Công Ty Cho Thuê Quỷ

Chương:3Quyển 2 -


Đọc truyện Công Ty Cho Thuê Quỷ – Chương 33Quyển 2 –


Công Ty Cho Thuê Quỷ
Tác giả: Khản Không

Quyển 2: Chuyện làm ăn duy nhất
Chương 8: Không bằng cầm thú.

Người dịch: Dosuke
Biên dịch: No_dance8x
Biên tập: Ksor Din
Nhóm dịch Độc Cô Thôn
Nguồn: Tàng Thư Viện

Con tim trong lồng ngực của Elle Vân đang đập loạn thì bị một câu của Ung Bác Văn hù dọa đến mức thiếu chút nữa đã hét lên, cuối cùng nàng mới hỏi: “Ngươi nhớ đến chuyện gì?”

“À, không có gì đâu.” Ung Bác Văn cười gượng rồi trả lời một câu, sau đó mới vội vội vàng vàng chạy vào phòng tắm. Mà Elle Vân thì lại đang suy nghĩ lung tung nên cũng không có tâm tư truy vấn thêm.

Thì ra Ung Bác Văn vừa nhớ ra mình đã từng gặp võ sĩ khổng lồ, mà thời gian là vào ngày phá trận tại nhà họ Phí. Khi đó, hắn tìm được một pho tượng giống y võ sĩ nọ, điểm khác nhau duy nhất chỉ là trên tay phải thì lại cầm Phật châu và kích thước của cái đầu to hơn một chút mà thôi.

Lúc mới nhìn thấy pho tượng, Ung Bác Văn đã hoài nghi rằng đó là thứ do người đứng sau pháp trận phong thuỷ của nhà họ Phí để lại, nhưng khi quay đầu ngẫm lại thì mới nhớ pháp trận do Phí Mặc đích thân bố trí. Mà Phí Mặc thì đã chết rồi, thế nên lão ta không có khả năng tìm hắn lần nữa. Vì vậy hắn cũng không thèm tìm hiểu thêm. Nhưng bây giờ, khi nghĩ đến vấn đề này, Ung Bác Văn lập tức nhận ra pháp trận đó không hề đơn giản như mặt ngoài.

Vấn đề mấu chốt nhất là ngoại trừ tụ âm cải mệnh, pháp trận phong thủy của nhà họ Phí còn cho ra một kết quả khác: Quỷ cổ… Trải qua nhiều năm, thứ này phá kén để chui ra ngoài nhưng không thể nào vô duyên vô cớ bốc hơi tại nhân gian, mà Phí Đỉnh Tân thì cũng không hề đề cập đến vấn đề này.

Thoạt nhìn, có lẽ quỷ cổ không có tác dụng gì đối với người bình thường nhưng nó có nhiều công dụng đối với tầng lớp có pháp thuật, nhất là nhân sĩ theo hơi hướng tà môn. Đến nay, Ung Bác Văn tiếp tục phỏng đoán rằng sau lưng trận pháp có một người hoặc chăng là một đám người khác đang thu thập quỷ cổ để sử dụng.

Lúc trước, Ung Bác Văn và Lưu Ý đã giao pho tượng kia cho hiệp hội pháp sư xem xét nhưng quay qua quay lại, hắn đã ném chuyện này ra sau đầu, thẳng cho đến mới đây mới nghĩ chịu nghĩ tới. Bấy giờ, Ung Bác Văn liền quyết định sẽ đến Hiệp hội pháp sư vào sáng sớm ngày mai để xem kết quả.

“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”, câu trên đã cho thấy việc biết rõ kẻ địch là người phương nào vẫn rất quan trọng.

Nhưng trong thời khắc mấu chốt như trước mắt, những chuyện tầm xàm bá láp như vậy thà không nói ra còn hơn.

Về phần Elle Vân, khi thấy Ung Bác Văn chạy vào trong phòng tắm, cộng với tiếng nước ào ào vang lên trong tai không dứt, tim nàng càng đập càng nhanh. Thậm chí vì dự đoán những chuyện sắp xảy ra, khuôn mặt của Elle Vân chẳng khác đít khỉ là bao. Cho dù nàng hiện đang ngồi trên salon, mắt cũng nhìn chằm chằm vào ti vi nhưng nội dung lại không hề nhập vào trong đầu mà thay vào đó, toàn bộ lực chú ý lại tập trung về phía phòng tắm.

