Dấu hiệu Athena

Chương 22


Đọc truyện Dấu hiệu Athena – Chương 22

The Mark of Athena – Chương 18
Annabeth
ĐÊM ĐÓ, ANNABETH NGỦ MỘT GIẤC KHÔNG MỘNG MỊ, điều này chỉ làm cô thêm bồn chồn khi thức giấc – như sự yên bình trước một cơn bão vậy.
Leo cho tàu thả neo tại một cầu tàu ở Bến Cảng Charleston, ngay cạnh con đê chắn sóng. Dọc bờ biển là một khu dân cư cổ kính với những biệt thự lớn, những hàng cọ và hàng rào thép uốn. Những khẩu thần công cổ chĩa nòng súng xuống mặt nước.
Lúc Annabeth lên boong thì Jason, Frank và Leo đã trên đường đi tới bảo tàng rồi. Theo lời HLV Hedge, họ đã hứa sẽ trở lại vào lúc hoàng hôn. Piper và Hazel đã sẵn sàng khởi hành, nhưng trước tiên Annabeth quay về phía Percy, cậu đang đứng tựa vào tay vịn lan can, chăm chăm nhìn ra con vịnh.
Annabeth nắm lấy tay cậu. “Cậu định làm gì lúc bọn mình đi?”
“Nhảy xuống khu cảng,” cậu nói rất bình thản, kiểu như những đứa trẻ khác vẫn nói, Mình sẽ kiếm ít đồ ăn vặt. “Mình muốn thử liên lạc với đám Nereid trong vùng. Có lẽ họ có thể cho mình vài lời khuyên về cách giải cứu đám sinh vật bị bắt nhốt ở Atlanta. Hơn nữa, mình nghĩ có lẽbiển sẽ tốt cho mình. Ở trong cái thủy cung đó khiến mình cảm thấy… không sạch sẽ.”
Tóc cậu vẫn sẫm màu và rối bù như mọi khi, nhưng Annabeth nghĩ đến những lọn tóc bạc cậu từng có ở một bên đầu. Hồi bọn họ mười bốn tuổi, họ từng (bị buộc phải) thay nhau chống đỡ bầu trời. Áp lực khiến một ít tóc của cả hai bọn họ chuyển bạc. Suốt năm vừa rồi, trong lúc Percy mất tích, những vệt tóc bạc trên đầu cả hai người cuối cùng cũng đã biến mất, điều này lại khiến Annabeth cảm thấy hơi lo. Cô có cảm giác như thể mình đã mất đi một mối ràng buộc tượng trưng nào đó với Percy vậy.
Annabeth hôn cậu. “Chúc may mắn, Óc Tảo Biển, chỉ cần nhớ quay lại với mình, được chứ?”
“Mình sẽ quay lại.” Cậu hứa. “Cậu cũng vậy nhé.”
Annabeth cố dằn xuống nỗi bồn chồn đang lớn dần trong lòng.
Cô quay về phía Piper và Hazel. “Được rồi, các quý cô, đi tìm hồn ma Battery nào.”
Sau này, Annabeth ước rằng cô đã nhảy xuống khu cảng cùng Percy. Thậm chí cô thà chọn một bảo tàng đầy ma còn hơn.
Không phải là cô không thích đi dạo cùng Piper và Hazel. Ban đầu, họ khá là vui vẻ khi dạo khắp đường kè Battery. Theo như biển chỉ dẫn thì công viên bên bờ biển đó tên là vườn White Point[1]. Làn gió biển cuốn trôi cái nóng oi bức của buổi chiều hè và dưới bóng những hàng cọ lùn, không khí mát mẻ dễ chịu. Ven con đường là một hàng những khẩu thần công từ thời Nội Chiến và tượng các nhân vật lịch sử bằng đồng khiến Annabeth rùng mình. Cô nhớ đến những bức tượng ở New York trong Cuộc chiến Titan, những bức tượng đã sống lại nhờ chuỗi lệnh hai mươi ba của Deadalus. Cô thắc mắc liệu cả nước còn có bao nhiêu bức tượng là người máy bí mật đang chờ được khởi động.
