Bạn đang đọc Cung Khuyết Có Giai Nhân FULL – Chương 106: Thái Hậu Đương Triều
Edit: Chiêu Hoàng Thái phi
Beta: Kỳ Hoàng Thái phi
Nhận thấy có bóng người ra cửa đại điện, bên ngoài lần lượt có người ngẩng đầu lên.
Hoàng hậu đứng ở trong cửa điện, khuôn mặt tái nhợt.
Có lẽ do bóng sáng gây ra, thân hình của nàng nhìn gầy đi một vòng lớn, yếu ớt mỏng manh đứng nơi đó.
“…!Mẫu hậu!” Dư Hiển phản ứng trước tiên, kéo Dư Diệu cùng đứng dậy, tiến lên đỡ nàng.
Cố Thanh Sương hoảng hốt, hạ mắt nhìn bọn nhỏ.
Mắt hai đứa đỏ ửng, lại an ủi ngược lại nàng,
Dư Hiển nói: “Mẫu hậu nén bi thương.
Phụ hoàng…!Phụ hoàng bệnh lâu như vậy, vốn cũng đã khó qua nổi.
Hôm nay cưỡi hạc về Tây, ngược lại bớt đau đớn.”
Dư Diệu cũng nói: “Phụ hoàng đã qua đời, mẫu hậu đừng buồn để bị bệnh.
Không thì bọn con sẽ…!sẽ không biết nên làm thế nào.”
Hoàng đế đột nhiên băng hà, Tân đế sẽ trở thành người chèo chống triều đình.
Nếu Tân đế còn nhỏ, Thái hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu sẽ là người đáng tin cậy của Tân đế.
Cố Thanh Sương bình tĩnh lại, đưa mắt nhìn ra, các phi tần đang cúi đầu khóc.
Xa xa có thể nhìn thấy Đại Công chúa và Nhị Công chúa đang chạy vội về phía này.
Tịnh Hi của nàng đang được nhũ mẫu bế trong ngực, nó vốn đã khóc sướt mướt thành giọt nước mắt nhỏ, thấy các tỷ tỷ đến, con bé giãy giụa muốn xuống khỏi ngực nhũ mẫu: “Ta muốn tỷ tỷ…”
Cố Thanh Sương bước đến vài bước, bế Tịnh Hi: “Tiểu Hi có sợ không?”
Tịnh Hi đang giàn giụa nước mắt ngẩn người, oa một tiếng khóc dữ dội hơn: “Sợ ạ! Phụ hoàng đi rồi, con không có phụ hoàng rồi!”
Con bé là người có tình cảm sâu đậm nhất với Hoàng đế trong số bốn Hoàng tử, năm Công chúa trong cung.
Mấy Công chúa còn lại thời gian gặp phụ thân không nhiều, tuy Hoàng đế cũng đối xử với họ cũng tốt nhưng tình cảm không sâu; các Hoàng tử đương nhiên càng sớm cảm nhận được phụ thân bạc bẽo, đặc biệt là sau khi Vinh Phi và Hoàng hậu liên tục thất thế, mỗi người trong họ lo nghĩ cho mẫu thân của mình còn không kịp.
Chỉ có Tịnh Hi, vì Cố Thanh Sương trước là sủng phi, sau là Hoàng hậu, được Hoàng đế bế trong ngực mà lớn lên.
Tranh đấu giữa các Hoàng tử cũng không liên quan gì đến con bé, nó ngày ngày vui vẻ, không có gì ưu sầu.
Bây giờ Hoàng đế qua đời, đương nhiên con bé cũng là người đau buồn nhất.
Cố Thanh Sương than một tiếng, dịu dàng nói với nó: “Mấy ngày tới e là mẫu hậu sẽ rất bận, nếu Tiểu Hi sợ thì hãy đi theo Tam ca ca.
Nếu còn sợ nữa thì cho cung nhân đến tìm mẫu hậu, được không?”
Tịnh Hi thút thít gật đầu.
Con bé quay người đi, rồi lại lắc đầu, nhỏ giọng ngập ngừng: “Con không sao, mẫu hậu không cần phải lo lắng cho con, con không phải là trẻ con!”
“Con không cần phải cố gắng kiên cường.” Cố Thanh Sương sờ trán con bé, cảm thấy hơi chua xót.
Trẻ con trong cung, hiểu chuyện quá sớm.
Mấy ngày sau đó, nàng cũng thật sự bận đến chân không chạm đất.
Đầu tiên là chuyện Thái hậu.
Từ khi chuông tang vang lên Thái hậu đã bất tỉnh, sau đó bắt đầu sốt cao, chậm chập chưa tỉnh lại.
