Đọc truyện Dấu Chân Của Chúa – Chương 21
Khi tôi thả Rachel ra, cô lảo đảo trong con suối, mặt che giấu vẻ khiếp sợ và giận dữ. Rồi cô nhìn thấy con dao găm trong tay tôi, con dao Gerber mà tôi mua trong siêu thị Wal-Mart.
“Bước,” tôi ra lệnh. “Quay trở lại khe suối. Cô biết phải làm thế nào rồi đấy.”
Cô nhìn tôi trừng trừng trong giây lát, rồi quay đi và bắt đầu bước trên những mỏm đá. Tôi bỏ dao vào bao và tháo dây cung. Để đấu với tay súng M16 thì tôi ít có cơ hội hơn, nhưng tôi mà nhìn thấy hắn trước là tôi bắn liền.
“Đi sát vào thành bên phải.”
Cô di chuyển về bên phải, nhảy thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá khác. Khi bước theo Rachel xuống dòng suối, trong lòng tôi bộn bề những câu hỏi mà lẽ ra tôi phải hỏi cô từ trước nhưng đã không hỏi. Đó là cái ngày đầu tiên, khi cô đánh thức tôi khỏi giấc mơ về cái chết của Fielding… cô mở cửa bằng cách nào? Tôi đã khóa cửa sau khi anh chàng FedEx đi khỏi, thế mà tỉnh dậy đã thấy cánh cửa đập sầm sầm vào lẫy xích trong khi Rachel réo gọi tên tôi. Cô lại còn tìm đúng nhà tôi khi tôi chưa nói cho cô biết địa chỉ? Tôi biết một chị ở phòng Nhân sự Đại học Virginia, cô đã nói thế. Trường đại học chắc đã phải được cảnh báo về việc cung cấp thông tin cá nhân, theo các nguyên tắc của Trinity. Vậy còn chiếc máy bay do thám trên xa lộ? Làm sao chúng biết được xe nào giữa hàng ngàn xe cộ trên quãng đường từ Chapel Hill đến Nags Head để chĩa tia laser vào? Một cuộc gọi từ Rachel trong khi tôi bất tỉnh có lẽ đã giúp chúng tìm ra chiếc Audi, căn nhà ở Nags Head, mọi thứ.
Còn về Oak Ridge, cô có thể dễ dàng gọi cho chúng từ Wal-Mart ở Asheville, lúc tôi để cô đứng đợi ngoài cửa. Khi đó cô chưa biết về Frozen Head, nhưng cô có điện thoại di động. Với một chút liều lĩnh, cô có thể đã gọi NSA khi ra khỏi xe đi tiểu hồi đêm. Mặt khác tôi vẫn còn nhớ mình đã nhảy vào phòng khách ở nhà và nhìn thấy một kẻ ám sát đang chĩa súng vào lưng Rachel.
Cô dừng lại khi đến chỗ nước sâu giữa lòng suối. Tôi bám sát sau lưng cô đề phòng cô bị ngã hay chạy trốn. Khi chúng tôi vượt qua được chỗ sâu, tôi nhớ lại lúc trước tôi đã chọn cô như thế nào. Skow đã phản đối việc tôi tìm đến một bác sĩ tâm thần ngoài NSA, nhưng sự phản đối của gã có kiên quyết lắm không? Các bạn tôi ở trường đại học Virginia nói với tôi rằng cô là nhà phân tâm học trường phái Jung xuất sắc nhất nước. Liệu có phải Geli Bauer đã theo từng bước chân tôi, đã nói chuyện với tất cả những người tôi tiếp xúc? Liệu ả có chỉ đạo Rachel trước lần khám đầu tiên của tôi? Làm thế nào mà Geli dàn xếp được với cô? Kêu gọi lòng yêu nước ư? Thư nặc danh hăm dọa chăng? Không cách nào biết được.
Tôi nhoài người túm lấy ba lô của Rachel. Đã đến chỗ lòng suối bằng phẳng. Gần lên đến đường.