[1] White Point GardenCharleston
Cảng Charleston lấp lánh dưới ánh mặt trời. Ở phía bắc và nam, những dải đất vươn ra như những cánh tay ôm lấy con vịnh và chễm chệ ngay cửa cảng, cách khoảng một dặm phía ngoài là hòn đảo với một đồn công sự bằng đá. Annabeth nhớ mang máng cái đồn đó khá quan trọng trong cuộc Nội Chiến, nhưng cô cũng chẳng nghĩ nhiều đến việc ấy làm gì.
Chủ yếu cô chỉ hít thở làn hơi biển và nghĩ đến Percy. Cầu trời đừng để cô phải chia tay với cậu. Cô sẽ không bao giờ có thể ra biển lần nữa mà không nghĩ đến trái tim tan vỡ của mình mất. Cô nhẹ cả người khi họ đi khỏi con đê chắn sóng và thăm dò phần đất liền của vườn hoa.
Công viên không đông người cho lắm. Annabeth cho rằng hầu hết người dân địa phương đã đi nghỉ hè hoặc trốn trong nhà ngủ trưa. Ba người tản bộ dọc con phố Nam Battery, con phố có hàng biệt thự bốn tầng kiểu thời thuộc địa[2]. Những bức tường gạch phủ đầy thường xuân. Mặt tiền các ngôi biệt thự có những hàng cột cao vút như các ngôi đền La Mã. Những khoảnh vườn trước tràn ngập hoa hồng, hoa kim ngân và hoa giấy nở rộ. Trông cứ như thể Demeter đã đặt đồng hồ của tất cả những cây này ở chế độ nảy nở từ vài thập kỷ trước rồi quên quay lại kiểm tra thì phải.
[2] Colonial mansion-biệt thự theo lối kiến trúc thời thuộc địa: Có nhiều kiểu kiến trúc khác nhau của nhiều thời kỳ thuộc địa khác nhau, ở đây không nói rõ là thời kỳ nào, nhưng theo những thông tin mà mình tìm hiểu được thì có lẽnhững ngôi biệt thự được nhắc tới ở đây thuộc lối kiến trúc Georgian-lối kiến trúc phổ biến của thời thuộc địa vua George. Đặc trưng của lối kiến trúc này là nhà được xây bằng gạch kiên cố với cột gỗ, thường có một phòng khách, một phòng ăn tiêu chuẩn, đôi khi có cả một phòng sinh hoạt gia đình, và các phòng ngủ được đặt trên tầng hai.
“Nó đại khái làm em nhớ đến Rome Mới,” Hazel nói. “Tất cả đám biệt thự rồi vườn hoa, rồi cột với mái vòm đó.”
Annabeth gật đầu. Cô nhớ cô đã đọc được rằng trước thời nội chiến, Miền Nam nước Mỹ thường so sánh mình với Rome ra sao. Thời trước, xã hội của họ chỉ toàn nghệ thuật kiến trúc đầy ấn tượng, danh dự và phong thái hào hoa. Còn về mặt xấu xa, nó lại liên quan tới chế độ nô lệ. Thành Rome có nô lệ, một vài người miền Nam biện luận, Thì sao chúng ta không thể có cơ chứ?
Annabeth rùng mình. Cô yêu kiến trúc ở nơi này. Những ngôi nhà và vườn hoa rất đẹp, rất đậm chất La Mã. Nhưng cô tự hỏi tại sao những thứ đẹp đẽ lại cứ phải mang một lớp vỏ lịch sử đen tối. Hay là ngược lại? Phải chăng chính cái lịch sử xấu xa khiến người ta cần phải dựng nên những thứ xinh đẹp để che đậy những mặt đen tối đó?

Cô lắc lắc đầu. Percy sẽ ghét việc cô trở nên triết lý như vậy. Cô mà thử nói với cậu những thứ ấy như vậy, mắt cậu sẽ dại ra.
Hai cô gái còn lại không nói gì nhiều.
Piper liên tục nhìn quanh như thể cô đang chờ đợi một cuộc phục kích. Cô nói cô đã nhìn thấy công viên này trên lưỡi dao của mình, nhưng cô không chịu kể chi tiết. Annabeth đoán cô bạn sợ phải làm vậy. Nói cho cùng thì, lần cuối Piper cố giải nghĩa những hình ảnh trong con dao của cô, Percy và Jason đã suýt giết nhau ở Kansas.
