Bạn đang đọc Công Nương và Hoa Cẩm Chướng: Chương 18
Chương 18
Sáng ngày hôm sau, Katharine có một cuộc gặp gỡ về công việc kinh doanh ở phố Riverside Drive với Bà Van Beuren là người có nhã hứng với tấm thảm trang trí thời Beauvais như bác Breuget đã đề cập đến. Thật ra tấm thảm này không thuộc về Katharine – nó thuộc về Richet et Cie, một người môi giới Pháp nổi tiếng mà Katharine là người đại diện – và tiền hoa hồng tích lũy được từ cuộc mua bán tốt đẹp này sẽ là một món kha khá.
Cái định kiến quá lớn này là tính cách độc nhất của nàng, bắt buộc Katharine phải tiếp tục làm việc như thể không có gì xảy ra hết. Nàng mặc một bồ đồ tây may cắt hợp thời trang và đi tới văn phòng khoảng chín giờ rưỡi sáng. Bác Breuget, ăn mặc trông chải chuốt hơn và vẻ bề ngoài trông hào nhoáng hơn những tuần trước, trong khi chờ đợi nàng, lật xem những cuốn danh mục về những cuộc giao dịch sắp tới. Bác bỏ quyển sách ra một bên khi nàng bước vào, nhảy dựng đứng lên thật nhanh.
“Tôi đã đóng gói xong xuôi rồi Cô Lorimer. Chúng ta có thể đem nó theo được rồi.”
“Tốt quá!”
Bác ngắm nghía nàng, mỉm cười, chà xát đôi bàn tay vào nhau nhẹ nhẹ. “Có phải là tôi nói chúng ta sẽ xoay chuyển tình thế không? Chúng ta sẽ bán tấm thảm trang trí này. Chúng ta sẽ làm nhiều chuyến giao dịch lớn trong năm nay.”
Với cái gật đầu dương dương tự đắc bác dẫn đường đi ra cửa, rồi bác gọi một chiếc tắc-xi, và nắm tay đỡ Katharine vào xe, bác đặt gói hàng quý giá bên cạnh nàng và bước vào xe. Họ cùng đi với nhau.
“Thật là một điều lý thú, Cô Lorimer,” bác lên tiếng, khi đã yên vị xong xuôi. “Tôi đã tra hỏi Ascher thật là lâu, và tôi không thể nào tìm ra được người đã mua bức tiểu họa.”
“Có quan trọng thế không bác,” nàng hỏi hững hờ.
“Ồ, nó không quan trọng lắm,” bác gật đầu đồng tình với nụ cười cáo lỗi. “Lạy Chúa tôi, không có mà! Chỉ vì chúng ta đã ổn định rồi. Nhưng một khi nghĩ lại vẫn thấy thật là kỳ diệu. Cứ thử nghĩ xem, một tuyệt tác mỹ thuật quan trọng như thế đã biến mất trên thị trường như vậy – pouff!”
“Tôi tưởng bác nói là nó được bán cho Shard.”
“Nó không phải. Không, không! Tôi khám phá ra được bấy nhiêu đó. Ngài Shard quý hóa vẫn trung thành với bộ sưu tập Tiền-Raphael.”
“Có lẽ Ascher vẫn còn giữ nó.”
“Không đâu, Cô Lorimer. Ông ta đã thề sống chết là ông ta đã giao cho thân chủ rồi.”
“À,” Katharine thở dài và lắc đầu, “lạ kỳ thiệt, thật thế. Nhưng chúng ta không phải lo lắng về nó nữa. Cái giai thoại đó được đóng lại. Chúng ta có các việc khác để mà nghĩ tới.”
Khi họ tới căn nhà ở phố Riverside Drive, đó là một căn nhà được xây với đá nâu lợp cửa sổ vuông vắn và cửa chính có che lưới sắt nhỏ, vẫn tỏ ra những nét hào hùng hãy còn đó trên con phố lớn nổi tiếng này. Bà Van Beuren hoàn toàn mê thích tấm thảm trang trí như bà ta tuyên bố với Katharine, nhưng vẫn chưa quyết định được có chỗ để đặt nó hay không. Phòng ăn của bà đã treo nhiều bức tranh rồi. Và phòng khách phía trên thì lại không thích hợp chút nào.