Hơn hai mươi phút sau, tiếng nước chảy trong phòng tắm chợt ngừng lại. Ngay lúc đó, Elle Vân khẩn trương tới cực điểm, trái tim thì hệt như đã sắp trào lên trên cổ họng. Đã vậy, thân thể lại mềm nhũn, không còn sức, thế nên nàng cũng chỉ đành co người trên ghế sa lon mà thôi.

Lại đợi thêm hai mươi phút, Ung Bác Văn vẫn chưa ra khỏi phòng tắm.


Tâm trạng của Elle Vân đã nhẹ nhõm hơn lúc nãy nhưng trong lòng vẫn còn khúc mắc. Cuối cùng, nàng mới thử kêu hai tiếng để thăm dò: “Tiểu Văn à.”

Người ở bên trong phòng tắm không hề đáp lời.

Điều này làm nàng đứng ngồi không yên, cũng bất chấp hiềm nghi mà nhảy lò cò đến trước phòng tắm rồi đập cửa, kêu: “Tiểu Văn, ngươi tắm rửa xong chưa?”

Phòng tắm im ắng, không chút động tĩnh, hệt như bên trong không hề có bất cứ người nào.

Elle Vân cắn răng rồi khẽ đẩy cánh cửa để tạo một khe hở chứ không mạnh mẽ mở ra. Sau khi đảo mắt thăm dò, nàng nhìn thấy Ung Bác Văn vẫn nằm trong bồn tắm mà không hề nhúc nhích, hai mắt cũng nhắm nghiền, dường như đã mất đi tri giác.

Mặc dù trong lòng nàng có cảm giác bối rối nhưng vẫn cố khập khiễng bước đến bên cạnh bồn tắm.

Elle Vân là bác sĩ nên tất nhiên sẽ không hô to gọi nhỏ mà chuyện đầu tiên nàng làm chính là bắt mạch. Lại nói, hiện mạch của Ung Bác Văn vẫn bình thường, vì vậy Elle Vân chỉ đành than thở một câu: “Bại hoại, tại sao lại ngủ luôn rồi?”

Đương nhiên, Ung Bác Văn đang định biến thân thành cầm thú ngay trong hôm nay nên chắc chắn sẽ không muốn ngủ. Thế nhưng ý chí không thể chống lại cái thân thể cần, mà tinh lực, thể lực, nội lực và pháp lực khi tung ra một kiếm kia thì không phải chỉ cần một chút thời gian là có thể khôi phục như trước. Chỉ là trong trốn chạy, tinh thần tập trung cao độ nên mới miễn cưỡng chống đỡ, đợi đến lúc tắm rửa thì tinh thần lại thả lỏng nên hắn liền ngủ thật say mà không hề hay biết.

Thấy Ung Bác Văn không có vấn đề gì, Elle Vân lập tức véo mũi của hắn rồi nói: “Bại hoại, ngươi làm ta sợ muốn chết. Cũng không biết chừng nào, ngươi mới làm cho ta có cảm giác yên tâm đây.”

Thì thào đến đây, nàng chợt giật mình, đôi mắt lại đảo khắp nơi rồi cắn môi nhìn vào trong bồn tắm. Sau khi nhìn lướt qua thân thể của Ung Bác Văn, thẳng đến khi nhìn thấy một đống đen thẫm, nàng mới thu mắt thật nhanh, hệt như chim sợ cành cong.

Nàng lại rụt rè nhìn khuôn mặt của Ung Bác Văn, thấy hắn vẫn đang ngủ say, không hề phát giác ánh mắt của mình, Elle Vân thở phào nhẹ nhõm. Cuối cùng, lại cố lấy dũng khí để nhìn vào chỗ khi nãy, sau đó nhịn không được lại cười khúc khích rồi tự nói: “Quả nhiên trưởng thành hơn lúc còn nhỏ.”

Lúc này, Ung Bác Văn đang cảm thấy cực kỳ hoang mang.

Hắn nhớ rõ ràng mình đang tắm, tại sao chỉ trong nháy mắt đã chạy đến một nơi xa lạ như trước mắt. Cũng may trên người vẫn mặc quần áo, bằng không lại mang thêm danh hiệu biến thái.

Trước mắt hắn là một hành lang gấp khúc dài đến nỗi không thấy rõ đầu đuôi, cột kèo chạm trổ rất tinh xảo. Không những thế, bên cạnh hành lang còn có một khoảng sân rộng lớn, trong sân có rất nhiều nhánh hoa đang nở rộ. Những bông hoa trắng như tuyết hiện đã đến thời điểm đẹp nhất, tầng này chồng lên tầng kia, phủ kín mọi tán cây, trên đất cũng ngập tràn một màu trắng, hệt như vừa trải qua hơn đợt tuyết rơi. Trong cơn gió nhẹ đang thổi man mác, tuyết trắng bay múa đầy trời, hương thơn tỏa khắp bốn phía, chẳng khác tiên cảnh là bao.