Hazel cũng có vẻ lơ đãng. Có lẽ con bé đang quan sát xung quanh, hay có thể là đang nghĩ về em trai mình. Trong vòng chưa đầy bốn ngày nữa, trừ phi họ tìm thấy Nico và giải thoát thằng bé, không nó sẽ chết.
Annabeth cũng cảm thấy cái hạn đó đang đè nặng lên cô. Cô luôn có những cảm xúc lẫn lộn về Nico di Angelo. Cô ngờ rằng cậu đã đổ lỗi cho cô từ dạo cô cứu cậu và chị gái Bianca của cậu khỏi cái học viện quân sự ở Maine đó, nhưng Annabeth chưa từng có hứng thú với Nico. Cậu quá trẻ và quá ủ rũ. Có một phần tối tăm trong cậu khiến Annabeth không thoải mái.
Dẫu vậy, cô vẫn cảm thấy có trách nhiệm với cậu. Hồi họ mới gặp nhau, chưa ai trong số họ biết về người chị gái cùng cha khác mẹ của cậu, Hazel. Lúc đó, Bianca là người thân duy nhất còn sống của cậu. Khi cô mất, Nico trở thành đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, một mình lang bạt trên thế gian. Annabeth có thể có liên quan tới chuyện đó.
Cô mải nghĩ ngợi đến nỗi có thể cô đã cứ thế mà đi dạo quanh công viên mãi, nhưng Piper túm lấy tay cô.
“Kia kìa.” Cô chỉ ra phía kia bến cảng. Cách một trăm thước ngoài xa, một bóng hình trắng lấp lánh đang dập dềnh trên mặt nước. Ban đầu, Annabeth nghĩ đó là một cái phao hay xuồng cứu hộ đang phản chiếu ánh sáng mặt trời, nhưng rõ ràng nó đang phát sáng và chuyển động êm hơn một chiếc xuồng, tạo một đường thẳng tiến về phía họ. Khi vật thể đó tiến lại gần, Annabeth nhận ra đó là hình dáng một người phụ nữ.
“Hồn ma,” Cô nói.
“Đó không phải một hồn ma,” Hazel nói. “Không có loại hồn phách nào lại tỏa sáng rực rỡ như vậy.”
Annabeth tin lời bạn cô nói. Cô không thể tưởng tượng mình là Hazel, chết từ khi còn quá trẻ như vậy, rồi quay trở lại từ Âm phủ, biết nhiều về người chết hơn cả người sống.
Như bị thôi miên, Piper băng qua con đường và đi về phía con đê chắn sóng, tránh được một cỗ xe ngựa chỉ trong đường tơ kẽ tóc.
“Piper!” Annabeth gọi.
“Tốt nhất là bọn mình nên theo chị ấy đi”. Hazel nói.
Đến lúc Annabeth và Hazel theo kịp cô thì hồn ma chỉ còn cách có vài sải.
Piper lườm nó như thể nhìn thấy nó khiến cô bị xúc phạm.
“Quả nhiên là bà ấy.” Cô gầm gừ.
Annabeth hé mắt nhìn hồn ma, nhưng nó phát sáng quá chói để có thể nhìn rõ chi tiết. Rồi bóng ma bay lên khỏi con đê chắn sóng và dừng ngay trước mặt bọn họ. Vầng sáng mờ đi.
Annabeth hít sâu một hơi. Người phụ nữ đó đẹp đến nghẹt thở, và quen thuộc một cách kỳ lạ. Khuôn mặt của bà ta thật khó miêu tả. Diện mạo bà ta dường như biến đổi từ những đường nét của hết diễn viên điện ảnh quyến rũ này đến những minh tinh màn bạc khác. Đôi mắt bà ta lấp lánh tinh nghịch – lúc thì xanh dương, khi thì xanh lá, lúc lại màu hổ phách. Mái tóc bà ta biến đổi từ tóc vàng dài và thẳng sang những lọn xoăn màu nâu sô-cô-la sẫm.