“Chúng ta đến gần xe rồi,” tôi khẽ nói. “Quay trái ở đây, và đừng có giẫm lên cành cây đấy.”
Cô quay lại nhìn tôi, mắt cô vẫn còn giận dữ. “Có thật anh nghĩ rằng…”
Tôi đẩy lưng cô. “Bước.”
Cô rón rén bước đi dưới những tán cây đang nhỏ nước với vẻ nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên. Thêm khoảng bốn mươi mét nữa, tôi lại tóm lấy ba lô của cô, quét mắt qua hàng cây phía trước.
“David, anh đừng nghĩ rằng tôi phản bội anh.”
Tôi gật đầu. “Không có cách giải thích nào khác.”
“Nhất định phải có.”
Tôi hé mắt nhìn qua những thân cây ướt đẫm xem có gì bất thường không. “Bọn chúng có thể đoán ra Oak Ridge, nhưng không thể là Frozen Head. Đáng lẽ tôi đã chọn giữa hàng chục địa điểm khác trong vùng núi quanh đây.”
Cô giơ tay lên vẻ bất lực “Tôi không biết phải nói với anh thế nào. Tôi chưa hề nói với ai.”
“Cô làm thế nào vào được nhà tôi hôm ấy? Hôm đầu tiên ấy?”
“Nhà anh? Tôi đã cạy khóa.”
“Vớ vẩn.”
“Anh nghĩ thế à? Cha tôi là một thợ khóa ở Brooklyn. Tôi lớn lên bên cạnh nghề ấy mà.”
Đó có thể là một câu nói dối trôi chảy, nhưng nó vang lên chân thành kỳ lạ. “Chubb là cái gì?” tôi bất thần hỏi.
“Một loại khóa rất tốt của Anh. Tôi còn biết kìm nhổ răng xoắn là gì nữa cơ. Anh có biết không?”
Tôi chẳng biết quái gì. “Quay lại bước tiếp đi. Xe cách một trăm mét phía trước.”
Rachel quay đi và bước nhanh qua đám cây. Với cây cung đã tháo dây đeo, tôi phải hết sức cẩn thận, dây cung cứ bị vướng vào cây thạch nam, còn mũi tên có ngạnh mà tôi kẹp vào cán cung cứ móc vào cành cây làm nước mưa rỏ xuống người tôi.
Thốt nhiên tôi nghe một tiếng roạt như con hoẵng to nhảy qua lùm cây ướt. Rồi tôi thấy một bóng đen vụt qua giữa hai thân cây.
“Đứng im!” một giọng đàn ông quát tháo.
Rachel dừng lại, lưng cô vừa đủ nhìn thấy giữa hai thân cây lấp lánh. Phía bên kia hiện ra một gã bận đồ nylon đen và áo chống đạn. Gã có một khẩu súng ngắn tự động và nó đang nhắm thẳng vào mặt Rachel.
“Nó đâu?” tay súng hỏi.
“Ai?”
“Cô biết mà. Thằng bác sĩ.”
Tôi đặt tên vào dây cung và chậm rãi giương cung lên.
“Tôi không biết anh đang nói chuyện gì,” Rachel nói. “Tôi ra đây săn hươu nai hoang dã.”
Câu nói dối nghe thật tự nhiên. Liệu cô có ra ám hiệu bằng tay cho tên kia không?
“Máy ảnh của cô đâu?”
Tôi kéo căng dây cung hết cỡ, chạm tới má phải của tôi và ngắm kỹ qua tầm bắn lén. Lưng Rachel che mất một phần tầm ngắm, nhưng tôi không muốn di chuyển sợ gây tiếng động.
“Tôi đánh rơi mất dưới khe suối,” cô nói. “Anh là kiểm lâm phải không?”
“Red Six gọi Red Leader,” tay súng nói vào mic trên cổ áo.
“Tôi sẽ nói!” Rachel kêu lên.
Tôi nghiêng về bên phải, căng thẳng chờ bắn.
