Đọc truyện Cuộc Săn Cừu Hoang – Chương 7: PHẦN 4 – CUỘC SĂN CỪU HOANG I: Trước người đàn ông lạ mặt
Có vô vàn lý do giải thích tại sao một cá nhân lại có thể thường xuyên tiêu thụ một khối lượng rượu lớn, nhưng thực tế thì tất cả đều rút lại thành một điều.
Năm năm trước, tay đối tác của tôi là một gã say vui vẻ. Ba năm sau, hắn trở thành một gã say ủ rũ. Và đến mùa hè vừa rồi hắn dò dẫm ở ngưỡng cửa nghiện ngập. Với hầu hết những kẻ uống rượu thường xuyên, hắn là loại người khá tử tế, bình thường, nếu không muốn nói là đặc biệt sắc sảo khi tỉnh táo. Tất cả mọi người đều nghĩ về hắn như một người khá tử tế, bình thường, tuy không hẳn là đặc biệt sắc sảo. Hắn cũng nghĩ vậy. Đó là lý do tại sao hắn uống rượu. Vì có vẻ như khi có tí cồn trong cơ thể, hắn có thể hoàn toàn trở thành hiện thân của cái ý tưởng loại người như trên.
Lúc đầu mọi việc đều ổn. Nhưng cùng với thời gian và lượng rượu tăng dần lên, những thay đổi rất nhỏ xuất hiện, và những thay đổi rất nhỏ dần dần tạo thành một rãnh sâu. Cái sự bình thường và khá tử tế của hắn đã vượt hắn một quãng xa. Một trường hợp điển hình. Tuy nhiên thường thì người ta không nghĩ về mình như là một trường hợp điển hình. Và loại người không-hẳn-là-đặc-biệt-sắc-sảo lại càng nghĩ ít như vậy hơn. Cố gắng tìm lại những gì đã mất, hắn chỉ càng lang thang trong một màn sương cồn thậm chí còn dày đặc hơn.
Tuy thế, ít ra là trong lúc này đây, hắn là một gã đàn ông bình thường cho tới khi mặt trời lặn. Và vì từ nhiều năm nay tôi đã cố gắng một cách có ý thức không gặp hắn sau khi mặt trời lặn, đối với tôi hắn cũng đủ bình thường. Ngay cả như vậy, tôi biết quá rõ là sau khi mặt trời lặn hắn trở nên không còn bình thường nữa, và bản thân hắn cũng biết thế. Vì không ai trong hai người chúng tôi từng động chạm đến đề tài này, chúng tôi vẫn ăn ý với nhau như trước. Chỉ có điều chúng tôi không còn là bạn như xưa.
Tuy thế không thể nói tôi hiểu hắn một trăm phần trăm (thậm chí bảy mươi phần trăm cũng là tốt rồi), nhưng dù gì đi nữa, hắn vẫn là người bạn duy nhất thời đại học của tôi, và không dễ dàng gì khi chứng kiến hắn trở nên sa ngã từ một góc độ gần. Rốt cuộc, có lẽ đó là sự tàn phá của thời gian.
Lúc tôi đến văn phòng thấy hắn đã làm một ngụm whisky. Chừng nào chỉ là một ngụm, hắn có thể là người bình thường, nhưng không thể nào biết được khi nào hắn sẽ tăng cái bình thường đó lên thành hai. Khi điều đó xảy ra, tôi biết chúng tôi sẽ phải ai đi đường nấy.
Tôi đang đứng trong luồng khí lạnh từ máy điều hòa để cho ráo mồ hôi, miệng nhấp một ly trà lúa mạch mát lạnh. Tôi không nói gì, hắn không nói gì. Mặt trời buổi chiều gay gắt đổ lên tấm vải sơn lót nhà những tia nắng đầy ảo giác. Dưới kia, trên khoảng đất xanh tươi của công viên, mọi người nằm dài trên cỏ tắm nắng. Tay đối tác của tôi gõ gõ đầu cây bút bi lên lòng bàn tay phải.
“Tôi nghe nói cậu ly dị,” hắn mở đầu.
“Đó là tin cách đây hai tuần rồi,” tôi nói, vẫn còn nhìn chằm chằm ra cửa sổ. Tôi bỏ kính râm ra, và mắt tôi thấy đau.
“Thế tại sao cậu lại ly dị?”
“Lý do cá nhân thôi.”
“Tôi biết,” hắn nói. “Chưa bao giờ nghe nói đến ly dị vì lý do khác ngoài lý do cá nhân.”
Tôi không nói gì. Chẳng phải chúng tôi đã có một thỏa thuận không lời từ trước đến giờ là không bao giờ động chạm đến chuyện riêng tư của nhau đó sao?
“Tôi không có ý soi mói,” hắn nói, “nhưng cô ấy cũng là bạn tôi. Tin đó đến bất ngờ quá. Tôi cứ nghĩ hai người lúc nào cũng thân thiết.”
“Chúng tôi lúc nào cũng thân thiết. Có phải chúng tôi chia tay nhau một cách hằn học đâu.”