Ngay lập tức, Annabeth cảm thấy ghen tị. Cô luôn ước mình có một mái tóc sẫm màu. Cô có cảm giác không ai coi trọng một cô gái tóc vàng như cô. Cô phải cố gắng gấp đôi để được công nhận là một nhà chiến lược, một kiến trúc sư, một cố vấn trẻ tuổi – bất cứ thứ gì có liên quan đến đầu óc.
Người phụ nữ ăn mặc như một người đẹp Phương Nam, y như Jason miêu tả. Bộ đồ bà ta có phần thân trên xẻ sâu bằng lụa hồng và phần chân váy ba tầng và viền ren vỏ sò màu trắng. Bà ta đeo một đôi găng lụa dài màu trắng và cầm một cây quạt gắn lông vũ màu trắng-hồng.

Dường như mọi thứ trên người bà ta đều được tính toán để khiến Annabeth thấy thua kém: từ phong thái thoải mái khi bà mặc chiếc váy, cách trang điểm hoàn hảo mà không lộ liễu, đến cái cách bà ta tỏa nét quyến rũ nữ tính mà không một người đàn ông nào có thể cưỡng lại.
Annabeth nhận ra nỗi ghen tị của mình là bất hợp lý. Người phụ nữ này đang khiến cô cảm thấy như vậy. Cô từng có trải nghiệm này trước đây rồi. Cô nhận ra người phụ nữ này, dù mặt “bà ta” không ngừng biến đổi mỗi giây, càng lúc càng đẹp hơn.
“Aphrodite,” cô nói.
“Venus?” Hazel kinh ngạc hỏi.
“Mẹ.” Piper nói, không chút hào hứng.
“Các cô gái!” Vị nữ thần giang rộng tay như muốn một cái ôm tập thể.
Ba cô gái á thần không nghe theo. Hazel lùi về phía một gốc cọ lùn.
“Ta rất mừng là các con ở đây.” Aphrodite nói. “Chiến tranh đang đến. Đổ máu là không thể tránh khỏi. Vậy nên chỉ có một việc duy nhất phải làm.”
“Ờ…và đó là?” Annabeth đánh bạo hỏi.
“Sao cơ, hiển nhiên là uống trà và tán gẫu rồi. Theo ta nào!”
Aphrodite rất biết cách mở một buổi tiệc trà.
Bà dẫn ba người đến mái đình hóng mát[3] ở trung tâm vườn hoa – một vọng lâu[4]với những cây cột trắng, nơi có một chiếc bàn đã sắp sẵn đồ bạc, chén sứ Tàu và tất nhiên là cả một ấm trà nóng nghi ngút, hương trà cũng dễ dàng thay đổi như Aphrodite thay hình đổi dạng vậy – lúc là hương quế, khi là hương nhài, lúc lại là hương bạc hà. Trên bàn còn có một đĩa đầy bánh lúa mạch[5], bánh quy và bánh nướng xốp cùng với bơ tươi và mứt – tất cả, Annabeth nhận thấy, đều dễ gây béo khủng khiếp, trừ phi, dĩ nhiên rồi, bạn là nữ thần tình yêu bất tử.
[3] pavillion – đình hóng mát, chỉ gồm cột và mái che, thường được xây theo hình bát giác, bên trong thường có bàn và ghế đá để ngồi ngắm cảnh, giống mấy cái đình thủy tạ của Trung Quốc.
Đình hóng mát vườn White Point.
[4] Gazebo-vọng lâu, cũng giống như đình hóng mát, là chỗ để ngồi ngắm cảnh, hai nơi nhắc đến trong truyện là một, chỉ nhiều tên gọi khác nhau thôi.
[5] Scone: bánh nướng làm từ bột mì hoặc bột cháo yến mạch, thường được ăn khi uống trà.
Aphrodite ngồi – hay đúng hơn, thiết triều – trên một chiếc ghế con công[6] bằng liễu gai. Bà rót trà và mời bánh mà không bị rây một vệt nào ra váy áo, tư thế của bà luôn hoàn hảo, nụ cười của bà thì chói lóa.
[6] Peacock chair: loại ghế có phần lưng tựa xòe ra giống như đuôi công, thường được làm từ cây liễu gai.