Katharine nói rất ít. Nàng theo sau Bà Van Beuren đi xem ngôi nhà, quan sát cẩn thận từng chi tiết một. Điều đầu tiên đập vào mắt nàng, hành lang đúng là một nơi lý tưởng cho tấm thảm. Và khi họ đi xuống nhà dưới, nàng đề nghị:
“Bà có thoả mãn với cách trang trí ngoài hành lang không?”
“Ồ, tại sao không,” Bà Van Beuren nói có vẻ ngờ vực. “Tôi lúc nào cũng nghĩ nó không được thanh toàn cho lắm.”
“Vậy xin phép bà cho tôi có ý kiến,” Katharine nói. “Nói đúng ra, tấm thảm sẽ là một nét độc đáo nhất của căn nhà này.”
*
Với sự giúp đỡ của bác Breuget và người tớ trai, nàng gỡ từ trên tường xuống những bức tranh không mấy hứng thú cho lắm. Thế chỗ vào đó là tấm thảm trang trí được trải căng ra, một bức tranh săn bắn tuyệt đẹp. Bên dưới, nàng kê chiếc bàn ăn thuộc kiểu tu viện Ý đã từng đứng nửa kín nửa hở trong phòng khánh tiết. Trên bàn, nàng đặt hai cây nến chạm chổ mà nàng lấy từ phòng khách đầy những đồ đạc, và chính giữa chúng nàng để một cái khay vuông mạ bạc.
Cuộc thay đổi hình thế diễn ra như có phép lạ. Hành lang bây giờ như có hồn và gây cảm tình ngay lập tức. Ngay cả bác Breuget cũng gật đầu đồng ý. Về phần bà chủ nhà nhỏ bé, bà ta thật là khích động quá thể.
“Đừng có di chuyển chúng nữa,” bà la lên. “Không một ly tấc nào nữa, tôi muốn nó ở y như thế. Y như vậy!”
“Bà nên có một cái gương dài treo ở tường đối diện,” Katharine đề nghị, “với những đường chạm nổi hình chuỗi hạt nhỏ và tráng thuỷ xiên xiên. Chúng tôi có một món thuộc thời vua George Đệ Nhất có thể làm vừa ý bà.”
“Vâng, vâng,” Bà Van Beuren thở hổn hển. “Tôi sẽ tới vào ngày mai để xem nó.”
Trên đường trở về, bác Breuget quay sang Katharine và cười khúc khích đầy kính nể.
“Tôi nói có đúng không, Cô Lorimer. Cơn gió đã xoay chiều rồi? Tôi cảm nhận được trong từng thớ thịt mà.”
Cơn gió đã xoay chiều! Bây giờ nó có ý nghĩa gì với Katharine đây? Như đã dặn trước, bác Breuget thả nàng xuống ở đại lộ số 57 và nàng đi bộ về khách sạn của mình. Nàng hồi tưởng lại, qua lớp sương mong manh rằng hôm nay là ngày Upton đến, và nàng nên gặp anh ta khi anh tới nơi. Nhưng nàng lại không hề biết con tàu Europa sẽ cập bến vào lúc nào.
Khi nàng đã về tới phòng, việc đầu tiên nàng nghĩ là Charley đã đến rồi, vì trên bàn có đặt sẵn một hộp dài như ở tiệm bán hoa. Nhưng khi nàng mở hộp ra, nàng mới thấy mình đã lầm. Ngay đó thôi, đập vào mắt nàng là những đóa hoa cẩm chướng trắng lộng lẫy đầy tinh khiết và hương thơm ngát. Đó là quà của Madden tặng. Một nỗi đau lại nhói lên trong tim Katharine. Lim dim đôi mắt, nàng áp má mình vào những cánh hoa mềm mại. Hương vị nồng nàn của hoa làm nàng như ngộp thở. Nó như chứa đựng những u buồn mà hạnh phúc thề sẽ chiếm giữ. Nàng đứng lặng yên đó hồi lâu. Rồi, mở bừng mắt, nàng chợt trông thấy bóng mình trong gương phản chiếu từ bức tường đối diện. Nàng giật mình khi trông thấy mình. Như thể đó là một sự gợi ý của quá khứ, của bức tiểu họa, và của ý nghĩa trong cuộc sống của nàng. Nàng thở dài sườn sượt. “Công nương với hoa cẩm chướng,” nàng ủ rũ nghĩ. Và như thế, nó được thể hiện qua vai trò của nàng bây giờ.