Mặc dù nơi đây rất đẹp, nhưng cuối cùng vẫn là một nơi xa lạ.

Ung Bác Văn thử thăm dò bằng cách kêu đến đứt cuống họng. Lại đợi một lúc thật lâu, hắn vẫn không hề nghe bất cứ người nào đáp lời, cuối cùng mới rảo bước dọc theo hành lang gấp khúc.

Đi hết hành lang gấp khúc, trước mắt Ung Bác Văn là một khoảng sân không lớn không nhỏ nhưng đã bị một đám người mặc áo bào màu xám, đầu trọc lóc phủ kín. Nhìn kỹ lại, hắn mới thấy những hòa thượng kia đều có cổ rất dài, nhờ vậy nơi này lại càng giống trại tập trung một bầy ngỗng trọc đầu.

Lại nói, cả một đám người thế mà ai nấy cũng đều nín thở để tập trung tư tưởng suy nghĩ, một âm thanh nhỏ cũng không phát ra.

Nhìn lên phía trên cả đống đầu trọc, Ung Bác Văn có thể nhìn thấy mái cong của một căn Phật đường, trên biển có ba chữ rồng bay phượng nhưng mặc kệ hắn nhíu mày trừng mắt thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể nhìn thấy bất cứ một chữ nào.

Ung Bác Văn đứng đấy xem náo nhiệt một lát rồi mới kêu la để thăm dò nhưng những hòa thượng xung quanh lại làm như bị điếc, cũng không ai thèm quay đầu nhìn hắn. Trong lúc Ung Bác Văn đang cảm thấy ngơ ngẩn thì trước mắt hoa lên, đến khi định thần nhìn lại thì mới phát giác mình đã chạy đến phía trước đám người từ khi nào.

Đám hòa thượng áo xám cách Phật đường chừng mười bước, hiện có mười hai lão hòa thượng mặc áo bào màu vàng, mặt mũi nhăn nheo, râu ria bạc phơ đang đứng chặn giữa cửa Phật đường, tất cả đều nhắm mắt, hai tay hợp thành chữ thập, có người còn đang tụng kinh Phật.


Ung Bác Văn càng thấy khó hiểu hơn, đến khi giương mắt nhìn lại tấm biển trước Phật đường thì vẫn mơ mơ hồ hồ như trước, cảm giác này thật chẳng khác lúc xin phim heo đến bộ vị mấu chốt thì lại xuất hiện hiệu ứng gạch men. Sau khi nhìn chằm chằm vào tấm biển một lúc, rốt cuộc Ung Bác Văn đành buông tha ý định này để dạo quanh mười hai lão tăng áo vàng một vòng. Vừa dạo, hắn dùng tay lần lượt vỗ vai từng người rồi ghé vào bên tai họ và hét một tiếng nhưng dường như mấy lão hòa thượng này đều là những con rối được nặn từ đất sét, một chút phản ứng cũng không có. Cuối cùng Ung Bác Văn lại quay đầu nhìn nhìn những hòa thượng áo xám, mặc dù họ cũng đang chắp tay thành hình chữ thập nhưng tất cả đều mang thần sắc khẩn trương, mắt nhìn chằm chằm vào những hòa thượng đứng trước Phật đường. Đến đây, hắn liền cảm thấy hiếu kỳ, nhịn không được mới đi tới trước cửa rồi nhìn vào bên trong.
Diện tích của Phật đường không lớn, chỉ hơn trăm mét vuông mà thôi. Chính giữa Phật đường có thờ tượng Phật, Ung Bác Văn cũng nhận ra đó là tượng của Đại Nhật Như Lai. Mặc dù bức tượng Phật này chỉ cao bằng người bình thường nhưng toàn thân vàng óng, quả nhiên được chế tạo từ hoàng kim.

Có một hòa thượng đang ngồi trước tượng Phật, đoán chừng niên kỷ của y trên dưới ba mươi. Tuy đầu người này cũng trọc như những hòa thượng khác nhưng trên người mặc áo bào trắng, da dẻ hồng hào, mặt mày thanh tú như phụ nữ. Hiện y đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, hai mắt khép hờ, bàn tay nắm chuỗi Phật châu đen nhánh, trên gối để ba cỗ xử lóng lánh được làm từ bạc ròng, mặc dù trong miệng tụng niệm rầm rì, thế mà chẳng hề phát ra một chút âm thanh.