Thằng kia ngẩng lên khỏi mic. “Được. Nó ở đâu?”
Một số loại áo chống đạn có thể ngăn được đạn nhưng không ngăn được dao nhọn. Những mũi tên có ngạnh sắc bén sẽ xuyên thủng như dao, nhưng nếu không trúng, mặt Rachel – hay mặt tôi – sẽ biến mất trong đám sương mù màu đỏ. Tôi nhằm vào hốc chữ V trên yết hầu tay súng, ngay trên cổ áo gã.
“Các anh sẽ làm gì nếu thấy anh ấy?” Rachel hỏi.
“Đó không phải việc của cô.”
“Red Six,” tiếng lạo xạo của thằng kia rõ đến mức chúng tôi nghe được. “Red Leader đây. Nhắc lại những lời anh vừa nói.”
Khi gã sờ đến nút điện đài, Rachel kêu tên tôi, và tôi buông dây cung.
Tiếng kêu của Rachel át các tiếng động khác. Trong giây lát tôi sợ đã bắn trúng cô. Cô ngã khuỵu xuống, nhưng tên kia vẫn đứng cầm súng. Sao gã không bắn? Sao mũi tên bay đi mà không phát ra tiếng động? Dây cung không rung. Tôi giật một mũi tên khác ra khỏi ống tên và lắp vội vào cung bằng những ngón tay run rẩy.
“Red Six, Red Leader đây. Nói gì thì nói đi.”
Tôi chờ khẩu súng ngắn khạc lửa, nhưng tôi lại nghe tiếng uỵch nặng nề mà tôi nhận ra ngay lập tức. Khi tôi ngẩng lên, tay súng đã biến mất. Tôi đã từng nghe hươu ngã như thế sau một phát bắn vào lưng. Đầu tiên là dây cung rung lên, rồi tiếng gối khuỵu xuống, và tiếng uỵch như một bao xi măng rơi xuống đất trong cái chết nhanh gọn. Chỉ có sự chậm trễ làm tôi bàng hoàng. Lúc ấy tên kia vẫn đứng im như tượng, không muốn ngã xuống.
“Red Leader đây, trả lời ngay.”
Mặt Rachel đầm đìa nước mắt. Tôi đẩy mạnh cô sang một bên và nhìn xuống. Thằng áo đen nằm ngửa sóng sượt. Mũi tên có ngạnh xuyên thẳng vào họng nó và đột thủng đốt sống cổ. Gã không thể nào đứng lâu hơn một giây với vết thương như thế, và điều đó cho thấy trong lúc cao trào của hành động, tôi chỉ đánh giá thời gian chủ quan mà thôi.
“Vào trong xe tải,” tôi quát Rachel.
“Nó ở đâu?”
“Ba mươi mét phía trước. Bước!”
Cô loạng choạng bước qua gã đàn ông ngã sõng soài rồi mất hút vào rừng.
“Red Six, Red Leader đây. Anh đang làm cái quái quỷ gì vậy?”
Tôi nghe có tiếng người nào nói trong mớ âm thanh nhiễu, “…vứt mẹ cái radio chết tiệt đi. Vào tận nơi tìm thằng chó đẻ ấy. Bảo nó chúng ta đang pha cà phê đợi nó ở đây. Có thể nó sẽ về đấy.”
Đôi mắt người chết vẫn mở trừng trừng nhưng đã đổi màu mờ đục như chiếc ly cổ. Tôi nhặt khẩu tự động của gã lên nhét vào túi bộ áo liền quần của mình. Xong tôi quỳ xuống xốc thi thể gã lên vai. Tôi phải bám vào một cành cây để đứng lên, nhưng tôi cũng xoay xở được và bắt đầu lết về phía xe. Ai đứng cách đấy một trăm mét chắc sẽ tưởng quái vật Bigfoot đang nặng nề lê qua rừng.