Dư Diệu làm theo quy định của tổ tiên, sau khi Hoàng đế băng hà một ngày đã tôn bà lên làm Thái hoàng Thái hậu.
Nhưng đến ngày thứ ba, Thái hoàng Thái hậu cũng nhắm mắt xuôi tay.
Tiếng chuông trên lầu gác lại phải gõ vang lần nữa, lần thứ hai trong cung nhuốm màu đau thương.
Chính điện của Tử Thần điện và Di Ninh cung tạm thời đều trở thành nơi đặt linh cửu, tông thân, quan lại, phi tần đều phải đến khóc tang, ra ra vào vào, không lúc nào ngừng nghỉ.
Lễ Bộ bận rộn việc an bày lễ tang, Tân đế còn nhỏ, mọi chuyện từ lớn đến nhỏ đều không thể không trình cho Thái hậu xem qua.
Cố Thanh Sương xốc lại tinh thần xử lý những chuyện này, để bày tỏ lòng thương nhớ.
Thái hoàng Thái hậu đối xử với nàng cũng không tệ.
Còn Đại Hành Hoàng đế…
Thật kì lạ, hắn đã đi nhiều ngày rồi, nàng vẫn thường không dằn lòng được mà nhớ đến những điểm tốt của hắn.
Nàng nhớ con đường hẹp quanh co ở Thiên Phúc tự, Thiện phòng giữa rừng, nhớ lại đêm tuyết kia.
Nếu như nếm kĩ, tựa như uống một ngụm trà đặc, trong đắng có chút ngọt.
Nhưng cuối cùng nàng không hề hối hận khi đi đến ngày hôm nay.
Hắn luôn là người bạc bẽo, chỉ có hắn đi rồi, nàng mới có thể yên tâm nhớ lại những điểm tốt của hắn.
Nếu như hắn còn sống, lúc nào nàng cũng phải tập trung tinh thần, không dám nói lỡ chữ nào trước mặt hắn.
Với nàng mà nói, cuộc sống trước mắt cuối cùng đã nhẹ nhàng hơn nhiều.
So với việc mỗi ngày chạm vành tai tóc mai cùng hắn, nàng sẵn lòng đứng trước lăng của hắn nhớ lại chuyện cũ hơn.
Sau khi quàng linh cửu 20 ngày, đã tới ngày đưa tang.
Ngày đó khắp kinh thành trắng xóa, tiếng khóc kéo dài từ cửa cung đến Đế lăng.
Cố Thanh Sương nhìn theo quan tài được đưa vào địa cung, cùng với Dư Diệu hành đại lễ.
Ở phía sau nàng, các quan lại cùng bái, dựa theo quy định, nàng và Dư Diệu đứng dậy trước bọn họ một bước, xoay người nhìn các quan to quyền quý chắp tay hành đại lễ, nàng chợt cảm thấy cả người thư thái.
Cuối cùng đã chân chính đi tới bước này.
Nàng đọc sách sử, chính thư, tấu sớ nhiều năm như vậy, sau này sẽ giúp Dư Diệu xử lý tốt việc triều chính.
Đợi đến khi Dư Diệu đại hôn tự mình chấp chính, nàng cũng vui mừng hoàn toàn giao thiên hạ này cho nó.
Nhưng trước đó, nàng muốn hoàn thành tâm nguyện của bản thân.
Nàng muốn chấm dứt cơn ác mộng đã đeo bám mình hơn hai mươi năm.
Ngày thứ hai sau nghi thức tang lễ, Cố Thanh Sương cùng Dư Diệu đến Lãnh cung.
Chuyện Thi thị đề cập, nàng đã thuyết phục Dư Diệu trước một bước, Dư Diệu có chút không muốn, nhưng cuối cùng vẫn gật đầu.
Ngày Tiên đế qua đời, nàng đã mang một đạo ý chỉ ra khỏi Tử Thần điện.
Tuy không có con dấu, lại viết trên một chiếc khăn gấm màu vàng mà Tiên đế thường dùng bên người, vừa nhìn chữ đã biết là do Tiên đế tự tay viết, có thể đây là một đạo mật chỉ.
Trong mật chỉ muốn Dư Diệu sắp xếp nơi Thi thị rời đi: “Núi cao sông dài, tùy ý nàng đi.”
Đạo mật chỉ này khiến lòng Dư Diệu thoải mái đôi chút.
Nó nghĩ nếu phụ hoàng đã có thể buông oán hận cũ cho mẫu thân một phần tự do, vậy mình cũng không nên vì suy nghĩ cá nhân mà giam cầm mẫu thân ở nơi đây.
