đình, vậy nên vừa cho Hoàng quý phi cùng Tần vương vinh sủng, vừa hạ chế thế lực của Tần vương phát triển, suy cho cùng là để đề phòng phủ Trịnh Quốc công bọn họ.

Trái lại sắp xếp cho môn khách của Thái tử nắm trong tay quyền kinh tế cả nước ở Diêm thiết ti, một bên vì nhà ngoại của Thái tử là thế gia cao quý Tư Mã thị, cũng là nơi gây dựng thế lực cho hắn, một bên mượn việc này để giám sát và áp chế thế lực đó lớn mạnh.
Có thể nói, đương kim Thánh thượng đã dày công tôi luyện, chơi đùa với quyền thuật triều đình đến mức hoàn hảo không chừa kẽ hở.
Trịnh Sở Chi có tức giận đến đâu đi nữa cũng không thể xoay chuyển chuyện đã có xu thế sụp đổ: “Chỉ còn cách hy sinh Trịnh Hữu thôi.”
Tần vương: “Ý ngài là?”
“Cắt đuôi tìm đường sống.” Trịnh Sở Chi tàn nhẫn nói: “Mẫu thân của Trịnh Hữu và đệ đệ nó vẫn còn đang ở Định Châu, chỉ cần nó nhận tội, ta sẽ chăm sóc bọn họ thật tốt.

Còn ngài, ngài phải đi trước Lâm An quận vương một bước, đến trước cửa cung chịu đòn xin tội, phải nói mình trị dưới không nghiêm, tự xin hàng tước, phạt bổng lộc.

Bệ hạ sẽ không giết ngươi, vậy nên ngươi nên tìm cho mình một nấc thang đi.”
Tần vương không cam lòng hàng tước, nhưng hắn không còn cách nào khác nữa, trước mắt thì đây chính là con đường sống duy nhất.
Cùng một câu nói như vậy, Trịnh Sở Chi thuật lại một lần nữa cho Hoàng quý phi nghe, có điều đối tượng hy sinh đổi từ Trịnh Hữu thành Tần Vương Hoắc Chiêu Diệp.

Tất nhiên Hoàng quý phi không chịu hy sinh con trai của mình, nhưng Trịnh Sở Chi đã bóc tách tình hình rồi vẽ vời thêm chuyện nói cho nàng biết.
Tần vương nhúng tay vào trường thi Giang Nam, thu hối lộ đã xâm phạm đến ranh giới cuối cùng của Nguyên Thú đế, nghiêm trọng hơn nữa chính là làm lung lay căn cơ của Đại Cảnh.

Nguyên Thú đế không nhẫn nhịn được, càng phải để cho trăm quan trong triều và cả thiên hạ này một câu trả lời, tuyệt đối không thể chỉ đơn giản là “trị dưới không nghiêm”, “hàng tước phạt bổng” như vậy.
Kèm thêm sẽ liên lụy đến chính Hoàng quý phi và cả phủ Trịnh Quốc công, nhưng do bọn họ chủ động vì việc nước quên tình nhà, cân nhắc đến quân Ký Châu còn đang chống cự Đột Quyết, bệ hạ sẽ không động đến phủ Trịnh Quốc công, còn có thể giữ được cho Tần vương một cái mạng.
“Nhiều nhất là bị tước vị, tống giam vào Tôn Chính tự.


Không có Tần vương, ngài còn có Lục hoàng tử.

Lục hoàng tử vô cùng thông minh, tài đức song toàn, trong quân chiêu hiền đãi sĩ (*), khiêm tốn lễ độ, rất được kính yêu.

Vừa có phong độ của đại tướng, lại chẳng thiếu phong thái vương giả.

Chờ Lục hoàng tử…!Một ngày nào đó sẽ tự thân nghênh đón Tần vương ra khỏi Tôn Chính tự, khôi phục tước vị, cũng có thể đảm bảo tình huynh đệ tốt đẹp.”
(*) Chiêu hiền đãi sĩ: thời phong kiến, chỉ vua chúa, quan thần hạ mình kết bạn với người hiền tài
Hoàng quý phi sinh được hai trai một gái, trừ Tần vương đứng thứ ba, còn có Lục hoàng tử nhỏ hơn gã bốn tuổi, ba năm trước đã theo Trịnh quốc công chinh chiến Đột Quyết, còn chưa được phong tước hiệu, cũng không dựng phủ ngoài cung.
“Quý phi nương nương, xin ngài hãy tự đến Văn Đức điện đại nghĩa diệt thân, cũng nên chủ động giao trung quỹ hậu cung ra đi.”
***
Giờ Dần, có một kẻ mặc đồ đen lặng lẽ lẻn vào viện tử không người thăm hỏi của Triệu phủ, một ngọn nến nhỏ như hạt đậu được thắp lên đặt trước lớp màng cửa sổ lụa mỏng.
Triệu Bạch Ngư tỉnh giấc, trước hết nhìn về phía ngoài phòng nơi Nghiên Băng đang ngủ, nghe thấy tiếng nó ngáy o o mới biết mạng mình vẫn còn giữ được.

Người tới mặc dạ hành phục đen tuyền, che kín mặt mũi, chỉ thấy được đường nét thân hình cao gầy, ước chừng cao hơn Triệu Bạch Ngư một cái đầu.

Tóc buộc thành đuôi ngựa cao, để lộ vầng trán đầy đặn sáng bóng cùng đôi mắt màu lưu ly, nửa dưới khuôn mặt đã bị vải đen che kín.
Hắn thắp nến xong, ngồi bắt chéo ở chỗ gần cửa sổ, tay trái chơi đùa với tấm thẻ ngà lấy được từ trong cung, tròng mắt sâu thẳm phản chiếu bóng dáng Triệu Bạch Ngư.
“Triệu Bạch Ngư?”
“Các hạ là?”
“Ta là ai không quan trọng, muốn cứu Trần Sư Đạo không?”
“Tất nhiên.”
“Cầm lấy.” Người đó ném thẻ ngà qua, Triệu Bạch Ngư nhanh tay tiếp lấy, “Nửa giờ sau, đến cửa cung gõ trống, cáo trạng Trần Sư Đạo.”
==
Min: Thật ra đối thoại phải là như này ⬇️
Bé Cá: “Các hạ là?”
Ngài Hoắc giấu tên: “Là chồng em.”.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.