Họ càng ngồi lâu, Annabeth càng thấy ghét bà ta hơn.
“Ôi, các cô gái ngọt ngào của ta,” nữ thần nói. “Ta yêu Charleston lắm lắm ý! Những đám cưới ta đã tham dự ởvọng lâu này – chúng khiến ta rơi lệ. Và cả những vũ hội hồi Miền Nam Cũ nữa. A, chúng mới đáng yêu làm sao. Ở vườn của rất nhiều biệt thự trong số những biệt thự kia vẫn có tượng của ta, dù họ gọi ta là Venus.
“Người nào mới là bà?” Annabeth hỏi. “Venus hay Aphrodite?”

Nữ thần nhấp một ngụm trà. Mắt bà ta lóe lên vẻ tinh quái. “Annabeth Chase, cháu đã lớn phổng lên thành một quý cô trẻ xinh đẹp rồi đấy. Tuy vậy, cháu thực sự nên làm gì đó với mái tóc của mình. Và, Hazel Levesqe, quần áo của cháu…”
“Quần áo của cháu?” Piper nhìn xuống bộ đồ bò nhàu nhĩ của mình – không phải theo kiểu ngượng ngập lúng túng, mà chỉ bối rối, như thể cô không tưởng tượng được chúng có gì không ổn.
“Mẹ!” Piper nói. “Mẹ làm con xấu hổ đấy.”
“Chà, ta không thấy có lý do nào khiến con cảm thấy xấu hổ cả.” Vị nữ thần nói. “Chỉ vì con không coi trọng những bí quyết về thời trang của ta, Piper ạ, không có nghĩa là những người khác cũng không thích. Ta có thể “cải tạo” nhanh cho Annabeth và Hazel, có lẽ với những bộ váy dạ hội bằng lụa giống của ta…”
“Mẹ!”
“Được thôi,” Aphrodites thở dài. “Và để trả lời câu hỏi của cháu, Annabeth, cả Aphrodite lẫn Venus đều là ta. Không như những người bạn Olympus của ta, ta hầu như không hề thay đổi theo năm tháng. Thật ra, ta thích nghĩ rằng ta không hề già đi tẹo nào!” Vị nữ thần vỗ vỗ lên khuôn mặt mình đầy tán thưởng.” Dù gì đi nữa, tình yêu vẫn cứ là tình yêu, có là người La Mã hay người Hy Lạp cũng vậy thôi. Cuộc nội chiến này sẽ không ảnh hưởng nhiều tới ta như tới những người khác.”
Tuyệt thật, Annabeth nghĩ. Mẹ của cô, một trong những vị thần Olympus trí tuệ nhất, bị biến thành một kẻ loạn trí hằn học lang thang trong một ga điện ngầm. Và trong số tất cả những vị thần có thể giúp họ, những kẻ duy nhất có vẻ không bị ảnh hưởng bởi sự giằng xé Hy Lạp-La Mã này là Aphrodite, Nemesis, và Dionysus. Tình yêu, báo thù và rượu vang. Hữu ích ghê.
Hazel gặm một miếng bánh quy đường. “Vẫn chưa có chiến tranh mà, thưa nữ thần.”
“Ôi, Hazel yêu quý,” Aphrodite gấp cây quạt của bà ta lại. “Thật là lạc quan làm sao, nhưng cháu sẽ phải đối mặt với những ngày tháng buồn đau phía trước. Dĩ nhiên là chiến tranh sẽ nổ ra. Tình yêu và chiến tranh luôn đồng hành với nhau. Chúng là những đỉnh cao của cảm xúc con người! Cái ác và cái thiện, cái đẹp và xấu xa.
Nữ thần cười với Annabeth như thể bà ta biết trước đó cô đã nghĩ gì về Miền Nam cũ.
Hazel đặt miếng bánh quy đường của cô xuống. Một ít vụn bánh dính trên cằm cô và Annabeth thích việc cô bạn không biết hoặc không buồn quan tâm đến chuyện đó.
“Ý bà là sao khi nói,” Hazel hỏi, “ngày tháng buồn đau?”