Hôm nay đến, nó chỉ muốn gặp lại mẫu thân lần nữa.
Cố Thanh Sương không quấy rầy mẫu tử hai người, một mình đến phòng trống bên cạnh uống trà chờ đợi.
Suốt một ngày, phòng bên cạnh thỉnh thoảng có tiếng cười, tiếng đọc sách truyền đến, đối với đôi mẫu tử bị tách ra nhiều năm, dường như trong một ngày đã bù lại tất cả cười vui của mấy năm qua.
Lúc mặt trời ngả về Tây, Dư Diệu đến tìm nàng.
Cố Thanh Sương thấy hốc mắt nó đỏ hoe, nàng bước lên muốn an ủi thằng bé.
Nhưng nó lắc đầu: “Con không sao, mẫu thân nói với con ít đạo lý, con nghĩ bà ấy nói đều đúng, chỉ là nhất thời thấy khó chịu thôi…!Tự con bình tĩnh lại là được ạ.
Có phải mẫu hậu còn có chuyện muốn nói với bà ấy không? Con có thể về trước.”
Cố Thanh Sương nghĩ một lát: “Vậy con chờ ta một lát, ta sẽ ra ngay.”
“Không cần đâu ạ.” Dư Diệu trưng ra khuôn mặt tươi cười: “Mẫu hậu lo lắng gì ạ? Con không sao đâu.
Ừm…!Con đi tìm Tiểu Hi, nghe nói mấy ngày nay con bé luôn bám lấy mẫu hậu, hôm nay mẫu hậu theo con đến đây cả ngày, sợ là con bé khóc sắp ngất luôn rồi.”
“Cũng được.” Cố Thanh Sương mỉm cười, đành để cho nó đi.
Dư Diệu dẫn theo cung nhân rời đi, để lại cho nàng bóng lưng nhỏ gầy mà kiên cường.
Thở ra một hơi, Cố Thanh Sương bước ra cửa đến phòng của Thi thị ở sát vách.
Thi thị đang ngồi trên mép giường gấp y phục, nghe thấy tiếng bước chân thì ngẩng đầu lên.
Không đợi nàng mở miệng, Thi thị đã nói trước: “Chờ ta đến Thục Trung rồi…!Sẽ đổi tên thành An Vô Hương, ngươi xem tên này có hay không?”
Thi thị rất thích hoa hải đường, trong quá khứ xa xôi, còn rất thích một vị văn nhân.
Mà vị văn nhân kia cả đời có ba nỗi hận, hận đầu tiên là hải đường không có hương.
Đến khi đội mũ [1] lấy chữ An làm họ, nàng ta nghĩ…
[1] Đội mũ (冠): Thời phong kiến, con trai đến 20 tuổi sẽ làm lễ đội mũ (hay cập quan).
“Nơi nào an lòng, đó là quê ta?” [2] Cố Thanh Sương đọc tám chữ này trước một bước.
[2] Hương trong tên “An Vô Hương” nghĩa là quê hương, phát âm giống với hương trong hương hoa.
An Vô Hương ngẩn ra, chợt cười rộ lên: “Đúng vậy.”
“Rất êm tai.” Cố Thanh Sương gật đầu một cái, đi đến mép giường ngồi xuống, giúp nàng xếp y phục: “Dư Diệu bảo ngươi nói với nó ít đạo lý, là gì vậy?”
An Vô Hương cười nói: “Ta nói với nó ta quyết ý rời đi, cũng không phải là không thương nó.
Nhưng ta không chỉ là mẫu thân của nó, ta cũng là một “người”, ta có cuộc sống mà bản thân mình muốn, nó không phải là tất cả của ta.”
Cố Thanh Sương trầm ngâm suy nghĩ, gật đầu: “Rất đúng.” Rồi lại hỏi: “Đến Thục Trung, ngươi muốn làm gì?”
“Ta muốn mở Nữ học [3].” An Vô Hương bật thốt.
[3] Nữ học (女学): Trường học dành cho nữ.
Cố Thanh Sương hơi bất ngờ: “Nữ học?”
“Ừ.” An Vô Hương gật đầu: “Cho dù thói đời này nữ nhân chỉ có thể dựa vào nam nhân để sống, đọc nhiều sách đôi chút cũng có thể có nhiều lối ra.
Nhất là những bé gái nhà nghèo ngoài kia, không học thì sớm muộn gì cũng không thoát khỏi mệnh bị gả ra ngoài đổi lấy tiền sính lễ cho huynh đệ, học nhiều một chút, có thể buôn bán, không thì dựa vào chữ nghĩa hiểu biết đến gia đình giàu có làm người giúp việc cũng tốt.