Trước mặt hòa thượng áo trắng có mấy gã hòa thượng mặc áo bào màu vàng. Nhưng dù họ nhìn chằm chằm hòa thượng áo trắng với ánh mắt trống rỗng, mờ mịt nhưng thần sắc hớn hở độc nhất vô nhị trên khuôn mặt lại chẳng khác sắc lang nhìn thấy mỹ nữ trần truồng là bao.

Về phần Ung Bác Văn, hắn cảm thấy hòa thượng áo trắng khá quen mắt. Tuy nhiên, trong khoảnh khắc này Ung Bác Văn vẫn chưa thể nghĩ ra mình đã gặp nhau y ở nơi nào. Chỉ đến khi nhận ra y có tướng tá trang nghiêm, mới không dám bước tới mò mẫm loạn xa như trước. Thay vào đó, hắn bước đến trước người gã hòa thượng áo vàng đứng đầu tiên tính từ tay trái qua.

Hòa thượng áo vàng đứng đầu tiên là một trong bốn người lớn tuổi nhất, không những hình thể của gã rất to lớn mà còn cao hơn Ung Bác Văn một cái đầu. Chỉ là da của gã có màu bánh mật, để râu quai nón, mũi cao mắt tròn, tướng mạo uy mãnh, nhìn qua không giống người Trung Quốc, mà có phần giống người Ấn Độ hơn.

Tay trái của người này đang cầm thiền trượng Kim Cương, tay phải nắm chặt Phật châu. Mặc dù gã đang mím môi hóp má, tựa như đang cố làm ra bộ dạng không thèm để ý, nhưng thân hình đang chồm về phía trước đã để lộ tâm trạng khẩn trương.

Ung Bác Văn huơ tay trước mặt gã, trong lòng lại nghĩ chắc tên này cũng không có phản ứng gì, ngờ đâu hòa thượng râu quai nón đột nhiên trừng mắt rồi liếc trái ngó phải.

Ung Bác Văn cả kinh, vội vàng lui về sau một bước, không ngờ một bước này lại dẫm lên chân của gã hòa thượng áo vàng ở bên cạnh, ứng với vị trí thứ hai.

Tuổi của hòa thượng áo vàng ở vị trí thứ hai chừng ngũ tuần, để râu ba sợi, mặt mày bóng loáng, trầm ổn nhã nhặn. Nếu không gã mặc áo bào của hòa thượng, đầu cạo trọc lóc, e rằng còn giống văn nhân mặc khách hơn.

Người này cầm một con cá gỗ lập lòe ánh sáng trên tay trái, còn tay phải thì cầm chùy, tuy đứng nghiêm tại chỗ nhưng ánh mắt vô thần, có lẽ đang trầm ngâm suy nghĩ.

Ung Bác Văn dẫm xong một cước này, định hô một tiếng nhưng cũng kịp nín lại. Còn hòa thượng kia, sau khi nhìn trái ngó phải một chốc, ánh mắt mới ngừng lại trên người hòa thượng áo trắng chứ không phải kẻ đầu sỏ là Ung Bác Văn. Đến đây, khuôn mặt gã chợt lộ ra vẻ xấu hổ, vội vàng đứng vững lại.

Ung Bác Văn ổn định lại thân hình, mặc dù trong lòng cũng cảm thấy chuyện vừa xảy ra thật kỳ quá nhưng hắn vẫn bước đến trước người gã hòa thượng để râu quai nón rồi huơ tay lần nữa, chỉ là hòa thượng này không hề phản ứng như trước.

Hắn gãi đầu rồi đi đến trước mặt hòa thượng râu dài. Đoạn mới dẫm lên chân phải của gã nhưng hòa thượng râu dài cũng chẳng hề phản ứng.

“Chẳng lẽ vừa rồi chỉ là trùng hợp mà thôi?” Ung Bác Văn càng nghĩ càng thấy rối rắm, chân lại rảo bước để đến trước mặt gã hòa thượng còn lại.

Tuổi tác của hòa thượng này không hơn bốn mươi nhưng mặt mày nhăn nheo, eo cong lưng còng. Hiện đôi tay chai sạn của gã đang cầm Tam Miểu Mẫu Đà. Tuy khuôn mặt không hề để lộ tình cảm nhưng gã chẳng thể che dấu được sự cung kính trong đôi mắt của mình.

Tam Miểu Mẫu Đà là một loại pháp khí chuyển kinh luân, thứ này khá giống trống lúc lắc mà trẻ em thích chơi, chỉ khác ở chỗ nó được ghép từ hai miếng gỗ tròn có vẽ chữ Phạm bằng chu sa.