Rachel đang đứng đợi bên cạnh chiếc xe tải, mặt cô cắt không còn giọt máu. Tôi bước loạng choạng đến bên xe, ném phịch cái thây vào thùng xe. Khi cô kéo tay áo tôi, tôi xoay người cô đứng áp vào thành xe và lấy chiếc túi ngủ ra khỏi ba lô của cô. Tôi kéo khóa ra trùm lên xác chết. Để chặn cái túi hở, tôi chất cả hai chiếc ba lô nặng lên trên.
“Bước vào,” tôi quát.
Cô làm theo.
Tôi trèo lên thùng xe để lấy lại chiếc chìa khóa trong ba lô của mình, rồi lên ngồi sau tay lái, cố sức chạy ra khỏi rừng. Hai lần lao xuống bùn, tôi tưởng bị sa lầy ở đây, nhưng chiếc xe lúc lắc chầm chậm rồi cũng thoát ra khỏi rừng. Bây giờ thì đội SWAT chắc đã nghe thấy tiếng động cơ ô tô. Tôi nhấn ga hướng về phía Nhà tù Bang ở vùng núi Brushy.
Chỉ khi đã vượt qua cây số đầu tiên tôi mới nhìn Rachel. Cô ngồi tựa lưng vào cửa xe quan sát tôi như thể tôi là một bệnh nhân hung dữ.
“Chuyện của cô thế nào?” tôi hỏi. “Bọn chúng đã làm thế nào để móc nối được với cô?”
Cô không nói gì.
Khi đạt tới tốc độ gần hai trăm cây một giờ, tôi không rẽ về hướng nhà lao, mà thẳng tới Caryville, ở đấy có giao lộ với đường I-75.
“Anh nghĩ tôi đã nói cho họ biết chúng ta đang ở đâu à?” Rachel hỏi.
Tôi gật đầu.
“Tại sao tôi phải làm thế?”
“Chỉ có cô hiểu việc đó.”
“Nếu tôi muốn họ tìm được anh, tôi đã phản anh từ lâu rồi.”
Trời lại đổ mưa, những giọt mưa nặng hạt rơi rào rào trên kính chắn gió. Tôi bật cần gạt nước và cho xe chạy chậm lại.
“Có lẽ chúng chưa muốn bắt tôi cho đến khi cô thu lượm đủ thông tin về tôi. Cô có gọi cho chúng khi ở siêu thị Wal-Mart không?”
Cô nhìn tôi vẻ khinh miệt. “Lúc thằng cầm súng hỏi tôi anh ở đâu, tôi đã có thể bảo nó anh đang ở ngay sau lưng tôi.”
“Cô biết tôi đang nhắm thẳng tên vào lưng cô.”
Cô thất vọng cau mặt lại. “Nghĩ xem, David. Vừa nãy thôi tôi có thể đập một hòn đá vào đầu anh khi anh đặt cái xác vào trong xe rồi.”
“Tôi sẽ nghĩ sau. Bây giờ tôi phải chạy xe đã.”
Chúng tôi chạy một đoạn trong im lặng, nhắm thẳng về phía đường ranh giới phân chia hai hạt Morgan và Anderson. Một chiếc cầu hiện ra trước mặt. Mặc dù trời mưa, nhưng bên dưới cầu nước chảy không nhiều, tuy vậy hẻm núi lại sâu, do dòng nước chảy từ các mỏ lộ thiên phía trên xuống năm này qua năm khác. Còn khoảng một phần ba quãng đường thì đến nơi, tôi cho xe táp gần thành cầu và dừng lại.
Rút chìa khóa ra khỏi ổ, tôi đi ra và trèo lên thùng xe. Chiếc túi ngủ đậy trên xác ướt đẫm nước mưa. Tôi đá túi qua một bên, vật cái xác lên vai, ráng sức đứng lên và ném nó qua thành cầu. Nó va phải cành cây rồi rơi đập xuống mấy tảng đá phía dưới. Chiếc túi ngủ đẫm máu, tôi cũng ném xuống luôn. Xong tôi trở vào buồng lái lái tiếp, cố giữ tốc độ một trăm trên con đường ngoằn ngoèo.