Không có một tấm thiệp hay lời nhắn gửi nào đi kèm với hộp hoa. Nàng biết rằng Madden sẽ gọi điện thoại cho nàng. Và gần như ngay lập tức, chuông điện thoại reo vang, giọng chàng vẫn trầm và có hơi buồn.
“Anh muốn gặp em, Katharine,” chàng nói. “Nếu em thấy được, anh muốn gặp em ngay bây giờ.”
Katharine nhanh chóng lấy lại tự chủ. Như được tiếp thêm sức mạnh trên đoạn đường vào vài giờ trước, nàng hoàn toàn đi đến quyết định. Nhưng nàng cũng biết rằng lý do nàng muốn gặp chàng lần nữa là vì nàng muốn giải quyết cho dứt khoát. Tình trạng yếm thế của nàng không còn nữa. Bây giờ nàng có thể trở nên thực dụng và mạnh mẽ hơn. Nàng sẽ không bằng lòng ăn trưa với chàng nữa. Nhưng nàng phải suy nghĩ để tìm ra địa điểm gặp mặt hợp lý, nàng chọn một nơi có hơi ưu tư lẫn hóm hỉnh, viện bảo tàng Metropolitan Museum. Gặp ở đây, ít nhất là thuận tiện cho cả hai, và những gian triển lãm ghê gớm sẽ làm giảm đi phần nào tính chất lãng mạn táo bạo nào đó có thể xảy ra.
Hai giờ thiếu mười lăm, nàng bắt đầu đi tới trung tâm thành phố. Chưa đúng hai giờ mà nàng đã tới nơi nhưng Madden đã đợi nàng sẵn, nàng có thể nhìn thấy chàng qua khung cửa xoay đang đi tới đi lui trên hành lang. Chàng chỉ im lặng cầm lấy tay nàng. Nếu như nàng đinh ninh cuộc hội thoại sẽ diễn ra trong cái hành lang dài cao ngất có gió lùa, dưới những bức tượng xụ mặt và kiêu kỳ, thì nàng đã lầm. Chàng dẫn nàng đi tới nơi cánh gà phía xa, là nơi trưng bày đồ gỗ thời Early American được bày biện theo lối kiến tạo thuở ban sơ. Sau khi liếc mắt nhìn khắp nơi quanh căn phòng im ắng, chàng tiến vào một góc kiến tạo hình mắt dứa của vùng bờ biển tiểu bang Maine. Tại đây chàng quay mặt lại và đối diện với nàng.
Nàng có thể cảm nhận được là chàng đang đau đớn. Sự sôi nổi của ngày hôm qua đã biến mất. Trông chàng thật là mệt mỏi. Và giọng chàng lại càng xa xôi kỳ quái.
“Katharine! Anh phải gặp em lần nữa. Chúng ta không có cơ hội để bàn tính thêm vào ngày hôm qua. Em phải quyết định ngay bây giờ. Có lẽ em có thời giờ để nghĩ khác đi rồi. Nghe anh đây, Katharine, chúng ta không thể sống thiếu nhau được. Chỉ được nhìn thấy em thôi cũng là một hạnh phúc vô bờ bến. Nguyên tối hôm qua anh thức trắng đêm để suy nghĩ mọi việc. Chỉ có một giải pháp duy nhất. Chúng ta sẽ bỏ đi thật xa.”
Ngay tức khắc nàng biết chuyện sẽ khó khăn hơn nhiều, khó khăn đến nỗi nàng không thể biết đâu mà lường, và tận sâu thẳm trong con người mình, nàng tập trung tất cả sức chịu đựng ngoan cường để đối đầu.