Tay đối tác của tôi cười kiểu cách, tiếp tục gõ bút lên lòng bàn tay. Hắn mặc áo sơ mi xanh thẫm, đeo cà vạt đen, mái tóc chải gọn gàng, xức nước hoa. Trong khi đó tôi mặc áo phông in hình Snoopy đang vác ván lướt sóng, quần bò cũ hiệu Levi”s đã giặt nhiều đến mức không còn màu gì nữa, và đi giày thể thao bẩn. Đối với bất kỳ ai, rõ ràng hắn mới là kẻ bình thường.
“Cậu nhớ khi cô ấy và hai ta làm việc cùng nhau chứ?”
“Tôi nhớ rất rõ,” tôi nói.
Tôi đi khỏi chỗ máy điều hòa, đến giữa phòng, ngồi phịch xuống chiếc xô pha Thụy Điển bọc nhung lông xanh da trời. Tôi rút một điếu Pall Mall đầu lọc khỏi hộp thuốc lá dành cho khách đặc biệt và châm thuốc bằng chiếc bật lửa nặng đặt bàn.
“Thì sao?” tôi nói.
“Tôi nghĩ chúng ta đã làm việc quá sức mình.”
“Cậu muốn nói đến công việc quảng cáo và tạp chí?”
Tay đối tác của tôi gật đầu, mặc dù có lẽ phải khó khăn lắm hắn mới thú nhận điều đó. Tôi nâng chiếc bật lửa trong tay, vặn núm điều chỉnh ngọn lửa và cảm thấy thương hại hắn.
“Được rồi, tôi biết cậu muốn nói gì,” tôi nói, để lại chiếc bật lửa vào chỗ cũ trên bàn, “những hãy nhớ rằng tôi không phải là người đem lai việc kinh doanh này, và làm công việc này cũng không phải ý tưởng của tôi. Là cậu tự dấn vào. Cậu là người muốn thử nghiệm.”
“Do hoàn cảnh bắt buộc. Chúng ta không có gì…”
“Việc đó kiếm ra tiền.”
“Tất nhiên là việc đó kiếm ra tiền. Cho phép chúng ta dọn đến một văn phòng rộng hơn và tuyển thêm nhân viên. Tôi mua xe mới, tậu một căn hộ, cho hai đứa con nhỏ học tại một trường đắt tiền. Tôi nghĩ là không tồi đối với người ba mươi tuổi.”
“Cậu xứng đáng được hưởng những điều đấy. Chả có gì phải xấu hổ cả.”
“Ai xấu hổ?” tay đối tác của tôi nói, lấy lại cây bút bi đã bay qua bàn hắn và chọc chọc bút vào giữa lòng bàn tay. “Nhưng cậu biết đấy, điều đó có vẻ không thật. Ngày trước hai thằng chúng mình tay trắng nợ nần chồng chất, cố nẫng được mấy vụ dịch dọt, phát tờ rơi quảng cáo dọc sân ga.”
“Giờ thì điều gì ngăn cản chúng ta phát tờ rơi quảng cáo nếu chúng ta muốn?”
Tay đối tác ngẩng lên nhìn tôi. “Này, tôi không đùa đâu.”
“Tôi cũng vậy.”
Yên lặng bao trùm lấy chúng tôi.
“Nhiều thứ đã thay đổi,” tay đối tác của tôi nói. “Tốc độ cuộc sống, tư duy của chúng ta. Trên hết, chúng ta thậm chí không biết được chúng ta thực sự kiếm được bao nhiêu. Nhân viên kế toán thuế đến lo hết mấy vụ giấy tờ kinh khủng ấy, nào là miễn thuế, trừ thuế, xóa nợ và còn gì gì nữa.”
“Giống như những chỗ khác thôi.”
“Tôi biết, tôi biết. Đó là những thứ chúng ta phải làm và đang làm. Nhưng ngày xưa làm thấy thích hơn.”
“Trông kìa bóng tối của nhà tù chưa bao giờ nhắc đến. Giờ nhân lên gấp bội quanh những tháng ngày của ta.” Những vẫn thơ của một bài thơ bỗng nhiên buột ra khỏi miệng tôi.
“Lại gì nữa thế?”
“Không có gì cả, xin lỗi nhé. Cậu đang nói cái gì kia?”
“Tôi cứ cảm thấy như chúng ta đang dính líu vào một dạng bóc lột.”
“Bóc lột ư?” Tôi ngẩng lên ngạc nhiên.
Khoảng cách giữa hai chúng tôi là hai thước, và do độ cao khác nhau của hai chiếc ghế, đầu hắn nhô cao hơn đầu tôi khoảng hai mươi lăm centimet. Một bức thạch bản treo phía sau hắn. Bức thạch bản mới tôi chưa bao giờ thấy trước đây, có hình một con cá có cánh. Con cá trông không mãn nguyện với đôi cánh. Có lẽ nó không chắc phải dùng đôi cánh như thế nào.
“Bóc lột ư?” tôi lẩm bẩm với chính mình.