“Tôi chưa hề biết có điều đó trong anh,” Rachel lặng người nói. “Tôi không thể tin anh là người đã viết xúc động đến thế về tình thương và đạo đức.”
“Đây là bản năng sống còn. Mọi người đều có. Kể cả cô nữa.”
“Không,” cô nói khẽ. “Tôi sẽ không giết người.”
“Cô sẽ phải giết.” Tôi nhìn thẳng vào mặt cô. “Chẳng qua cô chưa rơi vào đúng hoàn cảnh đó thôi.”
“Anh muốn nghĩ gì thì nghĩ. Tôi hiểu tôi.”
Con đường dần trở nên thẳng tắp. Tôi tăng tốc đến hơn một trăm và thôi không nghĩ đến Rachel nữa. Tôi lại cảm thấy cô đơn, cô đơn như cái ngày vừa mất Fielding. Tôi đã không nhận ra Rachel từng là nguồn an ủi lớn đến mức nào. Điều khó chấp nhận nhất trong chuyện phản bội của Rachel là cô chưa bao giờ coi tôi là ai khác ngoài một bệnh nhân. Một kẻ ốm yếu và bị lừa dối.
Một luồng hơi nóng cuộn dâng trong tôi, kéo theo sự mệt mỏi rã rời. Tôi hy vọng đó chỉ là cảm giác tức thời sau khi hưng phấn quá mức, nhưng khi răng tôi va vào nhau lập cập, tôi mới biết là không phải. Tôi sắp ngất. Nhưng lần này tôi không thể tin tưởng để Rachel chăm sóc tôi.
“Anh sao thế?” cô hỏi, nhìn tôi chằm chằm. “Anh đang đánh võng giữa đường kìa.”
“Không sao.”
“Tỉnh lại đi! Anh chạy sang làn trái rồi.”
Tôi quặt mạnh tay lái sang phải. Có lẽ việc cố sức ném cái xác đã làm tôi hoàn toàn bất lực trước sự tấn công của cơn bệnh. Lần này sẽ không từ từ đâu. Tôi phải dừng xe lại thôi.
“Đỗ lại!” Rachel thét lên.
Cố gắng hết sức để mở mắt, tôi ngoặt xe vào một con đường rừng nhỏ, cố sức chạy thêm một trăm mét nữa rồi mới dừng. Tôi dừng xe trước biển báo ĐỖ, rồi lấy khẩu súng tự động của người chết từ bộ áo liền quần ra, chĩa vào Rachel:
“Xuống xe.”
“Cái gì?”
“Xuống xe! Và bỏ điện thoại di động của cô lại đây. Làm đi!”
Cô nhìn ra ngoài cửa kính như thể bị bắt phải nhảy xuống vực. “Anh không thể để tôi ở ngoài đây được.”
“Tôi sẽ cho cô vào khi tôi tỉnh dậy. Nếu cô còn ở đây.”
“David! Bọn chúng sẽ tìm thấy ta mất. Hãy để tôi lái!”
Tôi hất khẩu súng về phía cô. “Làm theo tôi bảo!”
Cô để điện thoại trên băng ghế, trèo ra khỏi xe và đóng cửa lại. Đôi mắt đen của cô nhìn tôi qua lớp kính cửa đọng nước mưa. Khi tôi nhoài ra khóa cửa, một đợt sóng đen lại cuộn dâng.
Một cánh cổng thành cao ngất án ngữ trước mặt tôi, một vòm cung đơn sơ trong bức tường đá màu vàng. Dân chúng xếp hàng trên đường, một số người vẫy tay reo mừng, số khác thì khóc. Người ta giữ lừa để tôi leo lên. Chủ nghĩa tượng trưng là quan trọng. Cần thực hiện một lời tiên tri.
“Đây là cửa Đông, thưa Ngài. Ngài có chắc không?”
“Chắc.”