“Chạy trốn ư,” nàng hỏi lại, làm ra vẻ cười nhẹ như trước đây, “như một cặp trẻ con? Em không nghĩ như thế, Chris. Chúng ta đã quá già cho chuyện đó, phải không?”
“Chúng ta phải làm một cái gì đó,” chàng nói lại không được rõ ràng cho lắm. “Chúng ta không thể nào hoang phí cả hai cuộc đời được.”
Với tất cả nghị lực nàng cố lấy giọng thực tế và nhẹ nhàng. “Nếu chúng ta bỏ đi thì chúng ta hoang phí nó rồi. Chúng ta sẽ hoàn toàn đau khổ và buồn bực.”
“Nhưng tại sao em phản đối, Katharine?”
“Anh đã quên Nancy rồi sao?”
“Anh không hề quên nàng. Ồ, không, đó không cùng chung một vấn đề nữa. Nàng không hề quan tâm nhiều đến anh mà.” Chàng cứ tiếp tục không định hướng: “Nàng thuộc về một thế hệ hoàn toàn khác, khó khăn hơn và ích kỷ hơn. Em đã thấy rõ ràng quá chuyện tối hôm qua khi chúng ta về tới. Em cũng đã thấy điều đó khi chúng ta còn ở tại Vermont. Ai ai cũng biết, có điều họ không nói ra mà thôi. Cuộc sống này quá dễ dãi đối với nàng. Nàng sẽ mau chóng quên nó thôi.”
Katharine lắc mạnh đầu. “Nàng yêu anh. Không thể được, Chris! Chúng ta không thể làm cho Nancy đau khổ. Chúng ta không thể nào dày xéo lên nàng chỉ để mưu cầu hạnh phúc cá nhân. Và không chỉ có thế. Chúng ta không thể làm cho nhau đau khổ. Nếu chúng ta có khác với người thường, như anh đã nói, là vì chúng ta có lòng tin chặt chẽ và lý tưởng cao quý, vì vậy chúng ta không thể nào phản bội lại chúng được. Anh có thấy không Chris, chỉ có một điều thôi, lòng chính trực đáng đủ để chúng ta giữ gìn phải không? Điều đó phải ở trên tất cả.”
“Không thể trên hết mọi thứ được!”
Gạt bỏ những xúc cảm của mình, chàng nắm lấy tay nàng và chà xát lên má mình.
“Đừng anh, Chris, xin đừng,” nàng nói ngay.
Chàng thả tay nàng ra và đứng đó nắm chặt lấy cạnh chiếc bàn gỗ sồi xù xì, hơi thở chàng gấp gáp, chàng đảo mắt nhìn ra chỗ khác, như thể chàng cố ghìm mình không nhìn tới nàng.
“Tại sao anh phải làm như vậy?” nàng vẫn nói với cái giọng chán chường. “Chỉ tổ làm ọi việc xấu hơn thôi.”
Chàng nhướng mắt lên, tràn ngập ánh chân tình, và nhìn đăm đăm vào nàng. Một lần nữa, nàng cố làm ra vẻ sắt đá trước cái nhìn hoang dại đầy thèm khát bí hiểm. Nàng phải, nàng phải cố chống vững, nếu không cả hai sẽ mất hết.
Trải qua một chuỗi dài im lặng nặng nề, một sự yên tĩnh mà có lẽ chưa bao giờ căn phòng nhỏ bé cằn cỗi này được bao phủ, ngay cả những năm đầu lịch sử của vùng bờ biển Maine nếm trải. Chàng vẫn đứng trước mặt nàng, gò má tái xạm đi, cố tìm hiểu nét mặt nàng. Cặp mắt không lay động của nàng đã thuyết phục chàng. Chàng nhìn trống rỗng vào cánh cửa sổ nhỏ hẹp độc nhất trong căn phòng họ đang đứng. Nhiều phút trôi qua. Cuối cùng chàng lên tiếng.
“Được rồi, Katharine. Nếu đó là cách em cảm nhận, thì chúng ta không còn gì để nói nữa. Anh sẽ đưa em về khách sạn ngay bây giờ.”