“Bóc lột.”
“Và ai, xin làm ơn cho biết, đang làm cái công việc bóc lột ấy?”
“Những kẻ có những mối quan tâm khác nhau, từng chút một.”
Tôi vắt tréo chân trên xô pha màu xanh da trời và nhìn chằm chằm vào màn biểu diễn kịch tính của bàn tay hắn với cây bút bi, giờ đang nằm ở đúng tầm mắt tôi.
“Dù sao thì, cậu có nghĩ là chúng ta đã thay đổi?” tay đối tác của tôi hỏi.
“Chúng ta vẫn vậy thôi. Không ai hay cái gì thay đổi hết.”
“Cậu thật sự nghĩ thế sao?”
“Tôi thật sự nghĩ thế. Bóc lột không tồn tại. Đó chỉ là chuyện cổ tích. Ngay cả cậu cũng không tin là tiếng kèn của Cứu Thế Quân[1] trên thực tế có thể cứu rỗi thế giới, đúng không? Tôi nghĩ là cậu cả nghĩ quá thôi.”
“Thôi được rồi, có lẽ tôi đã cả nghĩ quá,” tay đối tác của tôi nói. “Tuần trước cậu – ý tôi là chúng ta – viết lời quảng cáo cho loại bơ thực vật ấy. Và đó không phải một lời dẫn tồi. Mọi thứ nói chung đều ổn. Nhưng nói tôi nghe, cậu đã lần nào ăn bơ thực vật trong mấy năm qua chưa?”
“Không, tôi ghét bơ thực vật.”
“Tôi cũng vậy. Đó là ý tôi muốn nói. Ít ra thì, ngày trước chúng ta làm công việc chúng ta tin, và chúng ta tự hào về nó. Giờ không còn như thế nữa. Chúng ta chỉ cho ra những thứ ngớ ngẩn.”
“Bơ thực vật tốt cho ta. Đó là chất béo thực vật, có độ cholesterol thấp. Nó phòng chống các bệnh về tim và gần đây vị của nó không tồi. Lại rẻ và giữ được lâu nữa.”
“Vậy ăn thứ đó đi.”
Tôi ngồi thụp sâu trong chiếc xô pha, duỗi dài chân tay.
“Điều đó không quan trọng,” tôi nói. “Cho dù chúng ta có ăn bơ thực vật hay không thì cũng thế thôi. Việc dịch dọt chán ngắt hay một lời dẫn quảng cáo lừa lọc, về cơ bản là giống nhau. Tất nhiên là chúng ta cho ra những thứ ngớ ngẩn, nhưng nói tôi nghe, chỗ nào người ta làm việc với con chữ một cách thực chất? Thôi đi nào, không ở đâu có chuyện làm việc trung thực hết. Cũng giống như không có chuyện thở trung thực hay đái trung thực.”
“Ngày xưa cậu ngây thơ hơn.”
“Có lẽ vậy,” tôi nói, dập điếu thuốc vào gạt tàn. “Và chắc chắn ở đâu có một thị trấn ngây thơ nơi có một tay hàng thịt ngây thơ xẻ một miếng thịt hun khói ngây thơ. Vậy nếu cậu nghĩ nốc whisky vào giữa buổi sáng là ngây thơ thì cứ tiếp tục đi, muốn nốc bao nhiêu thì tùy,”
Căn phòng bị bao trùm tiếng bút bi gõ cộp cộp lên bàn một lúc lâu.
“Xin lỗi, tôi không có ý muốn nói vậy,”
“Không sao,” tay đối tác của tôi nói. “Tôi chắc chắn không thể phủ nhận điều đó.”
Bộ điều chỉnh nhiệt của máy điều hòa phát ra âm thanh kỳ lạ. Buổi chiều hôm nay đặc biệt yên tĩnh.
“Tự tin chút đi,” tôi nói. “Chẳng phải chúng ta đã tự mình tiến xa đến mức này ư? Chỉ với hai đứa chúng ta. Chúng ta chỉ khác những câu chuyện thành đạt hay ho ấy một điểm thôi: họ thì có người ủng hộ và danh hiệu.”
“Nghĩ mà xem, chúng ta từng là bạn,” tay đối tác của tôi nói.
“Chúng ta vẫn là bạn của nhau,” tôi nói. “Chúng ta đã đi cả quãng đường cùng nhau.”
“Tôi không muốn thấy cậu ly dị.”
“Tôi biết,” tôi nói. “Nhưng chúng ta bắt đầu nói chuyện về cừu được chưa?”
Hắn gật đầu. Hắn đặt chiếc bút bi lại trong khay và dụi mắt.
“Người đàn ông ấy tới lúc mười một giờ sáng nay,” tay đối tác của tôi bắt đầu.
Chú thích
[1] Cứu Thế Quân, hay Đạo quân Cứu thế (1865) là một giáo phái Tin lành thuộc cộng đồng Kháng Cánh, nổi tiếng với các hoạt động từ thiện quốc tế, trụ sở đặt tại London, Anh.