Tôi cưỡi lừa đi qua cổng thành. Có tiếng tù và. Binh lính La Mã nhìn tôi cảnh giác. Phụ nữ chạy qua phố đến sờ tay vào áo choàng của tôi, vào tóc tôi. Những khuôn mặt trên đường phố hẹp này là những khuôn mặt đói khát, không phải đói ăn, mà đói hy vọng, đói lẽ sống.
Con đường biến mất và trở thành thánh đường với những cột trụ. Tôi ngồi trên bậc thềm, khẽ trò chuyện với đám đông. Họ lắng nghe với vẻ mặt tò mò, hoang mang. Họ không nói thật những suy nghĩ của mình. Trong đầu họ chỉ có chung niềm trăn trở: “Có phải ông ấy đấy không? Có thể thế không?”
“Các người biết cách giải thích sự xuất hiện của mặt đất và bầu trời,” tôi nói với họ. “Thế tại sao các người không biết cách giải thích hiện tại? Ta đã gieo lửa trên thế gian này, và ta sẽ canh chừng đến khi lửa bốc lên rừng rực.”
Tôi nhìn các gương mặt. Những lời lẽ ấy tác động đến mỗi người một khác. Đàn ông thì chộp lấy thứ họ cần, vứt bỏ những thứ khác. Một vài người hỏi tôi từ đâu đến. Câu trả lời tốt nhất là một câu đố.
“Chẻ một thanh củi ra có ta ở đó. Nâng một tảng đá lên, các ngươi sẽ thấy ta.”
Tôi rời khỏi thánh đường và bước đi trong những con ngõ nhỏ của thành phố. Tôi muốn được yên tĩnh một lúc nhưng từ khắp phía người ta xáp đến hỏi chuyện. Các tăng lữ đến gần và hỏi tôi. Mù thì hay trông.
“Ai cho ông quyền đến đây nói và làm những chuyện này?” họ hỏi.
Tôi mỉm cười. “Thánh John rửa tội cho mọi người. Quyền của ông ta đến từ trời hay từ người?”
Tăng lữ trả lời trong nỗi lo sợ của đám đông. “Điều này chúng tôi chưa rõ.”
“Vậy ta sẽ không nói cho ngươi hay ai cho ta quyền làm những điều này.”
Tôi bỏ lại đám đông sôi sục trên đường phố, nhưng không xong. Họ bám theo tôi lên đồi và gạn hỏi đến cùng. Câu trả lời của tôi khiến họ phát điên.
“Ta chỉ còn ở lại với các ngươi trong giây lát,” tôi nói. “Sau đó ta lại trở về nơi mà ta từ đó đến đây. Nơi ta đến, các ngươi không thể đến. Các ngươi tìm ta nhưng không thể thấy ta. Các ngươi thuộc về thế gian này. Ta thì không.”
Họ bảo tôi là kẻ nói dối.
“Các ngươi chỉ còn lại chút ánh sáng,” tôi nói. “Hãy bước đi trong khi còn ánh sáng, xua bớt bóng tối trong mình. Ai bước theo ta kẻ ấy sẽ không bao giờ còn bước trong bóng tối.”
Ngay khi tôi nhìn họ, tôi thấy ở họ cái nhìn kết tội. Tuy vậy tôi không thể quay khỏi con đường của mình. Trong mắt một tăng lữ tôi thấy sự căm ghét, và cả sự kết tội hắn dành cho tôi… một sự trừng phạt kiểu La Mã. Nhưng đau đớn không phải là nỗi sợ lớn nhất của tôi. Một người mạnh mẽ phải chịu được đau đớn. Cái mà tôi không thể chịu đựng là nỗi cô đơn, cô đơn lần nữa đến muôn đời…
Rachel đang kêu thét. Tôi hoảng loạn chớp mắt, rồi cánh cửa bên trái tôi bị giật tung ra. Tôi cố quay lại xem là ai thì lại chìm vào cơn buồn ngủ ập đến như cát lún.