Nữ thần cười ngất như thể Hazel là một chú cún con dễ thương.” Chà, Annabeth có thể có vài gợi ý cho cháu đấy. Ta từng hứa sẽ làm cho đường tình duyên của con bé trở nên thú vị. Và ta đã làm vậy, không phải sao?”
Annabeth suýt nữa bẻ gãy quai tách trà của cô. Hàng nhiều năm trời, trái tim cô đã bị giằng xé. Đầu tiên là Luke Castellan, mối tình đầu của cô, người chỉ coi cô như em gái, rồi anh chuyển sang phe xấu và quả quyết rằng anh thích cô – ngay trước khi anh chết. Sau đó thì Percy đến, cậu khiến người ta điên tiết nhưng cũng rất dễ thương, thế nhưng cậu dường như lại phải lòng một cô gái khác tên là Rachel và rồi cậu suýt chết, vài lần liền. Cuối cùng thì Annabeth cũng có được Percy, chỉ để chịu đựng việc cậu bị mất tích trong sáu tháng và mất luôn cả trí nhớ.
“Thú vị,” Annabeth nói, là một cách hòa nhã để diễn tả sự việc đó.”
“Chà, ta không thể nhận hết công lao cho tất cả những rắc rối của cháu được,” vị nữ thần nói. “Nhưng ta luôn thích những chỗ ngoắt ngoéo trong một câu chuyện tình. Ồ, cả ba người đều là những câu chuyện xuất sắc – ý ta là, các cô gái, các con khiến ta tự hào!”
“Mẹ,” Piper nói, “có lý do nào để mẹ ở đây không?”
“Hửm? Ồ, ý con là ngoài việc uống trà ra á? Ta thường đến đây mà. Ta yêu quang cảnh, đồ ăn, không khí nơi đây – con có thể ngửi thấy sự lãng mạn và cả thất tình trong không khí, không phải sao? Hàng thế kỷ chồng chất những thứ đó.
Bà chỉ ra một biệt thự gần đó. “Các con có thấy cái sân thượng trên mái kia không? Chúng ta từng mở một buổi tiệc vào cái đêm cuộc Nội chiến mở màn. Đêm nổ súng trận đồn Sumter[7].”
[7] Trận đồn Sumter là một cuộc pháo kích đã bức hàng đồn quân sự Sumter, là trận đánh đầu tiên chính thức mở màn cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Sau khi 7 tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ tuyên bố ly khai tách khỏi Liên bang, Nam Carolina đã yêu cầu quân đội miền Bắc rút khỏi các căn cứ của mình tại cảng Charleston. Ngày 26 tháng 12 năm 1860, thiếu tá miền Bắc Robert Anderson đã bí mật dời bộ chỉ huy của mình từ đồn Moultrie vốn không thể phòng thủ tại thị trấn Sullivan’s Island đến đồn Sumter, một pháo đài trọng yếu kiểm soát lối ra vào cảng Charleston. Tổng thống James Buchanan đã cố gắng tăng viện và tiếp tế cho Anderson bằng con tàu buôn không vũ trang mang tên Ngôi sao miền Tây, nhưng thất bại khi tàu này bị các khẩu đội pháo binh bờ biển miền Nam tấn công vào ngày 9 tháng 1 năm 1861. Chính quyền Nam Carolina sau đó đã chiếm đóng tất cả các căn cứ của Liên bang trong khu vực Charleston, ngoại trừ đồn Sumter.
“Chính là nó!” Annabeth nhớ ra. “Hòn đảo ở bến cảng. Đó là nơi trận đầu tiên trong cuộc nội chiến diễn ra. Liên minh miền nam nổ súng với Liên bang miền Bắc và chiếm cái đồn đó.”
“Ôi, một bữa tiệc ra tiệc!” Aphrodite nói. “Một dàn tứ tấu dây[8] và tất cả đàn ông đều mặc quân phục. Những bộ váy của phụ nữ – các con phải thấy chúng! Ta đã nhảy với Ares – hay là Mars nhỉ? Ta e rằng lúc đó ta hơi ngà ngà. Và những luồn sáng xinh đẹp khắp bến cảng, tiếng gầm của đại bác mang đến cho những người đàn ông cơ hội được vòng tay ôm những người tình đang kinh hãi của họ!”