Ung Đại Thiên Sư không biết vật này nên trong lòng mới nói thầm: “Gã hòa thượng này đã lớn tuổi nhưng sao còn chơi trống lúc lắc, chẳng lẽ tu Phật cũng cải lão hoàn đồng?

Trước đó Ung Bác Văn đã phất tay và dẫm chân nhưng hòa thượng lưng còng không có phản ứng nên nhịn không được mới vươn tay vỗ vai gã. Chỉ thấy hòa thượng lưng còng lập tức run người, thân thể cong lại, hệt như dã thú đang vận sức để chuẩn bị tấn công.

Ung Bác Văn sợ tới mức rụt cần cổ, cũng không dám dừng lại trước mặt hòa thượng lưng còng nữa, thay vào đó cất bước đến trước mặt gã hòa thượng thứ tư.


Người này có thân hình thấp bé, khuôn mặt gầy gò. Tuy tuổi tác của gã cũng trên dưới năm mươi nhưng trên cằm không hề có nửa cọng râu ria. Bấy giờ, gã đang khom người bưng một cái Tử Kim Bát Mạnh, hai mắt hơi khép, trong lúc ngẫu nhiên sẽ có thể thấy được vài tia tinh quang bắn ra từ trong khóe mắt.

Ung Bác Văn vừa đến bên người hòa thượng thấp bé, gã liền nở nụ cười, hai tay chắp thành chữ thập, miệng tụng: “Ma Ha Tì Lô Già Na!”

Hòa thượng này tụng tiếng Phạn rất chuẩn nhưng Ung Bác Văn lại không hiểu, đã vậy càng nghe càng cảm thấy hồ đồ. Hắn còn tưởng hòa thượng này có thể biết sự tồn tại của mình nên vừa cả kinh vừa mừng rỡ, miệng nói không ngớt: “Ngươi thấy được ta sao? Thật tốt quá! Vậy đây là địa phương nào? Các ngươi là ai vậy? Tại sao ta lại ở chỗ này…”

Hắn hỏi đến hăng say, còn hòa thượng thấp bé thì chỉ đáp một câu rồi từ đó về sau cũng chẳng nói thêm gì nữa. Thay vào đó, ánh mắt của gã dừng lại trên người hòa thượng mặc áo bào trắng, khóe miệng vẫn mang theo nụ cười.

Ngay lúc đó, hòa thượng áo trắng chậm rãi mở mắt, ánh mắt khẽ quét quanh căn phật Đường. Đến đây, bốn hòa thượng áo vàng đồng loạt khom người rồi nói: “Nam mô A di đà phật!”

Ung Bác Văn thấy không ai để ý đến mình nên nhụt chí dị thường. Chỉ đến lúc xoay đầu nhìn hòa thượng áo trắng, hắn mới không muốn tiếp xúc với ánh mắt của y, bởi vì mặc dù khuôn mặt của hòa thượng áo trắng không biểu lộ tình cảm, nhưng ánh mắt của y rất thân thiện, đã vậy còn gật đầu để cho thấy y quả thật cũng nhìn thấy hắn.

Ung Đại Thiên Sư rất kích động, định xông về phía trước để hỏi thăm chút đỉnh, thế nhưng hòa thượng áo trắng lập tức nháy mắt. Đến đây, Ung Bác Văn lập tức hiểu ra y muốn bảo hắn chờ một lát.

Nói ra cũng kỳ, mặc dù từ trước đến nay, Ung Bác Văn chưa từng nhìn thấy hòa thượng áo trắng bao giờ nhưng hắn lại có cảm giác thân thiết không thể nói thành lời, tựa như y là bạn tri tâm nhiều năm vậy, muốn nói gì thì chỉ một ánh mắt là hiểu rõ ràng. Tất nhiên Ung Bác Văn cũng không nói gì mà đi ra sau lưng hòa thượng áo trắng để chờ xem náo nhiệt.

Nhưng bốn hòa thượng áo vàng không thể nhận ra sự tồn tại của Ung Bác Văn nên cho rằng hòa thượng áo trắng gật đầu mỉm cười về phía hòa thượng thấp lùn, thế nên trong phút chốc, ba người khác đều mang vẻ mặt không hài lòng.

“Không Hải!” Hòa thượng mặc áo bào trắng kêu khẽ, hòa thượng thấp bé lập tức bước tới rồi quỳ xuống một bước, miệng đáp: “Có đệ tử.”