Từ nhỏ ta đã từng nghe một câu nói, bảo là “Nghèo cái gì cũng không thể nghèo giáo dục”…” Nàng chợt nghẹn lời, lắc đầu nói: “Thôi đi, có thể làm được hay không còn chưa chắc, không nói chuyện này nữa.”
Sau đó bèn quan sát Cố Thanh Sương, chớp mắt hỏi nàng: “Mật chỉ kia thật sự là ý của Tiên đế à?”
Đáy mắt Cố Thanh Sương hơi rung, nhưng rũ mắt giấu đi, động tác gấp y phục trên tay cũng không dừng lại: “Nếu không thì sao? Ngươi cũng nhận ra chữ viết mà.”
“Điều này cũng đúng…!Chẳng qua ta cảm thấy hắn không giống nam nhân có thể nói ra câu “Núi cao sông dài, tùy ý nàng đi.” như vậy.” An Vô Hương bĩu môi: “Mật chỉ này thật khiến ta bất ngờ.”
Cố Thanh Sương không nói gì, gấp gọn chiếc váy cúp ngực đặt sang một bên: “Ta đã sắp xếp xong rồi, đêm nay ngươi “bệnh nặng mà chết”, quan tài sẽ kéo đến sau núi thảo táng [4].
Tề Thanh sẽ dẫn người chờ trước ở đó, nhanh chóng đào ngươi ra.”
[4] Thảo táng(草葬): Chôn xác bằng cỏ hoặc phủ lên trên.
“Ừ.” An Vô Hương gật đầu.
Người tên Tề Thanh này, là do nàng ấy cung cấp cho Cố Thanh Sương.
Lúc trước, Cố Thanh Sương đồng ý thỉnh cầu của nàng ấy, lại phải đau đầu tìm người đến tiếp ứng.
Chuyện này không được khinh thường, một khi giữa đường lọt ra tiếng gió, đó là làm nhục danh dự hoàng gia.
Ban đầu khi An Vô Hương nhắc đến Tề Thanh, Cố Thanh Sương cũng chưa có ấn tượng gì, chỉ mơ hồ biết người này nằm trong Cấm quân.
Mấy năm trước hình như là Trấn Phủ sứ, hiện tại đã lăn lộn đến chức Chỉ huy Đồng tri, lên bước nữa là Chỉ Huy sứ nắm giữ Cấm quân rồi.
Sau khi điều tra tỉ mỉ, Cố Thanh Sương bèn cảm nhận được điều gì đó khác thường.
Thuở niên thiếu Tề Thanh rất triển vọng, lại có xuất thân tốt, không giống như Thẩm Thư, thời trẻ bần hàn không dám cưới vợ.
Nhưng một nam nhân tốt đến thế, lại gắng gượng kéo đến gần 30 tuổi mà không có thê thất, cũng không nạp bất cứ một người thiếp nào.
Cố Thanh Sương không điều tra sâu hơn.
Có rất nhiều chuyện như vậy, chỉ nên dừng ở “trong lòng hiểu rõ mà không nói ra” mới là tốt nhất.
Dù gì sau ngày hôm nay, trên thế gian đã không còn phế Hậu Thi thị.
Đêm, phế Hậu đột nhiên hương tiêu ngọc vẫn.
Xe ngựa kéo một chiếc quan tài mỏng từ phía Bắc hoàng cung đi ra, các cung nhân không muốn tốn nhiều sức, đào một cái hố qua loa rồi hạ táng, bên trên chỉ đắp một lớp đất mỏng.
Lúc Tề Thanh kéo người ra, người cô nương trong quan tài dính đầy đất, bị sặc đến ho khan.
Tề Thanh nhíu mày, nhìn kĩ quan tài: “Sao Thái hậu nương nương lại thế này, tốt xấu gì cũng phải chọn quan tài tốt chút chứ!”
Bên trên quan tài có mấy lỗ thủng.
“Bới móc cái gì mà bới móc!” An Vô Hương cười khẩy: “Không có lỗ ta đã sớm nghẹt thở chết rồi đó biết không?”
Không có lỗ thì nghẹt thở, có lỗ thì ngấm đất.
Cái gọi là chuyện không thể vẹn toàn có lẽ chính là lý do này.
Trong cung, Cố Thanh Sương ngồi một mình trong chính điện của Tê Phượng cung, lẳng lặng chờ quyển trục màu vàng sáng ở trước mặt khô đi.
Trên quyển trục vẫn là chữ viết của Tiên đế.
Gọi Hạ Thanh Yến vào kinh..