[8] String quartet – dàn tứ tấu dây: một dàn nhạc gồm bốn nhạc cụ thuộc bộ dây, thường bao gồm hai violin, một viola và một cello.
Trà của Annabeth lạnh ngắt. Cô chưa ăn gì, nhưng cô cảm thấy buồn nôn.
“Bà đang nói về sự mở màn của một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử nước Mỹ đấy. Hơn sáu trăm nghìn người chết – còn nhiều hơn số người Mỹ đã chết trong cả Thế chiến thứ nhất và thứ hai cộng lại.”

“Và những món ăn!” Aphrodite tiếp tục. “A, chúng còn trên cả tuyệt vời. Đích thân tướng Beauregard đã hiện diện ở đó. Thật là một anh chàng trăng hoa. Lúc đó anh ta đi cùng với người vợ thứ hai, nhưng các cháu phải thấy cái cách anh ta nhìn Lisbeth Cooper…”
“Mẹ!” Piper ném chiếc bánh lúa mạch của cô cho lũ bồ câu.
“Ờ, xin lỗi,” vị nữ thần nói. “Tóm lại là, ta ở đây để giúp các con, các cô gái ạ. Ta ngờ rằng các con sẽ chẳng gặp được Hera mấy đâu. Nhiệm vụ nho nhỏ của các con khiến bà ta chẳng được chào đón là bao trong đại điện. Và các thần khác thì hơi khó ở, các con biết đấy, bị giằng xé giữa hai phần La Mã và Hy Lạp trong họ. Người bị nhẹ, người bị nặng.” Aphrodite nhìn sang Annabeth. “Ta đoán cháu đã kể cho các bạn nghe về chuyện bất hòa với mẹ cháu rồi chứ?”
Má Annabeth nóng lên. Hazel và Piper nhìn cô tò mò.
“Bất hòa?” Hazel hỏi.
“Một cuộc tranh cãi,” Annabeth đáp. “Không có gì đâu mà.”
“Không có gì sao!” nữ thần nói. “Chà, ta không biết nữa. Athena là nữ thần đậm chất Hy Lạp nhất trong các nữ thần. Dù gì đi nữa, là người bảo trợ của Athens. Khi những người La Mã xâm chiếm..ờ, họ thu nhận Athena theo kiểu nào đó. Cô ấy trở thành Minerva, nữ thần của sự khéo léo và khôn ngoan. Nhưng người La Mã có những vị thần khác được ưa chuộng hơn, đáng tin cậy hơn – như Bellona[9]…”
[9] Bellona, nữ thần chiến tranh La Mã, là một vị thần quan trọng với người La Mã, cai quản chính sách đối ngoại với các nước khác trong chiến tranh. Nữ thần này rất thân thiết với Mars-nam thần chiến tranh, thường được biết đến như người đồng hành của Mars. Bà được cho là vợ, con gái hoặc người đánh chiến xa cho Mars, nhưng thường được gọi là em gái song sinh của vị thần chiến tranh này hơn.
“Mẹ của Reyna,” Piper lẩm bẩm.
“Ừ, đúng vậy,” nữ thần đồng ý. “Ta từng có một cuộc trò chuyện dễ thương với Reyna cách đây không lâu, ngay trong công viên này. Và dĩ nhiên, người La Mã có Mars. Và sau đó là Mithras[10] – còn không phải thần Hy Lạp hay La Mã thực sự, nhưng đám lính trong binh đoàn sùng bái hắn. Riêng ta luôn thấy hắn thô bỉ và khoe mẽ khủng khiếp. Dù sao thì người La Mã gần như cho Athena tội nghiệp ra rìa. Họ tước đi hầu hết quyền năng quân sự của cô ấy. Người Hy Lạp không bao giờ tha thứ cho người La Mã về nỗi sỉ nhục đó. Và Athena cũng vậy.”
[10] Mithdras- thần của các chiến binh La Mã, là một vị thần Ba Tư được người Hy Lạp tiếp nhận nhưng lại có đền thờ chính ở Rome. Những người lính trong các binh đoàn thành Rome rất tôn sùng vị thần này. Vị thần này được sinh ra từ đá, cầm một con dao găm và một ngọn đuốc, nổi tiếng vì đã giết một con bò thiêng.