Hòa thượng mặc áo bào trắng vuốt nhẹ đỉnh đầu của hòa thượng thấp bé, hai mắt híp lại rồi nói: “Phần lớn đệ tử của ta đều xuất gia, chúng hoặc học một bộ ấn, hoặc học một bộ khế, không ngờ ngươi lại có thể học kiêm hai môn. Không những thế, ta chưa từng thấy ai có thể lập tức sử dụng hai bộ Bí Áo Đàn Nghi ấn khế chỉ sau vài tháng như ngươi. Và vì cái chưa từng có này, ta muốn cho ngươi danh hiệu Vị A Cao Tăng.”

Giọng nói của y không vang dội nhưng vừa mở miệng liền khiến chín cái vòng trên thiền trượng của hòa thượng để râu quai nón đụng vào nhau và phát ra những tiếng vang giòn tan, uy thế cực kỳ kinh người.

Ba hòa thượng áo vàng niệm Phật hiệu cùng một lúc, mặt mày vẫn không hề để lộ tình cảm.

Đám hòa thượng ở bên ngoài vốn đang nghị luận rầm rì nhưng liền im lặng ngay lập tức, sau đó đồng loạt niệm Phật hiệu. Trong khoảng sân có khoảng hai, ba trăm người, lúc này trăm miệng một lời, âm thanh này khiến xà ngang run rẩy, nhưng bàn về uy thế vẫn thua xa một câu nói của hòa thượng áo trắng.

Không Hải theo hòa thượng áo trắng chỉ mới được tám tháng. Lúc trước, chỉ cần được y cho phép đi theo tháp tùng cũng đã cảm thấy vui mừng, gã cũng chưa từng nghĩ rằng có một ngày mình sẽ được y truyền lại y bát. Thế nên trong khoảnh khắc này niềm vui đến vô cùng bất ngờ, âm thanh chợt nghẹn ngào: “Tạ sư phụ.”

Hòa thượng mặc áo bào trắng lại nói: “Ta đã mời hoạ sĩ vẽ thai và Kim Chư Mạn Đồ La, còn mời người đúc Phật cụ, mời tiên sinh để chép kinh để ngươi mang về Đông Doanh. Ngươi hãy cố nắm chắc đoạn nhân duyên này để Mật Tông được phát dương quang đại.”

(Đông Doanh là tên gọi của Nhật Bản thời xưa)

Không Hải cúi rạp người rồi nói: “Xin sư phụ ban danh hiệu.”

Áo bào trắng tăng hơi trầm ngâm rồi nói: “Ta ban cho ngươi danh hiệu Biến Chiếu Kim Cương, ngươi đi đi.”

Không Hải vừa quỳ rạp người, đầu chạm đất, vừa cung kính bưng Tử Kim Bát Mạnh rồi sau đó mới lui ra bên ngoài.

Hòa thượng áo trắng lại gọi hòa thượng râu quai nón Sa Môn Biện Hoằng và truyền cho gã Thai Tàng Mật Pháp để có thể dùng thiền trượng Phật châu, cũng ban danh hiệu Đồ La Kim Cương.

Lại gọi hòa thượng Huệ Nhật có bộ râu ba sợi thật dài, đoạn mới truyền Kim Cương Mật Pháp để có thể dùng cá gỗ, ban danh hiệu Đại Nhạc Kim Cương.

Sau khi đuổi hai người kia, hòa thượng áo trắng mới nói: “Trân Hạ.”


Hòa thượng lưng còng bước tới và quỳ xuống để nghe pháp dụ.

Nào biết hòa thượng mặc áo bào trắng không hề truyền pháp dụ mà nhẹ giọng hỏi: “Ngươi có lòng bất bình?”

“Vâng.” Hòa thượng lưng còng cũng không phủ nhận: “Không Hải là hòa thượng Đông Doanh, sư phụ đã từng tính ra sau này người Đông Doanh sẽ gây bất lợi cho Trung Thổ chúng ta, vì sao lại truyền y bát cho hắn? Đệ tử tự biết đạo hạnh nông cạn, không thể nhận y bát của sư phụ, nhưng Huệ Ứng, Huệ Tắc, Nghĩa Thao, các sư huynh đều được truyền hai bộ pháp thuật, đệ tử nguyện thay sư phụ hành tẩu để gọi bọn họ trở về kế thừa y bát.”

Hòa thượng áo trắng mỉm cười, nói khẽ: “Ta thấy trong hàng đệ tử, ngươi nhập môn trễ nhất, ngày thường tu hành cũng không xuất chúng. Nhưng ngươi có biết vì sao ta chọn ngươi theo tháp tùng hay không? Đó là vì ta thấy ngươi xuất thân bần cùng nên trời sinh tính kiên nhẫn, cộng với tuệ căn có sẵn, chắc chắn tương lai sẽ giúp Mật Tông truyền xuống đời đời, mãi không đoạn tuyệt.”