Tai Annabeth ù ù. “Dấu Hiệu Athena,” cô nói. “Nó dẫn đường tới một bức tượng, phải không ạ? Nó dẫn lối tới… tới bức tượng đó.”
Aphrodite mỉm cười. “Cháu rất khôn ngoan, như mẹ cháu vậy. Nhưng hãy hiểu rằng, các anh chị em của cháu, con cái Athena, đã kiếm tìm nó từ nhiều thế kỷ nay. Chưa ai thành công trong việc khôi phục bức tượng đó. Cho tới lúc này, họ vẫn mang mối thù với người La Mã. Mọi cuộc nội chiến… thật nhiều máu đổ và bao nhiêu trái tim tan vỡ… đều do những đứa con của Athena gây ra.”
“Chuyện đó…” Annabeth muốn nói rằng điều đó là không thể, nhưng cô nhớ lại những lời cay đắng của Athena ở Ga điện ngầm Trung tâm, lửa hận bùng cháy trong mắt cô.
“Thật lãng mạn ư?” Aphrodite gợi ý. “Phải, ta cho là vậy.”
“Nhưng mà..” Annabeth cố xua tan màn sương mờ mịt trong óc. “Dấu Hiệu Athena đó, nó hoạt động như thế nào? Nó là một loạt những gợi ý, hay dấu vết Athena để lại?”
“Ta không biết. Ta không nghĩ Athena có chủ ý tạo ra Dấu Hiệu đó. Nếu cô ấy biết bức tượng của mình ở đâu, cô ấy sẽ chỉ đơn giản là nói cho cháu biết mà tìm nó. Không… Ta đoán Dấu hiệu đó giống một vệt vụn bánh mỳ tượng trưng vậy. Nó là mối liên kết giữa bức tượng và những đứa con của nữ thần. Bức tượng muốn được tìm thấy, cháu thấy đấy, nhưng nó chỉ có thể được giải thoát bởi người xứng đáng nhất.”
“Và trong suốt hàng ngàn năm,” Annabeth nói, “không ai làm được việc đó.”
“Khoan đã,” Piper nói. “Chúng ta đang nói về bức tượng nào thế?”
Nữ thần cười. “Ồ, ta chắc là Annabeth có thể cung cấp đầy đủ thông tin cho con. Dù gì thì, manh mối mà các con cần đang ở rất gần: một tấm bản đồ tổng hợp, được truyền lại từ những người con của Athena vào năm 1861 – một kí ức bắt đầu trên hành trình của các con, ngay khi các con tới Rome. Nhưng như cháu đã nói, Annabeth Chase, chưa từng có ai theo được Dấu Hiệu Athena tới cùng. Ở đó, cháu sẽ phải đương đầu với nỗi sợ hãi lớn nhất đời cháu – nỗi sợ của tất cả con cái Athena. Và dù cháu có sống sót, cháu sẽ làm gì với phần thưởng của cháu? Cho chiến tranh hay cho hòa bình?”
Annabeth mừng vì có chiếc khăn trải bàn, vì dưới mặt bàn, chân cô đang run rẩy. “Tấm bản đồ này,” cô hỏi, “nó ở đâu ạ?”
“Mọi người!” Hazel chỉ lên bầu trời. Bay vòng vòng trên hàng cọ lùn là hai con đại bàng lớn. Ở trên cao, một chiếc chiến xa bay được kéo bởi đám pegasus đang ầm ầm lao xuống. Rõ ràng là kế đánh lạc hướng bằng cái bàn Buford không có hiệu quả – ít ra cũng chả hiệu quả được lâu.
Aphrodite phết bơ lên một cái bánh nướng xốp như thể bà ta có toàn bộ thời gian trên thế giới.
“Ồ, tấm bản đồ ở trong đồn Sumter, dĩ nhiên rồi.” Bà chỉ con dao phết bơ về phía hòn đảo ngoài bến cảng. “Có vẻ như những người La Mã đã đến nơi để ngăn các con. Ta mà là các con thì ta sẽ khẩn trương về tàu. Các con có muốn một ít bánh mang về không?”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.