Trân Hạ toát mồ hôi lạnh như mưa, quần áo cũng đã ướt đẫm. Cuối cùng chỉ biết quỳ rạp trên mặt đất, run giọng nói: “Đệ tử nông cạn, không thể nhận trách nhiệm này, nguyện nhường sư huynh, xin sư phụ chấp nhận.”

“Chuyện lớn không thể để nhiều người biết…” Hòa thượng áo trắng mỉm cười rồi vươn tay sờ đầu Trân Hạ: “Ta ban cho ngươi danh hiệu Đại Nhật Kim Cương, truyền cho ngươi Phá Ma Kiếm ấn cùng Tam Miểu Mẫu Đà, thống lĩnh mười hai pháp tướng. Chờ bọn người của Không Hải trở về nước, ngươi hãy truyền pháp dụ của ta cho tăng chúng Thanh Long tự. Ngươi phải nhớ, dù tương lai có gian khổ đến đâu đi chăng nữa thì cũng phải truyền pháp cho đến đời sau.”

Mật Tông thờ phụng Đại Nhật Như Lai, mà đã ban thưởng danh hiệu Đại Nhật Kim Cương thì trách nhiệm nặng nề đến đâu, không cần nói cũng biết. Về phần Trân Hạ, gã vừa kinh hãi vừa nhận pháp dụ rồi xoay người rời khỏi.

Về Phật giáo, Ung Bác Văn dốt đặc cán mai, nhưng hắn cũng hiểu đại khái rằng đây là lúc đại nạn của hòa thượng trẻ tuổi sắp buông xuống. Thế nên mới tổ chức chia gia tài cho đệ tử. Thật vất vả lắm mới đợi được đến lúc bốn hòa thượng áo vàng ra khỏi cửa, Ung Bác Văn đang đinh mở miệng hỏi cho rõ, không ngờ hòa thượng áo trắng khẽ cười nói: “Thế nào?”

Ung Bác Văn hơi sững sờ, vừa định đáp lời, lại nghe một âm thanh giòn giã phát ra ở phía sau tượng Đại Nhật Như Lai: “Cao Tăng Thanh Long tự, ngươi vừa truyền pháp bảo cho đệ tử, thế Hộ Pháp Hành Giả như ta có nhận được thứ gì tốt hay không?”

Theo âm thanh, một người đi ra từ phía sau tượng Phật, đó là một cô gái rất trẻ, tuổi chừng mười bảy, mười tám, mặc quần áo trắng như tuyết, mái tóc đen nhánh buông dài một cách tùy ý, dài đến tận mông, chân để trần, trên mỗi mắt cá trắng noãn có đeo một chuỗi hạt đủ màu, mỗi hạt óng ánh đều có một viết một chữ Phạm, ánh sáng hồng lượn lờ xung quanh chữ này, hệt như ngọn lửa bay múa không ngớt.

Ung Bác Văn cố nhìn nhan sắc của cô gái này, nhưng mặt mũi của nàng lại mơ mơ hồ hồ, hệt như mấy chữ trên tấm biển ngoài kia, vì thế trong lòng không khỏi mắng thầm: “Thật là tà môn!”

Hòa thượng áo trắng đứng dậy rồi cúi người hành lễ với nàng, nhưng không nói lời nào.

Cô gái áo trắng ảo não nói: “Ngươi làm trò gì đó? Nếu không nói ra cho ta biết rõ ràng thì đừng mơ nhận được sự giúp đỡ của ta.”

Hòa thượng áo trắng cười ha ha rồi trả lời: “Nhất thiết chư Phật hoa gian xuất, nhất thiết trí huệ quả trung sinh. Hoa Gian, tương lai còn phải làm phiền ngươi.” Nói xong xoay người rồi đi về phía Ung Bác Văn.

(Tạm dịch: “Tất cả Phật tạo ra trong hoa (Hoa Gian), tất cả trí sinh ra huệ quả)

Ung Bác Văn còn tưởng rằng y muốn nói chuyện với mình nên cố nặn nụ cười để nghênh đón nhưng không đợi Ung Bác Văn mở miệng, hòa thượng mặc áo bào trắng chợt đi một vòng quanh người hắn rồi ngã ngồi xuống bồ đoàn, ngón cái tay trái uốn lượn, tay nắm, ngón trỏ dựng thẳng và nằm chặt ngón cái, tay phải duỗi ra điểm lên ngực mình, miệng ngâm: “Nhất thiết chúng sinh tính thanh tịnh, tòng thử vô sinh vô khả diệt. Tức thử thân tâm thị huyễn sinh, huyễn hóa chi trung vô tội phúc.”

(Tạm dịch: “Tất cả chúng sinh tính thanh tịnh, về sau vô sinh tất vô diệt. Tức thân do tâm huyễn sinh, trong cảnh biến ảo vô tội phúc”)

Ngâm xong liền nhắm mắt, không còn động tĩnh. Ung Bác Văn không hiểu Phật yết này có ý gì, cũng không biết tay trái của hòa thượng mặc áo trắng đang kết Kim Cang Quyền, còn gọi là Pháp giới định ấn Đại Nhật Như Lai, nhưng hình tượng này lại khiến hắn nhớ lại hình vẽ trên cây thăm bằng trúc của một gã thầy bói, nhịn không được mới chỉ vào hòa thượng mặc áo bào trắng và kêu lên một tiếng sợ hãi: “Ngươi, ngươi, ngươi không phải…”

Không đợi Ung Bác Văn nói xong, bên ngoài chợt truyền đến một đợt Phật hiệu thật lớn, phảng phất như sét đánh trên đất bằng. Âm thanh này khiến hắn cảm thấy chóng mặt, trời đất quay cuồng, trước mắt đen kịt. Dường như mặt đất đã biến mất, thân thể của Ung Bác Văn đang rơi xuống như không hề có điểm tựa.

—–o Chú Thích o—–

– Huệ Quả (746-805) là một Đại Sư Mật tông người Trung Hoa. Sư là đệ tử của Bất Không Kim Cương và là thầy của Không Hải. Dưới triều nhà Đường, Huệ Quả làm quân sư cho các triều vua Thái Tông, Đức Tông và Thuận Tông. Sư có rất nhiều đệ tử nổi tiếng, trong đó có Đại Sư Không Hải là tổ sư của Chân ngôn tông Nhật Bản.
Dòng truyền thừa của Sư Huệ Quả như sau: Đại Nhật Như Lai > Kim Cương Tát Đỏa > Long Thọ > Long Trí > Kim Cương Trí > Bất Không Kim Cương > Huệ Quả > Hoằng Pháp Đại Sư.

– Không Hải, 774-835, còn được gọi là Hoằng Pháp Đại Sư, là một vị Cao tăng Nhật Bản, sáng lập Chân ngôn tông — một dạng Mật tông tại Nhật. Sư tu học Mật tông tại Trung Quốc theo sự hướng dẫn của sư phụ là Ngài Huệ Quả. Sau về Nhật mở đạo trường tại núi Cao Dã, về sau trở thành trung tâm của Chân ngôn tông. Năm 17 tuổi, Sư đã viết luận về Nho, Lão và Phật giáo và tác phẩm Thập trụ tâm luận – Sư biên soạn bộ này dưới lệnh của Thiên hoàng—nói rõ đạo lí cơ bản của Chân ngôn tông.

– Mật tông là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bí mật bắt nguồn từ Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, 6 tại Ấn Độ. Có một số ý kiến cho rằng có sự đồng nhất giữa tên gọi Mật Tông với Kim cương thừa. Tuy nhiên, tên gọi Kim Cương Thừa chỉ thấy xuất phát từ Tây Tạng, còn các nguồn kinh điển Hán tạng xưa không đề cập đến tên gọi này. Vấn đề này có thể thấy rõ qua nét khác biệt của hai đường lối tu giữa hai trường phái. Mật Tông xuất phát từ Trung Quốc sử dụng sự kết hợp giáo nghĩa của cả hai Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới, trong khi đó Mật Tông Tây Tạng hiếm khi đề cập đến Thai Tạng Giới và Kinh Đại Nhật. Các yếu tố quan trọng của Mật tông là phép niệm chân ngôn, phép bắt ấn và sử dụng Mạn đồ la cũng như các lần Quán đỉnh. Mật tông là giáo pháp mà sư phụ truyền cho học trò bằng lời (khẩu quyết) và đó là lí do mà Mật tông không được truyền bá rộng rãi. Mật Tông tại Trung Quốc rất thịnh hành vào đời Đường, nhưng dần dần thoái trào và về sau này thì tuởng như suy vi hẳn. Thật ra, sau này do nhiều pháp sư lạm dụng sự huyền bí của chân ngôn nên mật tông dần co cụm lại và truyền thụ cho những nguời có duyên với pháp môn này.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.